Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vê. thì hạnh phúc sẽ thành sự thậtt, ngược lại nêu không biết bảo vê. thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có thật
Pascal
Results 1 to 2 of 2

Chủ Đề: Đi tìm những phương cáchkiềm chế chính quyền (1)

  1. #1
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    9,247
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 8 Lần
    Trong 8 Bài Viết

    Đi tìm những phương cáchkiềm chế chính quyền (1)

    ĐI TÌM NHỮNG PHƯƠNG CÁCH KIỀM CHẾ CHÍNH QUYỀN (I)



    Một trong những vấn đề tổng quát khẩn trương nhất về chính trị ngày nay là làm thế nào để kiềm chế những hành động của các chính quyền hiện đại. Quyền lực không được kiểm soát của những chính quyền này đe dọa chúng ta ở nhiều mặt -- trắng trợn hơn cả là qua những hình thức bạo ngược và chiến tranh. Những phương tiện truyền thống nhằm kiềm chế các nhà cai trị -- như những hạn chế hiến định, các cuộc bầu cử, sự tự chế bởi chính các nhà cai trị, và cách mạng bạo động – đã từng chứng tỏ là có những giới hạn và bất lợi đáng kể, dù chúng có đem lại những đóng góp khác. Trong những trường hợp quá khích đòi hỏi cần có sự kiềm chế thì chúng ta không thể chỉ trông cậy vào những phương tiện truyền thống như là những giải pháp duy nhất. Nếu chúng ta không muốn trở thành chỉ là những cái đinh ốc chính trị bất lực, hay là bị tiêu diệt, thì chúng ta phải tìm cho được và ứng dụng những phương tiện hữu hiệu để kiềm chế quyền lực của các nhà cai trị.

    Nếu chúng ta phải khám phá, phát triển, và ứng dụng những phương tiện kiềm chế như thế thì chúng ta cần phải suy nghĩ về vấn đề này. Để thực hiện điều này, chúng ta phải trở lại với mức thảo luận căn bản hơn nhiều về quyền lực chính trị so với những cuộc thảo luận thông thường ngày nay về những vấn đề chiến tranh, chuyên chế, và áp bức. Chúng ta cần xác định vị trí và xét đến các yếu tố của vấn đề quyền lực chính trị không được kiểm soát và xét định những tương quan giữa những yếu tố đó. Khi làm điều này thì chúng ta phải cẩn thận đừng chấp nhận một cách vô thức những quan điểm mà người ta thường có về quyền lực chính trị. Những quan điểm này sẽ áp đặt những giới hạn lên sự suy tư của chúng ta, điều có thể ngăn chặn chúng ta thành công trong việc sáng tạo những phương tiện kiểm soát hữu hiệu. Thay vì như vậy, khi chúng ta tìm hiểu và xét nghiệm những thực tế xã hội và chính trị liên hệ đến quyền lực chính trị, chúng ta cần phải cố gắng -- một cách có ý thức -- vượt quá những lằn ranh quan niệm bị áp đặt bởi sự tự động chấp nhận những giả định truyền thống. Chúng ta cần tìm tòi xem những phương tiện khác kiềm chế các nhà cai trị có có sẵn hay không hay là cần phải được sáng tạo cộng thêm vào với những phương tiện kiểm soát mà người ta đã từng trông cậy vào trong quá khứ.

    Ngay cả trước khi có thể bắt đầu suy nghĩ về những phương cách kiềm chế quyền lực chính trị trong những trường hợp quá khích, chúng ta cần phải nhìn ngay vào quyền lực chính trị. Quyền lực chính trị là gì, và bản chất của nó là gì? Đây là những câu hỏi nền tảng cho việc xét định những phương tiện có thể được sử dụng để kiểm soát quyền lực chính trị khi những người nắm giữ quyền lực không muốn bị kiềm chế. Những quan điểm khác nhau về quyền lực chính trị và về bản chất của quyền lực chính trị sẽ đưa đến những nhận định tương ứng về các giải pháp có thể có đối với những người muốn áp dụng kiểm soát.

    Thường thường người ta cho rằng quyền lực của một “nhà cai trị” (dĩ nhiên là bao gồm không những chỉ những vị lãnh đạo hành pháp, mà còn các nhóm lãnh đạo và tất cả những cơ chế chỉ huy cơ cấu Nhà Nước nữa) như là một núi đá hoa cương: rắn chắc, đồ sộ và nhất quán, bền vững, hoặc gần như là vĩnh cửu. Theo lối nhìn này thì một quyền lực như thế chỉ trong những trường hợp cực đoan mới chịu bị khuất phục bởi một số phương tiện kiểm soát có thể có được mà thôi. Người ta có thể thực hiện kiểm soát bằng cách thay đổi “quyền sở hữu” hay “quản trị” của cơ cấu Nhà Nước. Điều này có thể thực hiện được một cách hợp pháp (như bằng bầu cử) hay bất hợp pháp (như bằng đảo chánh). Cả hai phương cách này đều để lại cấu trúc và quyền lực sẵn có gần như là nguyên vẹn cho “sở hữu chủ” hay “quản trị viên” mới. Hoặc người ta có thể hăm dọa hay là thực thi một cuộc tấn công bùng nổ trực tiếp có tầm cỡ ( như là một cuộc cách mạng bạo động hay một cuộc chiến tranh quốc tế) nhằm phá vỡ ít nhất là phần nào cái cơ cấu hùng mạnh đó. Người ta thường có cái quan niệm phổ quát là để chống lại một nhà cai trị không muốn chấp nhận những giới hạn hay tự nguyện thoái vị thì chỉ có những phương tiện huỷ hoại như thế mới có khả năng làm suy yếu hoặc loại bỏ quyền lực của một chế độ như thế mà thôi.

    Cội Nguồn Quyền Lực của Các Nhà Cai Trị Có Thể Bị Cắt Đứt

    Một quan điểm thay thế khác về quyền lực của các nhà cai trị hầu như là hoàn toàn đối nghịch lại. Quyền lực chính trị của nhà cai trị không được quan niệm như là một núi đá hoa cương đòi hỏi một khả năng kiểm soát bùng nổ. Theo lí thuyết khác biệt này, nhà cai trị (hay nhóm cai trị) là một con người (hay một nhóm người). Nhà cai trị trong con người ông ta không có quyền lực gì hơn bất cứ con người nào khác. Nhận định này thật quá sơ đẳng nên thường không bao giờ được chú ý đến. Tuy nhiên, nhìn nhận được điều này dẫn đưa đến những nhận thức và giải pháp mới. Nếu nhà cai trị trong thân xác của chính ông ta không có quyền lực gì hơn bất cứ cá nhân nào khác, thì quyền lực cai trị của ông ta phải đến từ bên ngoài ông ta. Quyền lực này do đó phải có cội nguồn từ xã hội, và vị trí của những cội nguồn này cần phải được xác định. Những cội nguồn này bao gồm sự chấp nhận quyền cai trị của nhà cai trị (“quyền hành”), những tài nguyên kinh tế, nhân lực, khả năng quân sự, kiến thức, các kĩ năng, guồng máy hành chánh, cảnh sát, các nhà tù, tòa án, và những điều tương tự. Mỗi một cội nguồn này lần lượt sẽ liên hệ chặt chẽ với, hay là trực tiếp lệ thuộc vào mức độ hợp tác, khuất phục, vâng phục, và sự hỗ trợ mà nhà cai trị có thể thủ đắc được từ người dân của mình. Những người này bao gồm quần chúng nói chung và những “trợ tá viên” được trả lương và các nhân viên của ông ta. Sự lệ thuộc này, trong một số trường hợp, có thể giúp người dân giảm bớt việc cung cấp các nguồn quyền lực, hoặc rút hẳn những nguồn này đi, bằng cách giảm bớt hay rút lui sự hợp tác hay vâng phục cần thiết của họ.

    Nếu sự chấp nhận, sự khuất phục hay sự hỗ trợ của các “trợ tá viên” được trả lương và các nhân viên và cả của quảng đại quần chúng được rút lui phần nào hay toàn bộ thì các cội nguồn của quyền lực kết cuộc sẽ bị siết lại, và do đó quyền lực hữu hiệu của nhà cai trị sẽ bị suy yếu đi. Việc làm suy yếu này nói một cách tổng quát sẽ tỉ lệ với mức độ mà việc cung cấp các nguồn sức mạnh được siết lại. Nếu việc rút lui sự chấp nhận, sự khuất phục, và sự hỗ trợ có thể duy trì được, dù cho bị nhà cai trị trừng phạt vì bất tuân (“chế tài”) thì ngày tàn của chế độ đang thấy trước mắt. Do đó, vị thế và quyền lực chính trị của tất cả các nhà cai trị đều lệ thuộc vào sự tuân phục, khuất phục, và hợp tác của người dân. Đây là một tóm lược hết sức cô đọng của một phân tích1 dài hơn rất nhiều (và phần nào ít đơn giản hơn). Tuy nhiên, nói là quyền lực của nhà cai trị không những không vững chãi và nhất quán và không vĩnh cửu, mà ngược lại phải luôn luôn dựa trên cấu trúc phức tạp và mong manh của những liên hệ về con người và về cơ chế thì cũng đủ. Những ngụ ý của nhận định này đã hiển nhiên, mặc dù những vấn đề thực tiễn lớn lao trong việc thực thi việc rút lui sự hỗ trợ vẫn còn đòi hỏi nhiều quan tâm nghiêm chỉnh.

    Nguyên tắc rút lui các nguồn sức mạnh khỏi các nhà cai trị khi được áp dụng một cách thực tiễn có thể cung cấp những phương tiện hữu hiệu cần cho cuộc đấu tranh áp đặt kiểm soát lên những nhà cai trị không muốn bị kiềm chế. Những phương tiện chống lại loại nhà cai trị này thường nằm trong những thành phần cốt yếu của khả năng tổng quát của xã hội kiềm chế các nhà cai trị của mình.

    Cấu Trúc của Xã Hội Ảnh Hưởng Đến Khả Năng Kiểm Soát

    Một thành phần rất quan trọng trong khả năng đó là những điều kiện cơ chế và cấu trúc của xã hội. Điều này nói đến sự hiện hữu hay là vắng bóng của những tổ chức khác nhau, số lượng của các tổ chức, mức độ tập quyền hay tản quyền của những tổ chức này, các thủ tục làm những quyết định nội bộ, và mức độ về sức mạnh nội tại và sự sinh động của chúng. Một trường hợp quá khích sẽ là một xã hội mà trong đó mọi tổ chức đều là một phần của cơ cấu tập trung của Nhà Nước hay là chịu lệ thuộc một cách hữu hiệu vào nhà Nước hay là bị Nhà Nước kiềm chế. Cực đoan khác là một xã hội mà trong đó tất cả mọi nhu cầu của xã hội đều được một số lớn các tổ chức độc lập khác nhau đáp ứng và trong đó có sự hiện hữu của những hình thái chính quyền, nhưng không có Nhà Nước trung ương tập quyền (“Nhà Nước” ở đây nói đến một hình thái chính quyền cụ thể sở hữu, ngoài những yếu tố khác, một bộ máy bàn giấy thường trực, một hệ thống quân sự thường trực và một lực lượng cảnh sát thường trực, sử dụng những phương tiện kiềm chế bằng bạo lực, được hỗ trợ bằng một hệ thống nhà tù). Tuy nhiên, những điều kiện cực đoan về cơ cấu hết sức trung ương tập quyền hay tản quyền như thế thường hiếm khi hay không bao giờ có. Hầu như tất cả các xã hội chính trị đều có một cấu trúc đâu đó ở giữa hai thái cực này. Mức độ của khả năng tập trung lại hay phân tán quyền lực hữu hiệu trong xã hội, mức độ mà theo đó khả năng được tập trung vào Nhà Nước hay được phân tán cho các tổ chức độc lập của xã hội, là một vấn đề quan trọng.

    Tình trạng cơ cấu của xã hội ảnh hưởng đến khả năng của xã hội kiểm soát quyền lực của các nhà cai trị theo hai cách. Nếu quyền lực được phân tán rộng rãi giữa những tổ chức độc lập mạnh và năng động, thì tình trạng đó sẽ hỗ trợ rất nhiều trong những trường hợp khẩn trương cần đòi hỏi đấu tranh để kiềm chế nhà cai trị. Quyền lực này sẽ tăng cường khả năng của người dân và các tổ chức trong việc rút lui những nguồn sức mạnh của nhà cai trị để áp đặt sự kiềm chế. Hơn nữa, tình trạng cơ cấu sẽ đặt để những biên giới rộng lớn cho quyền lực tiềm năng của ông ta mà muốn vượt quá những biên giới này ông ta không thể không thực hiện những thay đổi về cơ cấu hay quyết định gia tăng sự hỗ trợ năng động của người dân và của các tổ chức của họ.

    Bất cứ nhà cai trị nào cũng không khẩn thiết sẽ nới rộng việc sử dụng quyền lực, sự thống trị và sự kiểm soát của mình đối với xã hội một cách xa hay sâu đến mức mà tình trạng cơ cấu cho phép. Thiếu động lực thúc đẩy, sự tôn trọng những giới hạn hiến định, những niềm tin về đạo đức hay tôn giáo, hoặc sự tuân thủ những lí thuyết hay triết lí chính trị có thể làm cho nhà cai trị cố tình kiềm hãm mình không sử dụng toàn tiềm năng quyền lực mà tình trạng cơ cấu của xã hội đã cung ứng sẵn cho ông ta. Tuy nhiên, nếu quan điểm của nhà cai trị thay đổi, nếu hoàn cảnh làm ông ta thấy là cần phải có những hành động quá khích hơn, nếu những nhu cầu của cá tính làm cho ông ta trở nên khát vọng quyền lực hơn, hay là nếu có một người hay một nhóm người bằng cách tiếm quyền giành lấy vị thế của nhà cai trị, thì lúc bấy giờ nhà cai trị có thể đẩy mạnh việc sử dụng tiềm năng quyền lực tối đa đến những giới hạn đã được quyết định bởi những tình trạng cơ cấu xã hội. Nhà cai trị có thể ngay cả tìm cách làm suy yếu hoặc tấn công các tổ chức mà nhờ vào sức mạnh của chính mình đã ấn định các giới hạn đó.

    Tất cả những điều này, do đó, gợi lên cái ý là, cộng thêm với những điều luật của hiến pháp và những giới hạn tự chế của chính nhà cai trị, cần phải có một kĩ thuật đấu tranh để kiềm chế những nhà cai trị không muốn bị kiểm soát, và một tình trạng cơ cấu xã hội đưa ra những giới hạn hữu hiệu cho tiềm năng quyền lực của các nhà cai trị để thiết lập một sự kiểm soát hữu hiệu đối với quyền lực của những nhà cai trị hiện đại.

    Có một kĩ thuật đấu tranh dựa trên quan điểm về bản chất của quyền lực nói trên (quyền lực có những nguồn gốc có thể bị siết lại bằng cách rút lui sự hợp tác và tuân phục). Kĩ thuật này được gọi là hành động bất bạo động. Hành động bao gồm phản đối bất bạo động có tính biểu tượng; bất hợp tác kinh tế, xã hội, và chính trị; và can thiệp bất bạo động dưới hình thức tâm lí, vật chất, xã hội, kinh tế, và chính trị2. Kĩ thuật này một khi đã được làm cho tinh tế, được phát triển, và được thực thi trong nhiều hoàn cảnh cụ thể khác nhau, có thể tạo thành linh hồn của giải pháp đáp ứng nhu cầu về một một kĩ thuật đấu tranh nhằm kiềm chế các nhà cai trị không muốn tự nguyện chấp nhận những giới hạn cho quyền lực của mình. Cần có nhiều nghiên cứu, phân tách, và tìm hiểu về chánh sách, và phát triển về bản chất và tiềm năng của kĩ thuật kiềm chế này.

    Tuy nhiên, bài này chủ yếu tập trung vào vai trò của cấu trúc xã hội nằm bên dưới việc quyết định những giới hạn về tiềm lực của nhà cai trị. Trọng điểm của cuộc thảo luận này là xét định những hậu quả dài hạn của việc tập trung tương đối tiềm lực của xã hội vào Nhà Nước, so với những hậu quả dài hạn của việc phân tán tương đối quyền lực vào những tổ chức phi Chính phủ của xã hội như là một tổng thể.
    Có lúc, dù không xảy ra thường xuyên, cá nhân có thể ảnh hưởng sâu đậm đến diễn biến của những biến cố xã hội và chính trị nhờ sức mạnh thuyết phục của bản thân, nhờ những liên hệ của mình với những nhân vật giữ những chức vụ then chốt trong cơ cấu, và nhờ khả năng của mình sử dụng những loại hành động bất bạo động nào đó. Một vài hành động cá nhân của Mohandas K. Gandhi minh xác khả năng này. Tuy nhiên, những trường hợp này hiếm hoi, nhất là để chống lại những nhà cai trị nhất quyết cai trị theo ý muốn của mình mà không chịu bị giới hạn. Trong những trường hợp như thế thì quyền lực của họ chỉ có thể bị cắt đi một cách đáng kể hay là bị phá huỷ bằng cách siết chặt các nguồn sức mạnh của họ mà thôi. Tuy nhiên việc siết lại như thế không thể thực hiện được với những cá nhân biệt lập. Những cội nguồn quyền lực của nhà cai trị thông thường chỉ bị đe dọa một cách đáng kể khi khi sự hỗ trợ, hợp tác, và tuân phục bị giữ lại cùng một lúc bởi một số lớn người dân, nghĩa là, bởi các nhóm xã hội và các tổ chức. Do đó khả năng của các cơ chế này rút lại những nguồn mà họ cung cấp là then chốt. Khả năng này do nhiều nhân tố khác nhau tác động, bao gồm kĩ năng của người dân trong việc áp dụng kĩ thuật đấu tranh, và cả nhu cầu tương đối của nhà cai trị về các nguồn sức mạnh mà các cơ chế này có thể cung ứng.
    Có hai điều tổng quát có thể xảy ra lúc này. Quyền lực có thể quá bị tập trung vào Nhà Nước, và người dân quá bị phân hoá, đến độ không có được những nhóm hay tổ chức xã hội tầm thước có khả năng rút lui được các nguồn sức mạnh của nhà cai trị, và do đó kiềm chế được những hành động của nhà cai trị. Mặt khác, nếu trong xã hội có được ở một mức độ khả quan những nhóm có khả năng hành động độc lập, do đó có khả năng kiềm chế, thì sự hiện diện và sức mạnh của những tổ chức đó sẽ gia tăng xác suất thành công một cách đáng kể cho một cuộc đấu tranh nhằm kiềm chế quyền lực của nhà cai trị. Các nhóm và tổ chức có khả năng hành động độc lập như thế được gọi là những “tụ điểm (nơi chốn) của quyền lực.

    “Quyền lực” ở đây dĩ nhiên là nói đến quyền lực chính trị, một loại sức mạnh xã hội. Quyền lực chính trị ở đây được định nghĩa như là toàn bộ những phương tiện, ảnh hưởng, và áp lực – bao gồm quyền hành, các hình thức tưởng thưởng và chế tài – có sẵn để sử dụng cho việc tranh thủ các mục tiêu của người nắm giữ quyền lực, nhất là của các cơ chế chính quyền, của Nhà Nước, và của các nhóm chống lại cả hai. Quyền lực chính trị có thể được đo lường bằng khả năng kiểm soát hoàn cảnh, con người, hay các tổ chức, hay là khả năng động viên người và các tổ chức cho một sinh hoạt nào đó. Quyền lực có thể được sử dụng để làm cho một nhóm có được khả năng tranh thủ một mục đích, để thực thi hay thay đổi các chính sách, để khuyến dụ những người khác hành động khi những người sử dụng quyền lực ước muốn dấn thân vào đối lập, để duy trì hệ thống, những chính sách, và những liên hệ hiện hành, hay là để sửa đổi, phá hủy, hoặc thay thế các quan hệ quyền lực trước đây. Chế tài – có thể là bạo động hay bất bạo động -- thường là yếu tố then chốt của quyền lực. Không luôn luôn cần phải áp dụng khả năng sử dụng trừng phạt để được hữu hiệu. Chỉ khả năng áp dụng trừng phạt và sử dụng những thành phần khác của quyền lực cũng đủ để tranh thủ mục tiêu rồi. Trong những trường hợp như thế thì quyền lực cũng không kém gì hơn là khi quyền lực được áp dụng cùng với trừng phạt3.

    Vai Trò của Những Tụ Điểm Quyền Lực Được Phân Tán Trong Việc Kiềm Chế Quyền Lực Chính Trị

    Hình thái chính xác và bản chất của những tụ điểm quyền lực ( hay là những nơi mà quyền lực được tìm thấy, quy tụ, hay biểu hiện) biến đổi từ xã hội này đến xã hội khác, từ hoàn cảnh này đến hoàn cảnh khác. Tuy nhiên, chúng thường bao gồm các nhóm và tổ chức xã hội như là gia đình, các giai cấp xã hội, các nhóm tôn giáo, các nhóm văn hoá và quốc tịch, các nhóm ngành nghề, các nhóm kinh tế, các làng, thành phố, đô thị, tỉnh lị và vùng, các cơ quan nhỏ của chính phủ, các tổ chức thiện nguyện, và các chính đảng. Rất thông thường đó là những nhóm xã hội và tổ chức truyền thống, ổn định, và chính thức. Tuy nhiên, đôi lúc, các tụ điểm quyền lực có thể được tổ chức một cách ít chính thức hơn, và ngay cả có thể vừa mới được tạo ra hay là được hồi sinh trong tiến trình tranh thủ một mục tiêu nào đó hay là chống đối lại nhà cai trị (như những hội đồng công nhân trong thời gian cuộc Cách Mạng Hung Gia Lợi năm 1956). Vị thế của những nhóm hay tổ chức này như là những tụ điểm sẽ được quyết định bởi khả năng hành động độc lập, sử dụng sức mạnh hữu hiệu, và điều động được sức mạnh hữu hiệu của người khác, như của nhà cai trị, hoặc của một tụ điểm hay nhiều tụ điểm quyền lực nào đó.

    Khả năng của những tụ điểm này trong việc kiềm chế những hành động của nhà cai trị lúc bấy giờ sẽ chịu ảnh hưởng của (1) mức độ hiện hữu của những tụ điểm này, (2) mức độ chúng có thể hành động độc lập, (3) những nguồn quyền lực mà chúng kiểm soát, (4) mức độ sức mạnh xã hội mà chúng kiểm soát, và (5) đôi khi, những nhân tố khác nữa. Nếu tất cả những nhân tố này đều có thật nhiều, thì các tụ điểm có thể tự do cung ứng những nguồn quyền lực mà nhà cai trị cần đến, hay thay vì như vậy, những tụ điểm này có thể chọn siết chặt lại hoặc cắt đứt những nguồn quyền lực mà nhà cai trị đòi hỏi.

    Các Tụ Điểm Quyền Lực Đặt Những Giới Hạn Cho Khả Năng Quyền Lực của Nhà Cai Trị

    Cơ cấu quyền lực của xã hội như là một tổng thể bao gồm cả hai thứ: những liên hệ giữa những tụ điểm quyền lực với nhau lẫn những liên hệ này với nhà cai trị. Cơ cấu quyền lực của xã hội, nghĩa là, những liên hệ này, trong dài hạn sẽ quyết định các lãnh vực và sức mạnh của quyền lực hữu hiệu tối đa của nhà cai trị4. Khi quyền lực được phân tán một cách hữu hiệu trong khắp cả xã hội giữa những tụ điểm như thế thì quyền lực của nhà cai trị rất có thể bị kiềm chế và giới hạn. Tình trạng này được gắn liền với “tự do” chính trị. Ngược lại, khi những tụ điểm như thế đã bị làm suy yếu một cách trầm trọng, đã bị phá vỡ một cách hữu hiệu, hay là sự hiện hữu độc lập và tự quản trong hành động đã bị một vài loại kiểm soát áp đặt phá huỷ thì quyền lực của nhà cai trị rất có thể không bị kiềm chế. Tình trạng này được gắn liền với “chuyên chế”. “Khi người ta nhìn thấy và cảm nhận được chỉ có một quyền hành duy nhất của con người thì tình trạng này xa rời với tự do hơn cả”, Bertrand de Jouvenel đã viết như thế 5.

    Khi những tụ điểm quyền lực quá nhiều và quá mạnh để nhà cai trị có thể thực hiện được sự kiểm soát vô giới hạn hay phá huỷ chúng, thì nhà cai trị vẫn có thể thủ đắc được những nguồn quyền lực mà ông ta cần từ những tụ điểm này. Tuy nhiên, muốn làm như vậy, nhà cai trị phải làm cho những nhóm xã hội và tổ chức có cảm tình với ông ta, với những chánh sách và biện pháp của ông ta, và với chế độ của ông ta như là một tổng thể, để cho họ sẵn lòng chịu khuất phục, hợp tác, và cung ứng các nguồn quyền lực cho ông ta. Để thực hiện điều này, ông ta phải điều chỉnh hành vi và chánh sách của mình để giữ được thiện ý và sự hợp tác của những người tạo nên các nhóm và tổ chức của xã hội. Đây là một loại kiểm soát gián tiếp mà những tụ điểm quyền lực có thể thi hành đối với nhà cai trị. Nếu nhà cai trị không cố gắng điều chỉnh hoặc điều chỉnh không thành công, thì ông ta sẽ làm mất lòng dân chúng mà ông cai trị, lúc bấy giờ những tụ điểm mạnh của xã hội có thể, bằng một cuộc đấu tranh công khai, rút lui những nguồn quyền lực mà họ kiểm soát và nhà cai trị đòi hỏi. Theo phương cách này dân chúng hành động qua các nhóm và tổ chức có thể áp đặt kiểm soát đối với một nhà cai trị có tham vọng độc đoán hay ngay cả làm cho chế độ tan rã và quyền lực của nhà cai trị tan biến.

    Điều ngược lại cũng đúng. Khi các nhóm xã hội và các tổ chức mất đi khả năng quyết định và hành động độc lập, mất đi sự kiểm soát đối với các nguồn quyền lực, hay là đã bị làm suy yếu đi rất nhiều hoặc bị phá vỡ, thì sự mất mát như thế sẽ đóng góp đáng kể vào việc làm cho quyền lực của nhà cai trị vô giới hạn và không thể kiềm chế được. Trong những trường hợp không có nhiều những tụ điểm quyền lực và người dân chỉ là một khối những cá nhân phân hoá không có khả năng hành động tập thể, thì quyền lực của nhà cai trị ít bị người dân kiềm chế hơn cả.

    Những Tấn Công Có Chủ Ý và Những Hậu Quả Không Dự Tính Có thể Làm Suy Yếu Các Tụ Điểm Quyền Lực

    Những nguyên nhân hoàn toàn khác nhau có thể làm suy yếu hoặc phá vỡ các tụ điểm quyền lực của xã hội. Những chánh sách của nhà cai trị có chủ ý tấn công sự độc lập của những tụ điểm này, làm suy yếu sức mạnh của chúng, hay ngay cả phá vỡ chúng chỉ là một trong những điều có thể xảy ra. Những kết quả tương tự có thể xảy ra tiếp theo như là những hậu quả phụ không dự tính do sự điều hành những chánh sách xã hội, kinh tế, và chính trị hoặc do những động lực khác.

    Nơi nào cuộc tấn công có chủ ý thì có thể là nhà cai trị cảm thấy các nhóm và tổ chức như thế là những đối thủ cạnh tranh, và nhìn nhận là các nhóm và tổ chức đó áp đặt giới hạn lên quyền lực và tham vọng toàn năng của mình. Lúc bấy giờ nhà cai trị có thể chủ ý tìm cách phá vỡ sự độc lập của chúng và ngay cả giải tán các cơ chế. Nhà xã hội học người Đức Georg Simmel lí luận là ước muốn “bình đẳng hoá” người dân của những nhà cai trị không phải là vì ưu tiên đạo đức về bình đẳng, mà thực ra chỉ vì mong muốn làm suy yếu những nhóm người có khả năng giới hạn quyền lực của các nhà cai trị. Một bộ phận nào đó có thể biến mất khỏi hàng ngũ của những nhóm xã hội và tổ chức của xã hội, nhất là nếu cơ chế này không có khả năng đối kháng hữu hiệu chống lại những nỗ lực của nhà cai trị. Tuy nhiên, thông thường hơn thì nhóm hay tổ chức này vẫn tiếp tục tồn tại một cách chánh thức, nhưng sẽ thiếu hẳn những phẩm chất đem lại độc lập và khả năng kiểm soát các nguồn quyền lực. Ít quá khích hơn thì nhóm vẫn tiếp tục tồn tại với sự độc lập và quyền hạn bị giảm đi rất nhiều nhưng không bị triệt tiêu. Một nhà cai trị muốn có quyền lực vô giới hạn và không bị thách thức có thể cố thay thế một tụ điểm bằng một tổ chức do hệ thống của ông ta kiểm soát chặt chẽ.

    Khi những cuộc tấn công vào các tụ điểm quyền lực của xã hội như thế được nhìn nhận như là những nỗ lực nhằm nâng cao quyền lực vị kỉ của nhà cai trị, để áp đặt một thể chế độc tài, hay là để nới rộng sự kiềm chế của một thể chế đã áp bức sẵn, thì những tấn công này đã được nhìn thấy một cách phổ quát là thật đáng quan ngại. Tuy nhiên, đây không phải luôn luôn là trường hợp. Khi nhóm hay tổ chức bị tấn công bị nhiều người cho là áp bức, trục lợi, hoặc phản xã hội, hay là bị thất sủng vì những lí do khác, thì một cuộc tấn công vào tổ chức này bởi một nhà cai trị áp dụng những tài nguyên hùng hậu hơn của Nhà Nước thường được chấp nhận một cách rộng rãi và được xem như là tiến bộ và ngay cả giải thoát nữa. Điều này không phủ định chút nào quan điểm trên đây cho rằng việc làm suy yếu hay phá vỡ những tụ điểm quyền lực sẽ làm gia tăng quyền lực của nhà cai trị đang chỉ đạo Nhà Nước.

    Những tụ điểm bị tấn công có thể đã vận hành ngược lại hay thuận theo sự hưng thịnh của xã hội như là một tổng thể; trong cả hai trường hợp, những tụ điểm này đã siết lại khả năng quyền lực của nhà cai trị. Điều này không có nghĩa là những nhóm hay những tổ chức sinh hoạt làm hại đến dân chúng hay những thành phần của dân chúng nên được chấp nhận một cách thụ động và được phép tiếp tục những hành vi trong quá khứ. Không phải là việc kiềm chế hay loại bỏ những cơ chế như thế, điều sẽ tạo ra vấn đề; mà chính là phương cách nhằm đạt được hay loại bỏ kiềm chế sẽ đưa đến việc làm gia tăng khả năng của nhà cai trị trở thành độc tài và áp bức. Vấn đề sẽ được tạo ra khi guồng máy Nhà Nước thi hành việc kiềm chế hay loại bỏ các tụ điểm và những tụ điểm quyền lực mới không được thành lập, hay là những tụ điểm hiện hành khác không được tăng cường; những tụ điểm này ít nhất cũng nằm ngoài vòng kiểm soát của nhà cai trị giống như những tụ điểm bị tấn công. Về điểm đặc biệt này thì việc tụ điểm cũ bị khuất phục bởi luật pháp dân chủ phóng khoáng, bởi nghị định của một nhà chuyên chế, hoặc do tuyên cáo của của một lãnh đạo cách mạng, không quan trọng mấy. Trong nhiều hệ thống khác nhau, hậu quả nói một cách tổng quát đều như nhau. Hậu quả là vừa gia tăng tầm cỡ và những khả năng của guồng máy Nhà Nước vừa làm suy yếu hay cắt bỏ đi một nhóm hay một tổ chức có khả năng chống lại và giới hạn khả năng quyền lực của nhà cai trị đang chỉ huy cơ cấu Nhà Nước.

    Bao giờ tụ điểm quyền lực còn bị làm suy yếu đi rất nhiều hay bị phá vỡ mà không có một sự gia tăng cân bằng sức mạnh bởi những nhóm hay tổ chức hiện hành hay tạo nên những tổ chức mới độc lập với Nhà Nước, thì kết quả theo một nghĩa nào đó sẽ giống y như nhau: nghĩa là quyền lực của nhà cai trị sẽ gia tăng và khả năng của người dân trong việc giới hạn hay kiềm chế quyền lực này sẽ bị giảm thiểu. Điều này không những chỉ áp dụng cho nhà cai trị hiện tại đang chỉ đạo Nhà Nước. Một nhà cai trị như thế thực ra có thể có những mục đích nhân bản và không có ước muốn trở nên độc tài. Kết quả cũng còn được áp dụng cho những nhà cai trị tương lai thừa hưởng tiềm năng quyền lực đã được nới rộng, có thể ít nhân bản hơn những vị tiền nhiệm rất nhiều, và có thể đã thực sự giành được sự kiểm soát guồng máy Nhà Nước bằng cách tiếm quyền, như một cuộc đảo chánh chẳng hạn. Cũng cùng một tiến trình tổng quát đã vận hành trong những hoàn cảnh rất khác biệt trong việc đập tan giới quý tộc và các lãnh chúa phong kiến thời Cách Mạng Pháp và trong việc phá vỡ những nghiệp đoàn thương mại độc lập và các chính đảng tại Nga cộng sản dưới thời Lenin và Stalin, và cả tại Đức Quốc Xã dưới thời Hitler. Kết quả của những trường hợp này là gia tăng việc tập trung quyền lực của xã hội, bành trướng khả năng quyền lực của Nhà Nước, giảm thiểu những giới hạn đã có thực và những kiềm chế của dân chúng đối với khả năng quyền lực hữu hiệu của nhà cai trị.

    Những Nhân Tố Khác Có Thể Ảnh Hưởng Đến Các Nhà Cai Trị Nhưng Không Kiềm Chế Được Họ

    Điều này không có nghĩa là sẽ có một tương quan toán học chặt chẽ giữa mức độ quyền lực được phân tán vào các tụ điểm này hoặc tập trung vào Nhà Nước và mức độ quyền lực của nhà cai trị có thể bị kiềm chế hay chuyên chế. Như đã có nói trước đây, những nhân tố khác cũng có thể ảnh hưởng đến hành vi thực sự của nhà cai trị, bao gồm những giới hạn tự áp đặt mà ông ta chấp nhận trong việc hành sử quyền lực của mình và bất cứ những giới hạn nào được thiết lập bởi các thủ tục cơ chế, như là các cuộc bầu cử, các điều khoản hiến pháp, và những phán quyết tư pháp, với điều kiện là nhà cai trị sẵn lòng tuân thủ.

    Tuy nhiên, phân tích này không có nghĩa là sức mạnh tương đối và tình trạng nội tại của những tụ điểm như thế sẽ đặt ra những giới hạn khắt khe cho việc hành sử quyền lực của nhà cai trị. Ông ta không thể vượt qua những giới hạn này mà tuyệt nhiên không hề để ý đến ý kiến của người dân. Những giới hạn này trong những hoàn cảnh như thế chỉ có thể vượt qua được nếu có sự thoả thuận và hỗ trợ của các nhóm xã hội và tổ chức của xã hội chứ không thể đối nghịch lại sự chống đối rõ ràng của họ được. Điều kiện của những tụ điểm quyền lực của xã hội phần lớn sẽ quyết định khả năng dài hạn của xã hội trong việc kiểm soát quyền lực của nhà cai trị. Một xã hội mà trong đó các nhóm và các tổ chức có sức mạnh xã hội đáng kể và có khả năng hành động độc lập thì sẽ có khả năng kiềm chế quyền lực của nhà cai trị, và do đó có khả năng chống lại chuyên chế, hơn là một xã hội mà trong đó mọi người dân đều bất lực.
    Các Hình Thái Cơ Chế Là Thứ Yếu Đối Với Sự Phân Phối Quyền Lực Thực Thụ
    Khuôn khổ cơ chế chính thức và các thủ tục của chính quyền vẫn quan trọng trong bối cảnh của nhận định này, nhưng tình trạng cơ cấu nằm bên dưới, trong dài hạn, sẽ lấn át những dàn xếp chính thức về chính trị. Chính sự phân phối quyền lực trong toàn cơ cấu xã hội như một tổng thể quyết định quyền lực thực thụ của nhà cai trị, dù cho những nguyên tắc đã từng được công khai thừa nhận cho hệ thống hay cho những hình thái cơ chế của hệ thống là gì.
    Dù cơ cấu chính trị chính thức của chính quyền có thể hết sức độc tài, nhưng nếu nhiều quyền lực hữu hiệu được phân phối giữa những nhóm xã hội và tổ chức khác nhau, thì xã hội nội tại có lẽ sẽ mạnh đủ để duy trì một hệ thống chính trị tương đối “tự do” và mạnh đủ để giới hạn và kiềm chế quyền lực hữu hiệu của nhà cai trị. Ngay cả một chính thể chính thức “chuyên quyền” do đó cũng có thể phải chịu những giới hạn và kiềm chế khắt khe. Ngược lại, nơi nào mà các tụ điểm chính trị yếu, thì xã hội có lẽ sẽ không thể ngăn chặn được sự thống trị của một chính thể độc tài, dù nguồn gốc của chính thể này là từ trong hay ngoài nước. Một xã hội có được một hiến pháp dân chủ nhưng thiếu những tụ điểm quyền lực mạnh vì vậy sẽ rất yếu thế trước một nhà độc tài có thể có, trong lúc một chế độ “dân chủ” hiến định có thể có quyền lực hầu như là vô giới hạn và không bị kiểm soát. Nếu để cách quãng một thời gian thì mức độ phân tán hay tập trung quyền lực trong khắp xã hội có thể vào một lúc nào đó sẽ được phản ánh trong những dàn xếp chính trị chính thức của xã hội.

    Những Tụ Điểm Quyền Lực Mạnh Có Thể Kiềm Chế Các Nhà Chuyên Chế

    Những thí dụ từ các nền quân chủ phong kiến Pháp và Nga sẽ minh xác là quyền lực của các nhà cai trị trên lí thuyết là vô giới hạn vẫn có thể bị kiềm chế như thế nào khi quyền lực được phân tán giữa những tụ điểm khác nhau trong khắp xã hội.

    Nhà phân tách chính trị quan trọng người Pháp của thế kỉ thứ mười chín Alexis de Tocqueville gợi ý là trong số những “chướng ngại vật trước đây đã từng chặn đứng sự hung hãn của chuyên chế”7 là ba điều sau đây: (1) tôn giáo, trước đây đã có lần giúp các nhà cai trị và những người bị trị “định nghĩa những giới hạn tự nhiên của độc tài,”8 (2) sự tôn trọng đối với những nhà cai trị, không có sự tôn trọng này, khi đã bị những cuộc cách mạng đập tan, đã cho phép các nhà cai trị rơi trở lại vào “những quyến rũ của quyền lực độc đoán”9 mà không cảm thấy nhục nhã, và -- điều mà chúng ta lưu tâm hơn cả -- (3) sự hiện hữu của những tụ điểm quyền lực hữu hiệu trong toàn xã hội, như là các tỉnh, các quý tộc của các thành phố, và các gia đình10.

    Trước Cách Mạng Pháp, dưới chế độ cũ, vào đúng lúc khi mà “các luật lệ và sự thỏa thuận của người dân đã đầu tư vào các vị quân vương với một quyền hành hầu như là vô giới hạn11, thì “quyền lực của một phần của thần dân cũng đã là một chướng ngại vật không thể vượt qua được bởi sự chuyên chế của nhà vua rồi…”12 Trong số các cội nguồn của quyền kiềm chế này, de Tocqueville nói tiếp, là “những đặc quyền của giới quý tộc…quyền hành của các tối cao pháp viện, … những đặc quyền của các tỉnh, đã giúp ngăn chặn búa rìu của quyền hành quân vương và duy trì được tinh thần đối kháng trong nước.”13 Trong thời đại đó, người dân rất khắn khít với nhau; nếu một người bị tấn công một cách bất công thì những người khác sẽ giúp đỡ14. Các tỉnh và thành phố tương đối độc lập, và “mỗi nơi đều có ý muốn riêng của mình, đối nghịch với ý muốn chung chịu khuất phục”15. Các quý tộc có khá nhiều quyền lực và ngay cả sau khi đã mất hết quyền lực, họ vẫn tiếp tục gây nhiều ảnh hưởng. Họ “dám đơn phương đối diện với những nỗ lực của công quyền.”16 Khi mà cảm tình gia đình mạnh, thì “người chống đối áp bức không bao giờ cô đơn” trái lại còn tìm được sự hỗ trợ trong số bà con, bạn bè từ đời này sang đời khác, và trong số các khách hàng17. Ngay cả khi những người này yếu thì người ta vẫn có được lòng tin vào tổ tiên và hi vọng vào con cháu mình18. Những điều này cùng với những ảnh hưởng khác của các tụ điểm quyền lực độc lập trong xã hội đóng góp vào việc giới hạn quyền lực chính trị thực thụ của nhà cai trị mà trên lí thuyết có sức mạnh toàn năng.

    Triết gia chính trị người Pháp đương thời Bertrand de Jouvenel mô tả tình trạng này bằng những ngôn từ tương tự. Tại nước Pháp ở thế kỉ 17, trên lí thuyết vị quân vương có toàn quyền sinh sát, nhưng thực ra, quyền lực chính trị của ông ta hết sức bị giới hạn. Sự giới hạn này đã được gây nên bởi những phương cách không phải chỉ vì những biến đổi về kĩ thuật giữa thời đại đó và thời đại chúng ta mà thôi.
    Đâu đâu… người ta cũng phủ nhận quyền của vị quân vương muốn đưa ra luật lệ gì tùy thích; người ta không tin là ước muốn của ý quân vương có sức mạnh bắt buộc, dù những ước muốn đó là gì. Mọi người đều biết rằng một sắc lệnh của một quyền lực trần tục không có tính bắt buộc về mặt đạo đức chỉ vì hình thức của nó, nếu tuân chỉ theo sắc lệnh đó không thoả mãn được một số điều kiện.

    Nói cách khác, vị quân vương, hay là phát ngôn nhân của ông ta, ít tự do trong chế độ cũ hơn là bây giờ, và chỉ huy ít độc đoán hơn19.
    Tương tự như thế, nhà xã hội học người Ý thuộc thế kỉ 20 đã lí luận như sau:

    Vị thủ lãnh của một nhà nước phong kiến có thể làm điều sai quấy đối với bất cứ ai trong số những bá tước của ông, nhưng ông không bao giờ là chủ nhân tuyệt đối của tất cả những vị này. Họ có sẵn một số sức mạnh quần chúng để sử dụng… và luôn luôn có thể hành sử quyền chống đối có thực trên thực tế của mình. Cá nhân những bá tước này, đến lượt họ, ý thức được là có một giới hạn cho sự độc đoán mà họ có thể hành xử đối với quần chúng thần dân của họ. Sự phi lí về phần họ có thể khiêu khích một sự bất ổn tuyệt vọng dễ dàng đưa đến nổi loạn. Vì thế, hoá ra là tại những quốc gia thực sự phong kiến, việc cai trị của các chủ nhân ông có thể đầy bạo lực và độc đoán từng lúc, từng hồi, nhưng nói chung thì việc cai trị này hết sức bị giới hạn bởi phong tục20.

    Dù rằng hiến pháp tự nó đã độc tài trong thời phong kiến, nhưng quyền lực hỗn hợp của các nhóm xã hội và các tổ chức trong khắp xã hội, và ảnh hưởng của những giới hạn không nắm bắt được đối với quyền lực của nhà cai trị, đã vận hành để kiềm chế quyền lực của các vị quân vương. “Các ông vua có quyền, nhưng không có phương tiện và ước muốn làm điều gì tùy thích,” Tocqueville viết21. Một số trong các nhóm này, như giới quý tộc chẳng hạn, có thể chống đối tự do cá nhân. Tuy vậy, ông lí luận là sự độc lập và quyền lực của họ đã làm cho sự yêu chuộng và tình trạng tự do được sống động22. Chính sự hiện hữu của nhiều loại quyền hành và nhiều chủ nhân đòi hỏi sự trung thành của người dân – thay vì một vị duy nhất – đã cho phép người dân có được một mức độ lựa chọn nào đó cũng như khả năng xoay xở. Trong một hoàn cảnh như vậy, thì Simmel cho rằng người dân “thủ đắc được một sự độc lập nào đó đối với mỗi vị, còn riêng về cảm nhận riêng tư, thì có lẽ ngay cả đối với tất cả các vị ấy.”23

    Có một hoàn cảnh tương tự tại Đế Quốc Nga dưới chế độ Nga hoàng vào thế kỉ 19. Nhà sử học đáng kính của xã hội này và của những phong trào cách mạng của xã hội này, Franco Venturi, đã viết: “…quyền lực ghê gớm mà Nicolas I - nhà độc tài số một trong số những quân vương Âu châu đương thời - nắm giữ, thực ra hết sức bị giới hạn khi quyền lực này động chạm đến những nền tảng của cơ cấu xã hội Nga.”24 Ví dụ, Nga hoàng, trước cuộc giải phóng nông nô, đã tìm những phương tiện để cải tiến số phận nông dân, nhưng ông đã gặp phải sự chống đối từ những nhóm và những giai cấp mà ông cần sự hỗ trợ và sự đồng ý để thực hiện những thay đổi mà ông muốn25. Nhà Nước thực ra không có khả năng can dự vào những quan hệ giữa nông dân và các quý tộc. Đây chỉ là “một bằng chứng nữa về sự yếu kém của nền độc tài của Nicholas I; quyền lực này chỉ mạnh ở trong tình trạng tĩnh, và yếu ngay khi có ý muốn hành động.”26
    Sự đối kháng có tiềm năng sinh động chống lại những kế hoạch của Nga hoàng nổi lên từ cả nông dân lẫn quý tộc. Nông dân sống trong những điền trang tư nhân hầu như là thống nhất trong việc tin rằng, mặc dù họ thuộc quyền sở hữu của các quý tộc và các địa chủ, nhưng đất đai thì lại thuộc quyền sở hữu của chính các nông nô. Do đó, họ bác bỏ bất cứ nỗ lực nào “đem lại tự do” cho bản thân họ mà lại dâng đất cho quý tộc. Một nỗ lực như thế có thể đưa đến cách mạng với thành phần nông nô vừa cố giữ lấy phần đất của họ vừa đòi hỏi hoàn toàn được giải phóng khỏi thuế khoá27. Viễn tượng này thật quan ngại vì nông dân có những tổ chức tự quản của họ, các nông hội [obshchina và mir], nghĩa là những tụ điểm quyền lực hữu hiệu. Họ kinh nghiệm về hội họp, về thảo luận, về làm quyết định, và về việc cùng hành động với nhau, những khả năng có một lịch sử lâu dài. Venturi phúc trình như sau:

    Nhà Nước do những cải cách của Peter Đại Đế thiết lập nên trước đó, đã không bao giờ bám rễ được trên toàn quốc. Song song với Nhà Nước vẫn có một hệ thống tự quản địa phương tồn tại từ thời trung cổ với những nhóm có tổ chức của các nông gia và các nhà thương mại28.

    “Chính qua những tổ chức này, những tổ chức duy nhất mà nông dân có sẵn để sử dụng, mà xã hội nông dân đã tự vệ được.”29 Do đó, chính quyền Nga hoàng đã tìm cách kiềm chế các nông hội [obshchina]30.

    Dù sự đối kháng của các quý tộc chống lại cải cách đã từng được thổi phồng ở Tây Phương, sự chống đối này vẫn có ý nghĩa. Sự chống đối của họ, Venturi viết, đã đặt Nga hoàng vào “thế yếu.”31 Các quý tộc, cũng vậy, lo sợ một cuộc cách mạng nông dân, và sự chống đối của họ đã được tăng cường bởi sự cảm nhận là Nga hoàng ước muốn thay đổi nhiều hơn là thực tế. “Sự đối kháng của giới quý tộc tỉ lệ với sự yếu kém của nền chuyên chế….”32 Những quý tộc, như là những cá nhân cũng như nhóm, dĩ nhiên là quá mạnh nên Nga hoàng không thể lờ đi hoặc dẹp tan được.

    Nông dân sợ bị tước quyền sở hữu đất đai, và các quý tộc thì sợ bị tước quyền sở hữu nông nô của mình. Cả hai nhóm đều có khả năng hành động tập thể và tạo nên được những tụ điểm quyền lực quan trọng không thể làm ngơ được. Những tụ điểm quyền lực này do đó đã giới hạn và kiềm chế quyền lực của vị Nga hoàng mà trên lí thuyết có quyền lực toàn năng.

    Những thí dụ của Pháp và của Nga này chỉ là những minh xác về khả năng tổng quát của những tụ điểm quyền lực thuộc bất cứ loại nào, nếu mạnh đủ và độc lập, trong việc kiềm chế quyền lực của một nhà cai trị bất kể trên lí thuyết ông ta có quyền lực vô giới hạn như thế nào đi nữa. Nhưng những thí dụ này không nên được cắt nghĩa như là những lời tạ tội cho chế độ phong kiến. Dù Tocqueville đã từng bị kết án là người biện hộ cho chế độ phong kiến, trong trí óc của ông ta, ông rất rõ ràng là sự kiềm chế do những tụ điểm quyền lực ở Pháp thời chế độ cũ thực hiện không phải là kết quả của chính hệ thống quý tộc. Đúng ra là khả năng kiềm chế có được là do sự phân tán quyền lực hữu hiệu trong khắp xã hội, mà trong trường hợp này là đặc thù của hệ thống quý tộc. Sự phân tán quyền hành giữa những nhóm và tổ chức của xã hội như thế cũng có thể vận hành trong những hệ thống khác, và sẽ đem lại kết quả kiềm chế tương tự đối với nhà cai trị. Khả năng kiềm chế do sự phân tán quyền lực đem lại.

    Tocqueville nhận định là tác dụng của quyền lực phân tán đối với quyền lực của những nhà cai trị vượt quá chính trị nội bộ. Tác dụng này còn có tiềm năng bao gồm khả năng tiến hành những cuộc chiến tranh quốc ngoại mà không cần sự hỗ trợ của thần dân, và ngay cả khả năng của một một nhà cai trị xâm lược chinh phục một quốc gia có một cơ cấu quyền lực phân tán.

    Một dân tộc vĩ đại thuần quý tộc không thể chinh phục các láng giềng của mình, cũng không thể bị láng giềng của mình chinh phục, mà không gặp nhiều khó khăn. Dân tộc này không thể chinh phục được các láng giềng vì những lực lượng của dân tộc này không bao giờ có thể tập họp lại và thống nhất với nhau trong một thời gian lâu dài được; dân tộc này không thể bị chinh phục, bởi vì kẻ địch sẽ gặp phải ở từng bước tiến những trung tâm kháng chiến nhỏ ngăn chặn cuộc xâm lăng. Chiến tranh chống lại hàng ngũ quý tộc có thể được so sánh với một cuộc chiến tại một quốc gia đầy đồi núi; phe bại trận liên tục có những cơ hội để tái phối trí lực lượng và kháng cự ở một địa điểm mới33.

    Trong lúc các tụ điểm quyền lực hữu hiệu có thể áp đặt những giới hạn và kiềm chế lên quyền lực của nhà cai trị, nhưng nếu những tụ điểm này yếu, không có, hoặc bị phá huỷ thì quyền lực của nhà cai trị cũng theo mức độ đó mà không bị kiềm chế.

    CƯỚC CHÚ

    1. Gene Sharp, Chính Trị Của Hành Động Bất Bạo Động (Boston, Nhà Phát Hành Porter Sargent, 1973), Chương Một.

    2. Như trên., Chương Hai - Mười Bốn để xem phân tích về bản chất của đấu tranh bất bạo động.

    3. Về một vài định nghĩa liên hệ về quyền lực, xem Robert M. Maclver, Mạng Lưới Chính Quyền (New York: McMillan Co., 1947), tt. 82 và 83; Martin J. Hillenbrand, Quyền Lực và Đạo Đức (New York: Columbia University Press, 1949), tt.4-5; Jacques Maritain, Con Người và Nhà Nước (London: Hollis & Carter, 1954), t. 114; và Harold D. Lasswell, Quyền Lực và Nhân Cách (New York: W.W. Norton & Co., 1948), t. 12.

    4. Maclver viết: “Chính quyền sử dụng quyền lực nào và sử dụng cho những mục đích nào tùy thuộc vào những sức mạnh khác (những tụ điểm quyền lực), vào cách thức những sức mạnh này được điều chỉnh hữu hiệu với nhau trong đấu tranh và xung đột, trong sự đồng quy và phân rẽ, của những ý đồ tranh giành quyền lực.” Maclver, Mạng Lưới Chính Quyền, t.91)

    5. Bertrand de Jouvenel, Chủ Quyền: Điều Tra Về Công Ích (Chicago: University of Chicago Press, 1959 và Cambridge tại the University Press, 1957) t. 71.

    6. Georg Simmel viết: “Động lực chính của nhà cai trị trong việc cân bằng những khác biệt về hệ đẳng phát xuất từ sự kiện là những liên hệ về sự thống trị và nô thuộc mạnh mẽ giữa những người dân của ông ta trên thực tế và về tâm lí đã cạnh tranh với chính sự thống trị của của ông ta. Vã lại, một sự áp bức quá mức đối với một số tầng lớp nào đó bởi những tầng lớp khác cũng nguy hiểm cho nền độc tài cũng giống như một quyền lực quá lớn của những tầng lớp áp bức này.” (Georg Simmel, Xã Hội Học của Georg Simmel [Dịch, biên tập, và có Dẫn Nhập bởi Kurt H. Wolff; Glencoe, Illinois: The Free Press, 1950], t. 198.)

    7. Alexis de Tocqueville, Dân Chủ Tại Mĩ [Dịch bởi Henry Reeve, C.B.; London: Longmans, Green and Co., 1889), vol. I, t. 332.

    8. Như trên
    9. Như trên, t. 333.
    10. Như trên.
    11. Như trên, t.332
    12. Như trên, t.6.
    13. Như trên, t.332.
    14. Như trên, tập II, t.296.
    15. Như trên, tập I, t.333.
    16. Như trên.
    17. Như trên, t.334.
    18. Như trên.
    19. Jouvenel, Chủ Quyền, t.200.
    20. Gaetano Mosca, Giai Cấp Cai Trị (Những Yếu Tố Của Khoa Học Chính Trị) (Dịch bởi Hannah D. Kahn; biên tập và duyệt lại với Dẫn Nhập bởi Arthur Livingstone; New York và London: McGraw-Hill, 1939), t. 141.
    21. Tocqueville, Dân Chủ Tại Mĩ, tập I, t.332.
    22. Như trên.
    23. Simmel, Xã Hội Học Của Georg Simmel, t.232.
    24. Franco Venturi, Những Nguồn Gốc Của Cách Mạng (New York: Alfred A. Knopf, 1960, và London: Weidenfeld and Nicolson, 1960), t.66.
    25. Xem như trên.
    26. Như trên, t.67.
    27. Như trên, tt.68-69.
    28. Như trên, t.198.
    29. Như trên, t.70.
    30. Như trên, t.71.
    31. Xem Như trên, tt.72-73.
    32. Như trên, t.72.
    33. Tocqueville, Dân Chủ Tại Mĩ, tập II, t.258
    Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác . Nếu điều đó tổn thương bạn thì nó cũng sẽ làm buồn người khác



  2. #2
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    9,247
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 8 Lần
    Trong 8 Bài Viết
    ĐI TÌM NHỮNG PHƯƠNG CÁCH KIỀM CHẾ CHÍNH QUYỀN (II)





    Phá Huỷ Những “Tụ Điểm” Quyền Lực Có Thể Hỗ Trợ Chuyên Chế

    Không có những nhóm xã hội và những tổ chức quan trọng nắm quyền lực thì hết sức khó mà thực hiện việc kiềm chế hữu hiệu nhà cai trị bằng cách điều phối các nguồn quyền lực cần thiết của ông ta. Điều này áp dụng cho bất cứ hệ thống nào, bất kì bản chất và học thuyết chính thức được công nhận là gì. Nếu một nhà cai trị -- dù là một vì vua, những đại diện của một tập đoàn đầu sỏ về kinh tế, hay là một nhóm những người tuyên xưng cách mạng -- cố tình làm suy yếu hoặc phá vỡ những tụ điểm quyền lực mà không tạo nên những tụ điểm khác ít nhất cũng mạnh như những tụ điểm cũ thì kết quả sẽ là làm suy yếu đi những giới hạn đối với quyền lực của nhà cai trị. Điều này đúng dù cho triết lí chính trị hay là những dàn xếp hiến pháp được chấp nhận là gì đi nữa.

    Tocqueville lí luận đây là điều đã xảy ra trong thời gian đánh đổ chế độ cũ tại Pháp. Trước kia các tỉnh và thành phố có thể chống lại nhà cai trị. Tuy nhiên, cuộc cách mạng đã phá bỏ những miễn lệ, những tập tục, truyền thống, và ngay cả danh xưng, và ép những thứ này phải tuân thủ cùng một thứ luật lệ. Vì vậy, “đàn áp tập thể không còn khó khăn như khi đàn áp những đơn vị này như là những đơn vị cá biệt nữa.” Trong lúc tình cảm gia đình trước đây đã hỗ trợ cá nhân chống lại nhà cai trị, nay việc làm suy yếu hay phá vỡ tình cảm gia đình đã để lại cá nhân đơn độc trong một xã hội liên tục thay đổi. Trước kia, giới quý tộc có thể thách thức và kiềm chế nhà vua. Khi giai cấp này bị đánh đổ thì quyền lực của họ trở nên tập trung vào những người mới chiếm vị thế của nhà cai trị.

    Tôi nhận thấy là chúng ta đã phá tan những thực thể độc lập có thể đơn phương chống lại chuyên chế; nhưng chính Chính quyền lại thụ hưởng những đặc quyền mà các gia đình, các công ti, và cá nhân đã bị tước bỏ; sự yếu kém của toàn thể cộng đồng do đó chịu sự chi phối của một nhóm nhỏ công dân. Nhóm này, dù đôi khi áp bức, nhưng thường thì bảo thủ37.

    Vì vậy, Tocqueville nói, cách mạng Pháp đã lật đổ cả “quyền lực độc tài lẫn những khả năng kiềm chế các lạm dụng của quyền lực này…khuynh hướng của [cuộc cách mạng] là lật đổ và trung ương tập quyền ngay tức khắc.” Sự đánh tan giới quý tộc và giai cấp thượng lưu đã làm cho việc trung ương tập quyền dưới thời Napoléon có thể thực hiện được. Cũng tương tự như thế, Jouvenel đã nêu lên việc tập trung quyền lực thời hậu cách mạng và sự đập tan những tụ điểm quyền lực như là những hành động đặt nền móng cho Nhà Nước độc tôn. Đặc biệt, ông đã nêu lên việc phá huỷ giai cấp trung lưu như là “nguyên nhân gần nhất của những chế độ độc tài đương đại”, và lí luận có phần nào chi tiết là cuộc cách mạng trong quá khứ, một cách tổng quát, đã đóng góp vào sự gia tăng quyền lực cho chính quyền trung ương.

    Cần phải nhấn mạnh là không phải chỉ xóa bỏ những giai cấp áp bức và thiết lập bình đẳng tương đối là sẽ dẫn đến trung ương tập quyền. Thực ra thì như Tocqueville viết, chính là “cách thức bình đẳng được thiết lập.” (“Bình đẳng” ở đây, dĩ nhiên, được dùng trong nghĩa hết sức là tương đối). Thông thường sự “bình đẳng” này được tranh thủ bằng cách phá bỏ những tụ điểm quyền lực hiện hữu (như giới quý tộc Pháp chẳng hạn) mà không tạo ra những nhóm xã hội và tổ chức có đủ độc lập và sức mạnh để chống lại nhà cai trị tại trung ương. Hơn nữa, như chúng ta sẽ thấy, những phương tiện đấu tranh bạo động và những chế tài bạo động mà Nhà Nước trông cậy vào để đem lại sự “bình đẳng” như thế, đã thường xuyên đóng góp vào việc gia tăng tập trung quyền lực vào Nhà Nước. Chính những loại thay đổi đặc biệt này nhân danh phong trào đem lại bình đẳng đã tạo nên một đóng góp đáng kể vào những hình thái hiện đại của chuyên chế.

    Khi những tụ điểm quyền lực phân tán bị tiêu huỷ mà những tụ điểm mới có cùng tầm quan trọng và sức mạnh không được tạo ra, thì kết quả có khuynh hướng sẽ là một xã hội bao gồm những cá nhân tương đối bình đẳng, nhưng phân hoá, và bất lực. Những cá nhân này lúc bấy giờ sẽ không có được những nhóm và những tổ chức với những thành viên mà họ có thể tham khảo ý kiến, nhận lãnh sự hỗ trợ, hoặc phối hợp để hành động. Những cá nhân phân hoá, không thể cùng hành động chung với nhau, không thể hợp nhất để thực hiện một sự phản đối có ý nghĩa, để, bằng cách bất hợp tác, rút lui những nguồn sức mạnh mà nhà cai trị cần, và, trong một vài trường hợp, can thiệp để phá vỡ hiện trạng. Những cá nhân này do đó sẽ không có khả năng giới hạn hay kiềm chế quyền lực chính trị đang được sử dụng bởi nhà cai trị hiện tại, hay bởi bất cứ một nhà cai trị mới nào có thể giành được quyền kiểm soát guồng máy Nhà Nước và tự đặt mình vào đỉnh cao lãnh đạo.

    Tiến trình làm suy yếu và phá vỡ các nhóm và các tổ chức có khả năng chống lại Nhà Nước, với kết quả là sự suy yếu của xã hội, và sự bất lực của những cá nhân công dân, đã được Tocqueville nhận ra rõ ràng trong những giai đoạn mới phát triển. Ông nêu rõ là trong lúc người dân của một nước dân chủ có thể cảm thấy kiêu hãnh là mình bình đẳng với bất cứ công dân nào khác, nhưng đó không phải là toàn bộ bức tranh. Khi một người so sánh mình như là một cá nhân với con số khổng lồ những công dân khác, thì “ông ta bỗng nhiên cảm thấy mình bị ngập lụt trong một sự cảm nhận về sự vô nghĩa và yếu đuối của mình.” Cá nhân có khuynh hướng “biến mất giữa đám đông và dễ dàng lạc lối giữa sự mờ mịt thường lệ….” Không còn là thành viên của một nhóm có khả năng hành động độc lập thực thụ và chống đối lại nhà cai trị, người dân cá biệt chỉ trở thành một người trong đám đông những công dân khác cùng yếu đuối và lệ thuộc như nhau. Mỗi người chỉ có “ sự bất lực bản thân để đối chọi lại với lực lượng có tổ chức của Chính Quyền.” Trong những hoàn cảnh như thế, “mọi người đều đơn độc … và sẽ bị dẫm đạp lên một cách vô tội vạ.” Tại những quốc gia dân chủ, do đó, Nhà Nước “tự nhiên mạnh hơn” ở những nơi khác. Bất kì những sắp xếp hiến pháp là gì, khả năng của xã hội này trong việc duy trì tự do đích thực sẽ yếu đi một khi bộ máy Nhà Nước đã bị chiếm, dù là bằng bầu cử, bằng tiếm quyền, bằng đảo chánh, hay bằng xâm lược bởi một nhà chuyên chế có thể có. “Có cách gì mà chống lại được chuyên chế trong một quốc gia khi mà mọi người dân riêng tư đều bất lực và công dân không được kết hợp lại với nhau bằng một ràng buộc chung?” Điều này thực sự xảy ra đến tầm mức nào dĩ nhiên biến đổi tuỳ theo tiến trình này được nới rộng đến mức độ nào. Tình trạng sẽ không đến nỗi nào trầm trọng nếu các nhóm và các tổ chức được tự lập phần nào còn tồn tại, đã được hồi sinh, hay mới được tạo dựng nên. Và người dân trong một vài lãnh vực giới hạn của cuộc sống của mình có thể còn giữ được khả năng ảnh hưởng đến các biến cố, còn về những vấn đề rộng lớn hơn ảnh hưởng đến xã hội như một tổng thể và các chánh sách của chính quyền, thì họ có thể cảm thấy mình không có khả năng thực hiện bất cứ sự kiềm chế hữu hiệu nào cả. Ngay cả trong những nền dân chủ hiến định, cái cảm giác bất lực của người dân bình thường trong việc ảnh hưởng đến những diễn trình thực sự của những biến cố chính trị có lẽ được cảm nhận sâu sắc và rộng rãi ngày hôm nay nhiều hơn rất nhiều so với thời Tocqueville.

    Tình trạng này đã được Karen Horney và Erich Fromm, ngoài những người khác, lưu ý chúng tôi. Có một sự xung khắc cơ bản, Horney viết, “ở giữa cái được cho là tự do cá nhân và tất cả những giới hạn thực sự của ông ta…. Kết quả đối với cá nhân đó là một sự lưỡng lự giữa cảm nhận về quyền lực vô giới hạn trong việc quyết định về thân phận của mình và cảm giác hoàn toàn bất lực của mình.” Tương tự như thế, Erich Fromm cảnh cáo: “…trong chính xã hội của chúng ta, chúng ta phải đối diện với cũng cùng cái hiện tượng vùng đất phì nhiêu cho sự nảy sinh của Phát xít ở bất cứ nơi nào: đó là sự vô nghĩa và bất lực của cá nhân.” “Dù với lớp sơn lạc quan và sáng kiến, con người hiện đại bị ngập lụt trong sự cảm nhận sâu xa về sự bất lực làm cho anh ta nhìn chòng chọc vào những thảm họa đang xảy ra như thể là anh ta đang bị tê liệt.”

    Những lí do mà các nhà phân tích cung cấp để cắt nghĩa tình trạng này khác nhau. Tuy nhiên, trong ý nghĩa chính trị thì tất cả đều liên hệ đến vị thế quyền lực yếu kém của cá nhân biệt lập đối diện với nhà cai trị hùng mạnh, thuộc bất cứ loại nhà cai trị nào. Cá nhân không cảm thấy mình là thành phần của các nhóm xã hội và các tổ chức có đủ quyền lực và độc lập về hành động để đối kháng hữu hiệu và cùng nhau kiềm chế quyền lực của nhà cai trị, bởi vì các nhóm xã hội và tổ chức độc lập của xã hội yếu kém, bị đặt dưới vòng kiểm soát, hoặc không hiện hữu. Trong những xã hội hiện đại có một sự phân hoá tương đối nơi người dân đã xảy ra. Mức độ điều này xảy ra, và giai đoạn phát triển của điều này, biến đổi tuỳ theo quốc gia, tùy theo hệ thống chính trị, và tuỳ theo những lực vận hành để tạo nên hay ngăn chặn tiến trình đó. Những biến đổi này quan trọng, và thường thì hết sức quan trọng. Và, có những lúc tiến trình này có thể được đảo ngược, hoặc do những hệ quả không dự tính của những thay đổi trong cơ cấu của xã hội hay là do những thay đổi có chủ ý nhằm tạo ra hay tăng cường các tổ chức độc lập. Trong những nền dân chủ hiến định Tây phương, sự độc lập và quyền hạn tương đối của các nhóm xã hội và các tổ chức lớn hơn rất nhiều so với những chế độ toàn trị mà trong đó sự phân hóa đã đạt đỉnh điểm của thời điểm đó của lịch sử. Vào thời thanh trừng của Stalin, chẳng hạn, “không ai có thể tin người khác được hay là cảm thấy an toàn dưới sự bảo vệ của bất cứ tổ chức hay cá nhân nào mà từ trước đến nay họ từng tin cậy.” Leonard Schapiro đã viết. “Sự ‘phân hoá’ của xã hội, mà vài người đã nhìn thấy như là một sắc thái đặc thù của toàn trị, đã được hoàn tất trong những năm khủng bố.”

    Sự phân hoá có chủ ý như thế là kết quả từ những biện pháp của nhà cai trị nhằm làm suy yếu hoặc phá vỡ những tụ điểm quyền lực quan trọng, mà về phương diện cơ cấu, đã được đặt nằm giữa cá nhân và nhà cai trị. Một nhà cai trị mong muốn làm cho chế độ của mình hoàn toàn mạnh có thể chủ ý khởi sự những biện pháp nhằm đạt mục đích này. Điều này đã xảy ra cả trong thời Đức quốc xã lẫn trong thời Liên bang Xô viết. “Độc tài… không bao giờ được an toàn trong việc tiếp tục tồn tại,” Tocqueville viết, “hơn là khi có thể giữ được con người tách rời nhau, và mọi ảnh hưởng của nền độc tài đều được sử dụng vào mục đích này.” Hoặc là, nhà cai trị có thể tìm cách duy trì sự thống trị của mình, không phải bằng cách phá huỷ những tụ điểm quyền lực mà bằng cách sửa đổi những sức mạnh của những tụ điểm này để đặt mình vào vị trí chóp bu. Simmel đưa ra ý kiến là nhà cai trị có thể khuyến khích “những nỗ lực của các giai cấp hạ lưu được điều hướng đến sự bình đẳng trên pháp lí qua những quyền lực trung gian như thế.” Điều này sẽ gầy dựng một tụ điểm quyền lực mạnh đủ để cân bằng ảnh hưởng của “những quyền lực trung gian” đối với nhà cai trị, do đó tạo ra được một lực cân bằng tương đối, và do đó giúp nhà cai trị duy trì được sự thống trị trên toàn thể.

    Sự phân hoá tương đối của người dân cũng có thể tiếp diễn như là một kết quả không dự tính của những chính sách khác hay là những thay đổi xã hội, được thiết kế không phải để phân hoá dân chúng cũng không phải để đóng góp vào quyền lực vô giới hạn cho nhà cai trị. Điều này đặc biệt có khuynh hướng xảy ra ở nơi nào mà những nhà cải cách hay những nhà cách mạng sử dụng guồng máy Nhà Nước để kiềm chế một số nhóm xã hội hay kinh tế nào đó, như là giới quý tộc, các địa chủ, hay các nhà tư bản chẳng hạn, và ở nơi nào mà Nhà Nước được sử dụng như là công cụ chính yếu để kiểm soát sự phát triển kinh tế và chính trị của xứ sở. Việc tập trung quyền lực vào Nhà Nước có thể thành công trong việc kiềm chế một nhóm nào đó mà các biện pháp đã được định chế hoá để chống lại. Tuy nhiên, những hậu quả dài hạn khác sẽ tiếp theo sau do sự tập trung quyền lực này vào việc kiềm chế hay phát triển đó. Trông cậy vào Nhà Nước để đạt những mục đích này không những sử dụng sự tập trung quyền lực hiện có vào Nhà Nước mà còn đóng góp vào sự phát triển quyền lực này một cách tuyệt đối cũng như đối chiếu với các tổ chức khác trong xã hội. Hơn nữa, sự trông cậy vào Nhà Nước này không những không tăng sức mạnh cho dân chúng và các tổ chức độc lập của họ mà còn có khuynh hướng làm suy yếu những tổ chức này một cách tuyệt đối và tương đối. Ví dụ, thiết lập sự kiểm soát của Nhà Nước đối với nền kinh tế có thể cung cấp cho nhà cai trị hiện tại hay tương lai những phương tiện để “giữ người dân mà ông ta cai trị phải lệ thuộc mật thiết hơn,” như Tocqueville đã từng nói. Việc thiết lập quyền Nhà Nước sở hữu nền kinh tế, chẳng hạn, đã cung ứng cho những chế độ cộng sản khả năng áp dụng một sổ đen khổng lồ chống lại những người bất đồng ý kiến chính trị. Khả năng này vượt xa khả năng của các nhà tư bản trước đó cũng đã dùng những danh sách như thế một cách ít hiệu năng hơn rất nhiều để làm cho những người tổ chức các nghiệp đoàn thương mại không kiếm được việc làm.
    Việc tập trung quyền lực hữu hiệu vào Nhà Nước không những cung cấp cho nhà cai trị những phương tiện để trực tiếp kiểm soát dân chúng. Sự tập trung này sẽ còn có khuynh hướng đưa đến nhiều áp lực và ảnh hưởng tâm lí đối với người dân, điều không những chỉ làm giảm khả năng của họ kiềm chế nhà cai trị, mà ngay cả việc họ mong muốn làm như vậy. Cá nhân chịu ảnh hưởng quá khích của quần chúng và thường bị áp lực phải chấp nhận những ý kiến mà không có cơ hội để suy xét có luận lí, nhất là áp lực dưới hình thức biện minh cho đạo đức, ý thức hệ, lòng yêu nước, và kiến thức chuyên môn. Những người có ý đồ cùng nhau hành động để thay đổi xã hội, hay là để thách thức sự toàn năng của nhà cai trị thường được xem là nguy hiểm và phản xã hội. Dân chúng càng lúc càng chấp nhận là đúng, và ngay cả, là bổn phận của nhà cai trị phải “hướng dẫn cũng như cai quản mỗi một cá nhân riêng tư.” Chủ thuyết này nguy hiểm cho tự do, và cho sự duy trì và phát triển của những kiềm chế đối với quyền lực chính trị của nhà cai trị.
    Bất kể những cái lợi ngắn hạn được biểu thị, những kết quả dài hạn của việc trông cậy vào quyền lực tập trung của Nhà Nước để giải quyết những vấn đề của xã hội có thể là thảm hoạ cho tương lai chính trị của xã hội đó.

    Sự Phân Phối Quyền Lực Thực Thụ Có Thể Ảnh Hưởng Đến Các Hình Thái Cơ Chế Của Chính Quyền

    Cấu trúc quyền lực thực thụ của xã hội về dài hạn có khuynh hướng giúp quyết định hình thái cơ chế chính thức của chính quyền. Một cơ cấu quyền lực được phân tán trong xã hội như là một tổng thể có nhiều tụ điểm quyền lực hữu hiệu sẽ có khuynh hướng tạo nên một hình thái dân chủ hơn. Trái lại một xã hội với nhiều cá nhân bị phân hoá và quyền lực tập trung vào trong tay Nhà Nước sẽ dễ dàng tạo ra một hình thái chính quyền độc tài. “Cái mà chúng ta gọi là hiến pháp chỉ là câu chuyện đăng quang của cơ cấu xã hội mà thôi; và nơi nào mà những cơ chế hạ tằng hết sức khác nhau thì cơ cấu thượng tằng cũng phải khác biệt,” F.C. Montague viết. Tương tự như thế, Mosca lí luận là những giới hạn thực thụ về quyền lực của nhà cai trị, hay sự thiếu vắng những giới hạn này, sẽ đưa đến việc chính thức thừa nhận những giới hạn đó trong hiến pháp và luật pháp. Những tụ điểm quyền lực có thể mạnh đến nỗi nhà cai trị phải thừa nhận sự lệ thuộc của ông ta vào những tụ điểm này bằng cách thay đổi cơ chế. “Cho nên buổi họp của quốc hội, ngay từ ban đầu, đã mang đặc tính thiết yếu là”, Jouvenel viết, “đó là một hội nghị của nhiều giới chức, lớn và nhỏ, mà nhà vua không thể ra lệnh và cũng không hoà đàm được.” Ngược lại, nơi nào mà các nhóm xã hội và các tổ chức tương đối thiếu vắng hoặc yếu, không thể chống lại nhà cai trị tại trung ương và không thể kiểm soát các nguồn sức mạnh của ông ta, thì cơ cấu chính trị chính thức có thể thay đổi không còn dân chủ nữa trên danh nghĩa và công khai trở thành hết sức tập trung và độc tài.

    Những thay đổi về khuôn khổ chính thức của chính quyền để phản ánh sự phân phối quyền lực thực sự và tình trạng cơ cấu của xã hội như là một tổng thể thường chỉ được thực hiện sau một quãng cách thời gian. Có thể là một thời gian dài trong những điều kiện thích hợp. Những hình thái bên ngoài của một hệ thống chính trị có thể tiếp diễn lâu dài sau khi sự phân phối quyền lực trong xã hội -- điều mà nguyên thuỷ đã giúp tạo ra những hình thái đó của chính quyền -- đã biến đổi đi rất nhiều rồi. Guồng máy chính thức của nền dân chủ hiến định có thể vẫn tiếp diễn một thời gian sau khi sự phân tán hữu hiệu về quyền lực giữa các nhóm và các tổ chức của xã hội đã được thay thế bằng sự tập trung hữu hiệu về quyền lực vào tay của nhà cai trị. Nếu như thế thì tiềm năng quyền lực của nhà cai trị có thể không bị kiềm chế trong cách hành sử như thể là hiến pháp thực sự độc đoán vậy. Mặc dù hiến pháp cũ có thể vẫn tiếp tục lâu dài sau khi những điều kiện tạo nên hiến pháp đã thay đổi, tình trạng này có thể sẽ hết sức bất ổn. Trong một xã hội mà các nhóm xã hội và các tổ chức phi Chính Phủ yếu, đã bị nhà cai trị kiềm chế, hay vì lí do nào khác không thể hành động độc lập và chống lại nhà cai trị, và dân chúng hoặc không muốn chống đối những việc tiếm quyền hoặc cảm thấy bất lực trong việc chống đối, thì một hình thái chính quyền thực sự độc đoán có thể được chấp nhận một cách dễ dàng. Hình thái này có thể được đưa vào như một dàn xếp “tạm thời” để đáp ứng một nhu cầu khẩn trương đặc biệt, hay như một sự thay đổi vĩnh viễn. Trong trường hợp sau này, sự thay đổi có thể xuất hiện từ những thay đổi dần dà về hiến pháp, những chuyển hướng về thực hành, về những quyết định tư pháp, về lập pháp, và những điều như thế. Thay vì như thế, sự thay đổi có thể đi theo sau một vụ tiếm quyền, những cuộc đảo chánh, hay ngoại xâm. Đôi khi sự thay đổi trực tiếp đến từ những “đòi hỏi” cần cho sự điều động một cuộc chiến hữu hiệu tại quốc nội hay chống ngoại xâm.

    Trường hợp ngược lại cũng có thể xảy ra. Một loại chính quyền chính thức là độc tài có nguồn gốc đã từ lâu có thể vẫn tiếp tục tồn tại trong một thời gian sau khi các nhóm xã hội và các tổ chức phi Nhà Nước của xã hội từng hiện hữu trong hệ thống đó đã trưởng thành về sức mạnh và trong khả năng hành động độc lập; và có lẽ sau khi những nhóm và tổ chức mới có cùng những đặc tính như thế đã xuất hiện. Trong trường hợp như thế, khi mà hiến pháp chính thức vẫn độc đoán, thì trên thực tế các tụ điểm quyền lực sẽ kiềm chế được nhà cai trị đến một mức khả quan. Nghĩa là, xã hội trên thực tế đã trở nên dân chủ hơn là hình thái chính thức của quyền còn tồn tại cho thấy. Cũng trong trường hợp này, những tương quan quyền lực đã được thay đổi này và điều kiện cơ cấu mới với thời gian sẽ có khuynh hướng được chính thức thừa nhận bởi một sự thay đổi về hiến pháp.

    Trong cả hai trường hợp, tình trạng cơ cấu của xã hội và sự phân phối quyền lực hữu hiệu thực sự trên phương diện thực hành có khuynh hướng sửa đổi sự vận hành về cách thức hành sử quyền lực của nhà cai trị khác với những điều khoản chính thức của hiến pháp và khác với cơ cấu chính quyền.

    Đôi khi có thể có một sự bất phù hợp giữa tình trạng cơ cấu của của xã hội và cơ cấu chính thức của chính quyền khi một nhà cai trị -- nhất là dưới hình thức một đảng chính trị được ý thức hệ điều hướng – giành quyền kiểm soát Nhà Nước để áp đặt một nền độc tài nhằm uốn nắn trở lại cơ cấu nền tảng của xã hội. Sự thành công hay thất bại của nỗ lực này lúc đó sẽ chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tình trạng cơ cấu của xã hội: các nhóm xã hội và các tổ chức có mạnh đủ để chống lại những nỗ lực của nền độc tài không, quá yếu để có thể thành công hay ngay cả chỉ cố thử xem có thành công hay không, hay là các nhóm và tổ chức này có sẵn lòng hỗ trợ sự suy sụp của chính mình để phục vụ mục tiêu của nhà cai trị hay không.

    Kiểm Soát Quyền Lực Chính Trị Như Là Kết Quả Của Sức Mạnh Nội Tại

    Do đó, mức độ mà quyền lực của nhà cai trị bị kiểm soát bởi người dân chủ yếu tuỳ thuộc vào sức mạnh nội tại của trật tự xã hội và của chính người dân. Quan điểm này trái ngược với những cắt nghĩa về những phương cách kiềm chế quyền lực đang được yêu chuộng hiện nay. Ngày nay thông thường người ta đặt hầu như hoàn toàn tin tưởng vào hiến pháp chính thức, vào lập pháp, và vào những quyết định tư pháp để thiết lập và bảo toàn tự do. Người ta cũng thường cho rằng chỉ những ý định, những hành động, và những chánh sách của một nhà độc tài hay một kẻ áp bức (dù đó là một cá nhân hay một nhóm người) mới đưa đến độc tài hay áp bức. Thêm nữa, thông thường người ta cũng cho rằng chỉ cần lật đổ nhà độc tài hay kẻ áp bức là đem lại tình trạng tự do. Tuy nhiên, theo sự phân tích này thì những quan điểm này sai lầm. Tệ hơn nữa là những quan điểm đó có khuynh hướng đưa đến những chánh sách không có khả năng đem lại những kết quả mong muốn.

    Quan điểm cho rằng quyền lực của nhà cai trị rút cuộc là hậu quả của tình trạng của chính xã hội không có gì độc đáo và cũng không có gì mới. Quan điểm này đã từng được bàn cãi bởi nhiều lí thuyết gia chính trị và những nhà quan sát suốt hằng bao nhiêu thế kỉ nay.
    William Godwin, một tư tưởng gia chính trị người Anh cuối thế kỉ 18, chẳng hạn, có ý nghĩ là đặc tính của những thể chế chính trị phần lớn được quyết định bởi tình trạng hiểu biết về xã hội và chính trị của người dân. Nếu sự hiểu biết này bị giới hạn thì các thể chế sẽ không được hoàn hảo theo mức độ đó. Nếu sự hiểu biết này rộng lớn, thì những thể chế được chấp nhận sẽ được cải tiến, và những thể chế bị khước từ sẽ mất hiệu lực vì thiếu hỗ trợ67. Những thay đổi về ý kiến của công chúng do đó khẩn thiết phải đi trước những thay đổi về xã hội và chính trị, nếu những thay đổi này muốn được lâu bền. Trình độ ấu trĩ hay trưởng thành của quần chúng, sẽ được phản ánh qua hệ thống chính trị, Godwin viết, tạo nên một chế độ độc tài hay một hoàn cảnh tự do. Sự yếu kém nội tại sẽ làm cho một dân tộc dễ dàng biến thành con mồi ngon cho kẻ chinh phục, trong khi đó nỗ lực áp bức một dân tộc đã được chuẩn bị cho tự do sẽ có khuynh hướng chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn ngủi mà thôi.

    Niccolo Machiavelli, một tư tưởng gia “hiện thực” người Ý của thế kỉ 16 và là cố vấn cho các quân vương, nêu lên sự thiếu khả năng duy trì tự do của những người không quen thuộc với việc tự quản có trách nhiệm. Ông ấy viết đó là một tình trạng giống như tình trạng của một con vật được nuôi dưỡng trong sự giam cầm nên khi được trả tự do không thể tự chăm lo cho mình được. Nó trở thành con mồi cho người đầu tiên tìm cách phục hồi nó vào tình trạng trước kia. “Bởi vì không phải là danh tánh cũng không phải là đẳng cấp của nhà độc tài đã làm La Mã trở thành nô lệ mà chính sự mất quyền hành mà người dân đã bị tước bỏ bởi sự lâu dài của nền cai trị của ông ta.” Mức độ tuân phục thụ động đã quen thuộc dưới một vị quân vương cũ, hay ngược lại sự sinh động và tham dự của người dân vào một nền cộng hòa, Machiavelli lí luận, sẽ quan trọng trong việc quyết định sự dễ dàng hay khó khăn tương đối mà một nhà cai trị mới sẽ gặp phải khi có ý muốn định vị cho mình.

    Bá tước de Montesquieu, triết gia chính trị người Pháp của thế kỉ 18 được chú ý về những quan điểm của ông về tầm quan trọng của sự phân chia các quyền lực trong chính quyền, cũng đóng góp vào sự hiểu biết về mối quan hệ giữa sức mạnh nội tại của xã hội và loại chính quyền mà xã hội này có. Montesquieu nhấn mạnh tầm quan trọng của “đức hạnh” (được định nghĩa như là lòng yêu nước và yêu bình đẳng) trong việc duy trì tự do và chính quyền của dân. Ông thêm rằng: “Tập tục của một dân tộc bị nô lệ là một phần của sự nô lệ của họ, những tập tục của một dân tộc tự do là một phần của sự tự do của họ.” Mosca trích dẫn, trong số những nhân tố cần có để có thể chống lại, và kiềm chế được nhà cai trị, là sự hiện diện của “những lực lượng xã hội có tổ chứckhông bị nhà cai trị kiểm soát. Tocqueville lí luận là “sự đam mê và thói quen tự do” đóng góp vào sự bảo toàn quyền tự do. Mặt khác, ông viết, “Tôi không thể quan niệm được là có điều gì được chuẩn bị cho sự nô thuộc tốt hơn là, trong trường hợp bại trận, một dân tộc dân chủ mà không có những cơ chế tự do.” Jouvenel liên kết tình trạng tự do với sự cảnh giác sinh động của dân chúng, và khẳng quyết là khi mà các phẩm chất của quyền dân chủ hiện hữu ở một mức độ cao thì sự tự do này xuất phát từ “chính sự khẳng quyết của con người về những quyền của chính mình….”

    Thực là ý nghĩa khi những quan điểm của Mohandas K. Gandhi, chiến lược gia bất bạo động và là nhà lãnh đạo phong trào quốc gia Ấn Độ, hoàn toàn phù hợp với những lí thuyết gia này trên quan điểm về sự liên hệ giữa sức mạnh xã hội và quyền lực chính trị. Gandhi liên tục lí luận là tự quản đích thực (swaraj) không phải chỉ là một vấn đề về những sắp xếp chính quyền và cá tính của nhà cai trị. Thay vì như vậy, dân chủ được đặt cơ sở trên sức mạnh nội tại của xã hội80. Ông cho là sự nô thuộc của người Ấn vào sự cai trị của người Anh là vì tình trạng yếu kém của chính Ấn Độ81. Bởi vì “xét cho cùng thì dân tộc nào, chính quyền đó,” chính quyền tự quản có thể “chỉ đến từ những nỗ lực của chính mình.” Trước khi tự quản có thể được thiết lập thì người dân phải bỏ đi cái “cảm giác bất lực”; họ không thể hành động để thay đổi cơ cấu chính trị mà không tự tin được. “Một hiến pháp toàn hảo áp đặt lên trên một tình trạng nội tại vữa nát thì sẽ giống như một ngôi mộ sơn phết màu trắng.” Do đó, một cuộc cách mạng bất bạo động không phải là một chương trình giành giật quyền lực, mà là một chương trình “biến đổi những tương quan đưa đến kết quả là một sự bàn giao quyền lực êm đẹp.” Gandhi lí luận là một Ấn Độ được tăng cường nội lực, tự túc, và tự tin sẽ được an toàn không bị ngoại xâm, ngay cả không cần vũ khí.

    Những Hàm Ý Của Sự Phân Tách Này Đối Với Sự Kiểm Soát Quyền Lực Chính Trị

    Có thể rút ra ít nhất là ba kết luận từ cuộc thảo luận này về các phương tiện có thể giúp kiềm chế quyền lực chính trị:

    1. Những xã hội mà không có những tụ điểm quyền lực và người dân tương đối bị phân hoá thì, dù cho có những hiến pháp chính thức, cũng dễ bị chế ngự bởi chuyên chế và những hình thái khác của quyền lực chính trị không bị kiểm soát.
    2. Trong những trường hợp như thế thì thay thế người, hay nhóm người đang giữ vị thế nhà cai trị sẽ không đủ để thiết lập sự kiềm chế hữu hiệu đối với quyền lực của bất cứ ai giữ vị thế đó.
    3. Để sự kiềm chế hữu hiệu đối với quyền lực của nhà cai trị có thể thực hiện được, quyền lực phải được chuyển giao và phân tán một cách hữu hiệu giữa những nhóm xã hội và các tổ chức trong khắp xã hội.
    Bây giờ chúng ta hãy xét từng điểm một một cách chi tiết.

    Hiến Pháp Không Đủ Để Kiềm Chế Quyền Lực Của Nhà Cai Trị

    Chúng ta đã thấy là trong nỗ lực kiềm chế quyền lực của nhà cai trị, những hình thái thể chế về chính quyền là thứ yếu so với sự phân phối quyền lực thực sự trong toàn xã hội. Thêm nữa, việc làm suy yếu hay phá vỡ các tụ điểm quyền lực có khuynh hướng làm gia tăng một cách đáng kể những khó khăn của người dân trong việc kiềm chế nhà cai trị của họ. Ngay cả một hiến pháp dân chủ -- từng đặt những giới hạn cho những quyền lực được hợp pháp hoá của chính quyền, thiết lập những thủ tục đều đặn cho việc hành sử của chính quyền và cho sự lựa chọn nhà cai trị, và bảo đảm một số tự do và quyền của người dân -- cũng không đủ để đảo ngược khuynh hướng đó. Nơi nào mà xã hội yếu và nhà cai trị dân chủ mạnh thì những giới hạn hiến định truyền thống bất thành văn hay thành văn đối với những quyền lực của chính quyền hay những hàng rào ngăn chặn các đặc quyền của nhà cai trị sẽ không có khả năng cản trở một chế độ phản dân chủ giành lấy kỉ cương của chính quyền, như bằng một cuộc đảo chánh hay một cuộc xâm lăng chẳng hạn. Trong cùng hoàn cảnh xã hội có cơ cấu yếu thì dân chúng cũng không có khả năng ngăn chặn được những nhà cai trị đã từng được chọn lựa bằng những phương tiện hiến định cứ từ từ nới rộng quyền hạn của mình vượt quá những giới hạn hợp pháp, hoặc áp đặt tiếm quyền hành pháp. Khi một nhóm người có sức mạnh muốn vi phạm “luật lệ” của một nền dân chủ thì các điều khoản hiến định và luật pháp tự chúng không thể ngăn chặn sự tiếm quyền được.

    Tuy nhiên, một xã hội có cơ cấu mạnh với khả năng quyền lực hữu hiệu được phân tán giữa các nhóm và các tổ chức của xã hội sẽ có tiềm năng điều chỉnh những nguồn quyền lực của nhà cai trị và đấu tranh hữu hiệu để duy trì hay phục hồi một hệ thống chính quyền dân chủ. Nhận định này về những đòi hỏi về cơ cấu của những hệ thống dân chủ hiến định ngày nay không được công nhận một cách thoả đáng, ngay cả bởi những người chống đối độc tài hăng say lẫn những người cổ võ tự do. Thay vì vậy, các nhà dân chủ đủ loại thấy là một hiến pháp phác hoạ cơ cấu và phạm vi thích hợp để cho chính quyền điều hành Nhà Nước là then chốt cho việc thiết lập và bảo toàn một xã hội chính trị dân chủ. Tuy nhiên, dù có những hiến pháp như thế, một số lớn nền dân chủ hiến định đã từng bị thay thế bởi những chế độ độ độc đoán hoặc độc tài có nguồn gốc quốc nội hay hải ngoại. Điều này hẳn đủ để chứng minh là khi một nhóm người có sức mạnh không sẵn lòng tuân thủ hiến pháp thì các điều khoản và hạn chế tự chúng không đủ để kiềm chế những quyền lực của nhà cai trị. Xã hội còn cần phải có khả năng kiềm chế những nhà cai trị không muốn tự nguyện tuân theo những giới hạn được thiết lập bởi hiến pháp.

    Một xã hội mà nội lực yếu và quyền lực được tập trung vào Nhà Nước, thì những ngăn chặn hiến định không thể cản trở một sự giành quyền lực phản dân chủ được. Trong những tình trạng như thế thì người dân cũng không có khả năng ngăn cản được một nhà cai trị đã được chọn lựa một cách hợp hiến cứ từ từ thực hiện những nới rộng bất hợp pháp về quyền lực của mình, hoặc đình chỉ ngay cả hiến pháp – có lẽ bằng cách lấy cớ khủng hoảng quốc gia. Người dân làm được gì, chẳng hạn, khi một tổng thống đã được bầu cử, được sự ủng hộ của các lực lượng quân đội, tuyên bố tình trạng Khẩn Trương để giải quyết một cơn khủng hoảng nào đó, giải tán quốc hội, hủy bỏ các cuộc bầu cử, bắt bớ các nhà lãnh đạo đối lập, và áp dụng kiểm soát báo chí, truyền thanh, và truyền hình?

    Để đáp ứng lại những hoàn cảnh như thế, người dân phải có khả năng chống lại quyền lực của nhà cai trị bằng quyền lực của chính mình. Muốn làm được như vậy, họ phải có khả năng đấu tranh hữu hiệu. Điều này đòi hỏi phải có những tụ điểm quyền lực hữu hiệu trong khắp cơ cấu xã hội.

    Tuy nhiên, điều kiện cần thiết này có thể không có được. Các tổ chức phi Nhà Nước của xã hội có thể yếu kém và đã chịu những kiểm soát của chính quyền. Không còn nhóm nào có thể đánh bại được sự tiếm quyền mà còn giữ được hay phát huy được khả năng hành động độc lập hay đối kháng lại nhà cai trị. Những sinh hoạt bình thường của toàn thể xã hội có thể đã được quấn chặt vào với guồng máy Nhà Nước rồi. Đời sống kinh tế của những đại bộ phận dân chúng có thể đã trực tiếp hoặc gián tiếp lệ thuộc vào chính guồng máy này. Người ta có thể đã trở nên có thói quen phó thác những vấn đề của họ cho “chính quyền” thay vì chính mình tự giải quyết lấy. Nếu tình trạng này xảy ra thì xác suất đối kháng tiếm quyền rất là nhỏ -- đối kháng thành công, lại càng nhỏ hơn rất nhiều. Cơ cấu của xã hội và sự phân phối khả năng quyền lực hữu hiệu trong những thời buổi bình thường, và cách thức khả năng này giải quyết những vấn đề xã hội và kinh tế, sẽ ảnh hưởng hết sức mạnh mẽ và ngay cả quyết định khả năng chống lại các nỗ lực áp đặt độc tài.


    Trong hoàn cảnh này, những động lực - của những người mà chánh sách và hành động đã từng làm suy yếu các tụ điểm quyền lực của xã hội và tăng cường quyền lực của guồng máy Nhà Nước - không còn ý nghĩa nữa. Những người tiếm quyền sẽ không thấy là công việc của họ khó khăn hơn đơn thuần chỉ vì những thay đổi đó đã được thực hiện bởi một chính quyền thành tâm tìm cách sửa đổi những bất công, đẩy mạnh an sinh, hay nâng cao khả năng hữu hiệu về quân sự và quản trị để ngăn cản hay đánh bại những đe dọa quân sự của quốc tế, hoặc những cuộc tấn công của quân khủng bố trong nước hay của quân du kích.

    Trong những nền dân chủ hiến định, những nhóm khác nhau đã thường xuyên có khuynh hướng trao cho Nhà Nước những trách nhiệm lớn lao hơn đối với xã hội như là một tổng thể, và nhiều quyền lực hơn đối với xã hội. Hầu như tất cả mọi nhóm đều trông cậy vào khả năng quân sự của Nhà Nước để giải quyết những nguy cơ ngoại xâm. Những nhà cải cách xã hội và những nhà cách mạng đủ loại đã từng trông cậy vào Nhà Nước để thực hiện những thay đổi mà họ mong muốn và để xử trí với những nhóm mà họ thấy là có trách nhiệm về những tệ đoan xã hội hay chống lại những thay đổi mong muốn. Sự trông cậy vào Nhà Nước này đã được biện minh theo ý nghĩa dân chủ với lí do là lập pháp và những cơ quan quyết định chính sách khác đã thực thi kiểm soát dân chủ vì lợi ích của toàn thể xã hội. Trong những trường hợp này, các nhóm xã hội và các tổ chức như là gia đình, các nghiệp đoàn thương mại, các nhóm tôn giáo, và các công ti kĩ nghệ vẫn tiếp tục tồn tại bên ngoài Nhà Nước. Tuy nhiên, sự độc lập tương đối và sức mạnh thì đã hầu như luôn luôn bị làm suy yếu đi rất nhiều so với sức mạnh kiềm chế nhà cai trị của những tụ điểm này trong những thời kì trước đó. Đôi khi sự độc lập và sức mạnh của những nhóm và tổ chức này đã bị xói mòn vì những lí do ít cao quý hơn. Trong lúc những hậu quả của sự xói mòn như thế và của sự nô thuộc vì bất cứ động lực nào sẽ khác nhau tùy theo trường hợp, trong khía cạnh duy nhất này, những hậu quả này sẽ như nhau: tiềm năng quyền lực của nhà cai trị gia tăng trước sự tổn thất của xã hội.

    Khi mà các tụ điểm quyền lực bị làm suy yếu và tiềm năng quyền lực của nhà cai trị được bành trướng, thì cơ hội thay đổi hiến pháp và hình thái của chính quyền về hướng độc tài đã được thiết lập. Một sự thay đổi tức khắc không khẩn thiết phải xảy ra, và thường thường thì có lẽ không xảy ra. Ít ra thì cái vẻ bên ngoài – và thường thì có phần nào thực sự -- dân chúng kiểm soát chính quyền thông thường vẫn được duy trì trong một thời gian. Khi điều này xảy ra thì sự kiểm soát thường tùy thuộc vào chính sự sẵn lòng của nhà cai trị muốn tuân theo một số tiêu chuẩn hay là giới hạn đòi hỏi bởi hiến pháp, các luật lệ, truyền thống, hay là phạm trù luân lí. Tuy nhiên, ngay cả một nhà cai trị được dân bầu vẫn có thể không muốn tuân thủ những giới hạn như thế. Hay là, quyền lực của nhà cai trị có thể được nới rộng từ từ theo một loạt những phương cách nhỏ giọt và có vẻ vô tội vạ để không ai màng lưu ý hay là thấy bị quấy rầy. Hoặc kỉ cương của chính quyền có thể đột ngột bị giằng khỏi tay của một nhà cai trị có chủ ý hành sử một cách tự chế, bởi một nhóm người hăng say muốn sử dụng toàn lực tiềm năng quyền lực của địa vị. Trong những trường hợp như thế thì nhà cai trị một khi đã kiểm soát guồng máy Nhà Nước sẽ có trong tay toàn bộ bộ máy chính quyền và hệ thống kiểm soát dân chúng và các tổ chức của họ đã từng được đào luyện trong những thời gian “bình thường,” dù với những động lực rất khác nhau. Quần chúng lúc bấy giờ sẽ yếu so với nhà cai trị và ít có khả năng đối kháng hữu hiệu hơn là khi mà các tổ chức xã hội chưa bị làm suy yếu và quyền lực của Nhà Nước chưa được gia tăng.

    Trên cơ sở phân tích của ông về những hậu quả chính trị của việc làm suy yếu những tụ điểm quyền lực độc lập trong các xã hội dân chủ, Tocqueville tiên đoán là nếu quyền lực tuyệt đối được tái thiết lập trong những xã hội như thế thì quyền lực này sẽ “mang một hình thái mới và xuất hiện với những sắc thái mà ông cha chúng ta không biết được.” Ông tiên đoán điều này hơn một thế kỉ trước sự thịnh hành của những hệ thống toàn trị thời Liên Bang Xô Viết Stalin và Đức Quốc Xã.

    Kinh nghiệm của chúng ta đối với sự thiếu thoả đáng đã được chứng minh của những giới hạn hiến định đối với quyền lực của các nhà cai trị và sự khốc liệt của đe doạ chuyên chế hiện đại, cả hai đều trầm trọng đủ để thúc đẩy chúng ta nhìn vượt quá những điều khoản hiến pháp và luật lệ để tìm thêm những phương tiện kiềm chế các nhà cai trị không muốn chấp nhận những giới hạn đó.

    Theo lí thuyết dân chủ thì quyền của người dân dùng đến cách mạng bạo động chống lại những nhà chuyên chế đã từng được công nhận. Để chống lại những đe dọa ngoại xâm, các nền dân chủ hiến định đã trông cậy vào lực lượng quân sự. Bây giờ thì đã có cơ sở làm cho chúng ta không được thoả mãn về sự thỏa đáng của những phương tiện giải quyết khủng hoảng đó. Cả cách mạng quần chúng bạo động lẫn chống cự những kẻ xâm lược bằng quân sự đều có thể gây trở ngại thực tiễn cho thành công. Khi người dân không được vũ trang cố làm một cuộc cách mạng bạo động chống lại một nhà cai trị được vũ trang đầy đủ thì hầu như là họ luôn luôn ở vào thế bất lợi trầm trọng rất dễ đưa đến thất bại có thể tiên đoán được. Chống lại một cuộc đảo chánh đã tấn công một chính quyền hiến định, họ cũng không thể thắng được, vì thường thì các lực lượng quân đội đã khởi xướng và ủng hộ đảo chánh. Trong trường hợp ngoại bang xâm lược thì nhà cai trị xâm lược của một Nhà Nước ngoại bang thường đã quyết định là chế độ của ông ta về quân sự rõ ràng là mạnh hơn nước bị tấn công, do đó tự vệ chống lại bằng quân sự hết sức khó có cơ hội thành công.

    Chiến tranh du kích thường được xem như là để thay thế cho những phương tiện này. Tuy nhiên, chiến tranh du kích có những giới hạn nghiêm trọng gây ra bởi khuynh hướng có nhiều tổn thất lớn lao, những viễn tượng mù mờ về sự thành công, thường xuyên đòi hỏi những cuộc đấu tranh hết sức lâu dài, và những hậu quả về cơ cấu. Chế độ bị tấn công tức khắc được làm cho trở thành độc tài hơn, và chế độ tiếp theo một cuộc đấu tranh dù thành công vẫn còn độc tài hơn nữa vì tác dụng tập trung quyền lực của những lực lược quân sự được bành trướng và vì sự làm suy yếu hay phá vỡ những tụ điểm quyền lực của xã hội trong thời gian đấu tranh. ٭

    Do đó, cần phải nhìn vượt quá cả những sắp xếp chính thức của hiến pháp lẫn những khuyến khích bạo động để tìm kiếm những phương tiện giúp dân chúng trong những cơn khủng hoảng thực thi được sự kiềm chế hữu hiệu đối với các nhà cai trị, ngoại bang hay quốc nội.
    Nếu vào thời gian khủng hoảng như thế mà xã hội không có được những nhóm xã hội và tổ chức mạnh có khả năng hành động độc lập, có thể sử dụng sức mạnh hữu hiệu, và có khả năng kiềm chế nhà cai trị tại trung ương, thì sự trông cậy vào những dàn xếp hiến định chính thức không mà thôi để đặt những giới hạn cho nhà cai trị có thể đưa đến tai hoạ. Tocqueville cảnh báo một cảnh ngộ khốn cùng trong một hoàn cảnh như thế:

    …các quốc gia dân chủ…dễ dàng đem tất cả lực lượng sẵn có ra mặt trận, và khi một quốc gia giàu có và đông dân thì sẽ sớm chiến thắng; nhưng nếu lỡ bị chinh phục, và lãnh thổ bị xâm lăng, thì sẽ có ít tài nguyên để sử dụng; và nếu địch chiếm thủ đô thì sẽ mất nước. Điều này có thể cắt nghĩa rõ ràng được: vì mỗi thành viên của cộng đồng đều là từng người bị cô lập và hết sức bất lực, không có ai trong toàn thể cộng đồng có thể tự bảo vệ lấy mình được hay là đưa ra được cho người khác một ý kiến để kết hợp nhau lại. Không có gì mạnh trong quốc gia dân chủ ngoài Nhà Nước; khi sức mạnh của Nhà Nước bị đập vỡ bằng cách đánh gục quân đội, và sức mạnh nhân dân sự bị tê liệt vì thủ đô bị chiếm cứ, thì tất cả những gì còn lại chỉ là một đám đông không có sức mạnh và chính quyền, không có khả năng chống lại một sức mạnh có tổ chức đã tấn công quốc gia này…. [S]au một thảm hoạ như thế, không những dân chúng không có khả năng tiếp tục chiến đấu, mà người ta có thể ý hội được là dân chúng không còn có ý hướng chiến đấu nữa.


    Tác giả : Gene Sharp
    Biên dịch : Tiểu Thạch Nguyễn Văn Thái
    Last edited by giavui; 08-30-2011 at 02:12 AM.
    Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác . Nếu điều đó tổn thương bạn thì nó cũng sẽ làm buồn người khác



Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-18-2021, 01:33 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-24-2021, 10:54 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-28-2020, 01:02 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-24-2018, 12:34 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-20-2016, 01:07 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •