Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc cũng giống như một chiếc đồng hồ, loại nào đơn giản nhất là thứ ít hư hỏng nhất.
Chamfort
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 30

Chủ Đề: Bụi Ly Chua Máu

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Bụi Ly Chua Máu

    Bụi Ly Chua Máu

    Tác giả : Arnaldur Indridason

    Dịch giả: Phương Phương




    Một bộ hài cốt đặc biệt được phát hiện ngay trong khu vực ngoại ô thành Reykjavík, thám tử Erlendur lập tức được gọi đến hiện trường để điều tra vụ án. Các nhà khảo cổ học đã cùng ông bắt tay vào công việc và đưa bộ xương lên một cách khó nhọc. Erlendur cố gắng tìm kiếm những thông tin về cuộc sống xung quanh ngôi nhà gỗ trên ngọn đồi với những bụi cây lý chua bất thường ngay cạnh đó. Những bí ẩn tưởng chừng đã bị chôn vùi từ hơn sáu mươi năm trước dần dần trở lại, và sự thật đau thương về một gia đình sống trên ngọn đồi cách đó không xa đã được khám phá...

    Trong suốt quá trình tìm kiếm thông tin, Erlendur đã phải đối diện trực tiếp với những ám ảnh sâu sắc về quá khứ của chính mình, về những rạn nứt của gia đình không còn hy vọng cứu vãn...


    "Bằng một văn phong hết sức giản dị, Indrađison đã kể một câu chuyện đầy cảm động về tội ác của một xã hội vô cùng phức tạp. Và Erlendur chính là một trong những thám tử giàu lòng nhân ái nhất đã xuất hiện trước mắt ta trong thiên truyện này."

    - The New York Times

    "Hai câu chuyện kịch tính đan xen nhau từ nhiều thập kỷ chia xa... Và ở nơi đó, có những người đã từng một thời sống chết bên nhau..."

    - Entertainment Weekly

    "Có một điều người ta không mong muốn sẽ thấy ở những cuốn tiểu thuyết hình sự - đó là sự thương tâm. Tác phẩm của Indriđason đã làm được điều đó..."

    - The Philadelphia Inquire

    "Một câu chuyện sinh động, ám ảnh và cực kỳ hấp dẫn đối với mọi bạn đọc. Tôi chắc chắn rằng ngay cả những độc giả khó tính cũng sẽ phải ngạc nhiên và đánh giá cao cách tiếp cận đặc biệt của ông... Và đó chính là lúc hàng triệu độc giả Bắc Mỹ khám phá ra Arnaldur Indriđason."

    - South Florida Sun


    ARNALDUR INDRIĐASON sinh năm 1961. Ông làm việc cho một tờ báo của Iceland, bắt đầu sự nghiệp từ một phóng viên và sau đó là nhà phê bình sách trong nhiều năm. Ông là tác giả của nhiều cuốn tiểu thuyết trinh thám ăn khách hiện nay như: Jar City (Vết bớt màu cà phê sữa), Silence of the grave (Bụi lý chua máu), The Voice, The draining lake... và được xếp vào hàng một trong những nhà văn viết truyện trinh thám hàng đầu thế giới. Silence of the grave là cuốn tiểu thuyết đã xuất sắc giành được giải thưởng Gold Dagger năm 2005, một giải thưởng danh giá của dòng tiểu thuyết trinh thám thế giới.



    Chương 1
    Anh ta nhận ra ngay đứa trẻ chưa đầy một tuổi đó... đang ngồi gặm một mẩu xương người.

    Bữa tiệc sinh nh ật náo loạn với đủ th ứ âm thanh inh tai nhức óc. Bánh pizza v ừa được mang đến, bọn trẻ ngay lập tức ăn ngấu nghiến, rồi lấy Coca Cola ra uống ừng ực và quát mắng lẫn nh au om sòm. Ăn uống chán, chúng lại leo lên bàn mà nh ảy múa, rồi lại ch ạy vòng quanh, chúng nô đùa v ới nh au nh ư có ng ười ra hiệu. M ột vài đứa lớn cầm súng máy và súng lục, nh ững đứa bé hơn thì ôm th ật chắc mấy cái ô tô đồ chơi ho ặc những con khủng long nh ựa,... Ng ười than h niên khôn g hiểu được chú ng đang chơi trò gì nữa. Đối v ới anh ta, tất cả chỉ là một sựầm ĩ khiến ng ười khác ph ải ph át điên lên!

    Ng ười phụ n ữ trẻ đang làm một ít bỏng ngô trong lò vi sóng. Cô nói với anh ta rằng mình sẽ cố gắng bảo lũ trẻ b ớt nghịch đi, cô sẽ bật ti vi và mở video lên cho chúng chú ý. Nếu làm vậy mà vẫn không ăn thua, cô sẽ tống cổ chúng ra ngoài, các dây thần kinh của cô đã quá căng thẳng rồi. Con trai cô n ăm nay lên tám. Đây là bữa tiệc sinh nh ật lần thứ ba liên tiếp mà cô tổ ch ức cho con trai, kể từ ba năm trước. Lần đầu, cả nhà cô đi ăn tại một cửa hàng hamburger, nhưng ởđó giá đắt cắt cổ, đã v ậy còn m ở thêm m ột thứ nh ạc rock inh tai váng óc. L ần sau, cô khô ng đến nhà hàng nữa mà tổ chức một bữa tiệc ấm cúng tại nhà, mời ng ười thân và bạn bè đến. Sự kiện đó cũng linh đình chẳng khác nào lúc thằng bé được làm lễ kiêm tín. Còn năm nay, con trai cô chỉ mời bạn bè cùng lớp và hàng xóm đến tham dự.

    Cô m ở lò vi sóng, lấy cái túi bỏng ngô căng phồng ra, bỏ một túi khác vào và th ầm nghĩ: năm sau mình sẽ tổ chức thật đơn giản. Một bữa tiệc thật đơn giản th ôi. Nh ư hồi mình còn nhỏ!

    Ng ười thanh niên ngồi im lặng trên gh ế so fa. Cô đã định nói ch uy ện với anh ta nh ưng sau lại thôi và cảm th ấy không tho ải mái khi th ấy anh ta ng ồi trong phòng khách. Mà th ực ra, họ có muốn nói chuy ện cũng khô ng được, bọn trẻ qu á ồn ào. Anh ta lại ch ẳng tỏ ý muốn giúp đỡ gì, chỉ ng ồi đó và nhìn trân trân vào kho ảng không. "Anh ta th ật lạ," côthầm nghĩ.

    Cô chưa từng g ặp người thanh niên này bao giờ. Anh ta hai m ươi lăm tuổi, là anh trai của một tron g số những đứa bạn đến dự tiệc của con trai cô. Hai anh em cách nhau khoảng hai mươi tuổi gì đó. Thân hình anh ta g ầy đét nh ư que củi. Khi đến trước cửa, anh ta chìa bàn tay dài và ẩm ướt ra b ắt tay cô, trôn g an h ta có vẻ trầm lặng. Anh ta đến để đón em trai mình, nh ưng th ằng bé ương ng ạnh, nhất quy ết khôn g chịu về giữa lúc bữa tiệc vẫn còn đang sôi động. Họ nh ất trí rằng anh nên vào nhà m ột lát. "Bữa tiệc sắp k ết thúc rồi," cô nói. Anh ta giải thích v ới cô rằng trước đây bố m ẹ anh ta sống ở một ngôi nh à hiện đại ở khu thương m ại, nhưng bây giờ họđã ra n ước ngoài, còn anh ta thì ph ải trông nom em trai mình. Th ực ra anh ta đang thuê một căn hộ tro ng thị trấn. Anh ta cứ bồn chồn đứng trước nhà trong khi đứa em trai lẩn vào bữa tiệc huyên náo.

    Lúc này, người thanh niên đang ngồi trên gh ế sofa qu an sát đứa em gái m ới lên m ột tuổi của cậu bé tổ ch ức sinh nh ật, cô bé co n đang bò trên sàn nhà. Cô bé mặc một bộ váy xếp nếp màu trắng, tóc cài nơ, miệng cứ kêu thét liên hồi. Anh ta thầm nguy ền rủa thằng em ham chơi của mình. Việc ngồi tron g một ngôi nhà lạ khiến anh ta cảm thấy khô ng thoải mái. Anh ta tự hỏi không biết có nên giúp đỡ người phụ nữ kia không. Cô ta vừa nói với anh rằng cha đứa trẻđi làm đến tận chiều muộn mới về. Anh ta gật đầu, cố nặn ra một nụ cười và từ chối lời mời dùng bánh pizza của cô.

    Ng ười thanh niên nhìn thấy cô bé con đang cầm và gặm một món đồ ch ơi nào đó lúc nó ngồi xuống, dãi cô bé nhỏ ròng ròng. Có vẻ như cái lợi mềm khiến nó phát cáu. "Nó vẫn còn đang mọc răng," anh ta nghĩ.

    Khi đứa trẻ cầm thứ đồ chơi đó đến gần người thanh niên, anh ta thắc mắc khôn g biết đó là cái gì. Cô bé dừng lại, vặn vẹo mông, sau đó ngồi bệt xu ống sàn nhà, há hốc miện g nhìn an h ta. M ột dòng nước dãi ch ảy xuống ng ực cô bé. Cô bé lại bỏ mó n đồ ch ơi vào miệng và cắn cắn, sau đó bò đến chỗ anh ta, miệng vẫn ng ậm ch ặt nó. Khi cô bé vươn ng ười lên phía trước và cười khúc khích, thứđó rơi ra ngoài. Cô bé tìm lại nó m ột cách khá khó kh ăn rồi bò đến thẳng chỗ anh ta, vịn tay vào gh ế sofa và đứng lên. Tuy có hơi chao đảo một chút, nhưng có v ẻ cô bé vẫn hài lòng v ới thành qu ả của mình.

    Ng ười than h niên lấy thứ đồ chơi đó từ cô bé và xem xét. Đứa trẻ nhìn anh ta không hiểu, rồi nó bắt đầu khóc thét lên. Anh ta không mất nhiều thời gian để nhận ra rằng mình đang cầm m ột m ẩu xương người - một mẩu xương sườn dài khoảng 10cm. M ẩu xương có màu trắng nh ạt và đã mòn ở chỗ gãy nên các rìa không còn sắc nhọn nữa, bên trong chỗ gãy có những vết ố màu nâu, giống như bụi bẩn vậy.

    Anh ta đoán đó là đoạn đầu của xương sườn và thấy nó đã khá cũ.

    Khi người mẹ nghe tiếng con khóc, cô nhìn vào phòng khách và thấy nó đan g đứng bên chiếc gh ế sofa cạnh người lạ mặt. Cô đặt tô bỏng ngô xuống, đến chỗ con gái, bế cô bé lên và nhìn người thanh niên, dường như anh ta đã quên cả người mẹ và cô bé con đang khóc.

    "Có chuyện gì xảy ra thế?" người mẹ hỏi trong lúc cố gắng dỗ dành con gái mình. Cô nói to để át tiếng ồn ào của lũ trẻ.

    Người thanh niên nhìn lên, từ từ đứng dậy và đưa cho cô mẩu xương.

    "Cô bé lấy cái này ở đâu?" anh ta hỏi.

    "Cái gì cơ?" ng ười mẹh ỏi lại.

    "Mẩu xương này này," anh ta nói. "Cô bé lấy mẩu xương này ở đâu ?"

    "Mẩu xương?" cô ngạc nhiên. Khi đứa trẻ nhìn thấy m ẩu xương, nó không khóc n ữa và ch ộp lấy, mắt lạc đi vì tập trung vào đó, miệng lại há ra, nước miếng ch ảy thành dòng.

    "Tôi nghĩ rằng đó là một m ẩu xương", anh ta nói.

    Đứa bé nhét miếng x ơng vào mồm và nín hẳn.

    "Cái thứ mà cô bé đang gặm ấy", anh ta nói. "Tôi nghĩ đó là một m ẩu xương người. "

    Người mẹ nhìn đứa con đang gặm mẩu xương ngon lành.

    "Tôi ch ưa bao giờ nhìn th ấy nó cả. Ý anh là sao, một mẩu xương người ư?"

    "Tôi cho rằng đó là một mẩu của xương sườn người", anh ta nói. "Tôi là một sinh viên y khoa", anh ta nói thêm như giải thích, "năm thứ năm".

    "Vớ vẩn! Anh mang nó theo à?"

    "Tôi á? Không! Cô có biết nó ở đâu ra không?" anh ta hỏi.

    Ng ười mẹ nhìn đứa con, sau đó lấy mẩu xương ra khỏi miệng con bé và ném xuống sàn. Lại một lần nữa, cô bé gào lên thảm thiết. Người thanh niên cầm mẩu xương lên và xem xét nó kĩ càng hơn.

    "Anh trai cô bé có thể biết đấy…"

    Anh ta nhìn cô, cô nhìn lại anh ta một cách lúng túng. Sau đó cô lại nhìn sang đứa con đang khóc. Rồi sang mẩu xương, và rồi nhìn qua cửa sổ phòng khách về phía những ngôi nhà đang xây dang dở xung quanh, sau đó lại quay về nhìn mẩu xương và khuôn mặt người thanh niên lạ, và cuối cùng là nhìn con trai mình, nó đang chạy ra từ phòng khách.

    "Tóti!" cô gọi to. Thằng bé lờđi. Cô băng qua đám trẻ con, kéo con trai ra một cách khá khó kh ăn và đưa nó đến trước mặt người khách.

    "Cái này là của em à?" anh ta hỏi và đưa cho thằng bé mẩu xương.

    "Em đã tìm thấy nó", Tóti nói liến thoắng. Thằng bé không muốn để lỡ một phút giây nào trong bữa tiệc sinh nhật của mình.

    "Ở đâu?" người mẹ hỏi. Cô đặt đứa con gái xuống sàn, đứa bé nhìn cô chằm chằm, không biết có nên gào lên nữa không.

    "Ở ngoài kia, " thằng bé nói. "Đó là một mẩu đá rất buồn cười. Con đã rửa ráy nó rồi." Nó thở hổn hển. Một giọt mồ hôi chảy dài xuống má nó.

    "Ở chỗ nào ngoài kia?" người mẹ hỏi. "Khi nào? Con đã làm gì?"

    Th ằng bé nhìn mẹ. Nó không biết mình đã làm gì sai, nhưng cái nhìn trên khuôn mặt mẹ nó thể hiện rõ điều đó. Còn nó không hiểu chuyện gì cả.

    "Hôm qua, con nghĩ vậy", th ằng bé nói. "Trong khu móng nhà ở cuối đường. Có chuyện gì vậy ạ?"

    Mẹ nó và người lạ mặt đưa mắt nhìn nhau.

    "Con có thể chỉ ẹ chính xác chỗ con tìm ra nó không?" cô hỏi.

    "Con bắt buộc phải đi ngay sao? Đang là tiệc sinh nhật của con mà", thằng bé nói.

    "Phải", ng ười mẹ đáp. "Chỉ ẹ và anh ta đi."

    Nói rồi cô bế lấy đứa con gái dưới sàn nhà và đẩy thằng con trai ra khỏi phòng, hướng đến cửa chính. Ng ười thanh niên đi theo sát họ. Nh ững đứa trẻ còn lại lặng yên khi nhân vật chính bịđiệu đi, chúng nhìn mẹ Tó ti đẩy nó ra kh ỏi nhà, khuôn mặt cô lạnh lùng, trên tay vẫn bế đứa con gái nhỏ. Chúng nhìn nhau, rồi sau đó cả bọn rồng rắn kéo nhau đi theo.

    Nơi này nằm trong khu đất gần con đường dẫn đến hồ Reynisvatn. Quảng trường Milennium. Nó được xây d ựng trên dốc đồi Grafarholt, đỉnh của ngọn đồi này có những téc nước địa nhiệt sơn màu nâu vươn cao lên như một thành lũy bao quanh vùng ngoại ô. Những con đường sạch sẽ chạy dài theo triền dốc, nhà cửa cũng nối tiếp nhau được dựng lên. Đây đó có những ngôi nhà chưng diện một vài mảnh vườn với thảm cỏ xanh và cây non tươi tắn. Chúng sẽ dần lớn lên và một ng ày nào đó sẽ tỏa bóng mát cho ch ủ nhân của chúng.

    Đám ng ười đi theo sát đằng sau Tóti, họ men theo con đường cao nh ất bên cạnh nh ững téc n ước. Rất nhiều ngôi nhà thành thị m ới xây trải dài đến vù ng đồng cỏ, trong khi ở đằng xa, v ề phía Nam và phía Đông, lại là nơi dành cho những ngôi nhà gỗ mùa hè cũ kỹ của người dân Reykjavík. Cũng giống nh ưở tất cả các vùn g đất m ới khác, bọn trẻ th ường ch ơi đùa trong các ngôi nhà xây dở, leo trèo lên dàn giáo, ẩn trốn tro ng nh ững b ức tường hẻo lánh hay trượt xuống phía móng nhà mới đào để lội bì bõ m trong nh ững v ũng n ước đọng lại d ưới đó.

    Tóti dẫn người lạ mặt, m ẹ nó và cả lũ bạn xuống một cái móng nhà như v ậy và chỉ chỗ mà nó đã tìm ra m ẩu xương trắng lạ lùng kia, mẩu xương sáng và trơn láng đến m ức th ằng bé phải để vào túi và quy ết định giữ nó lại. Th ằng bé nhớ chính xác vị trí, nó nhảy xuống móng nhà trước m ặt và đi thẳng đến chỗ mà hôm trước nó th ấy m ẩu xương nằm trên nền đất khô. Ng ười m ẹ bắt nó lùi ra xa, và với sự giúp đỡ của ng ười thanh niên, cô vụng về trèo xuống chỗ móng nhà. Tóti lấy lại m ẩu xương từ chỗ m ẹ và đặt nó xuống đất.

    "L úc đó nó nằm thế này này", thằng bé nói, vẫn đang tưởng m ẩu xương là m ột viên đá thú vị.

    Đó là một buổi chiều thứ Sáu và không có ai làm việc ở khu móng nhà cả. Gỗđã được đặt vào vị trí ở cả hai bên để chu ẩn bị đổ bê tông, nh ưng mặt đất vẫn phơi ra ở nh ững nơi không có tường bao phủ. Ng ười thanh niên đi đến chỗ b ức tường b ẩn thỉu và nhìn ch ăm chú cái nơi mà thằng bé đã tìm thấy m ẩu x ương. Anh ta lấy móng tay cào cào vào lớp bùn và kinh hoàn g nhận ra có th ứ gì đó trông giống như khúc xương của cả m ột cánh tay phía trên bị chôn sâu d ưới đất.

    M ẹ bọn trẻ thấy anh ta cứ nhìn ch ằm chằm vào đống đất, liền hướng mắt nhìn theo, và cô ph át hiện ngay ra khúc xương cánh tay đó. Đến g ần hơn, cô nghĩ rằng mình có th ể trô ng th ấy m ảnh xương quai hàm v ới một hay hai cái răng gì đó.

    Cô bắt đầu nhìn ng ười thanh niên và sau đó nhìn sang co n g ái, rồi theo b ản năng, cô vội vàng lau sạch miệng cho con bé.

    ° ° °

    Cô không hiểu chuy ện gì đã x ảy ra cho đến khi cảm th ấy cơn đau ở thái dương mình. Bất thình lình, hắn đánh vào đầu cô bằng m ột nắm đấm siết ch ặt nhanh đến nỗi cô không kịp nhìn th ấy nó. Ho ặc có thể cô không tin được là hắn lại đánh cô nhanh nh ư thế.

    Đó là lần đầu tiên cô bịđánh, và trong nh ững năm v ề sau này, cô vẫn tự hỏi khô ng biết đời mình có kh ác đi khô ng nếu cô rời bỏ hắn ngay lúc ấy. Nếu nh ư hắn cho phép cô làm điều đó.

    Cô nhìn hắn đầy kinh ngạc, bối rối khôn g hiểu tại sao đột ngột ch ồng mình lại đánh mình. Trước đây ch ưa từng có ai động vào cô cả.

    "Anh đánh em đấy ư?" cô vừa nói vừa đưa tay lên xoa thái dương.

    "Cô tưởng tôi khô ng thấy cái kiểu cô liếc nhìn thằng đó à?" hắn rít lên.

    "Thằng đó? Thằng nào cơ??? Ý anh là Snorri ư? Nhìn Snorri ư?"

    "Ph ải, ph ải! Cô tưởng tôi kh ông để ý sao hả? Cái kiểu cô cư xử giống nh ưđang động cỡn lên ấy ?"

    Cô ch ưa bao giờ ch ứng kiến chu y ện này. Cô ch ưa bao giờ nghe th ấy hắn nói nh ững từ ghê tởm nh ư thế. Động cỡn. Hắn đang nói v ề ch uy ện gì v ậy? Lúc nãy cô chỉ trao đổi m ột vài câu ng ắn ng ủi với Sno rri ở cửa tầng h ầm để cảm ơn anh ta vì đã trả cho cô m ấy thứ mà cô để quên ở ngôi nhà mình từng giúp việc trước đây; cô kh ông muốn mời anh ta vào nh à, vì chồng cô đã cáu kỉnh cả ngày trời, hắn nói rằng h ắn không muốn gặp Snorri. Snorri k ể một câu chuy ện đùa về ng ười lái buôn trước đây từng thuê cô làm việc, họ cùng b ật cười và sau đó tạm biệt nh au.

    "Đó chỉ là Snorri thôi mà", cô nói. "Đừng cư xử như thế. Tại sao anh lại cáu kỉnh một cách ngu ngốc suốt cả ngày như th ế?"

    "Cô đang cãi lại tôi đấy h ả?" h ắn hỏi và tiến lại g ần cô. "Tôi đã thấy cô qua cửa sổ. Tôi thấy cô ve vãn thằng đó. Hừ, ch ẳng khác nào một con đàn bà dâm đãng !"

    "Không, anh không th ể…"

    Hắn siết tay, đấm m ạnh vào mặt cô lần nữa khiến cả người cô lao th ẳng vào cái tủ đựng bát đĩa sứ trong b ếp. Mọi chuy ện diễn ra quá nhanh đến m ức cô không kịp giơ tay ôm lấy đầu.

    "Đừng có nói dối tao!" h ắn quát lên. "Tao th ấy cái kiểu mày nhìn thằng đó rồi. Tao thấy mày tán tỉnh nó rồi! Chính m ắt tao trôn g th ấy! Đồ co n điếm b ẩn thỉu này!"

    Lại m ột từ n ữa mà lần đầu tiên cô nghe th ấy hắn nói.

    "L ạy Chúa tôi !" Máu rỉ ra từ v ết thương ở môi ch ảy vào miệng cô. Vị máu hòa cùng với nh ững giọt nước m ắt m ặn đắng ch ảy xuống m ặt cô. "T ại sao anh lại làm th ế? Em đã làm gì sai nào?"

    Gã ch ồng đứng xổ lên, sẵn sàng tấn côn g. M ặt h ắn đỏ bừng đầy phẫn nộ. Hắn nghiến răng kèn k ẹt, giậm chân bình bịch, sau đó quay ngoắt người ra khỏi nhà. Cô vẫn đứng ch ết lặng, kh ông hiểu nổi chuyện gì đã x ảy ra.

    Về sau này cô thườn g nghĩ đến giây phút đó và tự hỏi khô ng biết có điều gì thay đổi khôn g nếu nh ư mình cố g ắng ch ống trả lại sự hung b ạo đó ngay lập tức b ằng cách rời bỏ hắn ta, tránh xa hắn ta mãi mãi, thay vì chỉ cố tìm ra lý do để tự trách mình. "Mình ph ải làm gì đó thì anh ấy mới ph ản ứng nh ư th ế. Điều gì đó mà có thể mình không biết, nhưng chồng mình lại biết, và mình có thể nói ch uy ện v ới anh ấy khi an h ấy qu ay trở về, mình hứa sẽ th ay đổi và m ọi chuy ện sẽ trở lại bình th ường."

    Cô chưa bao giờ thấy h ắn cư xử nh ư thế, cô hay bất kỳ ng ười nào khác cũng vậy. Chồng cô là một ng ười khá kín đáo với vẻ bề ngoài nghiêm nghị. Thậm chí, có thể coi hắn là một người hay suy nghĩ với vẻ m ặt trầm tư. Đó là điều m à cô thích ở hắn khi họ m ới bắt đầu qu en nhau. Hắn làm ở Kjós cho anh trai của người lái buôn thuê cô làm việc, công việc của h ắn là ch ở hàng cho ông ch ủ. Đó là lí do tại sao hắn g ặp cô cách đây một năm rưỡi. Hai người gần như bằng tuổi nhau. Hắn nói về việc bỏ nghề lao động chân tay và có thể sẽđi biển. Đánh cá sẽ giúp h ắn kiếm được tiền. Và hắn muốn có nhà riêng của mình. Là ôn g chủ của chính mình. Lao động chân tay th ật vất vả, cổ lỗ, và lương thì quá th ấp.

    Cô nói với hắn rằng cô đã ch án ngấy việc làm cho người lái buô n ấy. Ông ta là m ột tên keo kiệt và luôn lu ôn sờ so ạng ba cô giúp việc; còn vợ ông ta là một m ụ phù thủy già nua và là một ch ủ nô đích th ực. Cô không có kế hoạch nào cụ thể cho nh ững việc sắp ph ải làm. Ch ưa bao giờ cô nghĩ đến tương lai. Làm việc vất vả là tất cả nh ững gì cô biết từ khi còn tấm bé. Cả cuộc đời cô luôn lu ôn là nh ư th ế, ch ưa bao giờ kh ác đi.

    Gã chồng cô hồi đó liên tiếp tìm cớ thoái thác việc gặp ng ười lái buôn và th ường xuyên vào nhà bếp thăm cô. Chuy ện này nối tiếp ch uy ện kia và ch ẳng bao lâu sau, cô kể cho hắn nghe về đứa con của mìn h. Hắn nói rằng mình đã biết cô là một ng ười m ẹ. Hắn đã hỏi m ọi ng ười về cô. Đó là lần đầu tiên hắn bộc lộ sự quan tâm đến việc tìm hiểu về cô kỹ hơn. Đứa trẻ sẽ sớm lên ba tuổi thôi, cô nói với h ắn, rồi cô ra vườn sau - nơi con bé đang ch ơi cùng nh ững đứa con của chủ nhà - và đưa nó v ề.

    Hắn hỏi cô đã có bao nhiêu ng ười đàn ông đi qua cuộc đời cô.

    Hắn mỉm cười ra vẻ nh ưđó chỉ là một lời nói đùa vô h ại. Sau này hắn thường nhẫn tâm dùng chính tai tiếng về sự lang ch ạ của cô để làm cô đau kh ổ. Hắn ch ưa bao giờ gọi con riêng của cô b ằng tên của nó mà chỉ bằng nh ững biệt danh như đồ con hoang hay con què.

    Đâu có nhiều đàn ông đi qua cu ộc đời cô. Cô nói v ới hắn về ch a đứa trẻ, đó là một ng ư dân, anh ta đã ch ết ở Khôngllafjö rd u r. Hồi cả đội thủy thủ gồm bốn ng ười ch ết cóng trong một cơn bão biển, anh tam ới có hai m ươi hai tuổi. Cũng trong khoảng thời gian đó, cô phát hiện ra mình đã mang thai. Họ vẫn ch ưa kết hô n, do đó ng ười ta khô ng th ể gọi cô là một góa ph ụ. Họđã dự định làm đám cưới, nh ưng anh lại ch ết và để lại cô trên cõi đời cùng v ới đứa con ngoài giá thú.

    Hắn ngồi nghe câu chuy ện của cô trong gian bếp, cô để ý thấy con gái mình không muốn ở bên h ắn. Bình thường con bé không hay xấu hổ, nh ưng con bé cứ níu ch ặt lấy váy m ẹ và không dám bước ra khi hắn gọi. Hắn lấy từ trong túi áo ra một cái kẹo mật đường và đưa cho con bé, nh ưng nó chỉ vùi m ặt sâu hơn vào trong váy m ẹ và b ắt đầu khó c, nó chỉ mu ốn ra ngoài ch ơi với nh ững đứa trẻ ngoài kia. M ặc dù kẹo m ật đường luôn là đồ ăn ưa thích của nó.

    Hai tháng sau hắn hỏi cưới cô. Ch uy ện đó ch ẳng hề lãng m ạn giống nh ư trong nh ững câu chuy ện mà cô được đọc. Họ gặp nhau vài lần vào buổi tối và đi d ạo vòng quanh thị trấn, hoặc đi xem phim của Chaplin. Trong lúc đang cười lảđi vì ng ười đàn ông lang thang bé nhỏ trong phim, cô nhìn sang ng ười đi cùng mình. Hắn còn thậm chí kh ông cười. Một bu ổi tối, khi cô và hắn từ rạp chiếu phim trở về, đột nhiên hắn hỏi cô liệu họ có nên cưới nh au khô ng. Hắn kéo cô v ề p hía m ình.

    "Anh muốn chúng mình cưới nhau," hắn nói.

    Lúc đó, cô ngạc nhiên đến độ ch o đến m ãi lâu sau, khi ch uy ện đó đã th ực sự qu a đi, cô mới nh ận ra rằng đó kh ông ph ải là một lời cầu hôn, khôn g phải là một câu hỏi vềđiều mà cô mong muốn.

    "Anh muốn chúng mình cưới nhau."

    Cô đã nghĩ đến khả năng anh ta cầu hôn mìn h. Mối quan hệ của họđã đến giai đoạn đó. Cô cần m ột ngôi nhà cho đứa con gái nhỏ của mình và muốn có một nơi dành riêng ình. Có thêm con. Không có nhiều người đàn ông theo đu ổi cô. Có thể là vì đứa bé. Có th ể cô không phải là m ột sự lựa chọn h ấp dẫn đối với họ, người cô thấp và kh á tròn trĩnh, khuôn mặt góc cạnh, răng hơi vẩu, những ngón tay nhỏ nh ưn g khéo léo dường nh ư không lúc nào ng ừng chuy ển động. Có thể cô sẽ không bao giờ nh ận được một lời cầu hôn nào tốt h ơn thế.

    "Em nghĩ thế nào v ề ch uy ện đó?" h ắn hỏi.

    Cô gật đầu. Hắn hôn cô và họ ôm nhau. Không lâu sau họ kết hôn trong m ột nhà thờở M osfell. Đó là một lễ cưới nhỏ, ch ẳng có m ấy ng ười tham dự ngoài chú rể và cô dâu, b ạn bè chú rểở Kjós và hai ng ười b ạn của cô ở Reykjavík. Vị mục s ư m ời họở lại uống cà phê sau lễ cưới. Cô hỏi về người thân, về gia đình của ch ồng, nhưng hắn khô ng cởi mở lắm về ch uy ện đó. Chồng cô nói rằng mình là con một, và khi bố hắn ch ết, hắn đã khôn g có đủ kh ả n ăng để tiếp tục nuôi co n, bà gửi hắn đến nhà bố m ẹ nuôi.

    Trước khi trở thành một ng ười làm công ở Kjós, h ắn đã làm ột số nông trại khác. Chồng cô xem ra không m ấy tò mò về ng ười thân của cô. Khô ng m ấy quan tâm đến quá khứ của cô. Cô nói rằng hoàn cảnh của họ tương đối giống nhau: cô không biết bố mẹ thật của mình là ai. Cô được nhận làm con nuôi và được nuôi nấn g trong nhiều gia đình khác nhau ở Reykjavík, và cuối cùng, cô làm việc ột ng ười lái b uôn. Hắn g ật đầu.

    "Chúng ta sẽ tạo nên một kh ởi đầu tốt đẹp," hắn nói. "Hãy quên quá khứđi."

    Họ thuê một căn hộ nhỏ dưới tầng hầm ở Lindargata, căn hộ chỉ gồm một phòng khách và một nhà bếp. Nhàvệ sinh ở ngo ài sân. Cô không còn làm việc cho người lái buôn nữa. Ch ồng cô nói rằng cô không phải tự kiếm tiền n ữa. Hắn sẽ làm việc ở bến cảng cho đến khi có thể làm ột tàu đánh cá. Hắn ôm giấc m ơ về những chuy ến đi biển dài ngày.

    Cô đứng bên bàn ăn, vòng tay ôm lấy bụng. M ặc dù ch ưa nói với chồng, cô ch ắc chắn rằng mình đã có th ai. Ch uy ện đó đã được dự trù từ trước. Haiv ợ ch ồng h ọđã bàn b ạc về chu yện có con, nhưng cô không biết ch ồng mình sẽ cảm thấy thế nào, hắn có v ẻ rất bí hiểm. Nếu đứa trẻ là một bé trai, cô đã ch ọn tên cho nó. Cô mu ốn có con trai. Th ằng bé sẽ có tên là Símon.

    Cô đã ngh e qua nhiều chu y ện đàn ông đánh vợ, ch uy ện những ng ười phụ n ữ ph ải chịu đựng b ạo lực gia đình, đã ngh e đủ ch uy ện. Nh ưng cô không thể tin được mình lại là một tro ng số họ. Khô ng th ể ng ờ được rằng h ắn có thể làm chuy ện đó. Đây ch ắc hẳn là một ch uy ện hoàn toàn khác, cô tự nhủ. "Anh ấy nghĩ rằng mình tán tỉnh Snorri. Mình ph ải cẩn th ận, kh ông để cho ch uy ện đó xảy ra n ữa."

    Cô lau m ặt và hít m ột hơi thật m ạnh. Đó là một cú đánh! Mặc dù chồng mình đã ra ngo ài, ch ắc ch ắn anh ấy sẽ sớm quay về nhà và xin lỗi. Anh ấy khô ng thể đối xử v ới mìn h nh ư vậy. Đơn giản là không thể. Kh ông được ph ép. Bấn loạn, cô đi vào phòn g ngủ và nhìn con gái. Tên nó là Mikkelína. Buổi sáng khi thức dậy, con bé bị sốt, thế là nó ngủ li bì cả ng ày, đến bây giờ v ẫn đang ngủ. Khi b ế con gái lên, ng ười m ẹ thấy toàn thân nó nóng rực. Cô ngồi xuống, ôm con trong tay và bắt đầu hát ru, cô vẫn còn sốc và bị phân tâm bởi cú đánh của ch ồng.

    "Họ đứng trên chiếc hộp,

    Chân đi tất nhỏ xinh,

    Mái tóc thơm màu vàng,

    Những cô nàng áo đẹp. "

    Mikk elín a thở hổn hển, vồng ng ực khẽ ph ập phồng. T ừ mũi cô bé phát ra tiếng thở khò khè nhè nh ẹ, khuô n m ặt đỏ b ừng bừng vì sốt. Ng ười mẹ cố gắng đánh thức con dậy, nh ưng con bé vẫn không nhúc nhích. Cô khóc hét lên vì hoảng loạn.

    Con cô đang bị ốm rất nặng.

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11
    Chỉ là hiểu nhầm

    Người ta đã quy ết định rằng Erlendur, Sigurdur Óli và Elínborg sẽ ph ải tự thụ lý vụ Bí M ật Những Khúc Xương - theo nh ư giới truy ền thô ng gọi nó. Cục điều tra hình sự kh ông thểđiều thêm thám tử ột vụ khôn g được ưu tiên nh ư thế. M ột vụ điều tra quy mô lớn về ma túy đang diễn ra kh ẩn trương nên ngốn rất nhiều thời gian và nhân lực, vì thế họ khôn g thể cử thêm ng ười vào vụ nghiên cứu lịch sử này được, theo đúng nh ư lời ông giám đốc Hrólfur nói. Không ai có thể đảm bảo ch ắc ch ắn rằng nó có ph ải là m ột vụ liên quan đến tội ph ạm hay không.

    Erlendur ghé qua bệnh viện vào sáng sớm hôm sau trên đường đến sở. Ông ngồi bên con gái hai tiếng đồng hồ. Tình trạng của con bé ổn định. Không có dấu hiệu nào cho thấy m ẹ nó đã đến đây. Erlendur ng ồi yên lặng như thế khá lâu, ngắm nhìn gương mặt g ầy, x ương x ẩu của con gái và nh ớ lại th ời quá kh ứ. Ông cố g ắng nh ớ v ề kho ảng thời gian ông ở cùng con bé khi nó còn rất nhỏ. Eva Lind mới lên hai tuổi bố m ẹ nó đã ly hôn, và ông nh ớ rằng con bé luôn n ằm ng ủ giữa hai ng ười. Nó không muốn n ằm ở cái cũi của mình vì họ chỉ sống trong m ột căn hộ rất nhỏ với m ột phò ng ngủ đơn, một phòng khách và nhà bếp, nhà bếp kết hợp luôn tron g phò ng ngủ. Con bé leo ra khỏi cũi, nằm phịch xu ống cái giường đôi và rúc vào giữa bố m ẹ.

    Ông nh ớ hìn h ảnh con bé đứng trước cửa nhà mình, lúc đó đã đến tu ổi vị thành niên, sau kh i lần theo dấu vết của b ố. Halld óra đã th ẳng th ừng từ ch ối không cho ông g ặp m ặt các con. Cứ khi nào ông sắp x ếp để g ặp chúng là bà lại ch ửi m ắng ông th ậm tệ và ông có cảm giác rằng m ỗi lời bà nói ra đều là sự th ật. Dần d ần ông không còn gọi cho chúng n ữa. Ông không gặp Eva Lind trong ng ần ấy thời gian và đột ngột con bé đứng ởđó, trên ô cửa nhà ông. Bộ dạng của nó trông rất quen thu ộc. Khuôn m ặt nó giống bên n ội nhiều.

    "Bố không m ời con vào nhà sao?" con bé nói khi thấy bố nhìn mình ch ằm chằm m ột lúc lâu. Con bé mặc một chiếc áo da đen, qu ần bò rách rưới, môi tô son đen kịt. Móng tay sơn đen. Con bé hút thu ốc và nhả khói qua mũi.

    Trên m ặt nó v ẫn còn có nét trẻ con, g ần như là tinh k hôi.

    Ông run lập cập. Giật mìn h. Rồi m ời con bé vào nhà.

    "M ẹ do dự khi thấy con nói là con sẽđi gặp bố," con bé nói khi bước qua ch ỗ ông, kéo theo khói thuốc và ng ồi phịch xu ống cái ghế bành. "Bà ấy gọi bố là đồ tồi. Lúc nào cũn g nói thế. Với con và Sindri Snaer. ‘M ột thằng tồi khốn kiếp, thằng bố của chúng mày ấy.’ Và rồi: ‘Chúng mày cũng chỉ giống nh ư ông ta thôi, một lũ tồi kh ốn n ạn’."

    Eva Lind phá ra cười. Nó tìm m ột cái g ạt tàn để vứt điếu thuốc, nh ưng Erlendur đã cầm lấy đầu lọc và d ập tắt cho co n bé.

    "T ại sao …" ông bắt đầu, nh ưng không th ể nói h ết câu.

    "Con chỉ muốn đến th ăm bố," con bé nói. "Chỉ muốn xem bố trôn g nh ư th ế quái nào thôi."

    "Vậy trô ng b ố nh ư th ế nào?" ông hỏi.

    Con bé nhìn bố.

    "Giống nh ư một đồ tồi v ậy," nó đáp.

    "Vậy chúng ta không khác nhau rồi," ông nói.

    Con bé nhìn ông ch ằm ch ằm rất lâu và ông nghĩ rằng mình đã trôn g th ấy nụ cười của con b é.

    ° ° °

    Khi Erlendur đến sở, Elínborg và Sigurdur Óli cùng ngồi xuống và kể rằng họ ch ẳn g thu thập được thêm thông tin gì từ ng ười chủ nhà hiện tại của ngôi nhà của Róbert. Theo nh ư lời họ nói thì họ ch ưa bao giờ thấy có một người phụ n ữ méo mó nào trên đồi cả. Vợ của Rób ert đã ch ết cách đây m ười n ăm. Họ có hai con. Ng ười con trai sáu mươi tuổi ch ết cùng m ẹ vào năm đó, còn m ột người phụ nữ b ảy m ươi tuổi đang chờ Elínborg gọi ình.

    "T h ế còn Róbert thì sao? Chúng ta có hỏi được thêm gì từ ông ta không?" Erlendur h ỏi.

    "T ối qua Róbert đã ra đi," Elínborg đáp, giọng nói đượm vẻ hối lỗi. "Ông ấy đã sống đủ rồi. Th ật sự là nh ư thế. Tôi nghĩ rằng ông ấy cũn g không cò n mu ốn sống nữa. Ông ấy tự gọi mình là m ột cây rau già úa đáng thương và vô dụng. Lạy Chú a, tôi ghét ph ải ch ết d ần ch ết mòn trong b ệnh viện nh ư thế."

    "Ông ấy đã viết được vài từ trong cuốn sổ ngay trước khi ch ết," Sigurdur Óli nói. "Cô ấy đã giết tôi. "

    "T hôi đi, anh đùa h ơi quá rồi đấy," Elínborg rên rỉ.

    "Hôm nay cô không ph ải gặp anh ta nữa đâu," Erlendur nói và h ất đầu về phía Sigurdur Óli. "Tôi và anh ta sẽ đến tầng hầm của Benjamín để tìm kiếm m ột vài d ấu v ết. "

    "Ông mong tìm th ấy gì ởđó cơ ch ứ?" Sigurdur Óli hỏi, nụ cười toe toét trên m ặt lập tức ch uy ển sang nh ăn n hó.

    "Ch ắc ch ắn là ông ta ph ải viết ra điều gì đó nếu ch o thuê ngôi nhà. Chuy ện đó khô ng có gì phải bàn cãi. Ch úng ta cần tên của nh ững ng ười từng sống ởđó. Cục Thống kê Quốc gia dường như khó có thể tìm ra nó cho chúng ta. Một khi có tên của họ rồi, chúng ta có th ể tra cứu danh sách nh ững ng ười m ất tích và xem có ai trong số họ còn sống hay không. Và chúng ta cần ph ân tích để xác định giới tính và tuổi tác ngay sau khi bộ xương được khai qu ật hoàn toàn."

    "Róbert có nói đến ba người con," Elínborg nói. "Ít nhất thì m ột tro ng số họ ph ải còn sống ch ứ."

    "Xem nào, đây là điều mà chúng ta cần quan tâm," Erlendur đáp.

    "Và cũng không có gì nhiều: một gia đình năm người sống trong một ngôi nhà gỗở Grafarholt, hai vợ ch ồng v ới ba đứa con vào một thời điểm nào đó trước, trong hoặc sau chiến tranh. Họ là những người duy nhất sống trong ngôi nhà đó mà chúng ta biết, nhưng còn có những người khác có thể sống ởđó nữa. Do đó, cho đến bây giờ chúng ta chỉ có thểđoán rằng một trong số họđã bị chô n ởđó, ho ặc có ai đó liên qu an đến họ. Và có một số người có quan hệ đến họ  chính là người phụ nữ mà Róbert còn nhớ, thường đến đó…"

    "T h ường đến và sau này, và bị méo mó," Elínborg nói nốt câu của ông. "Bị méo mó có thể hiểu là chân cô ta bị kh ập khiễng khô ng ?"

    "Vậy tại sao lúc đó ông ta khô ng viết là "bị què"?" Sigurdur Óli hỏi.

    "Có ch uy ện gì xảy ra với ngôi nhà đó nhỉ?" Elínborg hỏi. "Không còn d ấu vết nào của nó trên đồi cả."

    "Có thể anh sẽ tìm ra điều đó cho chúng ta trong căn hầm của Benjamín hoặc từ cháu gái của ông ta," Erlendur nói với Sigurdur Óli. "Tôi đã quên b ẵng đi khô ng h ỏi ch uy ện đó."

    "T ất cả nh ững gì chúng ta cần là tên của nh ững người sống tron g ngôi nhà đó và xem xét lại chúng trong danh sách nh ững ng ười mất tích tro ng thời gian đó, và đến lúc ấy tất cả sẽ được khớp lại v ới nh au. Chuy ện đó khô ng ph ải rất rõ ràng sao?" Sigurdur Óli nói.

    "Ch ưa đâu," Erlendur đáp.

    "T ại sao?"

    "Anh chỉ mới nói đến nh ững ng ười được báo cáo là m ất tích thôi."

    "Còn ai m ất tích mà tôi chưa nói đến n ữa?"

    "Nh ững trường hợp m ất tích mà khô ng được trình báo. Anh khô ng đảm b ảo được là tất cả mọi ng ười sẽ báo cho cảnh sát nếu có ai đó bị m ất tích. Có m ột số người chu yển đến vùng nôn g thôn và ch ẳng còn ai nhìn thấy họ nữa. Có một số người rời bỏ đất nước và dần dần rơi vào quên lãng. Và còn có nh ững ng ười đi du lịch rồi bị ch ết cóng. Nếu chúng ta có danh sách của nh ững ng ười được trình b áo là mất tích và ch ết tro ng khu v ực này vào thời gian đó, chúng ta cũng cần kiểm chứng lại danh sách đó nữa. "

    "T ôi nghĩ tất cả chúng ta có th ể nhất trí rằng đây không ph ải là m ột trường hợp nh ư th ế," Sigurdur Óli nói với giọng đầy quy ền uy và ngay lập tức nó bắt đầu tác động đến dây th ần kinh của Erlendur. "Không thể có chuy ện ng ười đàn ông này, hay bất kỳ ai đang n ằm d ưới đó, bịđóng băng đến ch ết. Đó là một h ành động có ch ủ ý. Có ai đó đã chôn anh ta xu ống đó."

    "Ðó chính xác là những gì tôi mu ốn nói," Erlendur - một pho từđiển sống về nh ững thử thách của thiên nhiên hoang dã - đáp. "Ví dụ nh ư ai đó bắt đầu khởi hành từ một trang trại. Lúc đó là vào mùa đông và theo nh ư d ự báo, thời tiết rất tồi tệ. T ất cả mọi ng ười đều cố gắng ng ăn cản anh ta. Tuy nhiên ng ười này lại bỏ ngoài tai hết m ọi lời khuyên can, cứ khăng khăng là mình sẽ làm được. Điều lạ lùng nhất trong câu chuy ện về nh ững ng ười chết cóng là họ không bao giờ nghe nh ững lời kh uy ên. Giống như thần ch ết đã dụ dỗ họ v ậy. Dường nh ư họ buộc phải ch ấp nh ận số ph ận bi đát của mình. Nh ư thể họ muốn chống lại số ph ận nh ưng khô ng được. Dù có th ế nào đi ch ăng n ữa.

    Ng ười đàn ông này nghĩ rằn g mình sẽ thành công. Trừ khi cơn bão tan đi, tình hình sẽ tồi tệ hơn anh ta tưởng rất nhiều. Anh ta m ất hết phương h ướng và bị lạc. Cuối cùng, anh ta bị phủ dưới m ột đống tuy ết và ch ết cóng. Đến lúc đó anh ta đã ho àn toàn mất dấu vết. Đó là lý do tại sao xác của anh ta không bao giờ được tìm th ấy. Anh ta bị m ất tích hoàn toàn."

    Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nh au, khôn g hiểu Erlendur định nói điều gì.

    "Đó làmột trường hợp mất tích điển hình ở Iceland mà chúng ta có thể giải thích và hiểu được, bởi vì chúng ta sống ở đất nước này và biết khi nào thời tiết bất ngờ chuy ển sang xấu, biết câu ch uy ện về ng ười khách bộ hành đó đôi khi được lặp lại m ột cách đều đặn mà không một ai thắc m ắc. Đó là Iceland, người ta nghĩ thế, và lắc đầu. T ất nhiên, chuy ện đó xảy ra thường xuyên hơn trong quá kh ứ khi mà h ầu h ết tất cả mọi ng ười đều đi bộ. Có cả m ột bộ sách kể về ch uy ện đó; tôi khô ng phải là ng ười duy nhất quan tâm đến điều này. Các hình thức du lịch m ới chỉ th ực sự thay đổi trong vòng sáu m ươi đến bảy mươi n ăm qua. Người ta thường bị m ất tích, và mặc dù anh không bao giờ chấp nhận ch uy ện đó, anh vẫn hiểu được số ph ận của họ. Ng ười ta thường không cho rằng nh ững vụ mất tích đó có liên quan đến tội phạm hay cảnh sát. "

    "Ý ông là gì?" Sigurdur Óli h ỏi.

    "Cả bài thuy ết trìn h vừa rồi là v ề chu yện gì thế?" Elínborg cũng hỏi.

    "Nếu nh ư ngay từ đầu, những ng ười đàn ông hay phụ nữ này khô ng kh ởi hành từ m ột tran g trại thì sao?"

    "Ông đang mu ốn nói đến điều gì?" Elínborg h ỏi.

    "Nếu như ng ười ta lại khai báo rằng nh ững ng ười này đã đi đến m ột khu đất hoang ho ặc m ột trang trại khác ho ặc đi thả lưới bắt cá ở một cái hồ nào đó và không bao giờ trở về n ữa thì sao? M ột cuộc điều tra sẽ diễn ra, nh ưng ng ười đó thì không bao giờ được tìm th ấy và bị m ất tích mãi mãi."

    "Vậy là tất cả nh ững ng ười trong gia đình có âm mưu giết ng ười này sao?" Sigudur Óli nói, nghi ng ờ về giả thuy ết của Erlendur.

    "T ại sao lại không?"

    "Vậylà anh ta bịđâm ho ặc đánh ho ặc b ắn và bị chô n trong vườn sao?" Elínborg thêm vào.

    "Ch o đến m ột ngày Reykjavík phình ra quá lớn đến nỗi anh ta khô ng th ể yên nghỉ d ưới đó được n ữa," Erlendur nói.

    Sigurdur Óli và Elínborg nhìn nhau rồi lại nhìn qua Erlendur.

    "Benjamín Knudsen có một ng ười vợ chưa cưới bị m ất tích trong hoàn cảnh rất khó hiểu," Erlendur nói. Trong kho ảng thời gian ngôi nhà được xây d ựng. Ng ười ta nói rằng cô ấy tự lao mình ra biển và Benjamín không bao giờ còn như trước nữa. Dường nh ư trước đó ông ta có kế ho ạch làm cách m ạn g cho việc kinh doanh lẻở Reykjavík, nhưng Benjamín đã ho àn to àn suy sụp khi cô gái biến m ất và tham v ọng làm giàu của ông ta tan thành mây khói."

    "Theo nh ư giả thuy ết mới của ông thì cô ấy khô ng h ề biến m ất phải không?" Sigurdur Óli hỏi.

    "Có ch ứ, cô ấy đã biến mất. "

    "Nh ưng ông ta đã giết cô ấy. "

    "T h ực ra tôi thấy chuy ện đó rất khó," Erlendur đáp. "Tôi đã đọc vài bức thư Benjamín viết cho vợ ch ưa cưới và thấy rằn g ông ta kh ông động đến một s ợi tóc của cô ấy. "

    "Vậy thì đó là vì ghen tuông rồi," Elínborg - một độc giả cu ồng nhiệt của các câu chuy ện tình - nh ận xét. "Ông ta giết cô ấy vì lòng ghen tuông. Tình yêu của ông ta dành cho cô ấy có thể là thật. Chôn cô ấy d ưới đó và không bao giờ quay trở lại đó nữa. Th ế là h ết. "

    "T ôi đang nghĩ là," Erlendur nói, "ch ẳng lẽ việc m ột ng ười đàn ông trẻ tuổi suy sụp khi biết ng ười yêu của mình ch ết trên tay mình lại là quá đán g ư? Th ậm chí nếu cô ấy tự tử thì sao? Tôi thấy rằng Benjamín là một ng ười đàn ông đau khổ sau khi cô ấy m ất tích. Có còn gì khác ngoài điều đó n ữa hay không?"

    "Ông ta có thể giữ m ột m ớ tóc của cô ấy lắm ch ứ?" Elínborg phân vân. Erlendur nghĩ cô vẫn còn đang chìm đắm tron g m ớảo tưởng nhão nhoẹt. "Có th ể là trong một kh ung ảnh ho ặc một hộp lồng ảnh ch ẳng hạn," cô nói thêm. "Nếu ông ta yêu cô ấy đến thế."

    "M ột m ớ tóc ư?" Sigudur Óli nh ắc lại.

    "Ông ta thật là tối dạ," Erlendur nói khi đã bắt kịp được dòng suy nghĩ của Elínborg.

    "Ýông là gì, một m ớ tó c ư?" Sigurdur Óli hỏi.

    "Nó sẽ cho biết cô ta là ai, nếu nh ư không còn lại dấu vết nào kh ác. "

    "Ai cơ?" Sigu rd ur Óli nhìn hết ng ười này đến ng ười khác. "Hai ng ười đang nói đến DNA ư?"

    "Còn có một ng ười ph ụ nữ trên đồi nữa," Elín bo rg nói. "Chúng ta ph ải lần ra cô ta."

    "Ng ười ph ụ nữ màu xanh lục," Erlendur trầm ngâm nói, rõ ràng là đang lẩm b ẩm m ột mìn h.

    "Erlendur," Sigudur Óli nói.

    "Sao cơ?"

    "Rõ ràng là cô ấy không th ể có màu xanh được."

    "Sigurdur Óli."

    "Sao ?"

    "Anh nghĩ là tôi là m ột kẻ ngu ngốc lắm à?"

    Điện thoại trên bàn Erlendur vang lên. Ng ười gọi là Skarphédinn, nhà kh ảo cổ.

    "Chúng tôi đang xu ống gần đến nơi rồi," Skarphédinn nói. "Chúng tôi có th ể khai qu ật toàn bộ bộ hài cốt trong vòng hai ngày n ữa ho ặc g ần th ế."

    "Hai ngày cơ à!" Erlendur g ầm lên.

    "Ho ặc gần vậy. Chúng tôi v ẫn ch ưa tìm ra thứ gì có vẻ như m ột vũ khí cả. Ông có thể nghĩ rằng chúng tôi đang làm việc quá tỉ mỉ, nhưng tôi cho là làm việc cẩn thận sẽ tốt hơn. Ông có muốn đến xem không?"

    "Có, tôi đan g trên đường đến đây," Erlendur đáp.

    "Ông có thể mua m ột ít bánh ngọt trên đường đến đây không?" Skarphédinn nói, và Erlendur có th ể tưởng tượng ra cái răng nanh màu vàng của ông ta.

    "Bánh ngọt ư?"

    "Bánh ngọt Đan M ạch ấy," Skarphédinn đáp.

    Erlendur sập mạnh điện thoại, bảo Elín bo rg đi cùng mình đến Grafarhort và cử Sigurdur Óli đến tầng h ầm của Benjamín để cố tìm kiếm điều gì đó về ngôi nhà gỗ - ngôi nhà mà ng ười thương nh ân đã xây nh ưng không còn quan tâm gì đến nó n ữa sau khi cu ộc đời ông rơi vào b ếtắc.

    Trên đường đến Grafahort, Erlendur vẫn còn vẩn vơ ng hĩ đến nh ững ng ười m ất tích và ch ết tro ng nh ững cơn bão tuy ết. Ông nhớ đến câu chuy ện v ề Jón Austman. Ông ta bị ch ết cóng, có lẽ là ở Blö ndu gil năm 1780. Con ngựa của ông ta bị phát hiện với cái cổ họng bị xé to ạc, nh ưng tất cả nh ững gì còn lại của Jón chỉ là một bàn tay.

    Nó được bao bọc trong m ột cái g ăng tay len màu xanh.

    ° ° °

    Bố của Símon là con quái vật xuất hiện tron g tất cả nh ững cơn ác m ộng của nó. Th eo trí nh ớ của nó thì luôn là nh ư v ậy. Th ằng bé sợ con quái v ật hơn m ọi th ứ trên đời, và khi nó tấn công mẹ mình, tất cả những gì mà Símon có thể nghĩ đến là trở thành ng ười b ảo v ệ ẹ. Nó tưởng tượng ra m ột cuộc chiến đấu tất yếu giữa một bên là chàng hiệp sĩ oai dũng và bên kia làmột con rồng khè ra lửa. Giống nh ư trong các câu chuy ện phiêu lưu, chàng hiệp sĩ luôn đánh b ại con quái vật, còn tron g nh ững giấc m ơ của mình, Símon ch ưa bao giờ chiến thắng.

    Con quái vật tro ng giấc mơ của Símon có tên là Grímur. Nó khô ng bao giờ là ng ười Cha thân yêu của thằng bé, chỉ là Grímur mà th ôi.

    Símon tỉnh dậy khi Grímur lần ra ba mẹ con họ trong khu tập th ể của nhà máy chế biến cá ở Siglufjördur, nó nghe th ấy tiếng ông ta thì thào vào tai m ẹ nó v ề việc ông ta sẽ đưa Mikkelína lên núi và giết chị. Nó nhìn thấy nỗi kinh hoàng trong mắt m ẹ, và nó thấy mẹ nó đột nhiên mất tự ch ủ, lao ng ười vào đầu giường và bất tỉnh. Sau đó Grímur bình tĩnh lại. Nó thấy lúc Grímur tát liên tục vào m ặt m ẹ nó để gọi m ẹ tỉnh d ậy. Th ằng bé ng ửi th ấy mùi hôi thối nồng nặc phát ra từ Grímur, nó vùi mặt vào tấm n ệm. Sợ quá, Símon cầu xin Jesus hãy mang nó lên thiên đàng ngay lập tức.

    Símon không nghe thấy Grímur thì thào gì với m ẹ nó n ữa. Chỉ nghe thấy tiếng m ẹ khó c thút thít. Đầy kìm nén, giống nh ư tiếng của m ột con thú bị thương hòa cùng nh ững tiếng rủa x ả của Grímur. Qua khe m ắt, thằng bé thấy Mikkelína nhìn chằm ch ằm vào bóng tối trong n ỗi ho ảng sợ không thốt thành lời.

    Sím on đã thôi cầu xin vị Chúa của mình, thôi không còn nói ch uy ện với "ng ười anh em tốt Jesus" nữa, dù ẹ nó có nói rằng kh ông được đánh mất niềm tin vào Ngài. Tuy không bị mẹ thuy ết phục nhưng Símon cũng đã không còn nói với m ẹ v ề hành động b ất tín của mình. Qua biểu hiện của m ẹ, nó có thể thấy rằng mình đã làm m ẹ ph ật lòng. Nó biết sẽ không có m ột ai, thậm chí là tất cả các vị thần thánh trên đời, có th ể giúp m ẹ nó chống lại được Grímur. Theo nh ư nh ững điều mà nó nghe được, Chúa là đấng sáng tạo quy ền n ăng và toàn trí ở cả thiên đường và mặt đất, Chúa đã tạo ra Grímur cũng giống như tất cả mọi ng ười, Chú a để cho con quái v ật đó sống và hành h ạ mẹ mình, kéo tóc m ẹ lôi quanh sàn bếp và kh ạc nhổ vào mặt m ẹ. Và đôi khi Grímur còn đánh cả Mikkelína, "con què khốn kiếp", h ắn ta gọi nh ư v ậy trong lúc đánh đập và nh ạo báng chị nó. Thỉnh tho ảng hắn đánh cả nó, đá đít ho ặc đấm nó, có lần Rrímur đánh m ạnh qu á đến m ức nó bị b ật một cái răng hàm trên và ch ảy m áu.

    "L ạy ng ười anh em tốt Jesus, ng ười b ạn của trẻ em …"

    Grím u r đã sai lầm khi cho rằng Mikkelína chậm phát triển trí tuệ. Símon có cảm giác rằng chị mình thông minh hơn tất cả mọi ng ười tro ng nhà cộng lại. Nh ưng chịấy ch ẳng bao giờ nói n ửa lời. Th ằng bé ch ắc ch ắn rằng chị mình có th ể nói, nhưng chỉ là khô ng mu ốn nói mà thôi.

    Chắc ch ắn chị nó đã ch ọn cách yên lặng, vì cái cách mà M ikk elín a sợ Grímur cũng giống y nh ư hai anh em nó, có thể còn hơn th ế vì đôi lúc Grímur nói đến chu y ện ném Mikkelína vào đống rác cùng với cái xe đẩy tạm b ợ của chị nó. Dù gì Mik kelína cũng là "kẻ vô dụng" và Grímur đã chán ng ấy việc cứ ph ải nhìn m ột "con què" ăn thức ăn do hắn làm ra mà ch ẳng được tích sự gì, ngoại trừ việc trở thành một gánh nặng. Hắn nói rằng M ikk elín a đã biến họ thành một cái nhà kho nực cười, cả gia đình và cả h ắn nữa, chỉ vì Mikkelína là m ột con què.

    Grímur ch ắc ch ắn Mikkelína có thể nghe thấy nh ững điều này, và hắn đã cười sằng sặc khi thấy vợ hắn cố gắng một cách yếu ớt để át đi nh ững lời ch ửi rủa. Mikkelína ch ẳng nề hà gì việc bị hắn ta quát m ắng hay sỉ nhục, nó chỉ kh ông mu ốn m ẹ phải chịu đựng kh ổ sở vì mình. Símon có thể thấy điều đó khi nhìn chị. Giữa Mikkelína và nó có mối quan hệ rất gắn bó, gắn bó hơn rất nhiều so với Tómas - một đứa khó hiểu và chỉ thui thủi một mình.

    Ng ười m ẹ biết rằng Mikkelína không hề bị ch ậm ph át triển trí tuệ hay thể ch ất. Cô thường xuyên luy ện tập cùng con bé, nh ưng chỉ v ào nh ững lúc Grímur không có nhà. Cô giúp con kh ởi động đôi chân, nh ấc cánh tay cứng ng ắc, quắt queo bị vặn vào phía trong của nó lên và lấy thuốc mỡ mình tự ch ế từ th ảo d ược trên đồi để xoa bóp nửa người bị liệt cho co n. Ng ười m ẹ thậm chí còn cho rằng một ngày nào đó con mình có thểđi lại được. Cô vòng tay con bé quanh người mình và dìu nó đi ch ập ch ững tới lui trên sàn nhà, giục giã n ó, động viên nó.

    Ng ười m ẹ luôn nói chuy ện v ới Mikkelína giống nh ư với một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường khác, cô còn yêu cầu Símon và Tómas cũng ph ải làm nh ư thế. Cô chưa bao giờ loại con bé ra khỏi nh ững công việc mà mấy mẹ con họ cùng làm m ỗi khi Grímur ra ngoài. M ẹ và con gái luôn luôn hiểu lẫn nhau. Và các em của nó cũng hiểu nó như thế, hiểu từng cử chỉ, từng biểu hiện trên khuôn m ặt của nó. Nói chuy ện là việc khô ng cần thiết, thậm chí n ếu Mik k elín a biết v ề ngôn ngữ, con bé cũng không bao giờ sử dụng. Cô đã dạy nó đọc và nó còn ưa thích đọc sách hơn cả việc được đưa ra ngoài sưởi n ắng.

    Và rồi một ngày lời nói của Mikkelína bắt đầu b ật ra, một ngày mùa hè sau khi thế giới lâm vào cảnh chiến tranh và quân đội Anh đến d ựng lều trên đồi, khi ấy Símon đưa Mikkelína vào nhà tránh nắng. Cả ngày hô m đó con bé sôi động khác thường, nó lắc lư cái đầu, há miệng và thè lưỡi ra ngoài. Símon đang ch uẩn bị đặt chị lên chiếc đi- v ăng trong b ếp vì trời đã sắp tối và bắt đầu trở lạnh thì bất thình lình con bé phát ra tiến g nói khiến m ẹ nó giật mình đến nỗi đánh rơi cả cái đĩa vào bồn rửa bát và vỡ tan tành. Quên khu ấy đi nỗi ho ảng sợ của con bé sau sự vụng về đó, cô quay lại và nhìn con không ch ớp m ắt.

    "EMAAEMAAA," Mikkelína nh ắc lại.

    "Mikkelína!" m ẹ th ốt lên đầy kin h ng ạc.

    "EMAAEMAAA," Mikkelína hét lên, lắc đầu qu ầy qu ậy đầy ph ấn khích khi th ấy mình đã làm được.

    Ng ười m ẹ từ từđi lại chỗ con bé nh ư thể không tin nổi vào tai mình, sau đó nhìn con, miệng há hốc, còn Símon dường nh ư thấy m ắt m ẹầng ậng nước.

    "Maammmmaa," Mikkelína nói. Cô bế nó từ tay Símon rồi ch ầm ch ậm và nh ẹ nhàng đặt nó lên giường, xoa xoa vào đầu con bé. Trước đây Símon ch ưa bao giờ thấy mẹ nó khóc, mặc cho Grímur có làm gì với mẹđi ch ăng nữa, m ẹ cũng không bao giờ khóc. M ẹ nó chỉ kêu thét vì đau, gọi người cứu, van xin ông ta dừng tay lại ho ặc là chịu đòn trong câm lặng, nh ưng Símon ch ưa bao giờ th ấy mẹ khóc.

    Nghĩ rằng m ẹ thất vọng, nó vòng tay quanh ng ười m ẹ, nhưng m ẹ lại bảo nó đừng lo lắng. Đây là điều tuyệt vời nh ất mà mẹ từng có trong đời. Th ằng bé ch ắc ch ắn rằng mẹ nó khó c không ph ải chỉ vì sức kh ỏe của Mikkelína mà còn vì nỗ lực của chị nó nữa. Và điều này làm mẹ nó hạnh phúc hơn tất thảy những gì mẹ nó cho phép mình cảm nhận được từ trước đến giờ.

    Đó là chu yện cách đây hai năm, và Mik kelín a đã dần dần bổ sung thêm vào vốn từ vựng của mình, giờđây con bé đã nói được cả câu hoàn chỉnh, m ặt nó giống như một củ cải lớn, thè lưỡi ra và lắc đầu ngu ầy ngu ậy một cách điên cuồn g khiến họ nghĩ rằng cái đầu sẽ rơi ra khỏi cơ thểốm yếu quặt quẹo của con bé mất. Grímur không biết rằng con bé nói được. Mikk elína khôn g bao giờ hé miệng khi có hắn ta ở nhà và người mẹ cũng giấu hắn, bởi vì ch ưa bao giờ cô để hắn m ảy may chú ý gì đến con bé, thậm chí là thành quả tuy ệt vời nh ư thế. M ẹ con họ giả vờ nh ư ch ẳng có chuy ện gì xảy ra hay thay đổi. Có đôi lần Símon nghe thấy mẹ nó nói một cách rất thận trọng với Grímur v ề việc họ ph ải tìm ng ười giúp đỡ Mikk elína. Nói rằng con bé có thể trở nên linh ho ạt và khỏe m ạnh hơn theo thời gian, và nó tỏ ra có năn g khiếu học.Nó có thể đọc và đang học viết bằng bàn tay lành.

    "Nó làmột con què," Grímur đáp. "Đừng bao giờ nghĩ rằng nó có thể làm được gì khác hơn ngo ài một con què. Và đừng bao giờ nhắc đến nó trước m ặt tao n ữa."

    Vậy nên cô thôi khô ng nói n ữa, bởi vì cô tuân theo từng lời nói của h ắn. Nguồn giúp đỡ duy nhất mà Mikkelína nh ận được là từ m ẹ nó, Símon và Tómas khi hai anh em nó bế chị ra ngoài và ch ơi đùa cùng chị.

    Símon tránh bố càng xa càng tốt, nhưng dần d ần hắn ta b ắt nó phải đi cùng mình. Khi Símon lớn lên, thằng bé có vẻ h ữu ích đối với Grímur nên hắn đưa nó lên Reykjavík và b ắt nó khu ân đồ dự trữ về nhà. Chuyến đi lên thành phố mất hai tiếng đồng hồ, họ xuống Grafarvogur, qua cầu ở Ellidaár và đi men theo các quận Sund và Laugarnes. Đôi lúc họđi theo dốc đến Háaleiti và đi qua Sogamýri. Símon đi cách Grímur khoảng bốn n ăm bước, còn hắn thì không bao giờ hé răng nói nửa lời hay để ý gì đến thằng bé cho đến khi tống lên ng ười nó cả đống đồ rồi bắt nó tải về nhà. Quãng đường v ề nhà mất ba ho ặc b ốn tiếng đồng hồ, phụ thuộc vào sức nặng của đống hàng mà Símon phải vác. Đôi lúc Grímur ở lại thành p hố và không v ề đồi tro ng nhiều ng ày liền.

    Khi ch uy ện đó xảy ra, cả nhà họ bừng lên một niềm v ui khôn tả.

    Trên đường đến Reykjavík, Símon phát hiện ra một đặc điểm của Grímur mà nó m ất kh á lâu để cố gắng tìm hiểu màvẫn không hiểu hết. Ở nhà, Grímur cáu kỉnh và hung tợn, hắn gh ét ng ười khác nói chuy ện với mình, khi buộc ph ải nói, h ắn ăn nói tục tĩu và gọi vợ con bằng nh ữn g cái tên thô bỉ. Hắn bắt vợ con phải phục tùng tất cả m ọi nhu cầu của mình và ch ửi m ắng nh ững ai không làm tròn nhiệm vụ. Nh ưng khi tiếp xúc với người ngo ài, con quái vật dường như náu mình sau lớp vỏ và lại trở thành một con ng ười thực thụ. Tro ng chu y ến đi đầu tiên của Símon đến Reykjavík, nó nghĩ rằng Grímur sẽ cư xử giống như v ới mẹ con nó ở nhà, lúc nào cũng cằn nhằn và đấm, thụi. Nórất sợ chuy ện đó, nhưng điều đó không bao giờ x ảy ra. Mà ng ược lại. Đầy bất ngờ, Grímur mu ốn làm v ừa lòng tất cả m ọi ng ười. Hắn ta nói ch uy ện râm ran với ng ười lái buôn, cúi rạp đầu chào kính cẩn với tất cả nh ững ng ười đến cửa hàng. Hắn ta gọi tên họ một cách trịnh trọng, thậm chí còn mỉm cười, bắt tay họ n ữa. Đôi lúc Grímur tình cờ g ặp nh ững ng ười hắn ta quen, h ắn cười lên ha hả ch ứ khô ng ph ải là điệu cười khàn khàn kỳ cục và khô kh ốc thường bật ra khi phỉ báng vợ mình. Khi mọi ng ười chỉ vào Símon, Grímur đưa tay lên đầu thằng bé và nói "Vâng, con trai tôi đấy, lớn tướng rồi." L ần đầu Símon cúi đầu né tránh vì sợ bị đòn, nh ưng Grímur lại đùa cợt v ới ng ười ta v ềđiều đó.

    Símon ph ải m ất rất nhiều thời gian m ới hiểu ra sự hai mặt kỳ cục của Grímur. Nó không thể nh ận ra được v ẻ b ề ngoài lạ lùng của bố nó. Nó kh ông th ể hiểu được tại sao Grímur có thể là một ng ười nh ư th ếở nhà nh ưng khi ra đường hắn lại làmột con ng ười hoàn toàn khác. Símon không thể hiểu được tại sao hắn lại có thể bợ đỡ, khúm núm và cúi đầu lịch sự đến th ế, trong khi đó ở nhà hắn ta giống như một người có quy ền uy tối th ượng, ban ra sự sống và cái ch ết. Khi Símon nói lại chuy ện này với m ẹ, bà chỉ lắc đầu chán n ản và nhắc nh ở thằng bé, y nh ư mọi khi, là ph ải cảnh giác với Grímur, chú ý không được kích động hắn. Không cần biết ai là người làm hắn ta điên lên, Símon, Tómas hay M ikk elín a, hay chu y ện gì xảy ra khi Grímur không ở nhà khiến hắn ta lồng lộn, Grímur luôn luôn đán h đập v ợ mìn h.

    Đôi khi nh ững vụđánh đập xảy ra cách nhau mấy tháng liền, thậm chí là cả năm trời, nh ưng có khi chúng lại diễn ra khá thường xuyên, thậm chí là hàng tu ần. T ần suất giận dữ của hắn cũng biến đổi khôn lường. Có khi là một qu ả đấm b ất thình lình, có khi h ắn rơi vào cơn thịnh n ộ khô ng kiểm soát nổi đến nỗi đánh v ợ gục xu ống sàn và đá cô không th ương tiếc.

    Đè n ặng lên cả gia đình không chỉ là bạo hành về thân th ể. Ngôn ngữ mà hắn ta dùng giống như một cái roi quất vào m ặt.

    Tất cả đều là những lời đả kích thậm tệ nh ắm vào Mikkelína, rằng nó là một con què vô tích sự, rồi ng uy ền rủa Tómas là một thằng chuyên đái d ầm vào ban đêm và ch ửi b ới Símon hành động ch ẳng khác nào một th ằng con hoang lười như hủi. Kể cả nh ững điều m ẹ nó bị buộc ph ải nghe trong khi m ấy anh em nó cố g ắng bịt tai lại để tránh.

    Grímur không thèm đếm xỉa gì đến ch uy ện con cái chứng kiến hắn đán h đập hay sỉ nhục vợ bằng nh ững từ sắc nh ư dao cạo.

    Th ời gian còn lại, hắn gần nh ư khôn g bao giờ chú ý gì đến ch úng, cư xử cứ như thể không còn ai tồn tại ngo ài hắn. Thỉnh tho ảng lắm hắn m ới chơi bài với hai đứa con trai và thậm chí còn để Tómas thắng. Đôi lúc, vào ngày Ch ủ nh ật, cả nhà họ kéo nhau lên Reykjavík và h ắn còn mua kẹo cho chúng n ữa. Rất hiếm khi M ikk elín a được cho đi cùn g, và tro ng nh ững lần nh ư thế, Grímur bố trí nh ờ m ột chiếc xe tải ch ở than đá để khỏi phải b ế con bé từ trên đồi xuống. Trong nh ững chuy ến đi rất hiếm hoi và cách nhau rất xa ấy, Símon có cảm giác bố nó gần như là m ột con ng ười thực sự, gần nh ư là m ột ng ười cha.

    Có vài lần Símon nhìn nh ận bố mình không giống nh ư một kẻ bạo ng ược, ông ta bí ẩn và khó hiểu. Một lần hắn ngồi uống cà ph ê ở bàn ăn trong lúc quan sát Tómas ch ơi trên sàn nhà, hắn xoa xoa bàn tay lên mặt bàn và bảo Símon mang ình m ột cốc cà phê khác khi nó đang chu ẩn bị lẻn ra khỏi bếp. Và khi Símon rót cà phê cho h ắn, h ắn nói:

    "Cứ ng hĩ v ề ch uy ện đó là tao lại ph át điên lên."

    Símon dừng tay lại, hai tay bê lấy bình cà ph ê và đứng bên cạnh b ố.

    "Ph át điên lên được," hắn nói trong lúc tay vẫn xoa xoa trên m ặt b àn.

    Símon chầm ch ậm lùi về đằng sau và đặt cái bình xuống m ặt lò nướng.

    Nhìn Tómas chơi trên sàn, Grímur nói:

    "Tao phát điên lên khi nghĩ rằng mình không thể lớn tuổi hơn thằng đó."

    Símon chưa bao giờ tưởng tượng ra bố nó trông như thế nào nếu trẻ hơn, hay là có gì khác. Giờđây, đột ngột, bố nó trở thành m ột đứa trẻ cũng giống như Tómas, và một khía cạnh hoàn toàn mới mẻ trong tính cách của bố nó được bộc lộ.

    "Mày và Tómas là bạn bè phải không?"

    Símon gật đầu.

    "Ph ải không?" hắn nhắc lại, và Símon nói "Vâng."

    Bố nó vẫn xoa cái bàn.

    "Chúng tao cũng đã từng là bạn."

    Sau đó hắn im lặng.

    "Người phụ nữ đó," cuối cùng Grímur nói. "Tao đã bị gửi đến

    đó. Lúc bằng tuổi Tómas bây giờ. Ởđó rất nhiều n ăm." Hắn lại im lặng.

    "Và ch ồng cô ấy."

    Hắn thôi không xoa mặt bàn n ữa mà xiết chặt tay lại.

    "T h ằng chó đẻ ấy. Thằng chó đẻ khốn kiếp ấy."

    Símon ch ầm ch ậm lùi ra sau. Sau đó bố nó dường nh ưđã lấy lại bình tĩnh.

    "Ngay cả tao cũng không hiểu chuy ện đó," Grímur nói. "Và tao không th ể kiểm so át được n ó."

    Hắn uống hết cà phê, đứng lên, đi vào phòng ng ủ và đóng cửa. Trên đường đi, hắn nh ấc Tómas từ sàn nhà lên và đưa nó đi cùng mình.

    Thời gian trôi đi, Símon cảm thấy có sự th ay đổi ở mẹ nó khi nó dần lớn lên, trưởng thành hơn và cảm thấy có trách nhiệm h ơn. Ch uy ện đó xảy ra khô ng nhanh chó ng giống như khi Grímur đột ngột lột xác và trở thành m ột ng ười bình thường; ngược lại, m ẹ nó đã thay đổi từ từ và ít m ột, tron g khoảng thời gian nhiều năm. Và nó nhận ra ý nghĩa đằng sau sự thay đổi đó, trong nó dấy lên một cảm giác mu ốn phủ nhận tất cả. Cảm giác của nó càng ngày càng rõ rệt rằng sự th ay đổi của m ẹ nó rất ngu y hiểm, không thua kém gì so với Grímur, và ch ắc ch ắn nó phải có trách nhiệm can thiệp trước khi quá mu ộn. Mikk elín a thì quá yếu còn Tómas thì còn quá nhỏ. Một mình nó cũng cóthể giú p được m ẹ.

    Símon khó có thể hiểu được sự thay đổi này, càng không hiểu thay đổi nh ư th ế có nghĩa là gì, nh ưng nó dần dần để ý đến ch uy ện đó nhiều hơn tro ng kho ảng thời gian Mikkelína phát ra được tiếng nói đầu tiên. Sự tiến bộ của Mikk elín a khiến m ẹ nó vui m ừn g khôn xiết. Có đôi lúc trông cô d ường nh ư m ất hẳn vẻ u uẩn thường ngày, cô cười và ôm tất cả các con vào lòng. Thời gian sau đó cô dạy Mikk elína học cách nói và vui sướng trước nh ững tiến triển th ậm chí là nhỏ nhất của con gái.

    Nh ưng ch ẳng bao lâu sau, mẹ nó lại trở về thói qu en như cũ, như thể là sự u uất trước đây rời bỏ cô bây giờ lại qu ay trở lại với cường độ m ạnh hơn rất nhiều lần. Đôi khi cô ngồi bên giường, nhìn ch ằm chằm vào kho ảng không nhiều giờ liền sau khi đã lau chùi từng hạt bụi trong ngôi nh à nhỏ bé của họ. Cô nhìn trừng trừng không ch ớp, hai m ắt lim dim trô ng thật khổ sở, gương m ặt sầu thảm, đầy cô độc. Có lần, sau khi Grímur đấm vào mặt cô xong và lao ra ngoài, Símon thấy mẹ nó cầm con dao thái thịt, lòng bàn tay ng ửa lên và lướt nhẹ lưỡi dao qu anh cổ tay. Khi thấy con nhìn mìn h, cô mỉm cười nhăn nhó và đặt con dao trở lại vào ngăn kéo.

    "M ẹ lấy dao ra làm gì th ế?" Símon hỏi.

    "M ẹ kiểm tra xem nó có sắc khôn g ấy mà. Ông ấy luôn yêu cầu dao phải được mài th ật sắc."

    "Ở thành phố trô ng ông ấy khác h ẳn," Símon nói. "Ông ấy ch ẳng cáu giận chút nào."

    "M ẹ biết."

    "Ởđó ông ta rất vui v ẻ, lại còn cười n ữa m ẹạ."

    "Ừ."

    "T ại sao ở nhà ông ấy lại khôn g như thế nhỉ? Với chúng ta ấy?"

    "M ẹ k hôn g biết. Ông ấy không th ấy thoải mái cũng nên."

    "Co n ước là ông ta khô ng như thế này. Con ước ông ta ch ết đi."

    M ẹ nó nhìn nó.

    "Khô ng được nói thế. Con đừng nói n ăng giống nh ư ông ta. Con kh ông được nghĩ nh ư thế. Con không giống ông ta và sẽ không bao giờ giống h ết. Cả con và Tómas. Không bao giờ. Con nghe rõ ch ưa? Con không được ph ép. "

    Símon nhìn m ẹ.

    "M ẹ kể về bố của chị Mikkelína cho con nghe đi," nó nói. Có đôi lần Símon nghe th ấy mẹ k ể về ng ười đàn ông đó với Mikkelína và nó cố gắng hình dung ra xem m ẹ nó sẽ nh ư thế nào nếu ông ấy khô ng ch ết và để lại m ẹ nó một mình. Nó tưởng tượng mình là con của ng ười đàn ông đó, hình dung ra m ột gia đình mà bố nó không phải là con quái vật, ông ấy là m ột ng ười bạn, một ng ười thân luôn h ết lòng yêu th ương con cáicủa mình.

    "Ông ấy ch ết rồi," m ẹ nó đáp, giọng đầy tiếc nuối. "Và chỉ thế thôi."

    "Nh ưn g ông ấy khác," Símon nói. "M ẹ sẽ sống khác."

    "Nếu như ôn g ấy khô ng ch ết ư? Nếu như Mikkelína không bị ốm ư? Nếu mẹ không gặp bố con ư? Nghĩ như thế thì có ích gì cơ ch ứ?"

    "T ại sao ông ấy lại luôn cáu giận như v ậy hả m ẹ?"

    Th ằng bé cứ hỏi đi hỏi lại điều này. Đôi khi m ẹ nó trả lời, đôi khi m ẹ nó ch ẳng nói câu nào nh ư thể chính cô cũng đã cố tìm ra câu trả lời cho câu hỏi đó tron g nhiều năm ròng mà ch ưa bao giờ giải đáp được. Cô chỉ nhìn chằm ch ằm vào kho ảng không, chìm đắm vào thế giới riêng của mình và tự nói một mình đầy buồn bã và xa vắng, nh ư thể là mình có nói hay làm gì đi ch ăng nữa cũng ch ẳng ích gì.

    "M ẹ kh ông biết. M ẹ chỉ biết rằng chúng ta không có lỗi gì hết. Đó không phải là lỗi của chú ng ta. Mọi chuyện là tại ông ta cả. Lúc đầu m ẹ tự đổ lỗi ình, cố gắng tìm xem mình có làm gì sai trái khiến ông ta tức giận khô ng, và mẹđã cố gắng thay đổi điều đó. Nh ưng m ẹ không bao giờ hiểu được nguyên nhân đó là gì, và m ẹ có làm gì đi ch ăng nữa thì cũng ch ẳng có gì khác cả. M ẹđã không còn tự trách mình nhiều năm rồi và m ẹ không muốn con, Tómas hay Mikkelína nghĩ rằng vì mình mà ông ta cư xử nh ư v ậy. Ngay cả khi ông ta nguy ền rủa hay sỉ nhục các con cũng th ế. Đó không ph ải là lỗi của các con."

    Bà nhìn Símon.

    "Cái thứ sức m ạnh nhỏ bé mà ông ta có trên đời này là cai trị chúng ta, và ông ta không bao giờ có ý định từ bỏ nó. Không bao giờ."

    Símon nhìn vào cái ng ăn kéo đựng dao.

    "Chúng ta không làm được gì sao mẹ?"

    "Khô ng. "

    "M ẹ định lấy dao làm gì th ế?"

    "M ẹ nói với con rồi mà. M ẹ chỉ kiểm tra xem nó sắc đến đâu thôi. Ông ta muốn dao trong nhà ph ải thật s ắc."

    Símon tha thứ cho việc m ẹ nó nói dối, vì nó biết rằng bà đang cố gắng, nh ư bà v ẫn luôn như thế, bảo vệ ông ta, che chở cho ông ta và tìm cách để cho cu ộc sống gia đình khủng khiếp của họ ít ảnh hưởng b ởi ông ta nh ất.

    ° ° °

    Buổi tối hôm đó, khi Grímur về đến nhà, người ngợm đen thui vì bụi than, tinh thần h ắn thoải mái đến kỳ lạ. Hắn kể cho vợđiều gì đó hắn ngh e được ở Reykjavík. Grímur ngồi xuống ghế đẩu, bảo vợ mang cà phê ình và nói rằng ng ười ta nh ắc đến tên cô trong xưởng làm việc của hắn. Hắn kh ông hiểu tại sao, nh ưng nh ững ng ười thợ m ỏ nói rằng cô là m ột trong số nh ững đứa trẻ được sinh ra sau ngày tận th ếở nhà máy sản xu ất khí đốt.

    Cô xoay lưng về phía Grímur và không nói năng gì. Símon đứng cạnh bàn còn Tómas và M ikkelína đã ra ngoài.

    "Ở nhà máy sản xuất khí đốt ư!?"

    Sau đó Grímur cười khù ng khục. Đôi khi hắn ho ra nh ững cục đờm đen kịt vì bụi than, quanh miệng, m ắt và tai, chỗ nào cũng m ột màu tối th ui.

    "Trong một cu ộc vui điên cuồng ở một cái kho ch ứa ga kh ốn kiếp!" h ắn quát lên.

    "Không phải đâu," cô nh ẹ nhàng nói, và Símon rất ng ạc nhiên vì rất ít khi nó thấy m ẹ nó ph ản đối nh ững gì Grímur nói. Nó nhìn m ẹ ch ằm ch ằm, cảm thấy một cơn rùng mình chạy dọc sống lưng.

    "Bọn chúng làm tình và uống say túy lúy suốt đêm vì chúng nghĩ ngày tận thếđã đến, và đó là lý do tại sao mày được sinh ra,

    đồ đĩ ạ."

    "Họ nói dối đấy," cô nói, kiên quyết hơn lúc trước, nhưng vẫn không nhìn lên mà chỉ tập tru ng vào công việc của mìn h ở bồn rửa bát. Lưng cô vẫn xoay v ề phía Grímur, hai bờ vai nhỏ bé nhô lên như th ể cô mu ốn trốn vào giữa chú ng.

    Grímur thôi không cười n ữa.

    "Mày gọi tao là thằng nói láo phải không?"

    "Không," cô nói, "nh ưng chuy ện đó khô ng đú ng. Đó chỉ là ch uy ện hiểu lầm th ôi."

    Grím u r đứng lên.

    "Đó chỉ là chuyện hiểu lầm thôi," h ắn nhại lại lời cô.

    "Em biết thời gian người ta xây cái kho chứa ga mà. Em được sinh ra trước đó."

    "Tao lại không nghe thấy thế. Tao nghe nói là mẹ mày là một con điếm còn bố mày là m ột gã lang thang, bọn chúng đã vứt mày vào thùng rác sau khi đẻ ra mày."

    Lúc đó ngăn kéo đang mở, cô nhìn ch ằm ch ằm xuống đó và Símon thấy mẹ nó liếc nhìn con dao thái thịt to b ản. Cô nhìn Símon rồi lại nhìn xuống con dao, và đó là lần đầu tiên nó tin rằng m ẹ nó có kh ả năng sử dụng con dao đó.

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12
    Những câu hỏi bất ngờ

    Sk arph édinn đã cho dựng m ột cái lều lớn màu trắng trên khu vực kh ai qu ật và khi Erlendur b ước vào trong để tránh ánh n ắng m ặt trời m ùa xu ân, ông đã được tận mắt ch ứng kiến sự tiến triển ch ậm ch ạp đến khó tin của họ. Ch ỗ móng nhà, họđã cắt ra một khu vực rộng m ười mét vuô ng và bộ x ương chìm vào một rìa của đống đất đó. Cánh tay v ẫn chĩa lên trên nh ư trước, hai ng ười đàn ông đang quỳ xu ống, tay cầm bàn ch ải và thìa, cào cào ch ỗ đất bẩn và quét nó vào nh ững cái đĩa.

    "Làm thế này không phải là mất công lắm sao?" Erlendur hỏi khi thấy Skarphédinn lại chỗ mìn h để chào. "Các ông mà cứ làm thế này thì chẳng bao giờ xong được."

    "Các ông không bao giờ cẩn thận trong một cuộc khai quật cả," Skarphédinn vẫn nói đầy ngạo mạn. Ông ta tự hào vì phương pháp của mình đang mang lại kết quả. "Và các ông, tất cả m ọi ng ười, ph ải chú ý đến điều đó," ông ta nói thêm.

    "Các ông không ph ải là đang thực tập đấy chứ?"

    "Thực tập ư?"

    "Môn khảo cổ học ấy? Đây không phải là lớp ông dạy ở đại học sao?"

    "Nghe này, Erlendur. Chúng tôi đang làm việc có ph ương pháp. Không còn cách nào khác cả. Tin tôi đi. "

    "Phải, có thể không cần phải vội vã," Erlendur đáp.

    "Cuối cùng rồi ch úng tôi cũng sẽ đến nơi thôi," Skarphédinn nói, liếm lưỡi vào chỗ răng nanh.

    "Ng ười ta nói với tôi rằng ông bác sĩđan g ở Tây Ban Nha," Erlendur nói. "Ông ấy sẽ khôn g trở v ề tro ng vài ngày nữa. Nên chúng ta có nhiều th ời gian, tôi ng hĩ v ậy. "

    "Ai có th ể n ằm ở d ưới đó ch ứ?" Elínborg hỏi.

    "Chú ng tôi không thể xác định được đó là đàn ông hay đàn bà, m ột người trẻ hay một người già," Skarphédinn đáp. "Và có lẽđó không phải là việc của chúng tôi. Nh ưng tôi cho rằng khôn g còn nghi ng ờ gì nữa, đây là một vụ giết ng ười."

    "Đó có thể là m ột ng ười phụ n ữ trẻđang mang thai không?" Erlendur hỏi.

    "Chúng tôi sẽ giải quy ết ch uy ện đó sớm thôi." Skarphédinn nói.

    "Sớm ư?" Erlendur hỏi. "Không thể được nếu tiến độ của chúng ta cứ ch ậm mãi th ế này. "

    "Kiên nhẫn làmột đức hạnh," Skarphédinn nói. Hãy nh ớđiều đó."

    Nếu Elínborg không xen vào thì Erlendur đã nói cho ôn g ta biết phải cắm cái đức h ạnh của mình vào đâu.

    "Vụ giết ng ười khô ng nhất thiết là ph ải liên qu an đến chỗ này," cô đột ngột nói. Cô đã đồng ý với phần đa nh ững điều mà Sigurdur Óli nói ngày hôm qua khi anh ta chỉ trích Erlendur vì đã quá mải mê với linh cảm đầu tiên của mình v ề nh ững m ẩu xương: rằng cái người n ằm d ưới đó đã từng sống trên đồi, thậm chí là ở một trong số nh ững ngôi nhà gỗđó. Theo ý kiến của Sigurdur Óli, thật là ngu ngốc nếu họ chỉ tập trung v ào một ngôi nhà từng ởđó và vào nh ững ng ười từng sống ởđó. Trong lúc Erlendur đến bệnh viện thì Sigurdur Óli thao thao trình bày bài thuy ết giáo của mình, nh ưng Elínborg vẫn quyết định nghe theo cái nhìn của Erlendur v ề v ấn đề này.

    "Ng ười này có thể bị giết ở... xem nào, ở phía Tây thành phố và được mang đến đây," cô nói. "Chúng ta không th ể ch ắc ch ắn được là vụ giết người diễn ra trên đồi. Tôi đã thảo luận vấn đề này với Sigurdur Óli ngày hôm qua."

    Erlendur lục lọi trong túi áo khoác của mình cho đến k hi tìm thấy cái b ật lửa và bao thu ốc. Skarphédinn nhìn ông với ánh mắt khin h khỉnh.

    "Ông không được hút thuốc trong lều," ông ta gầm g ừ.

    "Chúng ta ra ngoài," Erlendur nói với Elínborg. "Chúng ta không nên làm cho đức h ạnh mất đi sự kiên nh ẫn v ốn có của nó."

    Họ ra khỏi lều và Erlendur châm thuốc.

    "T ất nhiên là hai ng ười đúng," ông nói. "Không có gì đảm bảo chắc ch ắn là vụ giết người, nếu đó đúng là m ột vụ giết ng ười thật, xảy ra ởđây. Theo quan sát của tôi," ông nói tiếp sau khi thở ra m ột h ơi khói đặc, "chúng ta có ba giả thuy ết h ợp lý như nh au. Thứ nh ất, ng ười đó là vợ ch ưa cưới của Benjamín Kn uds en, cô ta có thai, biến m ất, và tất cả m ọi người đều nghĩ rằng cô ta đã lao ra biển. Vì một số lí do nào đó, có thể là vì ghen tuôn g như cô nói, ông ta giết vợ ch ưa cưới của mình rồi giấu xác ở ngôi nhà này, rồi sau đó trở thành một con ng ười hoàn toàn khác trước. Th ứ h ai, có người nào đó đã bị giết ở Reykjavík, thậm chí là ở Keflavík, Akranes hay bất cứđâu quanh thành phố, sau đó bị mang xác đến chô n ởđây rồi bị lãng quên. Th ứ ba, có kh ả năng những ng ười sống trên đồi này đã ph ạm tội giết ng ười, họ chôn xác chết ở ng ưỡng cửa nhà mình vì họ không còn nơi nào khác để chôn nữa. Đó có th ể là m ột ng ười đi du lịch, m ột vị khách, ho ặc m ột tro ng số những người Anh đã đến đây trong chiến tranh và d ựng trại ở phía bên kia qu ả đồi, cũng có thể là m ột tron g số nh ững người Mỹ tiếp qu ản vùng này từ người An h, ho ặc có th ể là một thành viên trong gia đình." Erlendur ném cái đầu lọc xu ống gần chân và d ập tắt nó. "Cá nhân tôi, không hiểu tại sao, lại nghiêng về giả thuy ết cuối cùng hơn cả. Giả thu yết về ng ười vợ ch ưa cưới của Benjam ín có vẻ d ễ d àng nh ất, nếu ch úng ta có th ể so sánh m ẫu DNA của cô ấy với bộ x ương. Giả thu yết thứ ba có vẻ k hó nh ằn nh ất, vì chúng ta đang nói đến một ng ười bị m ất tích, cứ cho là vụ m ất tích đó đã được trìn h b áo, ở m ột khu vực rộng lớn, đô ng dân cư, cách đây quá lâu rồi. Ph ương án đó rất rộng."

    "Nếu chúng ta tìm ra được một phôi thai cùng với b ộ xương, khô ng ph ải là chúng ta gần nh ưđã có câu trả lời ư?" Elínborg nói.

    "Đó sẽ là giải pháp gọn gàng nhất, như tôi đã nói. Việc phụ nữ mang b ầu có được lưu trong hồ sơ không?" Erlendur h ỏi.

    "Ý ông là sao?"

    "Chúng ta có th ểbiết đích xác chuy ện đó không?"

    "Ý ông là Benjamín có thểđã nói dối ư? Và cô ta không phải là đã mang thai ư?"

    "Tôi không biết. Cô ấy có thể m an g thai thật, nh ưng khô ng nh ất thiết là b ởi ông ta."

    "Cô ta lừa d ối ông ấy sao?"

    "Chúng ta cứ tha hồ m à suy đoán cho đến khi m ấy ông kh ảo cổ cung cấp cho chúng ta m ột vài thông tin nào đó."

    "Chuyện gì có th ể xảy ra với người đó nhỉ?" Elínborg th ở dài, băn kho ăn về bộ xương đang nằm dưới đất.

    "Có thể là họ đáng bị như thế," Erlendur đáp.

    "Sao cơ?"

    "Người đó ấy. Dù sao chăng nữa thì cũng cứ hy vọng là như th ế. Hãy cứ hy vọng rằng người đó không phải là vô tội. "

    Suy nghĩ của ông hướng về Eva Lind. Con bé có đáng phải n ằm như thế ở khu chăm sóc đặc biệt, thừa sống thiếu chết như th ế không? Đó có phải là lỗi của mình không? Có ai phải chịu trách nhiệm ngoài con bé không? Có phải việc nó rơi vào hoàn cảnh này là do tất cả nh ững gì nó gây ra không? Chuy ện nó nghiện ma túy có phải là việc riêng của nó không? Hay là chính bản thân ông cũng có ph ần trong đó? Con bé kh ẳng định là ông có lỗi, nó đã nó i v ới ông nh ư th ế khi cảm th ấy ông không công b ằng v ới mình.

    "Đáng lý ra bố không bao giờ nên rời bỏ chúng con," có lần nó đã quát vào mặt ông nh ư thế. "Được thôi, bố khin h thường con. Nh ưng ngay cả bố cũng ch ẳng tốt đẹp hơn con đâu. Bố cũng chỉ là một k ẻ đồi b ại ch ết tiệt!"

    "Bố khô ng khin h thường co n," ông nói, nhưng con bé thậm chí còn ch ẳng thèm nghe ông nói.

    "Bố nhìn con nh ư m ột đống phân vậy," nó quát lên, "Nh ư thể là bố quan trọng hơn con v ậy. Nh ư kiểu bố giỏi gian g, tốt đẹp hơn v ậy. Nh ư kiểu bố tốt đẹp hơn con, m ẹ và Sindri v ậy. Bỏ ba m ẹ con con nh ư thể bố là một kẻ xu ất chú ng lắm, rồi lờ tịt ch úng co n đi. Giống nh ư là, giống nh ư bố là m ột lão Th ượng đế khốn kiếp."

    "Bố đã cố g ắng…"

    "Bố chẳng cố gắng cái quái gì cả! Bố cố gắng làm gì mới được chứ? Chẳng có gì cả. Mẹ kiếp. Lủi đi như một lẻ lén lút vậy."

    "Bố chưa bao giờ khinh thường con," ông nói. "Không phải thế đâu. Bố không hiểu tại sao con lại nói thế."

    "Ồ vâng, bố có đấy. Thế nên bố m ới bỏđi. Bởi vì chúng con quá tầm th ường. Tầm th ường đến m ức tệ hại, khiến bố kh ông thể chịu đựng được. Hỏi mẹ mà xem! Bà ấy biết đấy. Bà ấy nói rằng tất cả là do lỗi của bố. Tất cả. Lỗi của bố. Ngay cả hoàn cảnh của con lúc này cũng th ế. Bố nghĩ thế nào về chu y ện đó, thưa ngài Th ượng đế khốn n ạn?"

    "Không phải tất cả nh ững điều mẹ con nói đều đúng. Bà ấy tức giận và cay nghiệt và…"

    "T ức giận và cay nghiệt! Giá màbố biết được bà ấy tức giận, cay nghiệt, ghét cay ghét đắng bố và con cái bà ấy đến mức nào, bởi vì việc bố b ỏđi khôn g ph ải là lỗi của bà ấy. Bởi vì bà ấy là Đức mẹ đồng trinh Mary khốn kiếp. Đó là lỗi CỦA CHÚNG CON. Sindri và con. Bố khô ng hiểu đâu, lão già ngu ng ốc kh ốn kiếp ạ. Bố khô ng th ể hiểu được đâu, lão già ngu ngốc kh ốn kiếp ạ…"

    "E rlendur?"

    "Gì thế?"

    "Ông không sao chứ?"

    "Ổn mà. Tôi rất ổn là đằng khác."

    "Tôi sẽ ghé qua nhà con gái Róbert một ch út." Elínbo rg huơ huơ tay trước mặt ông nh ư thể ông đang bị thôi miên. "Ông ch uẩn bị đến Đại sứ quán Anh h ả?"

    "Sao cơ?" Erlendur quay trở về thực tại. "Được, cứ làm như thếđi," ông nói m ơ hồ. "Cứ làm nh ư thếđi. Và còn điều này nữa, Elínb org."

    "Sao cơ?"

    "Gọi nhân viên y tế quận đến đây để kiểm tra về nh ững khúc xươn g khi chú ng đã được đào hết lên. Skarphédinn dốt đặc cán mai. Càng lúc ông ta càng nh ắc cho tôi nh ớ đến một kẻ quái dị trong câu chuy ện của anh em nhà Grimm 1."

    1 Anh em nhà Grimm - Jacob Ludwing Karl Grimm và Wilhelm Karl Grimm - là những nhà ngôn ngữ học và nghiên cứuvănhọc dân gian người Đức, họ được biết đến nhiều nhấtvới việc xuấtbản các bộ sưutập truyện dân gian và truyệncổ tích, trong đó có nhiều truyệnnổ i tiếng thế giớ i như Nàng Bạch Tuyết, CôbéLọ Lem, Hansel và Gretel,...

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13
    Cuộc truy tìm

    Trước khi Erlend ur đến Đại sứ quán Anh, ông lái xe đến qu ận Vogar và đỗ cách căn hộ dưới tầng hầm mà Eva Lind từng sống ởđó m ột đoạn ngắn. Ông nhớ lại đứa bé mà ông tìm thấy ở căn hộ với những vết bỏn g do thuốc lá gây ra trên ng ười. Ông biết rằng đứa bé đã được m ang đi xa khỏi mẹ nó và được ch ăm sóc tử tế, và ông cũng biết rằng ng ười đàn ông sống cùng cô ta là bố đứa trẻ. Một cuộc điều tra nhanh đã hé lộ rằng n ăm ng oái ng ười m ẹđã hai lần đến bệnh viện Tai Nạn và Cấp cứu, một lần bị gẫy tay và lần khác bị thương toàn thân mà cô ta nói rằng do bị tai n ạn trên đường.

    Một cuộc kiểm tra đơn giản cũng đã chỉ ra rằng chồng cô ta đã có tên tron g sổ cảnh sát, m ặc dù khô ng phải là vì bạo lực. Hắn ta đang ch ờ án tù vì tội trộm cướp và buôn ma túy. Có lần hắn ta đã phải ngồi tù do nhiều tội nhỏ góp lại. M ột tro ng sốđó là ăn cắp trong các cửa hàng.

    Erlendur ngồi trong xe một lúc lâu để theo dõi cửa ra vào của ngôi nhà. Ôn g cố nhịn khô ng hút thu ốc và đang chu ẩn bị lái xe đi thì cánh cửa m ở ra. Một gã đàn ông bước ra, khói thuốc lá mờ mịt, hắn ta bú ng điếu thu ốc vào khu vườn phía trước. Hắn cao tầm thước, dáng người đô co n, tóc đen, dài, m ặc đồ đen từ đầu đến chân. Hình dáng hắn giống h ệt như mô tả trong hồ sơ của cảnh sát. Khi h ắn đã biến mất ở gó c đường, Erlendur lặng lẽ lái xe đi.

    Con gái Róbert đón Elínborg ở cửa ra vào. Elínborg đã gọi điện từ trước. Ng ười ph ụ nữđó tên là Harpa, bà ta ngồi cố định trên chiếc xe đẩy, đôi chân teo tóp và khô héo, nh ưng th ân mình và hai tay v ẫn còn khỏe m ạnh.

    Elínborg có đôi chút ng ỡ ngàng nhưng cô không nói gì. Harpa mỉm cười vàmời cô vào nhà. Bà để cửa m ở, Elínborg theo sau và đóng cửa lại. Ngôi nhà nhỏ nh ưng ấm áp, được xây phù h ợp với điều kiện của ch ủ nh ân.

    "Tôi rất tiếc về chu y ện của bố bà, " Elín bo rg nói tron g lúc đi theo bà vào phòng khách.

    "Cảm ơn cô," ng ười phụ n ữ ngồi trên xe lăn đáp. "Ông ấy đã già lắm rồi. Tôi mong là mình không thọ đến th ế. Tôi khô ng ghét điều gì bằng việc cu ối đời trở thành một bệnh nhân trong bệnh viện, ch ờ mòn mỏi để được ra đi. Ch ết d ần ch ết mòn trong đó."

    "Chúng tôi đang điều tra về những người từng sốn g trong ngôi nhà gỗở Grafarholt, bên mạn Bắc," Elínborg nói. "Không cách xa nhà bà lắm. Trong thời chiến ho ặc khoảng th ời gian đó. Chún g tôi đã nói chuy ện v ới bố bà ngay trước khi ông ấy m ất và ông ấy có nói rằng ông biết một gia đình sống ởđó, nh ưng đáng tiếc là ông ấy kh ông th ể nói thêm được gì n ữa. "

    Elínborg nhớ lại cái m ặt nạ trên m ặt Rób ert, sự hụt hơi và đôi

    tay xanh xao của ôn g ta.

    "Cô nói rằng các cô đã tìm thấy m ột vài khúc x ương," Harpa nói tron g lúc vu ốt m ấy sợi tóc lòa xòa trước trán. "Chươn g trình thời s ự có đưa tin. "

    "Ph ải, chúng tôi phát hiện ra một bộ xương ởđó và đang cố gắng điều tra xem ng ười đó là ai. Bà có nh ớ gia đình mà bố bà nh ắc đến không?"

    "Hồi chiến tranh lan đến Iceland, tôi mới có b ảy tuổi, " Harpa nói. "Tôi nh ớ nh ững ng ười lín h ở Reykjavík. Chúng tôi sống trong n ội thành, nh ưng tô i không biết tất cả ch uy ện đó là gì. Họ cũng ở trên đồi, phía Nam ấy. Họ cho d ựng doanh trại và boong- ke. Trên boong- ke có m ột khe hở dài, nòng của một kh ẩu đại bác ch ĩa ra ởđó. T ất cả nh ững điều đó rất ấn tượng. Bố mẹ bảo anh em tôi không được đến g ần chỗđó. Tôi nhớ mang máng là có hàng rào bao quanh đó. Dây thép gai thì ph ải. Chúng tôi không đi b ằng đường đó nhiều lắm. Ph ần lớn th ời gian chúng tôi ở trong ngôi nhà bố xây, ch ủ yếu là vào mùa hè, và d ĩ nhiên là chúng tôi biết rất ít v ề hàng xóm xung qu an h."

    "Bố bà nói rằng trong ngôi nhà đó có ba đứa trẻ. Có th ể họ ngang tầm tuổi bà." Elínborg liếc nhìn xuống cái xe đẩy của Harpa. "Có th ể b à kh ông đi lại nhiều."

    "Ồ, ch ắc ch ắn rồi," Harpa nói, gõ gõ khớp ngón tay vào chiếc xe đẩy. "Về sau chuyện này m ới x ảy ra. Hồi ba m ươi tuổi tôi bị tai nạn xe hơi. Tôi khô ng nhớ có đứa trẻ nào trên đồi cả. Tôi nhớ nh ững đứa kh ác ở những ngôi nhà khác, nh ưng không nh ớ đứa nào trên đó. "

    "Có m ấy bụi cây lý chua gần chỗ ngôi nhà cũ nơi chú ng tôi phát hiện ra b ộ xương. Bố bà có nói đến một cô gái th ường đến đó, sau n ày, tôi nghĩ vậy. Cô ấy đến đó rất nhiều lần … Tôi nghĩ rằng ông ấy nói th ế… có thể m ặc đồ màu xanh lục và cô ấy bị méo mó."

    "Bị méo mó ư?"

    "Ông ấy đã nói vậy, ho ặc đúng ra là viết v ậy."

    Elínborg lấy ratờ giấy mà Róbert đã viết và đưa nó cho Harp a.

    "Hình nh ưđây là th ời gian mà bà v ẫn còn sở h ữu ngôi nhà đó," Elínborg nói. "Tôi biết là bà đã bán nó sau n ăm 19 70."

    "1972," Harpa nói.

    "Bà có để ý thấy ng ười ph ụ n ữ này không?"

    "Không, và tôi ch ưa bao giờ nghe thấy bố tôi nói về cô ấy. Tôi rất tiếc vì không giúp được gì cho cô, nh ưng tôi chưa bao giờ nhìn th ấy cô ấy và không biết gì về cô ấy cả, mặc dù tôi có nhớ nh ững ng ười sống ở n ơi mà cô nói đến."

    "Bà có hiểu ý của b ố bà khi ông ấy nói là ‘bị méo mó’ không?"

    "Đú ng như ý nghĩa của nó thôi. Ông ấy luôn nói nh ững gì mình nghĩ, chẳng có gì khác cả. Ông ấy là một người rất kỹ tính. M ột người đàn ông tốt. Tốt với tôi. Nhất là sau vụ tai nạn xảy đến với tôi. Và khi chồng tôi bỏ rơi tôi - ông ta chịu đựng chuyện đó kho ảng ba năm sau vụ tai nạn, rồi ông ta ra đi."

    Elínborg nghĩ rằng mình đã thấy một nụ cười, nh ưng chẳng có n ụ cười nào hiện lên trên mặt bà ta cả.

    Nhân viên Đại sứ quán Anh chào đón Erlendur với phép lịch sự và sự đứng đắn chu ẩn mực đến m ức ông g ần như ph ải cúi đầu cảm ơn ông ta. Ng ười này nói rằn g mình là thư ký. Ông ta m ặc m ột bộ vest đẹp hoàn hảo, đi giày da đen kêu kin kít, thân hình gầy và cao kỳ lạ, nói tiếng Iceland chuẩn kh ông ch ê vào đâu được làm Erlendur rất thích vì ông nói và nghe tiếng Anh rất kém. Ông thở phào nh ẹ nhõm khi nhận ra rằng n ếu có ai đó cảm thấy một chút gì khô ng thoải mái trong cuộc trò ch uy ện của họ thì ng ười đó là viên thư ký.

    Văn phòng làm việc cũng đẹp hoàn h ảo nh ư chính ng ười th ư ký v ậy, nó khiến Erlendur ngh ĩ đến nơi làm việc của chính mình, lúc nào trông nó cũng nh ư v ừa bịđánh bom. Viên thư ký - "Hãy cứ g ọi tôi là Jim," ông ta nói - m ời ông ngồi.

    "Tôi rất thích tác phong tho ải mái của ng ười Iceland các ông," Jim nói.

    "Ông ởđây đã lâu ch ưa?" Erlendur hỏi, không hiểu sao mình lại cư x ử giống nh ư một bà già ở m ột tiệc trà.

    "Vâng, gần được hai m ươi năm rồi," Jim gật đầu. "Cảm ơn ông đã hỏi th ăm. Và khi Thế chiến thứ hai nổ ra, nó là mối qu an tâm đặc biệt của tôi. Ý tôi là Th ế chiến thứ hai ở Iceland ấy. Tôi đã b ảo vệ lu ận án Th ạc sĩ về ch ủ đề này ở Trường Kinh tế h ọc London. Khi ông gọi điện hỏi về nh ững doanh trại ởđó, tôi ngh ĩ là m ình có th ể giúp được ph ần nào."

    "Ông nói tiếng Iceland rất sõi đấy!"

    "Cảm ơn ông, vợ tôi là ng ười Iceland."

    "Vậy nh ững doanh trại đó là th ế nào?" Erlendur hỏi, đi thẳng vào ch ủ đề chính.

    "Vâng, tôi không có nhiều thời gian, nhưng tôi đã tìm được m ột số báo cáo của Đại sứ quán về những doanh trại ch úng tôi cho dựng trong chiến tranh. Chúng ta có th ể sẽ cần đến nhiều thông tin hơn. Ông có thể quy ết định điều đó. Có hai doanh trại ở ch ỗ mà hiện nay là sân golf Grafahort."

    Jim lấy ra một số giấy tờ trên bàn và đọc lướt qu a chú ng.

    "Ở đó còn có, không biết các ông gọi là gì, một cái công sự. Hay là một boong- ke? M ột cái tháp. Một kh ẩu đại bác khổng lồ. M ột trung đội từ Tiểu đo àn 12 ở Tyneside Scotland giữ vị trí ở kh ẩu đại bác, nhưng tôi vẫn ch ưa tìm ra ai sống trong các doanh trại cả. Tôi nghĩ rằng đó là một kho quân sự. Tôi không biết tại sao nó lại được đặt trên đồi, nh ưng có các doanh trại và boong- ke kh ắp nơi trên đó, trên đường đến Mosfellsdalur, ở Khôngllafjö rd ur và Hvalfjördur."

    "Chúng tôi đang băn khoăn về một người bị mất tích trên đồi, như tôi đã trao đổi với ông qua điện thoại. Ông có biết liệu có người lính nào bị mất tích hay bị trình báo là mất tích không?"

    "Ông cho rằng bộ xương mà các ông tìm thấy có thể là một ng ười lính Anh sao?"

    "Có th ể khô ng ph ải nh ư v ậy, nh ưng chúng tôi cho rằng bộ xương bị ch ôn ởđó tro ng thời kỳ chiến tranh và nếu nh ư ng ười Anh từng ở khu vực đó thì rất có kh ả năng đó làmột tro ng số họ."

    "Tôi sẽ kiểm tra điều đó giúp ông, nhưn g tôi không biết họ giữ những tài liệu đó bao lâu. Tôi nghĩ rằng người Mỹđã tiếp quản doanh trại cũng nh ư tất cả nh ững thứ khác sau khi chúng tôi để lại năm 1941. Phần lớn quân đội của chú ng tôi được đưa sang các nước khác, nhưng không ph ải là tất cả."

    "Vậy là người M ỹđã cai qu ản doanh trại đó?"

    "Tôi sẽ xem lại chuy ện đó. Tôi có thể trao đổi với tòa đại sứ M ỹ và xem h ọ nói gì. Điều đó sẽ đỡ phiền cho ông h ơn."

    "Các ông từng có quân cảnh ởđây."

    "Chính xác. Đó có thể là điểm khởi đầu thuận lợi nhất. Chuyện này sẽ mất vài ngày đấy. Có thể là hàng tuần."

    "Chúng tôi có nhiều thời gian mà," Erlendur nói và nghĩ đến Sk arp hédinn.

    Lục lọi tro ng đống tài sản của Benjamín, Sigurdur Óli chán phát ngấy lên được. Elsa chào anh ta khi m ở cửa, chỉ đường cho anh ta đến tầng hầm và để anh ta ởđó, rồi anh ta m ất bốn tiếng đồng hồ m ở tất cả các tủ ly, ng ăn kéo và vô số hộp mà không biết đích xác là mình đang tìm cái gì. Bergthóra choán hết tâm trí của anh. Anh băn khoăn khôn g biết cô có còn cuồng dâm khi anh trở về nhà giống nh ư m ấy tuần gần đây không. Anh đã quyết định sẽ hỏi thẳng cô xem liệu có lý do đặc biệt nào giải thích cho sự ham muốn anh đột ng ột của cô không, và liệu có ph ải tất cả chỉ vì cô muốn có con khô ng. Nh ưng câu hỏi đó, anh biết, có nghĩa là sẽ dẫn đến m ột vấn đề khác mà đôi lần họđã nói chuyện nh ưng ch ẳng đi đến đâu: đã đến lúc họ tổ ch ức một đám cưới với đầy đủ nghi lễ và nh ững thủ tục thích h ợp ch ưa?

    Câu hỏi đó cháy bỏng trên môi cô giữa những nụ hôn nồng nàn cô ph ủ lên anh. Anh vẫn còn su y nghĩ v ề vấn đề đó v à luôn luôn né tránh trả lời. Suy nghĩ của anh như sau: họđang sống cùng nhau rất tốt, tình yêu của họđang nảy nở, tại sao lại phải phá hủy nó b ằng việc kết hôn? T ất cả đều nhặng xị. Một bữa tiệc toàn đàn ông trước khi cưới. Đi trên lối đi ở giáo đường. Tất cả khách khứa. Nh ững chiếc bao cao su bơm ph ồng trong bộ váy cô dâu. Th ật là lỗi thời khôn g thể tả. Bergthóra không muốn có một đám cưới thôn g thường v ớ vẩn. Cô ấy nói về pháo hoa và nh ững kỷ niệm đẹp để sưởi ấm tuổi già. Sigurdur Óli lầm b ầm, nghĩ rằng bây giờ vẫn còn quá sớm để ng hĩ đến chuy ện cưới xin. Vậy là v ấn đề vẫn cứ bế tắc, rõ ràng là Sigurdur Óli phải tự quy ết định ch uy ện đó và anh khô ng biết mình cần gì, ngoại trừ việc không có đám cưới trong nhà th ờ và không làm tổn th ương Bergthóra.

    Cũng như Erlendur, khi đọc được những bức thư của Benjamín, anh cảm nhận được tình yêu và sự m ến m ộ ch ân thành của ông dành cho cô gái mà bỗng dưng một ngày biến mất trên đường phố Reykjavík và bị cho là đã rơi xuống biển. "Tình yêu của anh. Em th ương yêu. Anh nhớ em qu á."

    Tất cả tình y êu đó, Sigurdur Óli nghĩ.

    Nó cókh ả n ăng giết ng ười kh ông ?

    Có cả núi giấy tờ liên quan đến của hàng của Knudsen, và khi Sigurdur Óli đã m ất hết m ọi hy vọng tìm ra thứ gì đó kh ả quan thì anh lôi ra được m ột tờ giấy từ ng ăn kéo ch ứa tài liệu. Trên tờ giấy có g hi:

    Höskuldur Thórarinsson.

    Đã trả trước tiền thuê nhà ở Grafaholt.

    8 kró nur1 .

    Benjamín Knudsen đã ký.

    E rlendur đang trên đường rời đại sứ qu án thì điện tho ại kêu.

    "Tôi tìm th ấy một ng ười thuê," Sigurdur Óli nói. "Tôi nghĩ vậy."

    "Thuê cái gì cơ?" Erlendur h ỏi.

    "Thuê ngôi nhà gỗ. Tôi đang ra khỏi tầng hầm của Benjamín. Chưa bao giờ tôi thấy một cái đống lổn ngổn kinh khủng như thế tron g đời. Tôi tìm thấy m ột tờ giấy ám chỉ rằng một ng ười nào đó tên là Höskuldur Thórarinsson đã trả tiền thuê nhà ở Grafarh ort."

    "Höskuld ur ư?"

    "Ph ải. Thórarinsson."

    "Ngày tháng ghi trên tờ giấy là gì?"

    "Không có ngày tháng gì cả. Th ực ra nó chỉ là m ột hóa đơn của cửa hàng của Knudsen. Hóa đơn thu ê được viết ở đằng sau. Và tôi còn tìm th ấy nh ững hóa đơn có thể là về vật liệu xây d ựng ngôi nhà nữa. Tất cả đều tính phí cho cửa hàng và những hóa đơn có ghi năm 19 38. Có th ể ông ta bắt đầu x ây ngôi nh à trong kho ảng thời gian đó hoặc là đang xây dở n ó."

    1 Đơ nvị tiềntệ của Iceland.

    "Vợ chưa cưới của ông ta mất tích khi nào nhỉ?"

    "Ch ờ một chút, tôi đã ghi lại rồi." Erlendur ch ờ trong lúc Sigurdur Óli kiểm tra lại. Anh ta ghi chép lại nội dung các cu ộc họp - một công việc mà ch ưa bao giờ Erlendur biến nó trở th ành m ột thói quen.

    Ông có th ể nghe th ấy tiếng Sigudur Óli lướt qua các trang giấy và quay trở lại chiếc điện thoại.

    "Bà ta biến mất năm 1940. Vào mùa xuân."

    "Vậy là Benjámin xây nhà đến khoảng thời gian đó, sau đó

    dừng lại và cho thuê."

    "Và Höskuldur là một trong số những người thuê nhà."

    "Anh có tìm được gì về nhân v ật Höskuldur này không?"

    "Chưa, vẫn chưa. Chúng ta bắt đầu với người này chứ?"

    Sigurdur Óli h ỏi, hy vọng được thoát khỏi tầng h ầm.

    "Tôi sẽ điều tra về ông ta," Erlendur nói, và Sigudur Óli chán nản khi ông nói thêm: "Kiểm tra xem anh có tìm thêm được gì về ông ta hay b ất kỳ ai trong đống rác ấy không. Nếu có một giấy tờ, rất có thể là sẽ có nhiều hơn thế."

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14
    Sự xuất hiện của sao chổi. Người ta nghĩ rằng nó sẽ va vào trái đất.

    Erlendur ng ồi bên giường Eva Lind một hồi lâu sau khỉ trở về từ Đại sứ qu án, tro ng đầu ông trăn trở khô ng biết ph ải nói gì. Ông không biết ph ải nói gì với con gái. Ông đã cố gắng vài lần nh ưng không thành. T ừ lúc ông bác sĩ nói rằng sẽ tốt hơn nếu ông nói ch uy ện với con bé, Erlendur lúc nào cũng băn kho ăn khô ng biết ph ải nói gì với co n gái, và cu ối cùng cũng ch ẳng rút ra được k ết luận gì.

    Ông bắt đầu nói chu y ện về thời tiết, nhưng rồi nhanh chóng từ bỏ. Sau đó ông kể về Sigurdur Óli và nói về ch uy ện gần đây trông anh ta m ệt mỏi thế nào. Nh ưng rồi cũng chẳng có gì nhiều để mà k ể nữa. Ông cố gắng tìm chuy ện v ề Elínbo rg để kể nh ưng rồi lại thôi. Sau đó ông kể với con gái v ề vợ ch ưa cưới của Benjamín Knudsen, ng ười bị cho là nh ảy xuống biển tự tử, và về nh ững b ức thư tình mà ông tìm thấy ở tầng hầm của ng ười thươn g nh ân.

    Ông nói với Eva Lind rằng mình đã g ặp m ẹ con bé ngồi bên giường b ệnh của nó.

    Sau đó ông yên lặng.

    "Có ch uy ện gì giữa bố và m ẹ cơ ch ứ?" Eva Lind có lần đã hỏi khi đến thăm ông. "Sao bố không nói gì?" Sindri Snaer đi cùng nó nhưng khô ng ở lâu, để lại hai bố con họ với nh au khi bóng tối ập xu ống. Lúc đó là tháng Mười h ai, trên đài đang phát mấy bài hát Giáng sinh nên Erlendur tắt đi, nhưng Eva Lind lại bật lên và nói rằng nó mu ốn nghe chúng. Lúc đó con bé đang mang thai được m ấy tháng rồi, th ời gian ấy nó đã hoàn lương và như thường lệ, cứ mỗi lần ngồi xuống với bố, nó lại b ắt đầu k ể lể về gia đình mà nó không có. Sindri Snaer ch ưa bao giờ k ể về ch uy ện đó, về m ẹ nó, về chị nó hay v ề tất cả nh ững chuy ện ch ưa bao giờ xảy ra. Nó luôn yên lặng và lãnh đạm khi bố nói chuy ện với mình. Nó không quan tâm đến bố. Đó là sự khác nhau giữa Sindri Snaer và chị gái. Eva Lind mu ốn hiểu v ề bố rõ h ơn và khô ng ng ần ng ại khi quy trách nhiệm cho b ố.

    "M ẹ con ư?" Erlendur nói. "Chúng ta có thể tắt m ấy cái bài hát Giáng sinh đó đi được không?"

    Erlendur đang cố gắng đẩy lùi th ời gian. Việc Eva luôn tìm kiếm sự thật tro ng quá kh ứ lúc nào cũn g khiến ông rơi vào tình thế tiến tho ái lưỡn g nan. Ông khô ng biết câu trả lời cho nh ững câu hỏi liên qu an đến cuộc hôn nh ân ng ắn ngủi của họ, nh ững đứa con của h ọ và tại sao ông lại ra đi. Ông không trả lời tất cả các câu hỏi của con bé, và đôi khi chuyện đó khiến cho nó tức giận. Cứ mỗi lần động đến chu y ện gia đình là tính nó lại nóng nh ư lửa.

    "Không, con mu ốn ngh e nh ạc Giáng sinh," Eva Lind nói, và Bing Crosby lại tiếp tục m ơ về một Giáng sinh trắng xóa. "Con ch ưa bao giờ nghe mẹ nói một điều gì tốt đẹp về bố, nh ưng ch ắc

    hẳn là bà ấy đã nhìn th ấy đ iều gì đ ó ở bố. Lần đầu tiên. Khi bố m ẹ g ặp nhau. Đó là cái gì?"

    "Co n đã hỏi bà ấy chưa?"

    "Rồi. "

    "Vậy bà ấy nói sao?"

    "Ch ả nói gì cả. Th ế có nghĩa là bà ấy sẽ ph ải nói điều gì đó tốt đẹp v ề bố và bà ấy khô ng thể làm thế được. Không thể chịu được cái ý nghĩ là ở bố có m ột điều gì tốt đẹp. Đó là cái gì vậy? Tại sao hai b ố m ẹ lại nh ư th ế?"

    "Bố không biết," E rlend ur nói, và đú ng là nh ư thế. Ông cố gắng thành th ực. "Bố m ẹ gặp nhau ở m ột vũ hội. Bố kh ông biết.

    Chuy ện đó không được d ự trù từ trước. Nó cứ thế x ảy ra thôi."

    "L úc ấy trong đầu b ố nghĩ gì?"

    Erlendur không trả lời. Ông nghĩ v ề những đứa trẻ khôn g bao giờ biết m ặt cha m ẹ, không b ao giờ khám phá ra mình th ực sự là ai. Chúng b ước vào đời mà không hề biết một chút gì về cha mẹ ch úng. Khô ng bao giờ khám phá ra nh ững bí m ật riên g tư của họ, kết qu ả là bố m ẹ chúng cũng là ng ười lạ nh ư b ao ng ười kh ác chúng g ặp trên đường đời. Ông băn kho ăn kh ông hiểu làm thế nào mà nh ững ng ười làm cha làm m ẹđó có th ể bỏ rơi con cái của mình nh ư thế, để rồi tất cả những gì mà chúng học được là từ cu ộc s ống ch ứ k hôn g ph ải từ tình yêu th ương thực sự.

    "Lú c đó tron g đầu bố nghĩ gì thế?" câu hỏi của Eva Lind khơi ra nh ững nỗi đau mà nó luôn luôn chỉ trích.

    "Bố khô ng biết," Erlendur đáp và giữ kho ảng cách với nó giống như mọi lần. Con bé cảm nh ận được điều đó. Có th ể nó làm thế để xem ông ph ản ứng thế nào, để ch ắc ch ắn hơn, để cảm nh ận xem kho ảng cách giữa bố với mìn h xa đến đâu và mình hiểu bố được đến đâu.

    "Ch ắc ch ắn là b ố cũng đã n hìn th ấy đ iề u gì đ ó ở mẹ."

    Làm sao mà con bé hiểu được khi ngay cả bản thân ông có lúc cũng còn không hiểu?

    "Bố mẹ g ặp nh au ở m ột vũ hội," ông nhắc lại. "Bố khô ng mong là chuyện đó cók ết qu ả gì trong tươn g lai. "

    "Và rồi bố bỏđi."

    "Bố không bỏđi," Erlendur nói. "Chuyện không ph ải nh ư thế. Nh ưng cuối cùng bốđã ra đi và mọi chuy ện kết thúc. Bố mẹ không làm chuy ện đó… Bố kh ông biết. Cóthể không có cách nào đúng cả. Nếu có, bố mẹ cũng không tìm ra."

    "Nh ưng mọi chuyện ch ưa k ết thúc," Eva Lind nói.

    "Không," Erlendur nói. Ông vẫn đang nghe Bing Crosby hát trên đài. Qua khung cửa sổ, ông lặng ng ắm nh ững bông tuyết lớn rơi xuống mặt đất. Rồi ông nhìn con g ái, nh ững quầng thâm quanh mắt nó, cái khuyên trên m ũi nó, đôi giày quân đội nó gác trên bàn uống nước, nh ững vết cáu bẩn tron g m óng tay nó, cái bụng kẹp lép bên d ưới cái áo phông đen của nó đang b ắt đầu phình ra.

    "M ọi chuy ện không bao giờ k ết thúc cả," ông nói.

    Höskuldur Thórarinsson sống ở căn hộ dưới tầng hầm trong ngôi nhà riêng trang nhã của con gái mình ở Árbaer, ông ta trông có vẻ hài lòng v ới số ph ận của mìn h. Đó là một ng ười đàn ông nhỏ con, linh lợi v ới mái tóc bạc và chòm râu bạc quanh cái miệng nh ỏ. Ông ta mặc một chiếc áo lao động kẻ ca- rô và quần nhung màu be. Elínborg đã tìm ra ông ta. Trong sổ đăng ký quốc gia kh ông có nhiều ng ười có tên là Höskuldur đã qua độ tuổi về hưu. Cô gọi điện cho h ầu hết nh ững ng ười đó, họ sống ở khắp nơi trên toàn Iceland, và ng ười đàn ông đặc biệt có tên là Höskuldur ở Árbaer này đã nói cho cô biết, chắc ch ắn là ông ta đã thuê nhà Benjamín Knudsen, v ề ng ười đàn ông tội ng hiệp dễ m ến ấy. Höskuldur vẫn còn nh ớ ngôi nhà đó rất rõ mặc dù ông ta khô ng ởđó lâu.

    Erlendur và Elínborg ngồi trong phòng khách của Höskuldur, ông ta pha cà phê và m ời họ. Sau đó ba ng ười ngồi nói chuy ện phiếm. Höskuld ur k ể rằng ông ta sinh ra và lớn lên ở Reykjavík, sau đó ông th an phiền v ề việc nh ững kẻ bảo thủ khốn kiếp đã bóp ngh ẹt cuộc sống của nh ững người được trợ cấp như thế nào, nhìn nh ận họ như th ể họ là một lũ vô công rồi ngh ề khô ng thể tự nuôi sống bản thân mình vậy. Erlend ur quy ết định khô ng để cho ông ta nói dông dài thêm nữa.

    "T ại sao ông lại ch uy ển đến ngọn đồi? Ởđó không phải là khá thôn dã so với Reykjavík sao?"

    "Ch ắc ch ắn là th ế rồi," Höskuldur nói khi rót cà phê vào cốc. "Nh ưng không còn cách nào khác cả. Ngày ấy anh khô ng thể tìm nổi một ch ỗ trú thân ở bất cứđâu tại Reykjavík. Su ốt chiến tran h, ng ười ta ở nhồi ở nhét trong những căn phò ng bé tí. Đột nhiên, tất cả nh ững ng ười nh à quê đều có thể lên thành phố để kiếm tiền ch ứ không còn phải nhận nh ững cục sữa đông và một chai rượu nữa. Họ cũng có thể ngủ trong các căn lều nếu buộc phải làm như vậy. Giá nhà cao ngút trời nên tôi ph ải chu yển lên đồi. Nh ững khúc x ương mà các ông tìm th ấy là gì v ậy?"

    "Ông chuy ển lên đồi khi nào?" Elínborg h ỏi.

    "Hồi đó là kho ảng năm 194 3, tôi ng hĩ vậy. Hay n ăm 44 gì đó. Hình nh ư lú c ấy là mùa thu. Giữa cu ộc chiến tranh."

    "Ông sống ởđó bao lâu?"

    "Tô i ởđó trong vòng m ột năm. Cho đến mù a thu n ăm sau."

    "Ông sống một mình sao?"

    "Với v ợ tôi. Ellý già thân yêu. Bà ấy qua đời rồi."

    "Bà ấy mất năm nào?"

    "Cách đây ba năm. Các ông nghĩ là tôi chôn bà ấy trên đồi à? Tôi trông giống loại ng ười đó lắm sao?"

    "Chúng tôi không tìm được ghi chép nào về những ng ười từng sống ởđó cả," Elínborg nói mà không trả lời câu hỏi của ông ta. "Về ông hay bất kỳ ai cũn g không. Ông khô ng đăng ký cư ngụ tại đó."

    "Tôi không th ể nh ớ nổi chuy ện đó nh ư th ế nào nữa. Chúng tôi ch ẳng bao giờ đăng ký cả. Chúng tôi là nh ững k ẻ vô gia cư. Nh ững ng ười khác luôn luôn sẵn sàng trả giá cao h ơn chúng tôi, sau đó tôi nghe nói về ngôi nhà gỗ của Benjamín nên tôi đã nó i chuy ện với ông ấy. Nh ững ng ười thuê nhà ởđó vừa m ới ch uy ển đi nên ông ấy làm phúc cho tôi."

    "Ông có biết nh ững ng ười thuê nh à đó là ai không? Những ng ười đến trước ông ấy ?"

    "Không, nhưng tôi nhớ rằng ngôi nhà hoàn toàn sạch sẽ khi ch úng tôi đến đó." Höskuldur uống nốt cốc cà phê, lại rót đầy rồi nh ấp thêm một ngụm. "Sạch nh ư chùi."

    "Ông nói ‘sạch nh ư chùi’ nghĩa là gì?"

    "Tôi nh ớ là Ellý đã đặc biệt nhận xét vềđiều đó. Bà ấy thích thế. Mọi th ứ đều được lau chùi, đánh bóng và ch ẳng có lấy một hạt bụi. Cứ như là đến ở một khách sạn v ậy. Không ph ải là ch úng tôi thô lỗ gì đâu, xin hai vị nhớ cho. Nhưng ch ỗđó được lau chùi sạch sẽ lạ lùng. Ch ắc ch ắn là đã có một bà nội trợ nào đó rất giỏi làm công việc của mình, Ellý của tôi nói v ậy."

    "Vậy ông ch ưa bao giờ nhìn th ấy m ột d ấu hiệu b ạo lực hay điều gì đó tương tự à?" Erlendur h ỏi, từ đầu đến giờ ông m ới lên tiếng. "Ví d ụ nh ư v ết máu trên tường ch ẳng h ạn?"

    Elínborg nhìn ông. Chẳng lẽ Erlendur đang trêu tức ông ta sao ?

    "Máu ư? Trên tường ư? Không, chẳng thấy vết máu nào cả."

    "Vậy là m ọi th ứ đều ng ăn nắp?"

    "M ọi th ứ đều ng ăn nắp. Ch ắc ch ắn là v ậy."

    "Hồi ông đến cóbụi cây nào g ần nhà không?"

    "Có nh ững bụi cây lý chua, có đấy. Tôi nhớ chúng rất rõ vì ch úng trĩu qu ả vào mùa thu đó, chúng tôi còn lấy quả làm mứt nữa."

    "Ông không trồng chúng sao? Hay là v ợ ông, bà Ellý ấy?"

    "Không, chúng tôi không trồng. Khi ch úng tôi đến thì đã thấy ch úng ởđó rồi."

    "Ông có thể hình dung ra bộ xương đó là ai không?" Erlendur hỏi.

    "Đó là lý do tại sao các ông đến đây à? Để xem tôi có giết ai không ch ứ gì?"

    "Chúng tôi cho rằng bộ xương đó bị chô n ở trên đồi trong thời gian chiến tran h ho ặc gần nh ư th ế. Nh ưng ông không bị tình nghi giết người. Hoàn toàn không. Ông có bao giờ nói chu yện với Benjamín v ề nh ững ng ười từng thuê nhà trước ông không?"

    "Tình cờ thôi," Höskuldur đáp. "Có một lần khi tôi đang trả tiền thuê nhà và khen ngợi v ề s ự sạch sẽ tuy ệt đối mà nh ững ng ười thuê nhà trước đó để lại. Nh ưng d ường nh ư ôn g ấy kh ông quan tâm cho lắm. Một người đàn ông bí ẩn. M ất vợ. Nghe nói bà ấy tự gieo mình xuống biển."

    "Vợ ch ưa cưới thì đúng hơn. Họ chưa kết hôn. Ôn g có nhớ nh ững doanh trại của quân đội Anh trên đồi không? Hoặc của Mỹ hồi cuối chiến tranh ấy?"

    "Qu ân đội Anh đã rút đi sau vụ chiếm đóng năm 1 940. Họ cho dựng doanh trại ở phía bên kia quả đồi và có một khẩu đại bác để ch ống lại quân Reykjavík. Tôi luôn luôn nghĩđó chỉ là m ột trò đùa, nh ưng Ellý bảo tôi rằng đừng có lấy đó làm trò cười. Sau đó qu ân Anh đi và quân Mỹ đến tiếp quản. Hồi tôi đến đó, họ cũng dựng lều trại trên đồi. Quân Anh đã bỏđi nhiều năm trước đó rồi."

    "Ông có biết họ khô ng ?"

    "Không biết một chút nào. Họ chỉ biết họ v ới nh au thôi. Họ không bốc mùi như quân Anh, Ellý của tôi nói thế. Họ sạch sẽ và tử tế hơn nhiều. Lịch s ự nữa. Lịch sự hơn ng ười Anh nhiều lắm. Y nh ư trong phim ấy. Kiểu nh ư Clark Gable hay Cary Grant vậy."

    Cary Grant là người Anh, Erlendur nghĩ, nh ưng ông chẳng buồn tranh cãi với cái ông- biết- tuốt ấy. Ông thấy Elínborg cũng lờđi kh ông để ý.

    "Họ cũng dựng nh ững doanh trại ch ắc ch ắn hơn nữa, " Höskuldur kh ẳng định ch ắc nịch. "Nh ững doanh trại của h ọ tốt hơn nhiều so v ới của ng ười Anh. Ng ười Mỹ đổ sàn bê tông ch ứ không dùng ván lót sàn m ục rữa nh ư ng ười Anh. Th ật là m ột nơi ở lý tưởng. T ất cả nh ững th ứ mà ng ười M ỹ động vào làm đều tốt hơn và khéo léo h ơn rất nhiều."

    "Ông có biết sau khi ông và bà Ellý rời kh ỏi ngôi nhà, ai đã đến thuê nó không?" Erlendur hỏi.

    "Có, ch ún g tôi đưa họđi quanh ngôi nhà. Anh ta làm việc tại m ột nông trại ở Gufunes, có một vợ và hai con cùng với một con chó. Họ là những ng ười rất d ễ m ến, nh ưng dù có cố đến mấy tôi cũng không thể nào nh ớ nổi tên h ọ."

    "Ông có biết gì v ề nh ững ng ười sống ởđó trước ông kh ông ? Nh ững ng ười đã coi sóc ngôi nhà thật cẩn th ận ấy?"

    "Tôi chỉ biết nh ững điều mà Benjamín nói khi tôi khen ngợi việc ngôi nhà của ông ấy được giữ gìn cẩn thận và nói rằng Ellý với tôi cũng đặt ra nh ững tiêu chu ẩn cao nh ư v ậy."

    Erlendur vểnh tai lên nghe còn Elínborg ngồi ng ay người lại trên gh ế. Nhưng Höskuldur ch ẳng nói gì thêm.

    "Sao cơ?" Erlendur h ỏi.

    "Nh ững điều ông ấy nói ư? Đó là v ề người vợ." Höskuld ur ng ừng lại m ột lúc và nh ấp một ngụm cà phê. Erlendur sốt ruột ch ờ ông ta kết thúc câu chuy ện. Sự sốt sắng của ông không qua nổi mắt của Höskuldur, và ông ta biết rằng vị thám tử này đang ph ải van xin mình.

    "Ch uy ện đó rất thú vị, ch ắc ch ắn là nh ư vậy," Hö skuldu r nói. Cảnh sát sẽ k hôn g đi khỏi đây với hai bàn tay trắng đâu. Ông ta lại nh ấp thêm m ột ngụm cà phê n ữa và lừng chừng rất lâu.

    Lạy Ch úa tôi, Elín bo rg nghĩ. Lão già này có định lảng sang ch uy ện khác không đây? Mình đã ph ải chịu đựng quá đủ nh ững kẻ hủ lậu ho ặc là chết m ột cách khốn kh ổ vì mình ho ặc là ra vẻ phách lối v ới mình rồi.

    "Ông ấy nghĩ rằng ng ười chồng đã hành h ạ v ợ mìn h."

    "Hành h ạư?" Erlendur nh ắc lại.

    "Ngày nay ng ười ta gọi là gì nhỉ? Bạo hành gia đình ph ải kh ôn g ?"

    "Anh ta đánh vợ à?" Erlendur nói.

    "Đó là Benjámin nói v ậy. Kẻ vô lại đó đánh vợ và con mình. Tôi ch ưa bao giờ đụng một ngón tay vào Ellý."

    "Ông ta có nói cho ông biết tên của họ kh ôn g?"

    "Kh ông, mà nếu ông ấy có nói thì tôi cũng quên lâu rồi. Nh ưng ông ấy có nói một điều mà từđó tới bây giờ tôi chưa từng quên. Ông ấy nói rằng cô ta - vợ ng ười đàn ông ấy - được sinh ra trong một nhà máy sản xuất khí đốt ở Raudarárstígur. Ởm ạn dưới Hlemmur. Ít nhất đó cũng là những gì người ta nói. Cũng giống như kiểu người ta nói rằng Benjamín giết vợ mình ấy mà. À ý tôi là vợ ch ưa cưới ấy."

    "Benjamín? Nhà máy sản xu ất khí đốt? Ông đang nói đến ch uy ện gì thế?" Erlendur đã hoàn toàn m ất ph ương hướng. "Ng ười ta nói rằng Benjamín giết vợ ch ưa cưới của mình ư?"

    "Có m ột số người nghĩ vậy. Vào hồi đó ấy. Tự ông ấy cũng nói v ậy."

    "Rằng ông ta giết cô ấy à?"

    "Rằng ng ười ta nghĩ là ông ấy đã làm gì đó với cô ấy. Ông ấy không nói rằng mình giết vợ ch ưa cưới. Ông ấy chưa bao giờ nói thế. Tôi khô ng hiểu về ông ấy một ch út nào. Nh ưn g ông ấy ch ắc ch ắn rằng người ta nghi ngờ mình và tôi nghe nói là vì ghen tuôn g gì đó."

    "Ch uy ện ngồi lê đôi mách sao?"

    "T ất nhiên rồi. Chúng tôi rất giỏi chu yện đó. Giỏi buôn ch uy ện v ề nh ững điều x ấu xa mà ng ười khác làm."

    "Hượm m ột ch út, ch uy ện về nhà máy sản xu ất khí đốt là thế nào?"

    "Đó là lời đồn đại hay hớm nh ất. Ông ch ưa nghe qua chuy ện đó à? Ng ười ta nghĩ rằng ngày tận th ếcủa trái đất sắp đến nên họ đã tổ chức m ột đêm trụy lạc ở nhà máy đó. Sau đó thì có m ấy đứa trẻ được sinh ra và ng ười ph ụ nữ này là một tro ng số họ, ho ặc đó là suy nghĩ của Benjám in. Họ được gọi là những đứa trẻ của ngày tận thế."

    "Ông đang đùa tôi đấy à?"

    Höskuldur lắc đầu.

    "Đó là vì sự xuất hiện của sao chổi. Người ta nghĩ rằng nó sẽ va vào trái đất. "

    "Sao chổi nào cơ?"

    "Sao chổi Halley, tất nhiên là thế rồi!" ông- biết- tuốt g ần nh ư quát lên vì tức giận trước sự ngu độn của Erlendur. "Sao chổi Halley ấy! Ng ười ta nghĩ là nó sẽ va vào trái đất và tất cả sẽ bị tiêu h ủy b ởi lửa địa ng ục!"

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!



  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15
    Cuộc truy tìm...

    Lúc trước đó Elínborg đã tìm ra nơi ở của em gái v ợ chưa cưới của Benjamín. Khi cô và Erlendur rời khỏi nhà Höskuldur, cô nói với ông rằng mình mu ốn đến nói chuy ện với bà ta. Erlendur gật đầu và nói rằng ông sẽ đến Th ư viện Qu ốc gia để tìm xem có bài báo nào nói về sao ch ổi Halley h ay khôn g. Giống nh ư tất cả các nhà- biết- tu ốt, té ra Höskuldur cũng ch ẳng biết rõ lắm về chu y ện đã xảy ra. Ông ta nói vòng vo quanh quẩn cho đến khi Erlendur không bu ồn nghe n ữa và ra v ề khá đột ng ột.

    "Cô nghĩ sao về những điều Höskuldur vừa mới nói?" Erlendur hỏi cô khi họ đã lên xe.

    "Câu chuy ện v ề nhà máy sản xu ất khí đốt ấy thật lố bịch," Elínb org đáp. "Sẽ rất thú vị n ếu ông tìm được thô ng tin về vụđó đấy. Nh ưng tất nhiên là nh ững điều mà ông ta nói về chuy ện ngồi lê đôi mách thì không sai một tẹo nào. Chúng ta rất thích thú khi kể nh ững câu chuyện xấu xa về người khác. Những lời đồn đại đó ch ẳng thể nói lên được gì v ề chu yện Benjamín có ph ải là một tên sát nhân thực sự hay không, và ông cũng hiểu điều đó m à."

    "Phải, nhưng còn câu thành ngữ ‘Không có lửa làm sao có khói’ thì sao?"

    "Những thành ng ữ," cô lẩm bẩm. "Tôi sẽ hỏi em gái bà ấy. Nói chu y ện khác đi. Eva Lind th ế nào rồi?"

    "Con bé vẫn đang nằm trên giường bệnh. Bác sĩ bảo tôi phải nói chuyện với con bé."

    "Nói chuyện với nó ư?"

    "Ông ấy cho rằng nó có thể ngh e được qua cơn hôn mê, và điều đó rất tốt cho nó."

    "Vậy ông nói gì v ới nó?"

    "Ch ẳng có gì nhiều," Erlendur nói. "Tôi ch ẳng biết ph ải nói gì cả."

    Em gái vợ ch ưa cưới của Benjamín đã ngh e những lời đàm tiếu nh ưng bà ta phủ nh ận thẳng th ừng nh ững tin đồn đó. Tên bà ta là Bára, vẫn còn khá trẻ so với chị mình. Bà ta sống trong một ngôi nhà riêng ở Grafarvogur cùng ch ồng là một do anh nh ân giàu có. Cuộc sống của họ rất xa xỉ, phon g lưu v ới đủ các đồ nội thất hoa mỹ bày biện trong nhà. Bà ta đeo nh ững đồ trang sức đắt tiền và tỏ ra hợm hĩnh trước m ặt Elínborg - ng ười thám tửđang ngồi trong phòng khách. Elínborg đã nói qu a điện tho ại nh ững điều mà cô mu ốn hỏi và nghĩ rằng ng ười đàn bà này chưa bao giờ phải lo lắng về tiền bạc, bà ta luôn thỏa mãn m ọi nhu cầu của mình và không bao giờ giao du với nh ững người d ưới đẳng cấp. Có lẽ bà ta đã không còn ph ải lo lắng v ề bất cứđiều gì từ lâu lắm rồi. Elínborg có cảm giác rằng đây là cuộc đời đang chờ đợi trước m ắt chị gái Bára trong kho ảng thời gian cô biến m ất.

    "Chị tôi th ực s ự yêu Benjamín, nh ưn g tôi khôn g thể hiểu nổi tại sao. Đối với tôi ông ta chỉ là một k ẻ tẻ nh ạt tầm thường. Tất

    nhiên là không vô giáo dục, nhà Knudsen là dòng họ lâu đời nhất ở Reykjavík. Nh ưng ông ta không ph ải là loại ng ười h ấp dẫn."

    Elínborg mỉm cười. Cô không hiểu ý bà ta là gì.

    Bára th ấy điều đó.

    "M ột kẻ m ơ m ộng. Ch ẳng m ấy khi thực tế, chỉ biết nghĩ ra nh ững điều to lớn v ề việc buôn bán lẻ, và nh ững điều n ày thì đã trôi vào dĩ vãng quá lâu rồi. Ông ta cũng chẳng sống được để mà hưởng nh ững thứđó. Ông ta lại còn đối tốt với bọn dân thường nữa chứ. Người h ầu k ẻ hạ trong nhà cũng ch ẳng ph ải gọi ông ta là ‘ngài’. Bây giờ thì người ta không gọi th ế nữa rồi. Ch ẳng còn chút lịch sự nào cả. Vàcũng ch ẳng còn ng ười h ầu nào n ữa."

    Bára lau những h ạt bụi vô hình trên chiếc bàn uống n ước.

    Elínborg th ấy có m ột số bức tran h lớn ở cuối gian phòng cùng nh ững bức chân dung riêng của Bára và ch ồng. Ông ta trông có vẻ cau có và m ệt m ỏi, suy nghĩ tận đâu đâu. Gương m ặt nghiêm kh ắc của Bára d ường nh ư ngầm cười toe toét khiến Elínborg khô ng thể không nghĩ rằng trong cuộc hôn nhân này bà ta là ng ười thắng cuộc. Cô thấy thương h ại cho người đàn ông trong ảnh.

    "Nh ưng nếu các ng ười nghĩ là ông ta giết chị tôi thì lầm to rồi," Bára nói. "Nh ững mẩu xương mà các ng ười tìm thấy gần ngôi nhà g ỗ kh ông ph ải là của chịấy."

    "T ại sao bà biết?"

    "Tôi biết th ế. Vì Benjamín thậm chí còn không bao giờ động đến cả một con ruồi. Th ật là m ột kẻ y ếu đuối d ễ sợ. Một k ẻ viển vôn g, nh ư tôi đã nói rồi đấy. Chuy ện đó càng rõ ràng hơn khi chị tôi biến m ất. Ông ta sụp đổ hoàn toàn, không còn quan tâm gì đến việc kinh doanh nữa, cũng chẳng thèm giao du với ai và từ bỏ m ọi thứ. Benjamín không bao giờ vượt qua nổi cú sốc đó. Mẹ tôi gửi trả lại cho ông ta những bức thư tình mà ông ta gửi cho chị g ái tôi. Bà đã đọc mấy b ức và nói rằng chúng thật tha thiết. "

    "Bà và chị gái có th ân thiết v ới nhau không?"

    "Không, tôi không cho là thế. Tôi ít tuổi hơn chịấy qu á nhiều. Từ khi tôi còn bé tí, chịấy đã trưởng thành rồi. M ẹ tôi luôn nói rằng chị rất giống bố tôi: giàu trí tưởng tượng và hay buồn phiền nữa. Ông ấy cũng làm nh ư thế."

    Điệu bộ của Bára khiến ng ười ta có cảm giác rằng bà ta đã sơ suất khi nói ra câu cuối.

    "Cũng làm nh ư th ếư?"

    "Ph ải," Bára cáu kỉnh nói. "Cũng tự tử nh ư vậy." Bà ta nói đầy thơơ. "Nh ưng ông ấy khôn g m ất tích nh ư chị tôi. Không. Ông ấy treo cổở phò ng ăn, trên cái móc đèn chùm ấy. T ất cả mọi ng ười đều trôn g th ấy rất rõ. Ông ấy quan tâm đến gia đình thế đấy."

    "Chu yện đó ch ắc khiến gia đình bà khổ tâm lắm," Elínbo rg nói lấy lệ. Bára nhìn chòng ch ọc v ào Elínbo rg với vẻ cáo buộc khi bà ta ngồi xuống đối diện với cô, như thể chính cô đã khơi mào ra khiến bà ta ph ải nh ắc lại chu yện đó vậy.

    "Ch uy ện đó đối với chị tôi là khó khăn nhất. Họ rất thân nhau. Chuy ện đó để lại nỗi đau tron g lòng mọi ng ười. Ng ười phụ nữ tội nghiệp."

    Trong m ột thoáng giọng bà ta có pha chút cảm th ôn g.

    "Đó có ph ải…"

    "Ch uy ện này xảy ra trước khi chị tôi m ất tích vài n ăm," Bára nói. Elínborg nh ận thấy bà ta đang cố gắng che giấu điều gì đó. Nh ư thể câu chuy ện của bà ta đã được chu ẩn bị từ trước vậy, nó đã được lọc hết m ọi cảm xú c trong đó. Nh ưng có lẽ bà ta chỉ đơn giản là con ng ười nh ư vậy. Hống hách, nh ẫn tâm và ngu độn.

    "Về phần mình, Benjamín đối xử với chịấy rất tốt," Bára nói tiếp. "Ông ta viết thư tình cho chịấy, đại lo ại là vậy. Ngày đó, ng ười Reykjavík có th ểđi d ạo cùng nhau khá lâu khi họđã đính hôn. Đó là sự tìm hiểu lẫn nhau rất bìn h thường. Họ g ặp nh au ở khách sạn Bo rg, nơi h ẹn hò ch ủ yếu của trai gái thời đó. Họ rủ nh au đi d ạo, đi du lịch, và mọi chu yện cứ th ế tiếp diễn như bao đôi lứa khác. Ông ta cầu hôn chị tôi, và rồi trước đám cưới chỉ kho ảng hai tuần thì chị tôi m ất tích, tôi đoán th ế."

    "Tôi nghe ng ười ta đồn rằng bà ấy đã tự gieo mình xuống biển," Elínborg nói.

    "Ph ải, họđã tốn kh á nhiều côn g để thêu d ệt nên câu chuy ện đó. Ng ười ta bủa đi tìm chịấy khắp Reykjavík. Hàng tá ng ười tham gia vào cu ộc tìm kiếm nh ưng họ không tìm thấy dù chỉ là m ột sợi tóc của chịấy. Mẹ tôi báo tin cho tôi biết rằng sáng hôm đó chịấy đã ra đi. Chịấy đi mua sắm và đến m ột số nơi kh ác nữa, hồi đó khôn g có nhiều cửa hàng lắm, nh ưng chịấy không mua thứ gì. Chị tôi g ặp Benjamín ở của hàng của ôn g ta, sau đó chia tay, rồi từđó không còn ai trông thấy chịấy đâu nữa. Ông ta nói với cảnh sát và chúng tôi rằng họđã cãi nhau. Đó là lý do tại sao ông ấy đổ lỗi ình về việc đã xảy ra và rất đau khổ về ch uy ện đó."

    "T ại sao người ta lại nói đến biển?"

    "M ột số ng ười cho là họđã trôn g th ấy một ng ười phụ nữđi ra phía biển - điểm tận cùng của Tryggvagata ngày nay. Cô ấy m ặc áo khoác giống nh ư chị tôi, cũng cao nh ư th ế. T ất cả chỉ có th ế."

    "T h ế họ cãi nhau vì chuyện gì?"

    "M ấy ch uy ện linh tinh thôi, liên quan đến việc chu ẩn bị cho đám cưới. Ho ặc chí ít thì Benjamín nói nh ư vậy."

    "Bà không cho rằng có chuy ện gì khác sao?"

    "Tôi không biết. "

    "Vậy bà không nghĩ rằng có kh ả năng bộ xươn g chún g tôi tìm thấy trên đồi là của chị mình ?"

    "Ph ải, không thể có khả năng đó. Tôi không có cơ sở gì, tất nhiên rồi, tôi cũng ch ẳng chứng minh được gì, nh ưn g tôi thấy ch uy ện đó thật kh ó tin. Đơn giản là tôi khôn g thể tin nổi điều đó."

    "Bà có biết gì về nh ững ng ười từng thuê ngôi nhà gỗ của Benjamín ở Grafarholt không? Có thể là nh ững người ởđó trong chiến tranh ch ẳng hạn? Có kh ả năng đó là một gia đình có năm ng ười, hai vợ ch ồng với ba đứa con. Chuy ện đó có gợi cho bà nhớ đến điều gì không?"

    "Không. Nh ưng tôi biết ng ười ta đến ở ngôi nhà của ông ấy tron g suốt th ời kỳ chiến tranh, vì hồi đó nhà cửa đang lên cơn sốt mà. "

    "Bà có kỷ vật nào của chị mình không? M ột mớ tóc chẳng

    hạn? Để trong một cái hộp nhỏ ấy?"

    "Không, nhưng Benjam ín có một lọn tóc của chị ấy đấy. Tôi thấy chịấy cắt nó cho ông ta. Benjamín hỏi xin chịấy một vật lưu niệm vào một mùa hè chị tôi đi xuống miền Nam đến Fljót để thăm họ hàng trong hai tu ần."

    Khi Elínborg đã vào trong xe, cô gọi điện cho Sigurdur Óli. Anh ta đang ra khỏi tầng hầm của Benjamín sau một ngày làm việc dài đằng đẵng và chán ng ắt. Cô bảo Sigu rdu r Óli để ý tìm m ột lọn tóc của vợ chưa cưới của Benjamín. Có thể nó nằm tro ng một cái hộp xinh xắn, cô nói. Elínborg nghe thấy tiếng Sigurd ur Óli rên rỉ. "Nào," Elínborg nói, "n ếu tìm được lọn tóc đó, chúng ta có thể làm sáng tỏ chu yện người đó có phải là bà ta hay khô ng. Chỉ đơn giản có thế thôi," rồi cúp máy. Đúng lúc Elínborg đang chuẩn bị lái xe đi thì trong đầu cô ch ợt nảy ra m ột suy nghĩ. Sau một hồi cân nhắc và b ồn chồn cắn môi, cô quy ết định hành động.

    Khi Bára ra m ở cửa, bà ta rất ngạc nhiên khi lại g ặp Elínbo rg.

    "Cô quên gì à?" bà ta h ỏi.

    "Không, tôi chỉ mu ốn hỏi m ột câu này n ữa th ôi," Elínbo rg ng ượng nghịu nói. "Rồi tôi sẽđi ngay."

    "Được rồi, cô muốn h ỏi gì?" Bára sốt ru ột nói.

    "Bà nói rằng chị gái mình có mặc một chiếc áo khoác vào cái hôm bà ấy mất tích ph ải không?"

    "Vậy thì sao?"

    "Đó là lo ại áo khoác gì?"

    "L o ại nào ư? Chỉ là một cái áo khoác bình thường mà m ẹ tôi đã tặng chịấy th ôi."

    "Ý tôi là màu gì ấy. Bàcó biết không?"

    "Sao cô lại h ỏi th ế?"

    "Tôi tò mò thôi." Elínborg nói, không mu ốn giải

    thích thêm.

    "Tôi không nh ớ."

    "Vâng, tất nhiên rồi," Elínborg nói. "Tôi hiểu. Cảm ơn bà và

    xin lỗi vì đã làm phiền." "Nh ưng mẹ tôi nói là nó màu xanh lục".

    ° ° °

    Có quá nhiều thứđã th ay đổi trong nh ững n ăm tháng k ỳ lạấy.

    Tó m as đã thôi không còn tè dầm ra giường và làm cho bố nó nổi điên lên nữa. Símon thì không hiểu tại sao Grímur lại bắt đầu chú ý đến em nó. Nó cho rằng bố nó đã th ay đổi kể từ lúc quân lính đến. Hoặc cólẽ Tó m as đang th ay đổi cũng nên.

    M ẹ của Símon ch ưa bao giờ nói đến nhà máy sản xu ất khí đốt, còn Grímur thì rất lấy làm thích thú khi nh ạo báng cô về ch uy ện đó, nh ưng nói mãi cuối cùng hắn cũng ph ải chán. Hắn gọi cô là "đồ con hoang" hay "đồ đầu g a", nói kh ông ng ớt v ề cái bình ga lớn và cái đêm truy hoan trác táng trước ngày tận th ế của Trái đất. M ặc dù ch ẳng hiểu gì về nh ững điều bốđan g nói, Símon vẫn thấy điều đó làm mẹ nó buồn lắm. Símon biết rằng m ỗi lời hắn nói ra đều khiến m ẹ nó đau y nh ư bị dần ột trận đòn nhừ tử.

    Có một lần Símon đi cùng bố ra thành phố, trên đường đi qua nhà máy sản xu ất khí đốt, Grímur cười phá lên và chỉ vào cái thùng lớn, nói rằng đó là nơi mẹ chúng nó sinh ra. Sau đó hắn cười to hơn. Nhà máy sản xuất khí đốt là một tro ng nh ững tòa nhà lớn nh ất ở Reykjavík và Símon th ấy nó thật phiền ph ức. Th ằn g bé quy ết tâm h ỏi mẹ v ề tòa nhà và cái bình ga lớn gây tò mò đó.

    "Đừng nghe ông ta nói v ớ vẩn," bà nói. "Đến bây giờ con ph ải biết cách m ắng ch ửi của ông ta rồi ch ứ. Con không nên tin bất cứđiều gì ông ta nói. Bất cứđiều gì."

    "Vậy chuy ện gì đã xảy ra ở nhà máy đó h ả m ẹ?"

    "Theo như mẹ biết thì ch ẳng có gì cả. Tự ông ta dựng ra mọi ch uy ện đấy. M ẹ khôn g biết ông ta ngh e được câu chuy ện đó từ đâu."

    "Nh ưng ông bà ngo ại đâu h ả m ẹ?"

    Cô yên lặng nhìn con trai. Cô đã trăn trở với câu hỏi đó suốt cả cu ộc đời và lúc này đây con trai cô lại vô tình hỏi cô câu đó. Cô không biết ph ải trả lời nó th ế nào. Cô ch ưa bao giờ biết mặt bố m ẹ mình. Khi còn nhỏ, cô đã hỏi ng ười ta về họ nh ưng ch ẳng bao giờ nh ận được câu trả lời.

    Nh ững ký ức đầu tiên của cô là ở trong một ngôi nhà có rất nhiều trẻ em ở Reykjavík. Khi lớn lên, cô được k ể lại rằng mình ch ẳng có bố m ẹ hay ng ười thân nào hết, may nh ờ hội từ thiện giú p đỡ cô mới được ởđây. Côcứ ngẫm nghĩ v ề nh ững lời nói đó và cho đến mãi sau này m ới hiểu ra. M ột ngày cô được đưa ra khỏi ngôi nhà đó và v ề làm ng ười ở ột đôi v ợ chồng già. Đến khi trưởng thành, cô đến làm việc cho ng ười lái buôn. Đó là toàn bộ cu ộc đời cô trước kh i g ặp Grímur. Cô không có bố mẹ hay một n ơi nào đó để gọi là nhà, không có một gia đình với h ọ hàng, cô dì chú bác, ông bà, anh em. Trong giai đo ạn từ thiếu nữ trở thành phụ nữ, cô khô ng ng ừng băn kho ăn về việc mình và b ố m ẹ mình là ai. Cô không biết phải tìm câu trả lời ở đâu n ữa.

    Cô hình dung ra rằng họ ch ết trong m ột vụ tai nạn. Đây là điều cô tự đặt ra để mà an ủi chính mìn h, vì cô không thể chịu đựng được khi nghĩ rằng họđã bỏ rơi cô - đứa con bé bỏng của họ. Cô tưởng tượng ra rằng họđã cứu mình và ch ết, thậm chí là đã hy sinh cuộc đời mìn h ch o con. Cô luôn luôn nhìn họ bằng thứ ánh sáng ấy

    - giống như nh ững vị anh hùn g đã chiến đấu để b ảo vệ cho cu ộc sống của mình và con gái. Cô không th ể hình dung ra được là bố m ẹ mình còn sống. Đối với cô, điều đó thật khô ng thể tưởng tượng nổi.

    Khi cô gặp một than h niên ngư dân - bố Mik kelína, cô đã nhờ ng ười đó tìm câu trả lời giúp mìn h, và họ đến một loạt các văn phò ng nhưng vẫn kh ông biết một chút thôn g tin gì về cô cả, ngo ại trừ rằng cô là m ột đứa trẻ m ồ côi. Người ta ghi cô là "trẻ m ồ côi". Giấy khai sinh của cô cũn g khôn g có thông tin gì v ề bố m ẹ. Cô và người đàn ông đó đã đến gia đình mà cô từng ở với nh ững đứa trẻ khác, họ nói chuy ện với ng ười ph ụ n ữ trước đây là m ẹ n uôi của cô nh ưng bà ta cũng ch ẳng nh ớ được gì.

    "Họ trả tiền cho cô," bà ta nói. "Còn chúng tôi thì cần tiền."

    Bà ta ch ưa bao giờ th ắc mắc v ề quá kh ứ của cô.

    Trước khi Grímur về nhà và nói rằng mình đã biết bố m ẹ cô là ai và làm thế nào mà cô có m ặt trên thế giới n ày, cô đã thôi không còn băn kho ăn xem họ là ai từ lâu lắm rồi. Nhìn Grímur nói v ề cái đêm thác lo ạn ở nhà máy sản xuất khí đốt, cô có thể thấy sự th ỏa mãn b ệnh ho ạn của h ắn.

    Tất cả những suy nghĩ này lướt qua đầu óc của cô khi cô nhìn Símon, và trong một thoáng cô như chực nói ra một điều quan trọng với thằng bé trước khi kịp đột ng ột bảo nó khô ng được đặt nh ững câu hỏi liên miên nh ư th ế n ữa.

    Gần nh ư cả th ế giới đang sôi lên tro ng chiến tranh. Nó đã lan đến tất cả các con đường d ẫn đến phía bên kia ngọn đồi - nơi các đơn vị chiếm cứ của Anh b ắt đầu cho xây các công trình trông giống nhưổ bánh mỳ mà họ gọi là doanh trại. Símon không hiểu từđó là gì. Bên trong các doanh trại được cho là chứa một thứ gì đó có tên khó hiểu không kém. M ột cái kho quân sự.

    Đôi khi nó cùng Tómas chạy lên đồi để xem binh lính. Họđã vận ch uy ển gỗ, xà nhà, tôn sóng, hàng rào, dây thép gai, xi m ăng, máy trộn xi m ăng và một xe ủi đất để dọn chỗ cho các doanh trại lên đồi. Họ cũng xây một cái boong- ke bao quát toàn bộ Grafarvogur, và một ngày, hai anh em trông thấy ng ười Anh đưa m ột khẩu đại bác lên đồi. Khẩu súng được lắp vào boong- ke, cái nòng kh ổng lồ của nó chĩa thẳng lên trên ph ải đến vài m ét qua m ột khe h ở. Nhìn nó người ta có cảm tưởng kh ẩu sún g đã sẵn sàng bắn kẻ thù tan xác thành trăm mảnh. Họ đến để giúp Iceland chiến đấu ch ống lại qu ân Đức - những kẻ tuyên chiến và giết tất cả nh ững ng ười chúng b ắt được, thậm chí là cả nh ững đứa bé như Símon hay Tómas.

    Nh ững ng ười lính dựng m ột hàng rào bao quanh tám doanh trại và xây một cái cổng có đề dòng ch ữ b ằng tiếng Iceland "KHÔNG PHẬN SỰ MIỄN VÀO". Một lính canh luôn b ồn g súng đứng ở một chòi gác ngay tại cổng. Họ không quan tâm đến hai đứa bé, còn hai đứa nó thì luôn chú ý giữ m ột kho ảng cách an toàn. Khi đẹp trời, Símon và Tómas lại đưa chị chúng lên đồi, đặt chị xuống đám rêu để xem nh ững ng ười lính đang xây gì, chúng còn chỉ cho Mikkelína th ấy cái nòng súng chĩa lên từ boong- ke. Mikkelína nằm xuống và nhìn m ọi thứ xung quanh mìn h, nhưng con bé yên lặng và trầm m ặc khiến Símon có cảm giác nh ư chị nó sợ trước nh ững gì mình trông th ấy: bin h lính và kh ẩu đại bác kh ổng lồ.

    Tất cả qu ân lính đều mặc quần áo kaki có thắt lưn g, ch ân đi nh ững đôi ủng đen chuyên dụng cao đến mắt cá, m ột số còn đội m ũ bảo hiểm và đeo súng trường ho ặc súng ng ắn tron g bao. Khi trời ấm áp, họ cởi áo khoác và áo phông ra, cởi trần n ằm phơi nắng. Các thao tác tập luyện quân sự diễn ra rất th ường xuy ên trên đồi, khi đó các binh lính nằm giấu mình, ch ạy lên từ vị trí nấp, lao mình lên m ặt đất và b ắn. Tiếng ồn ào và nh ạc nổi lên ở do anh trại vềđêm. Đôi khi họ bật m ột cái máy phát nh ạc lạo xạo còn tiếng hát thì loảng xo ảng. Có nh ững lúc quân lính hát đến khu ya nh ững bài hát của đất nước họ mà Símon biết là nước Anh, còn Grímur nói rằng đó là m ột đế ch ế.

    Chúng kể ẹ nghe tất cả nh ững gì đang diễn ra ở phía bên kia ngọn đồi, nhưng cô không chú tâm lắm. Tuy nhiên, có m ột lần, chúng đưa m ẹ lên đỉnh đồi và cô quan sát doanh trại của quân Anh khá lâu, sau đó khi về nhà, cô nói về tất cả nh ững sự nguy hiểm ởđó và cấm ba đứa khôn g được lảng vảng qu anh khu vực đó nữa, bởi vì chúng không bao giờ có thể biết được chuy ện gì sẽ x ảy ra khi ng ười ta có súng trong tay và cô thì không muốn chúng g ặp bất kỳ một m ối ng uy hiểm nào.

    Th ời gian cứ thế trôi đi, bỗng dưng một hôm doanh trại của quân Anh tràn ng ập binh lính Mỹ, gần nh ư tất cả quân Anh đã rời đi. Grímur nói rằng họ bị đưa đi giết còn ng ười Mỹ sẽ rất th ảnh thơi ở Icelan d, ch ẳng cần ph ải lo gì h ết.

    Grímur nghỉ làm than, bây giờ hắn chu y ển sang làm việc cho lính Mỹ trên đồi vì ở doanh trại đó có rất nhiều tiền, công việc ph ải làm ởđó cũng nhiều không kém. M ột ngày, hắn đi bộ lên đồi và xin làm việc ở kho quân nhu, và không ph ải mất nhiều công sức, h ắn được nh ận vào làm ởđó và nhà ăn tập thể. Kể từ đó trởđi, b ữa ăn trong gia đình đã được cải thiện hơn m ột ch út. Grímur mang v ề một cái hộp màu đỏ có chìa khóa bên cạnh. Hắn lấy chìa khóa m ở cái nắp hộp ra và dốc ng ược nó xuống, ngay lập tức một tảng thịt màu hồng có ph ủ nước thịt đông tro ng suốt rơi xuống cái đĩa. T ảng thịt rung rinh và có vị m ặn rất n gon.

    "T hịt giăm- bông," Grímur nói. "Chính hiệu Hoa Kỳ đấy."

    Símon ch ưa bao giờ được ăn th ứ gì ngon nh ư th ế trong đời. Lúc đầu nó ch ẳng b ăn kho ăn lắm v ề ch uy ện tại sao món ăn đó lại xu ất hiện ở nhà mình, nh ưng nó thấy vẻ m ặt lo lắng của m ẹ khi Grímur mang về nhà một thùng ch ứa đầy hộp thịt và giấu chúng trong nhà. Đôi khi Grímur đi Reykjavík, mang theo h ẳn m ột bao tải ch ứa đầy nh ững chiếc hộp nh ư th ế và nhiều lo ại hàng hóa khác n ữa mà Símon không biết là gì. Khi trở về, h ắn đổ tiền ra m ặt bàn rồi đếm, nh ững lúc nh ư th ế Símon th ấy h ắn rất hạnh phúc - điều màtừ trước tới nay Símon ch ưa từng ch ứng kiến. Grímur không còn quá h ằn học v ới m ẹ chúng n ữa, không nói v ề nhà máy sản xu ất khí đốt, và h ắn còn xoa đầu Tómas n ữa.

    Th ời gian cứ thế trôi đi, lúc này trong ngôi nhà của h ọđã ng ập đầy các món hàng hóa của M ỹ: thuốc lá, th ực ph ẩm đóng hộp, hoa qu ả, và thậm chí là cả bít tất ni- lông mà theo như mẹ chúng nói, đó là niềm m ơ ước của tất cả ph ụ n ữở Reykjavík.

    Chẳng có món đồ nào ở nhà họ được lâu. Có một lần Grímur mang về nhà một cái gói nhỏ v ới mùi th ơm điếc mũi nh ất mà Símon từng được ngửi. Grímur mở nó ra cho cả nhà cùng thử và nói rằng đó là thứ mà ng ười Mỹ nhai suốt, nh ư là bò nhai cỏ vậy. "Chúng mày không được nuốt, sau một lúc ph ải nh ổ nó ra rồi lấy m ột miếng mới." Símon, Tómas, và thậm chí cả Mikk elín a cũng được hắn đưa ột miếng nhỏ màu hồng thơm ph ức. Ch úng nhai lấy nhai để, sau đó nh ổ bã ra và lại được lấy thêm miếng nữa.

    "Cái này có tên là k ẹo cao su," Grímur nói.

    Grímur nhanh chóng học được cách nói chuyện bằng tiếng Anh và kết bạn với lính. Thỉnh thoảng khi họ được nghỉ, Grímur lại m ời họ v ề nhà ch ơi, và m ỗi lần như thế, Mikkelína lại phải giam mình trong nhà kho ch ật chội, hai thằng con trai ph ải chải tóc đàng hoàng, còn m ẹ chúng phải m ặc váy tử tế và ra trình diện. Những ng ười lính đến ch ơi cư x ử rất lịch thiệp, họ chào cả nhà b ằng nh ững cái bắt tay siết chặt, tự giới thiệu về mình và cho kẹo m ấy đứa nh ỏ. Sau đó họ ngồi chè chén v ới nhau. Tàn cuộc, họ lên xe Jeep về Reykjavík và sau đó mọi thứ trong ngôi nhà lại chìm vào yên ắng, b ởi vì ngoài họ ra ch ẳng còn ai đến đây chơi nữa.

    Tuy nhiên, thông thường, nh ững ng ười lính đi thẳng đến Reykjavík rồi đến đêm lại quay v ề và ca hát. Tiếng họ la hét và gọi nhau í ới làm náo động cả ng ọn đồi, và có một hai lần tiếng súng vang lên nh ưng không ph ải là tiếng đại bác vì, theo như Grímur nói, điều đó có nghĩa là: "Bọn Đức quốc xã khốn kiếp đang ở Reykjavík và chúng sẽ giết tất cả chúng ta trong nháy m ắt." Hắn th ường đến thành phố với b ọn lính cảđêm và khi trở về, hắn hát nh ững bài hát Mỹ. Símon ch ưa bao giờ nghe Grímur hát trước mùa hè n ăm đó.

    Có một lần, Símon ch ứng kiến m ột sự lạ.

    Hôm đó, có một người lính Mỹđi lên đồi, tay cầm một cần câu, dừng lại ở bờ hồ Reynisvatn và quăng dây câu cá hồi. Sau đó anh ta xuống đồi, cầm theo cần câu và huýt sáo suốt dọc đường đến hồ Hafravatn, rồi anh ta quan h quẩn ởđó cả ngày. Hô m đó là một ngày mùa hè đẹp trời, anh ta đi quanh hồ và thả câu bất cứ khi nào thấy thích. Thay vì câu được nhiều cá, anh ta lại có vẻ thích được ở bên hồ trong tiết trời đẹp như thế hơn. Anh ta ngồi xuống, hút thuốc và tắm nắng.

    Đến kho ảng ba giờ, dường nhưđã nghỉ ngơi đủ, anh ta thu dọn cần câu v à cái túi đựng ba con cá hồi rồi đi bộ lên đồi. Nh ưng thay vì đi qua ngôi nhà, anh ta dừng lại và nói điều gì đó mà Símon không hiểu. T ừ đầu đến giờ thằng bé đã theo dõi sát sao m ọi cử động của anh ta và lúc này nó đan g đứng ở cửa chính.

    "Bố m ẹ cháu có ở nhà không?" ng ười lính mỉm cười hỏi Símon bằng tiếng Anh và ngó vào bên trong. Cứ mỗi khi đẹp trời là cửa nhà lại m ở. Tómas đã đưa Mikkelína ra khoảng đất nắng sau nhà và đang nằm ởđó cùng chị. Ng ười mẹđang dọn dẹp ở trong nhà.

    Símon không hiểu ng ười lính nói gì.

    "Cháu không hiểu à?" Ng ười lính nói. "Tên chú là Dave. Chú là ng ười Mỹ."

    Hiểu rằng tên anh ta là Dave, Símon g ật đầu.

    Dave giơ cái túi ra trước mặt thằng bé, để xu ống đất, m ở nó ra và lấy ra ba con cá hồi.

    "Chú cho cháu cái này. Cháu có hiểu không? Cho nhà cháu đấy. Chúng rất ng on đấy!"

    Símon nhìn Dave chằm ch ằm kh ông hiểu gì. Dave mỉm cười, phô ra hàm răng trắn g bóng. Anh ta thấp và g ầy, khuôn mặt xương, mái tóc dày màu đen chải gọn gàng sang m ột b ên.

    "M ẹ cháu có nhà không?" anh ta hỏi. "Hay b ố cháu cũng được?"

    Símon ng ơ ngác. Dave cởi cúc túi áo, lấy ra một quy ển sổ màu đen và lật nhanh đến trang cần tìm. Anh ta b ước lại chỗ Símon và chỉ vào m ột câu trong đó.

    "Cháu có biết đọc không?"

    Sím o n đọc cái câu mà Dave ch ỉ tay vào. Nó hiểu được vì câu này viết b ằng tiếng Iceland, nh ưng bên d ưới là một cái gì đó của nước ngoài mà nó không hiểu được. Dave đọc to câu viết b ằng tiếng Iceland, cẩn th ận h ết sức có th ể.

    "My name is Símon," nó mỉm cười và nói. Dave còn cười to hơn. Anh ta tìm một câu khác và chỉ cho th ằng bé xem.

    "Quý cô có khỏe không?" Símon đọc.

    "Ph ải, nhưng không ph ải là quý cô, hỏi cháu cơ mà," Dave cười to, nh ưng Símon không hiểu. Dave tìm một từ khác và đưa cho Símon xem. "M ẹ," Símon đọc to, và Dave chỉ vào nó kèm theo một cái g ật đầu.

    "Ởđâu?" Dave h ỏi bằng tiếng Iceland, và Símon hiểu là anh ta đang hỏi về mẹ mình. Símon ra hiệu cho Dave đi theo mình và dẫn anh ta vào bếp, nơi m ẹ nó đang ngồi vá tất ở bàn. Cô mỉm cười khi th ấy Símon bước vào, nh ưn g khi thấy người đàn ông lạ đi sau thằng bé, nụ cười của cô kh ựng lại, cô làm rơi cái tất và nh ảy lên gh ế. Dave, lúc này cũng lùi lại, b ước về phía trước và xua tay rối rít.

    "Xin lỗi," anh ta nói. "Tôi rất xin lỗi. Tôi không mu ốn làm kinh động đến cô."

    Mẹ Símon lao đến ch ỗ bồn rửa bát và nhìn ch ằm ch ằm xuống dưới nh ư th ể không dám nhìn lên.

    "Símon, con hãy đưa anh ta ra ngoài đi, Símon," cô nói.

    "Vâng, tôi sẽ đi," Dave nói. "Không có gì đâu. Tôi xin lỗi.

    Tôi đi đây. Xin cô, tôi…"

    "Sím on, đưa anh ta đi," ng ười mẹnh ắc lại.

    Lún g túng trước ph ản ứng của mẹ, Símon h ết nhìn ng ười này

    lại nhìn ng ười kia, sau đó nó th ấy Dave đi kh ỏi b ếp ra ngoài sân.

    "T ại sao con lại làm th ế với m ẹ?" cô nói và quay sang Símon. "Con dám đưa một người đàn ông vào đây. Tại sao con lại làm thế?"

    "Con xin lỗi," Símon nói. "Con tưởng là chuyện đó cũng bình

    thường. Tên chú ấy là Dave."

    "Anh ta mu ốn gì?"

    "Ch ú ấy muốn cho chúng ta cá," Símon nói. "Nh ững con cá ch ú ấy câu được ở h ồ. Co n nghĩ chuy ện đó cũng bình th ường thôi. Chú ấy chỉ mu ốn cho chúng ta cá thôi mà."

    "L ạy Chúa, ch ết m ất thôi! Ôi Ch úa ơi, ch ết m ất thôi! Con không bao giờ được làm như th ế nữa. Không bao giờ! Mik kelína và Tómas đâu ?"

    "Ở sau nhà ạ."

    "Chúng không sao ch ứ?"

    "T ất nhiên rồi m ẹ. Mikk elín a mu ốn sưởi nắng."

    "Con không bao giờ được làm như thế nữa," cô nhắc lại trong

    lúc đi ra ch ỗ Mikkelína. "Con nghe rõ ch ưa? Không bao giờ."

    Cô đi ra chỗ góc nhà và thấy ng ười lính đang đứng ch ỗ Tó mas và Mikkelín a, anh ta nhìn chằm ch ằm vào cô bé đầy bối rối. Mik kelína ngh ển cổ lên xem ai đang đứng trước mặt mình. Con bé không thể nhìn thấy khuôn mặt của ng ười lính vì anh ta đứng quay lưng về phía m ặt trời. Ng ười lính nhìn m ẹ cô bé, rồi lại nhìn Mik kelína đang qu ằn quại trên m ặt đất.

    "Tôi …" Dave ấp úng. "Tôi không biết ch uy ện này," anh ta nói. "Tôi xin lỗi. Thực sự xin lỗi. Đây không phải là việc của tôi. Tôi xin lỗi. "

    Sau đó anh ta qu ay ng ười và bước đi thật nhanh, họ nhìn theo bóng anh ta cho đến khi nó d ần biến mất trên đồi.

    "Các con không sao ch ứ?" ng ười m ẹ hỏi tron g lúc quỳ xuống bên Mikkelína và Tómas. Lúc này cô đã bình tĩnh hơn khi thấy rõ ràng là ng ười lính không làm gì h ại bọn trẻ cả. Cô b ế Mik kelína lên, đưa nó vào nhà và đặt nó trên chiếc đi- văng trong bếp. Símon và Tómas đi theo m ẹ.

    "Dave không phải là người xấu," Símon nói. "Chú ấy khác."

    "Tên anh ta là Dave à?" người m ẹ hỏi trống rỗng.

    "Dave," cô nh ắc lại. "Cái tên đó cũng gần nh ư Davíd tro ng tiếng Iceland phải không?" cô hỏi, gần như là hỏi chính mình chứ khô ng ph ải ai khác. Và lúc ấy chuyện đó xảy ra, một ch uy ện hết sức kỳ lạ đối v ới Símo n.

    M ẹ nó mỉm cười.

    Tómas lúc nào cũng bí hiểm, lặng lẽ như m ột kẻ cô độc vậy, nó có v ẻ nhút nhát và hay xấu hổ, thuộc típ ng ười trầm. Mùa đông năm trước, dường nh ư Grím ur đã thấy điều gì đó ở thằng bé khiến hắn ta quan tâm đến nó hơn là Símon. Hắn chú ý đến thằng bé và đưa nó vào một phòng khác. Khi Símon hỏi em xem bố vừa nói v ới nó chuy ện gì, Tómas chẳng nói n ửa lời, nh ưng Símon cứ khăng kh ăng hỏi, nên sau một hồi nịnh nọt em, nó biết rằng h ọđã nói chuyện v ề Mik kelín a.

    "Ông ta nói gì với em về chị Mikkelína?" Símon hỏi.

    "Không có gì đâu," Tómas đáp.

    "Có, ông ấy có nói. Nói gì nào?" Símon h ỏi.

    "Không mà," Tómas nói, khuôn m ặt nó thoáng vẻ bối rối như thểđang cố g ắng giấu anh điều gì đó.

    "Nói cho anh biết đi. "

    "Em không muốn. Em không mu ốn ông ta nói chu yện với em. Em không muốn ông ta làm th ế."

    "Em không muốn ông ta nói ch uy ện với em à? Vậy ý em là em không muốn ông ta nói ra những điều đó phải không? Ý em là th ế ph ải không?"

    "Em chẳng mu ốn gì cả, thế thôi," Tómas đáp. "Và anh cũng đừng có nói chuy ện v ới em n ữa. "

    Nhiều tu ần và tháng trôi qua, Grímur th ể hiện sự quan tâm của mìn h đối với thằng con út bằn g nhiều cách khác nhau. M ặc dù Símon không bao giờ góp m ặt vào cuộc trò chu y ện của họ, vào một buổi tối cuối hè nó đã phát hiện ra điều mà họđang làm. Grím u r đang ch ờ để lấy hàng từ một ng ười lính có tên là Mike. Mike có m ột chiếc xe jeep riêng và họ d ự định sẽ chất hàng lên đó để đem lên thành phố bán. Ng ười m ẹđang nấu nh ững đồ ăn

    lấy từ doanh trại. Mikkelína đang n ằm trên giường.

    Sím on để ý thấy Grímur đẩy Tómas đến chỗ Mikk elína, hắn thì thào vào tai nó và mỉm cười giống nh ư khi nh ận xét đầy ác ý về hai thằng bé. M ẹ chún g thì kh ông để ý còn Símon thì không thực sự hiểu ch uy ện gì đang x ảy ra cho đến khi Tómas đến chỗ Mikkelína (Grímur thì không ng ừng giục giã nó) và nói:

    "Đồ chó cái."

    Sau đó nó ch ạy lại ch ỗ Grímur khiến hắn cười hả hê và vỗ nh ẹ vào đầu th ằng bé.

    Símon nhìn ra bồn rửa bát chỗ m ẹ nó đan g đứng. Dù ch ắc ch ắn đã nghe thấy nh ưng lúc đầu cô vẫn không cử động và không có phản ứng gì, như thểđang cố lờđi chuy ện đó. Ngo ại trừ việc thằng bé để ý thấy m ột tay m ẹ nó vẫn đang cầm dao gọt vỏ khoai tây, những khớp ngón tay của cô hằn lên trắng bệch khi cô xiết ch ặt cán dao. Sau đó cô từ từ quay lại, tay vẫn cầm dao và nhìn Grímur ch ằm ch ằm.

    "Đó là điều mà anh không bao giờ được làm," cô nói, giọng run run.

    Grímur nhìn cô, điệu cười toe toét khựng lại trên mặt.

    "Tao á?" Grímur nói. "Ý mày là sao, không bao giờ được làm ư? Tao chẳng làm gì cả. Thằng bé làm đấy chứ! Tómas con trai tao làm đấy chứ!"

    Người mẹ bước một bước đến gần chỗ Grímur, tay vẫn nắm chặt cán dao.

    "Để Tómas được yên."

    Grím đứng lên.

    "Mày định làm gì với con dao đó?"

    "Đừng có làm thế với thằng bé," cô nói, và Símon cảm thấy mẹ nó đang chùn lại. Nó nghe tiếng xe jeep bên ngoài.

    "Ông ta đến rồi," Símon hét lên. "Mike đến rồi."

    Grímur nhìn qua cửa sổ rồi lại nhìn ng ười v ợ, trong một tho áng kh ông khí căng thẳng chùng xuống. Cô đặt dao xuống. Mike xu ất hiện ở bậc cửa. Grímur mỉm cười.

    Đêm hôm đó khi quay về hắn đánh vợ bất tỉnh. Buổi sáng hôm sau, mắt cô tím bầm, còn chân thì đi cà nhắc. Mấy đứa trẻ nghe tiếng bố chửi bới khi đấm mẹ thùm thụp. Tómas bò đến giường Símon và nhìn anh qua màu đen kịt của bóng tối, nó choáng váng, miệng lẩm bẩm liên hồi như th ể làm như thế sẽ xóa bỏ được những chuyện đã diễn ra.

    " …xin lỗi, em không cố ý, xin lỗi, xin lỗi, xin lỗi…"

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 16
    Bàn bạc...

    Elsa mở cửa cho Sigurdur Óli và mời anh ta uống trà. Trong lúc nhìn Elsa ph a trà trong bếp, anh nghĩ v ề Bergthóra. Sáng hôm đó, trước khi đi làm họđã cãi nhau. Sau khi từ ch ối những hành động đắm đu ối của cô, anh vụng về nói đến những điều mình trăn trở cho đến khi Bergthóra trở nên kích động m ạnh.

    "Ồ, ch ờ m ột chút," cô nói. "Vậy là chúng ta sẽ khôn g bao giờ kết hôn phải kh ông ? Đấy là k ế hoạch của anh à? Ý anh là chúng ta chỉ lấp lửng thế thôi ch ứ không có giấy tờ gì ràng bu ộc, và con của chúng ta mãi mãi chỉ là nh ững đứa con ho ang ph ải không?"

    "Con hoang ư?"

    "Phải."

    "Em lại nghĩ đến một đám cưới lớn đấy à?"

    "Xin lỗi nếu chuyện đó khiến anh cảm thấy phiền."

    "Em thực sự muốn đi vào giáo đường à? Mặc váy cưới, tay cầm hoa và…"

    "Anh khinh thường ý nghĩ đó phải không?"

    "Vậy thì chuyện này liên quan gì đến con cái chứ?" Sigu rd ur Óli hỏi, và ngay lập tức hối hận khi thấy mặt Bergthó ra tối sầm lại.

    "Anh không bao giờ muốn có con à?"

    "Có, à không, à có chứ, ý anh là, chúng ta vẫn chưa thảo luận chuyện đó," Sigurdur Óli nói. "Anh nghĩ chúng ta cần bàn bạc chuy ện này. Em không thể tự mình quyết định về việc chú ng ta có nên sinh con hay không. Như thế là không công bằng và anh không muốn thế. Không phải bây giờ. Không phải lúc này."

    "Rồi sẽ đến lúc đó," Bergthóra nói. "Mong là như th ế. Chúng ta đã ba m ươi lăm tuổi rồi. Ch ẳng còn bao lâu nữa trước khi quá muộn đâu. Bất kỳ lúc nào em định nói về chu yện đó anh lại đổi đề tài. Anh không mu ốn bàn bạc gì hết. Anh không muốn có co n, khô ng mu ốn cưới hay b ất cứ thứ gì. Anh ch ẳng muốn gì cả. Càng ngày anh càng trở nên tồi tệ y nh ư ông già Erlendur rồi đấy. "

    "Sao cơ?" Sigurdur Óli sững sờ. "Em v ừa nói cái gì cơ?"

    Nhưng Bergthóra đã chuẩn bị đi làm, để Sigurd ur Óli lại một mình với những ý nghĩ u ám về tương lai.

    Elsa thấy Sigurdur Óli đang mải nghĩ tận đâu đâu tro ng lúc anh ngồi nhìn cốc trà chằm chằm.

    "Cậu dùng thêm trà nhé?" bà hỏi nhỏ.

    "Không, cảm ơn bà," Sigu rd ur Óli đáp. "Elínborg - ng ười cùng giải quy ết vụ này với cháu, nh ờ cháu hỏi liệu bà có biết ông Benjamín có giữ một lọn tóc nào của vợ ch ưa cưới khôn g. Ông ấy có th ểđể trong m ột cái hộp ho ặc th ứ gì đó tương tự nh ư v ậy."

    Elsa đăm chiêu.

    "Không," bà đáp, "tôi khô ng nh ớ có một lọn tóc nào cả, nh ưng tôi khôn g ho àn toàn ch ắc ch ắn là ở d ưới kia có nh ững gì đâu."

    "Elínborg nói rằng rất có thể ôn g ấy giữ một lọn. Em gái vợ ch ưa cưới của ông Benjamín nói với Elínborg rằng bà ấy đã trao cho Benjamín một lọn tóc khi bà ấy đi đâu đó, tôi nghĩ vậy."

    "Tôi chưa bao giờ ngh e nói đến một lọn tóc hay b ất cứ th ứ gì như th ế cả. Dòng h ọ tôi ch ưa bao giờ lãng mạn đến thế."

    "Vậy trong tầng hầm có món đồ nào của bà ấy không? Của ng ười v ợ ch ưa cưới ấy?"

    "T ại sao các cậu lại mu ốn tìm một lọn tóc?" Elsa h ỏi thay vì trả lời. Trên mặt bà ánh lên vẻ tò mò khiến Sigurdur Óli lưỡng lự. Anh không biết Erlendur đã nói với Elsa nh ững gì rồi, nh ưn g câu nói tiếp theo của bà khiến anh không ph ải h ỏi nhiều.

    "Vì nh ờ nó, cảnh sát có th ể xác minh xem ng ười bị ch ôn trên đó có ph ải là bà ấy không," bà nói. "Nếu nh ư có trong tay m ột món đồ gì đó của bà ấy, các cậu có thể tiến hành xét ng hiệm DNA để xem liệu đó có ph ải là bà ấy không. Và n ếu đú ng nh ư v ậy, các ng ười sẽ tuyên bố rằng bác tôi đã giết vợ ch ưa cưới của mình và chôn bà ấy ởđó. Tôi nói th ế có đúng kh ôn g ?"

    "Chúng cháu chỉđiều tra theo tất cả các hướng có thể thôi," Sigurdur Óli nói, bằng mọi giá cố tránh làm Elsa tức giận vì cách đó mới một giờ đồng hồ, anh đã châm ngòi nổ khiến Bergthóra điên tiết. Ngày hôm nay kh ởi đầu th ật tệ hại. Rất tệ h ại.

    "Có một thám tử khác đã đến đây, m ặt mày ủ rũ, nói bón g nói gió rằng Benjamín phải chịu trách nhiệm trước cái chết của vợ ch ưa cưới của mình. Và bây giờ tất cả các người sẽ xác th ực được điều đó n ếu các người tìm ra một lọn tóc của bà ấy. Tôi thật khô ng thể hiểu nổi. Làm sao mà các ông có th ể nghĩ rằng bác Benjamín có kh ả năng giết người phụ nữđó. Tại sao ông ấy phải làm thế? Động cơ gì mới được chứ? Không. Hoàn toàn không có động cơ nào hết."

    "Không, tất nhiên là không rồi," Sigu rd ur Óli nói để trấn tĩnh bà. "Nh ưng chúng cháu cần biết bộ xương thuộc về ai, và cho đến giờ phút này chúng cháu vẫn ch ưa có nhiều manh m ối lắm ngo ại trừ m ột sự th ật là Benjamín là ch ủ của ngôi nhà và vợ ch ưa cưới của ông ấy biến mất. Ch ắc ch ắn là bản thân bà cũng tò mò về chu y ện đó. Ch ắc ch ắn bà cũng muốn biết nh ững m ẩu xương ấy là của ai."

    "Tôi không nghĩ là mình muốn," Elsa đáp, có v ẻ nh ưđã trấn tĩnh h ơn.

    "Nh ưng cháu có th ể tiếp tục tìm trong tầng h ầm chứạ?" anh nói.

    "T ất nhiên rồi. Tôi khó mà ng ăn anh làm chuy ện đó được."

    Anh uống nốt trà rồi xuống căn h ầm, đầu óc vẫn vẩn vơ nghĩ đến Bergthóra. Mình ch ẳng giữ m ón tóc nào của cô ấy tron g hộp, cũng chẳng cần thứ gì để nh ắc mình nhớ về cô ấy. Thậm chí mình còn ch ẳng để ảnh của cô ấy trong ví nữa, không giống như m ột số ông mà mình biết thường hay để ảnh vợ con vào đó và luôn mang theo ng ười. Mình cảm th ấy thật tồi tệ. Mình cần phải nói chuy ện với cô ấy. Giải quy ết d ứt điểm m ọi chu y ện.

    M ình ch ẳng mu ốn giống Erlendur một chút nào.

    Sigurdur Óli lục lọi đống đồ của Benjamín cho đến giữa trưa m ới nghỉ tay, sau đó anh vọt ra m ột cửa hàng bán đồ ăn nhanh, mua một chiếc hamburger và nh ấm nháp nó trong lúc đọc báo và uống cà phê. Đến kho ảng hai giờ, anh quay trở lại tầng h ầm và nguy ền rủa Erlendur vì tính khí ngoan cố của ông. Anh vẫn ch ưa tìm ra m ột chút manh mối nào giải thích tại sao vợ ch ưa cưới của Benjam ín m ất tích, cũng ch ẳng phát hiện ra tí ch ứng cứ nào liên quan đến nh ững ng ười thuê nhà trong th ời chiến ngo ại trừ Höskuldur. Anh v ẫn ch ưa nhìn ra lọn tóc mà Elínborg ch ắc ch ắn là ph ải có sau khi cô đọc xo ng cả đống tiểu th uy ết diễm tình. Đây đã là ngày th ứ hai Sigurdur Óli ph ải làm việc ở căn h ầm rồi, s ức chịu đựng của anh đang sắp cạn.

    Khi Sigu rd ur Óli qu ay trở lại thì Elsa đã đứng ở cửa, sau đó bà m ời anh vào nhà. Anh cố gắng tìm ra lý do để kh ước từ lời m ời nhưng đã kịp ngăn hành động thô lỗđó lại. Anh bước theo Elsa đi vào trong nhà.

    "Cậu đã tìm được gì dưới đó ch ưa?" bà hỏi, và Sigurdur Óli hiểu rằng đằng sau nh ững lời hỏi han ân cần này, bà ta đang cố gắng lấy thôn g tin từ mình. Sigurdur Óli không nh ận ra rằng có thể Elsa sống một mình, cảm giác mà Erlendur nh ận th ấy chỉ vài phút sau khi ông bước chân vào ngôi nhà ảm đạm của bà.

    "Cháu vẫn ch ưa tìm được lọn tóc đó," Sigurdur Óli đáp và nh ấp một ngụm trà. Bà đã chờ an h đến.

    Sigurdur Óli nhìn người phụ nữ, băn kho ăn khôn g biết ch uy ện gì sẽ diễn ra tiếp th eo.

    "Không," bà nói. "Cậu lập gia đình chưa? Xinlỗi, tất nhiên là đó không ph ải là việc của tôi. "

    "Cháu chưa... đó là... mà có, m à ch ưa, cháu chưa kết hôn nh ưng cháu đang sống cùng ng ười yêu," Sigurdur Óli nói một cách lúng túng.

    "Có con ch ưa?"

    "Ch ưa, chưa có con," Sigurdur Óli đáp. "Vẫn ch ưa ạ."

    "T ại sao ch ưa?"

    "Sao cơạ?"

    "T ại sao hai ng ười v ẫn ch ưa sinh con?"

    Chuy ện quái gì đang diễn ra th ế nhỉ? Sigurdur Óli nghĩ, nh ấp

    m ột ng ụm trà để lấy th ời gian.

    "Áp lực, cháu nghĩ v ậy. Chúng cháu bận cô ng việc suốt ngày. Chúng cháu đều làm những công việc đòi hỏi rất khắt kh e, và, thế đấy, chúng cháu không có thời gian."

    "Không có thời gian cho con cái ư? Th ế hai ng ười có gì hay ho h ơn để làm à? Bạn gái cậu làm ngh ề gì?"

    "Cô ấy là một nhân viên trong công ty máy tính," Sigurdur Óli đáp và sắp sửa cảm ơn bà vì đã m ời trà và nói rằng mình cần ph ải tiếp tục công việc của mình. Anh không có ý định để một bà cô già không quen biết thẩm vấn về đời tư của mình, bằn g cái cách mà những ng ười phụ n ữ nh ư bà cu ối cùng cũng sẽ làm, đó là chỉ biết chĩa m ũi vào chuy ện riêng của người khác.

    "Cô ấy là ng ười ph ụ nữ tốt ch ứ?" Elsa hỏi.

    "Tên cô ấy là Bergthóra," Sigurdur Óli đáp, sắp trở nên thô lỗ. "Cô ấy là m ột ng ười phụ nữ cực kỳ tốt." Anh mỉm cười. "T ại sao bà lại…?"

    "Tôi ch ưa bao giờ có gia đình," Elsa nói. "Ch ưa bao giờ có con. Chồng cũng thế. Tôi không quan tâm đến chuy ện đó, nh ưng tôi thích có con cái. Có lẽ giờđây chúng đã ba m ươi rồi. Đôi lúc tôi lại nghĩ thế. Ch úng đã trưởng thành, có con riêng. Tôi thực sự khô ng biết chu yện gì đã xảy ra. Bỗng nhiên chúng ta b ước vào độ tuổi trung niên. Tôi là một bác sĩ. Hồi tôi thi vào trường Y, không có mấy phụ nữ học về Y dược cả. Tôi cũng giống như hai ng ười, tôi không có thời gian, tôi thậm chí còn không có thời gian cho cuộc sống của riêng bản th ân mình. Nh ững gì anh đang làm lúc này không phải là cuộc sống của anh. Đó chỉ là công việc mà th ôi."

    "Vâng, được rồi, cháu nghĩ là cháu nên …"

    "Benjamín cũng không có gia đình," Elsa nói tiếp. "T ất cả nh ững gì mà ông ấy mu ốn là một gia đình. Cùng bà ấy."

    Elsa đứng lên, và Sigurdur Óli cũng th ế. Anh đang chờ bà ấy nói tạm biệt, nhưng thay vào đó, Elsa lại bước đến m ột cái tủ lớn làm b ằng gỗ sồi, trang trí bằng nh ững ô cửa kính và nh ững ng ăn kéo được khảm rất đẹp mắt. Bà m ở một ng ăn kéo và mang ra một chiếc hộp nữ trang kiểu Tru ng Quốc, nh ấc cái nắp lên và lấy ra m ột cái hộp nh ỏ b ằng b ạc.

    "Ông ấy có giữ m ột lọn tóc của bà ấy," bà nói. "Trong cái hộp này còn có bức ảnh của bà ấy n ữa. Tên bà ấy là Sólveig." Elsa mỉm cười. "Ng ười yêu d ấu của Benjamín. Tôi không nghĩ là bác tôi lại chôn bà ấy trên đồi. Tôi khô ng chịu được cái suy ng hĩđó. Điều đó có nghĩa là Benjamín đã hãm h ại bà ấy. Ông ấy không làm t lọn tóc nh ỏ màu đen trên b ức ảnh của chủ nhân nó. Không chạm vào mớ tóc, anh khéo léo đẩy nó lên chỗ cái vòng cổ để có thể xem được bức ảnh. Trong ảnh là khuôn mặt của m ột cô gái chừng hai mươi tuổi, mái tóc đen, lông mày lá liễu lượn trên đôi mắt lớn đang nhìn một cách bí ẩn vào ống kính. Đôi môi cươn g nghị, cằm nhỏ, khuô n m ặt th anh tú, đáng yêu. Vợ ch ưa cưới của Benjamín, Sólveig.

    "Xin thứ lỗi cho tôi vì đã giấu nó," Elsa nói. "Tôi đã nghĩ kỹ ch uy ện này, cân nhắc nó v à tôi không thể tự bắt mình hủy lọn tóc đó đi được. Cho dù cu ộc điều tra có hé lộ ra điều gì đi ch ăng nữa."

    "T ại sao bà lại giấu nó?"

    "Tôi cần ph ải xem xét mọi chu y ện."

    "Vâng, nh ưng th ậm chí …"

    "Tôi khá sốc khi đồng nghiệp của anh - Erlendur ph ải khô ng nhỉ? - nói bóng gió rằng có thể là bà ấy đang nằm trên đó, nh ưng khi nghĩ đến ch uy ện đó kỹ càng hơn …" Elsa nhún vai như thể cam chịu.

    "T h ậm chí nếu kết qu ả DNA là dươn g tính," Sigu rd ur Óli nói, "thì cũng không nhất thiết là Benjamín đã giết bà ấy. Kết quả ph ân tích khô ng thể giải đáp được điều đó. Nếu đó là vợ ch ưa cưới của ông ấy, có th ể có lý do nào khác ngoài Benjamín …"

    Elsa cắt ngang lời anh.

    "Bà ấy … ngày nay ng ười ta gọi là gì nhỉ… bỏ rơi ông ấy. ‘Hủy hôn ước’ có th ểđã là từ cũ rồi. Vào cái th ời mà ng ười ta còn hay đính hôn v ới nhau ấy. Bà ấy làm điều đó vào cái ngày bà ấy biến m ất. Mãi sau này Ben jamín m ới tiết lộ chu y ện đó ẹ tôi biết lúc ông ấy lâm chung. Bà đã kể lại cho tôi. Trước đây tôi ch ưa từng nói với ai chu y ện đó. Và tôi sẽ mang bí m ật đó xu ống m ồ nếu nh ư các anh không tìm th ấy bộ x ương. Các anh đã biết đó là đàn ông hay đàn bà ch ưa?"

    "Vẫn ch ưa ạ," Sigurdur Óli đáp. "Ông ấy có nói tại sao bà ấy lại hủy hôn ước giữa h ọ không? T ại sao bà ấy lại b ỏ Benjamín ?"

    Anh cảm nh ận được sự lưỡng lự của Elsa. Họ nhìn vào mắt nhau và anh biết bà đã nói ra qu á nhiều, không thể dừng lại được nữa. Anh cảm th ấy Elsa muốn nói ình tất cả nh ững gì bà biết. Nh ư thể là bà đang ph ải gánh chịu m ột nỗi đau khổ nặng nề và bây giờđã đến lúc cởi bỏ nó. Cuối cùng cũng đã đến lúc, sau ng ần ấy n ăm trời.

    "Đó không ph ải là con ông ấy," bà đáp.

    "Không phải là con của Benjamín ư?"

    "Khô ng. "

    "T h ếbà ấy không có thai với Benjámin ư?"

    "Khô ng. "

    "Vậy đó là con của ai?"

    "Cậu phải hiểu là thời đó rất kh ác bây giờ," Elsa nói. "Ngày nay phụ nữ phá thai như đến gặp nha sĩ. Hôn nhân ch ẳng có nghĩa lý gì đặc biệt, ngay cả khi ng ười ta muốn có con. Họ sống cùng nhau. Rồi chia tay. Rồi lại bắt đầu sống cùng một ng ười khác. Có thêm con. Lại chia tay. Nhưng hồi đó kh ông nh ư thế. Sinh con ngoài giá thú là một điều không thể ch ấp nhận đối với ng ười phụ nữ. Đó là chuy ện đáng xấu hổ, họ sẽ bị cả xã hội ruồng bỏ. Hồi đó ng ười ta rất nhẫn tâm, họ gọi nh ững người phụ nữ nh ư thế là ‘đồ đĩ thõ a’."

    "Cháu hiểu rồi," Sigurdur Óli đáp. Tâm trí anh h ướng đến Bergthóra và anh dần dần vỡ ra lý do tại sao Elsa lại hỏi về đời tư của mìn h.

    "Benjamín đã chu ẩn bị cưới bà ấy," Elsa nói tiếp. "Ho ặc ít nh ất thì đó cũng là điều mà ông ấy nói với m ẹ tôi về sau này. Sólveig không muốn thế. Bà ấy mu ốn hủy đín h ước của hai ng ười và nói th ẳng với ông ấy điều đó. Chỉ th ế thôi. Mà không hề báo trước. "

    "Vậy ai là cha đứa trẻ?"

    "Khi ra đi, bà ấy xin Benjamín tha th ứ vì đã bỏ rơi ông ấy. Nh ưn g ông ấy không làm được. Ông ấy cần thêm th ời gian."

    "Và bà ấy biến mất?"

    "Sau khi chia tay Benjamín, không ai còn nhìn thấy cô ấy nữa. Buổi tối hôm đó, khi Sólveig không về nhà, họ bắt đầu bổđi tìm, còn Benjamín thì tham gia tìm kiếm h ết mình. Nh ưng bà ấy không bao giờ xu ất hiện nữa. "

    "Th ế còn cha đứa trẻ?" Sigurd ur Óli hỏi lại. "Ông ta là ai?"

    "Bà ấy không nói cho Benjámin biết. Bà ấy đi mà không để cho ông ấy biết. Đó là nh ững điều ông ấy nói lại v ới m ẹ tôi, ít ra là như vậy. Nếu ông ấy biết, ch ắc ch ắn ông ấy cũng chẳng bao

    giờ nói ẹ tôi biết."

    "Ai có th ể là ng ười đó được nhỉ?"

    "Có th ểư?" Elsa nh ắc lại. "Chuy ện ông ta có th ể là ai không

    quan trọng. Điều duy nh ất quan trọng ởđây là ông ta là ai." "Ý bà là ng ười cha có liên quan đến vụ m ất tích của bà ấy

    ư?"

    "Anh nghĩ sao?" Elsa hỏi.

    "Bà và mẹ bà ch ưa bao giờ nghi ng ờ ai sao?"

    "Không, không ai cả. Theo nh ư tôi biết, cả Benjam ín cũng

    khô ng."

    "Có khả năng tự ông ấy tự thêu dệt nên câu chuy ện không?"

    "Tôi không ch ắc, nh ưng Benjamín ch ưa từng nói dối m ột lần

    tron g đời."

    "Ý cháu là, để ng ười ta không chú ý đến ông ấy."

    "Tôi không mảy m ay nghĩ là bác ấy bị nghi ngờ một chút nào.

    Mãi đến tận sau này bác ấy m ới nói với mẹ tôi cơ mà. Ng ay trước khi ch ết ấy."

    "Ông ấy ch ưa bao giờ thôi n ghĩ v ề bà ấy."

    "M ẹ tôi nói v ậy."

    Sigurdur Óli nghĩ ng ợi m ột hồi.

    "Có th ể là vì x ấu hổ mà bà ấy đã tự tử kh ôn g?"

    "Ch ắc chắn rồi. Bà ấy khô ng chỉ ph ản bội Benjamín mà còn

    có thai nh ưng không nói cha đứa trẻ là ai."

    "Elínborg - n ữ cảnh sát cùng làm việc với tôi, đã nói ch uy ện với em gái bà ấy. Bà ta nói rằng bố mình đã tự tử. Treo cổ. Chuyện đó thật khủng khiếp với Sólv eig bởi vì họ rất gần gũi với nhau."

    "Khủng khiếp đối ới Sólv eig ư?"

    "Ph ải."

    "Thật là kỳ quặc!"

    "Sao lại thế ạ?"

    "Đúng là ông ta treo cổ thật, nhưng chuyện đó chẳng mấy ảnh

    hưởng đến Sólv eig."

    "Ý bà là sao?"

    "Người ta nói rằng ông ta vì quá đau buồn mà làm thế."

    "Đau buồn ư?

    "Phải, đó là tôi cảm nhận thế."

    "Đau buồn vì chuyện gì cơạ?"

    "Vì sự mất tích của con gái," Elsa đáp. "Ông ta treo cổ sau khi bà ấy mất tích mà."

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 17
    Câu chuyện cùng người con gái

    Mãi về sau, Erlendur mới tìm được chuyện để nói với con gái. Ông đã nghiên cứu rất kỹ ở Thư viện Quốc gia, tập hợp thông tin trên báo chí - những ấn bản được phát hành năm 1 910- năm mà sao chổi Halley b ăng qua Trái đất với cái đuôi mà ng ười ta cho rằng ch ứa đầy ch ất độc xy- a- nua. Ông được đặc cách cho phép đọc trên giấy tờ thay vì đọc trên máy vi phim. Ông thích được vùi đầu vào sách vở và báo cũ, thích ngh e tiếng những trang giấy sột soạt, thích hít thở mùi giấy đã ố vàng và cảm nhận mùi thời gian để lại trên những trang giấy cứng, bây giờ và mãi mãi.

    Khi Erlendur ngồi xuống bên giường bệnh của Eva Lind và bắt đầu kể cho con bé nghe v ề việc phát hiện ra bộ x ương ở Grafarholt, trời đã bắt đầu sập tối. Ôngk ể cho nó nghe chuy ện các nhà khảo cổ phân chia khu đất có bộ xương thành các khu vực nhỏ, kể chu yện Skarphédinn có nh ững chiếc răng nanh khiến ông ta khô ng thể ng ậm miệng lại được. Ông nói về nh ững bụi cây lý chua và những miêu tả lạ lùng của ông già Róbert về một côgái méo mó mặc đồ màu xanh. Ông k ể về Benjamín Knudsen và vợ chưa cưới của ông ta - ng ười bỗng dưng một ngày biến m ất, và tác động của việc đó đối với chàng trai. Ông cũng nh ắc đến Höskuldur, người đã thuê ngôi nhà gỗ trong chiến tranh, và kể về việc Benjamín nói rằng có một ng ười phụ nữ sống trên đồi được sinh ra ở thùng ch ứa ga sau cái đêm mà tất cả mọi ng ười cho rằng th ế giới sẽ bị hủy diệt.

    "Đó là năm Mark Twain 1 mất," Erlendur nói.

    Sao chổi Halley lao thẳng xuống trái đất với một tốc độ kinh hoàng, đuôi của nó chứa đầy khí độc. Thậm chí nếu Trái đất không bị vỡ vụ thành những mảnh nhỏ sau vụ va chạm, người ta vẫn tin rằng cái đuôi sao chổi sẽ quét qua trái đất và tất cả mọi sinh vật sẽ ch ết hết. Những người lo sợ nhất thì cho rằng họ sẽ bị lửa và axit thiêu rụi. Cơn hoảng loạn bùng nổ, không chỉở Iceland mà ở khắp nơi trên toàn th ế giới. Ở Áo, Trieste và Dalmatia, ng ười ta bán tất cả tài sản của mình chỉ tron g nháy mắt để lao vào nh ững trò tiêu khiển tro ng qu ãng đời ngắn ngủi còn lại của mình. Ở Thụy Sĩ, các trường tư thục dành cho n ữ sinh v ắng không một bón g ng ười vì các gia đình cho rằng họ nên ở bên nh au vào giây phút ngôi sao ch ổi hủy diệt trái đất. Giới tu sĩ được dạy cách nói theo các thu ật ngữ thôn g thường về thiên văn học để xoa dịu nỗi s ợ hãi của con ng ười.

    Ở Reykjavík, người ta nói rằng phụ nữ trốn vào g ầm giường vì sợ ngày tậ n thế, rất nhiều người tin rằng "mùa xuân lạnh lẽo năm đó là do sao ch ổi gây nên", theo nh ư một tờ báo đã nói. Ng ười già bắt đầu nói về ch uy ện thời tiết tồi tệ như thế nào trong

    1 Mark Twain là một nhà vănnổi tiếng ngườiMỹ, ông sinh ra vào chính ngày sao chổi Halley xuất hiệnnăm 1835 và mất đúng vào lần sao chổi Halley xuất hiệnlạinăm 1910.lần sao chổi đến g ần T rái đất trước đó.

    Vào kho ảng thời gian đó, ở Rey kjavík, khí đốt được cho là chìa khóa d ẫn đến tương lai. Đèn khí đốt được sử d ụng rộng rãi tron g thàn h ph ố, m ặc dù nó khô ng phổ biến đến m ức trở thành đèn thắp sáng trên đường phố nh ưng ng ười dân v ẫn đốt ch úng trong nhà mình. Bước tiếp theo trong kế hoạch là xây dựng một nhà máy sản xu ất khí đốt hiện đại ở vù ng ngo ại ô để đáp ứng toàn bộ nhu cầu tiêu thụ gas của người d ân trong nhiều thập kỷ tới. Thị trưởng thành ph ố Reykjavík đã đàm phán với một công ty của Đức, và Carl Franke - m ột kỹ sư - đã đi từ Brem en đến Reykjavík cùng v ới m ột nhóm chuyên gia khác để xây dựn g nhà máy sản xuất khí đốt Reykjavík. Nó đi vào hoạt động vào mùa thu n ăm 19 10.

    Bản thân cái thùng là một cái máy kh ổng lồ với dun g tích lên đến một nghìn n ăm trăm mét khối. Nó được gọi là "th ùng chuông" vì nó có th ể nổi trên m ặt n ước ở các m ức độ khác nhau phụ thuộc vào lượn g khí đốt bên trong. Ch ưa bao giờ nhìn thấy m ột thứ gì kỳ lạ nh ư thế, ng ười dân đổ xô đến xem nó được xây dựng nh ư th ế nào.

    Khi cái thùng sắp sửa được làm xong, một nhó m ng ười tụ tập bên trong vào cái đêm ngày m ười tám tháng Năm. Họ tin rằng cái thù ng đó là n ơi duy nhất ở Iceland có th ể bảo vệ được con ng ười tho át khỏi luồng khí độc của đuôi sao chổi. Ng ười ta kh áo nhau rằng trong cái thùng ấy đã diễn ra m ột bữa tiệc và nh ững ng ười ởđó đã cố gắng tận h ưởng nốt m ột đêm trụy lạc ngay trước ngày tận th ế.

    M ột vài ngày sau, chuy ện x ảy ra ở cái thùng ch ứa ga lan đi nh anh nh ư lửa ch áy. Ng ười ta đồn rằng nh ững người say xỉn tron g cái đêm thác loạn ấy đã chơi b ời thả cửa đến tận rạng đông

    - khi họ nh ận ra rằng rõ ràng là Trái đất khô ng bị hủy diệt, không va ch ạm gì với sao ch ổi cũng như chẳng có ngọn lửa địa ngục nào phát từ cái đuôi của nó hết. Ng ười ta còn nói rằng có m ột số đứa trẻ được sinh ra từ sau cái đêm hôm đó, và Erlendur b ăn kho ăn liệu có phải nhiều năm sau đó, một tron g số ch úng đã chết ở Grafarholt và được chôn cất tại đó k hô ng.

    "Văn phòng qu ản lý Nhà máy đó đến nay v ẫn cò n," ôn g nói với Eva Lind, không biết nó có nghe được mình nói hay không. "Nh ưng ngoài cái đó ra, m ọi d ấu vết của Nhà máy đã m ất h ết. Cuối cùng, ngu ồn n ăng lượng của tương lai hóa ra lại là điện ch ứ không ph ải khí đốt, con ạ. Cái nhà máy ấy ở Raudarárstígur, ngày nay đã biến thành trạm xe bus Hlemmur, và nó v ẫn ho ạt động tốt b ất kể trong quá kh ứ nó có là cái gì đi ch ăng n ữa. Vào nh ững ngày rét cắt da cắt thịt, nh ững ng ười vô gia cư vẫn thường đến đó, ngồi bên ng ọn đèn sưởi ấm, nh ất là vào ban đêm. Và vào thời kỳđen tối nh ất của mùa đô ng, nơi đó th ường có rất đông ng ười đến."

    Eva Lind ch ẳng có ph ản ứng gì khi Erlendur kể câu ch uy ện đó. Ông cũng ch ẳng mong chờđiều ấy xảy ra. Ông không mong ch ờ vào phép màu.

    "Nhà máy s ản xu ất khí đốt được xây d ựng trên một m ảnh đất nh ỏ có tên là Elsumýrarblettur," ông nói tiếp và mỉm cười trước sự mỉa mai của Th ượng đế. "Nh iều n ăm sau khi nhà máy đó bị phá h ủy và cái thùng ch ứa bị dời đi, Elsumýrarblettur đã bị sa sút rất nhiều. Sau đó m ột lô văn phòng được xây dựng trên m ảnh đất đó, đối diện với trạm xe bus. Cái lô đó bây giờ là trụ sở cảnh sát Reykjavík. Văn phòng của bốởđó. Ởđúng vị trí của cái thùng ch ứa trước đây."

    Erlendur ng ừng lại.

    "T ất cả chún g ta đều ch ờ đến ngày cuối cùng của thế giới," ông nói. "Không cần biết đó là một ngôi sao chổi hay thứ gì. Tất cả chú ng ta đều có ngày tận thế của riêng mình. Một số ng ười tự mang nó đến với mình. M ột số ng ười né trán h nó. Hầu hết ch úng ta đều sợ nó, có ph ần kính nể nó. Nh ưng không ph ải là co n. Con khô ng bao giờ sợ hãi bất cứđiều gì. Và con cũng không sợ cả cái ngày tận th ế bé nhỏ của mìn h."

    Erlendur ng ồi yên nhìn con gái, không biết việc mìn h nói chu y ện v ới con - trong khi d ường nh ư nó ch ẳng nghe được m ột lời nào - có ý nghĩa gì không. Ông nh ớ lại lời ông bác sĩ nói và cảm th ấy khuây kh ỏa đôi chút khi nói chuy ện với con gái nh ư th ế này. Rất ít khi ông có th ể nói ch uy ện với nó một cách bình tĩnh và d ễ dàng. Sự căng th ẳng đã nhu ốm lên toàn bộ m ối quan h ệ giữa hai b ố con khiến họ rất hiếm khi ngồi xu ống để nói chuy ện nh ẹ nhàng với nhau.

    Nh ưng cũng ch ẳng m ấy khi họ nói chuy ện, Erlendur cười nh ăn nhó. Ông cứ nói còn con bé cứ không nghe. Về ch uy ện đó thì chẳng có gì thay đổi giữa họ cả. Có th ểđó là những điều con bé không muốn ng he. Việc phát hiện ra bộ x ương, nhà máy khí đốt, ngôi sao chổi và vụăn chơi thác lo ạn. Có th ể con bé muốn nghe ông nói về một chu yện gì đó hoàn toàn khác. Về bản thân ông. Hoặc v ề gia đình họ.

    Ông đứng lên, cúi xu ống hôn vào trán nó rồi ra kh ỏi phò ng. Erlendur v ẫn chìm đắm trong dòng suy ngh ĩ, và thay vì rẽ ph ải xuống cầu thang đi ra khỏi khu điều trị, ông lại đi theo h ướng ng ược lại đến khu ch ăm sóc đặc biệt, đi qua nh ững căn phò ng chiếu sáng lờ m ờ n ơi các b ệnh nhân khác đang n ằm, cơ th ể họ được nối v ới tất cả nh ững thiết bị tối tân nh ất. Ông chỉ sực tỉnh khỏi cơn mê khi đã đi đến cu ối hành lang. Ông đang định quay lại thì có một ng ười phụ n ữ bé nhỏđi ra từ căn phòng trong cùng và đụng ph ải ô ng.

    "Xin lỗi," cô ta nói b ằng giọng hơi gắt.

    "Không, tôi mới phải xin lỗi," Erlendur bối rối nhìn quanh. "Tôi không định đi lối này. Tôi định ra kh ỏi khu điều trị cơ."

    "T ôi được gọi đến đây," ng ười phụ n ữ thấp bé nói. Tóc cô ta m ỏng qu ẹt, bộ ngực khổng lồ chỉ được che đậy dưới cái áo phông màu tím, người cô ta tròn lẳn với khuô n m ặt thân thiện. Erlendur thấy một hàng ria đen ở trên mép cô ta. Erlendur liếc vào trong phòng nơi ng ười phụ n ữ này vừa đi ra và thấy một ôn g già đang nằm đắp ch ăn trên giường, khuôn mặt gầy guộc, xanh xao. Một ng ười phụ n ữ khoác áo lông thú đắt tiền ngồi bên cạnh giường bệnh, bà ta đưa bàn tay đeo g ăng ch ặm kh ăn lên mũi.

    "Vẫn còn có một số người tin vào các ông đồng bà cốt," ng ười phụ n ữ nói nhỏ, như th ể là nói v ới chính mình.

    "Xin lỗi, tôi kh ông hiểu…"

    "T ôi được gọi đến đây," cô ta nói và nh ẹ nhàng đưa Erlendur ra xa căn phòng. "Ông ta sắp ch ết rồi. Họ khôn g thể làm gì được nữa. Vợ ông ta đang ởđó. Bà ta nh ờ tôi liên hệ với ông ta. Ông ta đang bị hôn mê và người ta nói rằng họđã làm hết s ức mìn h, nh ưng ông ta không mu ốn ch ết. Nh ư kiểu là ông ta không muốn ra đi ấy. Bà ta nhờ tôi giúp, nh ưng tôi không thể tìm ra ông ta."

    "Tìm ra ông ta?" Erlendur h ỏi.

    "Ởthếgiới bên kia ấy."

    "Bên kia... cô là m ột bà đồng ư?"

    "Bà ta không hiểu rằng chồng mình đang h ấp hối. Cách đây m ấy ngày ông ta ra ngoài và điều tiếp theo mà bà ta biết là cảnh sát gọi đến và thông báo có một vụ tai nạn ô tô xảy ra trên đường West. Lúc đó ông ta đang trên đường đến Borgarfjördu. M ột chiếc xe tải đi ch ệch sang làn đường của ông ta. Họ nói rằng việc cứu ông ta là vô vọng. Não đã ch ết. "

    Cô ta nhìn lên Erlendur, còn ông thì đang nhìn cô ta ch ằm ch ằm không hiểu gì.

    "Bà ta là b ạn tôi."

    Erlendu r không biết cô ta đang nói về ch uyện gì và tại sao cô ta lại nói với mình tất cả nh ững chuy ện này ở m ột hành lang tối lờ m ờ với giọng thì thầm bí ẩn. Ông nói lời tạm biệt cụt lủn với người phụ nữ mà ông chưa từng gặp trước đây. Ông đang chu ẩn bị bước đi thì cô ta túm lấy tay ông.

    "Ch ờ m ột lát," cô ta nói.

    "Xin lỗi?"

    "Ch ờ m ột lát."

    "Xin lỗi, nh ưng đây không ph ải là việc của tôi…"

    "Có m ột cậu bé ởđó," ng ười phụ nữ bé nhỏ nói. Erlendur không nghe rõ cô ta nói gì. "Có m ột cậu bé trong trận bão tuy ết," cô ta nói tiếp. Erlendur nhìn cô ta đầy kinh ngạc và giật tay ra nh ư th ể ông

    vừa bịđâm m ột nh át.

    "Cô đang nói gì cơ?" ông h ỏi.

    "Ông có biết đó là ai không?" ng ười phụ nữ hỏi v à nhìn lên

    Erlendur.

    "Tôi không hiểu một chút nào về những điều cô đang nói," Erlendur ngắt lời cô ta, quay người và đi xuống hành lang d ẫn ra ngo ài.

    "Ông không phải sợ gì cả," cô ta nói đằng sau. "Cậu ta ch ấp nh ận điều đó. Cậu ta ch ấp nh ận nh ững gì đã xảy ra. Đó không ph ải là lỗi của ai h ết."

    Erlendur d ừng lại, ch ầm ch ậm quay lưng và nhìn ch ằm ch ằm vào ng ười phụ nữ bé nhỏở đầu kia của hành lang. Ông không hiểu tại sao cô ta lại cứ khăng khăng như vậy.

    "Thằng bé đó là ai?" cô hỏi. "Tại sao nó lại đi với ông?"

    "Chẳng có đứa bé nào hết," Erlendur khịt mũi. "Tôi không hiểu ý cô. Tôi không hề quen biết cô và tôi cũng ch ẳng biết cô đang nói đến đứa bé nào. Để tôi yên!" ông quát lên.

    Sau đó ông quay người và lao ra khỏi khu điều trị.

    "Để tôi yên," ông rít lên qua hai hàm răng nghiến chặt.

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 18
    Tìm hướng giải quyết vấn đề

    Edward Hunter từng là một nhân viên trong lực lượng quân đội thời chiến của Mỹ,ông ta là một trong số rất ít những quân nhân không rời đi sau khi hòa bình lập lại. Jim, viên thư ký ở Tòa Đại sứ Anh đã tìm ra ông ta mà không m ất nhiều công sức nhờ có Tòa Đại sứ Mỹ. Jim tìm kiếm những thành viên của lực lượng chiếm đóng của Anh và Mỹ, nhưng theo nhưỦy ban Nh à đất London, có rất ít người còn sống. Hầu hết những người lính Anh đến Iceland đã thiệt m ạng trong cuộc chiến ở Nam Phi và Ý hay trên chiến trường miền Tây, trong cuộc xâm lược của Normandy năm 1944. Sau đó chỉ có một vài người Mỹđóng quân tại Iceland ra chiến trường, còn lại hầu hết là ở lại trong suốt chiến tranh. Có một vài người lưu lại Iceland và lấy vợởđây rồi cuối cùng đổi sang quốc tịch Iceland. Một trong số họ là Edward Hunter. Erlendur nhận được điện thoại của Jim vào sáng sớm.

    "T ôi đã nói chu yện với Đại sứ quán M ỹ và họ chỉ cho tôi đến ch ỗ ông Hunter này. Để tránh phiền ph ức cho ô ng, tôi đã nói ch uy ện v ới ông ta. Tôi hy vọng chuy ện đó được ông cho phép."

    "Cảm ơn ông," Erlendur đáp.

    "Ông ấy sống ở Kó p avo gu r."

    "Ông ấy ởđó từ hồi chiến tranh à?"

    "Rất tiếc là tôi không biết điều đó."

    "Nh ưng ông ta v ẫn sống ởđây, nói cách khác, cái ông Hunter này ấy," Erlendur nói trong lúc đưa tay dụi m ắt.

    Tối hôm đó Erlendur ng ủ khô ng ng on, ông chỉ lơ m ơ và g ặp toàn ác mộng. Nh ững lời mà người phụ nữ nhỏ bé ở bệnh viện nói chiều hôm trước v ẫn cứ ám ảnh ông. Ông không tin chuy ện nh ững ng ười hầu đồng có thể trở thành cầu nối giữa cõi dương và cõi âm, và ông cũng không tin rằng họ có thể nhìn thấy nh ững điều ng ười khác không nhìn thấy. Ng ược lại, ông cho rằng họ chỉ là nh ững kẻ chuy ên đi lừa đảo, họ đủ thông minh để có th ể lấy được thông tin từ mọi ng ười và giải mã ngôn ng ữ cơ thể để d ựng lên chi tiết về nh ững người họ quan tâm, và gần nh ư một n ửa trong số chú ng là đú ng, nửa còn lại có th ể sai lè - một kh ả n ăng đơn giản. Erlendur từng chế giễu chuy ện đó là vô bổ khi người ta bàn tán về nó trong sở, điều này khiến Elínborg rất chán n ản. Cô tin vào đồng cốt và s ự sống sau cái ch ết, vì m ột số lý do nào đó cô hy vọng ông sẽ cởi m ở hơn v ới những chuy ện đại lo ại như thế. Có th ể là vì ông xuất thân từ nông thôn. Đó hóa ra lại là một sự hiểu lầm nghiêm trọng. Ch ắc ch ắn Erlendur không bao giờ ch ấp nh ận nh ững chuyện siêu nhiên. Tuy nhiên có điều gì đó về ng ười phụ n ữ ông gặp ở bệnh viện và những điều cô ta nói khiến Erlendur cứ nghĩ mãi, và kết qu ả là nó đã quấy nhiễu giấc ngủ của ôn g.

    "Ph ải, bây giờ ông ta v ẫn ởđây," Jim nói và cực kỳ hối lỗi vì đã đánh th ức Erlendur d ậy. Ông ta nghĩ rằng người Iceland dậy sớm. Bản thân ông ta cũng thế, ánh sáng ban ngày bất tận của mùa xuân ch ẳng làm cho ông ta vui vẻ chút nào.

    "Hượm đã, vậy là ông ta đã k ết hôn với một ng ười Iceland sao ?"

    "Tôi đã nói chuyện với ông ta," Jim nhắc lại bằng ngữđiệu Anh của mình như thể chưa nghe thấy câu hỏi. "Ông ta đang chờ ông gọi điện. Đại tá Hunter đã phục vụ một thời gian trong quân cảnh ở Reykjavík và ông ta nhớ có một vụ việc xảy ra ở một kho quân nhu trên đồi mà ông ta sắp kể với ông."

    "Vụ việc nào cơ?" Erlendur hỏi.

    "Ông ta sẽ kể cho ông nghe. Và tôi sẽ tiếp tục tìm thêm thông tin về nh ững ng ười lính đã chết ho ặc mất tích ởđây. Ông cũng nên hỏi Đại tá Hunter v ềđiều đó n ữa."

    Họ chào tạm biệt nhau, Erlendur ch ậm ch ạp đi vào bếp pha cà phê. Ông vẫn đan g đắm chìm trong suy nghĩ. Liệu một cô đồng có th ể nói được một ng ười đang ở bên nào của ranh giới giữa sự sống và cái chết không? Không thể ch ấp nh ận được điều đó, ông tự nhủ rằng nếu đó làmột cách để an ủi nh ững ng ười vừa mới m ất đi ng ười thân yêu, ông sẽ k hôn g ph ản đối nó nữa. Bản th ân sự an ủi mới là quan trọng, ch ứ kh ông phải là vấn đề nó đến từ đâu.

    Cà phê sôi sùng sục làm Erlendur bỏng cả lưỡi khi ông vừa nhấp một ngụm. Ông tránh nghĩ đến cái điều đã dày vò mình cảđêm và sáng hô m đó, cố gắng không nhớ đến nó n ữa.

    Không ít thì nhiều.

    Cựu Đại tá qu ân đội Mỹ Edward Hunter mang dáng dấp của m ột ng ười Iceland h ơn là ng ười Mỹ khi ăn vận m ột chiếc áo len kín đáo và nuôi bộ râu m ảnh màu trắng. Ông ta m ời Erlendur và Elínborg vào ngôi nhà riêng của mình ở Kópavogur. Mái tóc ông ta rối bù và bẩn, tuy nhiên thái độ v ẫn rất thân thiện vàlịch sự khi b ắt tay hai thám tử và bảo họ cứ gọi mình là Ed. Kiểu cách đó khiến Erlend ur nh ớ đến Jim. Ông ta nói rằng vợ mình đang đi thăm chị gái của ông ta ở Mỹ. Còn bản thân ông ta thì ngày càng ít đến đó.

    Trên đường đến thăm Ed, Elínborg đã nói với Erlendur rằng theo nh ư lời Bára nói, khi vợ ch ưa cưới của Benjamín m ất tích, cô tam ặc m ột chiếc áo khoác màu xanh lục. Elínborg cho rằng điều này rất thú vị, nh ưng Erlendur đã ch ặn cuộc nói chuy ện bằng cách nói khá sẵng rằng ông không tin vào ma quỷ. Elínborg có cảm giác rằng ch ủ đề câu chuyện đã khép lại.

    Ed đưa họ vào một phòng khách rộng, và khi nhìn quanh m ột lượt, Erlendur thấy có rất ít bằng ch ứng về cuộc sống quân ngũ của ông ta: trước m ặt ông là hai b ức tranh phong cảnh Iceland ảm đạm, những b ức tượng đá của Iceland và nh ững b ức ảnh gia đình được lồng khung. Ch ẳng có gì khiến Erlendur nhớ đến quân đội hay Th ế ch iến th ứ hai.

    Vì biết họ đến nên Ed đã chu ẩn bị sẵn cà phê, trà và bán h qu y. Sau m ấy ph út nói ch uy ện xã giao miễn cưỡng, ng ười lính già đi thẳng vào vấn đề và hỏi mình có thể giúp được gì. Ôn g ta nói m ột thứ tiếng Iceland hoàn h ảo với nh ững cụm từ ngắn và chính xác, nh ư thể kỷ luật quân đội đã d ạy ông ta phải biết giữ lại nh ững gì quan trọng nh ất.

    "Ông Jim ở Đại sứ quán Anh nói cho chúng tôi biết rằng ông đã ph ục vụởđây trong suốt chiến tranh và ông có liên quan đến m ột vụ việc dính dán g đến kho quân nhu ở vị trí hiện nay của sân golf Grafahort."

    "Ph ải, hiện giờ tôi vẫn thường xuy ên đến đó chơi golf," Ed nói. "T ôi đã nghe tin tức về nh ững m ẩu x ương trên đồi. Jim nói với tôi các ông cho rằng có thể chú ng thuộc v ề một trong số nh ững ng ười của chúng tôi. Người Anh ho ặc M ỹ."

    "Có v ụ việc gìxảy ra ở kho quân nhu thế?" Erlendur h ỏi.

    "Họ thường ăn cắp đồ," Ed nói. "Chuy ện đó xảy ra ở hầu hết các kho quân nhu, tôi nghĩ rằng các ông gọi đó là ‘sự hao hụt’. M ột nhó m binh lính ăn cắp đồ d ự trữ và bán chúng cho ng ười Iceland. Chuy ện này bắt đầu xảy ra với quy mô nhỏ, nh ưng dần dần họ bạo gan hơn và cu ối cùng nó trở thành một vụ làm ăn lớn. Ng ười sĩ quan hậu cần cũng tham gia cùng với họ. Tất cả những người ấy đều phải đi tù. Ph ải rời bỏ đất nước. Tôi nhớ chu yện đó rất rõ. Tôi có giữ m ột cuốn nhật ký và đã đọc lại nó sau khi Jim gọi điện. Tất cả nh ữn g chuy ện đó như sống lại tron g tôi, việc ăn trộm ấy. Tôi cũng gọi cho bạn tôi từ thời đó, Phil, ông ấy là thượng cấp của tôi. Chún g tôi đã cùng nhau ôn lại chu yện cũ."

    "Làm th ế nào mà vụ trộm cắp đó bị phát hiện?" Elínborg hỏi.

    "Lòng tham đã khiến họ m ờ mắt. Trộm cắp với số lượng lớn nh ư thế thì khó che giấu lắm. Rồi tin đồn về sự phá kỷ lu ật bắt đầu lan đi. "

    "Có những ai liên lụy?" Erlendur lấy ra một điếu thu ốc lá và Ed gật đầu ra dấu rằng ông cứ hút tự nhiên. Còn Elínborg nhìn Erlendur đầy trách cứ.

    "Dân thường. Gần nh ư là vậy. Sĩ quan hậu cần bị kết tội nặng nh ất. Và ít nh ất là có một ng ười Iceland. Một ng ười đàn ông sống trên đồi. Ở phía bên kia của kho quân nhu."

    "Ông có nhớ tên anh ta không?"

    "Không. Anh ta sống cùng gia đình trong một ng ôi nhà tuềnh toàng không được sơn. Chúng tôi tìm th ấy rất nhiều hàng hóa lấy từ kho qu ân nhu ởđó. Tôi viết tro ng nhật ký rằng anh ta có ba con, một tro ng sốđó là một cô gái bị tật nguy ền. Hai đứa còn lại là con trai. Người m ẹ…"

    Ed yên lặng.

    "Ng ười m ẹ thì sao?" Elínborg nói.

    "T ôi nghĩ là cô ấy đã sống rất khổ sở." Ed lại yên lặng và trầm ngâm suy nghĩ như thểđan g đưa mình quay trở lại thời xa xôi đó, khi mà ông điều tra vụăn cắp, bước vào m ột ngôi nhà của ng ười Iceland và gặp m ột ng ười phụ nữ mà ông hiểu rằng cô là nạn nhân của bạo lực gia đình. Và không chỉ là nạn nhân của một trận đánh gần đây; rõ ràng cô đã ph ải chịu đựng sự ng ược đãi thường xuyên và có hệ th ống, cả về th ể ch ất lẫn tinh th ần.

    Ông hầu như không chú ý đến cô ấy khi bước v ào ngôi nhà cùng bốn cảnh sát quân đội khác. Hình ảnh đầu tiên đập vào mắt ông là một bé gái bị tật ng uy ền n ằm trên chiếc đi- v ăng cũ kỹ trong b ếp. Ông th ấy hai th ằng con trai đứng bên cô bé, sững sờ và kinh ng ạc khi thấy qu ân lính xộc vào nhà. Ông nhìn thấy ng ười đàn ông nh ảy dựng lên từ bàn ăn. Họ đến mà khôn g thông báo trước và rõ ràng là anh ta không mong ch ờ cu ộc viếng thăm này. Chỉ cần liếc m ắt họ cũng biết ng ười nào cứng đầu, ng ười nào có kh ả n ăng nguy hiểm. Ng ười đàn ông này khó có thể gây khó khăn cho h ọ.

    Sau đó ông th ấy ng ười ph ụ nữ. Lúc đó m ới là đầu xuân, trời rất ảm đạm, ph ải m ất một lúc ông m ới quen với bóng tối trong nhà. Như th ểđang lẩn trốn, ng ười phụ nữ đứng ở ch ỗ m à ông nghĩ rằng mình có th ể trô ng thấy một hành lang dẫn đến các phòng khác. Lúc đầu, ông bắt cô ấy vì nghĩ cô là một tro ng số nh ững tên trộm và đang cố ch ạy trốn. Ông tiến lại chỗ hành lang, rút súng ra khỏi bao. Ông hét lên và chĩa súng vào bóng tối. Đứa bé bị què bắt đầu hét lên. Hai th ằng con trai lao vào ông ngay lập tức và hét lên nh ững câu mà ông không hiểu. Vàng ười ph ụ nữ bước ra kh ỏi bóng tối, ng ười mà ông sẽ không bao giờ quên cho đến cu ối đời.

    Ngay lập tức ông nh ận ra lý do tại sao cô lại giấu mìn h. Khuôn mặt cô bị bầm tím rất nặng, môi trên phồng lên còn một m ắt bị sưng đến m ức khô ng thể m ở ra được. Cô nhìn ông bằng tia nhìn sợ hãi của con mắt còn lại, sau đó cúi đầu xuống như thể theo b ản năng. Nh ư thể sợ ông ta chuẩn bịđánh mình. Cô m ặc m ột chiếc váy rách tảtơi phủ bên ngoài một chiếc kh ác, đi đôi tất và đôi giầy cũ kỹ bẩn thỉu. Mái tóc b ẩn của cô xõa xuống vai thành một m ớ dày. Ông th ấy cô đi kh ập khiễng. Đây là sinh vật khốn khổ nh ất mà ông từng thấy trong đời.

    Ông nhìn cô trong lúc cô cố gắng bảo các con bình tĩnh lại và hiểu rằng không phải cô đang cố g ắng che giấu đi vẻ b ề ngoài của mìn h.

    Mà cô ấy đang che giấu sự x ấu hổ.

    Nh ững đứa trẻ yên lặng. Th ằng anh đứng đằng trước, quay lưng về phía m ẹ. Ed nhìn san g ch ỗ gã ch ồng, tiến lại và tát vào m ặt h ắn m ột phát n ổđom đóm m ắt.

    "Ch uy ện là như th ế," Ed kết thúc câu chuyện của mình. "Tôi khô ng th ể kiềm ch ế bản thân mình được. Không hiểu chuy ện gì đã diễn ra. Tôi kh ông hiểu ch uy ện gì đã xảy đến v ới mình. Th ực sự, tôi khô ng hiểu nổi. Chúng ta đã được huấn luy ện, hai ng ười biết đấy, được hu ấn luy ện để đối m ặt với tất cả mọi chu yện. Được hu ấn luy ện để giữ bình tĩnh, cho dù có chuy ện gì xảy ra đi ch ăng n ữa. Hai người có thể hình dung rằng, điều qu an trọng nh ất là ph ải kiểm soát được mìn h ở mọi nơi m ọi lú c, tron g khi chiến tranh đang xảy ra và tất cả nh ững chuyện khác nữa. Nh ưng khi tôi nhìn ng ười phụ n ữđó… khi tôi thấy nh ững gì cô ấy phải chịu đựng - và ch ắc ch ắn là kh ông chỉ có thế - tôi có th ể hình dung ra cu ộc sống của cô ấy dưới bàn tay tên khốn đó. Và có điều gì đó ch ợt xảy đến trong tôi. Có điều gì đó diễn ra mà tôi khô ng th ể n ào kiểm soát n ổi."

    Ed d ừng lại.

    "Tôi làm cảnh sát ở Baltimore hai n ăm trước khi chiến tranh nổ ra. Hồi ấy ch uy ện đó khô ng được gọi là bạo lực gia đình, nh ưng nó cũng thế cả thôi. Tôi cũng đã bắt gặp điều đó, ở ngôi nh à đó và tôi luôn luôn gh ê tởm nó. Tôi có thể hình dung ra ngay nh ững gì mà hắn đã làm, hắn lại còn ăn cắp của chú ng tôi nữa… nh ưng, thế đấy, hắn lại bị xử bởi tòa án của các ông," Ed nói như thểđang cố gắng đẩy những hình ảnh về ng ười phụ nữ trên đồi ra khỏi tâm trí của mình. "T ôi khô ng nghĩ là hắn phải chịu m ột bản án nặng. Ch ắc ch ắn hắn lại quay về nhà và đán h đập ng ười vợ đáng th ương trước khi cái thời h ạn hai tháng trôi qua."

    "Như vậy, ông đang nói về bạo lực gia đình nghiêm trọng," Erlendur nói.

    "Chuy ện tồi tệ nhất mà tôi có thể tưởng tượng ra. Ánh mắt của người phụ nữ đó, nó thật sự kinh hoàng," Ed nói. "Rất kinh hoàng. Như tôi đã nói, tôi có thể biết ngay tức khắc chuyện gì đã xảy ra. Tôi cố gắng nói chuyện với cô ấy nhưng cô ấy không hiểu một từ tiếng Anh nào hết. Tôi nói với cảnh sát Iceland về cô ấy, nhưng họ nói rằng họ cũng không làm được gì nhiều. Chuyện đó cũng chẳng biến chuyển nhiều, tôi hiểu vậy."

    "Ông không nhớ tên của họ à?" Elínborg hỏi. "Ông không ghi vào nhật ký à?"

    "Không, nh ưng các ông ph ải có báo cáo về việc đó. Về vụăn trộm ấy. Và hắn lại làm việc tro ng kho quân nhu. Ch ắc ch ắn là ph ải có danh sách nh ững ng ười được thuê làm ởđó, nh ững ng ười Icelan d ở doanh trại trên đồi. Nhưng cóth ể là đã quá lâu rồi."

    "T h ế còn nh ững ng ười lính thì sao?" Erlendur hỏi. "Những ng ười mà tòa án của các ông x ửấy?"

    "Họ bị ph ạt tù. Ăn cắp của kho quân nhu là tội rất n ặng. Sau đó h ọ bị đưa ra chiến trường. M ột b ản án tử hình hoàn h ảo."

    "Và các ông b ắt h ọ không sót một ai?"

    "Ai mà biết được? Nh ưng sau đó không còn n ạn ăn cắp n ữa. Việc kiểm kê hàng hóa lại trở lại bình thường. Vấn đề đã được giải quy ết."

    "Vậy ông không cho rằng chuyện này có chút dính líu gì đến bộ x ương mà chúng tôi tìm th ấy à?"

    "Tôi không dám ch ắc."

    "Ông không nhớ có ai bị m ất tích trong lực lượng của ông hay của ng ười Anh à?"

    "Ý ông là một k ẻđào ngũư?"

    "Không. Một vụ m ất tích khó giải thích ấy. Vìbộ xương đó. Có thể là một lính Mỹở kho d ự trữ kh ông ?"

    "Tôi không biết m ột thông tin nào h ết. "

    Họ nói ch uy ện với Ed thêm m ột lúc lâu n ữa. Ông ta tỏ ra thích trò chuy ện v ới hai thám tử. Dường nh ư ông ta thích hồi tưởng lại những ngày x ưa cũ với sự giúp đỡ của cu ốn nhật ký của mình. Chẳng m ấy ch ốc họđã nói ch uy ện v ề những n ăm chiến tranh ở Iceland và nh ững ảnh hưởng của sự có m ặt của qu ân đội ch o đến khi Erlendur tỉnh táo lại. Mình không được phun g phí thời gian như thế. Ông đứng lên và Elínborg cũng thế, cả hai ng ười h ọ cảm ơn Ed một cách chân thành.

    Ed đứng lên để tiễn h ọ ra ng oài.

    "Làm th ế nào mà các ông phát hiện được vụăn cắp?" Erlendur hỏi ở bậc cửa.

    "Ph át hiện ra ư?" Ed nh ắc lại.

    "Các ông lấy manh mối ởđâu ?"

    "À, tôi hiểu rồi. Một cuộc điện thoại. Có ai đó gọi điện đến sở chỉ huy và báo cáo về một vụđánh cắp lớn ở kho d ự trữ."

    "Ai đã tố cáo nhỉ?"

    "Chúng tôi không bao giờ tìm ra, tôi e vậy. Không bao giờ biết người đó là ai."

    ° ° °

    Sím on đứng bên cạnh mẹ và quan sát, nó điếng cả người khi ng ười lính đi vòng quanh nhà với vẻ mặt đầy ng ạc nhiên và giận dữ, ông ta đi thẳng qua bếp và tát bố nó nổđom đóm mắt đến nỗi bố nó ngã lăn ra sàn nhà.

    Ba ng ười lính còn lại đứng yên ở cửa ra vào trong lúc ng ười vừa tấn công Grímur đứng bên trên và quát nạt ông ta bằng nh ững lời lẽ mà ng ười Iceland không hiểu nổi. Símon không thể tin nổi vào m ắt mình. Nó nhìn Tómas, khiếp đảm trước những gì đang diễn ra, và sau đó nhìn sang Mikkelína, chị nó đang nhìn ch ằm ch ằm đầy ho ảng loạn vào Grímur - ng ười lúc n ày đang nằm trên sàn nhà. Nó nhìn lên mẹ nó và th ấy mắt m ẹ rưng rưng nước.

    Grímur không được phòn g bị từ trước. Khihọ nghe thấy tiếng hai chiếc xe jeep đỗ bên ngoài nhà, người m ẹđã lẩn nhanh vào trong hành lang để khô ng ai nhìn thấy mìn h, nhìn thấy hốc mắt tím bầm và đôi môi nứt toác. Grímur thậm chí còn ch ưa đứng lên khỏi bàn ăn, nh ư th ể hắn không lo lắng gì về việc trộm cắp của hắn và nh ững tên ăn cắp vặt sẽ có ngày bị phát hiện. Hắn đang ch ờ nh ững ng ười b ạn lính của mình mang đến m ột ch uy ến h àng mà họ dự định sẽ giấu trong nhà và buổi tối sẽ vào thành phố bán chiến lợi phẩm của mình. Grímur có rất nhiều tiền và h ắn bắt đầu nói đến ch uy ện chuy ển đi khỏi ngọn đồi, mua m ột căn hộ, và thậm chí cả việc mua ô tô, nh ưng chỉ khi nào tinh thần rất thoải mái h ắn m ới nói nh ững chuy ện nh ư th ế.

    Nh ững ng ười lính dẫn Grímur ra khỏi nhà, tống hắn lên một trong hai chiếc xe jeep và giải hắn đi. Ng ười đứng đầu - ng ười đã đốn Grímur ngã xuống sàn mà không m ất chút cô ng sức khó nhọc nào - đã nói điều gì đó với ng ười m ẹ và sau đó chào tạm biệt, không ph ải là kiểu chào nhà binh mà là một cái bắt tay, sau đó ông ta leo lên chiếc xe jeep còn lại.

    Ngôi nhà nh ỏ bé lại nhanh chóng chìm ng ập trong sự yên lặng. Ng ười m ẹ vẫn đứng nguyên ở chỗ hành lang nh ư th ể việc xâm nh ập v ừa rồi vượt quá tầm hiểu biết của cô. Cô nh ẹ nhàng xoa m ắt, dán ch ặt mắt vào nh ững gì mình v ừa nhìn được. Mẹ con họ ch ưa bao giờ nhìn thấy cảnh Grímur nằm trên sàn nhà, ch ưa bao giờ ch ứng kiến hắn n ằm chỏng queo nh ư th ế. Ch ưa có m ột ai dám quát hắn, ch ưa bao giờ th ấy hắn kém cỏi nh ư vậy. Họ không th ể hiểu được chu y ện gì v ừa x ảy ra. Nó x ảy ra như thế nào. T ại sao Grímur lại không đánh lại ng ười lính và d ần cho họ một trận nh ừ tử. Nh ững đứa trẻ nhìn nhau. Trong ngôi nhà, sự yên lặng trở nên ng ột ng ạt. Chúng nhìn m ẹ k hi ng he thấy m ột âm thanh lạ. Âm thanh đó phát ra từ Mikkelína. Con bé ng ồi xổm trên chi ếc gi ườ ng của nó và họ lại ng he th ấy âm thanh ấy lần n ữa. Họ thấy con bé cười rúc rích, và tiếng cười rúc rích chuy ển dần thành tiếng cười kh ẩy, lúc đầu con bé đã cố gắng nín lại nhưng không được, về sau con bé cười ầm lên. Símon mỉm cười rồi cũng cười phá lên, Tómas cũng bắt ch ước, và ngay lập tức cả ba gào rú lên nh ững tràng cười không dứt vang vọng kh ắp qu ả đồi, lan vào tiết trời xuân đẹp đẽ.

    Hai tiếng sau, một xe tải quân đội đến và thu dọn hết tất cả nh ững chiến lợi ph ẩm mà Grímur và đồng bọn đã giấu trong nh à. Nh ững đứa trẻ nhìn theo cái xe tải dần đi x a, sau đó chúng ch ạy lên đồi và th ấy nó quay trở lại kho quân nhu, nơi các món đồ được dỡ xuống.

    Símon không biết đích xác chuy ện gì đã xảy ra và nó cũng không dám ch ắc là m ẹ nó hiểu, nh ưng Grímur đã bị kết án tù và trong một vài thán g tới ông ta sẽ kh ông được phép về nhà. Lúc đầu, cuộc sống trên đồi v ẫn diễn ra nh ư mọi khi. Dường nh ư họ khô ng hiểu được rằng Grímur không còn ở nhà n ữa. Ít nh ất là tron g thời gian hiện tại. Người m ẹ vẫn làm những công việc vặt hàng ngày, không băn kho ăn gì về việc sử dụng những của cải bất chín h của Grímur để nuôi sống bản thân và các con. Về sau cô tự tìm việc làm ình ở nông trại Gufunes cách nhà tầm nửa tiếng đồng hồđi bộ.

    Khi thời tiết thu ận lợi, hai thằng con trai vẫn đưa Mikk elín a ra tắm n ắng. Đôi lúc chúng đưa chịđi cùng mỗi khi đi câu cá ở hồ Reynisvatn. Nếu chún g bắt được đủ cá hồi, m ẹ chúng sẽ rán cá tron g ch ảo và n ấu một b ữa ngon lành. Dần d ần, họ không còn e ng ại rằng Grímur vẫn kìm kẹp mình ngay cả khi h ắn khôn g ở nhà nữa. Việc th ức dậy vào buổi sáng dễ dàng hơn rất nhiều, một ngày trôi qua mà không ai ph ải lo lắng điều gì, và đêm đã về mà ngôi nhà vẫn chìm trong yên tĩnh, chu y ện này thật d ễ chịu đến m ức họ th ức đến tận đêm khuya trò chuy ện và ch ơi đùa cho đến khi m ắt díp h ết cả lại.

    Tuy nhiên, sự vắng m ặt của Grímur ảnh hưởng lớn nhất đến mẹ của lũ trẻ. Một ngày, khi cuối cùng cô cũng nhận ra rằng hắn sẽ không quay trở lại ngay nữa, cô lau chùi từng phân trên chiếc giường đôi của họ. Cô phơi đệm ra ngo ài sân, đập và phủi tất cả những bụi bẩn bám trên đó. Sau đó cô mang ch ăn m ền ra và đập cả chúng nữa. Cô thay khăn trải giường, tắm rửa cho các con với xà phòng màu xanh và nước nóng lấy từ cái bình lớn cô đặt trên sàn bếp. Cuối cùng, cô cẩn thận gội đầu và rửa m ặt sạch sẽ - trên đó vẫn còn hằn những dấu vết từ lần đánh đập trước của Grímur - cô tắm cả người mình. Cô lưỡng lự cầm một cái gương lên và soi vào đó. Cô xoa m ắt và môi. Ng ười cô đã gầy đi và khuôn mặt đã đanh hơn, răng hơi nhô ra một chút, hai mắt trũng sâu còn cái mũi từng gãy một lần có một đường cong khó nh ận ra.

    Đến nửa đêm, cô đưa các con lên giường và cả bốn mẹ con họ ngủ cùng nhau. T ừđó, nh ững đứa trẻ ngủ trên chiếc giường lớn cùng m ẹ, Mikkelína n ằm bên ph ải, hai thằng con trai nằm bên trái, th ật h ạn h phú c.

    Cô ch ưa bao giờ vào th ăm Grímur trong tù. Cô và cả các con của cô ch ưa bao giờ nh ắc đến tên hắn trong suốt thời gian hắn vắng nhà.

    M ột buổi sáng không lâu sau khi Grímur bị đưa đi, Dave - anh lính tốt bụng - lại đi bộ lên đồi, tay cầm theo cần câu. Anh ta đi qua ngôi nhà của họ và nháy m ắt với Símon, th ằng bé đang đứng trước nhà, và tiếp tục đi đến Hafravatn. Símon lại bắt đầu theo dõi, nó nằm xuống cách anh ta một kho ảng đủ để quan sát. Dave ngồi cả ngày bên hồ, nghỉ ngơi nh ư m ọi lần và hình như không quan tâm xem mình b ắt được bao nhiêu cá. Anh ta bắt được ba con.

    Khi trời chu y ển sang chiều, anh ta quay trở lại lên đồi và dừng lại bên nhà họ v ới ba con cá buộc đuôi lại với nhau bằng m ột sợi dây. Bản thân Dave cũng không ch ắc chắn, và Símon cũng có v ẻ nh ư thế. Th ằng bé đã ch ạy trở lại nhà để theo dõi ng ười lính qua cửa sổ bếp - nơi mà nó ch ắc ch ắc là Dave không thể trông th ấy mình. Cuối cù ng ng ười lính đã quy ết địn h, anh ta bước đến ngôi nhà và gõ cửa.

    Sím on đã kể ẹ nghe về Dav e, người cho cá hồi lần trước, cô b ước ra và nhìn xung quanh tìm anh ta, lại vào nhà, nhìn mình trong gương và vuốt lại tóc. Dường như cô cảm thấy rằng anh ta sẽ ghé qua trên đường trở về doanh trại. Cô đã sẵn sàng chào Dave khi anh ta đến.

    Cô m ở cửa và Dave mỉm cười, nói điều gì đó mà cô khô ng hiểu và đưa cho cô m ấy con cá. Cô cầm lấy và mời anh ta vào nhà. Dave bước vào và đứng lúng tún g trong bếp. Anh ta gật đầu với m ấy đứa trẻ và với Mikkelína. Con bé duỗi thẳng ng ười và cố rướn lên để nhìn anh lính cho rõ - ng ười đã đi một quãng đường xa nh ư vậy chỉ để đứng trong bếp nhà họ. Anh ta m ặc quân ph ục và đội một chiếc mũ buồn cười trô ng ch ẳng khác nào m ột cái thuy ền úp ng ược. Dave đột ng ột nhớ ra là ph ải bỏ nó ra khỏi đầu khi bước vào nên anh ta túm lấy nó và giật xuống đầy ng ượng nghịu. Anh ta người tầm th ước, chắc ch ắn là trên ba m ươi tuổi, ng ười mảnh kh ảnh với hai b àn tay đẹp đang nghịch v ớ v ẩn cái thuy ền úp ngược, tay vặn vẹo nh ư thể là đang giặt nó. Cô ph ác m ột cử chỉ mời anh ta ngồi, anh ta ngồi xuống, hai đứa co n trai m ỗi đứa ngồi một bên trong lúc m ẹ chúng pha cà phê m ời khách

    - loại cà phê Grímur đã ăn cắp ở kho quân nhu mà nh ững ng ười lính khôn g phát hiện ra. Dave đã biết tên của Símon và phát hiện ra rằng cái tên Tómas của cậu út rất dễ phát âm. Tên của Mikkelína làm anh ta ngạc nhiên, Dave đọc đi đọc lại, khôi hài đến m ức tất cả mọi ng ười đều phải b ật cười. Anh ta nói rằng tên mình là Dave Welch, đến từ một vùng có tên là Brooklyn ở Hoa Kỳ. Anh ta nói rằng mình là m ột binh nhì nh ưng họ ch ẳng hiểu anh ta đang nói gì.

    "M ột binh nhì," anh ta nh ắc lại, nh ưng họ chỉ nhìn anh ta ch ằm ch ằm.

    Anh ta uống cà phê và có vẻ rất hài lòng với mùi vị của nó.

    Ng ười m ẹ ngồi đối diện v ới anh ta ở đầu kia của b àn.

    "Tôi biết là chồng cô đan g ở trong tù," anh ta nói. "Vì tội ăn cắp."

    Anh ta không nh ận được lời đáp lại.

    Liếc nhìn lũ trẻ, anh lấy ra một m ẩu giấy tro ng túi áo ngực và xoay xoay nó giữa các ngón tay nh ư th ể là không biết ph ải làm gì. Sau đó anh ta đưa tờ giấy qua bàn cho ng ười mẹ. Cô cầm lên, m ở nó ra và đọc xem nó nói gì. Cô nhìn anh ta ng ạc nhiên, sau đó lại nhìn m ẩu giấy. Sau đó cô g ấp m ẩu giấy lại và để vào túi tạp dề.

    Tómas cố g ắng để Dave hiểu rằng anh ra ph ải thử phát âm lại tên Mikkelína lần n ữa, và khi anh ta nói lại, tất cả m ọi ng ười lại bắt đầu cười, còn Mikkelína cười nhăn hết cả mặt tro ng niềm vui đích thực.

    Mùa hè n ăm đó, Dave Welch đến thăm nhà họ thườn g xuy ên hơn, anh kết b ạn với lũ trẻ và m ẹ chúng. Anh câu cá ở hai hồ và đưa cá cho họ, anh còn lấy thêm nh ững th ứ nho nhỏ cho họ từ kho quân nhu n ữa. Nh ững thứ này rất có ích v ới họ. Anh chơi đùa cùng lũ trẻ, còn chúng thì tỏ ra rất vui sướng khi anh có mặt ởđó. Anh luôn luôn mang theo cuốn sổ của mìn h để giúp lũ trẻ hiểu b ằng tiếng Iceland. Họ cười lăn cười bò khi thấy Dave ấp úng một cụm từ tiếng Iceland. Khuôn mặt nghiêm túc trái ng ược hẳn với nh ững gì anh nói, và cái cách mà anh phát âm thì ch ẳng khác nào một đứa trẻ ba tuổi đang b ập b ẹ.

    Nh ưng Dave là m ột ng ười sáng dạ nên chẳng bao lâu họđã hiểu anh và anh cũng hiểu nh ững gì họ nói. Hai đứa co n trai đưa an h đến những n ơi câu cá tốt nh ất, chú ng đi bộ đầy tự hào cùng anh lên đồi và vòng quanh hồ. Hai đứa trẻ cò n được học tiếng Anh với Dave cùng nh ững bài hát M ỹ mà chúng nghe thấy từ kho quân nhu.

    Anh tạo dựng một mối quan h ệ đặc biệt v ới Mikk elín a. Ng ay lập tức anh chiếm trọn cảm tình của cô bé. Anh thường đưa cô bé ra ngoài vào nh ững ngày đẹp trời và kiểm tra kh ả năng nhận th ức của nó. Cách dạy của anh cũng giống nh ư mẹ nó: nâng đỡ ch ân tay cho nó, đỡ nó trong lúc đi lại, giúp nó tập tất cả các bài thể dục. Một ngày, anh đưa một bác sĩ quân y đến để kiểm tra sức khỏe cho Mikkelína. Ông bác sĩ soi đèn pin vào mắt và cổ họng nó, xoay đầu nó, sờ vào cổ và xem xét dọc x ương sống nó. Ông ta mang theo nhiều kh ối gỗ và luồn ng ười con bé vào nh ữn g cái lỗ trên đó. Chuy ện đó khô ng hề khó khăn với con bé chút nào. Ông ta nghe k ể rằng cô bé bịốm năm lên ba tuổi và có th ể hiểu được những gì người kh ác nói nh ưng lại khôn g nói được. Ông ta cũng nghe rằng con bé có thể đọc được và mẹ con bé đã d ạy nó viết. Bác sĩ gật đầu ra ch ừng đã hiểu, trên m ặt biểu lộ một ánh nhìn đầy ý nghĩa. Ông ta đã nói chuy ện rất lâu với Dave sau cu ộc kiểm tra và khi ông ta rời đi, Dave cố gắng làm cho họ hiểu rằng Mikkelína hoàn toàn khỏe m ạnh. T ất cả mọi ng ười đều đã biết điều đó. Nh ưng anh ta nói rằng, dần dần, với nh ững bài luy ện tập thích hợp và nỗ lực khôn g ng ừng, Mikkelína sẽ có thểđi lại được mà không cần ai giú p đỡ.

    "Đi lại được ư!" Ng ười m ẹ nh ảy d ựng lên.

    "Và th ậm chí là cả nói năng bình th ường nữa," Dave nói thêm. "Có lẽ v ậy. Côbé đã đi khám bác sĩ lần nào ch ưa?"

    "Ch uy ện đó nằm ngoài khả n ăng của tôi," ng ười m ẹ nói buồn bã.

    "Cô bé s ẽổn thôi," Dave nói. "Hãy cho cô bé th ời gian. "

    Ng ười m ẹ không nghe anh ta nói n ữa.

    "Hắn là m ột gã đàn ông tệ b ạc," cô đột ng ột nói. Và tất cả nh ững đứa trẻ dỏng tai lên vì chúng ch ưa bao giờ nghe th ấy m ẹ nói một lời nào về Grímur giống nh ư lần này cả. "M ột gã đàn ông tệ b ạc," cô nói tiếp, "một sinh v ật đáng ghét không x ứng đáng được sống. Tôi không hiểu tại sao ng ười ta lại được phép làm nh ững điều mình mu ốn. Điều gì khiến ng ười ta làm nh ư v ậy? Điều gì đã khiến h ắn biến thành một con quái v ật nh ư vậy? Tại sao h ắn lại cư xử nh ư m ột con vật h ết n ăm này qua n ăm khác, cứđánh đập tôi cho đến khi tôi mu ốn ch ết và ng hĩ cách làm th ế nào để…"

    Cô trút m ột hơi thở dài và đến ngồi bên M ikkelína.

    "Tôi cảm th ấy x ấu hổ vì là nạn nhân của một gã đàn ông như thế, tôi giấu mình trong nỗi cô đơn vây bủa và ng ăn ch ặn tất cả m ọi người đi vào thế giới của mình, thậm chí là các con mình, vì tôi không muốn ai đặt ch ân vào đó, ít nhất là tất cả bọn họ. Và tôi ngồi ch ờ đợi lần đán h đập bất ng ờ tiếp theo, lòng tràn ngập sự căm thù đối với m ột điều gì đó mà tôi không biết. Tôi dành cả cu ộc đời mìn h để ch ờ đợi lần tấn công tới, băn kho ăn khi n ào thì nó đến, nó sẽ tệ nh ư thế nào, lý do là gì, làm th ế nào để né tránh nó. Tôi càng cố làm h ắn hài lòng thì hắn càng tức giận. Tôi càng thể hiện là mình ngoan ngoãn và sợ hãi, hắn lại càng ghê tởm tôi. Và n ếu tôi ch ống lại, hắn càng có lý do để đánh tôi nh ừ tử. Chẳng có cách nào để làm đúng mọi chu y ện. Không có cách nào. Cho đến khi tôi nghĩ về việc làm thế nào để v ượt qua chuy ện đó. Không quan trọng là th ế nào. Chỉ cần vượt qua nó là được."

    M ột sự yên lặng chết chó c bao trù m. Mikk elína nằm yên trên giường còn hai thằng con trai tiến lại gần chỗ mẹ. Chún g lắng nghe và chết lặng đi trước từng lời m ẹ nói. Chưa bao giờ mẹ chú ng khơi ra nỗi đau và sự dằn vặt mà bà vật lộn với chúng lâu đến mức bà đã quên sạch những thứ khác.

    "M ọi chuy ện sẽổn thôi," Dave nói.

    "Con sẽ giúp m ẹ," Símon nghiêm túc nói.

    Cô nhìn con trai.

    "M ẹ biết, Símon," cô đáp. "M ẹ luôn biết điều đó, Símon tội nghiệp của m ẹ."

    Ngày tháng cứ thế trôi đi và Dave dành hết thời gian rảnh rỗi của mình đến nhà họ. Càng ngày anh càng dành nhiều thời gian bên mẹ chúng, hoặc ở trong nh à hoặc đi dạo quan h hồ Reynisv atn hay đến Hafravatn. Hai thằng con trai mu ốn gặp anh nhiều hơn, nhưng anh đã thôi không còn đi câu cá với chúng cũng như dành ít thời gian bên Mik kelín a hơn. Nh ưng chúng không buồn. Chún g để ý thấy sự thay đổi nơi m ẹ, chún g gắn chuy ện đó với Dave và thấy m ừng ẹ.

    M ột ngày mùa thu đẹp trời, gần nửa năm sau khi Grímur bị cảnh sát đưa đi, Símon th ấy Dave và mẹ nó từ xa, họđang đi bộ về phía ngôi nhà. Họđi sát cạnh nhau và tất cả nh ững gì nó thấy là hai ng ười đang nắm tay nhau. Khi họ đến gần nhà hơn, hai ng ười bỏ tay ra và đi cách xa nhau, và Símon nhận ra là họ không muốn để ai nhìn th ấy.

    "M ẹ và chú Dave dự định sẽ làm gì?" Símon hỏi m ẹ vào một buổi tối mùa thu sau khi hoàng hôn đã đổ xuống ng ọn đồi. Họ ngồi tron g bếp. Tómas và Mikkelína đang chơi bài. Dave ởđó cả ngày cùng họ, sau đó quay trở về đơn vị. Câu hỏi đó đã được đặt ra suốt mùa hè. Nh ững đứa trẻđã thảo luận riêng về chu y ện đó và tưởng tượng ra rất nhiều tình hu ống mà cái nào cũng k ết thúc bằng việc Dave trở thành bố của chúng và tống khứ Grímur ra khỏi cuộc sống của m ẹ con chúng mãi mãi.

    "Ý con là sao, làm gì là làm gì?" m ẹ nó h ỏi.

    "Khi ông ta trở v ềấy," Símon nói, nó thấy Tómas và M ikk elín a đã th ôi ch ơi bài và đang nhìn n ó.

    "Còn rất nhiều thời gian để ng hĩ đến ch uy ện đó mà," cô đáp. "Ông ta sẽ khô ng trở v ề ng ay đâu."

    "Nh ưng hai người định sẽ làm gì?" Mikkelína và Tómas quay đầu từ Símon sang m ẹ.

    Cô nhìn Símon và hai đứa kia.

    "Ch ú ấy sẽ giúp chúng ta," cô nói.

    "Ai cơ?" Símon h ỏi.

    "Dave. Chú ấy sẽ giúp chúng ta."

    "Ch ú ấy định làm gì?" Símon nhìn mẹ, cố gắng hiểu ý của bà. Cố nhìn th ẳng vào m ắt bà.

    "Dave biết rõ lo ại ng ười đó. Chú ấy biết cách để lo ại trừ chú ng. "

    "Chú ấy sẽ làm gì cơ?" Símon nh ắc lại.

    "Con đừng lo về c uy ện đó," người m ẹđáp.

    "Chú ấy sẽ giúp chúng ta tránh khỏi ông ta ư?"

    "Phải."

    "Làm thế nào cơ?"

    "Mẹ không biết. Chúng ta càng biết ít càng tốt, chú ấy nói vậy. Và tốt nhất là mẹ không nên nói với các con chuyện này. Có thể chú ấy sẽ nói chuyện với ông ta. Đe dọa ông ta. Chú ấy nói rằng chú ấy có bạn bè trong quân đội và họ sẽ giúp chú ấy khi cần thiết."

    "Nhưng nếu Dave ra đi thì sao?"

    "Ra đi ư?"

    "Nếu chú ấy rời Iceland, " Símon nói. "Chú ấy sẽ không thể ở đây mãi được. Chú ấy là quân nhân. Người ta luôn chuyển quân đi và đưa quân mới đến. Nếu chú ấy đi thì sao? Lúc đó chúng ta sẽ làm gì?"

    Cô nhìn con trai.

    "Chúng ta sẽ tìm cách," cô nói bằng giọng trầm. "Lúc đó chúng ta sẽ tìm cách."

    tiếp tục cập nhật đến bạn đọc chương tiếp theo một cách nhanh nhất. Chúc các bạn đọc truyện vui vẻ!


  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 19
    Bí mật dần hé mở

    Sigurdur Óli g ọi điện cho Erlendur và kể v ề cuộc nói chu y ện giữa mình và Elsa. Anh cũng thu ật lại suy nghĩ của Elsa rằng có sự dính líu của m ột ng ười đàn ông khác - ng ười đã khiến cho v ợ ch ưa cưới của Benjamín mang thai; tuy nhiên danh tính của ông ta ch ưa xác định được. Họ bàn b ạc một lú c, sau đó Erlendur k ể cho Sigurdur Óli nghe nh ững phát hiện m ới của mình sau khi nói chuy ện v ới cựu Đại tá Ed Hunter về vụ trộm tại kho dự trữ và chuy ện một ng ười đàn ông Iceland sống trên đồi đã bị bắt vì có liên quan. Ed tin rằng vợ của ng ười đàn ông đó là n ạn nhân của b ạo lực gia đình, chuy ện này củng cố thêm cho câu chuy ện mà Höskuldur đã kể lại th eo nh ững gì Benjamín nói.

    "Tất cả những người đó đều đã chết và bị chôn cách đây lâu lắm rồi," Sigurdur Óli ngán ng ẩm nói. "Tôi không biết tại sao chúng ta lại cứ ph ải đuổi theo họ. Cứ như b ắt mavậy. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ gặp họ hay nói chuyện được với h ọ. Tất cả họ chỉ là một phần của câu chuyện ma này mà thôi."

    "Cậu đang nói đến người phụ nữ m ặc đồ màu xanh lục trên đồi ư?" Erlendur h ỏi.

    "Elínborg nói rằng Róbert đã trôn g thấy bóng ma của Sólv eig m ặc cái áo khoác màu xanh lục, vì thế chúng ta đang dính vào m ột vụ truy tìm ma quỷ th ực sự."

    "Nhưng cậu không muốn biết ai đang nằm dưới ngôi mộ đó với một cánh tay giơ lên như th ể người đó ị chôn sống à?"

    "Tôi đã mất cả hai ngày giam mình trong một tầng hầm bẩn thỉu và tôi chẳng buồn quan tâm đến nó nữa," Sigurdur Óli đá. "Tôi không thể để ý đến những chuyện vớ vẩn này nữa," anh ta gầm lên và tắt m áy.

    Như m ọi khi, tâm trí Erlendur lại quay về hình ảnh Eva Lind, con bé đang nằm trong khu chăm sóc đặc biệt và khó lòng sống sót. Ông chìm đắm trong suy nghĩ về lần cãi nhau cuối cùn g giữa hai bố con trong căn hộ của ông cách đây hai tháng. Lúc đó vẫn đang là mùa đô ng, tuyết rơi thật dày, trời lạnh và tối. Ông kh ông cố ý cãi nhau với con. Ông không nghĩ rằng mình sẽ nổi nón g. Nh ưng con bé luôn b ướng bỉnh không chịu lùi một phân.

    "Con không th ể làm th ế với đứa trẻ được," ông cố gắng thuy ết phục con lần nữa. Ông nghĩ rằng con bé đã có thai năm tháng. Nó rất quy ết tâm khi biết mình đã có thai, và sau hai lần, dường nh ư nó đã bỏ được thói quen dùng ma túy. Ông cố gắng giúp nó hết s ức có thể, nh ưng cả hai đều biết rằng sự giúp đỡ đó không mấy hiệu qu ả và rằng mối quan h ệ giữa hai bố con họđã trở nên tệ đến mức ông càng ít xen vào bao nhiêu thì con bé càng có cơ hội thành công bấy nhiêu. Eva Lind có quan điểm hai chiều đối với bố. Một m ặt nó tìm sự đồng cảm nơi ông, mặt kh ác, nó soi mói tất cả nh ững gì thu ộc về ô ng.

    "Bố thì biết gì về ch uy ện đó cơ ch ứ?" con bé nói. "Bố thì biết gì về trẻ con? Chắc ch ắn con có thể sinh con. Và m ột mình con sẽ tự sinh đứa trẻ."

    Ông không biết nó dù ng thuốc phiện hay rượu hay cả h ai thứ đó, nhưng con bé rất ít khi tĩnh trí mỗi khi ông ra mở cửa cho nó vào nhà. Nó thả ng ười đánh bịch m ột cái xuống ghế sô pha. Bụng nó lùm lùm dưới cái áo khoác da không khóa, việc nó có thai rất dễ phát hiện. Con bé chỉ m ặc m ỗi cái áo phông bên trong. Bên ngo ài, nhiệt độ tụt xuống đến âm m ười độ C.

    "Bố nghĩ là chúng ta đã…"

    "Chúng ta đã ch ẳng làm gì cả," con bé ng ắt lời bố. "Bố và con. Chúng ta đã ch ẳng làm gì cả."

    "Bố ng hĩ là con đã quy ết định tự ch ăm sóc đứa trẻ. Hãy chắc ch ắn là không gì có thể thay đổi được. Con ph ải đảm bảo là thuốc phiện khô ng ảnh h ưởng gì đến nó. Co n đã sắp bỏ cu ộc, nh ưng con có khả năng vượt qua chuyện đó. Con có kh ả năng ch ăm sóc con mình m ột cách chu đáo."

    "Bố im đi!"

    "T ại sao con lại đến đây ?"

    "Con không biết. "

    "Đó là vì lương tâm của con. Đúng không? Chính lương tâm đã dằn vặt con, và con mong là bố sẽ thông cảm với hoàn cảnh khủng khiếp mà con đang ph ải gán h chịu. Đó là lý do tại sao con đến đây. Để được cảm thông và để cuộc sống của mình tốt h ơn."

    "Ph ải rồi, đây chỉ là nơi để đến nếu ai đó cần được người ta

    thương hại, thưa ngài Thánh Ngu Si ạ."

    "Con đã quyết định chọn tên. Con còn nhớ chứ? Nếu đó là một bé gái."

    "Bố quyết định đấy ch ứ. Kh ông ph ải con. Là bố. Nh ư mọi lần thôi. Bố có quy ền quy ết định mọi chuy ện. Nếu nh ư bố muốn ra đi thì bố cứđi thôi, chẳng quan tâm quái gì đến con hay bất kỳ ai hết. "

    "Con dự định đặt tên cho nó là Audur. Con thích cái tên đó mà. "

    "Bố tưởng con không biết trò chơi của bố à? Bố tưởng con không nhìn thấu tâm can bố à? Ồ, bố sợ … Con biết con có thứ gì trong bụng mà. Con biết nó là một con người. Con biết điều đó. Bố không cần phải nhắc nhở con. Không cần đâu!"

    "Tốt," Erlendur nói. "Đôi khi con đã quên điều đó. Quên rằng không phải chỉ nghĩ cho riêng mình. Khi con say, đứa bé cũng bị say theo, và nó bị ảnh hưởng bởi chuyện đó hơn rất nhiều lần so với bản thân con."

    Ông ngừng lại.

    "Có thể đó là một sai lầm," ông nói. "Vì không phá thai."

    Con bé nhìn ông.

    "Đồ khốn nạn!"

    "Eva…"

    "Mẹ nói cho con rồi. Con biết đích xác điều bố muốn là gì."

    "Điều gì?"

    "Và bố có thể gọi bà ấy là một con dối trá rẻ tiền, nhưng con biết điều đó là đúng."

    "Con đang nói cái gì thế?"

    "Mẹ nói chắc chắn bố sẽ phủ nhận điều đó."

    "Phủ nhận cái gì cơ?"

    "Rằng bố không muốn có con."

    "Sao cơ?"

    "Rằng bố không muốn sinh con ra. Khi bố làm mẹ có thai."

    "Mẹ con đã nói gì?"

    "Rằng bố KHÔNG MUỐN sinh con ra."

    "Bà ấy nói dối."

    "Bố muốn mẹ phá thai…"

    "Nói dối…"

    "…và sau đó bố liên tiếp phán xét con, không cần biết con đã cố g ắng th ế nào. Bố luôn luôn phán xét con."

    "Khô ng đúng đâu. Bố ch ưa bao giờ nghĩ đến chu yện đó. Bố khô ng biết tại sao mẹ con lại nói v ới con như thế, nhưng đó khô ng phải là sự thật. Đó khôn g ph ải là một ph ương án giải quy ết. Bố m ẹ chưa bao giờ đề cập đến chuyện đó."

    "Mẹ biết bố sẽ nói thế. Bà ấy đã cảnh báo con từ trước. "

    "Cảnh báo con ư? Bà ấy nói với con tất cả những điều này khi nào?"

    "Khi mẹ biết con có thai. Mẹ nói rằng bố mu ốn đưa bà ấy đi phá thai nhưng bố sẽ phủ nhận chuyện đó. Mẹ nói rằng bố sẽ nói tất cả những điều bố vừa nói."

    Eva Lind đứng lên và đi ra phía cửa.

    "Mẹ con nói dối đấy, Eva Lind, con hãy tin bố. Bố không biết tại sao bà ấy lại nói thế. Bố biết bà ấy ghét bố, nhưng chắc không đến mức nhiều nh ư thế. Bà ấy đang xúi giục con ch ống lại bố. Con ph ải nhận ra điều đó ch ứ. Nói ra điều đó th ật… th ật… thật đáng kinh tởm. Con có th ể nói v ới bà ta điều đó."

    "Bố đi mà nói với mẹ!!!" Eva Lind quát lên. "Nếu bố dám."

    "Th ật là ghê tởm khi nói với con điều đó. Bịa ra cả một câu chuyện để phá hủy mối quan hệ giữa hai bố con."

    "Thực ra, con tin mẹ."

    "E va…"

    "Bố im đi. "

    "Bố sẽ nói cho con biết tại sao chuyện đó không thể là thật

    được. Tại sao bố không bao giờ có thể…"

    "Con không tin bốđâu !"

    "Eva… Bốđã…"

    "Ngậm cái mồm của bố vào. Con không tin bất kỳ lời nào của bố đâu."

    "Vậy thì con ra khỏi đây đi," ông nói.

    "Vâng, phải," nó chọc tức ông. "Tránh xa con ra."

    "Cút đi!"

    "Bố th ật là kinh tởm!" con bé quát lên và lao ra ngoài.

    "Eva!" ông gọi v ới theo nh ưng con bé đã đi rồi.

    Đã hai tháng. Ông không nghe tin tức gì về nó và cũng khô ng trôn g thấy nó cho đến khi điện thoại của ông ru ng lên khi ông đứng trên đồi.

    Erlendur ngồi tron g xe hút thuốc, ông nghĩ rằng đáng lý mình nên ph ản ứng khác đi, dẹp lòng tự ái sang một bên để đu ổi theo Ev a Lind khi đã nguôi cơn giận. Ông ph ải nói lại với con bé rằng m ẹ nó đã nói dối, ông sẽ không bao giờ đề nghị ph á thai. Kh ông bao giờ ông có thể làm điều đó. Và không bao giờ để con bé phải cầu cứu mình. Con bé đơn giản là ch ưa thực sự trưởng thành để có thể hiểu được tất cả những chuy ện này, con bé không nh ận ra nó đã tự đẩy mình đi đến đâu.

    Erlendur sợ ph ải nói cho nó biết khi nó tỉnh lại. Nếu nó có thể tỉnh lại. Muốn làm một việc gì đó cho khu ây khỏa, ông nhấc điện tho ại và g ọi cho Skarphédinn.

    "Kiên nhẫn một ch út đi," nhà kh ảo cổ nói, "và đừng có gọi điện cho tôi liên tùng tục nh ư thế. Chúng tôi sẽ cho ông biết kết qu ả ch ừng nào chúng tôi đào đến chỗ b ộ xương."

    Skarphédinn cư x ử nh ư th ể chính ông ta đang th ụ lý vụ điều tra không bằng. Càng ngày ông ta càng trở n ên ng ạo mạn.

    "‘Ch ừng nào’ là bao giờ?"

    "Rất khó nói," ông ta đáp, và Erlendu r hình dung ra cái răng vàng bên dưới bộ râu của lão già. "Chúng tôi phải xem xét cái đã. Hãy để yên cho chúng tôi làm công việc của mìn h."

    "Ông ch ắc ch ắn ph ải nói cho tôi biết mộ t vài đ i ều. Đó là đàn ông hay phụ n ữ?"

    "Kiên nh ẫn là chìa khóa giải quy ết mọi v ấn đề…"

    Erlendur tắt máy. Ông đang châm thêm m ột điếu thuốc nữa thì điện thoại reo. Ng ười gọi là Jim ở Đại sứ quán Anh. Ed và Đại sứ quán M ỹđã ph át hiện ra một danh sách tên nh ững ng ười Iceland làm thuê cho quân đội và Jim v ừa m ới nh ận được bản fax. Ông ta v ẫn ch ưa ph át hiện ra điều gì về nh ững người Iceland đó. Có chín cái tên trong danh sách và Jim đọc cho Erlendur qua điện thoại. Erlendur không nh ận ra bất cứ cái tên nào tro ng sốđó và cho Jim số fax của cơ quan để ông ta gửi bản danh sách đến đó.

    Erlen dur lái xe đến Vogar và đỗ xe ởđó, cũng như mọi lần, ông giữ một kho ảng cách vừa phải với ngôi nhà mà ông đã lao vào để tìm Eva Lind. Ông chờ đợi và băn kho ăn không hiểu điều gì đã khiến gã đó cư xử với vợ con mình như vậy.

    Nh ưng kết luận mà ông rút ra cũng giống nh ư những ng ười khác: chúng là nh ững tên ngu độn hết sức. Ông v ẫn ch ưa biết mình muốn làm gì với tên đó, có nên ngoéo cổ hắn ta ngay lập tức không, hay là chỉ ngồi trên xe theo dõi.

    Ông không thể xua đi hìn h ảnh bé gái với nh ững vết bỏng thuốc lá trên lưng. Ng ười đàn ông chối bay ch ối biến nh ững gì đã làm v ới con bé, còn m ẹ nó lại bao che cho lời khai của h ắn nên cảnh sát cũng ch ẳng làm được gì hơn việc tách đứa trẻ ra khỏi bố m ẹ. Vụ này do đích thân giám đốc Ủy ban Công tố Nhân dân xử lý. Có thể hắn sẽ bị kết tội. Có thể không.

    Erlendur cân nhắc những phương án có thể xảy đến với hắn. Cũng chẳng nhiều nhặn gì, vì tất cả bọn chúng đều là lũ xấu cả. Nếu gã đó quay trở về ngôi nhà vào cái đêm ông đi tìm Eva Lind và phát hiện ra đứa bé bị bỏng lưng đang ngồi trên sàn nhà, ch ắc ch ắn ông sẽ cho th ằng ác ôn ấy một bài học. Mấy ngày đã trôi qua nhưng ông vẫn ch ưa thể trị cho hắn một trận, chưa thể đến đấm th ẳng vào m ặt hắn, m ặc dù ông muốn làm điều đó ngay tức kh ắc. Erlendur biết mình không th ể nói ch uy ện suông với loại ng ười nh ư th ế. Chúng sẽ cười nhạo những lời đe dọa tầm thường, thậm chí còn cười vào mặt Erlendur là đằng khác.

    Erlendur không thấy ai ra vào ngôi nhà trong suốt hai tiếng đồng hồ qua. Cuối cùng ông bỏ cuộc và lái xe đến bệnh viện thăm con gái, cố gắng quên đi tất cả những chuyện đó, cũng giống như rất nhiều điều trong quá khứ mà ông cần phải quên

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 20
    Ghét sự lừa dối

    Elínborg nh ận được điện thoại của Sigurdur Óli khi cô vừa đến sở. Anh nói với cô rằng Benjamín có lẽ không phải là cha của đứa trẻ trong bụng vợ chưa cưới của mình, và chính điều này đã phá hủy cuộc hôn nhân của họ. Thêm vào đó, bố của Sólv eig đã treo cổ tự vẫn sau khi nghe tin con gái mất tích chứ không phải trước đó như lời Bára nói.

    Elínborg ghé vào Cục Thống kê Quốc gia để xem xét các giấy chứng tử trước khi lái xe đến Grafarvogur. Cô rất ghét bị lừa dối, nhất là bởi nh ững mụ già hợm hĩnh.

    Trong lúc Bára nghe Elínborg thu ật lại những gì mà Elsa đã nói về ng ười cha ch ưa rõ d anh tính của đứa con trong bụng Sólveig, khuôn m ặt bà ta v ẫn lạnh nh ư tiền.

    "Bà đã từng nghe qua chuyện này chưa?" Elínborg hỏi.

    "Chuyện gì? Rằng chị tôi là một con điếm à? Không, tôi chưa bao giờ nghe thấy và tôi kh ông hiểu tại sao bây giờ cô lại nói điều đó với tôi. Sau ngần ấy n ăm. Tôi khô ng hiểu nổi. Cô phải để cho hương hồn của chị tôi được yên. Chịấy kh ông đáng bịđem ra bàn tán nh ư thế. Cái bà… bà Elsa này nghe câu chuy ện ấy từ đâu thế?"

    "Từ mẹ bà ấy," Elínborg đáp.

    "Và bà ta lại nghe từ Benjamín ?"

    "Phải. Mãi cho đến lúc lâm chung, ông ấy mới kể ra chuyện đó." "Các cô tìm được một lọn tóc của chị tôi ở nhà ông ta chưa?"

    "Chúng tôi tìm rồi, và đã thấy."

    "Vậy các cô sẽ xét nghiệm nó cùng v ới bộ xương à?"

    "Đúng v ậy."

    "Và các cô cho rằng ông ta đã giết chịấy ư? Cãi lão Benjamín, cái cục bột ấy mà dám giết vợ ch ưa cưới của mìn h ư? Tôi nghĩ ch uy ện đó thật nực cười. Quánực cười! Tôi khô ng hiểu nổi tại sao cô lại tin chuy ện đó."

    Bára ng ừng lại và ra chiều đăm chiêu suy nghĩ.

    "Ch uy ện này có bị phanh phui lên báo không?" bà ta hỏi.

    "Tôi không biết," Elínborg đáp. "Vụ bộ xương đã thu hút sự

    quan tâm của đôn g đảo ng ười dân."

    "Ý tôi là chuyện chị tôi bị giết ấy?"

    "Nếu đó là kết luận cuối cùng. Bà có biết ai là cha đứa trẻ

    khô ng ?"

    "Benjamín là người duy nh ất. "

    "Liệu có một người nào khác được nhắc đến không? Chị bà không k ể v ới bà v ề m ột ng ười đàn ông khác à?"

    Bára lắc đầu.

    "Chị tôi không ph ải là con điếm. "

    Elínborg h ắng giọng.

    "Bà nói với tôi rằng bố bà tự tử trước khi chị bà mất tích."

    Họ đưa m ắt nhìn nh au.

    "Tôi nghĩ là cô đi được rồi đấy," Bára nói và đứng lên.

    "Tôi không ph ải là ng ười kh ơi ra câu chuy ện v ề bố bà trước. Tôi đã kiểm tra giấy ch ứng tử của ông ấy ở Cục Th ống kê Qu ốc gia. Khô ng giống nh ư một số ng ười, Cục Th ốn g kê khôn g bao giờ nói dối."

    "Tôi ch ẳng còn gì để nói với cô nữa," Bára nói nh ưng khô ng còn vẻ kiêu căng nh ư trước nữa.

    "T ôi khôn g nghĩ bà sẽ đề cập đến bố mình trừ khi bà mu ốn nói v ềông ấy. Sâu trong thâm tâm bà ấy. "

    "T h ật là hết sức vớ vẩn!" bà ta thốt lên. "Cô đan g đóng vai m ột nhà tâm lý học đấy à?"

    "Ông ấy ch ết sáu tháng sau khi chị bà m ất tích. Giấy ch ứng tử của ông ấy không nói rằng ông ấy tự tử. Không rõ nguyên nhân cái ch ết. Có lẽ dùng từ "tự vẫn" thì hơi xa hoa quá. Ch ết bất đắc kỳ tử tại nh à, giấy tờ nói v ậy."

    Bára xoay lưng v ề phía Elínborg.

    "Bà có thể nói sự thật cho tôi biết được không?" Elínborg nói và cũng đứng lên. "Bố bà có liên quan gì? T ại sao bà lại nhắc đến ông ấy? Ai đã khiến cho Sólveig có thai? Có ph ải là ông ấy khô ng ?"

    Cô không nhận được câu trả lời. Sự yên lặng giữa hai ng ười dường nh ư có thể sờ thấy được. Elínborg nhìn quanh phòng khách rộng thênh thang, những thứ đồ đẹp đẽ, nh ững bức ch ân dung của Bára và chồng, nh ững đồ nội thất đắt tiền, chiếc đàn piano đen bóng, một bức ảnh được đặt ở vị trí nổi bật ch ụp Bára và ng ười đứng đầu Đảng cấp tiến. M ột cu ộc sống thật trống rỗng, cô th ầm nghĩ.

    "Không ph ải mỗi một gia đìn h đều có bí m ật riêng hay sao?" cu ối cùng Bára nói, lưng v ẫn quay về p hía Elín bo rg.

    "Tôi cũng nghĩ v ậy," Elínborg đáp.

    "Người đó khô ng ph ải là bố tôi," Bára lưỡng lự nói. "Tôi khô ng biết tại sao mình lại nói dối cô v ề cái ch ết của ông ấy. Chuy ện đó cứ tự diễn ra thôi. Nếu cô mu ốn đóng vai m ột nhà tâm lý học, cô có thể nói rằng từ sâu thẳm tôi muốn thú nh ận với cô tất cả mọi ch uy ện. Rằng tôi đã giữ im lặng quá lâu cho đến khi cô bắt đầu nói về Sólv eig, tôi m uốn trút hết tâm sự của mình. Tôi khô ng biết tại sao lại th ế."

    "Vậy ng ười đó là ai?"

    "Cháu trai của bố tôi," Bára đáp. "Con trai của bác tôi, ở Fljót. Chuy ện ấy x ảy ra trong m ột lần chị tôi đến th ăm nơi đó."

    "Làm thế nào mà gia đình bà phát hiện ra?"

    "Khi trở v ề, chịấy trở nên khác hẳn. M ẹ... mẹ chún g tôi để ý ngay lập tức, và tất nhiên là chuy ện đó khô ng giấu được lâu."

    "Bà ấy có nói ẹ bà biết chuy ện xảy ra không?"

    "Có. Rồi bố tôi lên miền Bắc. Tôi khô ng biết gì thêm về ch uy ện đó. Khi ông ấy đến n ơi thì ng ười ch áu trai đó đã đi nước ngoài. Ng ười dân ởđó nói vậy. Ông tôi quản lý một tran g trại rất lớn. Ông bà tôi chỉ có hai người con. Bố tôi chu yển về miền Bắc này lập nghiệp kinh doanh và trở nên giàu có. Ông là một trụ cột của xã hội. "

    "Vậy chuy ện gì đã xảy ra v ới ng ười cháu trai đó?"

    "Ch ẳng có gì cả. Sólveig nói rằng nó đã cưỡng hiếp chịấy. Bố m ẹ tôi không biết ph ải làm gì, họ khô ng mu ốn kiện tụng vì sợ dính dáng đến chín h quy ền và d ư luận bàn ra tán vào. Sau vài năm ng ười cháu họđó quay về n ước và định cư tại Reykjavík rồi lập gia đình. Nó ch ết cách đây hai mươi n ăm rồi. "

    "T h ế còn Sólveig và đứa bé thì sao?"

    "Chúng tôi yêu cầu Sólveig phá thai nh ưng chịấy từ chối. Chị ấy không mu ốn từ bỏ đứa bé. Rồi một ngày chịấy mất tích."

    Bára quay m ặt lại đối diện Elínborg.

    "Cô có thể hiểu rằng chuyện đó đã hủy ho ại chú ng tôi, cái chu yến nghỉ hè của chị tôi đến Fljót ấy. Hủy ho ại cả gia đình tôi. Ch uy ện đó ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ cuộc đời tôi. Ch úng tôi ch e đậy chuy ện đó lại vì lòng tự tôn và niềm kiêu hãnh của gia đình. Đó là điều cấm k ỵ. Chún g tôi khôn g bao giờ được phép nói đến ch uy ện đó. Mẹ tôi đảm bảo cho điều đó khô ng xảy ra. Nh ưng về sau chị tôi có nói lại với Benjamín và giải thích m ọi ch uy ện với ông ấy. Điều này khiến cho không ai ngó ngàng gì đến cái chết của Sólv eig. Đó là việc riên g của chịấy, có vậy thôi. Bí mật riên g của chịấy, sự lựa chọn của chịấy. Chúng tôi vẫn bình thường. Vẫn trong sạch và đáng kín h. Chịấy bịđiên và tự lao mình ra biển."

    Elínborg nhìn Bára và đột nhiên cô thấy thương cảm cho bà ta khi bu ộc ph ải sống với câu chuyện dối trá đó.

    "T ự chịấy gây ra mọi chuy ện," Bára nói tiếp. "Chúng tôi ch ẳng liên can. Đó là việc của chịấy."

    Elínborg g ật đầu.

    "Chịấy không n ằm trên đồi đâu," Bára nói. "Chịấy đang n ằm d ưới đáy biển, trong suốt h ơn hai mươi n ăm khủng khiếp."

    Erlendur ngồi xuống bên cạnh Eva Lind sau khi nói chuy ện với bác sĩ của con bé. Ông ta vẫn nói nh ư trước: tình trạng của con bé vẫn khôn g có gì suy ch uy ển, chỉ còn biết chờ vào thời gian thôi. Ông ng ồi bên giường bệnh của con, ng hĩ xem nên nói gì với nó bây giờ, nh ưng ông khô ng nghĩ ra nổi. Thời gian cứ thế trôi đi. Khu ch ăm sóc đặc biệt hoàn toàn tĩnh lặng.

    Thỉnh thoảng có một bác sĩđi qua cửa ho ặc một y tá mang giầy mềm trắng đi lại lo ẹt qu ẹt trên lớp v ải lót n ền.

    Cái tiếng kêu kin kít ấy.

    Erlendur nhìn con, và gần nh ư là vô thức, giọng ông trầm xuống khi nói v ề một ng ười bị m ất tích khiến ông trăn trở trong m ột thời gian dài và có lẽ, sau ng ần ấy năm, ông vẫn ch ưa thể hiểu được.

    Ông bắt đầu k ể về m ột cậu bé ch uy ển đến Reykjavík cùng bố m ẹ, nhưng cậu ta luôn nh ớ đến quê h ương. Đứa bé đó còn quá nhỏ, nó khô ng thể hiểu được tại sao nhà mình lại phải ch uy ển lên thành phố, màhồi ấy Reykjavík ch ưa hẳn là m ột th ành phố, đó chỉ là m ột thị trấn lớn bên bờ biển. Về sau nó nhận ra rằng quyết định đó là do nhiều nhân tố tác động.

    Ngôi nhà mới của nó khác lạ ngay từ đầu. Nó lớn lên giữa cu ộc sốn g thôn quê mộc m ạc và riêng biệt, với mùa hè ấm áp, mùa đông kh ắc nghiệt và nh ững câu chuy ện về nh ững ng ười đã từng sống ở khắp các miền quê. Hầu hết họ hàng của nó đều là ch ủ các trang trại nh ỏ và nghèo khổ tro ng nhiều th ế kỷ liền. Đối với nó, họ là nh ững ng ười hùng. Nó nghe chuy ện về họ mỗi ng ày, nh ững câu chuy ện kểđi kể lại h ết năm này qua n ăm khác, từ thập kỷ này sang thập kỷ khác. Nh ững câu chuy ện về nh ững cu ộc hành trình gian nan và đầy thảm họa. Những câu chuy ện về cu ộc sốn g vui nhộn khiến cho ng ười kể ph ải thở lấy th ở để vì cười đến mức oằn cả ng ười đi và ho sặc sụa. Rồi nh ữn g câu ch uy ện về nh ững ng ười mà nó biết và nó sống cùng, cũng có thể là những người từng sống ở làng quê từ thế hệ này sang th ế hệ khác: các chú, các bác, các bà và các cụ bà, các ông và các cụ ông… Nó biết tất cả nh ững người ấy, mặc dù họđã ch ết từ lâu và đã được chôn cất tại khu ng hĩa trang nh ỏ bên cạn h nhà thờ xứ đạo: các bà đỡ lội qua những dòng sông băng để giúp nh ững ng ười phụ n ữ sinh con, nh ững ng ười nông dân anh dũng bảo vệ mùa màng qua cơn bão tàn khốc, nh ững người tá điền ch ết cóng trên lối ra chuồng cừu, những thầy tu say xỉn, những loài ma

    quỷ... Nh ững câu chuy ện là một phần cuộc sống của nó.

    Th ằng bé mang tất cả những câu chuy ện này theo mình khi theo bố m ẹ lên thàn h phố. Họ mua một nhà tắm công cộng thời chiến do quân đội Anh xây ở vùng ngo ại ô thành phố và sửa nó thành m ột ngôi nh à nhỏ bởi vì đó là tất cả nh ững gì họ có thể mua. Cu ộc sống nơi thành thị không phù hợp với bố nó, ông bị suy tim và m ất không lâu sau khi chuy ển đến đây. M ẹ nó bán ngôi nhà, mua một căn hộ ch ật hẹp dưới tầng h ầm cách không xa bến cảng cho lắm, bà làm việc ở m ột nhà máy ch ế biến cá. Đứa con không biết ph ải làm gì sau khi khi học xong chương trình giáo dục phổ cập. Lao động chân tay, xây dựng các công trình hay theo các thuy ền đánh cá? Cuối cùng nó nhìn thấy m ột thông báo tuy ển người vào lực lượng cảnh sát.

    Th ằn g bé kh ông còn được ngh e nh ững câu chuy ện kể n ữa, dần dần chúng phai mờ trong tâm trí nó. T ất cả nh ững ng ười nó biết đã ra đi, bị chôn vùi và quên lãng ở những miền quê hẻo lánh. Còn nó trôi dạt đến m ột thàn h phố mà không có việc để làm. Nó biết mình khô ng phải là người thàn h thị. Kh ông biết đích xác mình là cái gì nữa. Nhưng nó ch ưa bao giờ thôi kh ao khát m ột cu ộc sống khác, nó cảm th ấy m ất gốc và không thanh thản. Khi m ẹ m ất, nó cảm nh ận được sợi dây liên kết duy nh ất của nó với quá kh ứđã đứt hoàn toàn.

    Anh đến sàn nhảy. Và ở một tro ng số nh ững sàn nh ảy đó, Glaumbaer, anh gặp một người phụ n ữ. Anh biết nhiều ng ười nh ưng tất cả chỉ là nh ững cuộc gặp xã giao thông th ường. Nh ưng ng ười này thì khác, có gì đó ch ắc ch ắn hơn, và anh cảm th ấy cô ấy có thểđiều khiển mọi thứ. M ọi thứ xảy ra quá nhanh khiến anh không kịp hiểu. Cô ấy yêu cầu anh làm m ọi việc và an h hoàn thành mà không cần một động lực nào khác. Và trước khi anh kịp hiểu ra điều đó, anh đã cưới cô và họ có v ới nhau m ột đứa con gái. Họ thuê một căn hộ nhỏ. Cô có nh ững k ế ho ạch lớn cho tương lai của họ và nói về việc sinh thêm con cái, mua một căn hộ. Cô nói nhanh v ới giọng điệu đầy hứng kh ởi nh ư thể cô nhìn thấy cuộc đời mình yên ổn chứ không hề gặp một trắc trở nào. Anh nhìn cô và chợt nh ận ra mình ch ẳng hiểu gì về ng ười phụ nữ này hết.

    Họ có thêm một đứa con nữa và cô càng lúc càng nhận ra anh xa cách đến thế nào. Khi con họ ch ào đời, anh chỉ khá vui khi thấy mình được làm cha lần nữa và bắt đầu nói rằng mình muốn kết thúc tất cả nh ững chuy ện này, anh muốn ra đi. Cô cảm nh ận được điều đó. Cô hỏi rằng có ph ải anh có ng ười phụ n ữ nào kh ác khô ng, nh ưng anh chỉ nhìn cô chằm ch ằm trống rỗng mà không để ý gì đến câu hỏi. Anh ch ưa bao giờ suy nghĩ về câu hỏi đó. "Ch ắc ch ắn là anh có ng ười đàn bà khác," cô nói. "Không phải thế," anh đáp và b ắt đầu giải thích với cô cảm giác và suy nghĩ của mình, nhưng cô không mu ốn nghe. Cô có hai đứa con của anh và anh không thể nói chu yện m ột cách nghiêm túc v ề việc rời b ỏ cô được. Rời b ỏ chún g. Nh ững đứa con của an h.

    Các con anh. Eva Lind và Sindri Snaer. Tên của nh ững con vật nuôi mà cô đã ch ọn cho chúng. Anh không coi chúng là một ph ần của mình. Không có một chút cảm nh ận nào về tình phụ tử, nh ưng anh cảm thấy mìn h phải có trách nhiệm và nghĩa vụ với chúng. Tuy nhiên việc đó ch ẳng liên quan gì đến mẹ ch úng hay m ối quan hệ với cô ta. Anh nói rằng mình mu ốn chu cấp cho các con và ly hôn m ột cách nh ẹ nhàng. Cô nói không thể có chuy ện nh ẹ nhàn g ởđây được, sau đó cô bế lấy Eva Lind và ôm ch ặt nó. Anh có cảm giác cô sẽ dù ng con cái để trói buộc mìn h, và điều đó càng củng cố thêm quy ết định không thể chung sống với ng ười phụ n ữ này được nữa. T ất cả m ọi chu yện đều là m ột sai lầm ngay từ lúc ban đầu và đáng lý ra anh đã nên làm th ế này từ lâu lắm rồi. Anh không biết hồi đó mình đã nghĩ gì. Nh ưng đến lúc này tất cảđã k ết thú c.

    Anh cố gắng thuy ết ph ục cô để ình ở với các con một số ngày trong tuần hoặc thán g, nhưng cô ta từ ch ối thẳng thừng và nói rằng nếu an h quy ết tâm rời bỏ cô, anh sẽ không bao giờ được gặp lại chúng n ữa. Cô ta quy ết tâm làm điều đó.

    Rồi anh biến m ất. Biến mất khỏi cuộc đời của đứa con gái bé bỏng mới lên hai tuổi. Con bé vẫn còn đeo tã lót, tay cầm một hình nộm và dõi theo bố bước ra khỏi nhà. Cái hình nộm nhỏ màu trắng kêu lên kin kít mỗi lần con bé cắn vào đó.

    "Chúng ta đã sai rồi," Erlendur nói.

    Cái tiếng kêu kín kít ấy.

    Ông cúi đầu và nghĩ rằng cô y tá lại đi qua cửa lần n ữa.

    "Bố khô ng biết chu y ện gì đã xảy ra với người đàn ông đó," Erlendur nói nhỏ rất khó nghe. Ông nhìn m ặt con gái, trông nó bình thản hơn bao giờ h ết. Các đường nét rõ ràng hơn. Ông nhìn nh ững thiết bịđang giúp cho nó sống. Sau đó ông lại nhìn xuống sàn nhà. Một lúc lâu nh ư thế trôi qua cho đến lúc ôn g đứng lên, cúi xuống và hôn lên trán con gái.

    "Ông ta biến m ất và bố nghĩ ông ta đã m ất tích thật rồi, m ất tích lâu rồi. Bố khôn g biết ông ta có thể được tìm thấy khôn g. Đó khô ng phải là lỗi của con. Chuy ện đó xảy ra trước khi con ra đời. Bố nghĩ người đó đang tìm lại chín h mình, nhưng ôn g ta không biết tại sao hay đích xác là mình đang tìm kiếm cái gì, và rõ ràng là ông ta sẽ không bao giờ tìm thấy nó. "

    Erlendur nhìn xuống Eva Lind.

    "T rừ khi con giúp ông ta."

    Khuôn mặt con bé trông giống nh ư một cái m ặt nạ lạnh giá trong ánh đèn tỏa ra từ chiếc đèn để trên bàn g ần giường nó n ằm.

    "Bố biết con đang đi tìm ông và bố biết rằng n ếu có ai đó có thể tìm th ấy ông ta thì ng ười đó chính là con."

    Ông quay ng ười, đang chu ẩn bị b ước đi thì n hìn th ấy vợ cũ đứng ngoài cửa. Ông không biết bà ta đã đứng đó được bao lâu rồi, không biết bà ta đã nghe được nh ững gì từ câu chuy ện ông nói với Eva Lind. Bà ta v ẫn m ặc áo khoác màu nâu như lần trước, bên trong mặc một bộ qu ần áo tập ch ạy bộ, nh ưng lần này đi thêm m ột đôi giày cao gót khiến bà ta trông th ật lố bịch. Erlendur rất ít khi nhìn thấy v ợ cũ trong h ơn hai mươi năm, và ông th ấy bà ta đã già đi đến thế nào sau ng ần ấy th ời gian. Gương m ặt bà ta đã m ất đi nh ững đường nét s ắc sảo, hai má phính ra còn cằm đã bắt đầu ch ẻ làm đôi.

    "Bà đã nói dối Eva Lind một cách trắng trợn về việc phá thai," Erlendur rít lên đầy giận dữ.

    "Để tôi yên," Halldóra nói. Giọng bà ta cũng già đi nữa, bây giờ nó trở nên khàn khàn vì hút thuốc quá nhiều.

    "Bà còn nói dối các con những chuyện gì n ữa?" "Cút đi," Halldóra nói và đứng tránh sang một bên để ông có thể đi qua.

    "Halldóra …"

    "Biến ngay," bà ta nh ắc lại. "Đi đi, để cho tôi yên."

    "Chúng ta đều muốn có con."

    "Ông không hối hận sao?" bà nói.

    Erlendur không đáp.

    "Ông nghĩ rằng chúng có nhiệm vụ ph ải ra đời à?"

    "Chuyện gì đã xảy ra?" Erlendur hỏi. "Chuyện gì đã khiến bà

    trở nên như thế này?" "Cút đi," bà ta nói. "Ông bỏ đi giỏi lắm cơ mà? Vậy thì đi đi!

    Để tôi được yên bên con bé."

    Erlendur nhìn bà chằm chằm.

    "Halldó ra..."

    "Đi ngay, tôi nói rồi đấy." Bà ta nói to h ơn. "Đi ngay kh ỏi đây. Ngay bây giờ. Đi đi! Tôi không muốn ông quanh quẩn ở đây! Tôi không bao giờ muốn nhìn thấy bản mặt của ông nữa!"

    Erlendur đi qua bà ta ra khỏi phòng, rồi bà ta đóng cửa lại sau lưng ông.

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2021, 02:23 AM
  2. Có cánh chuồn chuồn câm lặng đậu trên vai…
    By tini in forum Xóm Nhỏ Thương Yêu
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-10-2016, 02:32 PM
  3. Chuối tây, chuối ta cũng không bằng... chuối lạ
    By sophienguyen in forum Truyện Cười Dí Dỏm
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 06-21-2015, 03:06 AM
  4. Cuối tuần đãi cả nhà bánh chanh leo chua chua ngon tuyệt
    By sophienguyen in forum Món Tráng Miệng
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-06-2014, 04:22 AM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-22-2013, 02:12 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •