Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngườc lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
Pascal
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 18 of 18

Chủ Đề: Biệt Thự Của Người Đã Chết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Biệt Thự Của Người Đã Chết

    Biệt Thự Của Người Đã Chết

    Tác giả :Alfred Hitchcock

    Dịch giả Khanh Khanh








    MỤC LỤC [−]

    1. Biệt Thự Của Người Đã Chết
    2. Toà Lâu Đài Cổ Tích
    3. Ba Người Đàn Bà Và Một Con Ma
    4. Lời Hứa Của Cô Mathilda
    5. Gọi Hồn
    6. Câu Chuyện Bốc Mùi Khó Ngửi
    7. Thông Điệp Từ Bên Kia Thế Giới
    8. Điều Tra Theo Lệnh Hồn Ma
    9. Những Tin Đồn Độc Địa
    10. Giọng Nói Ma
    11. Và Kẻ Sát Nhân Là…
    12. Dora Hay Không Phải Dora?
    13. Bản Di Chúc
    14. Một Ngày Đầy Khám Phá
    15. Trong Tầng Hầm Của Kẻ Sát Nhân
    16. Thiếu Bằng Chứng
    17. Nàng Lọ Lem
    18. Trò Ma Ám Kết Thúc

    Chương 1

    BIỆT THỰ CỦA NGƯỜI ĐÃ CHẾT
    Cái đầu lâu nhìn chằm chằm vào mặt Justus Jonas từ hai hốc trống trơn. Nụ cười trên những khúc xương trắng nhởn như đang chế giễu người ngắm nó.

    Justus thò tay về phía chiếc đầu lâu. Vừa được cậu nâng lên, quai hàm của nó ngay lập tức trễ xuống, biến nụ cười mỉm thành một cái cười ma quái ngoác toang. Justus thổi cho bụi bay ra khỏi cái đầu lâu và nhăn trán nhìn vào gương mặt chết chóc. "Tồn tại hay không tồn tại, đó là vấn đề".

    - Ôi trời, Justus, cứ thế nầy thì không bao giờ bọn mình xong việc! - Peter thở phì ra lời than phiền từ phía sau. Thám tử phó trong nhóm Bộ Ba Đang loay hoay kiểm tra chiếc máy chữ đã cũ. Cả ba chàng thiếu niên đã quyết định bỏ thời gian để dọn dẹp thật cẩn thận Bộ tham mưu của họ. Cái gọi là Bộ Tham Mưu đó thật ra chỉ là một toa xe cắm trại cũ kỹ đang đày đến muốn tắt thở vì những đồ linh tinh đáng bỏ đi. Đại bản doanh thám tử nầy đứng trong khuôn viên của cửa hàng bán đồ cũ của ông chú Titus Jonas. Nữa muốn dọn dẹp cho nơi làm việc quang đãng hơn, bộ ba nữa còn muốn chuyển những món đồ linh tinh được tụ tập theo năm tháng sang cho chú Titus, mong kiếm vài đô la lẻ. Giờ ba cậu chàng đang ngồi trong cái cảnh hổn mang tối tăm đầy bụi bặm, giữa biết bao nhiêu là hòm và hộp Carton để mà xăm xoi đống "của báu" của họ. Càng lục lọi nhiều bao nhiêu, họ càng tiến chậm bấy nhiêu. Cứ mỗi một món đồ được lôi ra, là cả ba chụm đầu ngắm nghía rồi cãi sùi bọt mép xem đây là đồ ve chai hay một món kỹ niệm vô giá. Thám tử trưởng không bỏ một cơ hội nào để đưa ra những lời nhận xét trong một thứ văn rối rắm sặc mùi triết lý.

    Điều nầy khiến Peter phát điên.

    - Nếu cứ tìm thấy cái món đồ con con nào mà cậu cũng dành ra cả nửa tiếng để phân tích dẫn văn của Goethe thì đến năm sau bọn mình cũng chưa dọn dẹp xong.

    Justus không rời ánh mắt khỏi cái đầu lâu, cất cao giọng kịch trường giảng giải tiếp:

    - Dù cao quí chịu đựng những mũi tên và hòn đạn của số phận bạo liệt hay vùng dậy chấm dứt nỗi khổ đau bằng kháng cự". Mà nầy, Peter, đây không phải là văn của Goethe, mà là của Shakespeare. Hay nói một cách chính xác thì đây là lời của hoàng tử Hamlet.

    Bob Andrews xoay đầu lại. Cho tới nay cậu vẫn bỏ qua trò cãi cọ của hai anh bạn vì mải chăm chú vào chuyện chùi sạch mấy chiếc khung tranh cũ kỹ.

    - Sokrates.

    - Cái gì thế? - Peter hỏi.

    - Geothe, Shakespeare, Hamlet hay là Sokrates?

    - Mình không muốn nói đến câu trích dẫn, Peter, mà cái đầu kia! Đó là đầu Sokrates, cái đầu lâu biết nói mà ảo thuật gia Gulliver đã tặng cho bọn mình!

    Trời đất, mình quên khuấy đi mất. Justus, cái nầy không thể bán được đâu, cái nầy ta phải giữ lại trong Bộ tham mưu.

    - Mình đồng ý vô điều kiện, Bob, Sokrates sau nầy sẽ được đưa vào viện bảo tàng Bộ Bob Andrews .

    - Thám tử trưởng bắt dầu cười khúc khích.

    - Các cậu còn nhớ cô Mathilda hồi đó suýt chút nữa thì lên cơn đau tìm khi nghe Sokrates chào "Buhhh!"?

    Bob cười.

    - Sao lại không nhớ, buồn cười đến nôn bụng!

    - Trời ạ! Vừa nhắc đến cô Mathilda, - Peter nói và lo lắng nhìn qua khuôn cửa sổ, - thì bà cô của cậu đã sải bước về phía nầy rồi đấy. Các bạn đồng nghiệp ơi, tôi có linh cảm không tốt chút nào.

    Chỉ vài tích tắc sau, có tiếng gõ rất mạnh vang lên bên cửa.

    - Mời vào! - Justus nói.

    Cô Mathilda Jonas bước váo Bộ tham mưu của ba thám tử và giận dữ nhìn lần lượt Bob, Peter, Justus, rồi đến Sokrates.

    - Buhhh - Justus kêu lên và buông cho hàm dưới của cái đầu lâu mở ngoác ra.

    Cô Mathilda thốt lên một tiếng kêu ngắn rồi giật lui về một bước.

    - Justus

    Jonas! Cháu nghĩ thế nào mà lại đi doạ nạt bà cô tội nghiệp của cháu như thế hả! Lại đúng vào lúc các cậu có những chuyện quan trọng và gấp gáp hơn nhiều! Mấy ông cháu tôi làm sao thế hả, tại sao chưa bắt tay vào việc?

    - Việc gì kia ạ? - Justus ngạc nhiên hỏi và đặt Sokrates lên bàn.

    - Còn việc gì nữa! Phải quét sơn lại cho khu nhà văn phòng!

    - Hôm nay sao cô?

    - Phải, dĩ nhiên là hôm nay. Thế suốt cả tuần qua cô nói chuyện gì vậy hả?

    - Cô nói là chủ nhật. Cháu cứ tưởng cô nói chủ nhật sau.

    - Không tưởng với tượng gì hết, Justus Jonas, ý cô nói là chủ nhật nầy. Đi nào, cô đang cần các cháu giúp đỡ đây. Nếu cuối tuần nầy mà ta không làm cho xong thì lại kéo dài cả vài tháng nữa cho coi.

    - Nhất quyết phải thế sao cô? - Peter rên lên.

    - Đúng thế, - Mathilda Jonas nói bằng vẻ quả quyết.

    - Chắc chắn phải như vậy.

    Mái của ngôi nhà văn phòng dày cộm một lớp bụi và rác. Lá khô và bụi của rất nhiều năm trời đã trộn với nước mưa và được mặt trời nung nóng, biến thành một lớp vảy nâu xám, cứng trơ trơ dưới sức chùi của chiếc bàn chải bằng sắt.

    Peter loay hoay cọ chỗ nầy một chút, chỗ kia một xíu, nhưng kết quả bao gìơ cũng giồng nhau: Lớp bụi dứt khoát không chịu bong ra. Không có một lớp mặt sạch sẽ, đâu có ai dàm nghĩ đến chuyện quét sơn mới.

    Bực dọc, cậu quì xuống, đưa tay che mắt cho đỡ chói nắng rồi nhìn sang phía Bộ tham mưu. Bộ tham mưu của các cậu cũng bẩn thỉu y hệt như ngôi nhà mà Peter đang cưỡi bên trên. Mặc dầu vậy, chắc cả đời cậu và hai cậu bạn không bao giờ nghĩ đến chuyện khoác cho nó một lần sơn mới. Tại sao cô Mathilda cứ khăng khăng muồn làm đẹp ngôi nhà văn phòng nầy thế nhỉ?

    - Phía trên sắp xong chưa đấy! - Justus nói từ phía dưới lên.

    - Mình chẳng nghe thấy tiếng cậu cọ chùi gì nữa cả!

    - Ta có thể đổi chỗ cho nhau, Justus! Lớp bụi trên nầy hoàn toàn không nghĩ đến chuyện bung ra. Mình dám cuộc là đã có người dán chặt nó vào đây. Trên mái nhà nầy là toàn bộ khí thải của Los Angeles suốt hai năm qua được dán dính với nhau!

    - Thế câụ tưởng dưới nầy khá hơn hả? - Bob chen vào.

    - Nầy các cháu, nếu không dốc sức vào làm mà chỉ mải than thân trách phận thì không bao giờ xong việc đâu!

    Phải xoay lại. Cô Mathilda Jonas vừa ló ra từ phía sau lưng họ. Trên gương mặt cô là một nụ cười khoái trá, hai tay cô bưng một chiếc khay lớn có để ba chiếc cốc khổng lồ đựng nước cam vắt và một chiếc bình cũng đầy tới cổ. Cô không muốn mấy chàng thợ thủ công của cô bị chết khát.

    - Thế còn bánh anh đào thì sao ạ? - Justus hỏi, lòng đầy hy vọng, mặc dầu cậu chàng mới dùng bữa điểm tâm cách đây có hai giờ.

    - Bánh sẽ xuất hiện chừng nào các cháu xong việc - làm phần thưởng.

    - Các bạn đồng nghiệp, ta tăng tốc lên một chút! - Justus chúng miếng bùi nhùi bằng sắt vụn vào nước và dốc sức kỳ cọ.

    Cả Bob và Peter cũng làm tiếp. Đúng là than vãn cũng chả được tích sự gì - họ càng xong sớm bao nhiêu thì càng nhanh có thời gian cho những việc khác bấy nhiêu. Cả ba chàng thiêu niên dốc sức cọ rồi chùi, chùi rồi cọ. Mặt trời đã lên cao hơn nữa trên nền trời xanh ngắt không gợn một chút mây. Trán Peter lấm tấm mồ hôi. Tất cả số nước cam đã được uống đến giọt cuối cùng và Thám tử phó giờ chỉ còn mơ đến mỗi một thứ là kết thúc công việc nầy và đi ra bãi biển, lao mình vào những con sóng Thái Bình Dương mát lạnh. Bob, ngược lại, không mong mỏi gì hơn là được ngồi bên một suất kem khổng lồ dưới một cây dù cũng khổng lồ bên con đường ven bãi cát và an nhàn nhắm những người đi dạo. Justus thì chìm đắm trong suy nghĩ được kết thúc nhát cọ cuối cùng, rồi thả người vào bóng râm, một mình xủ lý cả chiếc bánh kem anh dào.

    Ngày như dài vô cùng tận. Cái nóng quá sứa chịu đựng. Nhưng rồi cuối cùng, váo lúc chiều tối, ngôi nhà bằng gỗ xinh xinh đã rực rỡ một màu trắng loá.

    Peter lùi ra xa và ngắm nghía thành quả lao động, sau đó cậu mới nhìn xuống bản thân mình. Cái áo thun vốn màu trắng giờ chỉ còn là một mảnh ghẻ đẫm mồ hôi ngả màu nâu trộn xám. Cậu nhìn sang phía Bob rồi phía Justus. Bob trông cũng chẳng khác gì cậu, nhưng Justus mới là kẻ có ngoại hình bị xuống cấp trầm trọng nhất. Mặt cậu chàng đỏ gay đỏ gắt, đẫm mồ hôi, áo thun nhỏ giọt tong tong và cậu hầu như không thể đứng thẳng được nữa. Cô Mathilda Jonas bước về phía ba chàng trai và vui vẻ vỗ tay kêu lên.

    - Tuyệt quá! Ngôi nhà bây giờ trông mới đẹp làm sao! Cô xin cam đoan với các cháu rằng chắc chắn doanh thu trong mấy thánh tới sẽ tăng. Các cậu rất xứng đáng được trọng thưởng đây!

    Vào hàng hiên nầy với cô, mọi chuyện được chuẩn bị xong rồi!

    Justus xoay nhìn bà cô với hai con mắt từ miếng lem nhem mồ hôi và ghét bẩn.

    - Cô Mathilda!

    - Sao cơ?

    - Đây là lần cuối cùng cô thoát khỏi một vụ như thế nầy mà chỉ tốn duy nhất một món bánh anh đào. Cháu kiệt sức thật rồi.

    Bà cô nhìn cậu, vẻ hối lỗi.- Ý cháu muốn nói, chỉ món bánh anh đào không thôi thì chưa đủ làm phần thưởng?

    Thám tử trưởng câm nín lắc đầu.

    - Mà hai bánh anh đào cũng không luôn.

    - Thôi được, cô nợ cháu một món. Nếu trong tương lai cháu cần đến sự giúp đỡ của cô thì cháu có thể tin chắc vào cô. Hứa chắc chắn thế.

    - Cháu sẽ ghi nhớ chuyện nầy.

    Chỉ một lát sau, bộ ba thám tử đã ngồi trong bóng râm của hàng hiên và tham lam nuốt chửng những miến bánh anh đào tuyệt hảo, trong khi những giọt mồ hôi trên cơ thể họ dần khô lại.

    - Mình nói cho các cậu hay, còn lâu mình mới tham gia lại một vụ như thế nầy, - Bob vừa rên lên thành tiếng vừa đưa tay nhặt những mãnh vụn cuối cùng trên đĩa.

    - Đừng lo, phải hai năm nữa nhà mới quét sơn lại, - Justus nói.

    - Mà bấy giờ cô Mathilda đang nợ bọn mình một món. Ai mà biết được chuyện nầy sẽ có ích cho ta thế nào.

    Có tiếng chuông reo từ phía xa. Peter dỏng tai lên.

    - Có phải máy điện thoại trong Bộ tham mưu không?

    - Đúng rối, - Justus . - Cậu nhấc máy đi.

    - Không có chuyện đó đâu. Cậu là Thám tử trưởng.

    Justus chần chừ và vật lộn với bản thân một thoáng, nhưng cũng như bao lần trước đó, tính tò mò chiến thắng sự lười biếng. Cậu chàng nhấc mình ra khỏi chiếc ghế vườn. nhảy từ hàng hiên xuống và chạy xuyên qua khoảng sân bụi bặm để ngổn ngang đồ củ, hướng về Bộ tham mưu.

    Cậu còn về kịp nhấc máy điện thoại.

    - Justus Jonas của bộ ba Thám tử đây.

    - A, thế là tôi gặp đúng người rồi! - Một giọng phụ nữ đứng tuổi vui vẻ kêu lên.

    - Tên tôi là Berrnadette O’Donnell. Tôi muốn nòi chuyện một trong ba các cậu. Justus, cậu là người chỉ huy doanh nghiệp, đúng không?

    - Đúng như thế. Tôi có thể giúp gì cho cô ạ?

    Thế nầy nhé, tôi người Malibu Beach và đã nghe kể nhiều về các cậu. Người ta nói rằng chuyên ngành chính của các cậu là những hiện tượng siêu nhiên.

    Justus ngượng ngùng hắng giọng.

    - Nó là chuyên ngành có lẽ hơi quá lời, nhưng cô cũng có phần có lý. Bộ ba chúng tôi quả đã giãi quyết được một vài vụ thoạt đầu đã gây ấn tượng như là chuyện ma ám, quỷ hờn.

    - Tuyệt quá! - Bà O’Donnell vui vẻ kêu lên, - Thế thì các cậu đúng là những người tôi đang tìm gặp! Tôi có một vụ cho các cậu!

    - Chuyện về ngôi nhà của cô bạn gái Elouise Adams của tôi.

    - Ngôi nhà đó làm sao ạ?

    Bernaderre O Donnell cười khẽ.

    - Ở đó không có ma.

    - Sao kia?

    - Tôi biết, nghe có vẻ điên rồ, nhưng trong nhà của Elouise không có ma.

    Justus bối rối.

    - Như thế thì … thế thì rất hay. Đúng không?

    - Đúng, - O Donnell đồng tình.

    - Như thế không phải chỉ hay không đâu, mà còn là rất tuyệt nữa kia. Vấn đề chỉ là, chúng tôi cần bằng chứng cho chuyện nầy.


  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11

    Và kẻ sát nhân là…
    Bà Adams buông ra một tiếng thét nhỏ. Bà nhảy ra khỏi ghế rồi ngay lập tức ngồi xuống cùng cái thân hình run rẩy.

    Tiền sĩ Jones vặn cho loa to hơn nữa, và hầu như hoảng hốt xoay và đẩy tất cả những núm vặn và những cần gạt trong dàn nhạc.

    Bernadette O Donnell tóm lấy cánh tay của Bob và ấn thật mạnh. Ánh mắt của bà hướng vào chiếc loa, như thể không phải bà chỉ nghe thấy giọng của Dora phát ra từ đó, mà còn nhìn thấy Dora nữa.

    Bộ ba thám tử trao cho nhau những cái nhìn báo động. Không một ai biết cần làm gì. Như có một lời nguyền một phép thuật kỳ quặc bao phủ cả nhóm những người có mặt. Không một ai dám nói hoặc dám động đậy nữa, vì sợ rằng mình sẽ cắt đi mối liên kết bí hiểm sang với bên kia thế giới. Cuộn băng bây giờ lại im lặng, và khi giọng bà O Donnell vang lên ở lần sau đó, tất cả đều hoảng hốt giật nảy người lên.

    - Nếu thật sự em đã bị giết, thì có thể em biết kẻ sát nhân. Xin hãy nói cho chúng ta biết, liệu em có biết thủ phạm là ai, Dora. Hãy nói cho chúng ta biết, ai đã giết em!

    Sau vài giây đồng hồ im lặng, giọng Phantom quay lại. Thêm một lần nữa nghe như nó từ một đỉnh cao vời vợi phả xuống dưới mặt đất từng nột nhạc, từng nồt nhạc, giọng hát thấp dần cho đến khi trở thanh một giọng nói bình thường. Ở giữa chừng, nghe rõ một tiếng hắt hơi của Bob. Thế rồi hồn ma Dora nói tiếp:

    - Các bạn gái thân yêu của tôi! Tôi biết câu trả lời. Tôi biết câu trả lời. Tôi biết … tôi biết … tôi biết thủ phạm. kẻ đã giết tôi… tôi đã nhìn vào mắt nó trước khi ngã xuống … trước khi tôi chết… kẻ đó ở rất gần… gần lắm… gần lắm! -

    Giọng nói run rẩy như một ngọn nến trong gió bảo và khẽ xuống. Trong một tích tắc, cả ba thám tử đã e sợ là mối giao tiếp bị cắt đứt. Nhưng rồi giọng nói lại chắc chắn trở lại.

    - kẻ giết tôi ở đây… bên cạnh các bạn… bên cạnh chúng ta… gần lắm! - Giọng nói sụp xuống dưới, trầm hơn và trầm hơn nữa, cho tới khi chỉ còn là một tiếng rầm rì trầm đục, mỗi lúc một nhỏ hơn, một nhỏ hơn, rồi câm bặt.

    - Nếu em đã trả lời chúng ta, Dora, chúng ta xin cám ơn em! Kẻ có lổi sẽ bị trừng phạt thích đáng. Chúng ta rất thương nhớ em, Dora.

    - Tiếng thở dài của bà O Donnell vang lên, rồi tiếng bước chân của bà. Một tiếng "click" rất lớn kết thúc đoạn ghi âm. Tiến sĩ Jones bấm lên nút Stop, và tiếng rầm rì của đoạn băng cũng tắt.

    Nhiều giây đồng hồ chìm vào sự im lặng chết chóc. Kể cả Justus cũng không biết phải nói gì. Hàng vạn suy nghĩ như xoay vòng trong đầu cậu. Những gì mà cậu vừa chứng kiến thật sự là chuyện không thể xảy ra! Nhưng tất cả đều nghe! to và rõ!

    - Kia! - Peter đột ngột thét lên, giọng cao vói lên. Tay cậu hỉ về phía cửa sổ.

    Justus xoay lại và chỉ còn kịp nhìn thấy một dáng người cúi xuống, biến ra khỏi tầm nhìn của họ.

    - Gã đàn ông đã một lần quan sát chúng ta! Chính là gã.

    - Đuổi theo, - Justus kêu lên, nhưng Bob lúc đó đã nhanh lẹ đến bên khuôn cửa sổ và dật cửa ra. Với một cú nhảy cong người như con cá măng, cậu lao ra ngoài. Thám tử Thứ Ba dang hai cánh tay ra muốn tóm lấy kẻ lạ mặt. Nhưng cậu rơi vào một khoảng trống, và đập mình chẳng mấy dịu dàng xuống nền cỏ.

    Cậu đưa mắt nhìn quanh. Cả vườn hoa hồng trống vắng. Không một dấu vết của kẻ lạ mặt. Với hai chân nhanh lẹ, đầu gối khuỵu xuống để giảm sức va, và với dáng vẻ thể thao hơn rất nhiều so với Bob, Peter rơi xuống bên cạnh.

    - Nó đâu?

    - Mình không biết. Biến mất rồi. Mình thậm chí không nhìn thấy nó nữa. -

    Không thể được. Không có ai biến mất nhanh như thế được. Từ đây đến góc nhà phải tới 20 mét. Thậm chí cả mình cũng không đến được góc nhà trong một giây đồng hồ!

    - Nhưng như đã thấy đấy, nó biến mất rồi , Peter!

    - Sao thế, các bạn đồng nghiệp? - Justus hỏi từ phía trong cửa sổ.

    - Cứ ở lại trong đó đi, Justus, - Bob nói.

    - Nó lại thoát mất rồi.

    Thám tử phó thất vọng gầm gừ trong cổ họng, cân nhắc một thoáng. Cuối cùng cậu nói:

    - Vào lại đây đi!

    Peter đã muốn bước vào vườn hoa hồng sát dưới cửa sổ, để vào lại nhà bằng đường nầy, nhưng Justus ngăn lại.

    - Vào bằng cửa chính đi! - Cậu chỉ tay xuống luống đất và ném cho Thám tử phó một cái nhìn cảnh báo.

    Peter hiểu ra. Cả bộ ba thám tử đã thống nhất là không hé một lời cho bộ ba người đàn bà trong toà biệt thự nầy được biết về cái bẫy bột mì của họ.

    Khi Bob và Peter quay trở lại phòng khách, bà O Donnell kêu lên:

    - Như thế là thành công! Tôi biết ngay mà! Dora đã nói với chúng ta, nói rất rõ ràng!

    - Bản thân tôi thì thấy không đến nỗi rõ ràng lắm đâu, - Justus cãi lại.

    - Chả lẽ cậu còn khẳng định là cậu không hiểu cô ấy nói gì?

    - Tôi rất hiểu những từ ngữ đã được nói ra. Câu hỏi chỉ là, liệu đó có phải là giọng của cô Mastratonio không.

    - Nhưng chính tai cậu đã nghe thấy đó! - tiến sĩ Jones nổi giận.

    - Cô ấy đã nói rất rõ và to!

    - Đó không phải là bằng chứng!

    - Chính là cô ấy đấy, - bà Adams thở thều thào bằng giọng run run.

    - Tôi đã cảm nhận thấy. Cô ấy ở rất gần chúng ta!

    - Cũng gần như kẻ đã giết cô ấy, - bà O Donnell nhanh nhảu bổ sung thêm và tất cả thoắt im lặng. những từ cuối cùng của giọng Phantom đang vang lại một lần nữa trong đầu họ. Kẻ giết người đang ở đây, ở bên cạnh họ!

    - Gã đàn ông bên cửa sổ, - Peter bẻ gãy màn tĩnh lặng.

    - Chắc phải là gã đấy.

    - Nhưng làm sao Dora biết được là gã quan sát chúng ta, - Bob hỏi.

    - Làm sao mà mình biết! - Peter kêu lên.

    - Cô ấy là một hồn ma! Cô ấy nhìn và nghe thấy tất cả! Chẳng phải người ta nói rằng, kẻ giết người rồi sẽ quay lại hiện trường đó sao? Nó là bằng chứng! Gã đàn ông là thủ phạm!

    - Nhưng nó là ai mới được chứ? - Bob hỏi.

    - Liệu ta có tìm được ra không?

    Mình không thể tin là gã lại một lần nữa nhanh chóng thoát đi được như vậy!

    - Chậm nào, chậm nào, cả hai cậu kia! - Justus cảnh báo.

    - Những gì mà cậu dễ dàng coi ở đây là bằng chứng, Peter, chỉ là sự gom góp của những lời khẳng định không liên quan với nhau. Mà cả với cậu, Bob, mình cũng đã mong chờ là cậu sẽ điềm đạm tỉnh táo hơn. Chúng ta thậm chí không một lần biết cái giọng Phantom kia là có thực hay không.

    - Nhưng mà Justus, tất cả bọn mình đã nghe thấy cái giọng đó! - Peter cãi lại.

    - Hay là không hả?

    - Nghe thấy thì có đấy.

    - Và chúng ta không nghe thấy gì trong suốt thời gian ghi âm, - Peter nói tiếp.

    - Tới đây thì đồng ý chứ

    - Đồng ý, - Justus nóng nảy đáp.

    - Mình rõ là các tang chứng dán tiếp trỏ về hướng chúng ta đang nghe thấy một giọng Phantom. Mặc dầu vậy, việc đầu tiên là mình vẫn muốn đưa cái băng nầy đi phân tích một lần cho kỹ lưỡng, trước khi chúng ta tin chắc vào một điều gì đó.

    - Cậu bước đến bên dàn máy Hi-Fi, rút băng cassette ra ngoài.

    - Như thế là thế nào? Bà O Donnell hỏi.

    - Chẳng lẽ các cậu lờ đi những lời nói của Dora? Chỉ thiếu một chút nữa thì cô ấy đã cho chúng ta biết tên của kẻ giết người! Đó mới là thứ các cậu phải điều tra chứ!

    - Chỉ khi nào chúng tôi có được bằng chứng về sự nhận diện của giọng nói được ghi âm, - Justus quyết định.

    - Và thành thật mà nói, hiện giờ tôi vẫn chưa tin vào chuyện nầy.

    - Thế cậu cần bao nhiêu bằng chứng nữa hả, Justus Jonas? - bà O Donnell rít lên.

    - Các cậu phải tìm cho ra kẻ đã giết Dora, thay vì phí thời gian vào việc nghi ngờ băng ghi âm.

    - Thưa cô O Donnell, nếu cô Dora Mastratonio thật sự đã bị giết chết, thì vụ án nầy đằng nào cũng quá sức chúng tôi. Chừng nào chúng tôi nhận được bằng chứng, chúng tôi sẽ đưa vụ nầy sang cho chú thanh tra Cotta.

    - Nếu tới lúc đó thì quá muộn, - bà O Donnell rít lên.

    - Rất có thể gã giết người đã trốn đi từ lâu rồi. Hay là ả giết người.

    - Ả giết người? - Bob hỏi. - nhưng bên cửa sổ rõ ràng là một gã đàn ông, theo những gì mà tôi nhìn thấy.

    - Cái đó có thể đúng. Nhưng Dora không nói là kẻ giết cô ấy đứng bên cửa sổ. Cô ấy chỉ nói, thủ phạm ở rất gần. Vậy là không nhất thiết đó phải là một kẻ lạ.

    - Người đàn bà đưa mắt quét qua vòng tròn người đang ngồi rồi hạ giọng xuống. Người ta thấy rõ là khó nhọc tới mức nào bà mới nói được thành câu: - Có thể thủ phạm là người trong bọn chúng tôi.


  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12

    Dora hay không phải Dora?
    - Tôi đã nhìn vào mắt nó trước khi ngã xuống… trước khi tôi chết… kẻ đó ở rất gần… gần lắm… gần lắm!

    Justus nhấn nút Stop, ngưng băng ghi âm, cuốn cuộn băng trở lại rồi phát lại đoạn nầy lần nữa.

    - Mình thất sự không hiểu, cậu làm thế để nhằm mục đích gì, Justus, - Peter càu nhàu, cậu đang ngồi cạnh thám tử trưởng trong Bộ tham mưu. - Ít nhất bọn mình cũng nghe cuộn băng nầy năm lần rồi.

    - Sáu lần, - Bob sửa lại.

    - Rồi sau đó nghe lại từng câu của cô Dora, Thế cậu định tìm cái gì?

    - Justus chỉ lắc đầu, ánh mắt vẩn không rời khỏi chiếc máy ghi âm. - Mình không biết. Nhưng trên cuộn băng nầy phải có một cái gì đó, cho chúng ta biết những âm thanh nầy được tạo nên như thế nào.

    - Mà nếu… ừ thì… thế nếu cậu đơn giản chấp nhận rằng đó thật sự là hồn ma của cô Dora thì sao? - Peter rụt rè hỏi.

    - Thôi đi nào Thám tử phó, mình cần phải nói với cậu bao nhiêu lần nữa hả? Đúng là chuyện nực cười.

    - Nhưng những hiện tượng của giọng Phantom rõ ràng là tồn tại, - Bob chen vào.

    - Và thậm chí, đã có người viềt sách về chuyện nầy…

    - Thì sao? Cũng có những cuốn sách người ta viết rằng Kim tự tháp của đất Ai cập là do người ngoài trái đất xây nên. Toàn trò dối trá! Đằng sau nó phải có một cái mánh nào đó!

    - Nhưng mà là mánh gì mới được? - Peter nóng nảy.

    - Tất cả bọn mình không nghe thấy một cái gì! Vậy mà trên băng vẫn có giọng nói! Máy ghi âm không bị chỉnh sửa! Thế thì mánh ở đâu mới được chứ!

    - Mình không biết! - Justus bực bội quát lên.

    - Và mình chắc chắn sẽ không thể nào tìm ra nếu cậu cứ làm cho mình phát điên lên như thế nầy! - Cậu lại để cho băng chạy tiếp, rồi nhắc lại thêm, nhắc lại thêm đoạn có ghi giọng nói Phantom.

    - Kẻ giết tôi ở đây, bên các bạn… bên chúng ta… gần lắm!

    - Thế các bạn nghĩ sao về phản ứng của bà O Donnell trước câu nói nầy? - sau một hồi, Bob hỏi.

    -Ý cậu muốn nói tới việc bà ấy khẳng định rằng rất có thể một người trong số bọn họ là thủ phạm, - Peter hỏi.

    - Bà ấy gan quá đấy. Tiến sĩ Jones và bà Adams lúc đó đã nhìn bà ấy như thể bà ấy là người điên. Ít nhất thì tình cảm của bọn họ sau đó cũng bị sứt mẻ.

    - Mặc dầu vậy, mình không cho lời phỏng đoán đó là kỳ quặc đâu, - Justus nói và cuối cùng cũng quyết định thôi không hành hạ cái máy ghi âm nữa.

    - Sao kia? Ý cậu nói rằng, một trong ba người đó là tội pham?

    - Ta hãy suy xét mọi việc cho logic, - Thám tử trưởng yêu cầu.

    - Dữ liệu là: Giọng nói Phantom chỉ là một lời mách bảo. Mà lời mách bảo cho một trong những người có mặt - cho chúng ta, cho bà O Donnell bà Adams hoặc tiến sĩ Jones. Thậm chí cho tất cả chúng ta gộp lại. Dù kẻ dàn xếp cho giọng nói Phantom lọt vào cái băng ghi âm nầy có là ai đi nữa - ngay cả khi kẻ kia là một hồn ma - kẻ kia cũng muốn báo cho chúng ta biết một điều gì đó. Kẻ giết người ở rất gần. Và qua đó thật sự chỉ có bốn bốn người đáng để ý tới - ba người đàn bà của chính toà biệt thự đó và kẻ lạ mặt bên cửa sổ. Bởi có một điều mình biết chắc chắn: Cả ba bọn mình không phải thủ phạm.

    - Thế thì bày ra trò giải đáp câu đố làm gì? - Bob hỏi.

    - Tại sao giọng Phantom không nêu đích danh tên thủ phạm đi cho xong?

    - Mình không biết, - Justus thú nhận.

    - Nhưng nều tỉnh táo mà quan sát lại toàn bộ sự việc, thì mình thấy ta sẽ rất dễ dàng đoán ra những bước điều tra sắp tới cần thực hiện. Thứ nhất, chúng ta phải tìm cho ra kẻ lạ mặt bên cửa sổ là ai.

    Nếu gặp may, có thể sáng mai, trong ánh nắng mặt trời, ta có thể bám theo những vết chân dính bột của gã. Thứ hai, ta phải soi kính lúp vào ba bà cô đáng kính. Ví dụ như mình rất thích được xem xét toà biệt thự Mastratonio mà không bị bà cô Bernadette O Donnell, Cecilia hoặc Elouise quan sát và bám theo từng bước một. Thứ ba, chúng ta phải bằng cách nào đó tìm cho ra, kẻ nào hoặc cái gì đứng đằng sau giọng Phantom. Mình thú nhận rằng đây là một câu đố hiểm hóc. Nhưng có thể có một khả năng nào đó giảm đi độ bóp méo của giọng nói trong băng ghi âm bằng các biện pháp kỹ thuật, và tái tạo lại giọng nói nguyên thuỷ.

    - Mình biết ai có thể giúp bọn mình! - Bob phun ra.

    - Darren Higman! Người hâm mộ cô Mastratonio mà mình đã tới thăm! Anh ấy sinh sống bằng những việc như vậy, mà ngoài ra lại có một cặp tai thính nhạc cực kỳ.

    - Tuyệt lắm, Bob. Ngay sáng mai chúng mình sẽ đến thăm anh ấy. Thật là chuyện nực cười, nếu ta không thể lật tẩy được bí mật của giọng Phantom!

    Ngày hôm sau, thời tiết nắng ấm biến mất không một lời từ giã. Trời nổi bão và gió hùng hổ đẩy những tảng mây nặng trĩu dồn đống vào nhau. Trên con đường xuống Santa Monica, không gian mỗi lúc một tối hơn. Darren Higman rất vui vẻ khi nhận được điện thoại của Bob. Và anh rất ngạc nhiên, khi thấy sau giờ học, bên cánh cửa của anh không phải chỉ có Thám tử Thứ Ba, mà còn kèm theo cả Justus và Peter. Darren Higman mời cả bộ ba vào nhà, mời họ uống nước rồi dẫn họ vào phòng khách đồng thời cũng là phòng thu thanh của anh.

    - Anh có thể giúp gì bọn em? - cuối cùng anh hỏi.

    - Các cậu cần thêm thông tin về cô Dora Mastratonio sao?

    - Trong một phương diện nào đó thì đúng như vậy, - Bob chần chừ trả lời. - Nhưng thật ra lại là một khía cạnh khác. Bọn em có một băng ghi âm. Băng ghi âm một giọng nói bị bóp méo. Bọn em tự hỏi, liệu có thể tái tạo lại giọng nầy, đưa nó quay trở lại trạng thái ban đầu của nó không.

    - Hừm, - Higman nói.

    - Chuyện đó không đơn giản đâu. Nó tuỳ thuộc vào việc giọng nói đó đã bị bóp méo bằng phương cách nào. Nếu chỉ có một vài bộ phận gây nhiễu bằng điện tử, và nếu anh có thể loại bỏ những loại nhiễu đó ra ngoài thì có thể ta sẽ tái tạo lại được giọng nói. Nhưng nếu bài toán khó hơn thì hầu như không ai làm nổi. Cho anh nghe cuộn băng một lần đã. Các cậu có mang theo không? - anh chìa tay ra.

    - Có ạ, - Bob nói.

    - Chỉ có điều…

    - Nội dung của những câu được nói ở đây có thể khiến anh thấy hơi lạ lẫm, - Justus nhảy vào nói thay bạn.

    - Bọn em muốn xin anh đừng để ý nhiều tới chúng.

    Darren Higman cười.

    - Không dễ làm cho tôi hoảng hốt đâu.

    - Tuỳ ý anh.

    - Justus ấn cuộn băng vào tay Darren Higman và anh đến bên dàn nhạc, đặt nó vào máy. Với những ngón tay lần mò nhanh thoăn thoắt, anh bật máy lên, vặn cho loa to hơn. Sáu phút đồng hồ âm thanh được phát lại, không ai nói lấy nửa lời. Nhưng cả bộ ba đều nhìn thấy rõ da mặ Darren Higman mỗi lúc mỗi trắng nhợt hơn, thân hình cứng đờ ra, miệng há hốc.

    - Các cậu không đùa đấy chứ! - Anh nói và cười, cực kỳ bối rối.

    - Có phải tôi đang sa vào kênh truyền hình ống kính quay phim bí mật hay cái gì tương tự không? nếu mà như thế thì các cậu đểu quá, bởi vì với tôi, các cậu đâu có cần phải giấu ồng kính đi. Đang xảy ra chuyện gì ở đây vậy hả?

    - Cuộn băng nầy là đồ thật, - Justus giải thích.

    - Người phụ nữ mà anh nghe thấy là bà Bernadette O Donnell, một người bạn cũ của cô Mastratonio. Còn giọng Phantom, ngược lại… Vâng thì, bọn em đã hy vọng, anh có thể nói cho bọn em biết thật sự đó là giọng ai. Vì thế mà bọn em đến gặp anh.

    - Nhưng chuyện đó không thể thật sự xảy ra được! - Darren Higman nói tiếp.

    - Cái trò… cái trò cầu hồn nầy! Thật đã xảy ra trò đó hay sao? Bao giờ? Tại sao? Với ai? Xin lỗi các cậu, nhưng nếu tôi phải giúp các cậu, thì tôi cũng muốn được biết lý do. Chuyện không thể nào tin nổi!

    Bộ ba trao đổi với nhau bằng ánh mắt. Cuối cùng, Justus gật đầu về phía Thám tử Thứ Ba và Bob bắt đầu lên tiếng, báo cáo cho anh Darren Higman nghe toàn bộ chi tiết của vụ án. Chuyên gia trộn nhạc mỗi lúc một nhac nhiên hơn.

    - Justus không tin rằng người nói ở đây thật sự là hồn ma của Dora, - Bob kết luận bản báo cáo của cậu.

    - Vì thế mà chúng em nghĩ cần phải nghe ý kiến của một chuyên gia, nên đã mang cuộn băng đến hỏi anh.

    - Tôi phải nghe nó thêm lần nữa! - Darren Higman nói rồi quay cuộn băng trở lại. Anh gây ấn tượng rất bối rối. Mặc dầu vậy, bộ ba vẫn thấy rõ là anh đã bắt đầu hào hứng và tò mò, quan tâm đến vụ án.

    - Các cậu biết không, đây quả thật là câu chuyện khó tin nhất mà tôi từng được nghe. Nhưng nếu tôi có thể giúp các cậu giải vụ án nầy, thì dĩ nhiên tôi rất sẵn lòng. Chỉ riêng nhằm mục đích bảo vệ di sản còn lại của cô Mastratonio. Cứ tưởng tượng đến cảnh hồn ma cô ấy đang lẩn quất trong toà villa đó là tôi lại thấy rởn người lên.

    Darren Higman bắt đầu bật cuốn băng và chăm chú lắng nghe. Thế rồi anh bật máy tính của anh lên, bắt đầu chạy một vài chương trình. Cho việc nầy anh không sử dụng chuột như người thường, mà chỉ dùng duy nhất bàn phím. Máy tính của anh cũng không có màn hình, thay vào đó là một giọng nói từ loa, cho Higman biết chương trình đang chạy đến điễm nào. Nhưng nhà nhạc sĩ chỉ thỉnh thoảng mới dùng đến sự trợ giúp của cái máy nầy, bởi đa phần thì anh thuộc lòng từng bước tính toán. Được ngồi ngắm anh làm việc quả thật là một kỷ niệm ấn tượng mạnh mẽ.

    Khi chương trình đã được kích hoạt, anh để cho đoạn băng phát lại lần thứ ba. Bây giờ tôi sẽ số hoá đoạn tiếng nầy, sau đó tôi sẽ có thể xử lý chúng tốt hơn, - Darren Higman giải thích.

    - Đa phần công việc tôi được thực hiện với những dàn trộn tiếng và với các núm điều chỉnh, phần còn lại bằng bàn phím của máy tính. Chương trình xử lý âm thanh và âm nhạc của máy tính nầy được thiết lập sao cho tôi hoàn toàn không cần đến chuột và màn hình. Những mũi tên của con chuột máy tính là cả một chuyện ma rùng rợn đối với đám người mù bọn tôi!

    Sau vài phút đồng hồ, giọng nói Phantom đã được tách ra khỏi phần còn lại của đoạn băng, và bây giờ liên tục được phát ra trong một vòng lặp không kết thúc. Lúc đó, Darren Higman bắt đầu làm thí nghiệm với giọng nói. Anh đẩy một vài cần gạt, bấm một vài phím và giọng nói trở nên sáng hơn, trong hơn hoặc trầm hơn, nhanh hơn hoặc chậm hơn, đột ngột nghe lạnh lùng đầy màu sắc điện tử hoặc mềm như nhung, giống tiếng gầm gừ của một con mèo. Thỉnh thoảng, giọng nói tiến đến gần một giọng người bình thường để rồi ngay sau đó nó lại loãng ra xa.

    Justus, Peter và Bob căng thẳng theo dõi quá trình làm việc của Higman.

    Những ngón tay của người nhạc sĩ mù như bay như múa trên bàn trộn nhạc và mỗi lúc một lôi ra từ giọng Phantom những sắc thái tinh tế mới. Cuối cùng, tiếng rầm rì và âm thanh sắc cạnh như của kim loại đã đa phần bị loại bỏ, nhưng giọng nói bây giờ nghe vẫn rất kỳ quặc.

    - Tôi rất tiếc, tôi không thể làm được tốt hơn, - Darren Higman thở dài.

    - Như thế nầy đã là một bước tiến đáng kể rồi ! - Justus say mê nói.

    - Nó gây ấn tượng mạnh mẽ lắm!

    - Cám ơn. Bây giờ các cậu nhận diện được giọng nói chưa?

    - Nhận diện ư? - Bob hỏi.

    - Không. Chả lẽ bọn em phải nhận diện?

    Darren Higman nhún vai.

    - Rất có thể các cậu cần phải làm. Các cậu biết không, tôi có ở đây tới vài trăm đoạn băng ghi âm giọng cô Mastratonio. Thu trực tiếp những buỗi biểu diễn, thu trong phòng ghi âm và kể cả những buổi phỏng vấn ở radio hay đài truyền hình - thật ra là tất cả những gì người ta có thể có được. Thêm vào đó, đằng nào thì tôi nghe cũng thính hơn những người sáng mắt. Nếu các cậu nhận diện một con người qua gương mặt, thì tôi có thể cũng nhận diện đúng y như thế qua giọng nói. Một giọng nói cho ta biết rất nhiều điều về chủ nhân của nó. Mà giọng của cô Dora Mastratonio thì chắc là tôi biết rõ hơn bất kỳ ai khác.

    - Anh nói vậy là có nghĩa sao? - Peter căng thẳng hỏi.

    - Giọng trên băng là của cô Dora hay là không phải?

    - Giọng thu đã được bóp méo đi rất mạnh. Rất mạnh. Mặc dầu vậy, những nét đặc trưng của một giọng nói, cái linh hồn của giọng nói đó, thì luôn luôn lẩn quất toả sóng cùng giọng nói, không thể bị loại bỏ qua cách nầy. Vì thế mà tôi có thể nói với sự chắc chắn tuyệt đối: Dù người nói trên băng nầy là ai, người đó không phải Dora Mastratonio.



  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13

    Bản di chúc
    - Một sự thật tuyệt đối chắc chắn chứ? - Justus khoan thêm.

    - Đúng thế!

    Justus đập mạnh tay xuống đùi.

    - Mình đã biết ngay mà! Toàn là trò pháp thuật dối trá! Anh Darren Higman, liệu anh có thể nhắc lại lòi khẳng định nầy trước nhân chứng hay không? Ví dụ như trước những người bạn của cô Mastratonio?

    - Dĩ nhiên. Chắc chắn là không thể chứng minh được, nhưng tôi nghĩ rằng ít nhất thì tất cả những người nghe quen biết Dora Mastratonio, dù là không có năng khiếu, cũng đều sẽ đồng ý với tôi.

    - Anh Higman, bọn em cám ơn anh nhiều lắm! - Justus nói.

    - Anh thật là một sự giúp đỡ không thể trả bằng vàng! Bây giờ bọn em phải lên đường đây. Bọn em có một cuộc hẹn, hẹn quan trọng!

    - Thế sao? - Peter hỏi.

    - Sao mình chả biết chút gì cả?

    - Ta phải quay trở lại biệt thự một lần nữa, - Thám tử trưởng giải thích. -

    Sáng nay mình gọi điện cho bà O Donnell và biết được là chiều nay không có ai ở trong nhà đó cả. Tối hôm qua,sau khi bọn mình ra về, cái mối nghi ngờ khủng khiếp của bà ấy đã gây ra một trận cãi cọ dữ dội. Vì thế mà hôm nay cả bộ ba đó đã kéo nhau rời khỏi nhà. Những chuyện bình thường của phái nữ thôi. Đi mua đồ, đi làm tóc, v.v. Rồi tới tối thì họ lại quay trở về, vì thế mà bọn mình không còn nhiều thời gian đâu.

    - Nhưng tại sao bọn mình lại phải quay trở lại biệt thự, nếu không có ai ở đó?

    - Peter ngơ ngác.

    - Chính bởi vì không có ai ở đó, Thám tử phó!

    Lần nầy thì bộ ba thám tử tiệm cận toà biệt thự Mastratonio từ một hướng khác, nhằm tránh chuyện bị bà Willow phát hiên. Họ rất vội vàng. Không một ai biết chính xác bao giờ thì những người trong nhà sẽ quay lại. Những tảng mây trên trời bây giờ đã hợp với nhau, tạo thành một tầng dày màu xám, và khiến cho không gian tối hơn nữa. Trời có thể đổ mưa bất kỳ lúc nào.

    - Thế bậy giờ làm thế nào vào được trong đó? - Peter hỏi.

    - Về chuyện nầy, mình tin tưởng hoàn toàn vào cậu, - Justus thú nhận.

    - suy cho cùng thì có cái cửa nào mà cậu không mở được bằng bộ công cụ của cậu.

    - Không một cái cửa bình thường nào, - Peter sửa lại, - nhưng đây là một toà biệt thự! Mình sẽ rất ngạc nhiên nếu nó không có những chiếc chìa khoá bảo an tử tế.

    - Dĩ nhiên còn một khả năng khác, - Bob nói và chỉ lên trên. Ở lầu một có cái cửa sổ đang mở, nhưng nó được gắn chấn song sắt.

    - Cậu nghĩ sao, cậu chui qua có lọt không?

    - Mình hả? - Peter nhắc lại.

    - Tại sao lúc nào cũng cứ là mình?

    - Vì cậu là người gầy nhất trong cả bọn.

    - Cái đó thì mình không chắc chắn đâu, Bob cậu thấp hơn mình và gầy hơn mình. Liệu lần nầy ta có thể thay đổi một chút đi cho vui vẻ, và để cho cậu đi trước một lần chăng?

    - Mình có trèo cả đời cũng không lên được đến đó đâu.

    Thám tử phó cười.

    - Rồi ta sẽ xem!

    Chỉ ba phút sau, Bob đã đứng với hai bàn chân run run trên bờ vai Peter.

    Thám tử phó nắm chặt hai bàn chân của cậu bạn và lảo đảo một cách dễ sợ dưới trọng lượng của Bob. Justus đứng bên góc nhà, thỉnh thoảng lại ném một cái nhìn âu lo về phía hai anh bạn.

    - Cậu đứng cách tường xa quá, Peter! - Bob rít nhẹ.

    - Thế nầy thì bao giờ mình với được đến của sổ!

    - Nếu cậu làm ơn đứng thẳng người lên một lần, thì mình sẽ liều mạng bước một bước về phía trước!

    - Đứng thẳng thế nào được, nếu cậu cứ tròng trành như thế!

    Peter bước một bước nhỏ và ngay lập tức cả người Bob lảo đảo. Cậu khoa khoa hai cánh tay, đổ người về phía trước và may mà còn kịp tóm lấy ô lưới làm bằng sắt đúc.

    - Các cậu làm cái gì ở đó? - Justus thì thậm.

    - Cứ lo mà canh chừng đi! - Bob gầm gừ.

    Nhưng Justus không nín được nữa. Cậu nhanh lẹ phun ra.

    - Giờ thì mình biết tại sao đây mãi là việc của Peter. Trông cậu bây giờ tệ lắm, Bob!

    - Nếu cậu thích thì ta đổi vị trí!

    Peter vội vàng giúp Thám tử Thứ Ba, cậu dồn sức đẩy hai bàn chân cậu bạn lên trên, để Bob đặt được chân lên bậu cửa sổ. những thanh thép quả thật được gắn tương đối thưa, đủ thưa để cậu có thể chui người qua. Chỉ vải tích tắc sau, Bob đã ở phía bên trong toà biệt thự.

    Vì bộ ba thám tử trước đó chưa một lần lên đến lầu một của ngôi nhà, nên Bob cần một chút thời gian cho việc định hướng. Cậu đang ở trong một phòng ngủ. Phòng được trang trí rất khô khan, góc phòng còn để những hộp Carton lớn chưa được mở ra. Trên một chiếc tủ buýp-phê để la liệt những bức ảnh viền khung. Vài tấm ảnh có hình Cecilia Jones với một người đàn ông tóc đen điển trai - người chồng đã chết của bà, một tấm ảnh đám cưới bên cạnh cho Bob biết như vậy.

    Bob dứt ánh mắt ra khỏi dãy ảnh, vội vàng đi về phía hành lang, rồi từ đó theo cậu thang xuống cửa ra vào. Cửa chỉ sập vào ổ, không bị khoá thêm. Peter và Justus đã chờ sẵn phía bên kia.

    - Vụ vừa rồi mình làm thế nào?

    - Tuyệt lắm đấy, Bob.

    - Thôi đi nào, mình đâu có đến nỗi tệ thế!

    - Không tệ, - Peter nhận xét.

    - Mặc dù trông cậu giống một cái bao tải ướt được treo trên dây phơi quần áo, nhưng ngoài ra thì mọi thứ cũng tàm tạm được.

    Justus và Peter bước váo phía trong toà biệt thự và Bob đóng của lại.

    - Được, giờ bọn mình đã vào đến trong, - Peter nhận định.

    - Rồi sao nữa? Ta đi tìm cái gì bây giờ, Justus?

    - Không biết. Tìm tất cả. Ta hãy thử vẽ một bức tranh miêu tả ba bà cô đáng kính kia. Họ làm gì? Trước đây họ làm gì? Quan hệ của họ với cô Dora thật sự tốt tới mức nào? Hãy để ý đến những thứ giấy tờ có thể chúng ta biết về tình hình tài sản của họ. Về những chuyện riêng tư của họ. Đúng thế, về tất cả mọi thứ. Tốt nhật là ta chia nhau ra. Mình xem xét ở tầng dưới nầy trước đã, hai cậu lên trên trước đi!

    Ở tầng dưới có căn bếp, một buồng tắm, phòng ăn và phòng khách mà bộ ba thám tử đã quen. Ngoài ra còn khu đại sảnh với những bậc cầu thang và một phòng kho nhỏ. Trời lúc đó đã hơi tối, nhưng Justus không dám bật điện. Ở góc nầy góc kia vẫn còn để ngổn ngang những hộp Carton đựng đồ chuyển nhà.

    Justus thận trọng mở hết nắp hộp nầy đến hộp khác, nhưng chỉ tìm thấy sách vở và bát đĩa. Kể cả phần còn lại của tầng nhà cũng hoàn toàn bình thường, không một dấu hiệu khả nghi. Mười phút trôi qua, Justus đã thật sự không biết cần phải tìm ở đâu nữa. Bối rối, cậu đứng bên dàn nhạc có giá trị vài chục ngàn đô la, một dàn nhạc có thể đưa lại một giọng Phantom trong trạng thái trong trẻo rõ ràng như thuỷ tinh. Nhưng cũng chẳng đáng ngạc nhiên, cô Dora thời còn sống là nữ danh ca và người mê âm nhạc. Dàn máy nhạc nầy hoàn toàn không phải chuyện bất bình thường, dù thoạt đầu nó có gây ấn tượng xa lạ đối với khung cảnh, ngôi nhà và những đồ gỗ cổ kính nầy.

    Justus đưa ánh mắt quét qua cả dãy những bàn điều khiển, và những màn hình thông báo, chiếc máy CD với hai góc có gắn microphon và… Justus bất chợt sững sờ. Tại sao ở đây có microphon? Tiến sĩ Jones đã nói rằng dàn nhạc nầy không có microphon mà?

    - Justus! - Thám tử trưởng giật nảy người lên. Peter đã đến sát sau lưng cậu mà không gây một tiếng động.

    - Justus, lại đây, Bob tìm được cái nầy!

    - Cậu làm mình hết hồn! Nhìn nầy, mình vừa phát hiện một thứ!

    - Dù là thứ gì thì cũng không giật gân như thứ mà Bob vừa tìm thấy đâu! -

    Thám tử phó tóm lấy cánh tay Justus và nhanh lẹ kéo thẳng cậu lên lầu trên!

    Bob đang đứng trong phòng làm việc của cô Mastratonio và cầm một tập giấy trong tay, chăm chú đọc tờ trên cùng. Khi Justus bước vào phòng, cậu dí ngay tờ giấy đó xuống mũi Thám tử trưởng.

    - Cái nầy mình tìm thấy trong ngăn kéo. Dĩ nhiên ngăn kéo bị khoá, nhưng đó không phải là chuyện khó đối với Peter.

    - Cái gì thế?

    - Tin quả tạ đấy! Thử đọc mà xem!

    Justus quan sát tờ giấy. Nó được viết bằng mực đen, chữ rất đẹp, mềm mại.

    Cậu đọc đoạn văn. Rồi cậu đọc lần nữa. Rồi một lần nữa. Cuối cùng cậu nói:

    Một bản di chúc.

    - Một bản sửa đổi dưới chúc, - Bob sửa lại.

    - Của cô Dora Mastratonio. Nó nằm ngay trên đầu chồng giấy nầy. Trong đó cô Dora ấn định rằng trong trường hợp cô ấy qua đời, toà biệt thự không được trao cho Elouise Adams như đã lên kế hoạch trước, mà chính Bernadette do mới là người được thừa kế tất cả! Thế nầy thì…

    - Quả là một tin quả tạ! mình nói mà.

    - Điều nầy có nghĩa là, toà biệt thự chẳng phải của bà Adams, - Peter nói. -

    Mà của bà O Donnell!

    Justus nhăn trán, mắt không rời tờ giấy. Thế rồi cậu chầm chậm lắc đầu. - không, không có nghĩ như vậy đâu. Cô Dora đã lên kế hoạch như thế, đúng vậy.

    Nhưng đây chỉ là một bản thảo, không phải một bản di chúc có hiệu lực. Nó được viết bằng tay, không có chữ ký của công chứng viên và không được đóng dấu. Mình không tin là nó có thật sự có hiệu lực. Bản di chúc có hiệu lực chắc đang được lưu trữ ở chổ ngài công tố viên, và trong trường hợp nầy thì bà Adams đang là người thừa kế.

    - Thế điều đó có ý nghĩa gì? - Peter hỏi.

    - Điều đó có nghĩa là Dora đã có ý định thay đổi di chúc của mình và thay người thừa kế thành bà O Donnell. Thử nhìn vào ngày tháng mà xem! Bản thảo nầy được làm vài ngày trước khi cô Dora chết. Chắc là cô ấy đã định cầm bản thảo đến công chứng viên và thực hiện việc thay đổi. Nhưng cũng rõ ràng là điều nầy không thể xảy ra, bởi suy cho cùng thì bà Adams vẫn là người thừa kế.

    Và tại sao?

    Trong một lúc, không ai nói một lời.

    - Vì trước đó, cô ấy đã bị giết chết! -

    Peter kinh hoàng thầm thì.

    - Nhưng mà điều nầy có nghĩa là… có nghĩa là…

    - Có nghĩa là cuối cùng đã có một người nào đó có động cơ giết cô Mastratonio. Một người nào đó muốn ngăn cản là việc sửa đổi di chúc được thực hiện.

    - Elouise Adams, - Bob nói.

    Đột ngột, một tia chớp chiếu vào căn phòng. Cả bộ ba thám tử giật nảy lên.

    - Cơn giông bắt đầu rồi đấy, - Peter nhận xét.

    Justus lắc đầu.

    - Không phải cơn giông đâu! Có người đã chụp ảnh bọn mình! Chụp từ phía ngoài kia! - Thám tử trưởng lao đến bên cửa sổ, nhưng Bob còn kịp giật cậu về trong tích tắc cuối cùng và dúi cậu vào một góc chết của căn phòng, nơi người phía ngoài của sổ không nhìn thấy được.

    - Cậu điên hay sao! Nếu ngoài kia thật sự có kẻ nào đó có thể nhìn thấy bọn mình, thì bọn mình là kẻ có tội! Bọn mình đã đột nhập trái phép vào toà biệt thự nầy, Justus, quên rồi sao?

    Justus giận dữ giật người ra.

    - Chắc chắn là bọn mình đã bị người ta nhìn thấy rồi , còn nếu không thì cậu giải thích tia chớp đó ra sao? Mình chỉ muốn biết kẻ nào vừa chụp ảnh thôi! - Cậu thận trọng dán mình vào tường, chuyển động đến bên cửa sổ và hé mắt ra ngoài. Đứng ở đây cậu có thể nhìn thấy một phần của khoảng vườn trồng hoa hồng, một đoạn phố phía ngoài kia và ngôi nhà của vợ chồng ông Willow. Những đám mây trĩu nặng nước mưa bây giờ hầu như đã đổi màu đen.

    - Không thấy một người nào. Điều đó có nghĩa là…

    Khoan đã!

    Một chiếc xe ô tô đang đi dọc con đường, giảm tốc độ rồi cuối cùng dừng lại trước khuôn viên. Cửa mở ra và người lái xe bước xuống.

    - Các bạn! - Justus kêu nhỏ.

    - Biến thôi! Ngay lập tức!

    - Cái… cái… cái gì thế? - Peter sợ hãi hỏi.

    - Tiến sĩ Jones! Cô ấy quay trở lại!


  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Chương 14

    Một ngày đầy khám phá
    - Ô không! - Peter kêu lên.

    - Bây giờ biết làm gì? Không được phép cho bà ấy bắt gặp bọn mình ở đây!

    - Thì mình đã nói rồi , biến đi thôi! Bob , bọn mình mang chỗ giấy theo!

    Thám tử Thứ Ba đút tập giấy vào ba-lô. Chỉ trong chớp mắt, cả bộ ba đã rời phòng làm việc và tiến ra phía hành lang dẫn xuống dưới, Nhưng đúng lúc đó đã có tiếng lạch cạch của chìa khoá trong ổ.

    - Muộn rồi ! - Peter rít lên.

    - Bây giờ làm sao?

    - Qua cửa sổ!

    Họ quay trở lại và chui vào phòng làm việc của tiến sĩ Jones. Không một giây quá sớm, bởi ngay khi Bob là người cuối cùng bước chân vào phòng làm việc, thì cánh cửa ra vào ở bên dưới nhà đã mở ra và tiền sĩ Jones bước vào, trên hai cánh tay ôm một loạt những túi mua đồ đầy ắp. Bob quan sát người đàn bà qua kẽ cửa. Nếu cô ấy vào phòng khách, thì họ có thể bạo gan biến ra ngoài qua cửa ra vào. Nhưng không! Người phụ nữ không vào phòng khách. Cô ấy đi thẳng về phía cầu thang.

    - Cô ấy lại đây! - Bob nói nhỏ.

    - Đi thôi!

    Peter là người đầu tiên đến bên cửa sổ. Những thanh sắt đứng tương đối sát, và trong một thoáng cậu đã e rằng mình sẽ bị kẹt ở trong nầy. Nhưng rồi cậu dồn sức chui lọt được người qua và nhảy xuống.

    Sau đó đến lượt Bob. Cậu không gặp khó khăn gì, lẹ làng chui sang bên kia, và xuống dưới còn nhanh hơn cả Peter.

    - Giờ cậu, Justus! - Bob thầm thì.

    Thám tử trưởng không động đậy.

    Justus?

    - Đồ tiếu lâm nhà các cậu! - Cuối cùng bộ siêu não rít lên.

    - Làm ơn chỉ cho mình biết, mình làm thế nào mà chui qua được hả? Mình đâu có gầy trơ xưong như các cậu, quên rồi sao? - Justus thử đút một cánh tay qua chấn song sắt, nhưng chỉ đến vai là cậu đã bị tắc. Cố gắng cũng chẳng được ích gì.

    - Tìm chỗ nấp đi! - Peter kêu nhỏ.

    Ngay lúc đó tiếng bước chân đã vang lên gần cửa. Justus không còn lựa chọn nào khác. Cậu ném mình xuống nền phòng và còn kịp lăn vào gầm giưòng trong tích tắc cuối cùng.

    Cửa mở ra và tiến sĩ Jones bước vào, ném những túi mua đồ lên giường rồi thở dai thả người xuống chiếc ghế trong góc phòng. Justus co chân lên, cuộn tròn người lại, thầm mong không bị phát hiện.

    Tiến sĩ Jones ngồi cả phút đồng hồ không động đậy, thế rồi bà lại nhỏm người lên và rời phòng. Justus dỏng tai lên nghe ngóng. Ở đâu đó có tiếng nước chảy, chắc là tiền sĩ Jones đang ở trong phòng tắm. Hoặc bây giờ hoặc không bao giờ nữa!

    Cậu bò từ dưới gầm giường ra, nhổn người lên và rón rén ra phía hành lang.

    Không thấy bóng một ai. Nhẹ nhàng như có thể, cậu chạy dọc theo cầu thang xuống dưới, mở cửa không một tiếng động rồi rời toà biệt thự.

    - Xuỵt! Justus! Lại đây!

    Bob và Peter đang khom người ngồi phía dằng sau một chiếc ghế dài bằng gỗ trong vườn. Họ chìm toàn thân vào trong những bụi hoa hồng, không một ai đứng ngoài có thể nhìn thấy họ. Justus nhập váo nhóm.

    - May quá. Mình cứ nghĩ bọn mình có nhiều thời gian hơn một chút để mà tìm tòi.

    - Cái quan trọng nhất thì bọn mình đã tìm thấy rồi , - Bob nhắc nhở và đưa tay vuốt ve ba-lô của cậu.

    - Giờ tìm cách biến khỏi đây thôi!

    - Khoan! - Justus cảnh báo.

    - Cậu đã quên mất nhiệm vụ thứ hai rồi sao, ta còn phải thực hiện xong chuyện đó nữa. Dấu vết của kẻ lạ mặt bên cửa sổ! Trơì có thể mưa bất cứ lúc nào, và vết bột sẽ tan hết.

    - Nếu có vết bột thật, - Bob thêm vào.

    - Nếu có vết bột. Tiến sĩ Jones bây giờ ở tầng trên. Nếu bọn mình rón rén áp người đi dọc tường nhà, cô ấy sẽ không nhìn thấy bọn mình! Đi thôi, nhanh lên, trước khi cả hai bà cô đáng kính kia cũng quay trở lại nốt!

    Họ rời chỗ nấp và đi vòng quanh toà biệt thự. Cho tới khi họ sang tới hướng bên kia, tới bên khuôn cửa sổ của phòng khách. Ánh sáng còn vừa đủ để họ săm soi luống đất trồng hoa.

    Vết bột không nổi bật hẳn lên, nhưng vẫn đủ rõ cho họ bám theo.

    - Cái bẫy của mình hoạt động rồi , Justus! - Peter vui vẻ kêu nhỏ.

    -Khẽ thôi! - Bob nhắc nhở.

    - Nếu cậu cứ tiếp tục la hét như thế, tiền sĩ Jones sẽ nghe thấy bọn mình đấy.

    - Đúng là cái bẫy hoạt động rồi. Kẻ lạ mặt đã bước vào khoảng đất có rải bột mỳ, khi gã quan sát bọn mình qua cửa sổ, và tiếp tục tha bột đi chỗ khác. Giờ chỉ còn câu hỏi nầy thôi - gã rải dấu vết bột mỳ nầy bao xa và đi đâu?

    Những giọt mưa đầu tiên rơi xuống nhỏm mũi Justus. Rất nhanh chóng, cơn mưa đổ xuống sầm sập. Giờ không được phép lãng phí thời gian. Cả bộ ba cúi người thấp hơn nữa xuống dưới bại cỏ và bám theo vết bột mỳ, đi một đoạn dọc tường nhà rồi cuối cùng đến bên khoảng bờ rào, ngăn cách vườn hoa hồng với khuôn viên của nhà Willow. Tới đó, vết bột biến mất trong một bụi rậm đầy gai.

    - Làm sao mà mình hiểu nổi đây? - Peter hỏi.

    - Kẻ lạ mặt đã biến vào một bụi rậm ư? - Cậu nhìn lên trên.

    - Gã không thể nhảy qua đây được, hàng rào nầy cao qua.

    Justus quan sát hàng rào kỹ hơn. Ở vĩ trí nầy, hàng rào rõ ràng cũng dày đặc như ở mọi vị trí khác. Mặc dầu vậy, sao nó có vẻ khang khác. Thám tử trưởng đưa tay sờ những chiếc lá, sờ nền đất, sờ gốc cây - và đột ngột nắm trong tay mình một khúc hàng rào rời ra.

    - Cái gì thế? - Bob ngỡ ngàng.

    - Chả lẽ bờ rào là cây giả?

    Justus quan sát bó cây nho nhỏ trong tay mình và nhìn kỹ hơn cái lỗ vừa xuất hiện.

    - Không, không phải cây giả. Nhưng đã có người khóet một lỗ hổng ở đây, rồi dùng bó cây nầy lấp vào chổ đó. Không một ai nhìn ra được, nhưng bụi cây làm cửa nầy có thể được lôi ra ngoài cả cành lẫn rễ bất cứ lúc nào.

    - Đơn giản đến thiên tài, - Peter nhận xét.

    - Vậy thì kẻ lạ mặt trong buổi cầu hồn đầu tiên của bọn mình đã chui qua cái lỗ nầy mà biến đi. Logic, tối như thế thì bọn mình làm sao nhìn thấy được điều gì.

    - Giờ chỉ còn câu hỏi cái lỗ nầy dẫn đi đâu, - Justus nói.

    - Đi đâu nữa, sang vườn của ông bà Willow, - Bob nói.

    - Chắc không? - Thám tử trưởng quì xuống trên cả tứ chi và bắt đầu bò qua cái lỗ trên bờ rào. Nhưng thay vì sang với thảm cỏ được cắt rất gọn gàng của khuôn viên hàng xóm, cậu lại va phải một bức tường bằng gỗ. Cậu gõ vào nó.

    Nghe có vẻ rỗng, vậy là lần gỗ nầy không dày. Justus ấn ấn và tấm gỗ nhượng bộ, xoay quanh một bản lề lên phía trên.

    - Mình đã đoán trước mà! - Justus lẩm bẩm và bò tiếp, bò tiếp vào với bóng tối hầu như tuyệt đối. Chỉ có một thứ ánh sáng màu xám xịt rất yếu ớt hắt được qua một khuôn cửa sổ nhỏ xíu, bẩn thỉu.

    Cậu đứng dậy và chờ cho tới khi Peter và Bob tới nơi.

    - Có ai đem đèn theo không?

    Một chút sau đó thôi, Bob thắp lên một ngọn lửa nhỏ từ chiếc bật lửa chống bão của cậu và bộ ba thám tử hiểu ra họ đang ở đâu.

    - Đây là một cái lều đựng đồ làm vườn! - Peter nhận định khi nhìn thấy cái máy cắt cỏ đệ trong một góc, một chiếc bàn thợ tiện nho nhỏ và một loạt máy móc làm vườn treo trên tường.

    - Nhận diện nhanh đấy, Justus nói.

    - Đây là nhà kho để máy móc của John Willow, sát ngay với hàng rào. Rõ ràng đã có người bắt vào đây một khung cửa ngầm, để bất cứ lúc nào cũng có thể ngấm ngầm tuồn sang khuôn viên của cô hàng xóm đáng yêu. Các bạn ơi, hôm nay thật sự là một ngày của những khám phá bất ngờ! - Justus cúi xuống, kéo bụi cây bí mật bằng gổ. Nhìn từ phía bên nầy, người ta hầu như không nhận ra cánh cửa.

    Bộ ba thám tử đưa mắt nhìn quanh, trong khi mưa đập ào ào lên phần mái nhà làm bằng gỗ trên đầu họ. Trên một chiếc kệ gỗ có để những lọ trồng hoa cũ.

    Bob nhấc một vài lọ lên. Qua lần kính bẩn thỉu của khung cửa sổ nhỏ xíu, người ta có thể nhìn tới ngôi nhà của ông bà Willow. Trong nhà có ánh đè.

    - Ngoại trừ cái cửa bí mật kia, có vẻ như trong lều nầy chẳng còn gì mà khám phá, - Sau một hồi tìm tòi, Peter nhận xét.

    - Nó là một túp lều đựng máy móc làm vườn, chỉ thế thôi.

    - Tắt điện đi! - Justus đột ngột rít lên và Bob ngay lấp tức sập bật lửa lại. - Ngoài kia có người!

    Bộ ba thám tử chen đến bên khuôn cửa sổ nhỏ xíu và nhìn ra ngoài. Cánh cửa vào nhà vừa mở ra, bà Willow bước ra ngoài trời đang mưa xối xả.

    - Nhanh lên, John, hay anh chờ cho tới khi em ướt như chuột lột đã hả? - bà Willow hổn hển kêu. Để tránh mưa, bà choàng một lần khăn nhựa có in hoa và so hai vai lên.

    - Ra xe trước đi! - Giọng nói bực bội của ông Willow từ trong nhà vang ra.

    Bà Willow vội vàng đi dọc đoạn phố, ngay sau đó cả người chồng của bà cũng rời nhà, đóng cửa lại và đi theo vợ. Cả ông cũng có vụ khí để đối chọi với cái ướt ngoài nầy: Một chiếc áo mưa màu đen óng ánh.


  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15

    Trong tầng hầm của kẻ sát nhân
    - Nhìn thấy chưa! - Peter khấp khởi thì thầm.

    - Cái áo mưa! Kẻ lạ mặt bên khuôn cửa sổ đã mặc đúng y một cái áo như vậy!

    - John Willow, - Justus nói.

    - Ra chính là gã ta.

    Bộ ba thám tử quan sát ông Willow rời khuôn viên và bước lên một chiếc ô tô, vợ ông ngồi sẵn bên trong. Thế rồi máy xe được bật lên, họ lăn bánh.

    - Giờ chỉ còn câu hỏi ông Willow tìm cái gì ở phía bên nầy, - Thám tử

    Trưởng nói tiếp.

    - Có thể gã ta chỉ tò mò thôi, - Bob cân nhắc.

    - Cũng giống như vợ ông ta hả? Mình không tin thế. Mình nghi ông ta có liên quan đến thông điệp từ phía bên kia thế giới đấy. Đừng có hỏi mình là liên quan trong phương diện nào - nhưng ít nhất thì bọn mình cũng phải gắng tìm cho ra. Khi đã một lần tới được chỗ nầy… - Justus mở cánh cửa ra phía ngoài.

    Ngay lập tức, những giọt nước mưa lạnh như băng giá tạt vào trong.

    - Cậu định làm gì thế, Justus? - Bob hỏi.

    - Mình nghĩ là các cậu rõ cả rồi. Ta đi xem nhà của đôi vợ chồng Willow một chút.

    - Kìa, Justus! - Peter nổi cơn phản kháng.

    - Thôi đi, không bao giờ ta có một cơ hội thuận tiện hơn đâu.

    - Mình không biết, - Thám tử phó lẩm bẩm.

    - Cậu không thấy là ta đang đi quá xa sao? Rình mò sục sạo trong toà biệt thự là một chuyện. Nhưng suy cho cùng thỉ ở đó đang xảy ra những chuyện kỳ quặc và chúng ta đang điều tra trong một vụ án. Nhưng ông bà Willow thì liên quan gì đến chuyện nầy?

    - Ông Willow đã hai lần đứng bên khuôn cửa sổ và quan sát bọn mình, -

    Justus nhắc nhở.

    - Không đủ lý do để mà điều tra kỹ hơn hay sao?

    - Thế nếu đó chỉ là chuyện tình cờ? - Peter rụt rè.

    - Tình cờ, - Justus nhắc lại.

    - Cậu đã đứng sát bên khuôn cửa sổ của nhà hàng xóm biết bao nhiêu lần rồi, Peter? Không, không phải tình cờ đâu. Ông Willow có liện quan đến chuyện nầy. Và đây là lúc bọn mình có cơ hội để giải đáp câu đố. Không thể bỏ rơi cơ hội mà không tận dụng.

    Thám tử trưởng không chờ câu trả lời, bước thẳng ra ngoài trời mưa. Cúi người xuống, cậu lẹ bước chạy về phía cửa ra vào có mái che, nhưng mái che chỉ cản được rất ít nước mưa. Peter miễn cưỡng bước theo.

    - Nhanh lên, Thám tử phó, vào việc đi! Mình nghĩ khoá nầy không phải khoá an toàn, đúng không? Nhưng mà nhanh lên, bọn mình không muốn mang cả vũng nước mưa vào nhà. Bob đâu rồi không biết.

    - Cậu ấy tìm tòi cái gì đó, mình tin nhứ thế, - Peter nói, mắt quan sát ổ khoá.

    Vài tích tắc sau, Thám tử Thứ Ba đến bên họ. Cậu cười rộng miệng.

    - Quên cái chìa khoá vạn năng của cậu đi, Peter, mình có thứ tốt hơn! - cậu mở bàn tay ra đi.

    - Chìa khoá? Cậu lôi ở đâu ra thế?

    - Nó nằm trong lều gỗ kia, bên dưới một chậu đựng hoa. Mình dám cuộc rắng đây là chìa khoá dự trữ cho cửa ra vào.

    - Làm sao mà cậu biết?

    - Ai thì cũng có lúc giấu một chìa khoá dự trữ vào đâu đó. Hoặc là bên dưới thảm chùi chân hoặc trong ống xối nước mưa hoặc trong một cái chậu trồng hoa. Chuyện xưa như trái đất mà! - Tin chắc vào chiến thắng, Bob thử đút chìa khoá vào ổ, nhưng nó không hợp.

    - Xưa như trái đất hả? - Peter châm chọc.

    - Chẳng ích gì đâu, Bob! Xê ra cho chuyên gia vào cuộc! - Cậu rút ra một chiếc túi nhỏ màu đen, trong đó đựng một số móc sắt dày mỏng khác nhau, rồi ngay lập tức bắt tay vào việc. Chỉ trong vòng chưa đầy một phút đồng hồ, cửa đã mở ra.

    - Trò trẻ con!

    - Không có cậu thì bọn mình chẳng biết sẽ đi tới đâu đây, Thám tử phó.

    - Nói đúng đấy, Thám tử trưởng.

    Bộ ba thám tử bước vào ngôi nhà của ông bà Willow. Cả ở đây họ cũng không dám bật đèn lên, sợ bị phát hiện. Ban đầu, họ chuyển động trong ánh sáng phát ra từ chiếc bật lửa trong tay Bob, nhưng rồi Justus tìm thấy một chiếc đèn pin. Cậu giơ tay che mặt đèn và cả ba tìm tòi trong ngôi nhà dưới quầng sáng yếu ớt đấy.

    Ngôi nhà nầy nhỏ hơn hẳn so với toà biệt thự của Mastratonio, chủ yếu chỉ gồm một căn bếp, phòng tắm, phòng ngủ và phòng khách. Căn phòng nào cũng được trang trí rất khủng khiếp và chỉ sau năm phút, Bộ Ba quả thật không thể tưởng tượng nổi là ở đây còn chứa một bí mật nào nữa.

    - Ta quên nó đi, - Peter đề nghị.

    - Ở đây chẳng tìm thấy gì nữa đâu.

    Bob gật đầu.

    - Mình cũng tin thế. Ngoại trừ trong những mãng khăn phủ bằng len móc tay kia có ẩn chứa những mẩu bản đò của một kho báu, nhưng mình e răng không có chuyện đó đâu. Đôi vợ chồng nhà Willow nầy vừa thiển cận vừa nhàm chán như ngôi nhà của họ nậy. Chẳng có bí mật nào cả. Đi thôi, Justus, ta đi.

    Thám tử trưởng nhăn mặt. Cậu không thể cãi lại được lời bạn mình, cả cậu cũng không tin rằng họ sẽ còn tìm thấy một thứ gì khác. Mặc dầu vậy, cậu vẫn thấy khó chịu khi phải rời bỏ nơi nầy nhanh tới thế.

    - Tầng hầm! - cậu nhớ ra. -

    Bọn mình chưa xuống tầng hầm.

    Peter nhăn trán.

    - Cậu nghĩ xuống đó thì ta sẽ tìm thấy một thứ gì khác ngoài dàn lò sưởi sao?

    - Rồi ta sẽ biết. Dù chỉ là để kiểm tra cho toàn diện thôi: ta phải xuống tầng hầm.

    Những bậc thang bằng đá rất dốc, hai bên tường óng ánh vễt ẩm. Một bóng đèn trần trụi lủng lẳng dưới trần, nhưng nó quá yếu, gây ấn tượng như chỉ toả ra nhiều bóng tối hơn là ánh sáng. Có ba cánh cửa bằng gỗ. Đằng sau cánh cửa thứ nhất là một gian nhà kho đựng đầy đồ hộp và một tủ lạnh lớn. Sau cánh cửa thứ hai là hệ thống lò sưởi cho toàn ngôi nhà. Cánh cửa thứ ba khoá kín.

    - Theo mình thì những cánh cửa khoá kín bao giờ cũng là thứ rất hấp dẫn đối với các thám tử, - Justus nói. Peter? Cậu nghĩ sao? Lại là chuyện trẻ con chứ?

    Peter cúi xuống ổ khoá, nhưng đúng lúc đó thì Bob bước lại gần và vung vẩy chiếc chìa khoá cậu tìm thấy trong túp lều để máy làm vườn.

    - Có thể là xác suất thấp, nhưng mà…

    - Thử đi! - Justus yêu cầu và Bob đút chìa khoá vào ổ.

    Chìa khoá rất hợp. Nó để cậu xoay nhẹ nhàng. Một tiếng " click" nhỏ, ổ khoá bật ra.

    - Nếu có ai đó giấu chìa khoá cho một căn phòng tầng hầm trong túp lều để máy làm vườn… , - Bob cân nhắc.

    - Thì những gì được chứa trong căn phòng tầng hầm đó là chỉ dành cho một ai đó xác định thôi, - Justus nói cho hết câu. Thế rồi cậu xoay nắm đấm và cánh cửa mở ra. Bộ ba thám tử hầu như không thể tin được váo mắt mình. Câm nín vì kinh hãi, họ đứng trong căn phòng tầng hầm nhỏ bé và đưa mắt nhìn qua các mảng tường cũng như một chiếc bàn được sắp xếp rất giống bàn thờ.

    Dora Mastratonio, góc nào cũng là ảnh ngôi sao Ô-pê-ra quá cố. Cả bốn bức tường hầu như được phủ kín bằng vô vàn những chiếc ảnh và những bài báo về nữ ca sĩ Ô-pê-ra trong mọi kích cỡ. Trong một phòng có một kễ gỗ nho nhỏ, trong đó để khoảng chứng một tá đĩa CD của cô Mastratonio và một chiếc CDPlayer xách tay. Trên mặt bàn là một số ảnh khác có lồng khung, đa phần là những bức ảnh tự chụp, chỉ ra hình Dora Mastratonio trong khoảng vưởn hoa hồng hay trong toà biệt thự của cô. Trên một số ảnh có cả hình bà Elouise Adams, trong một số nữa có cả bà O Donnell và tiền sĩ Jones, thậm chí có những ảnh có hình những người mà bộ ba không biết. Trong góc dưới bên phải của những tấm ảnh đều có in rõ ngày tháng và chính xác thời điểm chụp ảnh, theo như cách người ta thường chụp ảnh bằng máy tự động. Cứ theo những con số đó thì những bức ảnh ở đây đã được chụp trong nhiều năm khác nhau.

    - Trời đất ơi! - cuối cùng Peter cất nổi thành lời.

    - Các cậu nhìn đi!

    - Có vẻ như ông Willow là một người hâm mộ cô Mastratonio hết mực, - Justus tỉnh táo nhận xét.

    - Nhưng mình đoán khá chắc rằng đây là căn phòng tầng hầm của ông ấy. Chắc là bà ta hoàn toàn không biết có những thứ gì được cất giấu đằng sau cánh cửa nầy.

    - Một người hâm mộ thôi sao? - Peter cay đắng cười khẽ.

    - Sao lại nói bớt đi trắng trợn như thế, Justus. Thử nhìn quanh mà xem! Ông ấy bị cô ấy ám ảnh thì đúng hơn! Tất cả những tấm nầy là tự tay ông ấy chụp! Ông đã chụp nhiều cảnh trong nhà qua những khuôn cửa sổ khác nhau. Các cậu nghĩ… các cậu có nghĩ là ông ấy cũng chụp ảnh cả bọn mình không? Lúc ban nãy trong phòng làm việc ấy, khi đột ngột có tia chớp lóe lên.

    - Chắc là đúng thế đấy, - Justus nói.

    - Mình không nhìn thấy ai đứng ngoài.

    Các cậu đã nhận thấy rằng, từ khuôn cửa sổ phòng ngủ của vợ chồng ông Willow người ta có thể nhìn vào phía trong toà biệt thự của cô Mastratonio?

    Chắc là ông ta đã chụp ảnh từ đó, giống như rất nhiều ảnh khác ở đây. Thử nhìn mà xem, cô Dora đang mặc áo choàng tắm.

    - Còn đây là ảnh của cô ấy đang hôn một người đàn ông khác, - Bob nói và gõ khẽ ngón tay vào một tấm ảnh khác được lồng khung.

    - Nầy, khoan đã, người nầy mình nhìn thấy ở đâu rồi!

    - Cậu nói cái gì thế hả?

    - Đúng thế, mình đã nhìn thấy ông ấy một lần rồi. Cách đây chưa đầy một tiếng đồng hồ, trong một tấm ảnh khác, trong phòng ngủ của tiến sĩ Jones. Đây là ông chồng của Cecilia Jones, Ông Gilbert!

    - Cậu không đùa đấy chứ! - Justus kêu lên.

    - Không đùa chút nào! Cái mặt nầy đã không lẫn vào đâu được. Và đó là tấm ảnh đám cưới, vậy thì chắc chắn là ông chồng của Cecilia Jones . ông ấy mới chết gần đây thôi, đúng không nào?

    - Cách đây bốn tháng, - Justus nói.

    - chỉ một tuần trước cái chết của cô Dora.

    Thế đấy, ra là hai người ngoại tình với nhau. Dora thật sự đã thò tay vào đống lửa nầy. Đầu tiên cô ấy bám vào ông chồng của bà Elouise, rồi sau đó đến lượt chồng Cecilia. Nếu mà bà Bernadette có chồng, chắc là cô Dora cũng chả chịu tha cho chồng bà ấy. Liệu đây có phải là chuyện tình cờ không, khi mà cái chết của Gilbert và Dora nằm gần nhau tới thế?

    - Không, - Peter bắt chước cái giọng rùng rợn vang lên từ dưới mộ, thế rồi đột ngột cậu chàng tự thấy toàn thân mình rởn lên.

    - Các cậu không thấy cái nầy là cái gì đây sao? Nó có nghĩa là gì?

    - Ý cậu muốn nói sao?

    - Ông Willow chẳng phải chỉ là một người hâm mộ cô Mastratonio. Ông ta mê cô ấy đến phát điên! Cho nên đã ngấm ngầm chụp không biết bao nhiêu là ảnh của cô ấy! Và chẳng phải chỉ chụp ảnh, ông ấy ngoài ra còn bị ám ảnh ngay cả khi cô ấy đã chết, và nhiều tháng trời sau đó vẫn chụp ảnh tất cả những gì xảy ra trong biệt thự của cô ca sĩ đó. Đây không phải chuyện bình thường! Vợ

    ông ta chắc chắn không hề biết một xíu nào về việc nầy, nếu không thì chìa khoá căn phòng nầy đã không được giấu kín đến thế.

    - Cậu muốn nhắm tới mục đích nào, Thám tử phó.

    - Rất logic ma. Chắc chắn là ông John Willow đã ngấm ngầm đam mê cô Dora và tôn thờ cô ca sĩ từ lâu lắm rồi, và dĩ nhiên là ông ta hoàn toàn không có cơ hội tán tỉnh… Rồi một ngày nọ, ông ta phát hiện thấy cô Dora có quan hệ với chồng của Cecilia. Ông Willow đã nổi điên hoàn toàn vì ghen tuông, và đầu tiên giết chết Gilbert John, để rồi chỉ một tuần sau giết chết cô Dora Mastratonio.

    Các cậu còn nhớ giọng Phantom của cô Dora nói gì không? Thủ phạm ở rất gần! Và chỉ một giây sau, mình đã nhìn thấy gã Willow đứng bên cửa sổ. Tấ cả các sự kiện đều hợp với nhau! - Mặt Peter nhợt nhạt. Đột ngột, cậu thấy toàn thân lạnh như băng.

    - bọn mình phải biến ngay lập tức thôi, Justus, mình không muốn ở lại đây thêm một chút nào nữa! Bọn mình gọi cảnh sát!

    - Cứ bình tĩnh, đừng hốt hoảng! Thám tử phó!

    - Bình tỉnh đừng hột hoảng hả? - Giọng Peter tắc nghẽn.

    - Chính cậu đã nói, giết người là một vụ án quá lớn đối với bọn mình. Giờ cậu có thể nhân đôi mọi việc lên, vì đây là một vụ giết hai người! Và bọn mình đang đứng trong tầng hầm của tay sát nhân!

    Justus đảo mắt lên trời.

    - Trời đất ạ, Peter bình tĩnh đã! Mặc dù đó là một lý thuyết hập dẫn, nhưng chúng ta chưa có lấy một bằng chứng nhỏ nhất. Mà ngoài ra, cậu còn quên một vài dữ liệu: Giọng Phantom đó không phải là giọng thật, giờ thì chúng ta đã biết chắc như vậy.

    - Ôi dao, chuyện dớ dẩn! Chỉ bởi vì anh Darren Higman nói đó không phải là giọng cô Mastratonio ư? Dĩ nhiên đó không phải là giọng của cô Mastratonio, mà là giọng của hồn ma cô ấy! Rõ ràng là giọng nói của người ta thay đổi, một khi đã bước sang bên kia thế giới!

    - Thế còn chuyện thay đổi di chúc thì sao?

    - Mình làm sao biết được chuyện đó có ý nghĩa gì! Tình cờ thôi! Mình chẳng thèm quan tâm! Bây giờ mình muốn biến khỏi nơi nầy càng nhanh càng tốt!

    - Justus, mình cũng đồng ý là chúng ta đi thôi, - Bob lên tiếng.

    - Chúng ta không biết bao giờ thì ông Willow quay trở lại. Và đằng nào thì cũng có thể có khả năng là Peter có lý. Nếu Willow mà tóm được bọn mình ở đây thì…

    - Được rồi , được rồi , ta biến, - Justus nhượng bộ.

    - Dẫu sao thì bọn mình cũng đã nhìn đủ rồi.

    Ho xoay người định bước đi, rồi đột ngột Bob ngung lại. Ánh mắt của cậu nhìn trân trân vào một chiếc ảnh nhỏ được treo trên khoảng tường cạnh cửa ra vào. Ở phía trước hiện rõ hình Elouise Adams.

    - Các cậu nhìn xem! Nhìn cái ảnh nầy! Nó được chụp từ phòng ngủ của vợ chồng ông Willow: Cô Adams đứng trong phòng làm việc. Trông cô ấy rất có vẻ giận dữ, và la thét qua khuôn cửa để mở về phía cô Mastratonio, cô nầy bây giờ đang đứng trong hành lang.

    Peter ném một cái nhìn xuống tấm ảnh.

    - Thì đã sao? Kể cả những cặp bạn gái thân nhất cũng có lúc cãi nhau.

    - Mính không nói tới ý đó, Peter. Mà là…

    - Là ngày tháng! - Justus cắt ngang lời bạn và giật tấm anh ra khỏi tường, để nhìn kỹ hơn con số ngày tháng được in trên đó.

    - Không thể có chuyện nầy được!

    - Cái gì vậy, Justus?

    Lần nầy thì người trả lời là Bob:

    - Elouise Adams đã có một chứng cớ vắng mặt cho cái chết của cô Dora. Bà ấy khẳng định rằng, vào lúc cô Dora chết thì bà ấy thậm chí không có mặt trong vùng Malibu Beach, nhưng cái ảnh nầy lại được chụp đúng vào ngày hôm đó. Mà là chính xác vào lúc 3 giờ 48 phút. Mười hai phút trước khi bà giúp việc tới và phát hiện ra xác của cô Dora.


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 16

    Thiếu bằng chứng
    Mưa gõ to đến phát sợ xuống mái của Bộ tham mưu . Trong một góc mái đã chớm xuất hiện vệt ẩm. Thế rồi từ đó nước chầm chậm đọng lại thành từng hạt, rồi nhỏ xuống, nhỏ xuống, chậm chạp nhưng đều đặn, nhỏ xuống cái nồi hứng bên dưới.

    Peter dùng khăn chùi mạnh cho khô tóc, trong khi Bob và Justus loay hoay treo đồ ướt của họ lên dây phơi quần áo được căng chéo qua Bộ tham mưu.

    Trên đường từ Malibu về Rocky Beach , cả ba đều ướt như chuột lột. Bob đã đặt nước đun trà, mong chống chọi với cái lạnh đã thấm váo đến tận xương tuỷ họ.

    - Thật không biết mình cần phải nghĩ gì nữa, - Peter nói và ló đầu ra từ chiếc khăn bông.

    - Đầu tiên trông như thể bà Adams chính là thủ phạm, bởi vì bà ấy là người duy nhất có động cơ. Thế rồi sau đó lại lộ ra rằng ông Willow là một người đam mê cô Mastratonio đến mức độ điên khùng, rất đáng bị nghi là một dạng sát nhân tâm thần. Thế rồi sau đó lại xuất hiện một lần nữa bà Adams, bởi bà ấy đã có mặt trong ngôi nhà vào thời điểm xảy ra án mạng, mặc dù bà ấy khẳng định điều ngược lại. Thêm vào đó, bà ấy còn cãi cọ với cô Dora vài phút trước khi cô nầy chết. Thế nhưng nếu bà ấy nhắm tới việc được thừa kế tài sản, thì tại sao bây giờ bà ấy lại không chịu vào ở trong cái căn nhà đó?

    - Đó mới là câu hỏi lớn, - Justus thú nhận.

    - Ít nhất thì ta cũng có thêm thông tin để làm nặng mối nghi ngờ rằng bà Elouise Adams đã nói dối, và vì thế mà tạm thời chúng ta hãy coi bà ấy là đối tượng bị tình nghi chính.

    - Mình muốn nói rằng, nó không phải chỉ là một sự nghi ngờ, mà nó là bằng chứng, - Bob cãi lại.

    - Trong tấm ảnh nầy, hình bà ấy hiện rõ - chắc chắn bà ấy nói dối.

    - Nhưng cậu quên rằng, rất có thể ngày tháng trên tấm ảnh là ngày tháng giả, vì người ta có thế thiết lập cho máy chụp ảnh khác với ngày giờ ngoài đời. mình cũng nghĩ là khả năng nầy khó xảy ra, nhưng chúng ta không được phép bỏ qua bất kỳ một khả năng nào.

    - Thế bây giờ chúng ta làm gì? - Peter hỏi.

    - Chúng ta có nên nói cho chú thanh tra Cotta biết không? Suy cho cùng thì những thông tin đã làm nặng thêm mối nghi ngờ rằng đây thật sự là một vụ giết người, đúng không nào?

    - Không có bằng chứng, ta sẽ không nói với ai bất cứ một lời nào, - Justus dõng dạc tuyên bố.

    - Mà đáng tiếc là chúng ta vẫn còn thiếu rất nhiều thông tin.

    Nhưng có thể tới tối nay thôi là tình thế sẽ thay đổi.

    - Tại sao? - Bob hỏi.

    - Hôm qua mình đã gọi điện cho chú Cotta. Phải thuyết phục chú ấy rất nhiều thì cuối cùng chú ấy mới hứa là sẽ chọn ra tập hồ sơ trong vụ án Mastratonio của cảnh sát và gửi cho bọn mình qua đường Fax. Chỉ một chút nữa là nó sẽ tới đây thôi. Cho tới thời điểm đó, ta hãy tìm cách tạo dựng lên một lý thuyết thích hợp với những dữ liệu tìm được.

    Trà đã pha xong, Bob rót ra tách. Cả ba thám tử ấp tay bằng những cốc trà nóng, rồi chậm rãi uống từng ngụm thứ nước bỏng rẫy.

    - Ta hãy bắt đầu bằng việc sửa đổi di chúc, - Justus đề nghị.

    - Bob, cho bọn mình xem lai đống giấy tờ đó

    Thám tử Thứ Ba rút ra tập giấy tờ từ túi ba lô ra, rất may mà chiếc ba lô không bị thấm nước mưa, cậu đưa tập giấy sang cho Justus.

    - Vậy là cô Dora Mastratonio đã định để lại toà biệt thự cho bà Bernadette, chứ không phải cho Elouise như ý định từ trước. Cậu hỏi quyết định là: Elouise có biết chuyện nay không? Nếu biết thì bà ấy quả là có động cơ để giết chết cô Dora, trước khi người nầy kịp đưa bản sửa chửa di chúc đến chỗ công chứng viên, nhưng nếu như thế mà suy luận logic thì chẳng lẽ bà Elouise không muốn huỷ bỏ bản thảo sửa chửa di chúc nay hay sao?

    - Có thể bà ấy không biết rằng có một bản thảo như thế, - Bob đề nghị.

    - Có thể cô Dora đã nói với bà ấy rằng bà ấy không được quyền thừa kế nữa. Vì vậy mà Elouise giết chết Dora, mặc dù không hề biết ý định thay đổi di chúc đã được soạn thành bản thảo bằng giấy trắng mực đen.

    - Dó là một khả năng, - Justus đồng ý. Mặc dù vậy, mình vẫn tin rằng ít nhất thì bà ấy cũng phải linh cảm thấy và phải đi tìm nó mới được. Mà chuyện tìm tòi nầy đâu có gì khó khăn. Tờ giấy nằm trong một tập giấy, trong một ngăn kéo bàn viết được khoá kín.

    - Justus lật lại xem những tờ giấy còn lại.

    - Đây là địa điểm đầu tiên mà nếu mình là bà ấy thì mình sẽ đi tìm. Mà việc mở cái khoá đơn giản nầy thì kể cả đối với… - Thám tử trưởng đột ngột ngưng bặt. Cậu nhìn xuống tập giấy trong tay mình.

    - Chúng ta đã ở trong phòng làm việc của cô Dora, đúng không?

    - Đúng.

    - Thế thì tại sao lại có giấy tờ của bà Bernadette trong bàn làm việc của cô ấy?

    - Sao kia? - Bob nói và đưa mắt nhìn thoáng tập giấy tờ. Giấy tờ của cô Bernadette?

    - Đúng thế. Giấy thông báo về chuyển dịch của tài khoản, các hợp đồng bảo hiểm, thư từ của công sở - toàn bộ tập nầy là của bà Bernadette, chứ không phải của cô Dora!

    - Như thế có nghĩa là sao, Justus?

    - Điều đó có nghĩa là giấy tờ của cô Dora chắc chắn đã bị đút vào một nơi nào đó từ lâu rồi , suy cho cùng thì cô ấy qua đời đã ba tháng nay. Bà O Donnell đã chuyển đến chiếm căn phòng làm việc nầy và đã đưa giấy tờ của bà ấy vào trong ngăn kéo bàn làm việc. Trong số giấy tờ đó, có bản thảo sửa chửa di chúc của cô Dora. Điều đó có nghĩa là bà O Donnell biết rằng bà ấy được chọn làm người thừa kế duy nhất.

    - Thế tại sao bà ấy không nói gì cả.

    - Đó là câu hỏi lớn thứ hai.

    - Justus ngả người ra lưng ghế và bắt đầu đưa tay cấu cấu môi dưới.

    - Trời đất ơi, cái vụ án nầy mỗi lúc một rắc rối hơn, - Bob rên lên thành tiếng.

    - Tại sao bà Elouise phải giết chết cô Dora để rồi sau đó không thèm vào ở trong nhà của cô ấy? Tại sao bà Bernadette biết đến sự sửa chửa di chúc, mà không hé một lời? Tất cả những chuyện nầy sao vô lý quá!

    - Có lý chứ, Bob, có lý, - Justus quả quyết nói.

    - Chúng ta chỉ thiếu chiếc chìa khoá quyết định thôi.

    Tiếng lạch cạch nhè nhẹ giật Thám tử trưởng ra khỏi dòng cân nhắc. Họ nhận được một bản fax. Ngay khi tờ giấy đầu tiên được máy chuyền ra, Justus tò mò cầm ngay lên.

    - Đây là bản báo cáo của cảnh sát do chú Cotta gửi tới! Có thể chúng ta sẽ nhận được những câu trả lời mới.

    - Thám tử trưởng đọc chăm chú rồi sau đó đưa từng tờ giấy cho hai cậu bạn mình. Bản báo cáo dài tất cả 8 trang, và ghi lại ngày và giờ chính xác xoay quanh cái chết của cô Dora Mastratonio, kết quả khám nghiệm của bác sĩ cũng như biên bản hỏi cung bà O Donnell, bà đã, tiến sĩ Jones, bà Gomez cũng như cặp vợ chồng nhà Willow. thế nhưng sau khi đọc tất cả các dữ liệu đó, bộ ba thám tử chỉ thấy những gì mà họ đã biết sẵn.

    Cáu kỉnh, Bob thả người rơi ra lưng ghế sau khi đã đọc xong trang cuối cùng và uống cạn tách trà.

    - Đúng là phát bực lên được. Mình cứ tưởng, chúng ta sẽ nhận được một lời mách bảo qua bản báo cáo nầy, nhưng không phải thế.

    - Mình không quả quyết như vậy đâu, - Justus nói và chỉ vào một tờ giấy.

    - Ở đây mình đã tìm thấy một yếu tố hết sức thú vị. Cụ thể là thời điểm xuất hiện chính xác của chiếc xe cứu thương tại toà biệt thự. Bob, nhà thương gần nhất cách toà biệt thự của cô Mastratonio bao xa?

    - Sao kia? Chuyện nầy liên quan gì đến vụ án của chúng ta?

    - Cậu có biết hay không nào?

    - Không, không biết.

    -Còn Peter?

    - Mình tin rằng, nơi gần nhất là bệnh viên Memorial. Nó nằm cách nơi đó vài dặm về phía Bắc. Nhưng câu hỏi ngu ngốc nầy là nghĩa gì hả, Justus?

    - Mình cho cậu thêm 100 điểm, Thám tử phó. Đó chính là bệnh viện Memorial. Theo như dữ liệu của bản báo cáo cảnh sát. Thế cậu nghĩ sao, một chiếc xe chúng ta cần bao nhiêu lâu để lên đường từ đó sau khi nhận được cú điện thoại, và đi tới biệt thự?

    - Mình đoán khoảng 10 phút. Nếu họ bật đèn báo động thì chỉ cần tám hay bảy phút.

    Justus gật đầu.

    - Như vậy thì với những điều kiện giao thông thuận lợi nhất, liệu một chiếc xe chúng ta có thể đi đoạn đường đó trong vòng ba phút không?

    Thám tử phó lắc đầu.

    - Hoàn toàn không có khả năng đó. Kể cả trực thăng cũng không nhanh như thế!

    Justus hài lòng mỉm cười.

    - Nhưng theo đúng bản báo cáo của cảnh sát thì chuyện nầy đã xảy ra: Chiếc xe chúng ta đã đến toà biệt thự của cô Mastratonio vào lúc 4 giờ 3 phút.

    - Thì đã sao? Vậy thì nó đã nhận được cú điện thoại vào lúc 4 giờ kém 7 phút, Peter đáp trả.

    - Không,không phải như vậy. Bởi vì bà giúp việc Gomez, người bao giờ cũng đến rất đúng giờ, luôn luôn đúng giờ, đúng từng phút một. Có phải bà ấy kể đến hàng trăm lần cho cậu nghe như vậy không, Peter?

    Mặt Peter sáng lên.

    - Cậu có lý, Justus! Đúng thế! Bà ấy bước vào nhà đúng lúc 4 giờ, nhìn thấy cô Dora nằm ở chân cầu thang và gọi điện cho xe chúng ta và…

    - Và cài xe nầy đã đến sớm hơn mọi khả năng có thể, - Bob nói tiếp dòng suy nghĩ.

    - Điều đó có nghĩa là, phải có ai đó gọi điện cho bệnh viện từ trước.

    - Và điều đó lại có nghĩa là, người giật chuông báo động cho bệnh viện không phải là bà Gomez nhưng không có nghĩa là bà ấy không gọi điện đến bệnh viện - Mà chính vào thời điểm bà ấy quay số điện thoại thì cái xe chúng ta đã đang trên đường đi tới. Chỉ có điều không ai nhận ra điều đó. Bà Gomez thì mừng rỡ vì nó đến nhanh, tại sao bà phải suy nghĩ thêm về chuyện đó mới được chứ? - Justus đã ngồi thẳng lên như một cây nến. Cậu cảm nhận rõ là lời giải của cậu đố đã đến rất gần họ.

    - Khi cô Dora Mastratonio ngã từ chân cầu thang xuống, chắc trong nhà phải còn có một người khác, người đó gọi cho xe chúng ta rồi sau đó trốn đi.

    - Elouise đã! - Peter kêu lên và đưa tay về chiếc ảnh mà họ đã lấy ở tầng hầm của ông Willow.- Tấm ảnh nầy chứng minh điều đó!

    - Đúng thế. Nhưng liệu như vậy có phải rằng bà đã là một kẻ sát nhân không? Rằng bà ấy đã đẩy cho cô Dora ngã từ trên cầu thang xuống rồi sau đó trốn đi? Không, những dữ liệu nầy lại không mang ý nghĩa như vậy! Vì nếu có thì bà ấy đã không gọi điện cho xe cứu thương. Mặc dầu vậy, chắc chắn bà ấy phải có một lý do để khẳng định với cảnh sát rằng, vào ngày hôm đó bà ấy không ở vùng Malibu. Lý do nầy có thể là chuyện gì?

    - Còn một người nữa trong nhà! - Peter kêu lên.

    - Có lẽ, Thám tử phó. mặc dù cũng không thật đặc biệt…

    - Không phải là có lẽ, Justus, mà là tuyệt đối chắc chắn! Đây nhìn xem trên ảnh nầy! Còn người nữa!

    - Cậu nói cái gì thế?

    Xúc động, cả Bob và Justus cùng cúi sát xuống tấm ảnh. Thoạt nhìn, họ chỉ thấy bà Adams trong phòng làm việc, thấy bà nầy đang la hét về phía cô Dora đang đứng ở hành lang, nhưng rồi sau đó Peter chỉ vào một cánh cửa mở. Đằng sau đó có lờ mờ một dáng người. Tấm ảnh quá nhỏ để có thể nhận biết hơn, nhưng rõ ràng không còn nghi ngờ gì nữa: trong ngôi nhà còn một người thứ ba.

    - Không thể có chuyện đó được! - Bob buột kêu lên.

    - Có ai đó đang nấp sau cánh cửa! Nhưng chỉ có máy ảnh mới phát hiện ra chuyện đó. Ở vị trí của mình, bà Adams không thể nhìn thấy người nầy.

    - Không thể hiểu nổi. Mười hai phút trước khi chết, cô Dora không phải chỉ có khách thăm là bà Adams, mà còn thêm một người khác nữa. Các bạn ơi, bắt đầu! - Justus nhảy lên và cố chạy bổ về phần sau của chiếc xe cắm trại.

    - Cậu định làm gì, Justus?

    - Hỏi sao ngốc thế, Peter. Ta đi vào phòng thí nghiệm và phóng to cái ảnh lên! Sau đó chúng ta sẽ biết đó là ai.


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 17

    Nàng Lọ Lem
    Trong góc sâu của Bộ tham mưu có một phòng thí nghiệm nhỏ, nơi người ta có thể che tối hoàn toàn và qua đó cũng có thể sử dụng làm nơi rửa ảnh.

    Nhiệm vụ của Bob bây giờ là đổ các hoá chất cần thiết vào trong những chiếc khay bằng nhựa và chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng. Vì họ không có phim, nên Thám tử Thứ Ba chụp lại tấm ảnh rồi sau đó rửa ảnh mới, to hết cỡ.

    Tò mò, cả bộ ba cùi xuống tấm giấy ảnh trong khi nó từ từ xuất hiện trong khay rửa. Thế rồi Bob thận trọng dùng một chiếc kìm kéo nó lên, nhúng nó vào dung dịch định hình rồi sau đó đưa sang bồn nước. Cuối cùng, cậu treo tấm ảnh lên dây, chờ nó khô.

    - Khốn kiếp! Ta vẫn chưa nhìn ra đó là ai, - Peter khẳng định.

    - Mình chỉ nhìn thấy lờ mờ một dáng người. Và một chiếc giầy thò ra dưới tấm cửa.

    - Nếu mình có được trong tay phim gốc, chắc là chất lượng ảnh sẽ tốt hơn, -

    Bob nói, - nhưng mà như thế nầy…

    - Ít nhất thì ta cũng nhìn được rõ ràng chiếc giầy, - Justus nhận định.

    - Và đây rõ ràng là giầy đàn bà. Giầy màu đen, đế thấp và có quai rộng, khoá bằng thép. Bọn mình không tìm ra được cái giầy nầy thì ngượng quá.

    Peter cười khúc khích.

    - Ý cậu muốn nói như trong truyện cổ tích "Nàng lọ lem"? Chỉ có điều lần nầy ai đi vừa chiếc giầy đó không phải là một nàng công chúa, mà là một nữ sát nhân.

    Thám tử trưởng lắc đầu.

    - Không phải một nữ sát nhân.

    - Không phải kẻ giết người ư? Tại sao lại không?

    - Trong khi Bob phóng to tấm ảnh nầy, mình đã điểm lại tất cả các sự kiện.

    - Cậu nói lăng nhăng gì thế?

    - Và qua đó mình đã hiểu ra rằng, chuyện ai đứng đằng sau cánh cửa đó không mấy quan trọng. Chỉ riêng chuyện đã có người đứng ở đó cũng đã dủ là một lời mách bảo.

    - Một lời mách bảo về hướng nào? - Peter hỏi.

    - Rằng trong toàn bộ câu chuyện Dora không phải chỉ có duy nhất một người đàn bà tham gia. Cho tới nay chúng ta vẫn lấy xuất phát điểm là những gì mà giọng Phantom kia nói lên là đúng với sự thật - rằng đã có một vụ giết người xảy ra. Rằng chúng ta phải đối mặt với một gã giết người hay một ả giết người, nhưng có quá nhiều chi tiết nhỏ, hoàn toàn chẳng phù hợp với khẳng định đó!

    - Ví dụ? - Bob hỏi.

    - Ví dụ như tấm ảnh nầy. Đã có hai người phụ nữ ở bên cạnh cô Dora trước khi cô ấy chết. Mười hai phút sau đó, cả hai đều trốn đi, nhưng không quên gọi điện cho xe cứu thương. Có một người thừa kế không muốn sống trong biệt thự mới của mình, nhưng thay vào đó có hai người bạn gái ngay lập tức gọi xe chở đồ tới. Ít nhất thì một trong hai người đó cũng phải biết về chuyện thay đổi di chúc, một sự thay đổi sẽ đẩy chính bà ta vào vai trò người thừa kế, nhưng bà ấy im lặng. Và dĩ nhiên còn có hồn ma của cô Dora, đã được đưa một cách rất khéo léo vào câu chuyện, lần thì bằng bẳng gỗ Ouija, lần thì bằng một giọng Phantom trên băng cassette. Mình hỏi các cậu, các bạn đồng nghiệp, tất cả những thứ đó nhằm mục đích nào? Thật ra thì câu chuyện ở đây là gì?

    Bob và Peter ngỡ ngàng nhìn nhau.

    - Cậu nói cho bọn mình nghe đi, Justus!

    - Có một ai đó muốn che giấu một chuyện gì đó! Và muốn đẩy cái lổi đối với cái chết của cô Dora xuống đầu một người khác. Để khiến cho mọi người không chú ý đến bản thân mình và ngoài ra, tiện thể giật lấy một toà biệt thự sinh đẹp.

    Nhưng cái con người đó đã phạm phải một sai lầm quyết định.

    - Cụ thể là sai lầm nào?

    - Bà ta đã làm điều đó mà không tính đến Bộ Ba . Hoàn toàn không có chuyện giết người, các bạn đồng nghiệp.

    - Không có chuyện giết người? - Peter nhắc lại.

    - Không. Mặc dầu vậy vẫn có một tội phạm. Chúng ta sẽ giải thích tội phạm nầy. Chúng ta sẽ bắt tất cả ba bà cô đáng kính kia phải đối chất, mà là ngay ngày mai thôi. Mình đã có một sáng kiến ta có thể làm như thế nào?

    - Mình đang rất hồi hộp đây, - Bob nói.

    - Như thế nào?

    - Ta để cho người chết lên tiếng.

    - Cô không thể nào tin được, - cô Mathilda Jonas lẩm bẩ0_‘___€?-_m khi đã ngồi trên ghế phụ lái của chiếc Rolls- Royce và soi gương chỉnh sửa lại lớp phấn son dày cộp.

    - Không thể nào tin nổi là lại thêm một lần nữa cô dấn thân vào cái trò ngớ ngẩn nầy!

    - Nhưng trông cô tuyệt lắm cơ, cô Jonas! - Peter thề thốt.

    - Ôi, thôi đi nào, Peter Shaw! - cô gầm gừ.

    - Tôi hy vọng các cậu hiểu rõ là lần nầy thì các cậu nợ tôi một việc đấy nhé!

    - Chắc chắn rồi, cô Mathilda, - Justus nói nhanh.

    - Cháu xin hứa! - Trong lòng cậu cố gắng gạt sang bên cái cảm giác nôn nao phấp phỏng.

    - Thế nhé, cô Mathilda, cứ đơn giản làm lại những gì mà lần trước cô đã làm. Phần còn lại để cho bọn chúng cháu.

    - Được rồi , được rồi , đừng lo. Tôi chỉ hy vọng, các cậu làm cái gì thì làm nhanh nhanh cho. Tôi không muốn ở trong ngôi nhà đó lâu quá mức cần thiết lấy một phút đâu - Cô công nhận đi, cô Mathilda, thật ra thì cô cũng thấy thích thú chuyện nầy!

    - Thích hả? Cháu đúng là kẻ thích pha trò, ông cháu thân mến ạ! lần trước, hai đầu gối cô muốn mềm nhũn ra vì sợ!

    - Nhưng bọn cháu đã giải thích cho cô nghe tất cả rồi mà, tất cả chỉ là một mánh khóe thôi.

    - Đúng. Nếu không thì chắc chắn cô không bao giờ đồng ý tới đây lần thứ hai.

    Chú Morton đưa xe rẽ vào một con phố nhỏ, con phố dẫn thẳng đến toà biệt thự Mastratonio. Trời đã tối và mặt trăng tròn vành vạnh nhô lên từ mái nhà, vẽ những hình vẽ óng ánh màu bạc lên cánh đồng mây phía trên. Đằng sau các khuôn cửa sổ trong tầng trệt đã lại lấp lánh ánh nến quen thuộc. Justus đã gọi điện cho bà O Donnell báo trước về cú viếng thăm của họ. Rõ ràng là họ đã chuẩn bị tất cả, sẵn sàng chúng một cuộc gọi hồn mới. Đây là cuộc gọi hồn cuối cùng, chỉ có điều cả ba người đàn bà khả kính kia vẫn chưa biết.

    - Tôi đề nghị được ngồi chờ ở đây, - chú Morton nói sau khi đã giúp cô Mathilda và ba thám tử mở cửa xe.

    - Được thôi, chú Morton.

    Bernadette O Donnell đã đang đứng chờ sẵn.

    - Ô, cám ơn cô lại đến, cô đồng Mathilda! Tôi rất mừng là cô đã dành thời gian cho chúng tôi! Cám ơn nhiều!

    Được cô giúp đỡ, hôm nay chắc chắn chúng ta sẽ khuyên được Dora nói ra tên của kẻ đã giết cô ấy!

    Cô Mathilda gật đầu.

    - Đêm hôn nay là đêm trăng tròn. Mối quan hệ với thế giới bên kia đặc biệt mạnh mẽ. Chúng ta sẽ thành công, tôi tin chắc vậy.

    - Xin mời cô vào, xin mời cô vào!

    Trong phòng khách, mọi vật vẫn như lần trước: chiếc bàn tròn đứng giữa phòng, tiến sĩ Jones và bà Adams đã ngồi sẵn vào vị trí.

    - Tôi muốn gửi lời xin lỗi đến các cậu, - Bà O Donnell xoay sang phía bộ ba trong khi cô Mathilda lắp chiếc bảng gỗ Ouija lên trên bàn.

    - Những gì tôi nói trước đây hai ngày… các cậu biết rồi đấy… rằng một người trong bộ ba chúng tôi có thể là thủ phạm… đó là một câu nói thiếu cân nhắc. Cả bộ ba người bạn chúng tôi sau đó đã cải cọ rất nhiều. Và chắc các cậu sẽ có một ấn tượng hoàn toàn sai lầm về tôi. Cecilia và Elouise là những người bạn thân nhất của tôi! Tôi sẽ thật sự không bao giờ nghi ngờ họ. Vào buổi tối hôm đó, tôi không được tỉnh táo cho lắm. Phải không, các bạn thân yêu? - Bà mỉm cười về phía bà Adams, nhưng người nầy không đáp lại nụ cười đó.

    - Được rồi, - Justus phẩy tay.

    - Hôm nay chúng ta sẽ biết sự thật.

    - Thế sao, đúng thế không? Ta sẽ biết sự thật. Rồi cái chuyện ma ám nầy sẽ kết thúc.

    Peter hắng giọng.

    - Tôi … e hèm … tôi phải vào giọng vệ sinh một chút, trước khi ta bắt đầu.

    - Chắc chắn rồi , - bà O Donnell trả lời.

    - Chắc cậu biết nó ở đâu.

    Thám tử phó rời phòng khách. Sau vài phút, khi cậu quay trở lại thì tất cả đã ngồi sẵn sàng. Peter ngầm dùng tay ra hiệu với Justus. Và Justus cũng thoáng gật đầu đáp lại, bí mật và khéo léo y như vậy. Sau đó Peter ngồi xuống trong vòng người và cô Mathilda bắt đầu buổi cầu hồn.

    - Tôi yêu cầu tất cả tập trung! - Cô cầm chiếc cốc thuỷ tinh lên tay, khẽ thổi vào bên trong rồi lật úp nó lại, đặt lên trên bảng gỗ có khắc các chữ cái. Ngay lập tức, tất cả đặt ngón tay trỏ lên trên vành đế cốc. Cô Mathilda để cho vài tích tắc trôi qua, rồi cô lấy hơi thật sâu và nói:

    - Tôi cầu xin thế giới âm mở cửa ra.

    Nếu linh hồn tội nghiệp của một người đã chết đang tìm nơi ẩn náu giữa những bức tường nầy, xin hãy trả lời chúng tôi! Hồn ma, hồn ma có ở đây không?

    Lần nầy, người ta không phải chờ lâu cho tới khi chiếc cốc chuyển động. chẳng còn một ai ngạc nhiên khi nó chầm chận trượt về chử "CÓ". Thế rồi sau đó nó chầm chậm trượt quay trở lại tâm điểm của bảng gỗ. trước khi cô Mathilda tiếp tục, bà O Donnell đặt câu hỏi sau:

    - Dora, phải em không?

    Cái cốc hơi run nhẹ. Thế rồi nó chuyển động. Và dừng lại ở chữ "KHÔNG".

    Một tiếng rầm rì lan ra trong phòng khách. Thám tử trưởng nhận thấy bà O Donnell và tiến sĩ Jones lén liếc nhau trong vẻ ngỡ ngàng. Bà Adams, ngược lại, buột buông ra một tiếng thở dài nhẹ nhõm.

    - Thế thì … nhưng mà như thế thì không đúng! - bà O Donnell lắp bắp.

    - Im lặng! - cô Mathilda trấn át.

    - Bà đang làm phiền đấy! Hồn ma, liệu hồn ma có thể nêu tên cho chúng tôi biết chăng?

    Từng chữ cái, từng chữ cái, chiếc cốc chuyển dịch trên bảng gỗ Ouija. Và cứ sau một chữ cái, mặt tiến sĩ và bà O Donnell lại nhợt nhạt hơn một chút.

    G - I - L - B - E - R - T - J - O - N - E - S.


  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 18

    Trò ma ám kết thúc
    Cecilia Jones thốt lên một tiếng kêu chói chang rồi giật tay về.

    - Hỡi hồn ma, hồn ma muốn gì ở chúng tôi? - giờ đây Justus hỏi. Chiếc cốc tiếp tục chuyển động, không cần sự trợ giúp của tiến sĩ Jones.

    M - U - Ố - N - N - G - H - E - S - Ự -T - H - Ậ - T.

    Giờ đây đến cả bà O Donnell cũng rụt tay về.

    - Chuyển gì xảy ra ở đây thế? - bà ta gầm lên, trông giận dữ hơn là hoảng hốt.

    - Dora ở đâu?

    Hồn ma của Gillbert vẫn khăng khăng nói tiếp ý mình:

    T - Ư - E - M -, - C -E - C - I - L - I - A.

    - Đây là trò mánh khóe! Bà O Donnell kêu lên.

    - Chỉ có thể là trò mánh khóe bẩn thỉu thôi! Không thể được!

    - Liệu bà có làm ơn ngưng cái trò khuấy đảo đến việc giao tiếp với thế giới âm hay không! - cô Mathilda rít lên.

    - Tại sao nó lại là mánh hả, thưa bà O Donnell? - Justus hỏi bằng vẻ khiêu khích.

    - Chẳng lẽ bà tin rằng cái cốc chỉ có thế chuyển động một khi có bàn tay của tiến sĩ Jones và của bà thò vào trong cuộc chơi?

    - Kìa Justus… - cô Mathilda rụt rè nói.

    - Buổi gọi hồn… chẳng lẽ chúng ta không nên…

    - Được rồi cô ạ, cô Mathilda. Trò ma ám đã kết thúc rồi.

    - Cô Mathilda? - Elouise đã ngạc nhiên hỏi.

    - Như thế có nghĩa là gì?

    - Rằng cô ta là kẻ mạo danh! - bà O Donnell rít lên.

    - Bộ ba thám tử đã lừa bọn ta! Cô ta hoàn toàn không phải cô đồng!

    - Đúng thế, - Justus thẳng thắn công nhận.

    - Và mặc dầu vậy cái cốc vẫn chuyển động. Ngạc nhiên quá, đúng không nào? Giờ chúng ta cùng bỏ mặt nạ xuống, được không, bà O Donnell? Chúng tôi đã nhìn thấu trò chơi của bà từ lâu rồi. Bà không cần phải tiếp tục dối trá nữa đâu.

    Trò chơi nào?

    Trò chơi nầy! - Justus giận dữ chỉ vào tấm bảng Ouija.

    - Trò chơi cầu hồn!

    Đúng là chuyện nực cười! Suốt thời gian đó chính bà đã đẩy cho cái cốc chuyển động! Bà và tiến sĩ Jones! Hai người đã bàn bạc trước với nhau xem cần phải gọi nên thông điệp nào.

    - Đúng là chuyện ngu ngốc! - tiền sĩ Jones đáp trả.

    - Tại sao chúng tôi lại phải bày ra trò trẻ con đó?

    - Để bắt người không ở trong nhóm của các người đưa ra lời thú tội: Chính là bà Elouise Adams. Hai bà muốn thúc ép bà Adams thú nhận tội giết người, một tội mà bà ấy chưa hề phạm phải. Tội giết Dora Mastratonio.

    Bernadette O Donnell cười sằng sặc.

    - Thật là quái gở! Một thứ như thế tôi không cần phải nghe tiếp nữa. Bước ngay ra khỏi nhà tôi!

    - Nhà của bà hả, bà O Donnell? Chắc là bà muốn thế lắm! Nhưng nó vẫn còn là nhà của bà Adams. Chúng tôi cần phải hỏi bà ấy, liệu chúng tôi có cần phải đi hay không. Hay tốt hơn là để tôi kể lại toàn bộ câu chuyện nầy từ đầu.

    Tất cả các cặp mắt hướng về phía Elouise Adams. Người đàn bà giờ đã nhợt như vôi và nuốt khan thành tiếng, trước khi run run cất tiếng:

    - Làm ơn nói tiếp đi, Justus!

    - Được rồi , vậy là chúng ta bắt đầu từ đầu.

    - Justus hắng giọng.

    - Trước đây một khoảng thời gian, Dora Mastratonio đã ngoại tình với Gillbert Jones. vợ

    ông ta là bà Cecilia, ban đầu bà ta không biết chuyện nầy, nhưng tới một lúc nào đó bà ta đã nhận ra được sự thật.

    - Làm sao mà chúng mày biết? - tiến sĩ Jones rít lên.

    - Có những tấm ảnh chứng minh điều đó, - Justus lạnh lùng đáp trả. -

    Chuyện thời đó xảy ra như thế nào, tiến sĩ Jones? Ông ấy đã tự thú tội với bà, hay là tự bà tìm ra?

    Trong một lúc lâu, người ta nhận thấy rõ là Cecilia đang vật lộn với bản thân mình. Mãi rồi bà ta nghiến răng trả lời:

    - Anh ta thú tội với tôi! Trước khi anh ta chết. Lúc anh ta hấp hối. Lẽ ra tôi phải giết Dora mới đúng! Cô ta là bạn gái thân nhất mà lại lừa tôi đến thế!

    - Vậy là bà bắt cô ấy đối chất, - Justus phỏng đoán.

    - Dù không phải ngay lúc đó. Mãi một tuần sau cái chết của chồng bà thì vụ va chạm giữa hai người mới xảy ra. Bà, bà Adams và cô Dora đã cùng có mặt trong ngôi nhà nầy, ngay trước khi cô ca sĩ đó qua đời. Đáng tiếc đây là một sự kiện mà tôi không hoàn toàn tái tạo lại được đến từng chi tiết nhỏ nhất, nhưng chắc chắn bà có thể nói cho chúng tôi biết chuyện gì đã xảy ra, bà Adams, đúng không?

    - Tôi… , - bà Adams run rẩy cất lời rồi tắt ngang.

    - Làm ơn, bà Adams, - Bob dịu dàng nói.

    - Đã tới lúc sự thật phải được lôi ra ánh sáng, bà không thấy như vậy sao?

    Người đàn bà gật đầu.

    - Thôi được. Chuyện đó xảy ra ngay sau đám tang của Gillbert. Tất cả chúng tôi cùng có mặt ở nghĩa trang và Dora đưa ra một lời nhận xét về Gillbert khiến tôi ngạc nhiên. Trên đường vào nhà tang lễ, tôi kể chuyện đó cho Bernadette nghe, và chị ấy cho tôi biết rằng Gillbert là người tình của Dora.

    Tiến sĩ Jones giật đầu về.

    - Ra chị đã cho cô ta hay!

    Bà O Donnell cười ngượng nghịu.

    - Ừ thì, chị…

    - Tôi đã kể cho chị nghe với lời thề im lặng! Chuyện nầy không dính dáng đến bất kỳ ai!

    - Phải, phải, ra những người bạn thân nhất đối xử với nhau như thế đấy, -

    Peter nói.

    - Xin bà kể tiếp đi, bà Adams! - Justus yêu cầu.

    - Khi biết về mối quan hệ nầy, tôi bị sốc thật sự. Vậy là buổi chiều sau cái đám tang đó, tôi đến gặp Dora, bắt cô ấy phải trả lời, bởi vì… bởi vì cô ấy đã hứa với tôi là không còn làm những chuyện như thế nữa!

    - Cô ấy đâu có cần đàn ông! Lúc nào chẳng có tôi ở bên cạnh cô ấy! - Nước mắt long lanh trong mắt bà Adams và phải tới một lúc sau, bà ấy mới nói tiếp được.

    - Khi tôi đến nơi, cô ấy đã bực bội vô cùng rồi. Tôi thật không thể giải thích được. Cuối cùng, tôi kể chúng cô ấy nghe tại sao tôi đến, và cô ấy nổi điên lên ngay lập tức.

    - Nguyên nhân chắc nằm ở chỗ là ngay trước đó cô Dora đã cãi nhau với bà Cecilia về ông Gillbert, - Justus nói.

    - Cả bà Cecilia cũng có trong nhà nầy, bà Adams ạ.

    Bà Adams lắc đầu.

    - Không, cô ấy không có ở đây! Chỉ có mình tôi với Dora!

    Bob giơ lên tấm anh đã được phóng to và đặt nó vào giữa bàn.

    - Không phải vậy.

    Tiến sĩ Jones cười vẻ khinh thị.

    - Thế nầy là thế nào? Chắc là một bằng chứng của thám tử?

    - Chính thế, - Justus nói.

    - Tấm ảnh nầy đã được chụp mười hai phút trước khi cô Dora bị chết. Bà Adams lúc đó đang cãi nhau với cô ấy, và chính bản thân bà thì đứng đằng sau một cánh cửa và nghe lỏm, tiến sĩ Jones.

    - Cái vệt mờ mờ nầy là tôi ấy hả? Đúng là chuyện trẻ con!

    - Đây là giầy bà, - Peter lên tiếng.

    - Ban nãy, khi nói là cần phải vào nhà vệ sinh, tôi đã lên phòng bà và phòng ngủ của bà O Donnell, để tìm cho ra nàng lọ lem trong vụ án nầy là ai. Chính bà, bà tiến sĩ Jones. Chiếc giầy nầy đang đứng trong tủ của bà!

    Tiến sĩ Jones long mắt lên, giận dữ nhìn Thám tử phó.

    - Ai chụp tấm ảnh nầy?

    Peter nuốt khan và ném một ánh mắt ra phía cửa sổ.

    - Ông kia kìa! - Cậu kêu lên và chỉ tay ra phía ngoài.

    Ông Willow cúi người xuống, nhưng quá muộn. Tất cả những người có mặt đều có thể nhìn thấy ông ta.

    - Đó là ai thế? - tiến sĩ Jones la lên.

    - Một tay do thám của bọn mi?

    - Không, - Justus bình tĩnh đáp.

    - Chỉ là một ông hàng xóm. Ông ấy là người đam mê ngấm ngầm cô Dora, và đã chụp rất nhiều ảnh về cô ấy. Trong đó có cả những ảnh cuối cùng đã cho bọn tôi biết được dấu vết đích thực. Ông Willow lẽ ra đã có thể giải đáp được câu đố nay từ lâu rồi, nhưng khi bị hỏi cung, chắc ông ấy đã không nói cho cảnh sát biết là vào cái ngày cô Dora chết, cả hai bà đã có mặt trong toà nhà nầy. Bởi nếu khai ra điều nầy, thì ông ấy cũng sẽ phải công nhận rằng, ông ấy đã ngấm ngầm quan sát cô Dora Mastratonio. Mà chuyện nầy thì chắc chắn vợ ông ấy không thích chút nào.

    - Justus ngưng một đoạn ngắn rồi cuối cùng tiếp tục:

    - Vậy là bà cãi nhau với cô Dora. Rồi sau đó xảy ra chuyện gì, bà Adams?

    - Cô ấy nổi cơn điên lên, cô ấy la hét rằng tôi không được quyền qui định cho cô ấy làm những gì và không được làm những gì. Cô ấy nói rằng tôi đã làm cho cô ấy chán ngán từ lâu lắm rồi. Cô ấy cư xử rất đểu với tôi! - Bà Adams hỉ mũi vào khăn tay.

    - Trong cuộc cãi cọ đó, chúng tôi chạy tới chạy lui trong nhà.

    Thế rồi chúng tôi đến bên cầu thang. Và cô ấy… cô ấy vấp phải một nếp nhăn trong thảm trải sàn… và ngã xuống. Nó là một tai nạn! Tôi không đẩy cô ấy!

    Không phải tôi! Thật sự là không phải! Tôi yêu cô ấy mà! - Giờ thì bà Adams khóc nấc lên, như muốn tan ra thành nước mắt, và phải tới nhiều phút sau đó bà ấy mới dịu xuống một chút.

    - Tôi tin bà, bà Adams, - Justus nói.

    - Bởi suy cho cùng chính bà là người đã gọi xe cứu thương, đúng không?

    Người đàn bà nức nở gật đầu.

    - Cô ấy còn thở. Nhưng tôi không biết phải làm gì. Tôi cứ nghĩ người ta sẽ nghi tôi. Chắc chắn là đám hàng xóm khủng khiếp quanh đây đã nghe được tiếng cãi cọ, tôi nghĩ thế, và sau đó thì họ sẽ ném tôi vào nhà tù! Nhưng tôi không thể để cô ấy nằm ở đó mà không gọi trợ giúp.

    Vậy là tôi bấm số cứu thương rồi chạy đi.

    - Và sau đó thì bà nhô ra từ cái chỗ nấp đằng sau cánh cửa, tiến sĩ Jones, -

    Justus nói tiếp.

    - Bà đã nghe thấy những chuyện xảy ra. Bà đã nghe thôi, nhưng bà không nhìn thấy. Qua những lời cãi cọ, bà tin rằng bà Adams đã thật sự đẩy cô Dora xuống cầu thang rồi chạy trốn, nhưng còn bà thì bà làm gì? Bà nhìn thấy cô Dora nằm dưới chân cầu thang. Cô ấy vẫn còn thở. Bà là bác sĩ, chắc chắn bà biết cần phải làm gì, nhưng bà không giúp cô ấy. Bà bỏ đi và bỏ mặc người bạn gái sắp chết.

    Mặt tiến sĩ Jones bây giờ đổi màu xám xịt. Khuôn miệng bà ta biến thành một vẹt mỏng dính, không sắc máu. Bà ta nhìn Justus trân trân bằng hai con mắt tóe lửa. Thế rồi bà ta la lên, chói chang:

    - Đằng nào nó cũng chết! Và tôi không giết nó! Elouise là thủ phạm. Chính nó đã đẩy Dora vào cái chết!

    - Đó là một tai nạn, - Justus bình tĩnh đáp, - nhưng ngay cả khi nó không phải là tai nạn: Lẽ ra bà phải giúp cô Dora mới đúng! Cô ấy vẫn còn thở! Còn bà là bác sĩ! Bà có thể cứu mạng cô ấy!

    - Tôi không cứu mạng được, - tiến sĩ Jones quả quyết nói.

    - Không một ai có thể cứu mạng cô ta.

    - Thế tại sao bà lại trốn đi, thay vì ở lại mà chờ xe cứu thương đến?

    - Bởi dĩ nhiên là sẽ không một ai tin tôi! - Tiến sĩ Jones hăng hái tự bảo vệ. -

    Nếu tôi ở lại đó và nói chuyện với cảnh sát thì toàn bộ câu chuyện với Gillbert và cuộc cãi cọ với Elouise sẽ vỡ ra ngoài. Rồi sau đó rất có thể người ta đẩy vào đầu tôi hoàn toàn không liên quan gì đến cái chết của Dora!

    - Cái nầy thì chắc cảnh sát sẽ muốn điều tra kỹ lưỡng thêm lần nữa, - Justus kết thúc chủ đề.

    Bà O Donnell cho tới nay vẫn ngỡ ngàng lắng nghe. Bây giờ bà ta thì thào: -

    Có phải sự thật toàn bộ câu chuyện như thế không, Cecilia?

    Sự im lặng của tiến sĩ Jones đã đủ là một lời trả lời.

    - Rằng cô Adams là một kẻ giết người, - Justus cắt ngang.

    - Sau khi tiến sĩ

    Jones hiểu ra rằng, bà ta có thể gặp những khó khăn trầm trọng về chuyện bỏ trốn khỏi hiện trương, bà ta đã rất hoảng sợ rằng mọi chuyện nầy rồi sẽ bị lộ ra ngoài. Thứ duy nhất có thể bảo vệ chắc chắn lâu dài cho bà là một lời thú tội của bà Adams. Vậy là tiến sĩ Jones nghĩ ra một kế hoạch ma quỷ nhằm thúc cho bà Adams nhận tội, mặc dù bà ấy là người vô tội. Là bạn thân với nhau nhiều năm trời, dĩ nhiên là bà ấy biết rằng bà Adams tin vào ma vào quỷ. Vậy là bà Jones muốn lợi dụng những buổi cầu hồn và một giọng Phantom để đẩy bà Adams tới mức phải thú nhận mình chịu trách nhiệm chúng cái chết của cô Dora. Chỉ với lời thú tội đó, tiến sĩ Jones mới có thể an tâm rằng không một ai có thể nghi ngờ bà ấy có liên quan đến chuyện kia, nhưng bà ấy không thể một mình tiến hành thực hiện kế hoạch. Bà ấy cần một tòng phạm. Cần bà, bà O Donnell.

    Cô Mathilda, người cho tới nay vẫn chăm chú lắng nghe từng lời lật tẩy, bây giờ lên tiếng. Cô xoay sang phía bà O Donnell:

    - Đồ rắn độc nhà bà! Bà ta trả cho bà bao nhiêu tiền để bà tham gia vụ nầy hả?

    - Chẳng trả xu nào hết, cô Mathilda, - Justus trả lời.

    - Bà ta có một lời hứa hẹn tốt hơn nhiều: tiến sĩ Jones đã làm giả một phác thảo sửa đổi di chúc và dí nó xuống mũi bà O Donnell.

    - Cô ấy không dí xuống mũi tôi, - Bernadette O Donnell cãi, mắt nhìn tiến sĩ Jones không ngừng.

    - Cô ấy giấu tờ giấy đó trong bàn làm việc và lo làm sao để khi xem xét đến những đồ hồ sơ của Dora , tôi sẽ tìm thấy nó. Chuyện cũng xảy ra đúng y như thế. Tôi thật không thể tin vào những gì tôi đọc thấy ở đó, và ngay lập tức kể cho Cecilia nghe. Cô ấy làm ra vẻ như không biết gì, và cuối cùng mới lộ ra cái nghi ngờ rằng Elouise có thể đã giết chết Dora, để sau khi cô ấy qua đời thì ngơi nhà không được chuyển vào tay tôi.

    - Và chị tin lời cô ta! - bà Adams sững sờ.

    - Không. Không tin ngay lập tức, nhưng tôi không thể chắc chắn. Vậy là tôi đồng ý cùng Cecilia thực hiên kế hoạch gọi hồn. Tôi cứ nghĩ, em sẽ thú tội nếu hồn Dora đột ngột nói chuyện với em.

    - Bởi vì với bản thân mình, bà cũng cần một lời thú tội, - Justus nói.

    - Một bản thảo di chúc suy cho cùng vẫn chưa phải là bằng chứng, nhưng chỉ cần một lời thú tội của bà Adams là đã giết người thì nó cũng đủ cho bà thừa kế toà biệt thự nầy. Thứ duy nhất mà bà còn cần đến nữa là nhân chứng, nhưng đó phải là nhân chứng một mặt sẵn sàng tham gia một buổi cầu hồn, và mặt khác lại tuyệt đối đáng tin cậy trong con mắt cảnh sát. Và trong toàn vùng California thì chắc chắn chỉ có ba người thoả mãn những điều kiện đó.

    - Chính là chúng tôi đây, - Bob và Peter đồng thanh.

    - Bộ Ba.

    - Vì thế mà bản thân bà ngay từ đầu đã vào vai người không tin vào ma quỷ, để không để lộ ý định của mình quá sớm. Cho kế hoạch của bà thì liệu cô Mathilda có là cô đồng thật sợ hay không cũng chẳng quan trọng - đằng nào thì cũng chính bản thân hai người đẩy cho cái cốc chuyển động trên một miếng gỗ khắc chữ cái. Nhưng có một điểu tôi chưa hiểu: Lời đề nghị sử dụng bảng gỗ

    Ouija là lời đề nghị của chúng tôi. Nếu chúng tôi có một ý kiện khác đi thì các bà sẽ làm gì, để vẫn thiết lập quan hệ với hồn Dora?

    Bà O Donnell không dám nhìn vào mắt mọi người khi bà ta lý nhí trả lời - chúng tôi đã chuẩn bị một số thứ khác. Cho phương pháp nào hầu như chúng tôi cũng có sẵn một lời giải.

    - Và một trong số những phương pháp khác đó là giọng Phantom, - Justus nói.

    - Chính xác! - Peter kêu lên.

    - Chuyện ghi âm vào băng cassette. Làm sao mà các bà làm như vậy được? Cái giọng ma đó ở đâu ra?

    - Mình có thể nói cho cậu nghe, Thám tử phó, - Justus nói.

    - Trời đất ạ, có thứ gì mà cậu không biết không?

    - Ít thôi. Trò ghi âm là một trò tinh quái, mình phải công nhận như vậy. Hơn nữa nhất là khi sử dụng chính máy ghi âm của bọn mình và băng cassette do bọn mình mang tới. Mánh khóe nằm ở chổ, chúng ta không nghe cuộn băng đó trên chính cái máy nầy, phải không, tiến sĩ Jones? Bà đã lôi cái băng ra ngoài và đặt nó vào dàn máy Hi-Fi. Và ở đó bà không bật lại cuộn băng nay mà ghi đè lên nó, mà là ghi đè bởi một đoạn âm thanh đã được bà thu âm đồng thời với đoạn băng của chúng ta - chắc chắn là với sự trợ giúp của một bộ điều khiển từ xa mà bà giấu ở một góc nào đó. Bản thân tôi đã nhìn thấy là dàn nhạc của cô Dora có microphon.

    Bob nhăn trán.

    - Nhưng điều nầy vẫn chưa giải thích sự xuất hiện của giọng Phantom trên băng ghi âm, Justus.

    - Chờ đã, Bob. Đoạn băng thứ hai được ghi đè chồng lên đoạn băng của chúng ta, trong khi bọn mình cứ tưởng rằng chúng ta đang nghe đoạn ghi âm của chính chúng ta. Đồng thời, người ta trộn vào đó một đoạn băng đã được chuẩn bị sẵn từ trước, với giọng của hồn ma, cuộn băng nầy được giấu đâu đó trong dàn nhạc. Bà đã loay hoay rất lâu bên những cái nút vặn và cần gạt, tiến sĩ Jones , và giải thích rằng bà chỉ gắng làm sao để nâng cao chất lượng âm thanh.

    Trong khi sự thật thì bà đã trộn cả hai băng ghi âm đó với nhau như trong một dàn máy karaoke, rồi ghi đè nó lên cuộn băng của chúng tôi. Qua đó, giọng Phantom xuất hiện trong cuộn băng của chúng tôi và chúng tôi có thể mang nó về nhà, nghe đi nghe lại, nghe mà không hề nghi ngờ, bởi vì những âm thanh mà bản thân chúng tôi đã gây ra trong khi thu thanh cũng có mặt trong đoạn băng đó. Đúng là một mánh khóe có thể gọi là thiên tài, tiến sĩ Jones, tôi phải công nhận như thế, nhưng chẳng giúp ích được cho bà đâu. Bởi bất chấp tất cả những thông điệp từ phía bên kia thế giới, bà Adams sẽ không thú tội giết người… Vì rất đơn giản: bà ấy chẳng giết ai hết. Đó là môt tai nạn, nhưng cái đó thì chính bà không biết.

    - Justus cúi người về phía trước, chống hai tay lên mặt bàn rồi nhìn thẳng vào mắt tiến sĩ Jones và bà O Donnell.

    - Hai người các bà là những kẻ duy nhất có tội trong những người ngồi quanh chiếc bàn nầy. Và các bà sẽ phải chịu trách niệm. Đặc biệt là tiến sĩ Jones.

    Justus im lặng. Giờ cậu đã kết thúc phần việc chứng minh của mình, và đưa một quan sát lần lượt từng gương mặt những người ngồi đó. Peter cười bằng vẻ hài lòng, như thể chính bản thân cậu nghĩ ra lời giải đố. Bob âu lo nhìn sang phía bà Adams, người vẫn đang ngồi không nhúc nhích và nhìn trân trân về phía giữa bàn, gắng sức hiểu những gì mà bà ta vừa được nghe. Mặt bà O Donnell lộ rõ vẻ hối lỗi. Trong khi mặt tiến sĩ Jones thì méo mó đi vì giận dữ. Đến độ vô số những mạch máu li ti trong lòng mắt cô ta vỡ ra.

    Thế nhưng nét mặt của ô Mathilda là cả một niềm vui lớn cho Justus. Cô nhìn cậu đầy kiêu hãnh và thán phục, như thể cô vừa mới phát hiện ra cháu trai của mình trong một góc độ hoàn toàn mới. Bà cô phúc hậu vẫn giữ nguyên vẻ mặt nầy, khi Justus cuối cùng đứng dậy và đi về phía máy điện thoại, gọi cho thanh tra Cotta.

    Đoạn cuối diễn ra thật sự nhanh. Và lấn nầy thì có một lời thú tội thật sự:

    Khi thanh tra Cotta bước vào toà biệt thự Mastratonio, Cecilia Jones và Bernadette O Donnell đã sẵn sàng thú nhận tật cả. Thanh tra Cotta tuyên bố bắt đầu mở lại vụ án và ngoài ra còn hứa với Justus, sẽ để ý một chút đến cái nhà ông Willow nữa trắng nữa đen. Một tiếng sau, thanh tra Cotta cho bộ ba thám thử về nhà, không quên nói với họ rằng ông chờ được gặp bộ ba tại sở cảnh sát vào ngày hôm sau, nơi họ sẽ kể lại toàn bộ câu chuyện vào biên bản.

    Giờ thì bộ ba thám tử lại ngồi trên chiếc xe Rolls Royce để trở về nhà và cô Mathilda hăm hở với công việc xoá lớp phấn son dày cộm ra khỏi mặt.

    - Cuối dùng thì cô cũng được biết bộ ba bọn cháu làm gì trong thời gian rảnh, - cô Mathilda Jonas nói và thoáng liếc qua vai ra phía hàng ghế sau.

    - Nhưng mà nầy, Justus, làm sao mà cháu biết được là tiến sĩ Jones đã chỉnh sửa di chúc? Có bằng chứng gì không?

    - Cái đó cũng là thứ mình đang muốn biết đây! - Bob nói.

    - Không có bằng chứng, - Justus thú nhân.

    - Nhưng đó là lời kết luận logic từ tất cả những thông tin mà chúng cháu có được. Cháu đã quyết định bắn một mũi tên hú hoạ lên trời xanh, và nó trúng đích.

    - Lời kết luận logic, - cô Mathilda nhắc lại.

    - Đúng rồi, chứ còn sao nữa. Quả thế, cô phải công nhận điều nầy: Cuộc chiến chống lại tội phạm thật sự là một sở thích hấp dẫn! Cô tin rằng trong tương lại cô muốn thường xuyên được tham gia hơn, khi bọn cháu chỉ đích danh thủ phạm. Chuyện hôm nay hấp dẫn quá!

    - Vâng thì, cô Mathilda, thật là cháu không biết …

    - Thôi đi nào, Justus, cả cô cũng giúp được bọn cháu mà! Rồi cháu sẽ ngạc nhiên khi mà bà cô già nua của cháu còn làm được tất cả những chuyện gì nữa!

    Đây mới chỉ là phần bắt đầu thôi!

    Bob, Peter và Justus bối rối nhìn nhau. Cô Mathilda trong tư cách dấu chấm hỏi thứ tư - thế thì mọi chuyện sẽ dẫn về những đâu!

    - Cô ơi, cô Mathilda… , - Justus lắc đầu.

    - Chúng cháu rất cám ơn thiện chí của cô, nhưng mà…

    - Vâng, cô Jonas, - Peter nói tiếp.

    - Thật sự đấy, chúng cháu rất…

    - Rất cám ơn thiên ý của cô, nhưng mà…

    - Các cậu còn nợ tôi một món, đừng có quên điều đó. Các cậu đã hứa rồi. Mà một khi đã hứa thì phải giữ lời. Bộ ba thám tử há mồm ra, không nói nên lời.

    Với những con mắt mở lớn, họ nhìn gương mắt đang vui vẻ mỉm cười của cô Mathilda. Nụ cười mỉm dần dấn rộng hơn lên, rộng hơn lên nữa.

    - Gậy ông dập lưng ông nhé! - cô Mathilda Jonas cười thành từng tràng khanh khách, và cuối cùng thì cả Bộ Ba lẫn chú Morton cũng dần dần hoà theo giọng cười.

    Họ vẫn còn cười khi đi ngang qua tấm biển chỉ đường đề chữ: Rocky Beach.

    Hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-31-2022, 03:52 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-20-2017, 12:23 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-17-2017, 01:45 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-18-2015, 02:21 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-20-2014, 01:40 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •