Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu thường làm cho con người mù quáng. Khi hai kẻ yêu nhau bao giờ cũng cho người mình yêu và những chuyện của mình hoàn toàn hợp lý. Chỉ có những người ngoài mới nhận được đâu là phải đâu là sai.
Albert Camus
Trang 1 / 6 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 55

Chủ Đề: Anh Linh Thần Võ Tộc Việt

  1. #1
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    9,247
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 8 Lần
    Trong 8 Bài Viết
    Anh Linh Thần Võ Tộc Việt

    Tác giả :Yên Tử Cư Sĩ Trần Đại Sỹ




    Thay lời tựa
    Thư viết cho tuổi trẻ Việt-Nam

    Đây là những dòng tác giả viết cho tuổi trẻ Việt, dù ở trong nước hay ở ngoài lãnh thổ Việt-Nam.

    Xin các vị cao minh bỏ qua, chẳng nên bận tâm.

    Các bạn trẻ thân,

    Tôi ngồi viết những dòng tâm huyết này gửi đến các bạn, nhân Thư-viện Việt-Nam tại Hoa-kỳ tái bản lần thứ nhất bộ Anh-linh thần võ tộc Việt.

    Tôi khởi thảo thuật công cuộc dựng nước và giữ nước của tổ tiên ta vào tuổi 29 (1968). Tính đến nay trải 33 năm. Ba mươi ba năm so với lịch sử thì không dài, nhưng so với đời người, quả đã chiếm một khoảng quá quan trọng. Suốt thời gian đó, gần như tôi vượt qua tất cả những dịp may được hưởng thụ, để hoàn thành kỳ vọng của tiền nhân, để đạt được ước nguyện.

    Ước nguyện của tôi là thuật công cuộc dựng nước, giữ nước vĩ đại của tổ tiên ta trong năm nghìn năm lịch sử. Khởi thảo, tôi đã cùng phụ thân luận bàn đến gần một năm, để định rõ đoạn nào nên thuật, đoạn nào không nên thuật. Nhất, là sao trong bốn mươi năm, tôi có thể thực hiện trọn vẹn. Sau khi đẵn đo, tôi chia lịch sử làm 5 thời kỳ cần phải thực hiện:

    1. Thời kỳ Lĩnh-Nam, thuật công nghiệp của vua Trưng cùng 162 tướng khởi nghĩa vào đầu thế kỷ thứ nhất. Đây là cuộc khởi nghĩa thành công, chỉ đạo bởi một những nữ anh hùng, mà trên thế gian chưa một phụ nữ nước nào có thể so sánh. Ba bộ sách thuật thời kỳ này mang tên Anh-hùng Lĩnh-Nam 4 quyển, Động-đình hồ ngoại sử 3 quyển, Cẩm-khê di hận 4 quyển, tổng cộng 11 quyển, 3510 trang. …

    Chắc có bạn hỏi tôi rằng tại sao trước vua Trưng, tộc Việt từng có những thời rực hào quang như Phù-đổng Thiên-vương đánh giặc Ân. Trung-tín hầu Vũ Bảo-Trung thời vua An-Dương phá quân Tần; mà không thuật? Xin thưa, những huân nghiệp đó đến thời vua Trưng đã trở thành chủ đạo của người Việt, nên được nhắc đến trong suốt 3510 trang.

    2. Thời kỳ Tiêu-sơn, tiền nhân không khuyến khích tôi viết về thời kỳ Tiêu-sơn, vì viết về thời này thì phải thuật chiến công vượt biên Bắc phạt của Linh-nhân hoàng thái hậu (Ỷ-Lan) và Thái-úy Lý Thường-Kiệt. Nguyên do các người đều là nhà nho. Mà nhà nho thì cực kỳ ghét việc các bà Thái-hậu cũng như hoạn quan nắm quyền. Trong lịch sử Hoa-Việt, có không biết bao nhiêu các bà Thái-hậu nhân ấu quân lên ngôi, ngồi phụ chính, rồi chuyên quyền, dâm đãng, gây cho nước loạn. Còn bọn hoạn quan, nhờ vào vị thế tôi đòi hầu hạ vua, chúa cùng cac bà trong hậu cung mà nắm quyền, gây ra không biết bao nhiêu việc loạn ly, phá hoại kỷ cương đất nước. Nhưng ngày nay những bà Thái-hậu ngu dốt, những hoạn quan không còn nữa. Vì vậy tôi quyết định viết về thời kỳ Tiêu-sơn, thuật giai đoạn triều Lý dùng đức từ bi hỷ xả của Phật-giáo để trị nước, tạo hạnh phúc cho dân, cùng chiến công phía Bắc đánh Tống, phía Nam mở rộng bờ cõi.

    3. Thời kỳ Đông-a, tức thời Trần. Vì trong chữ Nho, chữ Đông với chữ A thành chữ Trần, nên sử gọi triều Trần là triều Đông-a. Nội dung thuật ba cuộc thắng Mông-cổ của quân dân đời Trần. Như các bạn biết, quân Mông-cổ thắng từ Á sang Âu, đặt nền cai trị mấy trăm năm. Họ chỉ bại duy nhất tại Nhật-bản và Việt-Nam. Họ bại tại Nhật-bản thì dễ hiểu, vì Mông-cổ là quân Kỵ. Họ bỏ ngựa đánh thủy chiến, thì cái bại đã thấy trước. Nhưng tại Việt-Nam tại sao họ bại?

    4. Thời kỳ Lam-sơn, thuật cuộc khởi nghĩa đánh đuổi ngoại xâm, tái lập tự trị, do một nông dân là Lê Lợi chỉ đạo. (1418-1428)

    5. Thời kỳ Tây-sơn, lại được chỉ đạo bởi những anh hùng áo vải, tái thống nhất đất nước, rồi chỉ một trận quét sạch 20 vạn quân Thanh và một trăm vạn dân phu.

    Khi tôi viết những dòng này, tôi đã hoàn thành tất cả 9 bộ, 35 quyển, khoảng 13.000 trang. Năm nay (2001), tôi đã bước vào tuổi 62 rồi, tuy nhiên sức khỏe còn tốt, tinh thần vẫn minh mẫn để thuật tiếp ba bộ nữa. Một là bộ Anh-hùng Đông-a gươm thiêng Hàm-tử, nói về chiến thắng Mông-cổ lần thứ nhì và ba. Hai là bộ Anh-hùng Lam-sơn. Ba là bộ Anh-hùng Tây-sơn. Tổng cộng, tôi còn nợ Tổ-tiên, nợ Dân-tộc, nợ các bạn khoảng 7.500 trang nữa. Tôi tin rằng tôi sẽ trả xong nợ trước khi gối mỏi, trước khi linh mẫn ra đi.

    Về thời kỳ Tiêu-sơn chia làm năm giai đoạn.

    Giai đoạn một, thuật lại công cuộc dựng nước của các tăng ni. Bằng cách nào, các vị tăng hồi đó đã dạy dỗ, giúp đỡ một thiếu niên cùng khổ trở thành đại tướng, rồi thành một hoàng đế nhân từ bậc nhất lịch sử. Giai đoạn này mang tên Anh-hùng Tiêu-sơn dài 1120 trang, 3 quyển. Tiêu-sơn là tên ngôi chùa, cũng là tên của một ngọn núi, theo khoa phong thủy thì nhờ ngôi mộ họ Lý kết phát trên núi Tiêu-sơn mà Lý Công-Uẩn trở thành hoàng đế, lập ra triều đình họ Lý làm vua 215 năm (1010-1225). Trong thời gian này, con trai thứ của vua Lỳ Thái-tổ là Lý Long-Bồ tước phong Khai-Quốc vương, cùng 9 người bạn kết thành Thuận-Thiên thập hùng; lập chí chiếm lại lãnh thổ Đại-Việt bị Trung-quốc cướp sau khi đánh bại vua Trưng.

    Giai đoạn hai, vào thời vua Lý Thái-tổ trị vì. Đất nước thái bình, dân chúng sống yên vui. Nhưng khi vua Lý Thái-tổ lên ngôi, với sự cố vấn của các tăng ni, với đức từ bi khi còn ở chùa, ngài ban chỉ ản xá cho tất cả các tội đồ trong nước. Trong đám đó, có một tôn giáo, mà thời đó gọi là Hồng-thiết. Tôn giáo này du nhập từ phương Tây Trung-quốc, rồi vào đất Việt, giáo chúng rất đông. Nhân được án xá, giáo đồ Hồng-thiết quy tụ nhau mưu dâng nước cho Tống, rồi gây loạn. Nhưng cuối cùng bị Thuận-Thiên thập hùng dùng chủ đạo của tộc Việt đánh bại. Giai đoạn này mang tên Thuận-Thiên di sử, 1080 trang, 3 quyển. Thuận-Thiên là niên hiệu của vua Lý Thái-tổ.

    Giai đoạn ba, thuật lại tổ chức, sinh hoạt của 207 bộ tộc ít người nằm giữa Trung-quốc và Đại-Việt. Bằng cách nào họ luôn là hàng vào bảo vệ Đại-Việt, và họ đã chống lại cuộc xâm lăng tầm ăn đâu của triều Tống. Đây là vùng còn mang di tích sống theo chế độ Lạc-hầu, Lạc-tướng của thời vua Hùng, vua An-Dương, vua Trưng. Trên cao nhất có một vua Bà, do các động trưởng, châu trưởng bầu. Vua chỉ có tính cách tượng trưng của tôn giáo thờ các anh hùng dân tộc, đã được huyền thoại thành các vị thần. Còn thực quyền vẫn do các châu, động trưởng theo chế độ cha truyền con nối hoặc bầu cử. Các bộ tộc này, ngày nay vẫn còn tồn tại ở phía Nam Quảng-Tây, Vân-Nam và phía Bắc Việt-Nam. Trong những năm 1977-1992, nhờ công tác cho Ủy-ban trao đổi y học Pháp-hoa (Commité Médical Franco-Chinois, viết tắt là CMFC), tôi đã lặn lội hầu hết những vùng này, và tìm ra biên giới thời Lý lên phía Bắc của biên giới ngày nay chỗ thì 45 cây số. Có chỗ lên tới 143 cây số. Bộ này mang tên Anh-hùng Bắc-cương, 1556 trang, 4 quyển.

    Bộ Anh-linh thần võ tộc Việt mà các bạn đang cầm trên tay, 1708 trang, gồm 4 quyển, thuộc giai đoạn bốn của thời kỳ Tiêu-sơn. Bộ này nối tiếp bộ Anh-hùng Bắc-cương. Đây là thời kỳ cực thịnh của triều đại Tiêu-sơn. Nội dung thuật bốn biến cố quan trọng: Một là cuộc đi sứ Trung-quốc của phái đoàn Việt, rồi đưa đến Lý-Tống kết thân, Hoa-Việt trải qua một thời gian dài thịnh trị. Hai là sau khi vua Lý Thái-tổ băng hà thì chư vương nổi loạn, rồi bị Thuận-Thiên thập hùng và Anh-hùng Bắc-cương đánh bại. Cuối cùng cuộc thống nhất 8 vùng tộc Việt: Đại-Việt, Đại-lý, Lão-qua (Lào), Xiêm-la, Chiêm-thành, Chân-lạp, Bắc-cương, và Nam-Việt (Lưỡng-Quảng)... thành công. Ba là Tống bỏ thỏa ước kết thân Tống-Lý, sai các biên thần Nam-phương khích Chiêm, Lào đánh vào sau lưng Đại-Việt, Bắc họ chuẩn bị đánh xuống. Đại-Việt ra tay trước, đầu tiên phá Chiêm, rồi quay lên đánh chiếm lại lãnh thổ xưa. Bốn là, quân Việt do Nùng Trí Cao thống lĩnh đánh chiếm lại được cố thổ thời Lĩnh-Nam nay thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam, Quý-châu, Hồ-Nam Trung-quốc lập ra nước Đại-Nam.

    Các bạn trẻ thân mến,

    Tôi sống ở Pháp, một nước thuộc Cộng-đồng châu Âu (CĐCA). Đọc sử các nước của CĐCA, tôi thấy trong quá khứ họ cũng chém giết nhau khủng khiếp như Việt-Nam với Trung-quốc, như Việt-Nam với Cambodge, Lào-quốc, Thái-quốc; thế mà họ bỏ qua tất cả, để kiến tạo một Cộng-đồng khiến cho dân chúng hạnh phúc. Từ đó tôi nhìn về cố quốc và tôi nảy ra ước vọng: Biết đâu một ngày nào đó, các nước trong ASEAN không trở thành một Cộng-đồng Nam-á châu?

    Riêng đối với Trung-quốc, tôi dám tự hào là một trong những người Việt từng đi khắp lãnh thổ rộng lớn này, kể cả Nội-Mông, Thanh-hải, Tân-cương, Tây-tạng, dĩ chí Mông-cổ, Nam-Bắc Hàn. Suốt 25 năm qua, khi thì tôi công tác cho Institut Franco-Asiatique (IFA) (Viện Pháp-á), khi thì tôi đi cho CMFC, khi thì tôi đi cho Coopérative Europénne Pharmaçeutique (CEP) ( Liên hiệp các viện bào chế dược phẩm châu Âu). Nhờ phương tiện tài chánh rộng rãi, nhờ hiểu biết tình hình Trung-quốc từ trung ương đến địa phương... tôi thành công trong mọi nhiệm vụ. Có thể nói, tôi từng tiếp xúc, mạn đàm, đối ẩm với hầu hết những người cao cấp nhất của Trung-quốc (1977-2001), tôi thấy rất ít người có tư tưởng bành trướng như người ta chụp mũ. Trung-quốc không phải là một thế giới huyền bí. Chỉ cần đọc thực kỹ Tứ-thư, Ngũ-kinh, Nhị thập tứ sử (24 bộ chính sử), cùng theo dõi những biến cố gần đây, rồi suy nghĩ như người Hoa, thì lập tức có cái chìa khóa mở được mọi cánh cửa Trung-quốc.

    Khi biết tôi là người Pháp gốc Việt, một vị (bậc nhì trong quyền lực Trung-quốc 1990) hỏi tôi rằng:

    " Nếu anh cầm quyền ở Việt-Nam, thì anh sẽ đối xử với Trung-quốc như thế nào?"

    Tôi trả lời:

    " Giống như anh và tôi hiện thời. Chúng ta ngồi ngoài vườn mà hoa đào, hoa mận đang nở. Chúng ta uống rượu Ngũ-gia bì, Thiệu-hưng và ăn xoài nhập cảng từ Lái-thiêu. Khi đàm đạo, chúng ta luôn nhắc tới những danh ngôn của Khổng, của Mạnh. Hơn nữa bà mẹ anh, tôi không thấy khác bà mẹ tôi làm bao. Cung cách của các con anh đối với anh không khác cung cách các con tôi đối với tôi. Nhất là gương mặt anh với tôi càng giống nhau. Chúng ta kính yêu nhau, tin tưởng nhau, thông cảm nhau. Tôi nghĩ là nếu tất cả người Hoa, người Việt có dịp gặp nhau, họ cũng sẽ đối xử với nhau như anh và tôi."

    Tôi nhấn mạnh:

    "Khổng-tử nói: Ta hồ binh đao chi sự, thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi. Trung-quốc coi Việt-Nam như anh em, thì Trung-quốc có người bạn tốt ở Nam-thùy. Còn như Trung-quốc cứ gây hấn, thì Trung-quốc có một kẻ thù ở sau lưng".

    Các bạn trẻ thân,

    Những gì mà người bạn Trung-quốc với tôi đàm đạo không có tính chất ý tại ngôn ngoại. Câu nói trên đây của tôi, tôi xin lấy bộ Anh-linh thần võ tộc Việt để dẫn chứng.

    Thân chào các bạn.

    Paris ngày 15 tháng 4 năm 2001.
    Yên-tử cư-sĩ Trần Đại-Sỹ.


    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ MỘT
    Sứ đoàn Xiêm La

    Sau hơn nửa tháng dùng đường thủy, sứ đoàn Đại-Việt tới mới Tương-dương. Bảo-Dân tỏ ra thông thạo đường lối. Y nói:

    - Bây giờ chúng ta lên bộ đi bằng xe ngựa. Sau một ngày tới Tân-dã, nghỉ đêm tại đây, rồi ta lại đi Nam-dương. Nam-dương đối với Trung-nguyên là đất thiêng, vì đã sản xuất ra nhiều nhân tài, trong đó có Gia-cát Lượng, một vị tể tướng nức tiếng thời Tam-quốc.

    Địa đanh Tương-dương, Tân-dã, Nam-dương đối với Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Mỹ-Linh thì rất quen thuộc. Vì cả ba đã đọc Bắc-sử thời Tam-quốc. Còn Thiệu-Thái, chàng chưa từng nghe đến bao giờ. Tuy vậy, chàng tự nhủ:

    - Địa danh Trung-nguyên mình không thuộc là lẽ thường. Mình cũng chẳng cần thắc mắc.

    Vì vậy chàng không hỏi han gì cả. Bảo-Dân cho thuyền đậu tại ngoài Phàn-thành. Y nói:

    - Tương-dương là nơi phát xuất ra võ phái dương cương, đường đường chính chính từ đời Tần-Hán. Thời Đông-Hán có chín đại tướng danh tiếng nhất xuất thân phái này. Chín người được vua Quang-Vũ ban cho cái mỹ danh là Tương-dương cửu hùng. Họ từng giao chiến với các anh hùng thời vua Trưng.

    Mỹ-Linh đã thuộc làu sử Lĩnh-Nam. Nàng hỏi:

    - Có phải chín người đó là Sầm Bành, Mã Vũ, Cảnh Yểm, Tế Tuân, Tang Cung, Lưu Hân, Lưu Long, Đoàn Chí, Phùng Tuấn không?

    - Đúng thế.

    Khai-Quốc vương nhìn Bảo-Dân tủm tỉm cười:

    - Tương-dương cửu hùng thực ra chỉ có tám người. Vì Mã Vũ đâu phải là người Hán, ông là người Việt mà. Ông có tên Chu Kim-Hựu, vốn thuộc phái Cửu-chân. Cũng như hiện nay, danh sĩ Trung-nguyên không ngớt ca tụng Tương-giang tam tuyệt. Có ai ngờ đâu họ lại là Côi-sơn tam anh của Đại-Việt.

    Bảo-Dân giật bắn người lên. Vì cách đây hơn mười năm, ba đại đệ tử của Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An là Trần Phụ-Quốc, Trần Bảo-Dân, Trần Trung-Đạo võ công cực kỳ cao thâm, bản lĩnh không thua Đại-Việt ngũ long làm bao. Bấy giờ người người đều truyền tụng:

    Trên trời có ngũ long.
    Dưới đất có tam-anh.
    Ngụ ý nói tài Côi-sơn tam anh chỉ dưới có Đại-Việt ngũ long mà thôi.

    Ngoài võ công ra, Phụ-Quốc nổi danh bút mặc văn chương, cử bút thành thơ. Bảo-Dân nức tiếng âm nhạc. Đến nỗi phái Sài-sơn có hơn nghìn năm chuyên về nhạc, mà cũng phải tấm tắc khen tài. Trung-Đạo nổi danh về họa. Rồi giang hồ không hiểu sao ba người đều tuyệt tích. Họ có ngờ đâu sư phụ sai ba người sang Trung-nguyên lập hệ thống tế tác, phòng quân Tống sang đánh Đại-Việt.

    Cả ba cùng hoạt động ở vùng Trường-giang, Tương-giang, rồi họ được danh sĩ Trung-nguyên tặng cho mỹ tự Tương-giang tam tuyệt. Không ai ngờ Tương-giang tam tuyệt với Côi-sơn tam anh lại là một. Bây giờ thình lình Khai-Quốc vương nói ra, làm Bảo-Dân kinh ngạc.

    Mỹ-Linh biết Bảo-Dân bồi hồi trong lòng vì lời nói của chú mình. Nàng hỏi Kim-An một câu, để Bảo-Dân quên đi:

    - Khấu sư thúc này. Trong Tương-dương cửu hùng thì Sầm Bành bị Bắc-bình vương Đào Kỳ giết. Tang Cung, Lưu Hân bị Thiên-ưng lục tướng bắt cho chim ưng ăn thịt. Đoàn Chí bị công chúa Gia-Hưng chém trên biển Đông. Cản Yểm bị giết tại điện Vị-ương. Rút cục chỉ còn Lưu Long, Phùng Tuấn, Tế Tuân không rõ sau ra sao?

    - Tôi cũng không nhớ nữa. Chỉ biết rằng hầu hết những anh hùng thời Đông-Hán đều chết vì tướng của vua Bà. Đau nhất là Sầm Bành bị giết ở Dương-bình-quan.

    Xin đọc Anh-hùng Lĩnh-Nam, Động-đình hồ ngoại sử, Cẩm-khê di hận, của Yên-tử cư-sĩ, do Nam-á Paris x.b.

    Nàng hỏi chồng:

    - Chúng ta có lên bờ dạo chơi không?

    Bảo-Dân đưa mắt hỏi Khai-Quốc vương. Vương cười:

    - Nên chứ. Ta là sứ đoàn Đại-Việt mà. Ta cứ đường đường chính chính dạo chơi. Bất quá quan quân Tống có hỏi, ta đưa thẻ bài ra, họ phải hộ tống ta về Biện-kinh là khác. Có điều ta không nên dụng võ.

    Sáu người lên bờ. Lập tức đám trẻ con rước khách cho phu xe chào đón đon đả. Kim-An thuê hai xe ngựa. Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái đi một xe. Người đánh xe xưng tên là lão Cố. Mỹ-Linh với vợ chồng Bảo-Dân đi một xe. Người đánh xe tự xưng tên là lão Xa. Hai xe nối đuôi nhau vào thành. Hôm ấy trời lất phất mưa, gió thổi lạnh buốt, ngoài đường vắng bóng người đi.

    Xe sang của Tây, mưa càng nặng hạt. Màn cả hai xe đều phải đóng kín. Xe đang đi, thình lình phải đứng lại. Phu xe nói vọng vào:

    - Xin quý khách cảm phiền, vì phía trước có người tụ tập đông quá, xe đi không được.

    Mỹ-Linh hỏi:

    - Họ tụ tập làm gì vậy?

    - Thưa, họ xem bảng văn. Bảng văn yết thị tầm nã tội phạm.

    Tò mò Mỹ-Linh thò đầu ra ngoài nhìn. Bất giác nàng gật bắn người lên, vì bảng văn của quan kinh-lược sứ Kinh-châu yết thị cho ai bắt được năm tội phạm có hình dưới sẽ được thưởng trăm lượng vàng. Nhưng bảng văn không biết rõ tên tuổi tội phạm là gì. Trong hình năm tội phạm, một người giống hệt Bảo-Hòa. Một người giống hệt Thông-Mai. Phía dưới ba hình, Lê Văn, Tôn Đản, Tự Mai.

    Khai-Quốc vương kinh ngạc, vương nói bằng tiếng Việt:

    - Không hiểu sao năm người này để lộ chân tướng. Nay có lệnh truy nã thực khó mà hành động.

    Thanh-Mai an ủi chồng:

    - Dường như họ chỉ thấy người, mà không biết rõ lý lịch. Ta truyền tin bảo họ thay đổi y phục, hoá trang đi một chút ai mà biết được?

    Khai-Quốc vương lắc đầu:

    - Không cần, không nên làm thế. Anh thấy trong vụ này có điều gì bí ẩn. Vì bảng văn do Kinh-lược sứ truy tầm chứ không phải triều đình. Như vậy có nghĩa phạm trường xẩy ra trong thành Tương-dương. Nhưng Bảo-Hòa, Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn chưa từng đến đây.

    Nét mặt Vương cương quyết hơn:

    - Chúng ta đi sứ. Hai lần triều Tống cử người hộ vệ ta đều không làm tròn nhiệm vụ. Lần này chính hai lão Tôn, Lê quẳng ta tại núi Tam-sơn. Bây giờ Kinh-lược sứ Kinh-châu cáo thị truy tầm người của sứ đoàn. Như vậy tức y làm nhục quốc thể. Xưa nay sứ thần dù phạm tội gì, chỉ Hoàng-đế mới được phán xét. Có đâu kinh lược sứ vô phép? Thôi được bây giờ chiều rồi. Mai ta vào gặp kinh lược sứ chất vấn y cũng chưa muộn.

    Xe đi khắp thành, chỗ nào cũng thấy niêm yết cáo thị tầm nã. Bảo-Dân truyền lệnh cho phu xe:

    - Người đưa chúng ta đến một tửu lầu nào đi.

    - Thưa khách quan, có một tửu lầu danh tiếng tên Hán-dương, nhưng lại ở về phía Tây-thành đến năm dậm. Nếu khách quan không chê xa, lão xin đưa đến.

    - Được người dẫn chúng ta đến đó đi.

    Xe ra khỏi thành, hướng về phía Tây. Thanh-Mai để ý thấy thỉnh thoảng trong xe có mùi u hương bốc lên ngào ngạt. Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái:

    - Thiệu-Thái! Trên xe cháu có gì lạ không?

    - Cháu thấy dưới nệm xe để một chiếc khăn ướt tẩm hương ngũ-hoa, thì biết chúng muốn hạ độc mình, nhưng còn e dè. Vì vậy chúng cho mình ngửi hương ngũ hoa trước. Sau đó mới phóng độc tố. Chất độc này hơi giống Di-hồn. Không lẽ bọn chúng thuộc phái Côn-lôn. Vì trước đây Đoàn Huy bị trúng thất trùng ngũ hoa rồi truyền sang mợ.

    - Công lực Thiệu-Thái cao, vậy cháu hãy dùng lăng không nói cho Mỹ-Linh bên xe kia biết mà đề phòng. Nếu thấy vợ chồng nhị sư huynh ngủ gục, mình cũng vờ trúng độc xem tụi nó định làm gì.

    - Cháu đã báo rồi. Ngặt một điều Kim-An không đủ công lực chống với độc tố, e bị hại.

    - Không sao.

    Thanh-Mai dùng lăng không truyền ngữ nói với chồng:

    - Mình nên để yên, hay lột mặt nạ tên đánh xe này?

    Nghe vương phi hỏi, Khai-Quốc vương tự chửi thầm:

    - Mình đáng chết thực, vì đang mải lo nghĩ về nội loạn trong nước, mà thiếu thận trọng. May mà Thanh muội nhận ra cái khác lạ của gã đánh xe.

    Vốn thận trọng vương trả lời:

    - Cứ chờ xem y định dở trò ma trò quỉ gì. Em thấy y có hành vi nào khác lạ không?

    - Nhiều lắm. Thứ nhất, phía Tây thành Tương-dương không có tửu lầu Hán-dương. Y nói cách thành năm dặm, mà nãy đến giờ đã quá mười dặm rồi. Điểm nghi ngờ thứ nhì là hơi thở của y dài, nhỏ như tơ liên miên bất tuyệt. Như vậy y có nội lực thâm hậu vô cùng. Anh có để ý thấy họ dùng ngũ-hoa hương tẩm vào khăn để dưới xe cho mình ngửi trước, rồi hạ độc sau không?

    - Em nói anh mới biết.

    Nàng dùng lăng không truyền ngữ hỏi Mỹ-Linh:

    - Mỹ-Linh thấy gã đánh xe có gì khác lạ không?

    - Y là một đại cao thủ, nội công thâm hậu vô cùng. Chú hai định sao?

    - Bề gì chúng cũng chỉ có hai người. Nếu cần ta điểm huyệt kiềm chế chúng, đâu có khó.

    Mỹ-Linh hỏi lão Xa:

    - Ban nãy lão nói tửu lầu ở phía Tây thành năm dậm. Nãy giờ xe đi có tới mười dặm, mà sao chưa thấy?

    Lão chỉ vào một rừng ven con sông nhỏ:

    - Kìa! Tửu lầu Hán-dương kìa. Quan khách hãy nhìn xem có lớn không?

    Mỹ-Linh nhìn lên, chẳng thấy gì cả, trong khi mùi hương ngào ngạt từ cổ tay lão bay ra. Biết lão phóng độc, nàng vội vận công chống trả.

    Đến đây Kim-An gọi chồng:

    - Anh ơi! Tại sao chân tay em lại vô lực thế này.

    Bảo-Dân cũng cảm thấy chân tay tê dại. Biết bị trúng độc, nhưng nội lực y hùng hậu, nên thuốc chưa ngấm vào cơ thể. Y ra chiêu Cầm-long trảo chụp lão Xa. Lão Xa vọt mình lên cao tránh khỏi. Bảo-Dân đứng dậy, y đánh ngựợc lên chiêu Phong-ba hợp bích. Lão Xa đánh xuống mợt chưởng, nội lực hùng hậu vô cùng. Mỹ-Linh thấy công lực lão cao hơn bọn trưởng lão Lạc-long giáo nhiều. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp.

    Mỹ-Linh than thầm:

    - Thì ra hai lão này luyện Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng. Không biết lão thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc hay thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Một điều đáng lo là không rõ chúng có biết nói tiếng Việt không. Nhất định chúng không phải là người Hoa rồi, vì chúng nói tiếng Hoa hơi ngọng.

    Trong khi Mỹ-Linh nghĩ thì chưởng Bảo-Dân với lão Xa đụng nhau, binh một tiếng người lão Xa bay bổng lên cao. Sau khi đánh hai chiêu, thuốc độc ngấm mau chóng, người Bảo-Dân rơi xuống xe. Lão Xa đáp xuống nhẹ nhàng. Lão cười nhạt nói với Mỹ-Linh bằng tiếng Việt:

    - Công chúa điện hạ. Nghe nói nội công cùng kiếm pháp công chúa cao thâm vô cùng. Nên anh em lão phải thỉnh đại giá công chúa bằng thuốc ngũ-hương di-hồn nhuyễn cân. Làm như vậy thực là vô lễ. Mong công chúa đại xá.

    Mỹ-Linh mỉm miệng cười:

    - Tiên sinh khỏi cần đánh thuốc độc. Chú cháu tôi đi sứ, nên tuyệt đối không dùng võ công trên đất Tống. Tiên sinh ơi! Khi chúng tôi không xử dụng võ công thì tiên sinh đánh thuốc chi cho mệt? Hai vị Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đã từng đùng thuốc nhuyễn cân với chúng tôi. Chúng tôi có chống lại đâu?

    Lão Xa chỉ Bảo-Dân hỏi:

    - Công chúa! Dưới tay cường tướng vô nhược binh. Công chúa làm cách nào mà thu phục được gã này. Công lực gã thực khó có ai đạt được ngang hàng.

    Bảo-Dân bị trúng Chu-sa độc chưởng. Y đau đớn vô cùng, nhưng vốn can đảm, y nghiến răng chịu vận công chống độc, chứ nhất định không rên la.

    Lão Xa nói một mình:

    - Nội công của y là thứ tà môn giống như Thiếu-lâm. Nhưng hung dữ vô cùng. Chiêu Cầm-long trảo biến hóa thực kỳ diệu. Còn chiêu võ đánh ngược lên cao giống như Kim-cương ban nhược chưởng của Thiếu-lâm, mà sát thủ thực kinh người.

    Nghe giọng điệu lão Xa, Mỹ-Linh nghĩ thầm:

    - Tên này tin theo Hồng-thiết kinh, luận điệu giống Nhật-Hồ lão nhân đây. Tiên, Thánh, Thần, Phật đối với y đều thuộc ma quỷ hết. Dường như y không biết nhiều về võ công Đại-Việt. Y thấy võ công Đông-a giống võ công Tiêu-sơn. Trong khi võ công Thiếu-lâm cũng giống võ công Tiêu-sơn. Y nhận lầm võ công Đông-a với Thiếu-lâm là một.

    Lão Xa không nói, không rằng, cho xe chạy vào khu đất hoang. Bên xe kia Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thiệu-Thái cũng giả vờ ngồi bất động trên xe. Lão Cố cũng cho xe chạy theo xe lão Xa.

    Lão Cố nhìn lão Xa cười ha hả:

    - A ha, không ngờ chúng ta thành công dễ dàng thế nhỉ. Bọn này trúng Di-hồn nhuyễn cân ngũ hoa phấn, ít nhất mười ngày mới cử động được. Trong thời gian đó ta cho xe chạy thực mau, có thể tới Biện-kinh.

    - Bây giờ ta cho cả sáu đứa này vào trong chiếc xe lớn, để lên đường. Có nên trói chúng lại không?

    - Không nên, vì trói chúng, dọc đường quan quân khám xét, hỏi han lôi thôi lắm. Ta cứ đặt chúng ngồi bên nhau, rồi cho xe chạy thì hơn.

    Thiệu-Thái hỏi lão Cố:

    - Lão là ai? Tại sao lại đánh thuốc độc bọn ta?

    - Bọn lão phu nói tên chắc thế tử cũng không biết đâu. Anh em lão phu có việc cần tới Khai-Quốc vương, nên phải nghênh đại giá bằng lối này, quả thực vô phép. Nhưng biết làm sao hơn?

    Lão Cố hú một tiếng dài. Từ trong vườn, một chiếc song mã lớn, trên có một thiếu niên đánh xe chạy ra. Gã chắp hai tay lại để lên trán, rồi cúi đầu hành lễ với hai lão Cố, Xa:

    - Đệ tử kính cẩn ra mắt nhị vị giáo chủ.

    Nghe thiếu niên gọi hai lão bằng giáo chủ, cả sứ đoàn đều ngơ ngác tự hỏi:

    - Rõ ràng hai lão này xử dụng Nhật-hồ độc chưởng, như vậy chúng thuộc Hồng-thiết giáo. Trung-quốc Hồng-thiết giáo hoạt động dưới danh nghĩa bang Nhật-hồ. Chỉ Đại-Việt mới có Hồng-thiết giáo, giáo chủ là Nhật-Hồ lão nhân. Vậy hai lão này là giáo chủ nào nữa?

    Lão Cố hỏi thiếu niên:

    - Người tên gì? Báo danh di.

    - Đệ tử tên Bủa Khảm thuộc đạo Vạn-tượng.

    - Người cho xe chạy vào thành mau, bằng không trời tối đến nơi rồi.

    Thanh-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi Thiệu-Thái:

    - Nhị sư ca bị trúng Chu-sa độc chưởng. Thiệu-Thái nghĩ xem để lâu có hại không?

    - Công lực nhị thúc rất cao, nên dù bị trúng độc chưởng, mà hiện giờ chưa thấy phát tác. Cháu định giải độc cho nhị sư thúc, không biết có nên không?

    - Khoan! Thiệu-Thái nói cho nhị sư ca biết trước. Bằng không khi được giải độc, người lại dùng võ thì hỏng bét.

    Lão Cố cầm roi ngựa rung lên, roi quấn vào Mỹ-Linh. Lão giật roi một cái người nàng bay sang chiếc song mã, rơi xuống ghế êm ả, giống như đặt nàng ngồi vậy. Tiếp theo tới Thanh-Mai, Kim-An. Lão Xa dùng ưng trảo nhắc Khai-Quốc vương, Thiệu-Thái, Bảo-Dân bỏ sang xe lớn. Vô tình lão đặt Thiệu-Thái, Bảo-Dân cạnh nhau. Thiệu-Thái làm như người trúng độc, tay vô lực, chàng để lòng bàn tay lên đùi Bảo-Dân, rồi vận công chuyển sang người y .

    Bảo-Dân kinh lịch giang hồ nhiều, y bị trúng Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng đau đến toát mồ hôi lạnh. Song bản tính gan lỳ, y cắn răng vận công chịu đựng, chứ nhất định không rên la.

    Thình lình y thấy Thiệu-Thái để tay lên đùi, rồi chân khí cuồn cuộn tràn vào người y. Chân khí chạy đến đâu, cái đau biến mất đến đó. Trong khi ấy tiếng Thanh-Mai nói như rót vào tai y :

    - Sư huynh ơi! Thiệu-Thái giải độc cho sư huynh. Vậy sư huynh đừng chống lại. Sau khi hết đau đớn, sư huynh phải làm như mình vẫn còn bị độc tố hoành hành. Chúng ta cần im lặng, xem hai lão này định làm gì.

    Khoảng nhai dập miếng trầu, bao nhiêu cái đau đớn trên người Bảo-Dân biến mất. Y giả vận công chống dau.

    Lão Cố hỏi Khai-Quốc vương:

    - Vương gia! Vương gia thử đoán xem lão phu là ai? Tại sao lão phu lại vô phép như thế này?

    Khai-Quốc vương thản nhiên:

    - Hai vị với cô gia vốn cùng tộc Việt với nhau. Tại sao lại phải cúi đầu làm đương sai cho Lưu hậu.

    - Nhưng vương gia đã biết anh em lão phu là ai đâu?

    Khai-Quốc vương cười nhạt tỏ vẻ dung thứ. Thanh-Mai cười khúc khích:

    - Nhị vị giáo chủ thực không thông thế tục chút nào hết. Phu quân tôi vì đi sứ nên không thể dùng võ công. Chứ cái gọi là Nhật-hồ độc chưởng chúng tôi có coi ra gì?

    Nàng nhìn lão Cố:

    - Sử-Vạn vương gia, công lực đến như Nhật-Hồ, Lê Ba, Nhất-Trụ, mà chúng tôi còn trị được. Huống hồ vương gia chỉ là một Đông-phương sứ giả của y.

    Lão Cố kinh hãi đến rụng rời chân tay. Thanh-Mai nhìn lão Xa:

    - Khiếu tiên sinh. Đối với Đại-Việt, tiên sinh là Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo, nay sao tiên sinh lại tự xưng là giáo chủ Hồng-thiết của sắc dân Khờ-me. Tôi nói thế có đúng không?

    Đến lượt lão Xa kinh sợ. Chiếc roi ngựa trên tay lão suýt rơi xuống đất. Lão lắp bắp, giọng đã có đôi phần khách sáo:

    - Bằng cách nào vương phi nhận ra anh em lão phu.

    Thanh-Mai chỉ lão Cố nói với Mỹ-Linh:

    - Vị này tên thực là Sử-Vạn Na-vượng con thứ ba tiên vương Lão-qua. Vương gia nức tiếng võ công đệ nhất trong nước. Vì không được truyền ngồi vua, vương gia bỏ sang Đại-Việt, mưu ngoại viện. Vương gia gặp Nhật-Hồ lão nhân, được lão nhân truyền Hồng-thiết thần công, rồi phong cho làm một trong ngũ sứ Hồng-thiết giáo, giao nhiệm vụ phát triển giáo chúng vùng Lão-qua. Sau khi giáo chúng Lão-qua có cơ sở, Nhật-Hồ lão nhân thưởng công cho vương gia bằng cách truyền Hồng-thiết tâm pháp để có thể giải vĩnh viễn Nhật-hồ độc chưởng. Từ đấy vương gia tách ra, thành lập Hồng-thiết giáo Lão-qua, tự phong làm giáo chủ, không phụ thuộc Nhật-Hồ lão nhân nữa. Gần đây, vương gia được Lưu thái hậu phong cho làm Kiểm hiệu thái phó, Tĩnh hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Nam-phương tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ. Thực-phong ngũ thiên hộ. Nhưng vương gia chưa vừa lòng, muốn được kiêm cả vùng Đại-lý.

    Nàng chỉ Khiếu Tam-Bản:

    - Còn vị này tên Khiếu Tam-Bản, được phong Thái-tử thiếu bảo, Nam-hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Khai-phủ nghị đồng tam tư, Chân-lạp quận vương. Thực ấp vạn hộ, thực phong tam thiên hộ.

    Nàng nói tiếp:

    - Quốc vương triều Sà-phạt có ba con trai. Con đầu lòng tên Phủ-mỹ Na-vạn, do một hoàng hậu gốc Việt sinh ra. Khi mới lọt lòng Phủ-Mỹ Na-Vạn đã được phong làm Thái-tử. Na-Vạn tính tình hiền hậu, rất được lòng dân chúng. Khi phụ vương băng hà, ông lên nối ngôi làm vua. Con thứ tên Phủ-Vạn-Nặc Phụ-Mã, con một thứ phi người Chân-lạp sinh ra. Phủ-Vạn-Nặc, văn võ kiêm toàn, luôn tìm ngoại viện với Xiêm-la, Đại-Việt, Đại-lý, Trung-nguyên để cướp ngôi anh. Y lại khéo chiêu hiền nạp sĩ, nên dưới tay y có nhiều nhân tài. Khi anh y sắp băng hà, gọi y lại trao phó việc mai sau, mong y phò tá con côi. Phủ-Vạn là Phật-tử rất thuận thành. Do vậy y giao du với Nguyên-Hạnh. Nguyên-Hạnh khích y cướp ngôi cháu. Nhưng y sợ oai triều Lý, không dám ra tay. Nguyên-Hạnh khuyên y nên theo Tống. Khi được sắc phong của Tống, triều Lý sẽ không dám đem quân trừng phạt khi y cướp ngôi vua. Y được Triệu Thành tấu với triều đình phong cho chức tước. Nhưng âm mưu của y bị Khu-mật viện Đại-Việt khám phá ra. Trong đại hội Lộc-hà, Thuận-Thiên hoàng đế đem tất cả thư tín, cùng vàng bạc y cống Tống tặng lại y. Y kinh hoảng, bỏ Tống trở về với Đại-Việt.

    Nàng cười giòn dã:

    - Hoàng tử thứ ba tên Sử-vạn Na-vượng, do một cung nữ sắc dân Thái sinh ra. Vốn có sức khỏe, y sớm trở thành thiên tài võ học. Y nghĩ rằng: Lão-qua tuy nằm trong tộc Việt, nhưng toàn sắc dân người Thái. Sinh mẫu y là người Thái, vì vậy y mới xứng đáng lên ngôi vua. Y sang Đại-Việt tìm hậu thuẫn với Lê triều, y kết hôn với một thiếu nữ Việt. Nhưng triều Lê từ chối. Y đang thất vọng, thì gặp Nhật-Hồ lão nhân. Lão nhận y làm sư đệ, truyền Hồng-thiết kinh cho y, rồi phong y làm Đông-phương sứ giả.

    Nàng chỉ Khiếu-tam-bản:

    - Khiếu Tam-Bản trước đây đã sang Tống du học, văn hay, chữ tốt. Một cơ duyên may đến với y. Y gặp Nhật-Hồ lão nhân. Y được lão kết huynh đệ, truyền Hồng-thiết công cho. Y trở về Chân-lạp truyền bá Hồng-thiết giáo. Hồng-thiết giáo của y đi đến đâu giết người đến đó. Khắp xứ Chân-lạp chỗ nào cũng trở thành điêu tàn, tưởng như tuyệt diệt.

    Nàng lắc đầu:

    - Còn Sử-vạn, sau khi liên kết với Tam-Bản. Y trở về Lão-qua truyền giáo. Thế lực của y cực lớn. Đến nỗi quốc vương phải phong cho y tước vương, cho giữ chức Thái-phó, coi toàn bộ binh lực. Nhật-Hồ lão nhân khen ngợi, truyền Hồng-thiết tâm pháp cho y, hầu y có thể giải vĩnh viễn Nhật-Hồ độc chưởng cho giáo chúng. Được Hồng-thiết tâm pháp rồi, y bèn tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt, lập ra Hồng-thiết giáo Lão-qua, do y làm giáo chủ.

    ... Trong khi đó Khiếu Tam-Bản cũng thành công ở Chân-lạp. Cũng được truyền Hồng-thiết tâm pháp. Tam-Bản thấy Sử-Vạn Na-Vượng tách khỏi Hồng-thiết giáo Đại-Việt lập Hồng-thiết giáo riêng. Y cũng bắt chước, tự xưng giáo chủ.

    ... Vì sắc dân Thái sống khắp Đại-lý, Lão-qua, Xiêm-la, nên Hồng-thiết giáo của Sử-Vạn Na-Vượng có tổ chức khắp ba nước. Nhân sau đại hội Lộc-hà, thấy anh hùng tộc Việt tôn Khai-Quốc vương làm minh chủ, trong việc thống nhất. Y xin Khiếu Tam-Bản giúp đỡ, tổ chức đại hội võ lâm Vạn-tượng, làm lễ giỗ công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa, mục đích nêu cao ngọn cờ thống nhất sắc dân Thái, để tôn y làm minh chủ. Nhưng trong đại hội, y bị võ phái Thiên-tượng của Đoàn Huy, võ phái Tha-nôm của Rát-ta-Na phá tan. Y bèn cùng Khiếu Tam-Bản lộn trở sang Tống tìm ngoại viện.

    ... Giữa lúc đó Lưu hậu bắt buộc phải phong chức tước cho Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc, sai trấn ở ngoài. Bà thiếu chân tay võ công cao ở trong để làm những truyện bí mật. Bà phong cho y với Khiếu Tam-Bản chức tước, rồi sai đi khống chế bá quan văn võ. Chỉ thời gian ngắn hai lão lập được biết bao công. Bà trao cho Sử-vạn Na-Vượng chức Trấn-quốc đại tướng quân, Tổng-lĩnh thị vệ. Còn Khiếu Tam-Bản được phong Hoài-hóa đại tướng quân, lĩnh chức Bắc-ban nội phẩm, phụ trách thị vệ Cấm-thành.

    ... Cách đây mấy ngày, tin tức từ Đàm-châu tâu về triều việc Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc bị một thế lực bí mật bắt mất mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Hai lão mất tích cùng sứ đoàn. Lưu hậu cho rằng việc này do Định-vương ra tay. Bà vội sai y lên đường tìm sứ đoàn, bằng mọi cách đem sứ đoàn về triều.

    Sử-vạn tưởng võ lâm Hoa-Việt không ai biết y. Nào ngờ bây giờ y với Khiếu Tam-Bản bị Thanh-Mai nói đúng lý lịch. Dù trời mùa Đông, mồ hôi y cũng vã ra.

    Thanh-Mai thấy y sợ, càng dọa già:

    - Nhị vị giáo chủ. Rất đỗi hùng mạnh như Hồng-thiết giáo Đại-Việt, như bang Nhật-hồ Trung-quốc. Võ công cao như Nhật-Hồ lão nhân, như tả hữu sứ Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc. Bang trưởng Đặng Đại-Bằng cùng hai vị Phương Hổ, Phương Báo... nay đã thoát ra khỏi ma chướng, ma nghiệp. Nhị vị ơi! Buông dao mổ heo, lập tức thành Bồ-tát. Nhị vị giết người đã nhiều rồi mà nay còn đi vào đường tà, e rằng đại họa lâm đầu, bấy giờ có hối cũng không kịp nữa.

    Sử-vạn Na-vượng quay lại nói một tràng tiếng lạ với Khiếu Tam-Bản. Khiếu Tam-Bản cũng đáp lại bằng tiếng lạ. Hai người nhìn nhau cười khúc khích.

    Thiệu-Thái nghe hai lão đối đáp, chàng nhận ra họ dùng tiếng Thái. Tại Bắc-biên có đến năm khê động Thái trắng, ba khê động Thái đen. Chàng được song thân cho học đủ thứ tiếng Thái, Mường, Mèo từ nhỏ, nên nay nghe hai lão nói lén với nhau, chàng hiểu liền.

    Sử-Vạn Na-vượng:

    - Con nhỏ này là vợ gã Lý Long-Bồ phải không?

    Khiếu Tam-Bản:

    - Đúng thế. Nay mai gã lên làm vua Đại-Việt đấy.

    - Bỏ mẹ chúng mình rồi. Từ xưa đến giờ Chân-lạp, Lão-qua đều phải thần phục Đại-Việt. Chúng mình mưu làm vua, mà gây hấn với gã này, e không đất mà chôn. Gã như lửa cháy ở gần, trong khi Lưu hậu như nước lại ở xa. Làm sao bây giờ?

    - Tôi nghĩ chúng ta nên đánh thuốc độc giết cả sứ đoàn, rồi đổ cho người của Định-vương Nguyên Nghiễm. Như vậy sau này ai lên làm vua Đại-Việt cũng được, còn hơn để gã Long-Bồ sống, chúng ta không thể yên với gã.

    - Tạm thời ta cứ lên đường về Biện-kinh đã, rồi sẽ liệu.

    Thiệu-Thái dùng Lăng-không truyền ngữ thuật những gì hai lão nói với nhau cho Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai nghe.

    Xe đã vào trong thành. Lại gặp chỗ dân chúng tụ tập xem bảng văn tầm nã của Kinh-lược sứ làm xe bị nghẽn lối không đi được. Chợt Thanh-Mai thấy bảng văn như có gì khác với những bảng văn xem hồi trưa. Nàng đọc lên cho mọi người nghe:

    Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu,

    cùng Tư-mã Tương-dương cáo tri cho dân chúng biết.

    Hiện có hai tên đại đạo khét tiếng đang lẩn trốn trong vùng. Một đứa có tên Sử-vạn Na-vượng người xứ Lão-qua. Một đứa có tên Khiếu Tam-Bản người xứ Chân-lạp. Ai bắt hoặc giết được một tên, bản chức sẽ thưởng cho trăm lượng vàng.

    Trên hai tấm vải lớn. Mỗi tấm vẽ hình một người theo hai thế. Một thế nhìn thẳng, một thế nhìn nghiêng. Tấm bên phải vẽ hình Sử-Vạn Na-vượng. Tấm bên trái vẽ hình Khiếu Tam-Bản. Nét vẽ sống động, trông giống như hai lão như bên ngoài.

    Cả sứ đoàn đều kinh ngạc đưa mắt nhìn nhau. Hai lão Khiếu, Sử tung mình khỏi xe đến sát dưới tấm bảng, đọc lại bảng văn.

    Một người dân ra vẻ hiểu biết nói:

    - Hai tên đại đạo này không vừa. Đêm qua chúng dám lọt vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của vua Xiêm cống Thiên-tử.

    Một người hỏi:

    - Sao cống bảo lại ở trong dinh Kinh-lược sứ?

    - Có gì đâu mà lạ. Sứ thần Xiêm-la là Thái tử An-nan Tam-gia-la-sun cư trú tại dinh Kinh-lược sứ. Không ngờ trong đêm hai tên đại đạo này lẻn vào ăn cắp cống bảo.

    Hai lão Sử-Vạn, Khiếu chưa đọc hết, dân chúng đã nhận ra mặt chúng giống hình cáo tri. Một người kêu:

    - Hai tên đại đạo đây rồi.

    Họ xúm vào bao vây hai lão. Một vài người có vũ khí, họ rút ra cầm tay. Hai lão kinh hãi, vội nhảy lên xe miệng hô:

    - Chạy mau.

    Gã đánh xe ra roi. Xe hướng cửa Bắc phóng đi như bay. Nhưng tới cửa Bắc, lại gặp đám dân chúng đang đứng xem bảng văn truy tầm hai lão. Gã đánh xe quát tháo, cho ngựa lao vào đám đông. Đám đông vội nhảy nhót tránh né. Cứ thế xe ra khỏi thành, gặp đến chín chỗ yết bảng tầm nã.

    Sử-vạn Na-vượng hỏi Tam-Bản:

    - Sư đệ! Rõ ràng chúng ta nhận chỉ dụ của Thái- hậu đi đón sứ đoàn, mà sao kinh lược sứ Kinh-châu lại cáo thị tầm nã rằng chúng ta là phường trộm cướp. Chúng ta phải vào thành hỏi cho ra lẽ.

    - Nhưng Thái-hậu muốn chúng ta âm thầm làm việc, cấm xuất hiện. Thôi, chúng ta mau về Biện-kinh, rồi sẽ tính sau.

    Sử-Vạn ra lệnh:

    - Lên đường.

    Xe đi đến khi trời tối thì tới một trấn nhỏ. Lão Khiếu hỏi gã đánh xe: Bủa Khảm. Trấn này tên gì vậy?

    - Trình giáo chủ đó là huyện Tân-dã.

    Nghe nói đến Tân-dã, Mỹ-Linh đưa mắt nhìn Thanh-Mai. Cả hai cùng gật đầu, vì địa danh Tân-dã rất nổi tiếng trong chiến tranh thời Tam-quốc.

    Bủa Khảm tiếp:

    - Trước đây Tân-dã là một thành nhỏ. Sau dân chúng đông quá, cư trú khắp xung quanh rộng ra tới mấy dậm. Từ khi Tống triều lập lên, huyện thành di chuyển đi xa hơn chỗ cũ.

    - Người tìm cho ta một khách điếm.

    - Tuân chỉ giáo chủ.

    Bủa Khảm đánh xe vào trấn. Y gò cương cho ngựa dừng lại trước khách điếm Nghinh-phong. Một thiếu niên chạy ra đon đả chào, tay y đón dây cương. Quản lý cúi rạp người xuống chào, gọi phu khuân hành lý xuống.

    Một chiếc xe song mã từ phía sau phóng tới như bay. Bị xe Bủa Khảm cản đường, hai con ngựa dựng đứng bốn vó lên, hí inh ỏi. Gã đánh xe chửi:

    - Con bà tụi bay! Hết đất rồi hay sao mà tụi bay dừng ở giữa đường cản trở ông nội bay.

    Y vung tay, cái roi ngựa đập vào đầu lão Khiếu. Lão Khiếu vòng ngón tay chỏ cuốn lấy chiếc roi ngựa rồi kéo mạnh. Gã đánh xe buông roi ra, miệng chửi:

    - Tổ bà quân trộm cướp.

    Lão Khiếu tung roi trả y. Gã đánh xe bắt lấy roi, miệng hô:

    - Vắt!

    Hai con ngựa sải bước, kéo xe đi. Gã đánh xe vung roi. Chiếc roi cuốn lấy gói hành lý của lão Sử-Vạn. Vù một tiếng, gói hành lý bay sang xe song mã. Chiếc xe vọt lên thực mau. Gã đánh xe quay lại méo miệng trêu lão Sử-vạn.



    Last edited by giavui; 05-22-2020 at 03:15 PM.
    Hãy luôn đặt mình vào vị trí người khác . Nếu điều đó tổn thương bạn thì nó cũng sẽ làm buồn người khác



  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Lão Sử-vạn hô:

    - Quân ăn cướp. Mau đuổi theo.

    Bủa Khảm ra roi, chiếc xe tứ mã vọt lên như tên bắn. Nhưng chiếc xe song mã còn chạy mau hơn. Đuổi được một lát, chiếc xe song mã đã mất hút vào quãng đường xa xôi mờ mịt bóng chiều.

    Giữa lúc đó từ phía xa, một con ngựa đang phi nước đại ngược chiều. Ngựa không có người cỡi.

    Nhìn con ngựa phi, không người cỡi, cả Thanh-Mai lẫn Mỹ-Linh lại nhớ hồi mấy năm trước hai người bị bọn Triệu Anh bắt đem từ Thanh-hóa đến Vạn-thảo sơn trang, Lê Văn đã ẩn dưới bụng ngựa, rồi phi như bay. Ai cũng tưởng ngựa hoang. Triệu Huy sai Quách Quỳ bắt ngựa, bị Lê Văn đánh một cái bạt tai. Nay thấy việc cũ diễn lại, hai người nhìn nhau, mỉm cười. Vì biết việc này do Lê Văn bầy ra trêu hai lão già.

    Khiếu Tam-Bản đứng lên càng xe quan sát. Y nói lớn:

    - Ngựa hoang không người cỡi, không yên cương. Ta bắt lấy.

    Y ra lệnh cho xe chạy chậm lại, rồi bước xuống đường đứng chờ. Khi con ngựa phi tới, y tung mình nhảy lên đáp xuống lưng ngựa. Con ngựa hí inh ỏi, cất cao vó trước. Thành ra Khiếu đáp hụt. Y rơi xuống đất.

    Con ngựa hạ vó, đứng ngoan ngoãn giữa đường. Khiếu nhún chân định nhảy lên lần nữa, thì trên lưng đã có một thiếu niên ngồi kiết già từ bao giờ. Tay y cầm ông tiêu đang tấu một bản nhạc rất nhu hòa. Khiếu không hiểu bằng cách nào thiếu niên đã bắt được ngựa.

    Mỹ-Linh chú ý thấy thiếu niên đó trông không giống Lê Văn chút nào. Còn Khiếu không biết từ đâu thiếu niên đó đã xuất hiện.

    Nhưng Sử-Vạn Na-vượng lại nhìn rất rõ: Thiếu niên nấp đưới bụng ngựa, điều khiển cho nó chạy. Khi thấy Khiếu nhảy lên định bắt, thếu niên thúc chân vào bụng ngựa, khiến nó nhảy dựng vó trước, rồi y lộn lên lưng ngựa.

    Thiếu niên chỉ mặt Khiếu Tam Bản:

    - Giữa ban ngày ban mặt mà lão định ăn cắp ngựa ư?

    Nghe tiếng thiếu niên, Mỹ-Linh nhận ra y chính là Lê Văn.

    Khiếu Tam Bản quát:

    - Tên ôn con kia, mi không được hỗn. Ta đường đường là khâm sai đi đón sứ đoàn. Ai thèm ăn cắp ngựa của mi.

    - Khâm sai! Thế có gì làm bằng chứng không?

    Khiếu Tam Bản định móc túi lấy thẻ bài ra, thì Sử-Vạn Na-vượng nói:

    - Mi là tên ôn con, không có tư cách gì hỏi thẻ bài bọn ta.

    - Dĩ nhiên tôi không có quyền hỏi hai lão. Chỉ nguyên việc ăn cắp ngựa cũng đủ biết hai lão không thể là khâm sai.

    Khiếu Tam Bản nổi đóa, y dơ tay định tát Lê Văn, nó hô lớn:

    - Noong chả.

    Có tiếng đáp lại

    - Khả.

    Mỹ-Linh dùng Lăng-không truyền ngữ hỏi sẽ Thiệu-Thái:

    - Lê Văn nói tiếng gì vậy?

    - Tiếng Thái. Noong chả là em ơi. Khả là ơi .

    Chờ một lát, Lê Văn hô:

    - Lêu ( Mau lên).

    Từ trong vườn bên đường một thiếu nữ mặc quần áo mầu tím chạy ra. Lê-Văn chỉ vào lão Khiếu:

    - Em coi, cái tên này định ăm cắp ngựa, rồi còn xưng là khâm sai nghĩ có chướng không?

    Nó tự chỉ tay vào thái dương, rồi nói trống không:

    - Pạt sạt. (Đồ khùng)

    Bỗng thiếu nữ áo tím kêu lên:

    - Ối! Hai lão này là đạo tặc, có bảng văn của quan nha niêm yết. Ai bắt hoặc giết một lão sẽ được thưởng vàng trăm lượng. Chính hai lão cướp của, đoạt xe của em tháng trước.

    Thiếu nữ áo tím nói tiếng Hoa bằng giọng rất ngọt ngào nũng nịu. Lê Văn chỉ lên xe:

    - Hai lão đạo tặc kia, bọn lão chở những ai trên xe thế?

    Lão Khiếu định lý luận, lão Sử-Vạn vẫy tay:

    - Chúng ta đi thôi, chẳng nên lý luận với bọn con nít này làm chi.

    Có tiếng lộp bộp vó ngựa. Từ phía sau một đoàn thiết kị khoảng hơn trăm người được chỉ huy bởi một viên tướng đi tới. Đoàn thiết kị chia làm hai. Toán đi trước gồm năm người dẹp đường. Toán sau gần trăm người. Giữa hai toán có hai kị mã gồm một nam một nữ. Nam mặc bộ quần áo mầu vàng coi rất lạ. Nữ mặc áo xanh. Quãng đường này hơi hẹp, lại vướng chiếc xe tứ mã, cùng con ngựa của Lê Văn cho nên toán kị mã ùn lại. Mấy thiết kị đi đầu hô lớn:

    - Tránh đường.

    Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa dựng hai vó trước lên, nó đứng bằng hai chân sau, đầu gật bốn cái như làm lễ.

    Cả toán thiết kị cùng đôi nam nữ đều kinh ngạc. Nữ nói:

    - Anh trông kìa! Tại sao có người giỏi thuật kị mã đến thế kia?

    Cặp nam nữ thấy thiếu nữ áo tím, cùng bật lên hỏi một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch lại cho cậu nghe:

    - Em đấy ư? Em có sao không?

    - Không!

    Nàng chỉ vào Lê Văn:

    - Anh kia đã cứu em thoát.

    Chiếc xe tứ mã vẫn đậu giữa đường.

    Viên kị binh mắng:

    - Hai lão già chết bằm kia! Mi có tránh đường ra không?

    Nói dứt lời y vung roi quất vào mặt Sử-Vạn. Sử-Vạn bắt lấy roi, giật mạnh, rồi bẻ vụn ra ném xuống đất. Y giật mạnh quá, khiến viên kị binh suýt ngã ngựa. Viên kị binh nổi giận rút đao ra bổ một nhát vào đầu Sử-Vạn. Sử-Vạn kẹp hai ngón tay vào sống đao. Viên kị binh cố sức giật đao ra, mà đao cứng như đinh đóng cột. Sử-Vạn rung tay một cái, mấy tiếng lách cách vang lên. Đao gẫy làm năm sáu mảnh. Thuận tay y phẩy sẽ hai cái. Những mảnh vụn hướng thiếu nữ áo tím. Kình lực kêu lên vo vo.

    Mọi người la hoảng.

    Lê Văn thúc chân vào bụng ngựa. Con ngựa chồm lên nhảy vào người Sử-vạn. Trong khi nó phóng đến ôm lấy thiếu nữ lăn xuống đất, tay đẩy lên một chưởng. Những mảnh đao bị chưởng lực của nó đẩy bay ngược trở về người Sử-vạn. Sử-vạn vừa tránh thế chụp của con ngựa, thì bị những mảnh đao bay đến. Y kinh hãi vọt người lên cao, vừa kịp những mảnh đao bay qua chân y.

    Y chỉ mặt Lê Văn:

    - Mi vô lễ với ta như vậy, thì đừng trách ta ác độc.

    Y vung tay lên định phát chưởng. Thiếu nữ áo xanh quát lên:

    - Khoan.

    Nàng hỏi Lê Văn:

    - Công tử! bọn này là ai vậy?

    Lê Văn chỉ hai lão Khiếu, Sử:

    - Hai vị thứ lỗi. Tôi đang đi thì bị hai tên đạo tặc này định cướp ngựa, vì vậy làm cản trở đường các vị.

    Lão Khiếu nổi giận:

    - Chúng ta đường đường là khâm sai của triều đình, mi cứ mồm năm miệng mười là đạo tặc. Mi liệu giữ mồm bằng không ta chặt đầu mi liền.

    Thiếu nữ cất giọng nói một tràng tiếng Thái với hai kị mã. Nam kị mã hất hàm hỏi hai lão Khiếu, Sử-Vạn:

    - Hai người phải chăng một tên là Sử-vạn Na-vượng. Một tên là Khiếu Tam Bản, khét tiếng đạo tặc vùng Kinh-Tương. Kinh lược sứ Kinh-châu đang niêm yết khắp nơi tìm bắt hai người?

    Thiếu nữ chỉ vào xe:

    - Chúng bắt những người này khảo của thì phải.

    Viên tướng chỉ huy đội thiết kị vẫy tay một cái. Hai lão Sử-vạn, Khiếu bị bao vây vào giữa.

    Lão Khiếu quát lên:

    - Các người không được vô phép. Chúng ta là khâm sai triều đình sai đi đón sứ đoàn Đại-Việt. Các người nghe lời tên ôn con kia vô phép với ta sẽ bị chém đầu.

    Viên tướng nghiêng mình chắp tay:

    - Tiểu tướng Diêu Vạn, lĩnh chức Chiêu-thảo-sứ, chỉ huy đoàn thiết kị Kinh-châu. Tiểu tướng được lệnh hộ tống Thái-tử Xiêm-quốc cùng sứ đoàn lai kinh tiến cống. Nếu hai vị là khâm sai, xin cho biết danh tánh, chức tước cùng chiếu chỉ, lệnh bài. Nói rồi y trình lệnh bài ra. Sử-Vạn luống cuống ra mặt. Bởi lệnh bài, cũng như chiếu chỉ của Lưu hậu đều để trong bọc. Mà bọc bị tên phu xe ban nãy cướp đi mất rồi. Y trả lời:

    - Chúng ta không có lệnh bài.

    Đám thiết kị cùng bật cười. Một kị binh nói:

    - Trình tướng quân, lệnh quan Kinh-lược sứ truy nã hai tên đạo tặc

    Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Lệnh truy tầm có vẽ hình giống hệt hai lão này.

    Diêu Vạn nói lớn:

    - Khâm sai không có lệnh bài, chiếu chỉ, đó là một điều đáng nghi. Hai vị giống hệt hình hai tên đạo tặc, là hai điều đáng nghi ngờ. Thiếu niên kia tố giác hai vị bắt trộm ngựa là ba điều đáng nghi ngờ.

    Y hỏi sứ đoàn:

    - Thưa các vị. Các vị có biết hai lão này là ai không? Tại sao các vị lại đi cùng với hai lão.

    Khấu Kim-An vốn thạo về quan trường cũng như uẩn khúc triều Tống. Nàng tìm cách gây nghi ngờ trong tâm Diêu Vạn:

    - Thưa tướng quân, tiện thiếp xin trình để tướng quân rõ.

    Nàng chỉ vào sứ đoàn:

    - Vị này là trừ quân Đại-Việt, tước phong Khai-Quốc vương.

    Diêu Vạn chắp tay:

    - Tiểu tướng ở Tương-dương từng nghe danh vương gia như sét nổ ngang tai. Dường như võ lâm tộc Việt đồn rằng: Những ai chưa gặp Khai-Quốc vương đừng vội xưng anh hùng. Mới đây võ lâm Trung-nguyên không ngớt ca tụng vương gia dùng đức cảm hoá Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ Trung-quốc trở lại chính đạo. Không ngờ tiểu tướng được hội kiến vương gia tại đây.

    Khai-Quốc vương đáp lễ:

    - Diêu tướng quân chẳng nên đa lễ. Cô gia từng nghe người đời ca tụng Diêu tướng quân vốn xuất thân đệ tử Bắc-sơn lão nhân phái Hoa-sơn. Võ đạo cực cao. Hôm trước đây tôn sư cùng các vị cao thủ quý phái có viếng thăm Bắc-biên bên Đại-Việt. Võ lâm Đại-Việt nức nở khen võ công, võ đạo phái Hoa-sơn cao bậc nhất Trung-nguyên.

    Tuổi Diêu Vạn còn trẻ, lại mới ra làm quan. Nhưng nhờ thế lực Đông-Sơn lão nhân, Dư Tĩnh, nên y mau chóng được thăng chiêu thảo sứ. Với thân phận nhỏ bé của y, lại ở quá xa Đại-Việt. Y tuyệt không ngờ Khai-Quốc vương cũng biết y. Nghe Quốc-vương khen mình, y hớn hở ra mặt.

    Viên sứ Xiêm xuống ngựa thi lễ với Khai-Quốc vương:

    - Tiểu đệ An-nan Tam-gia La-sun thái tử Xiêm, xin tham kiến vương huynh. Hôm trước sư phụ của tiểu đệ dự lễ giỗ Bắc-bình vương trở về không ngớt ca tụng công đức vương huynh. Cách nay hơn tháng, tiểu đệ qua Thăng-long triều kiến bá phụ, có tìm kiếm vương huynh mà không gặp. Hôm nay được diện kiến vương huynh ở đây, thực vạn hạnh.

    Nói rồi y chỉ thiếu nữ áo xanh:

    - Vợ của tiểu đệ.

    Y lại chỉ thiếu nữ áo tím:

    - Em gái của tiểu đệ, tên Nong-Nụt.

    Khai-Quốc vương xuống xe đáp lễ:

    - Thì ra Thái-tử là đệ tử của lão sư Rát-Ta-Na đấy. Chúng ta cùng là con Rồng cháu Tiên cả. Nay gặp nhau trên đất nước người, thực không gì quý hơn.

    An-nan vẫy tay gọi thiếu nữ áo tím:

    - Nong Nụt, mau ra mắt vương huynh đi.

    Nong Nụt chạy lại. Hai tay nàng chắp để lên trán, rồi cúi đầu ba lần trước Khai-Quốc vương, nàng nói bằng tiếng Việt:

    - Chào anh vương.

    Dường như nàng chỉ biết có mấy tiếng đó. Tiếp theo nàng xổ ra một tràng tiếng Thái. Thiệu-Thái dịch:

    - Tiểu muội công chúa Nong Nụt xin tham kiến vương huynh và tỷ tỷ.

    Kim-An giới thiệu Thanh-Mai, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái. Cuối cùng nàng chỉ vào hai lão Sử-vạn, Khiếu:

    - Vợ chồng chúng tôi làm nghề chở mướn trên sông Trường-giang, được vương gia mượn chở sứ đoàn. Khi sứ đoàn tới Tương-dương thì hai vị này xuất hiện dùng thuốc Di-hồn nhuyễn cân ngũ-hoa độc tấn công, rồi bắt bỏ lên xe mang đi.

    Nàng ngừng lại, chỉ vào lão Khiếu:

    - Vị tiên sinh đây có đại danh Khiếu Tam Bản, lĩnh chức Nam-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Hiện là giáo chủ Hồng-thiết giáo Chân-lạp.

    Diêu Vạn hất hàm hỏi lão Khiếu:

    - Có đúng thế không?

    Mặt lão Khiếu cau có:

    - Đúng thì đã sao?

    Kim-An chỉ vào Sử-vạn Na-vượng:

    - Vị này đại danh Sử-vạn Na-vượng, lĩnh chức Đông-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt, đương kim giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua.

    Diêu Vạn hỏi:

    - Tiểu tướng nghe Khai-Quốc vương phi, công chúa Bình-Dương, thế tử Thiệu-Thái võ công kinh nhân. Tại sao lại để cho hai tên đạo tặc này bắt như thế này?

    Mỹ-Linh lên tiếng:

    - Diêu chiêu thảo sứ hiểu cho. Chúng tôi đi sứ Đại-Tống. Uy danh Đại-Tống lớn biết chừng nào? Đại-Tống đã cử thiết kị hộ tống, đời nào chúng tôi dám xử dụng võ công trên đất Trung-nguyên. Nếu chúng tôi xử dụng võ công, như vậy còn đâu lễ nghi nữa? Tuy nhiên, nếu như Tống thiên tử cùng bách quan cần đến sức mọn, chúng tôi sẽ ra tay. Như trường hợp bang Nhật-hồ phạm giá Định-vương. Khi Định-vương truyền chỉ bắt giặc thì chúng tôi ra tay kiềm chế chúng liền.

    Sử-vạn Na-vượng quát lên:

    - Ta đường đường thụ phong tước tới quận vương. Văn tới thái bảo. Võ tới Tiết-độ sứ. Ta đang trên đường thi hành chỉ dụ của thái hậu. Không hiểu sao tên Kinh-lược sứ Kinh-châu lại yết bảng rằng chúng ta làm đạo tặc? Rồi đến cái tên Chiêu-thảo sứ kia hạch hỏi ta. Lại đây, lại đây! Mi có giỏi thì bắt ta đi!

    Diêu Vạn hô thiết kị xông vào. Lão Khiêu, vung tay một cái, hai kị binh bay bổng lên cao, rơi xuống đất. Trong khi đó lão Sử-vạn nghĩ thầm:

    - Ta bị mất thẻ bài, chỉ dụ của triều đình, ta không thể chứng minh thân phận. Bây giờ ta có chống cự với bọn kị binh này, chẳng khác lấy chén kiểu đụng chén đá. Ta có thắng cũng không làm hay hơn. Nhược bằng ta bại có khi bị giết.

    Lão liếc nhìn sứ giả Xiêm-quốc:

    - Bọn này hộ tống sứ Xiêm. Vậy ta ra tay kiềm chế tên sứ này, bắt chúng phải lui binh, mới mong giải quyết được cục bộ ở đây.

    Nghĩ vậy lão tung mình lên cao. Chỉ nhấp nhô mấy cái lão đã tới trước An-nan. Tay lão ra chiêu cầm-long trảo chụp y. An-nan né đầu tránh khỏi rồi phát một chưởng đánh thẳng vào người lão. Chưởng của y cực kỳ trầm trọng.

    Lê Văn la lớn lên tỏ vẻ vui mừng, vì An-nan xử dụng Thiên-vương chưởng của phái Sài-sơn. Lão Sử-Vạn biến trảo thành chưởng. Hai chưởng gặp nhau bùng một tiếng lớn. Lão Sử-Vạn bay bổng lên cao. Từ trên cao, lão đánh xuống một chưởng rất quái dị. Lê Văn la lên:

    - Nhật-hồ độc chưởng.

    An-nan thấy thế chưởng hung dữ, chàng lăn từ mình ngựa xuống đất, rồi nhảy lùi liền hai bước. Chưởng trúng con ngựa chàng đang cỡi. Binh một tiếng, con ngựa khốn nạn ngã lăn ra. Nó dẫy đành đạch, hí lên những tiếng thê thảm, rồi máu miệng tuôn ra ồng ộc.

    An-nan chỉ vào mặt lão Sử-vạn Na-vượng:

    - Lão là ai? Ta với lão không thù không oán, hà cớ gì lão ra tay ám toán ta?

    Sử-vạn không nói không rằng, lão nhảy vèo đến chụp thiếu nữ áo xanh rồi tung mình khỏi đám thiết kị. Dường như nàng không biết võ công, nên y chụp dễ dàng. Y để tay lên đầu nàng hô lớn:

    - Ngừng tay!

    Mọi người đều lui lại. Lão Sử-vạn để tay lên đầu thiếu nữ áo xanh cười nhạt:

    - Thái tử An-nan Tam-gia La-sun. Thiếu nữ xinh đẹp này phải chăng là vương phi? Mỗ muốn thương lượng với Thái-tử, hơn là hai bên đánh nhau.

    An-nan cau mặt hỏi:

    - Lão muốn gì?

    - Giữa Chiêu-thảo sứ Diêu Vạn với mỗ vốn không thù không oán. Diêu nhận lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Mỗ nhận chỉ dụ hộ tống sứ đoàn Việt. Không ngờ Diêu can thiệp vào việc của mỗ, nên mỗ phải can thiệp vào việc của y.

    Y ngừng lại, nhìn Khai-Quốc vương:

    - Bây giờ xin Thái-tử ra lệnh cho Diêu cứ lo việc của hắn. Hai bên ngừng chiến. Chúng ta cùng đi Biện-kinh, có phải tốt đẹp không? Bằng y cãi lệnh Thái-tử, mỗ nhả chưởng lực, vương phi sẽ nát đời hoa. Thái-tử phải ôm mối hận cả đời, mà Diêu không làm tròn sứ mệnh quân vương, ắt bị toàn gia tru lục. Không biết Thái-tử nghĩ sao?

    An-nan hỏi Diêu Vạn:

    - Lão Sử-vạn Na-vượng nói vậy, Diêu tướng quân nghĩ sao?

    Diêu Vạn chưa kịp trả lời, thì tiếng vó ngựa lộp cộp. Có con ngựa phi tới, một người đứng co chân trên lưng ngựa. Còn một chân chĩa về trước. Cổ chân y móc cái túi. Đúng là cái túi hành lý của Sử-vạn Na-vượng. Con ngựa tới gần đám đánh nhau thì ngừng chân, cất cao vó, quay đầu trở lại. Gã kị mã để tay lên mũi trêu Sử-vạn Na-vượng.

    Tất cả những bực bội từ nãy đến giờ của Sử, Khiếu đều do bị mất hành lý, không còn thẻ bài, chỉ dụ chứng minh thân phận. Bây giờ thấy kẻ trộm trước mắt, lão Sử-vạn điên tiết lên:

    - Tên ăn cắp kia, mau trả hành lý cho ta.

    Gã ăn trộm cười, để tay lên tai làm bộ điếc:

    - Lão nói sao? Lão muốn ăn cắp hành lý của sứ đoàn Xiêm ư?

    Gã nói lớn:

    - Hôm qua có hai tên vào nhà ta ăn trộm. Ta đánh đuổi chúng đi, chúng sợ đến té đái vãi phân ra, vì vậy chúng ném hành lý lại rồi chạy. Ta thấy hai tên này khuôn mặt hao hao hai lão.

    Y hướng vào Diêu Vạn, tay chỉ Sử, Khiếu:

    - Đại tướng quân! Quan Kinh-lược sứ Kinh-châu đã có lệnh truy tầm hai tên đại đạo này. Kính xin đại tướng quân bắt chúng mà lĩnh thưởng.

    Khi rời Tương-dương, chính Diêu Vạn đã đọc lệnh truy tầm hai tên đạo tặc của Kinh-lược sứ. Hình hai tên giống hệt lão Sử-Vạn, Khiếu. Nghe gã kị mã nói, y phân vân, vì bỏ qua rất uổng, số vàng thưởng tới hai trăm lượng chứ đâu có ít?

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ HAI
    Kín cổng cao tường

    Lão Khiếu quát lên:

    - Chính mi mới là tên trộm. Hồi nãy mi cướp túi hành lý của ta rồi bỏ chạy. Bây giờ mi vu vạ cho ta, làm ta khổ sở thế này.

    Kị mã ăn trộm cười lớn:

    - Thực là cái đĩ già mồm, cái trộm già miệng. Hai ông võ công cao thế, mà bảo tôi cướp hành lý của hai ông thực quả là vô lý. Nhưng tôi hỏi thực: Cái túi này đích là của hai ông, có phải không?

    - Đúng.

    - Thôi được, coi như hai ông không ăn trộm đi. Nhưng này hai ông ơi! Hôm qua có kẻ trộm vào nhà tôi, tôi giật mình thức giấc tri hô lên, chúng bỏ chạy, trong lúc hoảng hốt chúng đánh rơi cái túi này. Tôi biết là đồ gian không dám mở ra định đi trình quan. Bây giờ gặp quan đây, tôi xin trao cho người.

    Nói rồi y định trao cái túi cho Diêu Vạn.

    Diêu Vạn hỏi:

    - Chú em tên gì?

    - Thưa đại tướng quân, tôi tên Đặng Tông.

    Diêu Vạn hất hàm cho Sử-Vạn Na-vượng:

    - Đây là túi của hai người. Hai người cầm lấy đi.

    Hai tay Đặng Tông trịnh trọng đưa cái túi ra trước mặt. Sử-vạn Na-vượng đưa tay trái tiếp túi. Bỗng đầu ngón tay gã kị mã phóng ra hai chỉ véo, véo trúng huyệt Khúc-trì lão Sử. Tay lão trở thành vô lực, làm thiếu nữ áo xanh rơi xuống. Gã kị mã lạng mình chụp nàng nhảy đến bên An-Nan. Y trao nàng cho An-Nan:

    - Xin Thái-tử bảo vệ vương phi.

    An-Nan nói mấy câu cảm tạ.

    Tay lão Sử-Vạn chỉ bị tê dại mà thôi. Lão cho rằng lấy lại được túi rồi, tự nhiên thân phận lão được chứng minh, lão không cần bắt thiếu nữ áo xanh nữa. Lão nói với Diêu Vạn:

    - Diêu Chiêu-thảo sứ. Ta sẽ cho Chiêu-thảo sứ thấy ấn tín của ta, cùng lệnh bài của Thái-hậu.

    Y mở túi ra, liếc nhìn đồ đạc vẫn y nguyên, không hề bị xáo trộn. Yên tâm y lấy ra chiếc ống bằng ngà trao cho Diêu Vạn:

    - Đây là sắc chỉ của triều đình phong chức tước cho ta. Tướng quân hãy mở ra mà xem.

    Diêu Vạn tiếp ống ngà mở nắp ra. Bên trong quả có cuốn trục lụa. Y mở cuốn trục cho mọi người coi. Bất giác mọi người bật lên tiếng ồ. Vì trên trục lụa vẽ hình hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu-tam-Bản. Nét vẽ sống động như người thực. Cạnh đó viết bản văn của Kinh-lược sứ Kinh-châu truy tầm hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản.

    Diêu Vạn cười nhạt:

    - Đây là sắc phong ư ?

    Khiếu Tam Bản kinh ngạc, lão tức đến điên người lên được. Lão lạng mình đến giật trục lụa trên tay Diêu, rồi đọc bản văn. Bản văn giống hệt bản văn trong thành Tương-dương.

    Khiếu Tam Bản mở tung túi ra. Trong trúi nào quần áo, nào vàng bạc lủng củng. Một chiếc hộp bằng ngà rơi xuống đất đến bộp một cái. An-Nan trông thấy hộp, mắt y sáng lên. Y quát:

    - Mi còn chối không? Kia là chiếc hộp trong đựng cống bảo của bản quốc cống Thiên-tử. Mi ăn cắp hôm trước. Mi còn chối nữa không?

    Chàng lạng người cầm chiếc hộp lên, rồi mở ra. Trong hộp có một tượng Phật Thích-ca mâu-ni bằng ngọc xanh biếc. Chàng trao cho vợ, rồi xòe tay hướng Khiếu:

    - Đưa đây!

    - Đưa cái gì?

    - Ta đi sứ, có mang theo ba bảo vật. Một là tượng mười tám vị La-Hán bằng ngà. Hai là tượng Phật bằng ngọc, ba là chuỗi ngọc trai trăm viên. Mi lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp cả ba. Nay tượng Phật đây rồi. Còn hai bảo vật kia đâu? Mi có mau đem trả không ?

    Lão Khiếu đưa mắt nhìn tên kị mã ăn trộm:

    - Mi là ai mà dám hí lộng quỷ thần? Chính mi vào dinh Kinh-lược sứ ăn trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Rồi cũng chính mi đón đường ăn cướp bọc hành lý của chúng ta, sau đó bỏ bảo vật vào để vu oan giá họa cho ta.

    Gã kị mã cười ha hả hỏi Diêu Vạn:

    - Kính trình quan lớn xét cho. Khắp thành Tương-dương đều nói rằng hai tên trộm lẻn vào dinh Kinh-lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Chúng giao chiến với quan Tư-mã, cùng Chiêu-thảo sứ. Hai vị ấy nhận diện được chúng, rồi về họa hình. Hình là hình hai lão này, đâu phải hình tôi?

    Diêu Vạn hỏi đám kị mã:

    - Các người ta giao chiến với hai tên trộm. Phải chăng trong đó có hai tên này?

    Một kị mã chỉ Sử-vạn:

    - Tiểu nhân nhận diện được y. Võ công y rất cao.

    Công chúa Nong-Nụt chỉ tay vào mặt với Sử-vạn Na-vượng, nói với anh:

    - Chính lão này. Hôm ấy tại Liễu-châu, y cùng bộ hạ bắt em, giết tùy tùng, rồi đem em giam hãm tra khảo thương tích khắp người.

    Diêu Vạn vẫy tay cho mọi người im lặng, rồi nói:

    - Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Có bằng này chứng cớ rành rành ra, người nên chịu trói cho rồi.

    Y chỉ vào Lê Văn:

    - Tiểu huynh đệ đây tố đích danh người toan cướp ngựa giữa đường. Đó là một chứng cớ. Công chúa Nong-Nụt cùng tuỳ tòng du ngoạn tại Liễu-châu, bị người bắt đi, cùng cướp của. Đó là hai chứng cớ. Hai tên cướp võ công cực cao lẻn vào dinh Kinh- lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn. Trong khi giao chiến, bọn chúng đánh nhau với vệ sĩ, vô tình để rơi hai tấm thẻ bài mang tên Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Đó là ba chứng cớ. Bây giờ bọn mi bị kị mã kia tố bọn mi vào nhà y ăn trộm, bị bại lộ, đành để cái túi lại. Anh ta mang đi trình quan. Chính mi nhận túi đó của bọn mi, trong có bảo vật cống. Đó là bốn chứng cớ. Từ lâu, bản triều truy lùng dư đảng Hồng-thiết giáo cùng bang chúng bang Nhật-hồ. Mà nay hai mi lại là giáo chủ Hồng-thiết giáo Lão-qua, Chân-lạp, là năm chứng cớ ta phải bắt hai mi.

    Sử-vạn Na-vượng biết rằng Đặng Tông là thủ phạm hại y. Y cần kiềm chế gã, ắt mọi việc ra ánh sáng. Y lạng mình chụp Đặng. Nhưng nhanh hơn, Đặng đánh một chưởng vào ngực Sử. Chưởng phong hùng hậu vô cùng. Sử tuyệt không ngờ một thiếu niên, mà võ công lại cao như vậy. Y vội biến trảo thành chưởng đỡ. Binh một tiếng. Cả hai người đều lảo đảo lui lại hai bước.

    Mọi người đều la hoảng. Vì rõ ràng công lực Sử-vạn cao thâm vô cùng. Y đã làm tới giáo chủ Hồng-thiết giáo đâu có tầm thường thế mà đấu ngang tay với Đặng Tông.

    Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi Khai-Quốc vương với Thanh-Mai:

    - Chú đã nhận ra Đặng Tông là ai chưa?

    - Tôn Đản. Nó đảo ngược tên Tôn Đản thành Đặng Tông chứ có gì lạ đâu. Ngay từ lúc nó xuất hiện chú đã nhận ra. Có điều ai cải trang cho nó giỏi quá, khuôn mặt đổi đã đành, mà tiếng nói cũng khác.

    Thiệu-Thái hỏi Mỹ-Linh:

    - Lạ thực, sao công lực Tôn Đản cao đến thế kia. Có lẽ không thua gì mợ Thanh-Mai, trội hơn Hoàng Văn, ngang Vũ Nhất-Trụ.

    Mỹ-Linh gõ tay vào đầu Thiệu-Thái:

    - Anh quên việc Tôn Đản học được qui pháp âm dương của Bắc-bình vương rồi à. Trong trận đánh Tản-lĩnh nó hút công lực của hai đại cao thủ phái Hoa-sơn. Rồi trên đường sang đây, nó luyện Thái-cực quyền với điểm huyệt, nên công lực thâm hậu vô cùng.

    Mọi người im lặng theo dõi Tôn Đản đấu với Sử-vạn Na-vượng. Tôn Đản dùng võ công Cửu-chân. Sử-vạn dùng võ công Sài-sơn pha lẫn Hồng-thiết. Diêu Vạn cho thiết kị bao vây kín hai lão.

    Trừ sứ bộ Xiêm, còn lại mọi người đều biết Đặng Tông là Tôn Đản. Tất cả im lặng theo dõi trận đấu. Sử-Vạn bị Tôn Đản tấn công ráo riết quá, nên lão chưa có dịp vận Chu-sa Nhật-hồ độc chưởng.

    Mỹ-Linh hỏi Thanh-Mai:

    - Thím có biết tại sao lão Sử-vạn lại xử dụng võ công Sài-sơn pha lẫn võ công Thiên-tượng không?

    - Dễ hiểu! Khi xưa công chúa Nguyệt-Đức Phùng Vĩnh-Hoa vốn thuộc phái Sài-sơn. Hồi trấn thủ đất Thục, bà có trao đổi võ công với anh hùng Thiên-sơn. Cuối thời Lĩnh-Nam bà bị quân Vương Bá ép, phải lui về giữ Vạn-tượng. Sau khi bà tuẫn quốc, đệ tử lập ra phái Vạn-tượng. Vì vậy võ công phái Vạn-tượng pha lẫn Sài-sơn với Thiên-sơn.

    Khiếu Tam Bản thấy Sử-vạn Na-vượng khó thắng nổi Đặng Tông. Y nhìn quanh để tìm kế thoát thân. Liếc qua thấy Nong-Nụt đứng bên Lê Văn. Y nghĩ thầm:

    - Con nhỏ này là công chúa Xiêm đây. Nó đứng bên thằng bé kia, mình phải bắt sống nó, mới mong giải quyết được cục bộ.

    Giữa lúc đó Mỹ-Linh vẫy Lê Văn lại gần. Nàng hỏi:

    - Em thuộc võ công Cửu-chân, lẫn Sài-sơn. Em mách nước giúp Tôn Đản thắng lão Sử-vạn cho mau.

    Lê Văn cũng đang định nhắc Tôn Đản, nhưng vì sợ lộ chân tướng nên nó chưa dám. Nghe Mỹ-Linh khuyên, nó khoan khoái nhìn trận đấu. Thấy Sử-vạn sắp ra chiêu Lôi giáng Nam-nhạc theo chiêu này, một tay đánh từ dưới lên. Một tay đánh vòng sang trái, như vậy để hở ngực. Nó la lớn:

    - Đản! Kình ngư lăng ba.

    Chiêu này đánh thẳng về trước như con cá kình vượt sóng. Tôn Đản đang muốn thắng lão Sử-vạn mà không được. Nghe Lê Văn nhắc, không nghĩ ngợi, nó chập hai tay vào nhau, đẩy về trước. Binh một tiếng, lão Sử-vạn bay bổng ra xa. Tuy nhiên, kinh nghiệm chiến đấu có dư, lão mượn đà lộn đi hai vòng.

    Đúng ra sau khi thắng một chiêu, Tôn Đản rượt theo đánh tiếp mấy chiêu nữa, nó đã hạ được Sử-vạn. Nhưng vì thiếu kinh nghiệm, nó chần chờ một chút, khiến lão lấy lại được thăng bằng, lão tung ra hai chiêu Thiên-sơn tuyết phi chưởng.

    Lê Văn thấy Sử-vạn khoanh tròn hai tay, biết lão sắp xuất chiêu Lôi phục thiên ma , chiêu này tay phải như một cột khí đánh thẳng về trước. Tay trái chém ngang sang phải. Như vậy để hở hạ bàn. Nó hô lớn:

    - Kình ngư trầm hải.

    Tôn Đản lộn xuống đất, hai chân như đuôi cá quẫy quét trúng đầu gối Sử-vạn. Binh một tiếng, lão bị đánh văng ra xa. Lần này có kinh nghiệm, Tôn Đản phóng theo chiêu Loa-thành nguyệt ảnh.

    Thấy sư huynh lâm nguy, lão Khiếu lạng người chụp Nong-Nụt, nhảy tới đưa nàng đỡ chiêu chưởng của Tôn Đản. Tôn Đản hoảng kinh vội chuyển chưởng lên trời.

    Lão Khiếu quát lớn:

    - Các người phải ngừng tay. Bằng không ta giết con nhỏ này liền.

    Lê Văn hoảng kinh, nó lạng người chắn trước Tôn Đản, nó nói bằng giọng run run:

    - Không... không nên hại nàng.

    Lão Khiếu đã tụng thuộc lòng Hồng-thiết kinh, một đời xảo trá, nên chỉ liếc qua, lão cũng biết Lê Văn có tình ý với Nong-Nụt. Lão khoan thai nói với An-nan Tam-gia La-sun:

    - Thái tử! Xin Thái-tử cho mở vòng vây, để anh em lão phu rời khỏi đây, bằng không lão phu đành chết với công chúa.

    An-Nan là đấng trừ quân tộc Thái, chàng vốn thông minh tuyệt đỉnh, vì vậy liếc qua, chàng đã biết sứ đoàn Đại-Việt, Lê Văn, Đặng Tông cùng là một nhóm người. Phía Đại-Việt bầy ra vở kịch này để làm nhục hai lão Sử-vạn, Khiếu mà thôi. Chàng chắp tay nói với Khai-Quốc vương:

    - Xin vương huynh tha cho họ.

    Khai-Quốc vương nói với Diêu Vạn:

    - Diêu tướng quân. Đất có chủ. Đây thuộc đất Tống, xin tướng quân định liệu.

    Diêu Vạn nói với Tôn Đản:

    - Đặng thiếu hiệp. Xin thiếu hiệp buông tha cho hai lão đạo tặc này.

    Nói rồi y vẫy tay, thiết kị lùi ra. Hai lão Sử-vạn, Khiếu lườm lườm nhìn mọi người trong khi chân bước đi.

    Lê Văn quát lên:

    - Người phải để Nong-Nụt lại.

    Lão Khiếu cười nhạt:

    - Ta chỉ hứa không giết con nhỏ này, chứ ta đâu có hứa tha cho nó ?

    Nói rồi hai lão cười khành khạch rảo bước ra đi. Mỹ-Linh gõ tay lên đầu Lê Văn:

    - Cậu có muốn cứu Nong-Nụt không?

    - Chị Mỹ-Linh! Chị cứu Nong-Nụt cho em đi.

    - Cứu thì chị muốn cứu lắm. Song kể thì từ nay cậu không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ông ỉn nữa. Rồi mỗi lần thấy bà chị phải khoanh tay cúi đầu ạ ba lần.

    Lê Văn không nghĩ ngợi, nó khoanh tay như con nít:

    - Ạ chị Mỹ-Linh! Ạ công chúa Bình-Dương, ạ giáo chủ. Ạ,ạ,ạ. Mau cứu Nong-Nụt.

    Khai-Quốc vương không ngờ cậu em ngang tàng bậc nhất Đại-Việt, bác học, đa năng, mà lại si tình đến thế. Vương hướng Mỹ-Linh gật đầu.

    Chỉ thấy bóng trắng vọt lên không như con hạc, thấp thoáng một cái, nàng đã đáp trước mặt hai lão Sử-vạn, Khiếu. Hai lão đang tự đắc bước đi, thì bị Mỹ-Linh chắn trước mặt. Hai lão gật mình, cùng nhảy lùi hai bước.

    Lão Sử-Vạn tung một chưởng vào ngực Mỹ-Linh. Nàng không tránh né, tay rút kiếm chênh chếch đưa ra, nếu lão không thu tay về, thì tay lão bị đứt ngay. Lão vội thu tay nhảy lui. Hai tay Mỹ-Linh cầm hai thanh kiếm chĩa vào cổ hai lão. Hai lão kinh hãi, không biết bằng cách nào, mà nàng ra chiêu nhanh như vậy. Cả hai lão cũng nhảy lui lại. Nhưng Mỹ-Linh theo như bóng với hình, kiếm chĩa vào cổ hai lão.

    Xoẹt xoẹt, hai cùi chỏ lão Khiếu bị trúng kiếm. Tay lão bị mất kình lực, để Nong-Nụt rơi xuống. Lê Văn lạng người tới ôm lấy nàng nhảy lùi lại.

    Biết rằng mất con tin Nong-Nụt, thì tính mệnh coi như chấm dứt. Hai lão Sử, Khiếu đồng phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng Lê Văn, với ý nghĩ chết cùng chết cả. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Mọi người kêu thét lên kinh hoảng.

    Lê Văn ôm Nong-Nụt nhảy vọt về phía trước, để giảm áp lực hai chưởng. Tuy vậy, mọi người biết, cả hai khó toàn tính mệnh. Thấp thoáng hai bóng người vọt tới. Thanh-Mai xuất chiêu Đông-hải lưu phong đẩy vào lưng Lê Văn, cho người nó bay xa hơn. Trong khi Thiệu-Thái phát chiêu Nhân-ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng đỡ chưởng hai lão. Binh một tiếng, bụi bay mịt mờ. Hai lão Sử, Khiếu bật tung trở lại, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Hai lão cố nghiến răng, nín thở, nhưng cuối cùng khí vẫn trào lên, hai lão oẹ một tiếng, miệng phun máu.

    Cả hai lão cảm thấy chưởng của Thiệu-Thái như có như không, sát thủ cực kỳ trầm trọng. Trong người hai lão bồn chồn khó chịu vô cùng. Lão Sử hướng An-Nan:

    - Không ngờ đấng trừ quân mà lại nói hai lời. Thái-tử đã hứa để anh em lão phu đi, sao còn đánh lén? Rồi bây giờ còn bao vây?

    An-Nan chỉ Mỹ-Linh:

    - Ta hứa tha cho hai lão đi, nhưng công chúa Bình-Dương đâu có hứa?

    Mỹ-Linh chỉ Diêu Vạn:

    - Nhị vị giáo chủ tha lỗi. Chúng tôi đi sứ, nên không thể xử dụng võ công trên đất Tống. Vừa rồi tôi ra chiêu là do lời yêu cầu của Diêu Chiêu-thảo sứ đấy chứ! Từ mấy hôm nay nhị vị làm nhục, hành hạ chúng tôi đủ điều, nhưng chúng tôi nào có chống lại?

    Khấu Kim-An tiếp:

    - Cái thứ thuốc Di-hồn nhuyễn-cân ngũ-hoa độc của hai vị đâu có làm gì được sứ đoàn Đại-Việt. Hai vị cứ tưởng sứ đoàn tê liệt, nào ngờ sứ đoàn không muốn động thủ mà thôi.

    Bây giờ hai lão mới thấy rùng mình kinh sợ, tự chửi thầm:

    - Mình ngu thực. Đáng lẽ mình phải biết trước mới phải. Thằng Thiệu-Thái được tôn làm giáo chủ thay Nhật-Hồ lão nhân. Y đã dùng Hồng-thiết thần công giải độc cho hết giáo chúng, thì y có coi thứ thuốc độc của mình ra gì? Thì ra y âm thầm giải độc cho cả bọn mà mình không biết.

    Cả hai lão đứng dậy chắp tay hướng Khai-Quốc vương:

    - Đa tạ vương gia đại xá. Hậu hội hữu kỳ.

    Hai lão phóng mình vào đêm tối.

    Hai sứ đoàn nhập làm một, hướng Biện-kinh. Diêu Vạn cùng đoàn thiết kị theo bên cạnh hộ tống. Mấy hôm sau viên kị binh đi đầu trở lại báo với Diêu Vạn:

    - Chỉ còn hai mươi dặm nữa tới Biện-kinh. Xin tướng quân định liệu.

    Diêu Vạn nói với Khai-Quốc vương:

    - Vương gia. Tiểu tướng được lệnh hộ tống sứ đoàn Xiêm. Rất xấu hổ không làm tròn bổn phận, phải nhờ vương gia giúp đỡ. Lệnh trên nói rằng tiểu tướng phải đưa sứ đoàn Xiêm vào điện Nam-thiên, rồi cáo với bộ Lễ. Còn sứ đoàn Việt...

    Thanh-Mai vẫy tay an ủi y:

    - Vì tướng quân không có nhiệm vụ tiếp chúng tôi nên không giám tự chuyên đưa chúng tôi vào thành phải không? Thôi thì thế này vậy: Tướng quân cứ lo tiếp thái tử An-Nan. Còn chúng tôi xin cho tự tiện.

    An-Nan nắm tay Khai-Quốc vương:

    - Đại ca! Hôm nay tạm chia tay. Sau khi đại ca có chỗ ở, anh em mình sẽ gặp nhau.

    Lê Văn nhìn Nong-Nụt, rồi nhìn Khai-Quốc vương. Nó nửa muốn theo nàng, nửa muốn đi cùng vương. Tuy thương hại cậu em kết nghĩa, nhưng Khai-Quốc vương phải cương quyết, không để em mình làm mất quốc thể. Vương vỗ vai nó:

    - Em tạm biệt Nong-Nụt, mai này gặp lại.

    Hai thiếu niên nhìn nhau, tình yêu chứa chan, bịn rịn. Biết cậu em khó rời xa Nong-Nụt; Mỹ-Linh vung roi ngựa cuốn quanh mình Lê Văn, nàng rung động roi một cái, nó bay bổng lên lưng ngựa. Nàng hô:

    - Đi!

    Lê Văn, Tôn Đản cỡi ngựa đi trước, Bảo-Dân đánh xe tứ mã của sứ đoàn theo sau. Tất cả hướng cửa Đông thành. Trong khi sứ đoàn Xiêm hướng cửa Nam. Tôn Đản, Lê Văn cùng ngắm nhìn Thiệu-Thái. Hai người thấy Thiệu-Thái như có gì thay đổi, mà cả hai không đoán ra. Tôn Đản hỏi Mỹ-Linh:

    - Bà chị xinh đẹp. Xa nhau có mấy tháng, mà em thấy dường như ông ỉ bớt ỉn đi nhiều quá. Không biết có gì lạ không?

    Lê Văn là thầy thuốc. Nó ngắm Thiệu-Thái thực kỹ rồi nói:

    - Lúc mới gặp lại giáo chủ ở Khúc-giang em đã thấy anh ấy thay đổi khá nhiều. Rồi từ Khúc-giang cách biệt, anh ấy thay đổi hơn nữa. Da sáng ra, mặt tươi hồng hơn trước. Nhất là cái bụng lợn sề không còn nữa. Cái mặt ụt ịt cũng biến đi. Bây giờ trông phong tư tiêu sái đáo để.

    Nó nói với Mỹ-Linh:

    - Bà chị coi chừng, bây giờ ông ỉn đẹp trai thế này, khi ổng tới Biện-kinh, công chúa Huệ-Nhu mà trông thấy, nhất định cô ta cưới làm chồng thì hỏng bét.

    Nghe Tôn Đản, Lê Văn nói, Khai-Quốc vương mới chú ý đến cháu mình. Quả thực Thiệu-Thái đã thay đổi gần như hoàn toàn. Nếu so sánh với ngày chàng đến trấn Thanh-hóa thì thực là hai người khác nhau. Song vì Thiệu-Thái thay đổi dần dần, mà chàng lại luôn đi cạnh vương, nên vương không thấy. Nay Tôn Đản, Lê Văn xa chàng mấy tháng, chúng mới nhận ra.

    Thanh-Mai bảo Lê Văn:

    - Em thử đoán xem tại sao Thiệu-Thái lại thay đổi mau như vậy?

    Lê Văn tung người lên, nó đã ngồi sau ngựa Thiệu-Thái. Nó chìa tay ra trước bắt mạch cho chàng. Khoảng nửa khắc sau, nó bật lên tiếng kêu:

    - Tuyệt vời.

    Nó vọt người về ngựa mình rồi nói với Mỹ-Linh:

    - Bà chị phải ạ em ba lần em mới nói.

    Mỹ-Linh bật cười:

    - Chỉ có em ạ chị, chứ có bao giờ chị phải ạ em đâu?

    Lê Văn chợt nhớ lại Mỹ-Linh cứu Nong-Nụt, nó không dám đùa nữa:

    - Anh Thiệu-Thái bẩm sinh cốt lợn. Vì vậy từ bé ụt ịt. Ảnh lại ăn quá nhiều. Trong lần ở Hồng-hương mật cốc, ảnh được Bồ-tát Sùng-Phạm truyền cho một trăm năm Thiền-công. Thiền-công của ngài Sùng-Phạm là khô thiền. Đúng ra sau khi ảnh được truyền thiền công, thì gầy mau lẹ mới phải. Nhưng Đỗ phu nhân lại dậy anh ấy Hồng-thiết công, nên trong người Phật với ma lẫn lộn, ảnh chưa gầy được. Phải đợi đến khi ngài Huệ-Sinh dạy anh ấy tọa thiền cứu chị Thanh-Mai anh ấy mới biết vận thiền công. Rồi ngài Bố-đại dạy anh ấy Mục-ngưu thiền chưởng, hằng ngày anh ấy luôn tụng kinh Bát-nhã, bấy giờ Phật mới thắng ma. Vì vậy người anh ấy gầy dần.

    Thanh-Mai khen Lê Văn:

    - Em bác học thực. Trong mấy ông Thiên-lôi, trước kia em với Tự-Mai điển trai nhất, rồi tới Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Thiệu-Thái hạng bét. Bây giờ thì thứ tự đổi rồi.

    Lê Văn tính đốt ngón tay một lúc, rồi nói:

    - Nếu không có gì xẩy ra ngăn trở, thì chỉ hai tháng nữa ông ỉn mất ỉn. Ông ấy sẽ trở thành đẹp trai nhất trong bọn em. Nếu nói theo nhà Phật thì thiện duyên của bà chị Mỹ-Linh có chồng đẹp trai, nên dù bả ưng ông ỉn, rồi duyên may đến, ổng cũng thành tiên ông.

    Cả sứ đoàn đồng gật đầu, công nhận lý luận của Lê Văn đúng.

    Bây giờ Khai-Quốc vương mới có thời giờ cật vấn Tôn Đản, Lê Văn về những biến cố xẩy ra từ khi năm ông mãnh rời Khúc-giang.

    Đoạn này Tôn Đản, Lê Văn tường thuật lại những biến chuyển từ khi năm ông mãnh vâng chỉ của Khai-Quốc vương, Định-vương theo Triệu Huy về Biện-kinh, và lý do nào lại trở ngược về Nam, rồi gặp sứ đoàn Khai-Quốc vương giữa đường.

    Sau khi Bảo-Hòa, Thông-Mai cùng Trần Kiệt, Nùng-Sơn tử hộ tống chiến thuyền chở kho tàng về đến lãnh hải Đại-Việt, thì gặp chiến thuyền chở Hoàng Hùng, Vũ Anh, Phạm Hào đi đón. Trên chiến thuyền có cả Hồng-Sơn đại phu, Trần Tự-An, Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh.

    Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương vốn có thiện cảm, lại kính trọng Bảo-Hòa như một tiên cô. Vì vậy ba người ngồi riêng ra nói truyện. Hà-Thanh kể cho Bảo-Hòa nghe rằng sở dĩ nàng được đi thế này là do Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu muốn dẫn vợ thăm lại di tích đất tổ thời vua Hùng, nhất là di tích về những trận đánh thời vua Trưng.

    Thế rồi thuyền của Bảo-Hòa, Thông-Mai chở Trần Tự-An, Hồng-Sơn đại phu trở lại Quảng-Đông. Thuyền tới Khúc-giang giữa lúc Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn xuất hiện đem sứ đoàn về Biện-kinh. Tự-An giảng cho Bảo-Hòa, Thông-Mai tất cả kí hiệu liên lạc với hệ thống tế tác Đông-a. Thế là Bảo-Hòa phối hợp bốn hệ thống Lạc-long giáo, Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên lại. Vì vậy bề ngoài sứ đoàn chỉ có bốn người với năm ông thiên lôi. Nhưng thực sự bề trong hoàn toàn do Bảo-Hòa, Thông-Mai điều động.

    Tất cả mọi hoạt động chìm nổi của Lưu thái hậu, Định-vương Nguyên-Nghiễm đối với sứ đoàn, Bảo-Hòa đều nắm rất vững. Chỉ qua mấy hoạt động, Bảo-Hòa thấy ngay rằng Định-vương Nguyên-Nghiễm là một chính nhân quân tử. Ông ta nhất tâm nhất trí với Tống triều, sau những thất bại tại Đại-Việt, ông không oán thù mà còn khâm phục Khai-Quốc vương. Ông lại biết đường tiến thoái, nhẫn nại với Lưu thái hậu. Dù Dư Tĩnh là cháu Lưu thái hậu, khi đi sứ Chiêm, ông mang y theo, hầu chứng minh rằng mình đường đường, chính chính.

    Sau khi Lưu hậu thất bại liên tiếp trong vụ Trường-giang thất quỷ, vụ bang Nhật-hồ. Bà dùng tới khả năng cuối cùng là Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Trong bóng tối Bảo-Hòa, Thông-Mai dùng Trần Phụ-Quốc (Vương Văn), Trần Bảo-Dân cùng năm ông thiên lôi bầy ra vụ bắt sống mười trưởng lão bang Nhật-hồ, tiếp theo vụ con thuyền tấu nhạc, đưa sứ đoàn tới Tương-đài, Tam-sơn làm cho hai lão thành điên khùng.

    Tại triều đình, Lưu hậu lấy lý rằng việc tiếp sứ đoàn không thuộc thẩm quyền Định-vương Nguyên-Nghiễm, mà thuộc tể tướng. Bà cho biết đã sai Tào Khánh đi đón. Sự thực bà sai bọn Trường-giang bắt giam Tào, rồi cưỡng sứ đoàn đi tìm kho tàng. Không ngờ bang Trường-giang lại bị sứ đoàn chinh phục. Bà vẫn không lùi, quyết nắm quyền trong vụ này. Bà loan báo với triều đình rằng đã sai quan tổng lĩnh thị vệ cùng quan tổng trấn Nam-biên thay Tào Khánh, sứ đoàn sẽ tới Kinh-châu. Không ngờ đúng ngày hẹn, kinh lược sứ Kinh-châu sai thiết kị dàn ở Bắc Trường-giang tiếp sứ đoàn, thì sứ đoàn biệt tăm. Cuối cùng tin cho biết hai lão Lê-lục-Vũ, Tôn-đức-Khắc bị một lực lượng bí mật bắt mất mười trưởng lão. Hai lão hóa điên khùng đuổi theo kẻ thù tới Giang-lăng.

    Bà hoảng hốt, nhưng vẫn tự ái nắm quyền. Bà sai Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản đi tìm sứ đoàn. Bảo-Hòa được tin, quyết làm cho hai tên này thân tàn ma dại. Vì vậy nàng mới sai Tôn Đản, Lê Văn hóa trang làm hai lão Sử, Khiếu, đột nhập đinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn cắp bảo vật của sứ đoàn Xiêm, vờ đánh rơi kiếm lại. Trên kiếm khắc tên hai lão. Vì vậy kinh lược sứ mới niêm yết bẳng văn truy tầm.

    Tôn Đản kể: Sau khi năm đứa trẻ nhận chỉ dụ của Khai-Quốc vương, Định-vương Nguyên-Nghiễm đi cùng Triệu Huy, Ngô-cẩm-Thi về Biện-kinh. Vì Huy là một chức quan võ cao cấp, lại mang lệnh bài của quan phụ-quốc thái úy, nên suốt dọc đường không có việc gì xẩy ra.

    Trong khi đi đường, năm thiếu niên bàn về việc tuyển phò mã. Triệu Huy biết Thiện-Lãm, Thuận-Tông coi như trong tim đã có Kim-Thành, Trường-Ninh, nên đều rửng rưng. Nhưng y không hiểu tại sao cả Tự-Mai, Tôn Đản cũng không mấy thiết tha. Y hỏi:

    - Trong ba công tử, tôi thấy từ võ công, nhân phẩm đều tuyệt vời. Tại sao không ghi danh ứng tuyển phò mã. Được làm phò mã chẳng sướng ư?

    Tôn Đản biểu đồng tình:

    - Võ công Lê Văn cao cường, lại bác học đa năng. Y thuật chú quán chúng. Chú mà ứng tuyển, nhất định thành phò mã.

    Lê Văn cười khúc khích:

    - Tôi không thích làm phò mã. Nếu như bố tôi tranh ngôi vua từ họ Lý, tôi cũng làm thái tử. Làm Thái tử không sướng bằng làm thầy thuốc, đi khắp nơi trị bệnh cho thiên hạ. Đến ngôi thái tử tôi còn không ham, huống chi ngôi phò mã? Thôi anh Đản ứng tuyển đi.

    Tôn Đản liếc nhìn Cẩm-Thi. Bốn mắt gặp nhau, chỉ thoáng qua, nhưng cả hai đã nói với nhau rất nhiều.

    Lê Văn hỏi:

    - Công chúa Huệ-Nhu có đẹp bằng chị Mỹ-Linh, Thanh-Mai hay mẹ trẻ Huệ-Phương của tôi không?

    - Tôi chưa thấy mặt Công-chúa, song nghe đâu võ công cũng vào hàng cao thủ. Hơn nữa xinh đẹp hơn Thái-hậu nhiều.

    - Thái hậu đẹp lắm sao?

    - Từ khi triều Tống thành lập đến giờ, chưa có cung nga nào sánh kịp. Chả vậy Thái-hậu xuất thân bần hàn, mà được sủng ái đặt lên làm hoàng hậu! Công-chúa lại văn hay chữ tốt.

    Tự-Mai cho ngựa chạy ngang với ngựa Ngô Cẩm-Thi:

    - Ngô tỷ tỷ. Tỷ tỷ cũng về Thăng-long treo bảng tuyển phò mã đi. Nhất định anh hùng thiên hạ sẽ đến dự đông đảo. Công-chúa Huệ-Nhu sao đẹp bằng tỷ tỷ. Còn võ công, e rằng anh hùng cũng khó bì kịp với tỷ tỷ, chứ đừng nói đến công chúa Huệ-Nhu.

    Trong năm ông thiên lôi, Cẩm-Thi thích nhất Tự-Mai với Lê Văn. Hai đứa khi thì gọi nàng bằng chị, khi thì gọi nàng bằng tỷ tỷ. Chúng luôn đùa vui, khiến nàng bật cười. Còn Tôn Đản, tuổi y ngang với nàng, nên y có thái độ dè dặt nam nữ. Nàng để ý thấy Tôn Đản trầm tư khác những ngày ở Khúc-giang. Y chú ý săn sóc nàng từng ly từng tý. Khi ăn, lúc trọ ở khách điếm. Dọc đường y luôn ruổi ngựa sát cạnh nàng. Tôn Đản thì kinh nghiệm đời sống có thừa. Nàng lại chứa đầy một đầu những gì chép trong sách vở, hai người bổ khuyết cho nhau. Dần dà, anh hùng với giai nhân cảm nhau bao giờ, mà chính họ cũng không biết. Bây giờ nghe Tự-Mai bảo nàng mở võ đài tuyển phu, thấy đề nghị vui vui, nàng đáp:

    - Tự-Mai này. Có lẽ chị sẽ mở võ đài ngay ở phủ Khai-phong, chứ không cần về Thăng-long.

    Tự-Mai bật cười:

    - Như vậy e rằng Công-chúa Huệ-Nhu ế chồng mất. Người ta ắt đổ xô sang võ đài của chị.

    - Chị mở võ đài, nhưng không phải để tuyển phu.

    - Vậy để tuyển gì đây?

    - Tuyển lấy mấy cậu em. Cậu nào cũng phải ngoan như Tự-Mai, Lê Văn hay Thuận-Tông, Thiện-Lãm.

    Tôn Đản bật cười:

    - Ngô tiểu thư mắng vốn bốn chú phá phách đấy. Trên đời này nếu có cậu em nào phá phách nhất, cũng còn thua bốn chú.

    Lê Văn nhăn mũi trêu Tôn Đản:

    - Cái anh Đản nói như vậy mà không sợ méo mồm ư? Bọn này phá phách theo lệnh của anh. Anh mới chính là chúa đảng phá trời.

    - Ta làm chúa mộc vị, chúa bù nhìn. Còn thực ra thì là Tự-Mai với Lê Văn.

    Triệu Huy xen vào:

    - Tôn công tử nói đúng đó.

    Có tiếng vó ngựa lộp cộp. Từ phía sau hai kị mã phi như bay. Một người mặc áo da mầu nâu. Một người mặc áo da mầu xám. Hai người tới gần bọn Tôn Đản, thì ghì cương cho ngựa chạy chậm lại. Người áo nâu cung tay hành lễ quân cách với Triệu Huy:

    - Hai chúng tôi là Tuyên-ứng sứ Lao Trấn và Tuyên-khánh sứ Hầu Định. Chúng tôi muốn thưa truyện với Triệu đại nhân.

    Nói rồi hai người trình ra hai tấm thẻ bài. Triệu Huy hiện đã lên tới

    Chiêu-thảo-sứ, một chức quan khá lớn trong hàng võ phẩm, nhưng y vẫn là quan ở ngoài. Còn hai tên Lao Trấn, Hầu Định tuy chỉ tới Tuyên-ứng, Tuyên-khánh, đẳng trật cách xa nhau. Nhưng bọn chúng là võ quan hầu cận hoàng đế. Vì vậy Huy phải nể vì. Huy cầm thẻ bài xem sơ rồi trả chúng.

    Tuyên-ứng Lao Trấn nói:

    - Chúng tôi được chỉ dụ của Thái-hậu giám sát Ngô Cẩm-Thi. Dụ ban ra rằng, khi y thị rời khỏi Khúc-giang, phải bắt trở về. Y thị không về, thì giết không tha. Lúc y thị rời Khúc-giang với đại nhân. Chúng tôi tưởng chỉ rời trấn ít dặm. Không ngờ cho đến hôm nay là bẩy ngày. Xin đại nhân cho biết y thị định đi đâu?

    Triệu Huy liệu chừng hai tên này chưa biết cuộc liên kết giữa Khai-Quốc vương với Định-vương. Y đáp:

    - Tôi được chỉ dụ của Định-vương đưa Ngô tiểu thư về kinh, thi hành sứ mạng quan trọng.

    Hầu Định nói như ra lệnh:

    - Xin đại nhân hiểu cho. Bắt buộc tôi phải cản trở. Nếu tôi không làm tròn sứ mệnh của Thái-hậu, e mạng sống không còn cũng chẳng tiếc. Nhưng tính mệnh toàn gia e nguy trong sớm tối.

    Khi Triệu Huy nhận chỉ dụ đưa Ngô Cẩm-Thi về kinh, y đã được Định-vương cho biết dọc đường sẽ gặp nhiều sứ giả của Lưu hậu cản trở. Trường hợp này y cứ để Tự-Mai phản ứng. Nghĩ vậy y nói:

    - Nếu hai vị đã nói vậy, xin cứ tùy tiện.

    Hai gã Hầu, Lao không ngờ Triệu Huy đồng ý dễ dàng như vậy. Triệu Huy quay ngựa lại nói với Ngô Cẩm-Thi:

    - Ngô tiểu thư! Tôi được chỉ dụ vương gia đưa tiểu thư về kinh. Nhưng hai vị đây là Điện-tiền thị vệ lại tuân chỉ Thái-hậu cấm tiểu thư rời Khúc-giang. Tôi không biết phải giải quyết ra sao.

    Tự-Mai đứng ngoài nghe hai gã Lao, Hầu đối đáp với Triệu Huy, nó đã

    ứa gan. Nó nói với Triệu Huy:

    - Khi Triệu đại nhân nhận chỉ dụ của Định vương, anh em chúng tôi cũng có mặt, cùng nghe thấy. Bây giờ hai tên này cản trở thực vô lý. Chúng tôi chỉ biết Triệu đại nhân mà thôi. Còn hai gã kia biết đâu chẳng là gian tế.

    Hầu Định quát:

    - Tên ôn con kia, thế lệnh bài của Thái-hậu là gì đây?

    Lê Văn cười nhạt:

    - Lệnh bài đó không chừng là đồ giả. Để ta coi lại xem đã.

    Nói rồi nó tiếp lệnh bài của hai gã Thị-vệ xem đi xem lại rồi bỏ vào túi:

    - Ta chưa thấy lệnh bài của Thái-hậu bao giờ, nên nào có biết thực giả ra sao. Bây giờ thế này: Hai vị cùng chúng ta tới Kinh-châu vào yết kiến quan Tư-mã, để quan Tư-mã phân biệt chân giả.

    Gã Lao nổi cơn điên lên:

    - Đưa trả lệnh bài ngay. Bằng không ta giết mi liền.

    Gã xuất chiêu ưng trảo chụp Lê Văn. Nó không tránh, chĩa ngón tay trỏ ra điểm hai cái véo, véo trúng huyệt Khúc-trì. Tay gã Lao tê liệt không cử động được. Gã kinh hoàng định há miệng chửi, thì nó điểm tiếp vào hai huyệt Hạ-quan, miệng gã cứng đơ không há ra được.

    Gã Hầu kinh hãi phóng chưởng tấn công Lê Văn. Tự-Mai vung chưởng đỡ. Binh một tiếng, người gã Hầu bay bổng lên cao, rơi xuống trước ngựa Tôn Đản. Tôn Đản điểm vào huyệt Hoàn-khiêu, Kiên-ngung y. Chân tay y tê liệt, y rơi xuống đất đến bộp một tiếng.

    Thuận-Tông lấy roi ngựa vung lên quấn quanh người gã. Nó giật mạnh, người gã bay bổng lên cao, rơi xuống lưng ngựa mình, y như gã nhảy lên vậy. Gã tức quá miệng hét be be:

    - Mấy tên ôn con kia, bọn mi định làm gì ta đây?

    Thuận-Tông cười:

    - Chúng tôi kính mời hai vị Thị-vệ đại nhân theo hộ tống Ngô tiểu thư lai kinh chứ không làm gì khác.

    Gã Hầu Định ngoạc mồm ra chửi:

    - Bọn mi dùng tà thuật bắt Thị-vệ như thế này sẽ bị xử tử hình. Mi có biết không?

    Tôn Đản hỏi Lê Văn:

    - Trên người ta, đụng vào chỗ nào thì cười, chú có biết không?

    - Biết chứ.

    Nó phóng chỉ điểm vào huyệt Liêm-tuyền của Hầu-Định. Liêm-tuyền là huyệt nằm ngay dưới cằm. Hầu bật lên tiếng cười. Thấy kết quả, Lê Văn tháo giầy gã ra, điểm vào huyệt Dũng-tuyền dưới bàn chân gã. Lập tức gã cười dòn dã. Vì chân tay gã tê liệt, gã chỉ biết rụt cổ và lắc mình cười.

    Ngô Cẩm-Thi hỏi Tôn Đản:

    - Tôn đại ca này. Võ công mà Tôn đại ca với Lê Văn vừa xử dụng là võ công gì vậy?

    - Nó là môn điểm huyệt. Môn này đo anh cả với chúng tôi mới chế ra gần đây thôi. Còn điểm vào hai huyệt cho gã kia cười là do Lê Văn dùng gã thí nghiệm, không ngờ lại có kết quả ngoài ý muốn.

    Ngô Cẩm-Thi nói với Lê Văn:

    - Lê đệ đệ ơi. Đệ đệ mau giải khai huyệt đạo cho gã Hầu Định bằng không gã cười mãi thế kia, e mệt quá thì gã chết mất.

    Lê Văn dùng roi ngựa quất vào huyệt Khúc-tuyền, Khí-hải của Hầu Định, lập tức gã hết cười, miệng thở hổn hển.

    Tôn Đản nói:

    - Hai vị Hầu, Lao! Mong hai vị khuất thân đi với chúng tôi tới Kinh-châu để biệt chân giả rồi chúng tôi sẽ giải khai huyệt đạo cho hai vị. Bằng hai vị cứ la lối, buộc lòng chúng tôi phải điểm cho hai vị cười đến chết mới thôi.

    Hai gã Hầu, Lao đành thúc thủ, ngậm miệng theo bọn Tôn Đản. Khi qua Kinh-châu, bọn Tôn Đản không ghé dinh Tư-mã, mà đi thẳng lên Tương-dương.

    Nhưng dù sao bọn Tôn Đản vẫn còn trẻ, thiếu cẩn thận. Chúng quên mất phép điểm huyệt chỉ có giá trị hai giờ. Sau hai giờ các huyệt tự giải. Đêm đó, hai gã Lao, Hầu thấy chân tay cử động được, bèn lấy ngựa trốn đi.

    Sáng thức dậy thấy mất hai gã Lao, Hầu, bọn trẻ vẫn thản nhiên như không có gì xẩy ra. Suốt dọc đường Tôn Đản, Ngô Cẩm-Thi luôn bên cạnh nhau. Tự-Mai kinh nghiệm về vụ Lý Long-Bồ, Thanh-Mai. Sau này đến Thiệu-Thái, Mỹ-Linh. Nó bàn cùng Lê Văn, Thuận-Tông, Thiện-Lãm luôn tìm cách lẩn tránh để hai người có dịp nói truyện riêng.

    Một lần chợt nhớ tới Thuận-Tường, Tự-Mai hỏi Triệu Huy:

    - Triệu huynh ơi. Không biết kỳ tuyển phò mã này phái Hoa-sơn có cử người tham dự không?

    - Tôi nghĩ là có. Không chừng giờ này phái đoàn Hoa-sơn đã đến rồi, nhưng chả biết họ cư trú ở đâu?

    Suốt dọc đường, Tôn Đản luôn đi cạnh Ngô Cẩm-Thi. Y nhiều kinh

    nghiệm thực tiễn dân dã, nhưng lại thiếu kiến thức trong sách vở. Ngược lại Cẩm-Thi thì đọc thiên kinh vạn quyển, mà chưa từng ra đời. Vì vậy họ bổ khuyết cho nhau, rồi mối tình nảy sinh.

    Tới Biện-kinh, năm quý khách được mời vào cư ngụ trong phủ Định-vương. Như chỉ dụ của Định-vương, năm thiếu niên được trình bầy tổ chức triều Tống cùng đường xá trong Biện-kinh.

    Định-vương tuy chưa lập vương phi chính thức, nhưng trong phủ cũng có hơn chục mỹ nữ. Đa số họ là con quan trong triều, hoặc con nhà giầu. Một là họ thích được gần nhân vật quyền thế chỉ thua có Thiên-tử. Hai là họ hãnh diện vì Định-vương nổi danh tài trí vô song. Các nàng mỹ nữ thấy năm thiếu niên khôi ngô, nói năng lễ phép, kiến thức vô cùng rộng rãi, đều tỏ vẻ mến mộ.

    Năm thiếu niên thấy các mỹ nữ, chúng đều cung tay gọi bằng vương-phi. Nên bà nào cũng hài lòng. Chúng thi nhau kể truyện những ngày vương sang Đại-Việt. Tự-Mai đã ước hẹn với các bạn, tất cả đều tránh kể những thất bại của vương, mà chỉ kể truyện vương hào phóng, khiến võ lâm danh sĩ Đại-Việt ngưỡng mộ. Vì vậy Hoa-Việt kết thân.

    Sau một ngày nghỉ ngơi, Triệu Huy nói với Ngô Cẩm-Thi:

    - Bây giờ chúng ta đi thăm Ngô đại hiệp. Không biết chúng ta cùng đi hay chỉ một vài người với Ngô tiểu thư?

    Ngô Cẩm-Thi hỏi ngược lại:

    - Song thân tôi bị giam cùng với các anh tôi ở đâu?

    - Ngô đại hiệp không bị giam. Cả gia đình bị quản thúc ở một trang ấp ngoài phủ Khai-phong. Những bộc phụ, tỳ nữ từ Khúc-giang đem theo vẫn y nguyên.

    - Trang ấp do binh sĩ của phủ Khai-phong, của Khu-mật viện hay phủ Thái-úy canh gác?

    - Của Khu-mật viện.

    Cẩm-Thi nói với Tôn Đản:

    - Tùy đại ca quyết định.

    - Vậy thì thế này: Lê Văn, Tự-Mai ở nhà. Còn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo anh đi thăm Ngô bá bá.

    Lê Văn cật vấn:

    - Tại sao hai đứa này không đi. Lỡ có sự thì sao?

    - Đây thuộc kinh thành ta không thể dụng võ, nên không cần đến hai chú. Mà có dụng võ, với bản lĩnh Ngô bá bá cùng ba vị Ngô công tử hỏi ai địch lại, các chú có đi cũng vô ích.

    Tôn Đản thấy Tự-Mai chưa hiểu ý mình, nó ghé tai Tự-Mai nói nhỏ:

    - Lúc sáng nay ta thấy cặp chim ưng mình cho Thuận-Tường hôm trước bay trên đầu, ắt nàng đang có mặt ở kinh thành. Em gọi chim ưng xuống gửi thư cho nàng, hoặc bảo nó dẫn đường tìm nàng.

    Tự-Mai liếc nhìn lên trời, quả đôi chim ưng đang bay lượn không xa là mấy. Tim nó đập rộn ràng, tay ôm lấy Tôn Đản tỏ ý biết ơn.

    Tôn Đản, Cẩm-Thi dẫn Thuận-Tông, Thiện-Lãm theo Triệu Huy rời vương phủ. Lê Văn nhìn Tự-Mai tủm tỉm cười. Hai thiếu niên cùng xuất thân giống nhau, nên tâm đầu ý hợp, chỉ thoáng qua, Lê Văn đã hiểu thấu tâm sự Tự-Mai. Nó bàn:

    - Tự-Mai định gọi chim ưng xuống viết thư cho nàng hay tìm đến thăm nàng?

    - Viết thư e không tiện, vì sợ phụ huynh nàng bắt được. Trước hết mình nên tìm xem nàng ở đâu đã.

    - Vậy ta gọi chim ưng xuống đi!

    Tự-Mai ngửa mặt lên trời hú một tiếng dài. Đôi chim ưng đang bay trên trời, chúng lượn một vòng rồi đáp xuống. Chúng nhận ra Tự-Mai, Lê Văn, cả hai con vật đều kêu lên những tiếng vui mừng. Lê Văn bàn:

    - Ta theo chúng đi liền chăng?

    - Ừ.

    Tự-Mai nói với cặp chim ưng mấy tiếng, rồi...

    Lê Văn dịch xong, Tự-Mai đã gọi chim ưng xuống buộc khăn vào chân nó chúng rồi tung lên không. Cặp chim ưng bay một vòng, chúng chao đi mấy cái, sau đó từ từ đáp xuống mất hút. Hai thiếu niên tìm một vườn hoa ngồi chờ tin tức. Không đầy nửa giờ, chim ưng bay lên không, rồi đáp xuống. Tự-Mai run run mở ống tre dưới chân ra. Trong có tờ giấy hoa tiên. Nó đọc:

    Trần đại ca.

    Tự Tản-lĩnh cách biệt, tưởng kiếp này không gặp nhau nữa. Không ngờ đại ca đã dầy công đi tìm muội. Đại ca muốn gặp muội, phải tuyệt đối nghe lời muội. Bằng không chúng ta nghìn trùng cách biệt. Có hai việc phải làm:

    - Một là đại ca phải ghi danh ứng tuyển phò mã ngay. Dùng mọi cách thắng anh hùng thiên hạ.

    - Hai là đại ca ra tửu lầu Nam-phong chờ. Sẽ có người đến đưa đại ca gặp muội.

    Thư bất tận ngôn.

    Thuận-Tường.

    Lê Văn thấy Tự-Mai đờ đẫn cả người ra. Nó vội khuyên:

    - Ta tạm rời hoàng thành, tìm tửu lầu Nam-phong đợi nàng sai người đến dẫn đi.

    - Lạ một điều sao nàng bắt ta phải ghi danh ứng tuyển phò mã. Thành phò mã rồi, sao có thể làm chồng nàng?

    Lê Văn suy nghĩ một lúc rồi nói:

    - Có nhiều khúc mắc mà ta chưa biết. Ta cứ chờ gặp nàng rồi sẽ hỏi. Theo như em nghĩ, Lưu hậu treo bảng tuyển phò mã. Số vào chung kết tới mười tám. Lưu hậu cùng quan tả, hữu bộc xạ chọn một người. Còn mười bẩy người sẽ gả con các quan cho. Không chừng Thuận-Tường là một trong mười bẩy tiểu thư đó.

    Khi người ta yêu, thường u mê trong ảo tưởng. Hằng ngày Tự-Mai thông minh bậc nhất, việc gì nó cũng kiến giải sáng suốt. Nay nó đang trong vòng rạo rực tình ái, nên cảm thấy yếu đuối, phải nhờ Lê Văn bàn giúp.

    Rời hoàng thành, hai thiếu niên tìm đến tửu lâu Nam-phong, kiếm một chỗ trên lầu cao, gần cửa sổ ngồi. Lê Văn gọi mấy món ăn, rồi bàn:

    - Lát nữa đây, sẽ có người dẫn đường đi gặp Thuận-Tường, chỉ mình anh đi thôi. Còn em trở về phủ Định-vương. Lỡ có gì chim ưng báo cho em biết, để em còn thông tin cho anh cả với Định-vương.

    - Dĩ nhiên như vậy. Mình nghĩ việc gặp Thuận-Tường chắc không có gì nguy hiểm đâu. Dù sao giữa phái Hoa-sơn với võ lâm Đại-Việt có tình giao hảo, họ đâu nỡ gây khó dễ với mình.

    Bỗng có tiếng lăng không truyền ngữ rót vào tai Tự-Mai:

    - Thằng cà chớn mê gái. Có nhận được tiếng ta không?

    Nghe tiếng nói, Tự-Mai lạnh cả gáy, vì đó là tiếng Thông-Mai. Nó không hiểu sao, bố nó, Thanh-Mai đầm ấm như vậy, mà Thông-Mai lại lạnh lùng đến phát ớn. Nghe tiếng anh hỏi, nó nhìn sang bên cạnh, thấy hai ông bà già đang ngồi ăn uống. Mùi trầm hương xông lên, nó nhận ra cặp vợ chồng là Thông-Mai, Bảo-Hòa. Nó vội đáp:

    - Anh có gì dặn em không?

    - Anh thì không có gì, nhưng chị Bảo-Hòa thì có nhiều lắm.

    Tiếng Bảo-Hòa nói:

    - Đêm nay có thể em gặp một người đàn bà đặc biệt thuộc phái Nga-mi. Nội công Nga-mi xuất từ phái Thiếu-lâm. Mà nội công Thiếu-lâm, Tiêu-sơn, Đông-a đều xuất từ Thiền. Em hãy đem phương pháp phá Chu-sa độc chưởng dạy cho bà ta.

    - Chưa có phép của bố mà em dạy người ngoài, e bố đánh chết.

    - Chị với anh Thông-Mai đã xin phép bố rồi.

    - Chỉ dạy phép đẩy độc chất về cơ thể địch nhân hay dạy cả nội công lẫn chưởng pháp.

    - Em muốn dạy gì cũng được.

    Đến đấy Bảo-Hòa, Thông-Mai đứng dậy xuống lầu. Tự-Mai rùng mình:

    - Văn đệ này. Từ khi rời nước ra đi đến giờ, hằng ngày anh cả điều động chúng mình. Nhưng trên thực tế hai ông bà Thông-Mai, Bảo-Hòa sai khiến tất cả. Chúng mình đi thế nào, ông bà ấy cũng theo dõi được.

    Hai người đang nói truyện, thì có một thiếu phụ đến bên cung tay hỏi:

    - Trong hai vị, vị nào là Trần công tử?

    Tự-Mai đáp lễ:

    - Thưa là tôi.

    - Lão tỳ được bề trên ủy thác dẫn công tử đến gặp một người. Xin công tử theo lão tỳ.

    Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn, rồi đứng lên. Thiếu phụ dặn:

    - Tiểu tỳ họ Phương. Bề trên dặn: Công tử tuyệt đối không được dụng võ. Nơi công tử gặp bề trên thuộc cấm thành. Trong cấm thành đầy cung nga, thái giám, thị vệ. Vậy công tử phải hoá trang thành một thái giám.

    Nói rồi mụ trao cho Tự-Mai một cái túi:

    - Công tử hãy vào sau tửu lầu thay quần áo, trao kiếm cho người bạn. Trong cấm thành, thái giám không thể mang kiếm.

    Tự-Mai trao kiếm cho Lê Văn rồi vào trong thay quần áo. Khi nó ra, Lê Văn suýt bật cười vì chính nó cũng không nhận ra Tự-Mai. Mụ Phương trao cho Tự-Mai một thẻ bài:

    - Đây thẻ bài của công tử. Công tử có tên Mai-Tự, thuộc cung Ôn-đức, hầu hạ Lý thái phi.

    Tự-Mai hỏi:

    - Tại sao Thuận-Tường lại ở trong cấm thành?

    - Lát nữa gặp bề trên của lão tỳ, công tử sẽ rõ.

    Hai người xuống lầu. Kiệu chờ sẵn. Mụ Phương lên một cái. Tự-Mai lên một cái. Kiệu nhập cửa Chính-dương rồi vào cửa Tinh-võ cấm thành. Khi qua cửa, thị vệ hỏi thẻ bài, rồi cho đi. Kiệu đi vòng vèo mãi, tới một cung điện thì ngừng lại. Kiệu phu mở cửa. Tự-Mai bước ra, mụ đã Phương chờ sẵn. Mụ vẫy Tự-Mai đi theo. Liếc nhìn trên cửa cung có chữ Ôn-đức cung. Nó kinh hãi:

    - Hôm trước nghe anh Thiệu-Cực nói Ôn-đức là nơi thái phi họ Lý ở. Không lẽ Thuận-Tường lại là thái phi?

    Mụ Phương đưa Tự-Mai vào một thư phòng trang trí rất hoa mỹ. Trên tường treo đầy bút thiếp cùng danh họa. Mụ dặn:

    - Thôi, công tử ngồi đây chờ bề trên chúng tôi, xin đừng có đi đâu.

    Nói rồi mụ lui bước. Tự-Mai đi xem các bút thiếp, tất cả đều thự danh của những đại gia thời bấy giờ như Vương Khâm-Nhược, Lã Di-Giản, Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn.

    Có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một mùi u hương thoang thoảng bốc lên. Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Chắc là Thuận-Tường.

    Nó vội quay lại đón, thì ra một cung nữ. Cung nữ cúi đầu chào nó, rồi đặt chiếc khay bạc lên bàn. Trên khay bạc có đến mười thứ mứt kẹo khác nhau. Nàng lễ phép lui bước.

    Tự-Mai tò mò nhìn các đĩa mứt. Nó nhận ra được : Hạt dẻ, tùng tử, hạnh đào, đào nhân, ngọc quế. Còn lại nó chưa từng thấy qua.

    Lại có mùi u hương thoang thoảng, rồi cung nữ khác bưng vào một bình trà với hai chiếc chung bằng sứ bọc vàng. Cung nữ cúi chào, khoan thai lui bước.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Thuận-Tường là ai? Không lẽ nàng là Lý thái phi? Vua Chân-tông băng đã mười năm. Khi ngài băng, Thuận-Tường chưa quá mười tuổi, đâu có thể là cung phi của ông?

    Có mùi hoa quế thoang thoảng, rồi một cung nữ bước vào. Tự-Mai giật bắn người lên. Vì nàng chính là Thuận-Tường. Nhớ thương chồng chất, nay gặp lại, chân tay nó như tê liệt. Thuận-Tường cũng thế. Hai người ngây ngất nhìn nhau. Cứ như vậy không biết thời gian bao nhiêu lâu, Thuận-Tường lên tiếng:

    - Trần đại ca.

    - Thuận-Tường!

    Thuận-Tường mời Tự-Mai ngồi xuống chiếc bàn. Nàng ngồi đối diện, tay rót trà vào chung mời:

    - Đại ca dùng trà.

    Tự-Mai bưng trà lên uống, rồi hỏi:

    - Đây là đâu. Tại sao Thuận-Tường lại ở cung Ôn-đức?

    - Vì tiểu muội là cung nữ.

    - Cung nữ?

    - Đại ca ngạc nhiên lắm ư? Sau khi rời Tản-lĩnh về, tiểu muội bị tuyển làm cung nữ, rồi được đưa vào đây hầu Lý thái-phi.

    Trong đầu óc Tự-Mai nhớ lại truyện Đào Hà-Thanh, Lâm Huệ-Phương. Mỹ-Linh kể cho nó nghe: Những cung nữ xinh đẹp vua lưu giữ một số phong cho những gì mỹ-nữ, tu-nghi, tu-dung, dung-nghi, tức một thứ vợ nhỏ. Còn lại chia cho các hoàng tử. Những người xấu, bị chia hầu hạ các bà thái hậu, hoàng hậu, công chúa. Nó hỏi:

    - Tường muội đẹp thế này mà hoàng đế không phong làm chính cung nương nương ư? Sao đến nỗi hầu hạ thái phi?

    Thuận-Tường cười:

    - Đại ca đừng ngạc nhiên, vì muội thuộc thành phần con nhà dân dã, nên không thể được hầu vua cũng như hoàng tử.

    - Tường muội định chôn cuộc đời ở đây sao?

    - Chim lồng, cá chậu biết sao bây giờ?

    - Tường muội cùng anh trốn đi.

    - Đại ca tưởng! Trốn đi thì dễ rồi, nhưng còn gia gia, má má, anh chị em... Triều đình sẽ chặt đầu hết.

    - Anh nhất định không thể để như vậy!

    - Đại ca định làm gì?

    - Anh về rủ mấy sư huynh sư đệ vào cướp Tường muội ra. Khi Tường muội bị cứơp ra, triều đình đâu có thể bắt tội gia gia, má má.

    Thuận-Tường lắc đầu:

    - Trong cấm thành có hơn nghìn thị vệ. Dù đại ca có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng không thể đấu lại với bọn chúng. Làm như thế chỉ uổng mạng mà thôi.

    - Thà uổng mạng vì Tường muội còn hơn để Tường muội bị chôn cuộc đời trong cung như thế này.

    Thuận-Tường bật cười:

    - Trước đây, trong cấm thành đã xẩy ra một việc tương tự. Hồi đó tiểu muội còn nhỏ, nên chỉ nhớ lõm bõm thôi. Bấy giờ phụ hoàng... à vua Chân-tông còn là tại thế.

    Nghe Thuận-Tường nói, Tự-Mai ngắt lời:

    - Cái gì phụ hoàng?

    - Tiểu muội muốn nói hoàng thượng còn là thái tử. Bấy giờ vua Chân-tông tuyển con gái Khấu thừa tướng định đặt lên làm hoàng hậu. Giữa lúc vua cùng nàng yến ẩm, thì một võ lâm cao thủ xuất hiện. Y trói nhà vua lại, nhét dẻ vào miệng rồi bắt Khấu tiểu thư đi.

    Tự-Mai bật cười, vì biết gian nhân đó là nhị sư huynh Trần Bảo-Dân. Nó lắc đầu:

    - Theo anh nghĩ cao thủ đó không bắt Khấu Kim-An, mà cứu nàng ra.

    Thuận-Tường kinh ngạc:

    - Đại ca biết nhũ danh của Khấu tiểu thư ư?

    - Anh biết rất rõ. Kim-An không hề bị bắt, trái lại tình quân đã cứu nàng ra. Tình quân đó là nhị sư huynh của anh tên Trần Bảo-Dân.

    - Tuyệt vời! Mà gan cũng lớn vô cùng. Trên đời hỏi được mấy người như nhị sư huynh của đại ca. Y dám vì tình, mà làm truyện nghịch thiên, bạo địa. Ước gì muội được gặp con người đó.

    Tự-Mai thuật lại truyện tình của nhị sư huynh với Khấu Kim-An thực chi tiết tỷ mỉ, rồi nó kết luận:

    - Bây giờ đến lượt anh làm truyện bạo thiên, nghịch địa.

    Thuận-Tường nắm tay Tự-Mai. Cả hai cùng run lên bần bật:

    - Đa tạ đại ca. Bây giờ thế này: Đại ca ghi danh ứng tuyển phò mã. Cố sao được vào chung kết. Khi Thái-hậu cùng triều đình cho công chúa cùng con các quan xuất hiện. Tiểu muội sẽ có mặt theo hầu công chúa. Đại ca xin được kết hôn với tiểu muội. Như vậy là tốt đẹp nhất.

    - Tại sao Tường muội...

    Có tiếng nói vọng vào:

    - Thánh giá Thái-hậu giá lâm.

    Thuận-Tường kinh hãi chỉ cái sập, y muốn bảo Tự-Mai chui vào gầm

    ẩn thân. Nhưng Tự-Mai gan lớn bằng trời, nó không chịu chui vào mà tung người lên trên xà nhà, rồi nép mình bên cạnh kèo lớn. Thuận-Tường phóng ra cửa sổ mất dạng.

    Hai cung nữ bưng trà, mứt bước vào ban nãy, dấu vội khay, đĩa trong cái tủ, rồi ra cửa. Tiếng dép lẹp kẹp, hai thiếu phụ y phục sang trọng song song bước vào. Nhờ đã được Mỹ-Linh giảng giải, nhìn y phục, Tự-Mai nhận ra được phụ nữ gầy là Lý thái phi. Còn phụ nữ người vừa phải là thái hậu. Hai cung nữ quỳ gối:

    - Bái kiến thái hậu, thái phi.

    Một thái giám đi theo hô:

    - Bình thân.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Kẻ đại thù gây sóng gió cho Đại-Việt, Đại-lý, Tây-hạ, Thổ-phồn là bà Lưu thái hậu này đây. Cứ nhìn nét mặt, bà ta mới hơn bốn mươi, nhan sắc thực không thua gì Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh. Có ai ngờ bà ta gây ra biết bao nhiêu bão táp cho thiên hạ.

    Lưu thái hậu, Lý thái phi ngồi đối diện nhau, mỗi người bưng một chung trà trong tay, không ai uống, cùng nhìn nhau. Một lát sau Lưu hậu nói:

    - Việc triều chính bớt bận rộn, ta tới thăm Thái- phi, muốn nói với Thái-phi ít điều.

    - Thần ở đây thanh tĩnh quen rồi. Thái-hậu vì quốc sự mà thánh thể hao gầy, xin tĩnh dưỡng, không nên bận tâm về thần.

    Lưu Thái-hậu thở dài:

    - Dĩ nhiên ta không bận tâm về Thái-phi, mà bận tâm về các thân vương. Triệu vương ra dạ bất an. Hơn tháng qua y cáo bệnh không vào triều. Còn Định-vương! Hừ ! Ta đang điên đầu về y. Y chống lại ta chẳng nói làm gì. Có tin nói y định tạo phản.

    Lý Thái-phi lắc đầu:

    - Tin đó chắc người ta phao vu. Định vương hiện là rường cột xã tắc. Người là thầy, là chú Thiên-tử. Suốt đời người nhất tân lo cho Thiên-tử. Khắp nơi đều nói người là Chu-công, Trương Lương, Gia-cát Lượng. Thiếp nghĩ nếu Thiên-tử muốn, người cũng cắt tim cắt thịt cho thên tử ăn. Có đâu tạo phản?

    Lưu hậu lắc đầu:

    - Bề ngoài thì vậy, nhưng bề trong y liên kết với bọn Việt.

    - Vương đi sứ nước người. Việc ở ngoài, khó có thể quyết đoán bằng một tờ biểu. Ai đã tâu với Thái- hậu như vậy?

    - Dư An-phủ kinh lược sứ cùng Địch Thanh theo vương đi sứ Chiêm. Vương biết Dư là cháu Thái-hậu, đời nào vương mưu phản lại để lộ cho y biết? Vương mới về kinh, thần nghĩ Thái-hậu đường đường chính chính mời vương lâm triều hỏi cho ra lẽ, chẳng hơn ưu tư cho mệt thánh thể.

    - Ta đã tra hỏi nhiều người. Vương kết huynh đệ với Khai-Quốc vương Đại-Việt. Như vậy không phải là mối lo ư?

    - Đại-Việt là phiên thần của Tống. Xưa đức Thái-tổ chẳng từng kết huynh đệ với Trịnh Ân mà được Ân phò tá bản triều đó ư? Thần nghe, sứ đoàn Đại-Việt đang trên đường sang tiến cống. Khai-Quốc vương mưu kết với Định-vương làm phản, có đâu đem đầu đến cho ta chặt.

    - Thôi được, bỏ qua việc đó. Ta muốn nói với Thái-phi một truyện: Thiên-tử không muốn gặp Thái-phi. Thế mà sao Thái-phi cứ tìm cớ tao ngộ với người?

    Thái phi lắc đầu:

    - Thần nghĩ Thiên-tử là giọt máu của Tiên-đế. Thần hồi tưởng ân sủng của Tiên-đế ban cho, nên muốn thấy Thiên-tử mà thôi.

    Nghe hai người đối đáp, Tự-Mai kinh ngạc:

    - Hai bà này nói tới hoàng nhi, tức Tống Thiên- tử. Thiên-Thánh hoàng đế rõ ràng do Lưu hậu sinh ra. Tại sao Thái-phi lại thương nhớ, tìm cách tao ngộ? Giọng điệu Thái-hậu như đe dọa. Còn Lý Thái-phi lại nhũn nhặn. Như thế là thế nào?

    Nó chợt nhớ lại những lời đối đáp giữa Minh-Thiên với Định-vương mà Thiệu-Cực thuật hôm ở Bắc-biên: Rõ ràng Lưu hậu có yếu điểm gì đó liên quan đến Lý Thái-phi cùng Hoàng đế, khiếm bà ta lo sợ, phải chiều chuộng vương. Minh-Thiên còn nói rõ: Lưu hậu định hại Lý Thái-phi. Ông khuyên Định-vương phải nói điều bí mật cho hoàng đế biết. Bí mật đó là gì?

    Thình lình thái hậu lên tiếng:

    - Chị em chúng ta đang đàm đạo quốc sự. Người là ai mà dám leo lên xà nhà nghe trộm?


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BA
    Trong ngọc trắng ngà

    Nói rồi bà cầm chung trà tung lên, kình lực phát ra vo vo. Tự-Mai kinh hoảng vội lộn xuống dưới ránh. Chung trà trúng xà nhà đến bốp một tiếng, vỡ tan tành ra thành những miếng nhỏ. Thấp thoáng, Lưu hậu nhảy tới phóng chưởng tấn công nó. Chưởng lực của bà cực kỳ hùng hậu, trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Tự-Mai vội vận khí ra ba kinh dương tấn công, ba kinh âm thủ. Phương pháp này của bố nó chế ra, dùng để phá Chu-sa ngũ độc chưởng. Vô tình nó đẩy ra chiêu Phong-ba hợp bích. Binh một tiếng. Nó cảm thấy khí huyết nhộn nhạo cực kỳ khó chịu.

    Trong khi Lưu hậu bật lên tiếng ủa:

    - Mi là ai mà giả thái giám đột nhập cấm cung? Thì ra mi thuộc phái Thiếu-lâm. Mi trúng Chu-sa ngũ độc chưởng của ta rồi. Mi mau bỏ khăn che mặt ra, ta muốn xem mặt mi một chút. Mi còn trẻ, mà đỡ được chưởng của ta kể cũng thuộc loại hiếm có.

    Tự-Mai cười nhạt, nó tấn công liền ba chưởng bằng tất cả bình sinh công lực. Lưu hậu thấy chưởng của nó hùng hậu kỳ lạ, bà không dám coi thường, phát chưởng đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai lảo đảo lui lại.

    Vốn cực kỳ thông minh, Tự-Mai biết chậm một chút, thị vệ xuất hiện thì tính mạng khó bảo toàn. Nó chĩa ngón tay phóng liền ba Lĩnh-Nam chỉ vào ba ngọn đèn. Ba tiếng lốp bốp vang lên, trong phòng tối om. Nó điểm một chỉ về phía Lưu hậu. Bà đâu biết lợi hại của chỉ? Trong bóng tối, thấy kình lực ập tới, bà vung chưởng đỡ. Chỉ xuyên qua chưởng trúng người bà. Bà ối lên một tiếng. Rồi quát lớn:

    - Quân to gan. Có thích khách!

    Bên ngoài vang lên tiếng thanh la báo động. Tự-Mai kinh hãi, nó lượm mấy cuốn sách ném vào Lưu hậu. Lợi dụng bà mải đỡ, nó vọt qua cửa sổ. Ngơ ngác chưa biết trốn đâu. Trong lúc nguy cấp, nó nhớ lại trong Dụng-binh yếu chỉ của công chúa Thánh-Thiên nói rằng: Tìm chỗ sống ở chỗ chết. Nay nó đụng với Lưu thái hậu, thì chỗ chết là nơi bà cư ngụ. Nó cần trốn ở cung bà mới an toàn. Hôm Triệu Huy cho nó xem bản đồ cấm thành. Ngọc-thanh Chiếu-ứng Cảnh-linh cung là nơi thái hậu ở về phía Tây. Nó hướng phía Tây chạy.

    Trong cấm thành, đèn đuốc sáng lòa. Phía trước mấy thị vệ đang chặn đường. Kinh hoàng, thấy bên cạnh có căn phòng tối mò, nó nhảy qua cửa sổ vào trong. Đây là một phòng ngủ trang trí rất thanh nhã. Nhanh nhẹn nó chui ngay vào gầm dường ẩn thân.

    Bên ngoài người đi lại rầm rập. Có tiếng đàn ông nói:

    - Bọn thần thực có tội, để thích khách phạm giá. Mong Thái-hậu đại xá.

    Tiếng Lưu hậu nói:

    - Khiếu Tam-Bản đấy ư? Người cho thị vệ giải tán ngay. Gian nhân lĩnh của ta ba chưởng. Dù cho gan bằng trời, đêm nay y cũng đau đớn đến chết đi sống lại.

    - Tuân chỉ Thái-hậu.

    Cấm thành trở lại yên tĩnh. Tự-Mai đang định chui ra khỏi gầm dường, có tiếng dép lẹp kẹp, rồi một người khoan thai đi vào. Nó ghé mắt nhìn trộm, thì ra Lý thái phi.

    Thái-phi đến tấm bồ đoàn ngồi xuống, chắp hai tay vào nhau, mắt từ từ nhắm lại. Bà đang luyện công. Trí nhở Tự-Mai trở về: Hôm ở Khúc-giang, Định-vương căn dặn nó phải cẩn thận, vì võ công Lưu thái hậu cao thâm không thua gì bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo. Nguyên trước đây bà theo học phái Hoa-sơn. Từ khi nhập cung bà vẫn tiếp tục luyện tập. Sau bang Nhật-hồ khống chế bà, rồi Trường-giang song ưng, Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản cũng khống chế bà, rồi bị bà khống chế lại, rút cục chúng phải qui phục. Vì vậy bà luyện thêm Hồng-thiết công cùng Chu-sa ngũ độc chưởng. Còn Lý thái phi xuất thân từ phái Nga-mi. Trước kia võ công bà cao hơn Lưu hậu. Sau bại dưới tay Lưu hậu về độc chưởng. Từ đấy bà phải khuất phục Lưu hậu để có thuốc giải hằng năm.

    Tự-Mai thấy lối luyện công của Thái-phi giống phái Tiêu-sơn. Lúc đầu nó hơi bỡ ngỡ. Nhưng lát sau nó nhớ lại lời bố dạy: Võ công Tiêu-sơn, Thiếu-lâm, Nga-mi đều phát xuất từ kinh Kim-cương, Lăng-già, Bát-nhã, nên giống nhau đến bẩy tám phần.

    Thái-phi luyện công hơn giờ, rồi đóng cửa lại. Bà ngồi lên chiếc ghế, tay mở cuốn sách ra đọc. Thình lình bà ngừng đọc, lên tiếng:

    - Thiếu hiệp nằm dưới gầm dường mãi như vậy e mất phẩm giá đi. Ra đây mau.

    Tự-Mai kinh hãi từ từ chui ra. Lý Thái-phi chỉ cái ghế gần đó:

    - Người ngồi đi! Hừ, người còn trẻ thế, mà võ công đã đến trình độ kinh nhân. Người chịu ba độc chưởng của Thái-hậu mà không việc gì ư?

    - Nhật-hồ độc chưởng không hại nổi vãn bối.

    Lý Thái-phi nhắm mắt lại suy nghĩ rồi nói:

    - Lúc người nhảy ở xà nhà xuống dường như là thức Vô sắc vô tướng của Thiếu-lâm. Còn ba chiêu chưởng của người phảng phất giống Kim-cương chưởng của Thiếu-lâm nhưng sát thủ cực kỳ ghê gớm. Người dùng thứ chỉ pháp gì huyền ảo vô cùng. Ta thực không nhận ra. Người là đệ tử của cao nhân nào?

    - Vãn bối không có sư phụ. Vãn bối học nghệ với phụ thân.

    - Người đột nhập vào cung làm gì? Người thực to gan lớn mật. Ta không như Lưu Thái-hậu đâu. Người cứ nói thực, ta sẽ giúp người thoát khỏi nơi đây, bằng không, dù người có bản lĩnh nghiêng trời lệch đất cũng mất mạng.

    - Vãn bối có người bạn gái bị bắt làm cung nữ. Vãn bối vào tìm nàng. Vì vậy dù biết vào cấm thành nguy hiểm, vãn bối không từ nan. Vãn bối nghĩ dù chết vãn bối cũng phải tìm ra nàng.

    - Người thực chí tình. Cung nữ đó họ gì? Người đã tìm thấy chưa?

    Tự-Mai sợ đưa tên Thuận-Tường ra e nguy cho nàng. Nó nói dối:

    - Tiểu bối không rõ nàng họ gì, chỉ biết tên mà thôi. Tiểu bối biết nàng theo hầu Thái-phi, nên mạo muội đột nhập vào đây. Mong Thái-phi khoan thứ cho tuổi trẻ bồng bột.

    - Bồng bột! Người không bồng bột đâu, người thực xứng đáng nam nhi đại trượng phu đa tình. Ở đời đàn ông đa số đều hiếu sắc, đa dâm, rất ít kẻ đa tình. Ta có lời khen người đó.

    Chợt nhớ lại câu truyện đối đáp giữa Định-vương Nguyên-Nghiễm với Minh-Thiên. Tự-Mai hỏi:

    - Thái-phi! Thái-phi có biết Lưu hậu đang định hại Thái-phi để diệt khẩu không?

    - Dĩ nhiên ta biết. Truyện này người nghe ở đâu?

    - Tiểu bối nghe trộm được cuộc đối thoại của Minh-Thiên đại sư với Định-vương, nên đoán ra.

    - Cuộc đối thoại đó ra sao?

    Trí nhớ Tự-Mai rất tốt. Nó thuật lại nguyên văn cuộc đối thoại mà Bảo-Hòa, Thông-Mai ghe trộm, báo về Khu-mật viện Bắc-biên... Rồi Thiệu-Cực trình bầy cho sứ đoàn.

    Lý Thái-phi vẫy Tự-Mai lại gần, bà nói:

    - Thiếu hiệp. Những gì Minh-Thiên với Định-vương nói, đều đúng cả. Ta chết không sao, nhưng hoàng thượng không thể chết được. Ta muốn nhờ thiếu hiệp giúp ta một việc. Thiếu hiệp giúp ta. Ta nguyện không quên ơn. Sau khi xong, ta hứa thả cung nữ bạn gái của thiếu hiệp ra, để hai người thành vợ chồng. Thiếu hiệp nghĩ sao?

    Hùng tâm nổi dậy, Tự-Mai hiên ngang đáp:

    - Thái phi muốn tiểu bối giúp việc gì?

    Thái phi nói nhỏ:

    - Ở đây tai vách mạch rừng. Thiếu hiệp theo ta.

    Bà đứng dậy, tay cầm ngọn nến rồi đẩy mạnh vào bức tường tước mặt. Bức tường chuyển động, để hở ra một con đường ngầm xuống đất. Bà vẫy Tự-Mai cùng vào, rồi kéo vách tường lại như cũ.

    Hai người xuống hầm. Hầm được trang trí như một căn phòng luyện võ. Thái phi chỉ ghế cho Tự-Mai ngồi, rồi nói:

    - Căn hầm này ta dùng để luyện công. Không ai có quyền vào. Ta bí mật kiến tạo, Lưu hậu không thể biết được.

    Bà móc trong vách hầm ra một cái hộp, trịnh trọng để trước mặt, rồi nói:

    - Tuy chưa biết danh tính thiếu hiệp, nhưng thấy cung cách cùng võ công, ta cũng biết thiếu hiệp thuộc đệ tử danh gia, thân phụ thiếu hiệp có địa vị lớn trong võ lâm. Vì vậy ta nhờ thiếu hiệp đem cuốn sách này về trao cho người, để người tùy nghi giúp ta được gì thì giúp. Ta biết chỉ mình thân phụ thiếu hiệp giúp ta được mà thôi.

    - Sao Thái-phi cho rằng phụ thân vãn bối làm được việc khó khăn này.

    - Trên thế gian không ai có thể chống nổi bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng bang Nhật-hồ. Vừa rồi, thiếu hiệp chống được ba chưởng của Lưu hậu, thì lệnh tôn thừa bản lĩnh trị chúng.

    Trong tâm Tự-Mai vang lên lời dạy của bố : Khi người đem nghĩa tri kỷ đãi ta, mà ta không đáp lại, thực chẳng đáng kẻ sĩ. Vì vậy nó nói:

    - Thái-phi yên tâm. Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ Trung-quốc bỏ Lưu hậu theo Định-vương rồi.

    - Có chuyện đó ư?

    Tự-Mai đem việc sứ đoàn Đại-Việt thu phục Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ ra sao thuật lại một lượt. Lý Thái-phi thở phào một tiếng:

    - Tạ ơn Trời, Phật.

    Bà bỗng nắm lấy tay Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp. Ta biết thiếu hiệp là ai rồi.

    - ??

    - Thiếu hiệp họ Trần tên Tự-Mai, con trai thứ của Côi-sơn đại hiệp Trần Tự-An.

    Tự-Mai kinh ngạc đến đờ người ra, không nói nên lời.

    Bà ngơ ngẩn một lúc rồi tiếp:

    - Thì ra võ công thiếu hiệp là võ công Đông-a, xuất phát từ võ công Tiêu-sơn, hèn chi có ba phần giống võ công Thiếu-lâm. Cho nên Thái-hậu không nhận ra.

    Tự-Mai kinh hãi:

    - Sao... sao Thái-phi biết?

    - Biết chứ! Thuận-Tường sang Đại-Việt về thì bị tiến cung. Nó kể cho ta nghe hết. Nó nhớ công tử ngày đêm. Được rồi! Trần công tử, Côi-sơn đại hiệp chế ra thứ nội công khắc chế với Nhật-hồ độc chưởng, hèn chi công tử lĩnh ba chưởng cửa Thái-hậu mà không sao. Công tử đưa tập sách này cho Côi-sơn đại hiệp. Ta hứa việc của công tử với Thuận-Tường tốt đẹp.

    - Xin Thái-phi nói rõ hơn về nguyên do nào Lưu hậu định hại người.

    Lý Thái-phi thở dài:

    - Hiện Thiên-Thánh hoàng đế đã mười tám tuổi, nhưng Lưu Thái-hậu vẫn cầm quyền. Ta với quần thần muốn bà lui về hậu cung. Vì vậy bà định hại ta.

    - Thưa Thái-phi, tiểu bối nghe Lưu hậu có tài trị nước. Vả hoàng đế là con bà sinh ra, bà lấn quyền của con, đâu có gì quá đáng!

    - Thiên-tử không phải con bà sinh ra.

    - Thế sinh mẫu của Thiên-tử là ai?

    - Là ta!

    Tự-Mai mở to mắt ra, nhưng nó hiểu ngay:

    - Thì ra thế. Đúng lý con lên ngôi vua, mẹ làm Thái-hậu, buông rèm thính chính. Có đâu lại do Lưu Thái-hậu? Mẹ đẻ vẫn chỉ là thái phi?

    - Thái-phi còn khá. khi Tiên-đế băng, Lưu hậu thí cho ta chức Thuận-dung tức một thứ cung nữ không hơn không kém, rồi bắt rời cung ra coi lăng tẩm, giống như những cung nữ bị đầy vậy.

    Tự-Mai lắc đầu không hiểu. Lý thái phi thuật:

    - Ta vốn người đất Hàng-châu. Thân phụ làm một chức võ quan thị vệ. Trước tiên đế được vua Nhân-tông tuyển con gái của Tuyên-huy Nam-viện sứ họ Quách phong làm vương phi. Tiên đế lên ngôi, Quách phi được phong Chương-mục hoàng hậu. Năm ba mươi hai tuổi hậu băng. Tiên đế lập một cung nữ xuất thân bần hàn, làm Chương-hiến minh-túc hoàng hậu. Tức Lưu thái hậu bây giờ 1.

    Tự-Mai nhớ lại lời Thiệu-Cực trình bầy. Nó tiếp:

    - Quần thần đều phản đối! Tiên đế hỏi Định-vương Nguyên-Nghiễm. Vương để tay lên ngực, ý muốn nói vua nên tự hỏi lòng mình. Vì vậy Lưu phi được phong làm Hoàng-hậu.

    Thái-phi kinh ngạc:

    - Kiến thức thiếu hiệp thực vô song.

    Tự-Mai kể lại tất cả những gì Thiệu-Cực sưu tầm được: Xuất thân không gốc tích của Lưu hậu. Vua Thái-tông bắt đuổi ra khỏi cung. Sau khi làm Hoàng- hậu, Lưu hậu phụ tá vua ra sao, cùng những biến cố Khấu Chuẩn, Đinh Vị, Tào Lợi-Dụng v.v.

    Lý Thái-phi thở dài:

    - Thiếu hiệp biết tất cả những gì bí ẩn của cung đình Tống. Duy việc hoàng thượng là con của ta, thiếu hiệp không biết mà thôi.

    Bà thở dài:

    - Năm ta mười lăm tuổi được tuyển cung. Bấy giờ tiên đế sủng ái Dương phi. Lưu hoàng hậu thấy ta xinh đẹp, đem về cung hầu hạ. Bà có ý dùng ta chia bớt lòng tiên đế. Quả nhiên ta đại hạnh. Tiên đế thấy ta, sủng ái liền. Ta mang thai. Trong lúc đó Lưu hậu cũng mang thai. Thời gian mang thai... một hôm theo tiên đế chơi hoa viên, cành thoa tiên đế ban cho ta rơi xuống đài. Ta buồn quá phát khóc. Thái giám tìm được dâng lên, thì cành thoa vẫn còn nguyên. Tiên đế phán: Thoa không hư, ắt sinh hoàng nam. Sau mười tháng, một đêm ta đau bụng lâm bồn ra hoàng nam. Ta ôm hài nhi trong lòng. Muốn ghi kỷ niệm cũ, ta đem chàm bôi lên cành thoa, rồi in vào mông hài nhi 2.

    - Chà! Vết chàm có lớn không?

    - Không. Cành thoa đó có chữ Lý là họ của ta.

    Thái phi ngửa mặt nhìn lên nóc hầm, như tưởng lại truyện cũ:

    - Ta mệt quá ngủ thiếp đi đến hai ngày. Khi thức dậy, thì ôi thôi, cung nữ hầu hạ cho ta biết hài nhi đã chết từ bao giờ. Ta khóc lóc thảm thiết, ôm con đi đi lại lại trong phòng. Bất chợt ta để ý thấy mông hài nhi không hề có vết thoa. Ta khám phá ra hài nhi bị chết vì nghẹt hơi, nên mặt tím bầm. Trong khi đó Lưu hậu cũng sinh một hoàng nam. Hôm sau tiên đế tới an ủi ta. Ta đem sự việc tâu lên. Tiên đế cho rằng sau khi sinh mất máu nhiều, con chết, ta hoảng hốt mà tưởng tượng ra. Ta cũng tin như vậy.

    Tự-Mai thở phào một tiếng:

    - Có thể hoàng tử do Lưu hậu sinh ra chết. Bà đem đổi lấy hoàng tử của thái phi. Cũng có thể Lưu hậu giả mang thai. Đợi khi thái phi lâm bồn, bà cũng giả lâm bồn, sai người bắt con của thái phi làm con mình, lại sai bắt con nít dân giả nào đó, bịt mũi cho chết, đem làm con thái phi.

    Lý thái phi giật mình:

    - Thiếu hiệp biết cả rồi ư?

    - Tiểu bối đoán vậy thôi.

    - Ta thực không minh mẫn bằng thiếu hiệp. Hơn năm sau, ta lại thụ thai. Lưu hậu cũng thụ thai. Hai ta cũng lâm bồn cùng một lúc. Ta sinh con gái. Lưu hậu cũng sinh con gái. Sau khi sinh, thực kỳ lạ, ta uống thuốc bổ máu, lập tức ngủ ly bì hơn ngày. Khi tỉnh lại, được biết con gái của ta chết rồi. Ta xem xét, rõ ràng mặt tím, chứng tỏ bị người ta bóp mũi cho chết.

    Tự-Mai cười:

    - Lưu hậu liên hệ với bọn Nhật-hồ, ắt biết dùng thuốc Di-hồn. Thứ thuốc này uống vào ngủ đến hai ngày liền. Có lẽ cả hai lần, bà cho người đầu độc thái phi, làm thái phi ngủ, bà dễ hành sự.

    Lý thái phi nhảy phắt lên:

    - Thì ra thế. Bây giờ ta hiểu hết cả. Con trai Lưu-hậu sinh ra được phong làm Thái-tử liền. Lưu- hậu sai Dương phi nuôi dưỡng. Còn công chúa bà sai ta nuôi.

    - Có phải công chúa Huệ-Nhu không?

    - Đúng đấy! Này thiếu hiệp, võ công người cao thâm như vậy, sao người không ứng tuyển phò mã. Ta nói cho người biết công chúa Huệ-Nhu có nhan sắc khắp hậu cung không ai bì kịp. Nàng lại văn hay, chữ tốt, võ công cao cường.

    Tự-Mai lắc đầu:

    - Đa tạ tiền bối, dù công chúa Huệ-Nhu có là con gái Ngọc-Hoàng đại đế, là Hằng-Nga giáng thế, vãn bối cũng không thế ứng tuyển, vì tâm vãn bối đã có người bạn gái kia rồi. Dù nàng ở trong ngục A-tỳ, dù nàng ở góc biển chân trời nào vãn bối cũng phải cứu nàng ra.

    - Thực là một thiếu niên đa tình. Thế gian này, người đa tình thường đa tài. Cung nữ bạn của thiếu hiệp diễm phúc không nhỏ. Thiếu hiệp gặp nàng trong trường hợp nào?

    Tự-Mai thấy Lý thái phi dám đem tính mệnh của mình, của hoàng đế ra gửi cho nó. Nó nghĩ thầm:

    - Ta chẳng nên dấu diếm bà.

    Nó thuật tỷ mỉ trận đánh Tản-lĩnh cùng cuộc tao ngộ với Thuận-Tường, không thiếu chi tiết nào cho Lý thái phi nghe. Bà chăm chú theo dõi, thỉnh thoảng hỏi thêm chi tiết. Sau khi nghe xong, bà vuốt tóc nó:

    - Khi Thuận-Tường tiến cung, nàng có thuật cho ta nghe về mối nhu tình với thiếu hiệp. Ta hỏi thực, có phải Thuận-Tường cho người dẫn thiếu hiệp vào đây tương hội không? Con nhỏ này thực to gan lớn mật. Còn thiếu hiệp thì ngang quá ghẹ, lại liều lĩnh đa tình.

    Bà nghĩ ngợi một lúc rồi nói:

    - Cái tin Khai-Quốc vương với Định-vương kết huynh đệ có đúng không?

    Tự-Mai trả lời bằng cái gật đầu:

    - Lưu hậu muốn giảm thế lực của Định-vương, mới bầy ra vụ sai vương đi sứ Nam-thùy, gây hấn với võ lâm tộc Việt. Như vậy Lưu hậu chỉ việc ngồi ôm gối xem hai hùm chọi nhau. Lúc đầu Định-vương bị mắc mưu. Sau vương nhận ra một sự thực: Tống nên có một người anh em trung thành ở phương Nam hơn là một đại thù. Người kết huynh đệ với Khai-Quốc vương.

    Lý thái phi chắp tay hướng lên trời:

    - Tạ ơn Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông. Tạ ơn thái cô Nữ-Oa dun dủi cho hai anh tài kết huynh đệ.

    Tự-Mai lại lược thuật một lần nữa việc sứ đoàn chinh phục Trường-giang thất quỷ cùng bang Nhật-hồ. Biến bang Nhật-hồ thành bang Hoàng-Đế. Lý thái phi tươi nét mặt:

    - Ta có nghe tin này. Bây giờ chính miệng thiếu hiệp kể lại ta mới tin hẳn. Từ khi bản triều lập lên, mối ưu tư lớn của vua Thái-Tổ, Thái-Tông, Tiên-đế là bang Nhật-hồ cùng dư đảng của bang này. Nay dư đảng lớn nhất là Trường-giang thất quỷ qui phục Khai-Quốc vương. Bọn Nhật-hồ biến thành bang Hoàng-Đế, đến nằm mơ ta cũng không ngờ tới.

    Chợt bà mở to mắt, hàn quang chiếu ra làm Tự-Mai lạnh cả người:

    - Thiếu hiệp! Phải chăng thiếu hiệp nhận chỉ dụ của Định-vương về kinh, thi hành một sứ mạng gì?

    - Thái phi đã hỏi, vãn bối đâu dám dấu. Vãn bối đến đây với hai sứ mạng. Một là đón Ngô Quảng-Thiên về Đại-Việt. Hai là tìm cho ra gốc tích bốn người thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt tên Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản.

    Lý thái phi cười lớn, vỗ vai Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp là em Khai-Quốc vương, cũng như em Định-vương, mà không hiểu rõ hai ông anh mình.

    - Tiểu bối ngu muội chưa nắm vững vấn đề.

    - Phàm khi ban lệnh cho người dưới, tùy theo khả năng mà giao. Thiếu hiệp với bốn người anh em kết nghĩa, võ công, mưu trí tuyệt vời. Nên hai ông anh giao việc, mà không đi vào chi tiết. Hai vị tính toán dùng năm người em vào việc khác hơn là hai việc kia. Binh pháp nói: Hư là thực, thực là hư như thế đó.

    Tự-Mai chợt à lên một tiếng:

    - Phải rồi! Muốn phóng thích Ngô Quảng-Thiên cùng ba con trai, thì Định-vương chỉ cần sai một tên thư lại truyền lệnh cũng đủ. Cha con họ Ngô tự trở về Đại-Việt, đâu cần bọn vãn bối hộ tống? Đúng rồi, riêng một mình Ngô Cẩm-Thi võ công cũng cao ngang bọn vãn bối, thêm Ngô lão sư với ba con trai, e khó ai đến gần, bọn vãn bối thực ngu quá.

    - Đúng thế. Hai ông anh thiếu hiệp thuộc loại trí-tuệ bậc nhất thế gian, lại nắm Khu-mật viện trong tay, lý gì không biết hành trạng bốn tên Đào, Chu, Sử, Khiếu mà phải nhờ năm thiếu hiệp?

    Tự-Mai đờ người ra một lúc, rồi nó đỏ mặt lên:

    - Mình thực đáng chết. Anh cả với Định-vương đã biết việc mình với Thuận-Tường, đương nhiên biết Thuận-Tường bị tiến cung, đang phục thị Lý thái phi. Người ước tính mình về kinh ắt tìm Thuận-Tường. Rồi Thuận-Tường cho người dẫn mình vào đây tương hội với Lý phi. Hèn gì Triệu Huy đem bản đồ hoàng thành, cấm thành giảng giải chi tiết cho mình. Thì ra hai ông anh đã tính trước.

    Nó bật dậy:

    - Hai vị biết Thái-phi bị bao vây không thể liên lạc được. Vì vậy mới xếp đặt cho vãn bối về kinh để gặp Thái-phi. Trời ơi! Thực xấu hổ. Hai ông anh coi vãn bối như con kiến bò trên tay vậy. Thái-phi thực xứng đáng tri kỷ của Định-vương. Thoáng một cái hiểu ý vương liền.

    - Bây giờ thiếu hiệp cứ đóng vai thái giám Mai-Tự trong cung Ôn-đức, tự do ra vào, không ai nghi ngờ gì. Tuy nhiên phải tối cẩn thận, vì tai mắt Lưu hậu rất nhiều.

    Sau đó Lý thái phi dặn dò Tự-Mai từng đường đi nước bước trong cung. Những ai đáng tin cậy, những ai cần đề phòng. Bà kết luận:

    - Thiếu hiệp đã bị lộ hình tích, khiến Lưu hậu nghi ngờ Định-vương sai người đến liên lạc với ta. Đêm nay thiếu hiệp hãy ra ngoài cùng các bạn phải làm bằng này việc: Trước hết thanh toán mười trưởng lão bang Nhật-hồ, làm Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc mất hết vây cánh. Sau tìm cách chia rẽ hai người này với Lưu hậu.

    - Mười trưởng lão bang Nhật-hồ giả làm thị vệ, diễn vở kịch để cho Trường-giang thất quỷ bắt đi, vãn bối đã biết mặt chúng. Võ công chúng cao thâm khôn lường. Còn hai tên Đào, Chu hiện ở đâu?

    - Chúng mới lên đường cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ đi Khúc-giang để đào kho tàng. Bị thất bại trong vụ Trường-giang thất quỷ, chắc chúng sẽ tìm đủ cách bắt sứ đoàn hầu đào kho tàng. Khi năm thiếu hiệp lên đường chúng chưa xuất hiện phải không? Còn hai gã Sử-Vạn, Khiếu hiện ở xung quanh Lưu hậu.

    Tự-Mai chợt nhớ lại cuộc tao ngộ với Thông-Mai ở tửu lầu. Nó nghĩ ra ngay:

    - Thôi rồi, anh cả với Định vương sợ Lưu hậu hại Lý thái phi với hoàng đế. Hai người sợ màng lưới Lưu hậu, khó liên lạc với thái phi. Vì vậy Định vương muốn ta về kinh giữa lúc người vắng nhà, Lưu hậu không đề phòng. Người đoán rằng ta sẽ đột nhập cấm cung thăm Thuận-Tường. Người nhờ ta thông báo việc Lưu hậu định hại nhà vua cho thái phi. Rồi anh Thông-Mai dặn ta dạy bà cách phản Ngũ-độc chưởng. Khi có bản lĩnh này trong tay, chính thái phi trị Lưu hậu dễ dàng.

    Nghĩ vậy nó nói:

    - Thái-phi! Thái-phi đã hứa giúp cháu vụ Thuận-Tường. Cháu muốn tạ Thái-phi một lễ.

    - Thiếu hiệp cho ta gì nào?

    - Vãn bối bạo gan, muốn truyền bản lĩnh phản Chu-sa ngũ độc cho Thái-phi. Khi Thái-phi có bản lĩnh này trong tay, chẳng còn úy kị Lưu hậu nữa.

    - Ta sợ nội công Nga-mi với Đông-a khác nhau, e khó luyện thành.

    - Thái phi cứ thử xem, biết đâu?

    Rồi không đợi bà có đồng ý hay không, nó giảng về yếu quyết kinh Thủ-lăng nghiêm, cùng tương quan giữa Thủy, Hỏa Mộc, Thổ Hỏa, Kim Thổ, Thủy, yếu quyết nội công Đông-a. Thái phi ngồi vận công thử. Bà thấy không khó khăn gì.

    Tự-Mai lại giảng về cách vận hành chân khí chu lưu kinh mạch, cách phát lực cùng dùng Tam-âm kinh phòng ngự. Tam-dương kinh tấn công. Lý-phi luyện một lúc cũng thông ngay.

    Cuối cùng Tự-Mai cùng bà chiết chiêu để bà vận khí cho quen. Cứ như vậy đến gần sáng thì bà phát chiêu đã khá thành thạo. Bà chắp tay hướng Tự-Mai:

    - Nhất tự vi sư, bán tự vi sư. Thiếu hiệp dạy ta phương pháp này là muốn cứu ta, muốn cứu hoàng thượng. Ta... muôn vàn cảm tạ.

    Rồi không giữ được cảm động bà ôm lấy Tự-Mai. Tự-Mai mồ côi mẹ từ nhỏ, cạnh nó có Thanh-Mai. Nhưng gần đây Thanh-Mai lấy chồng, chị em không gần nhau thường, cho nên nó thấy thiếu thốn một cái gì. Bây giờ Thái-phi ôm lấy nó, nó cũng ôm lấy bà như hai mẹ con. Lát sau Thái-phi xoa đầu nó:

    - Sau này ta muốn gặp thiếu hiệp thì tìm ở đâu? Không lẽ cuộc tao ngộ này rồi vĩnh biệt ư?

    - Vãn sinh không bao giờ quên Thái-phi đâu. Dù có quên Thái-phi, vãn sinh cũng không thể quên Thuận-Tường. Nhớ Thuận-Tường, đương nhiên vãn bối phải tìm Thái-phi.

    Thái-phi vuốt tóc nó:

    - Hay thế này. Ta... ta muốn nhận thiếu hiệp làm cháu, nên chăng?

    Tự-Mai xụp xuống đất lạy bốn lậy:

    - Cô cô.

    - Điệt nhi.

    Hai người lại ôm lấy nhau. Lý Thái-phi nói:

    - Ta được một điệt nhi như cháu, thực không gì vui bằng.

    Hai người nói chuyện một lúc rồi thái phi trao chiếc hộp cho Tự-Mai, bà nói nhỏ:

    - Điệt nhi phải rời đây ngay đêm nay. Ta vờ sang cung Lưu hậu thăm bà. Điệt nhi theo ta, khi tới chân cấm thành, thì vượt tường ra ngoài.

    Bà mở cửa hầm, cùng Tự-Mai ra ngoài. Bà đi trước. Tự-Mai chắp tay giả theo sau hướng phía Tây. Vừa đi được một quãng, thì hai tên thị vệ đứng chắn đường:

    - Tâu Thái-phi! Đêm khuya, trong cấm thành mới có thích khách. Xin Thái-phi trở về cho.

    Tự-Mai biết hai thị vệ này có nhiệm vụ canh Thái-phi. Thái-phi đáp:

    - Ta thăm Thái-hậu.

    Nói rồi bà thản nhiên bước đi.

    Hai tên thị vệ bàn với nhau mấy câu, rồi một tên theo sau Lý Thái-phi với Tự-Mai. Khi tới chân cấm thành, Lý Thái-phi bảo Tự-Mai:

    - Mai-Tự, đã có thị vệ theo hầu ta. Người lui thôi.

    Tự-Mai khom lưng, quay trở về. Tên thị vệ theo Lý Thái-phi đi. Nhìn trước, nhìn sau không có ai, Tự-Mai tung người lên tường cấm thành, rồi nhẹ nhàng đáp xuống. Nó hướng cửa Đông hoàng thành mà đi. Ngửa mặt nhìn lên trời, thấy cặp chim ưng đang bay theo, nó yên tâm.

    Vừa tới cửa Đan-phượng, tiếng chim ưng ré trên không. Tự-Mai giật mình, vì nó biết chim ưng báo cho biết có người theo dõi. Nó thản nhiên như không biết, tìm chỗ thấp, tung mình leo lên mặt hoàng thành ra ngoài.

    Nó vờ bước đi, nhưng lắng tai nghe, thấy có tiếng chân người, biết mình vẫn bị theo dõi. Thình lình nó quay lại, thấy thấp thoáng có bóng người núp vào bụi cây phía sau. Nó tung mình tới xử dụng ưng trảo chụp người kia. Người ấy lạng mình tránh khỏi. Nó chĩa nhón tay điểm vào huyệt Á-môn. Người kia ngã lăn xuống đất.

    Tự-Mai nhắc người đó lên, nó kinh ngạc vì thấy người đó nhẹ quá. Dưới ánh sáng lờ mờ, nó nhận ra đó là một thiếu nữ. Nếu như Thiệu-Thái, Lê Văn, chắc chắn sẽ tỵ hiềm nam nữ, không dám đụng vào người nàng. Tự-Mai là con Côi-sơn đại hiệp, người ngang tàng không hai trên đời. Ông thường công kích những lề thói hủ lậu của luân lý Khổng, Lão, Phật. Cho nên nó nhiễm lối giáo dục của bố. Không nề hà nó cặp thiếu nữ vào nách, rồi hướng phủ Định-vương, dùng khinh công chạy tới.

    Nó vừa tới nơi, đã thấy cổng mở sẵn. Lê Văn đang chờ nó:

    - Em thấy chim ưng bay hướng này, biết anh về, nên mở cổng chờ.

    Thấy Tự-Mai cặp nách một cô gái, nó hỏi:

    - Ai thế này?

    - Không rõ. Y thị theo dõi ta. Ta điểm huyệt đem về đây.

    Viên thị vệ gác cổng thấy Tự-Mai ngang nhiên bắt một thiếu nữ, y trố mắt nhìn. Tự-Mai nói:

    - Thị là gian tế. Ta bắt về trao cho vương gia.

    Hai thiếu niên đem thiếu nữ vào sảnh đường. Tự-Mai nói với nàng:

    - Ta điểm huyệt làm cho mi không nói được, chân tay mi tê liệt. Bây giờ ta giải khai huyệt đạo cho mi. Bằng mi la lên một tiếng, ta lại làm cho mi câm. Nếu mi tuân lệnh thì chợp mắt ba cái liền.

    Thiếu nữ chợp mắt ba cái. Tự-Mai giải khai huyệt đạo. Nàng nhảy phắt dậy. Bấy giờ Tự-Mai mới nhận ra thiếu nữ tuổi khoảng mười lăm, mười sáu, đôi mắt to đen, mũi cao, không giống người Hán, người Việt. Đầu nàng cài một bông lan bằng vàng, trên dát bẩy viên kim cương lóng lánh. Cổ đeo chuỗi ngọc trai đến năm vòng sáng rực. Hai cổ tay, mỗi bên ba cái vòng, một bằng ngọc xanh, một bằng vàng, một bằng bạc. Nàng mặc áo lụa mầu xanh, xiêm trắng, khăn quàng cổ mầu tín. Tự-Mai, Lê-Văn cùng khen thầm:

    - Nàng này đẹp không thua gì Huệ-Phương với Mỹ-Linh. Không chừng là vương phi, công chúa cũng nên.

    Lê Văn hỏi:

    - Cô nương tên gì? Thuộc phủ nào? Ty nào trong cấm thành?

    Thiếu nữ quát:

    - Quân này to gan thực! Bọn mi là ai mà dám ám toán hại ta. Ban nãy ta không đề phòng, bị mi tấn công. Bây giờ thì đừng hòng.

    Giọng thiếu nữ lơ lớ cực kỳ khó nghe.

    Nói rồi nàng xuất quyền đánh Tự-Mai đến vù một tiếng. Tự-Mai không né tránh, nó dùng hai ngón tay kẹp lấy cổ tay nàng. Thiếu nữ vùng vẫy gỡ ra, nhưng tay nàng như bị kìm xiết chặt. Tức quá nàng co chân đá Tự-Mai. Nó nhận ngay ra chiêu cước thuộc võ công Sài-sơn. Thấy kình lực của nàng yếu quá, nó vận công chịu đòn. Bốp một tiếng, thiếu nữ mắng:

    - Đồ quỷ sứ.

    Nước mắt thiếu nữ rơm rớm chảy xuống đôi mi cong thực đẹp.

    Tự-Mai thấy nét mặt nàng hiện ra vẻ đau đớn, nó vội buông ra. Thiếu nữ ôm tay nhăn nhó, lườm lườm nhìn Tự-Mai:

    - Sẽ có một ngày kia ta ăn thịt mi.

    Tự-Mai hối hận:

    - Tại hạ hơi mạnh tay, mong cô nương đừng chấp.

    Lê Văn thấy tay nàng biến sang mầu tím, nó về phòng lấy ra hộp cao, trịnh trọng:

    - Cô nương, để tại hạ thoa thuốc cho cô nương, bằng không tay tím bầm xấu lắm.

    Thiếu nữ đưa tay cho Lê Văn thoa thuốc. Bàn tay nàng thon dài, da mịn màng, tươi hồng. Lê Văn thoa đến đâu vết bầm đen biến đi đến đó. Nàng nói với nó:

    - Cảm ơn. Thôi ta đi đây.

    Nói rồi rảo bước ra cửa. Tự-Mai chặn lại:

    - Khoan! Cô nương không thể ra khỏi đây.

    Thiếu nữ cũng không vừa:

    - Mi định làm gì ta?

    - Cô nương phải khai cho rõ. Hà cớ gì cô nương theo ta!

    Thiếu nữ phát cáu:

    - Có ai vô lý như mi không? Mi có việc của mi. Ta có việc của ta. Hà cớ mi quay lại ám toán ta, rồi bảo ta theo mi.

    Thiếu nữ quay lại nói với Lê Văn:

    - Này anh. Ta thâm cảm ơn anh đã chữa tay cho. Trong người ta còn nhiều vết đau đớn. Nếu anh chữa cho ta khỏi, bao nhiêu tiền ta cũng trả.

    Nói rồi nàng vén tay áo. Tự-Mai, Tôn Đản cùng ồ lên kinh ngạc. Khắp cổ tay mịn đẹp, đầy những vết roi nổi tím bầm. Lê Văn nắm lấy tay nàng xem xét, nó hỏi Tự-Mai:

    - Anh đánh nàng đấy à?

    Thiếu nữ lắc đầu:

    - Không phải y.

    Rồi nàng dụt tay lại, đưa mắt nhìn Tự-Mai:

    - Ta không cho y nhìn thấy tay ta.

    Lê Văn nói với Tự-Mai bằng tiếng Việt:

    - Em đồ chừng trong người nàng còn nhiều vết thương. Em là thầy thuốc chắc nàng không ngượng ngùng. Còn anh, sợ nàng e thẹn. Vậy anh tránh sang bên cạnh, em xem bệnh cho nàng.

    Tự-Mai sang phòng bên cạnh. Lê Văn xem xét thấy khắp chân tay cùng thân thiếu nữ đầy vết roi. Nó điểm vào mấy yếu huyệt trấn thống, rồi dịu dàng nói với nàng như mẹ nói với con:

    - Tội nghiệp quá! Cô nương đừng quản ngại. Cô nương cho tại hạ xem xét vết thương trong người, mới hy vọng chữa trị được.

    Thiếu nữ e thẹn, nhưng cũng phải cởi áo ra. Lê Văn rùng mình vì khắp người nàng đầy thương tích. Nó than:

    - Trời ôi! Kẻ nào đánh cô nương tàn nhẫn thế này.

    Lần đầu tiên trên đời phải để lộ thân thể trước một chàng trai. Ngượng quá, thiếu nữ lấy áo che thân, mắt nhìn lên trần nhà:

    - Thôi đại ca. Ngượng chết đi được.

    Miệng tuy nói vậy, nhưng nàng vẫn để cho Lê-Văn xem vết thương. Sau khi xem xét, Lê Văn nói:

    - Cô nương chỉ bị ngoại thương mà thôi, không hề gì. Chữa trị ba ngày thì khỏi.

    Nó lấy cao thoa trên người nàng. Đầu tiên nó thoa trên hai cánh tay. Cô gái ngượng quá, vội quay mặt đi.

    Thời bấy giờ luân lý tộc Việt, tộc Hán rất quý trọng phụ nữ. Vì vậy con gái phải che kín khắp người. Ngay cha, anh cũng không được nhìn thấy cánh tay đầu gối. Vì bắt buộc phải để cho Lê Văn trị bệnh cho, nên cô đành hở thân thể ra đã là quá đáng. Đây Lê Văn còn chà cao lên da, lên thịt, hỏi sao nàng không ngượng?

    Lúc đầu tay Lê Văn chạm vào vết thương, nàng còn thấy đau, sau đó nó chà mấy cái, cảm giác đau đớn biến đi, thay vào bằng cảm giác khoan khoái rừng rực chạy khắp người. Chịu không được, nàng bật lên tiếng kêu:

    - Thôi đi anh. Em... chịu không nổi rồi.

    Cô gái nói thực, nhưng Lê Văn cho rằng nàng đau, chứ không phải cảm giác kỳ lạ. Lời Hồng-Sơn đại phu dạy vang lên bên tai nó:

    - Khi bệnh nhân đau đớn, thầy thuốc phải tự coi mình như một người mẹ hiền, an ủi, thương xót họ.

    Nó sẽ vuốt lên mái tóc nàng:

    - Cô nương ngoan, chịu khó một tý thôi, để tôi trị cho mau khỏi, lỡ để lâu, vết thương đóng mủ, thành thẹo thì xấu lắm. Ừ, cô nương ngồi yên như vậy đi.

    Thấy lời dỗ có kết quả, Lê Văn tiếp tục thoa đến phần lưng nàng. Cô

    gái run lên bần bật, trong khi Lê Văn lại tưởng nàng đau đớn, nó càng dỗ bằng những lời thực ngọt:

    - Cô nương ngoan lắm. Ngồi yên nghe. Đấy, cô nương thấy không, tôi thoa thuốc đến đâu, hết đau đến đó.

    Lời Lê Văn càng ngọt ngào, cô gái càng rung động mãnh liệt. Thoa hết phía sau, Lê Văn thoa đến phía trước. Khi phải thoa đến vết thương trên nhũ hoa, nó ngừng lại lưỡng lự một lúc không biết có nên tiếp tục hay không. Lời Hồng-Sơn đại phu vang lên trong đầu nó:

    " Khi phải trị bệnh, không nên tỵ hiềm tuổi tác, nam nữ, giống nòi cũng như giầu nghèo, sang hèn. Chỉ cần có kết quả là y đạo đã đạt".

    Nó nhắm mắt lại rồi thoa thuốc cho thiếu nữ. Thiếu nữ rên:

    - Đừng anh! Đừng! Ta xấu hổ chết đi được. Ái!

    Mặc nàng kêu, Lê Văn tiếp tục thoa. Qua một vài lần, nó can đảm hơn, mở mắt ra nhìn. Nó thấy thiếu nữ lim rim mắt, người như say rượu.

    Sau khi thoa thuốc, Lê Văn giải khai huyệt đạo cho nàng. Thiếu nữ nói nho nhỏ:

    - Đa tạ đại ca.

    Lê Văn lấy bút viết thang thuốc:

    Qui-bản, Lộc-nhung, Hổ-cốt, Hà-thủ-ô,
    Xuyên ngưu-tất, Đỗ-trọng, Tỏa-dương,
    Đương-qui, Thục-địa, Uy-linh-tiên,
    mỗi thứ hai lượng.
    Hoàng-bách, Nhân-sâm, Khương-hoạt,
    Bạch-thược, Bạch-truật, Đại-xuyên phụ-tử.
    Mỗi thứ lượng rưỡi.
    Tất cả tán nhỏ, chế mật ong, làm thành viên, uống mỗi ngày ba tiền. 3
    Nó nói:

    - Cô nương ra hiệu thuốc cắt lấy thang thuốc này, mỗi ngày buổi sáng uống một viên với rượu. Uống hết, thì sức khỏe mới phục hồi. Thôi cô nương có thể ra về.

    Thiếu nữ đầm đìa nước mắt:

    - Tiểu muội không nhà thì biết về đâu.

    - Cô nương không ở trong hoàng thành ư?

    Thiếu nữ lắc đầu:

    - Hoàng thành là cái gì?

    - Chỗ cô nương bị anh Tự-Mai của tôi bắt đó.

    - Chỗ ấy là hoàng thành à? Hoàng thành Đại-Việt hay Lão-qua?

    - Hoàng thành Đại-Tống.

    Mặt thiếu nữ hiện lên vẻ kinh hãi:

    - Trời ơi! Thì ra tiểu muội bị bắt đem đến kinh đô Tống ư?

    - Cô nương không biết mình ở đâu à?

    - Không. Tiểu muội cùng huynh trưởng, chị dâu trên đường đi sứ sang Tống. Khi tới Liễu-châu thì tiểu muội bị gian tặc bắt đem đi. Chúng giam cầm, tra hỏi tiểu muội hơn nửa tháng nay. Hồi chiều, tiểu muội vờ ngất đi, chúng cho tiểu muội uống thuốc, rồi để nằm trên dường. Tiểu muội nhân đó vượt tường trốn đi, thì bị cái anh kia bắt mang về đây.

    - Cô nương trong sứ đoàn sang Tống. Vậy cô nương là ai?

    - Tiểu muội tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt, công chúa Xiêm-quốc.

    Lê Văn bật lên tiếng ái chà:

    - Hèn gì công chúa nói tiếng Hoa nhẹ như chim hót vậy đó. Ai bắt cóc công chúa? Chúng tra khảo điều gì? Chắc chắn chúng không phải trộm cướp, vì nếu là trộm cướp chúng đã tước đoạt châu báu trên người công chúa rồi.

    - Chúng tra hỏi bắt tiểu muội dịch một pho sách cổ. Chúng nói văn tự Khoa-đẩu cổ với văn tự Thái là một. Tiểu muội nói rằng văn tự Thái vốn gốc từ văn tử Khoa-đẩu, do quốc mẫu Phùng Vĩnh-Hoa truyền bá. Nhưng trải hơn nghìn năm, đã đổi khác nhiều. Vì vậy tiểu muội chỉ biết được một trong mười chữ. Chúng không tin, tra hỏi tiểu muội hoài. Người tra hỏi tiểu mội là một mụ đàn bà xinh đẹp. Hồi đầu chúng không đánh, chỉ cật vấn thôi. Sau tiểu muội tức quá bưng bát canh nóng ném vào người mụ. Mụ ra lệnh đánh tiểu muội một trăm roi. Tiểu muội vờ trợn mắt giả chết. Chúng sợ quá cậy miệng ra đổ thuốc cho tiểu muội, rồi đặt lên dường. Đợi chúng không phòng bị, tiểu muội trốn đi. Trong khi trốn, gặp cái anh chàng kia điểm huyệt đem ra đây.

    Lê Văn an ủi:

    - Công chúa đừng giận anh ấy. Anh ấy là người rất tốt, cũng chạy trốn như công chúa. Vì thấy công chúa theo sau. Anh ấy tưởng công chúa là thị vệ đuổi theo, nên ra tay hơi nặng.

    Lê Văn gọi một thị vệ phủ Định-vương:

    - Phiền anh ra chợ cắt cho thang thuốc này đem về gấp.

    Nó móc túi đưa cho y một nén bạc.

    Lúc đầu Lê Văn thấy Nong-Nụt xử dụng võ công Sài-sơn, nó hơi ngạc nhiên. Bây giờ biết nàng là công chúa Xiêm, nó hiểu ngay: Võ công Xiêm-la, Lão-qua do công chúa Phùng Vĩnh-Hoa cùng chư đệ tử của người truyền lại.

    Chợt nhớ lại một truyện: Vương phi Khai-Thiên vương cũng bị nhóm Lưu hậu bắt sang Tống, Tự-Mai đem bản đồ hỏi Nong-Nụt:

    - Công chúa bị giam ở chỗ nào trong hoàng thành? Liệu công chúa còn nhớ không?

    - Nhớ chứ. Đây chỗ tôi bị giam đây. Trong đó còn một bà bị giam nữa. Bà ta cũng bị bắt dịch sách như tôi vậy.

    Một ánh sáng loé lên trong đầu Tự-Mai:

    - Không lẽ là bà? Được ta hãy ghi nhớ, chờ có dịp, ta thám thính xem sao.

    Đến đó có tiếng ngựa lộp cộp, rồi nhiều người vào sân. Lê Văn nhìn ra: bọn Triệu Huy, Tôn Đản đã về đầy đủ, chỉ thiếu có Ngô Cẩm-Thi.

    Tự-Mai hỏi:

    - Ngô tiểu thư đâu rồi?

    Triệu Huy đáp:

    - Ngô tiểu thư trùng phùng với phụ mẫu cùng ba vị huynh trưởng, nên nàng ở lại để hàn huyên.

    Lê Thuận-Tông hỏi Tôn Đản:

    - Anh năm này. Theo lệnh anh cả, khi chúng ta gặp Ngô bá bá rồi phải lên đường ngay. Vậy mai chúng ta khởi hành chứ?

    Tôn Đản đưa mắt cho Tự-Mai:

    - Ông quân sư định sao?

    - Dĩ nhiên là thế. Ở đây phức tạp lắm, lên đường ngay để tránh phiền tạp.

    Triệu Huy thấy Nong-Nụt. Y đưa mắt hỏi Lê Văn. Lê Văn đáp:

    - Cô nương đây nhũ danh Nong-Nụt, thuộc khê động Thái ở Bắc-biên, được Khai-Quốc vương phái mang thư đến cho chúng tôi. Phiền An-phủ sứ tìm cho nàng một phòng thực yên tĩnh.

    Triệu Huy đi rồi, Tự-Mai thuật mọi việc cho bốn anh em nghe. Tôn Đản bàn:

    - Nhất định công chúa Nong-Nụt bị Lưu hậu sai người bắt cóc rồi. Hôm nay Triệu Huy đem lệnh Định-vương đến Khu-mật viện truyền tha Ngô Quảng-Thiên, chắc chắn Lưu thái hậu biết. Sự hiện diện của chúng ta tại đây khó qua mắt bà. Vậy mai chúng ta giả ngoan ngoãn lên đường. Hôm trước Ngô Quảng-Thiên là hư chúng ta là thực. Bây giờ chúng ta là hư, còn Bảo-Hòa, Thông-Mai mới là thực.

    Tự-Mai còn muốn trở lại gặp Thuận-Tường. Nhưng nghĩ tới quốc sự, nó đành theo lời Tôn Đản.

    Sáng hôm sau Tôn Đản nói với Triệu Huy:

    - Triệu An-phủ sứ ở lại nghe. Anh em chúng tôi xin lên đường.

    Triệu Huy sai cấp cho gia đình Ngô Quảng-Thiên ba con ngựa để ba con trai cỡi. Còn một chiếc xe bốn ngựa cho vợ chồng Ngô Quảng-Thiên với Cẩm-Thi. Năm ông thiên lôi đứng trước bậc tiền bối như Ngô Quảng-Thiên, chúng không dám đùa nghịch, đứa nào cũng làm mặt nghiêm. Tôn Đản sai Tự-Mai, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cỡi ngựa đi trước. Nó đi bên cạnh xe ngựa Ngô Quảng-Thiên. Tiếp theo tới ba anh em họ Ngô. Cuối cùng là Lê Văn, Nong-Nụt.

    Mấy hôm sau đoàn người ngựa tới Kinh-châu. Tự-Mai đưa mọi người tới bến sông tìm đò chở mướn sang. Suốt một giải Giang-Bắc, thuyền đậu san sát hàng nghìn chiếc, lớn có, nhỏ có. Khác với các bến đò khác, khách đến thẳng đò điều đình. Bến đò Giang-Bắc không thế. Tất cả đò của năm chủ. Một chủ chuyên chở xuôi giòng về Đông. Một chủ chở ngược giòng về Tây. Một chủ chở lên Bắc, một chủ chở xuống Nam. Còn một chủ chở ra biển.

    Tự-Mai tới hãng chở xuống Nam. Một trung niên thiếu phụ tiếp nó. Mụ hỏi:

    - Khách quan có bao nhiêu người ngựa?

    - Chúng tôi có mười hai người, một xe tứ mã, và chín ngựa.

    - Quan khách muốn qua sông hay đến tận Nam hồ Động-đình?

    - Tôi muốn tới Nam hồ.

    - Xin cho một lượng vàng.

    Tự-Mai định chê đắt, thì có tiếng tiêu dìu dặt vọng lại. Một tiểu đồng cỡi lừa thủng thẳng đi tới. Tự-Mai nhận ra y tấu bản Trương Chi tình khúc. Tiểu đồng liếc nhìn Tự-Mai rồi nói với mụ cho thuê đò:

    - Này mụ Tư. Mụ nhường cho ta món khách này được không?

    - Được chứ.

    Tiểu đồng nói với Tự-Mai:

    - Khách quan đi đò của tôi tốt hơn. Chúng tôi sẽ đãi cơm quý khách. Nhưng giá tới ba lượng vàng kia đấy.

    Ngôn ngữ tiểu đồng khác thường, Tự-Mai đưa mắt nhìn. Nó thấy trên ngực tiểu đồng mang con chim ưng bằng bạc, rõ ràng dấu hiệu của phái Đông-a. Nó nghĩ thầm:

    - Cứ như ngôn ngữ của gã này, thì gã thuộc đời thứ ba. Như vậy gã là đệ tử của sư huynh ta đây.

    Nghĩ vậy nó đáp:

    - Tôi chỉ có hai lượng thôi.

    Tiểu đồng ép tay ngang hông, chìa hai ngón tay ra giật giật mấy cái như hành lễ rồi nói:

    - Xin quan khách theo tôi.

    Tự-Mai vẫy tay cho cả đoàn theo tiểu đồng tới bãi sông. Tiểu đồng truyền đò phu dắt ngựa, đẩy xe xuống con đò lớn. Còn người thì mời ngồi trên sàn, ngắm cảnh. Thuyền từ từ rời bến, hướng Nam-ngạn.

    Thuyền đi đến giữa sông, trong sóng gió mịt mờ, xa xa xuất hiện một con đò cực lớn, ẩn hiện giữa lớp mây mù. Tiếng đàn, tiếng trống từ con đò đó vọng lại nhu hòa êm ái vô cùng. Mọi người cùng lắng tai nghe. Khi hai con thuyền cách nhau khoảng nửa dặm, thình lình âm điệu trên con đò lớn đổi hẳn. Mỗi tiếng đàn, tiếng trống đều khiến mọi người như muốn ù tai nhức óc.

    Nong-Nụt nội công non nớt nhất, nàng phải bịt tai lại. Nhưng tiếng đàn, tiếng sáo vẫn lọt vào tai nàng. Lê Văn kinh hãi để ngón tay trỏ vào huyệt Đại-trùy của nàng, rồi dồn chân khí sang. Nong-Nụt lấy lại được bình tĩnh. Nàng than:

    - Âm nhạc gì mà quái gở vậy?

    Âm nhạc lại đổi nhịp, đổi điệu. Mọi người đều khoa chân múa tay như điên loạn.

    Ngô Quảng-Thiên hô lớn:

    - Tất cả ngồi im vận công. Kẻ địch muốn dùng âm nhạc tấn công chúng ta.

    Mọi người vội ngồi vận công. Nhưng chỉ được một lúc, tiếng nhạc như càng thúc dục, khiến chân tay múa may quay cuồng.

    Lê Văn thấy cái nồi đồng nấu cơm để ở cuối thuyền. Nó cầm lên, tay rút kiếm gõ vào nồi thành tiếng boong boong. Lạ thay tiếng boong boong làm âm thanh bên thuyền kia hỗn loạn. Mọi người cảm thấy khoan khoái như trút được gánh nặng.

    Nong-Nụt hỏi Tự-Mai:

    - Lê Văn làm gì vậy?

    - Kẻ nào đó dùng âm nhạc tấn công mình. Lê Văn gõ nồi thành âm thanh chống lại đấy.

    Cứ thế, tiếng nhạc bên thuyền kia đổi, Lê Văn cũng đổi cách gõ nồi. Lát sau hai con thuyền đã gần nhau. Tôn Đản thấy mồ hôi trên trán Lê Văn lấm tấm hiện ra. Tiếng gõ nồi hơi rối loạn. Mọi người đều biết cuộc nhạc-chiến đã phân thắng bại. Mà bại về Lê Văn.

    Ngô Quảng-Thiên vội lạng người đến bên Lê Văn. Ông xòe bàn tay để lên huyệt Bách-hội của nó. Lập tức Lê Văn rùng mình, tiếng gõ nồi boong boong vang lên, đàn áp hẳn tiếng nhạc bên thuyền kia.

    Hỗn chiến một lúc nữa, bỗng tiếng bực bên thuyền kia vang lên, rồi tiếng đàn im bặt. Rõ ràng người sử dụng âm thanh bên thuyền kia đã bị thua. Lê Văn cũng ngừng lại không gõ nồi nữa. Có tiếng nói từ bên thuyền lớn vọng sang:

    - Không biết cao nhân phái Sài-sơn cùng phái Khúc-giang nào bên đó. Trần Bảo-Dân phái Đông-a xin chịu thua rồi.

    Tự-Mai đứng lên đầu thuyền, nó chắp tay lại:

    - Nhị sư huynh đấy ư?

    Một người thân thể hùng vĩ, mặt đẹp vô cùng, tung mình từ thuyền lớn nhảy sang. Y như con đại bàng đáp xuống cạnh Tự-Mai. Không nói không rằng, y vung tay tấn công nó bằng chiêu Đông-phong ba lãng. Tự-Mai lui một bước, vận công trả lại bằng chiêu Phong-ba hợp bích. Bình một tiếng, nó loạng choạng bật lui hai bước, khí huyết đảo lộn cực kỳ khó chịu. Trong khi đó người kia cũng ôm tay tần ngần. Người kia cau mặt nhìn Tự-Mai rồi nhảy đến ôm nó:

    - Tự-Mai đấy à? Anh chờ em hơn tháng nay ở đây rồi. Những ai trên thuyền đó?

    Tự-Mai giới thiệu với mọi người:

    - Vị này tên Trần Bảo-Dân, đệ nhị đệ tử của bố tôi.

    Bảo-Dân thấy Ngô Quảng-Thiên vội chắp tay:

    - Sư bá! Sư bá bỏ Biện-kinh đi mà không sợ ư?

    Ngô Quảng-Thiên thở dài:

    - Ta được phóng thích đấy chứ.

    Tự-Mai giới thiệu mọi người. Bảo-Dân nói:

    - Xin mời Ngô sư bá cùng cách vị dời gót ngọc sang tệ chu chơi. Được Bảo-Hòa, Thông-Mai báo trước rằng sư bá cùng mấy tên quỷ sứ này sẽ đến đây. Cháu sai đệ tử chờ ở bến Giang-Bắc mấy ngày rồi. Đáng lẽ đệ tử đem Chu-các này đón sư bá, nhưng bị người của Lưu hậu theo sát sư bá, cháu đón sẽ bị lộ hình tích. Cho nên cháu chờ sư bá ở giữa giòng sông.

    Ngô Quảng-Thiên cùng cả đoàn sang Chu-các. Vừa bước vào phòng khách, Tự-Mai giật mình đứng khựng lại. Vì trong thuyền đã có hai người mà một người nó nhớ nhung ngày đêm là Bảo-Hòa. Một người nó thấy lạnh gáy là Thông-Mai. Cạnh đó, một người nữa khiến nó kinh ngạc, đó là Triệu Piên-Phương, vương phi Khai-Thiên vương. Nó vội thi lễ với bà, rồi hỏi Bảo-Hòa:

    - Bà chị tiên-cô! Không ngờ tiên cô cùng với ông hoà thượng cũng có mặt ở đây. Tình hình sứ đoàn ra sao rồi?

    Trong năm ông thiên lôi, Bảo-Hòa thương yêu nhất Tự-Mai với Lê Văn. Nàng nắm tay hai đứa để ngồi hai bên như mẹ đối với con. Nàng nói với Lê Văn:

    - Em tôi kiếm ở đâu được cô vợ đẹp thế này?

    Từ sau khi chữa trị cho Nong-Nụt, tình cảm nảy sinh. Trên đường từ Biện-kinh về đây, hai trẻ như bóng với hình không rời nhau nửa bước. Lê Văn có tính khoáng đạt của thầy thuốc, không tỵ hiềm kẻ Xiêm người Việt. Nó đã trị bệnh cho hàng nghìn người ở Vạn-thảo sơn-trang, nhưng chưa bao giờ trị cho một thiếu nữ xinh đẹp, nhu mì như vậy. Lại nữa trong Vạn-thảo sơn trang, có nhiều y sĩ nữ, nên phàm trị bệnh cần phải đụng chạm vào người nữ, thì đại đệ tử Dương Bình sẽ sai nữ y sĩ điều trị. Có thể nói đây là lần đầu tiên Lê Văn thấy toàn bộ thân thể một thiếu nữ.

    Về phần An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt. Nàng là gái Thái. Tục lệ Thái coi phụ nữ như bông hoa quý. Cho nên khi con gái tới tuổi mười ba trở lên, chỉ cha, mẹ mới có quyền ngồi cạnh, cầm lấy tay. Đối với đàn ông, việc nhìn thẳng vào mặt cũng cấm kị. Không may bị bắt cóc, bị đánh đòn đau đớn ê chề nàng phải tòng quyền để Lê Văn chà thuốc khắp người.

    Tuổi mười lăm, mười sáu, cơ thể mới nảy nở, nhạy cảm mà nàng bị Lê Văn nhẹ nhàng thoa thuốc trên nhũ hoa. Người nàng như đi vào giấc mơ huyền ảo. Nàng đã yêu Lê Văn từ đấy. Trên đường từ Khai-phong đến Giang-Bắc, nàng tự coi như vợ Lê Văn, săn sóc kính trọng nó như người chồng.

    Lê Văn nghe Bảo-Hòa hỏi, nó bẽn lẽn:

    - Nàng đâu phải là vợ em... nhưng...

    Câu trả lời ngập ngừng của cậu em báo cho Bảo-Hòa biết một sự thực: Đôi lứa đã yêu thương nhau. Để gỡ ngượng cho Lê Văn, nàng chuyển sang hỏi Tự-Mai:

    - Công lực em cao thực, có lẽ không thua gì chị. Em đỡ của Lưu hậu ba độc chưởng mà không sao. Trái lại độc chất chạy về người, làm bà phải vận công suốt một đêm mới khỏi đau ở tay. Nhưng độc chất theo Dương-minh kinh chạy vào đại-trường, tiểu trường. Từ hôm ấy trở đi, mỗi đêm bà lên cơn đau bụng vào giờ Tý một lần.

    Tự-Mai biết Thông-Mai, Bảo-Hòa đã thống nhất hệ thống tế tác Đông-a, Đại-Việt, Bắc-biên, Lạc-long giáo. Nhất cử nhất động của nó, Bảo-Hòa, Thông-Mai đều biết. Nó đưa mắt nhìn anh, Thông-Mai ngửa mặt lên trời mà cười. Chàng xoa đầu em:

    - Em lớn rồi, phàm hành sự phải quang minh lỗi lạc. Em yêu thương, nhớ nhung Thuận-Tường đường đường chính chính, không việc gì phải ngượng ngùng.

    Nghe anh nói, Tự-Mai thêm can đảm. Nó ngồi ngay thẳng dậy. Thông-Mai tiếp:

    - Khi Quốc-vương, Định-vương gọi em vào trao cho nhiệm vụ đi đón Ngô sư bá, đáng lẽ em phải hiểu ngay chiều sâu của vấn đề. Thế mà vì u mê trong tình yêu, đến nỗi Lý thái phi nói ra mới biết. Tý nữa thì hỏng đại sự. Việc quốc gia mà để hỏng thì dù em có chết, Thuận-Tường có chết cũng không đền được hết tội. May mà chưa hỏng. Bây giờ em hiểu chưa?

    Nghe anh kết tội, Tự-Mai lạnh xương sống. Từ bé, nó vốn úy kị ông anh gương mẫu này, mà nhờn với Thanh-Mai. Vì nó biết Thông-Mai khác hẳn với Thanh-Mai. Mọi hành động Thanh-Mai đều thiên về tình cảm. Tính Thông-Mai giống cha như hệt: cương quyết, ngay thẳng. Chẳng thế mà chàng cấm tên đầu bò liếm Đặng Đức-Kềnh đến nhà con điếm già Anh-Tần. Y thề rằng nếu tái phạm cả nhà bị chết. Sau Thông-Mai bắt được y tái phạm. Chàng tàn sát cả nhà y đến con chó con mèo cũng không tha. Tự-Mai đáp:

    - Bây giờ em hiểu hết rồi.

    - Em thử nói anh nghe xem nào!

    - Định-vương, Quốc-vương truyền cho năm đứa chúng em theo Triệu Huy về kinh đón Ngô sư bá, đó là hư. Còn thực là để em gặp Lý thái phi, báo cho thái phi biết việc Lưu hậu đang định hai bà cùng Thiên-Thánh hoàng đế, cũng như đem điều bí mật về Lưu hậu ra ngoài. Vì Định-vương biết thế nào về kinh em cũng tìm gặp Thuận-Tường. Chỉ Thuận-Tường mới đưa em vào gặp Lý thái phi mà tế tác của bà không biết, không nghi ngờ.

    - Đúng! Rồi sao nữa?

    - Nhưng việc gặp Lý thái phi lại cũng là hư. Mà thực là báo cho Lý thái phi yên tâm, không sợ Lưu hậu cắt thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng. Nay mai có anh Thiệu-Thái tới giải tuyệt độc tố này cho bà.

    - Được! Tiếp đi.

    - Nhưng việc gặp Lý thái phi trở thành hư. Thực bây giờ chính là việc em lọt vào khu cấm của Lưu hậu. Khi em bị lộ hình tích, bà biết ngay em là người của Định-vương. Em đối với Lưu hậu ba chưởng. Sau ba chưởng đó, Lưu hậu lo sợ vì với một nhóc con như em, mà cũng không sợ độc chưởng của bà. Bà hiểu rằng mưu hại Lý thái phi của bà bị lộ. Bà phải bỏ ý định, bằng không Định-vương cho người tới thanh toán bà. Sau này anh ra lệnh cho em dạy bà cách phản Chu-sa độc chưởng, khi đã có phương pháp này trong tay, bà không sợ Lưu hậu cũng như tay chân Lưu hậu. Bà có thể tự giải quyết việc nội cung. Định vương cứ ngồi khoanh tay mà xem.

    - Em có biết tại sao Lý phi không nhận em làm con, mà chỉ nhận làm cháu không?

    - Em không biết.

    - Việc này ngoài sự suy đoán. Em yên tâm, nếu bà nhận em làm con, sau sẽ bất lợi cho em. Bây giờ tới vấn đề khác. Em với Lê Văn phải ứng tuyển phò mã. Đây là lệnh của bố, anh chỉ chuyển lại mà thôi.

    Tự-Mai ngồi bật dậy:

    - Em không thể tuân lệnh. Em có Thuận-Tường rồi. Bố giết thì em chịu, chứ em không bỏ Thuận-Tường đâu. Bây giờ em có tuân lệnh bố mà ứng tuyển thì sau này em cũng không kết hôn với công chúa, mà kết hôn với cung nữ Thuận-Tường.

    --------------------------------
    1 Tống-sử quyển 242, trang 8605-8628, Hậu-phi thượng.
    2 Tống-sử quyển 242 trang 8616-8617. Chúng tôi xin trích dẫn nguyên văn thảm sử chép như sau:
    "Lý thần phi người đất Hàng-châu, tổ tên Diên-Tự, làm quan với họ Tiền (Nước Ngô-Việt) tới chức chủ-bạ huyện Kim-hoa. Phụ thân tên Nhân-Đức, lĩnh chức Tả-ban điện trấn. Lúc mới nhập cung hầu hạ Chương-hiến thái-hậu (Lưu thái hậu). Tính phi trang trọng, ít nói. Chân-tông thấy, đem về tẩm cung cùng chăn gối. Sau đó mang thai. Trong lúc mang thai, cùng vua dạo chơi trên đài cao, chiếc ngọc thoa bị rơi xuống đất. Phi buồn quá khóc lóc. Vua vui vẻ phán: Ngọc-trâm rơi xuống nếu không bị hư, sau sinh con trai. Quân hầu tìm lại được ngọc trâm, không bị hư hỏng dâng lên. Nhà vua đẹp lòng. Sau quả sinh ra vua Nhân-Tông, phi được phong Sùng-dương huyền quân, lại sinh một công chúa... Tiến phong Tài-nhân, rồi Uyển-nghi.
    Khi vua Nhân-tông lên ngôi, phong làm Thuận-dung, sai coi Vĩnh-định lăng. Chương-hiến hoàng hậu sai Lưu Mỹ, Trương Hoài-Đức tìm thân thuộc của phi, được em phi là Lý Dụng-Hòa, bổ vào chức Tam-ban phụng.
    Khi Nhân-tông sơ sinh, Chương-hiến hoàng hậu bắt làm con mình, sai Dương Thục-phi nuôi nấng. Khi Nhân-tông lên ngôi, phi mặc nhiên chịu ở lăng thờ phụng tiên đế, không thốt ra một lời về thân thế vua. Mọi người đều sợ Thái hậu, không ai dám nói sự thực với vua...
    Niên hiệu Minh-Đạo nguyên niên, lâm bệnh, hoăng, hưởng dương bốn mươi sáu tuổi..."
    Sau này các văn gia Trung-quốc đã bịa đặt thêm nhiều chi tiết nào là vương phi Nam-thanh cung Lộ-hoa-vương, nào là thái giám Quác-Hoè lấy mèo chết thay Thái-tử. Nào là Lý phi ra ở lò gạch. Nào là Bao-công tra ra án. v.v Chúng tôi thuật theo đúng chính chính sử đời Tống.
    3 Thang thuốc này ngày nay vẫn còn dùng để trị trật đả.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BỐN
    Bán dạ Quỳnh Hoa uyển
    (Hẹn nhau vườn hoa quỳnh)

    Thông-Mai quát lên:

    - Em dám cãi lệnh bố ư?

    Tự-Mai ngồi im, vì nó biết xưa nay mỗi khi đại hiệp Tự-An truyền lệnh gì cho các con, thường ông suy tính rất kỹ, nên dù cho Thông-Mai, Thanh-Mai cũng chỉ biết líu ríu thuân theo. Bây giờ ông ra lệnh cho nó ứng tuyển phò mã tuy là việc nhà, nhưng có liên hệ với vận mệnh đất nước. Nó cúi đầu nói nhỏ :

    - Dù có ứng tuyển, khi lên đài em cũng giả thua.

    Nó nghĩ thầm:

    - Ở đây có nhị sư huynh, vai lớn hơn anh Thông-Mai. Nhị sư huynh dám vì tình yêu đột nhập cấm thành cứu Khấu Kim-An ra. Mình nên nhờ nhị sư huynh bênh vực, thì may ra tai qua nạn khỏi.

    Nó đưa mắt nhìn Bảo-Dân, Kim-An. Bảo-Dân gì mà không hiểu ý nó, chàng lắc đầu:

    - Việc gì liên quan đến môn phái thì ta là sư huynh, lớn hơn Thông-Mai, có thể quyết đoán. Còn việc này là việc nhà, sư huynh không có quyền.

    Chợt Tự-Mai nhớ lại lời Lý thái phi, Thuận-Tường dặn nó bằng mọi cách phải ứng thí phò mã, thắng anh hùng thiên hạ, bằng không, vĩnh viễn mất Thuận-Tường. Nó cúi mặt ngồi im, làm như ngoan ngoãn nghe lời anh. Bảo-Dân, Thông-Mai đều ngạc nhiên về thái độ tuân phục dễ dàng của cậu em phá trời.

    Bảo-Hòa móc trung túi ra hai bức thư. Nàng đưa một bức cho Lê Văn:

    - Thư của sư bá gửi cho em. Em hãy đọc kỹ, thi hành lệnh của người.

    Lê Văn kinh hãi, vội ngồi lui lại, sửa quần áo ngay thẳng, hai tay cung cung kính kính tiếp thư, rồi bóc ra đọc. Nó ngẩn người, vì bên trong chỉ có một tấm thiếp:

    " Bố ủy cho chị Bảo-Hòa truyền đến con một mệnh lệnh. Lệnh này không thể thay đổi, vì có liên quan đến vận mệnh tộc Việt. Con phải tuyệt đối tuân theo."

    Lê Văn gấp thư bỏ vào túi, rồi nói với Bảo-Hòa:

    - Bố em dạy phải nghe lời chị. Bây giờ chị trở thành bố em rồi. Chị nói gì em cũng phải nghe. Nhưng đừng ỷ làm lớn bắt nạt em. Sau này lỡ bị bệnh em bắt ăn ba bát ớt hiểm.

    Nhìn ánh mắt Lê Văn, Bảo-Hòa nhớ lại ngày nàng với Thanh-Mai, Mỹ-Linh tới Vạn-thảo sơn trang trị bệnh. Hồng-Sơn bắt Mỹ-Linh phải thắng Lê Văn ông mới cho ra về. Lê Văn bèn giả thua. Sau nó bầy ra cuộc đấu, hễ Mỹ-Linh bại, thì nàng với Bảo-Hòa phải ăn một bát ớt. Quả nhiên Mỹ-Linh bại. Lê Văn đem ớt khô bắt mọi người ăn. Khi ăn vào, Bảo-Hòa thấy ớt ngọt chứ không cay. Sau này nàng mới biết thay vì đem ớt ra, nó đem kỷ tử cho chị em nàng ăn cùng với thuốc giải độc.

    Bây giờ thấy nó làm ra vẻ ngoan ngoãn, nàng phì cười:

    - Cũng chẳng có gì lạ cả. Sư bá nhờ chị hỏi vợ cho cậu mà thôi.

    Lê Văn nghĩ thầm:

    - Tự-Mai bị Trần sư bá sai anh Thông-Mai bắt ứng tuyển phò mã. Bây giờ tới bố nhờ chị Bảo-Hòa truyền lệnh cho mình. Nếu mình làm phò mã thì Nong-Nụt sẽ đau khổ lắm. Chị Bảo-Hòa vốn cứng mà dễ, mình cứ lèo nhèo, may ra thoát nạn.

    Nghĩ vậy, Lê Văn mở to mắt ra nhìn Nong-Nụt:

    - Hỏi vợ à? Em chưa đủ lớn mà? Còn nhóc con, cưới vợ người ta cười chết. Chị biết không, cưới vợ sớm khi chân-nguyên chưa đủ, sẽ đi đến chết non. Bố em cũng đã tìm ra rằng, tuổi con gái lấy chồng tốt nhất là hai mươi đến hai mươi lăm. Con trai thì hai mươi lăm trở lên. Bây giờ em mới mười bẩy, còn lâu mới được lấy vợ.

    Nó làm bộ gật gù:

    - Thôi em đồng ý lấy vợ, nhưng bẩy năm nữa.

    - Tục ngữ Việt nói: Nữ thập tam, nam thập lục. Chị có bắt em cưới vợ tức thời đâu? Chị mới hỏi mà thôi. Hỏi khác với cưới nhiều chứ.

    - Khổ quá chị ơi! Hai cặp giò của em là giò ngựa, thích chạy, mà hỏi vợ ngay, có khác gì ngựa què chân không? Con là nợ, vợ là oan gia, em vợ là tiên nga, bà già vợ là khỉ đột.

    Lê Văn khác Tự-Mai. Tự-Mai khôn ngoan, mưu trí hơn, nhưng lại hay dấu kín tâm tư. Còn Lê Văn, nó bồng bột, ồn ào. Nghe Bảo-Hòa nói, nó hiểu liền:

    - Chắc chắn việc này do Khai-Quốc vương bàn với sư bá Tự-An và bố mình đây. Các cụ muốn mình với Tự-Mai ứng tuyển làm phò mã Tống. Mình phải thoát ra mới được. Bằng không Nong-Nụt sẽ đau khổ không ít.

    Nó nắm lấy tay Bảo-Hòa:

    - Thực hả bà chị tiên nữ?

    - Thực.

    Nó chỉ Nong-Nụt:

    - Thôi được, em đồng ý hỏi vợ. Vậy bà chị phải nhờ Thuận-Thiên hoàng đế đứng ra hỏi cô bé này cho em. Em với nàng đã đính ước trăm năm rồi. Nàng vừa xinh đẹp, vừa ôn nhu văn nhã, công chúa Huệ-Nhu sao sánh kịp.

    Nó quay lại nói một tràng tiếng Thái với Nong-Nụt. Nong-Nụt cúi xuống, mặt đỏ bừng lên. Mọi người đều phục Lê Văn thông minh, vì trên đường từ Biện-kinh về đây, có hơn mười ngày mà Lê Văn đã học được khá nhiều tiếng Thái.

    Nong-Nụt đến trước Bảo-Hòa, hai tay chắp lại để ngang trán cúi xuống vái ba vái, rồi nói mấy câu nhẹ như gió thoảng.

    Lê Văn dịch :

    - Em tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-nụt xin tham kiến tiên cô. Mong tiên cô hoá phép cho em được kết hôn với Lê Văn.

    Bảo-Hòa hỏi:

    - Em bao nhiêu tuổi rồi? Em đã có phép của phụ huynh chưa mà dám đi với Văn đệ.

    Lê Văn dịch lại. Nong-Nụt lại nói một tràng nữa. Lê Văn dịch:

    - Em mất liên lạc với huynh trưởng. Nhưng huynh trưởng biết Văn huynh cứu em chắc người không mắng đâu.

    Bảo-Hòa hỏi:

    - Nếu em làm vợ Văn đệ, em có chịu về Đại-Việt ở không?

    Lê Văn dịch. Nong-Nụt nói, Lê Văn dịch:

    - Phận gái chữ tòng, em nguyện theo Lê Văn cả đời.

    Bảo-Hòa lắc đầu, thình lình nàng nắm lấy tai Lê Văn. Nó la làng:

    - Ái đau.

    - Dám qua mặt bà chị! Vừa rồi em nói với Nong-Nụt rằng: Chị là tiên giáng trần. Nong-Nụt cầu gì thì xin chị giúp cho. Nong-Nụt nói với chị rằng: Tấu lạy tiên cô, xin tiên cô giúp cho em mau gặp huynh trưởng. Em dám dịch láo. Câu sau em dịch rằng Tiên cô này võ công cao cường, lại tốt bụng. Nong-Nụt đáp Em thực may mắn, không ngờ đi sứ gặp tiên cô.

    Lê Văn bị bại lộ mưu cơ, nó xấu hổ cười trừ.

    Từ lúc đoàn tùy tùng Ngô Quảng-Thiên vào Chu-các, Bảo-Hòa thấy có một thiếu nữ hơi khác Hán, Việt, nhưng đẹp huyền bí, với đôi mắt to đen, mũi cao. Nàng chưa biết là ai, bây giờ nàng mới hỏi:

    - Em gặp nàng ở đâu?

    Lê-Văn chưa kịp trả lời, Bảo-Hòa đã nghĩ ra:

    - À, nếu nàng là công chúa Xiêm thì thuộc giòng họ An-Nan Tam-gia La-sun. Còn tên nàng là Nong-Nụt phải không?

    Bảo-Hoà cũng dùng tiếng Thái nói truyện với Nong-Nụt. Cả hai cùng dùng một thứ ngôn ngữ nhẹ như tiếng chim, trong như tiếng hạc bay qua. Tuy Lê Văn đã học tiếng Thái, nhưng chưa làm bao. Nó chỉ hiểu lờ mờ câu truyên giữa hai người.

    Chợt Bảo-Hòa tỉnh ngộ:

    - Mình thua trí thằng em này mất rồi. Hồng-Sơn sư bá nhờ mình truyền lệnh bắt nó ứng tuyển phò mã. Không ngờ nó nhanh miệng cậy mình hỏi công chúa Xiêm cho nó. Thực hỏng bét.

    Nàng lắc đầu:

    - Nhưng sư bá cậy chị giúp em làm phò mã Tống. Chị khó có thể chiều ý em đươc. Vấn đề trọng đại lắm, chứ không thường đâu. Ta cứ dấu đừng cho Nong-Nụt biết.

    Tính Lê Văn ưa khôi hài, nó mở to mắt méo miệng trêu Bảo-Hòa:

    - Tiên cô ơi! Điều này không ổn! Chỉ có một mình công chúa Huệ-Nhu, mà mình đã có anh Tự-Mai ứng tuyển rồi. Không lẽ em với anh Tự-Mai đánh nhau. Em nói thực, em đánh không lại Tự-Mai đâu.

    Khấu Kim-An bật cười:

    - Lê công tử khỏi lo. Lưu hậu tuyển đến mười bẩy tiểu thư con quan nhan sắc diễm lệ, ôn nhu văn nhã, văn hay chữ tốt cùng công chúa Huệ-Nhu thành mười tám. Lê công tử cùng Tự-Mai cứ ứng tuyển, một người thành phò mã, một người làm rể tể tướng cũng được chứ có sao đâu?

    - Không, em để anh Tự-Mai làm phò mã Tống. Em làm phò mã Xiêm hay hơn, khỏi mất công đấu võ lôi thôi.

    Nó quay lại nhìn Tôn Đản:

    - Còn anh Đản, để ảnh làm phò mã Đại-lý.

    Ngô Quảng-Thiên bật cười:

    - Tiên đế Đại-lý băng hà rồi. Các công chúa đều đã thành gia thất. Còn công chúa lớn nhất của đương kim hoàng đế mới năm tuổi.

    Lê Văn biết mối tình giữa Ngô Cẩm-Thi với Tôn Đản, nó càng trêu già:

    - Năm nay anh Đản mới mười tám tuổi. Mười năm nữa hai mươi tám tuổi, công chúa Đại-lý mười sáu tuổi, đẹp đôi chán. Khai-Quốc vương hai mươi tám tuổi mới cưới sư tỷ Thanh-Mai đấy thôi. Lại nữa bố em năm mươi ba, mẹ Huệ-Phương mới hai mươi hai, vẫn đẹp đôi như thường.

    Bảo-Hòa biết nếu mình đấu võ mồm với Lê Văn, muôn ngàn lần không phải đối thủ của nó. Nàng lờ đi không trả lời, tay vẫy Tôn Đản:

    - Phụ thân em cũng ủy cho chị hỏi vợ cho em. Giống như trường hợp Tự-Mai, Lê Văn, em phải ứng tuyển phò mã Tống.

    Bảo-Hòa đưa thư của Tôn Trung-Luận cho Tôn Đản, rồi nghiêm mặt:

    - Thể lệ tuyển phò mã như sau: Mỗi châu sơ tuyển hai người. Tổng cộng hai trăm bẩy mươi chín người. Về kinh, sẽ tuyển lấy mười tám người. Mười tám người đó coi như trúng cách, được vào triều kiến thiên tử. Thiên-Thánh hoàng đế ra đề thi cuối cùng tại sân rồng. Ai đỗ đầu sẽ được gả công chúa Huệ-Nhu. Còn lại ai đỗ thứ nhì sẽ được chọn một trong mười bẩy tiểu thư trước. Sau đó tới người đậu thứ ba. Ai đậu hạng mười tám phải lấy cô còn lại.

    Thuyền sang Nam-ngạn Trường-giang. Bảo-Hòa cung kính trao cho Ngô Quảng-Thiên một hộp thuốc:

    - Thưa sư bá đây là thuốc giải Chu-sa ngũ độc chưởng. Sư bá cùng ba vị sư huynh dùng tạm. Đợi sau khi đi sứ về anh Thiệu-Thái sẽ trị tuyệt nọc độc cho sư bá. Còn sư tỷ Cẩm-Thi, cháu cần sư tỷ giúp đỡ cho ít việc. Mong sư bá để sư tỷ đi với chúng cháu.

    Ngô Quảng-Thiên cầm bình thuốc, rồi cười:

    - Cảm ơn quận chúa. Trên đời lão phu có hai mối hận. Một là không khôi phục được nghiệp lớn vua Trưng. Hai là bị hai tên sư đệ Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn phản, làm cho thân bại danh liệt. Bây giờ đã có thuốc giải trong tay. Hơn nữa trên đường từ kinh về đây, công tử Trần Tự-Mai truyền cho lão phu phương pháp đẩy chất độc trở lại người đối thủ khi bị chúng dùng Chu-sa ngũ độc chưởng tấn công. Lão phu phải kiếm hai tên sư đệ để trả hận.

    Bảo-Hòa vội an ủi ông:

    - Việc trả thù bất cứ lúc nào sư bá không làm được. Hiện đang có sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la sang Tống. Mặt nổi chỉ có mấy người, trong khi mặt chìm mình huy động hàng nghìn người. Nếu sư bá tìm hai lão trả thù e gây trấn động võ lâm Trung-thổ, không lợi cho Đại-Việt.

    Ngô Quảng-Thiên gật đầu:

    - Lão phu quên mất. Được, đợi khi sứ đoàn về rồi, lão phu mới ra tay.

    Bảo-Hòa cung kính nói với Triệu Liên-Phương:

    - Thưa mợ, cháu đã giải cứu mợ khỏi cấm thành nhà Tống. Bây giờ mợ nên trở về Đại-Việt cùng với Ngô sư bá.

    Triệu Liên-Phương lạnh lùng gật đầu.

    Sau khi Ngô Quảng-Thiên cùng vợ và ba con trai lên ngựa hộ tống Triệu Liên-Phương đi rồi, Bảo-Dân cùng Bảo-Hòa bàn truyện triều đình nhà Tống. Thông-Mai nói:

    - Theo chỉ dụ của Khai-Quốc vương, cần đạt tới bằng này vấn đề: Một là kết thân với triều Tống trong thế anh em, chứ không chịu để họ coi như một thứ phiên thần. Hai là kết thân với võ lâm, nhân sĩ Trung-nguyên. Ba là tỏ cho triều Tống biết rằng, nếu họ bỏ thái độ trịch thượng, họ sẽ có cả tộc Việt là bạn thân, khỏi lo lắng Nam-thùy, rảnh tay chỉnh đốn Bắc-thùy. Nếu họ tiếp tục gây hấn với ta, họ sẽ có kẻ thù ghê gớm. Bốn là những biên thần, đại thần Tống chủ trương xâm lăng Đại-Việt, Đại-lý, cần làm cho họ biết sức mạnh mà lui đi thì thôi. Bằng không ta tung tin hãm hại, cô lập. Hoặc cho người ám sát vợ con, bố mẹ. Kể cả việc đào mồ cuốc mả.

    Sau khi bàn đi tính lại, Bảo-Hòa đi đến kết luận:

    - Trong triều Tống hiện có hai phe. Phe Lưu hậu chủ trương thôn tính Đại-Việt. Phe Định-vương chủ trương thân Đại-Việt. Vậy cần giúp phe Định-vương. Lưu hậu đựa vào dư đảng bang Nhật-hồ cùng Hồng-thiết giáo Đại-Việt, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng khống chế quần thần. Sau khi đối ba chưởng với Tự-Mai, Lưu hậu biết trên thế gian này có thứ võ công khắc chế với Chu-sa ngũ độc. Mà thứ võ công đó của nhóm thân Định-vương. Như vậy tham vọng mở lãnh thổ xuống Nam sẽ giảm đi.

    Tự-Mai mở chiếc hộp Lý thái phi trao cho nó lấy ra một tập sách:

    - Lý thái phi trao cho em chiếc hộp này. Trong hộp có chứa một yếu điểm của Lưu hậu, ta cần tìm cho ra một vài chứng cớ nữa rồi mới xuống tay được. Bà cũng ghi chú cho ta tất cả tổ chức mật nhất của Lưu hậu. Em đã đọc kỹ. Chị Bảo-Hòa, chị cần gì?

    Bảo-Hòa đáp:

    - Chân tay Lưu hậu có bốn nhóm. Nhóm Trường-giang thất quỷ, đã qui phục Nam-triều rồi. Nhóm bang Nhật-hồ, biến thành bang Hoàng-đế, theo Định-vương. Nhóm thứ ba do hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ đang thống lĩnh mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Hai lão này trước ẩn thân làm thị vệ. Nay nhân Định-vương vắng nhà, Lưu hậu phong cho Tôn Đức-Khắc thống lĩnh cấm quân, thị vệ. Còn Lê Lục-Vũ lĩnh Nam-biên kinh lược sứ tức tổng chỉ huy quân đội đối đầu với ta. Hai lão cùng mười trưởng lão đang theo sứ đoàn. Ta cần tìm cho ra tông tích hai lão này. Nhóm thứ tư gồm hai lão Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam-Bản. Hai lão hiện thay vào chỗ của Tôn, Lê chỉ huy tế tác cho Lưu hậu.

    Tự-Mai chỉ tập sách trong tay:

    - Có đây rồi! Tôn Đức-Khắc tên thực là Đào Tường-Phúc. Lê Lục-Vũ là Chu Bội-Sơn.

    Từ Bảo-Dân cho tới Bảo-Hòa đều bật lên tiếng suýt xoa:

    - Rút cục ta đã tìm ra hai tên tả, hữu hộ pháp của Nhật-Hồ lão nhân.

    Tôn Đản thuật xong những gì năm trẻ đã làm từ khi theo Triệu Huy đi Biện-kinh. Đoạn dưới đây xin thuật tiếp việc sứ đoàn đến Biện-kinh.

    Sau khi tường thuật cho Khai-Quốc vương biết hết hành trạng của năm ông thiên lôi, Tôn Đản tiếp:

    - Chị Bảo-Hòa đưa ra ý kiến làm cho hai lão Tôn, Lê thất bại. Như vậy Lưu hậu sẽ cách chức hai lão để lấp sự lỗi của mình. Hai lão bị thất sủng ắt quay ra phản bà. Còn hai lão Sử, Khiếu, ta tìm cách vu cho chúng làm đạo tặc.

    Khai-Quốc vương gật đầu:

    - Bảo-Hòa trí tuệ thực không đợi tuổi. Nó tổ chức bắt mười trưởng lão bang Nhật-hồ dễ dàng, lại phối trí cho Bảo-Dân, Lê Văn trêu cho hai lão Tôn, Lê hoá điên hoá khùng. Tuyệt.

    Thanh-Mai hỏi:

    - Thế sau khi bắt hết các trưởng lão bang Nhật-Hồ rồi, tại sao Tự-Mai lại về kinh một mình?

    - Chị Bảo-Hòa sai Tự-Mai về kinh trước, tường trình mọi việc cho Định-vương cùng Lý thái phi. Cuối cùng chỉ có em với Lê Văn, Nong-Nụt vu vạ cho hai lão Sử, Khiếu.

    Thiệu-Thái hỏi:

    - Khi chúng ta qua Tương-dương, thấy bảng niêm yết truy tầm năm người là Bảo-Hoà, Thông-Mai, Tôn Đản, Lê Văn, Tự-Mai. Sau đó ít giờ bảng lại đổi ra truy tầm hai lão Sử-vạn Na-vượng với Khiếu Tam-Bản là nguyên do tại sao?

    Lê Văn thở dài:

    - Đây là điều mà chị Bảo-Hoà muốn điên đầu lên được. Rõ ràng bọn em đến Kinh-châu mục đích vu hãm hai lão Sử, Khiếu làm đạo tặc. Bọn em hành sự bí mật đến thần không biết, quỷ không hay. Không ngờ mới tới nơi đã thấy hình treo khắp nơi truy tầm.

    Khai-Quốc vương cau mặt:

    - Trong chúng ta ắt có gian tế của Tống. Việc niêm yết truy tầm không phải do kinh lược sứ, mà do Lưu hậu. Phải tìm cho ra con rắn ẩn thân trong chúng ta mới được.

    Lê Văn tiếp:

    - Đêm, Đản với em đột nhập dinh kinh lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Bọn em cố ý làm lộ ra, sau đó trong khi đấu võ với quan quân, ròi vờ bị đánh gẫy kiếm. Trên kiếm ghi tên hai lão Sử-vạn và Khiếu. Bọn chúng em bỏ chạy, chỉ có một võ quan đuổi theo. Võ công y rất cao cường, nhưng dường như y đánh cầm chừng. Bằng không em mất mạng rồi. Không hiểu sao hôm sau có bảng niêm yết hình hai lão Sử, Khiếu là đạo tặc.

    Trong khi Lê Văn, Tôn Đản nói truyện, thì Bảo-Dân, Thanh-Mai cứ nhìn nhau mỉm cười. Khai-Quốc vương hỏi vương phi:

    - Có sự gì lạ không?

    Thanh-Mai bẹo tai Lê Văn. Nó vờ kêu lên:

    - Ối! Ỷ là sư tỷ ăn hiếp người ta.

    - Không những bẹo tai, chị còn đánh què nữa.

    - Đánh gẫy xương chăng? Em không sợ đâu. Em tự bó bột, ba bẩy hai mươi mốt ngày là khỏi. À, nhưng em tội gì?

    - Tội gì? Trong khi đấu với viên võ quan đó, em có biết chức tước y không?

    - Bọn binh lính gọi y bằng Tư-mã. Thì ra y là Tư mã Kinh-châu. Ái chà, chức quan y lớn thực.

    - Võ công, chiêu số y ra sao?

    Lê Văn nhắm mắt suy nghĩ, rồi nói:

    - Y xử dụng võ công Thiếu-lâm, nhưng dường như nội lực giống nội lực Đông-a. Ừ, phải rồi, nội lực y cao thâm khôn lường, hơi khác nội lực sư tỷ Thanh-Mai một chút.

    Bảo-Dân phát chiêu võ đánh Lê Văn, kình lực cực hùng hậu. Nó kinh hãi, vội nhảy vọt lên cao tránh khỏi. Bảo-Dân không nhân nhượng hướng chưởng lên trời. Lê Văn vội phát Thiên-vương chưởng đỡ. Binh một tiếng, người nó bật tung lên cao. Nó chuyển động thân mình, rồi đáp xuống lưng ngựa. Nhưng nó không cỡi, mà một chân đứng, một chân co. Tuyệt ở chỗ trong khi anh em chiết chiêu, ngựa vẫn sải bước gõ nhịp đều đặn.

    Lê Văn la lên:

    - Em hiểu rồi, đáng chết thực. Thì ra viên quan đó thuộc phái Đông-a. Nội lực y đánh ra là thứ nội lực cách đây mười năm, giống như anh Phụ-Quốc, Bảo-Dân. Còn nội lực em biết là nội lực gần đây, Trần sư bá đã sửa đổi.

    Chợt nhớ ra điều gì, nó nhảy phắt lên cao, rồi ngồi xếp bằng tròn trên lưng ngựa:

    - Em đáng chết thực! Thì ra viên võ quan đó là anh Trần Trung-Đạo. Đệ tử của Trần sư bá đều là tay quái kiệt. Anh Phụ-Quốc là thi sĩ lãng mạn, đô đốc thủy quân. Anh Bảo-Dân là nhạc sĩ đại tài. Anh Trung-Đạo làm lớn hơn, tới Tư-mã Kinh-châu.

    Chợt nó cau mặt lại:

    - Bọn em tuân lệnh tiên cô Bảo-Hòa, ở trong bóng tối hành sự, nhưng theo sứ đoàn như bóng với hình. Không biết bằng cách nào anh Trung-Đạo liên lạc với sư tỷ Thanh-Mai? Tại sao anh biết kế của bọn em muốn vu hãm cho hai lão Sử, Khiếu mà vẽ hình bọn nó, niêm yết khắp nơi. Ừ! Hình vẽ thực sống động như người bên ngoài vậy.

    Thấy Bảo-Dân nhìn nó cười tủm tỉm. Nó la lớn:

    - Em hiểu rồi! Thì ra chị Bảo-Hòa, anh Thông-Mai đã âm thầm liên lạc với anh Trung-Đạo. Việc niêm yết bảng cáo tri bắt hai lão Sử, Khiếu làm cho hai lão khó chối cãi. Không chừng Lưu hậu tin rằng hai lão ăn trộm bảo vật cũng nên.

    Đến đấy đoàn người ngựa đã vào trong thành Biện-kinh. Bấy giờ đang thời thịnh trị của triều Bắc-Tống, nên kinh thành đông đúc tấp nập, đường xá rộng rãi sạch sẽ. Kinh-thành đang đón gần ba trăm người ứng tuyển phò mã, đã trúng kỳ sơ tuyển . Mỗi người còn đem theo sư phụ, anh em với tùy tùng nào bộc phụ, mã phu. Cho nên kinh thành rộn rịp hơn bao giờ hết. Bảo-Dân cho xe dừng lại trước khách điếm cực lớn tên Nam-phong.

    Hai thiếu niên phụ trách tiếp đón, thấy quan khách quần áo sang trọng thì đoán rằng một đoàn của thiếu niên ứng tuyển phò mã lai kinh. Chúng cầm cương ngựa, mang hành lý xuống.

    Chủ khách điếm đon đả chạy ra tiếp khách. Y nỏi:

    - Khách điếm chúng tôi chia làm hai loại. Một, gồm những phòng từ hạng nhất đến hạng năm. Giá thuê phòng đơn hạng nhất mỗi ngày một trăm đồng. Phòng kép mỗi ngày hai trăm. Hạng nhì rẻ hơn mười đồng. Cho đến hạng bẩy chỉ có ba mươi đồng thôi. Ngoài ra chúng tôi có những khu, giống như cung điện, cho đoàn đông người thuê. Giá thay đổi tùy theo khu.

    Bảo-Dân nói:

    - Chúng tôi cần một khu thực yên tĩnh.

    Biết khách sang, chủ nhân cúi rạp mình xuống:

    - May quá! Nếu các vị tìm phòng thì các phòng đã hết rồi. Còn thuê hẳn một khu thì còn đến hai khu. Khu sang trọng nhất là khu nằm trên đảo ở giữa hồ. Khu này mang tên Bồng-lai. Song hơi đắt.

    Bảo-Dân tỏ ra thành thạo:

    - Tôi biết rồi, mỗi ngày một lượng vàng phải không?

    - Vâng.

    - Chúng tôi không mang theo bộc phụ, phu xe. Xin cung cấp cho chúng tôi một tỳ nữ, một tiểu bảo để sai vặt. Còn ăn uống, mỗi ngày chúng tôi sẽ đặt trước.

    Chủ nhân thân điều động phu mang hành lý cho khách ra khu Bồng-lai. Quả xứng đáng với tên mang, khu Bồng-lai là một đảo nhỏ nằm giữa cái hồ. Từ ngoài đi vào phải qua cây cầy đá. Đảo rộng đến năm sào (1800 thuớc vuông ngày nay). Xung quanh bờ đảo trồng toàn dương liễu. Ở giữa kiến tạo một căn nhà ngói xanh, gạch đỏ. Cột, kèo, cửa bằng gỗ trạm trổ tinh vi.

    Sau khi nghỉ ngơi, tắm rửa, thay y phục. Khai-Quốc vương bàn với Bảo-Dân:

    - Nhị sư huynh. Trước đây nhị sư huynh vùng vẫy dọc ngang ở Biện-kinh, gây ra nhiều kỳ tích. Nay nhị sư huynh có thể xuất hiện công khai không mà không gặp khó khăn chăng?

    Bảo-Dân cười:

    - Vương đừng lo. Tuy tôi phá phách, nhưng kỳ công phá phách đó, cho đến nay không ai biết tôi làm. Còn ngoại giả, trên từ tể tướng, xuống đến tên ăn mày đều biết tôi, vì tôi thường tấu nhạc, cũng như dạy nhạc.

    Vương xuất ra một đạo công văn:

    - Vậy phiền sư huynh đến bộ Lễ làm dùm ngay hai hai việc: Việc thứ nhất là cáo tri sứ đoàn Đại-Việt sang kết hiếu. Thứ nhì ghi tên Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn ứng tuyển phò mã. Đây đạo công văn chứng nhận ba trẻ được đề cử ứng tuyển phò mã. Tự-Mai, Lê Văn đại diện Đại-Việt. Còn Tôn Đản đại diện Bắc-biên.

    Bảo-Dân lên đường liền.

    Trong khi Khai-Quốc vương cùng Thanh-Mai, Khấu Kim-An bàn định khi triều kiến Tống đế phải làm những gì, đối phó ra sao, thì Thiệu-Thái, Mỹ-Linh, Tôn Đản, Lê Văn, cùng Ngô Cẩm-Thi sang phòng bên cạnh, thuật cho nhau nghe những biến cố trong thời gian xa cách.

    Lê Văn nói với Mỹ-Linh:

    - Chị tính sao thì tính, chứ bọn em nhất định đấu võ lấy thua, để khỏi làm phò mã Tống triều. Tự-Mai đã có Thuận-Tường. Em có Nong-Nụt. Còn anh Đản, dù anh ấy bị xẻo từng miếng thịt anh ấy cũng chịu, chứ không thể xa chị Cẩm-Thi đâu. Em không rõ, tại sao anh cả lại bắt chúng em làm phò mã. Làm phò mã đâu có sướng gì?

    Thiệu-Thái bàn:

    - Lần đầu tiên anh thấy cậu hai hành sự kỳ bí, đến Mỹ-Linh cũng không hiểu ý. Cậu bảo Tự-Mai rằng nếu không được vào đình thí, coi như không bao giờ lấy được Thuận-Tường. Lý thái phi cũng khuyên Tự-Mai phải ứng thí. Theo bà thì Thuận-Tường là cung nữ, sẽ theo hầu công chúa Huệ-Nhu xem đình thí. Ít nhất Tự-Mai phải được vào, sau khi trúng cách, xin lấy nàng làm vợ. Việc Tự-Mai coi như ổn rồi. Còn việc Tôn Đản, Lê Văn mới khó giải quyết.

    Mỹ-Linh an ủi hai em:

    - Các em yên tâm. Việc này Định-vương với chú hai thức thâu đêm luận bàn, chắc chắn hàm chứa những bí mật ghê lắm, mà người không thể nói ra đấy thôi. Hai em cứ tuân chỉ làm hết sức mình. Sau này sẽ rõ. Cùng quá mỗi cậu có hai vợ càng hay.

    Lê Văn nhăn mặt:

    - Hủ lậu! Bố em không bao giờ chấp thuận cho em lấy hai vợ. Người chúa ghét đàn ông nhiều vợ.

    Có tiếng chim kêu. Nội công Thiệu-Thái cao nhất, chàng nhổm dậy:

    - Cặp chim ưng của Thuận-Tường. Để anh gọi nó xuống xem sao.

    Chàng ló đầu qua cửa sổ hú lên hai tiếng. Cặp chim ưng đáp xuống cạnh chàng. Chàng mở ống tre dưới chân nó lấy ra tờ giấy. Mọi người đều ghé mắt đọc:

    Bán dạ, quỳnh hoa uyển,
    Tiêu thanh tâm hoài thì.
    Mọi người ngơ ngác nhìn Mỹ-Linh chờ giải thích. Mỹ-Linh nói:

    - Chà nét chữ hoa dạng quá. Không phải chữ Tự-Mai. Người viết tờ thư này chắc là đàn bà, vì nét chữ mềm mại, tờ hoa tiên thoang thoảng mùi thơm. Để tôi dịch cho mà nghe:

    Nửa đêm, dưới bóng hoa quỳnh,
    Cùng nhau tương hội, tiêu thanh vọng về.
    Cẩm-Thi phì cười:

    - Tôi đoán ra rồi. Tự-Mai với Thuận-Tường dùng chim ưng viết thư hẹn hò nhau đây. Cứ như ý trong thư, cô nàng hẹn Tự-Mai nửa đêm nay gặp nhau ở vườn hoa quỳnh. Khi đến vườn hoa, thì dùng tiếng tiêu báo cho nàng biết.

    Lê Văn với Tự-Mai vốn thân thiết nhất. Nó bàn:

    - Không biết giờ này Tự, Tông, Lãm ở đâu? Chim ưng bay lượn trên đầu chúng ta, chắc họ ở gần đây thôi. Chị Mỹ-Linh viết mấy chữ gọi anh ấy với với Tông, Lãm hội họp cùng bọn mình cho vui.

    Cẩm-Thi lắc đầu:

    - Cu cậu đang say men tình, gọi đến gặp Quốc-vương với anh Bảo-Dân, chắc cu cậu trốn mất. Để chị giả tuồng chữ Thuận-Tường gọi chàng, chắc chàng đến ngay.

    Mọi người đều bật cười. Cẩm-Thi cầm bút viết:

    Bồng-lai sĩ quân tử,
    Tiêu thanh tâm hoài thì.
    Nàng dịch cho mọi người nghe:

    Đợi chàng tại đảo Bồng-lai,
    Cùng nhau tương hội tiêu thanh vọng về.
    Nàng bỏ thư vào ống tre dưới chân chim. Thiệu-Thái hú lên một tiếng. Cặp chim ưng bay bổng lên cao, rồi hướng về phía Tây.

    Ngô Cẩm-Thi cười:

    - Suốt đời Tự-Mai chuyên trêu ghẹo thiên hạ. Bây giờ chúng ta trêu lại, chắc cu cậu phải nhảy dựng lên. Em đề nghị thế này: Chúng ta đều núp trong một căn phòng. Lê Văn thổi tiêu. Khi anh chàng nhảy qua cửa sổ vào, thấy chúng mình, ắt bẽn lẽn lắm.

    Ngô Cẩm-Thi phối trí mọi người xong, Lê Văn cầm ống tiêu đưa lên môi thổi. Nó nghĩ thầm: Thuận-Tường bị tuyển làm cung nữ, vậy mình tấu khúc tiêu Phụng cầu kỳ hoàng của Tư-mã Tương-Như đời Hán cho anh chàng tin thực.

    Không phải đợi lâu, chỉ lát sau có bước chân người nhè nhẹ ngoài cửa sổ, rồi tiếng gõ cửa. Mỹ-Linh tằng hắng, cửa sổ mở ra. Một thái giám nhảy vào trong như chiếc lá rụng. Đúng là Tự-Mai.

    Thiệu-Thái đã trùm miếng vải che đầu. Chàng nhảy ra chặn cửa sổ, lên tiếng:

    - Người là ai, mà lớn mật dám đột nhập vào đây.

    Tự-Mai thấy người trong phòng không phải là Thuận-Tường. Nó kinh hãi dùng một thế ưng trảo chụp Thiệu-Thái. Thiệu-Thái bật tay lên chĩa ngón trỏ đỡ. Nếu Tự-Mai đánh xuống thì chính tay nó bị điểm vào huyệt Nội-quan. Nó biến trảo thành cầm nã, bẻ ngón tay Thiệu-Thái. Thiệu-Thái úp tay xuống xỉa vào huyệt Đản-trung của Tự-Mai. Nó vội lùi lại, dùng cước quét vào huyệt Trung-đô chân trái Thiệu-Thái. Thiệu-Thái nhảy lùi lại tránh. Nhưng không kịp, bộp một tiếng. Tự-Mai á lên đau đớn, nó ôm chân nhảy lùi lại. Nhanh tay, nó giật khăn trùm đầu Thiệu-Thái ra. Nhưng vì khuôn mặt, thân thể Thiêu-Thái thay đổi nhiều quá nó nhận không ra. Thiệu-Thái thấy nó ngơ ngác nhìn mình, thì bật cười. Bấy giờ nó mới biết kẻ trêu mình đích thực là Thiệu-Thái. Nó kêu lên:

    - Ối ông ỉn! Làm gì người ta đây? Bà ỉn đâu rồi?

    Bàn cho thực phải, Thiệu-Thái thọ lĩnh một trăm năm Thiền-công của Bồ-tát Sùng-Phạm, sau được Bố-Đại hoà thượng dạy thêm, công lực chàng tiến tới chỗ cao thâm khôn lường. Nhưng về quyền cước, chàng chỉ có mấy pho của phái Tây-vu, sau thêm bộ Mục-ngưu thiền chưởng. Trong khi đó Tự-Mai là con một vị đại tôn sư bác học đương thời, không võ công thiên hạ nào mà nó không học qua. Vì vậy chỉ mấy chiêu, nó đã chiếm được tiên cơ.

    Cả bọn đồng xuất hiện. Tự-Mai xấu hổ, nó đưa mắt nhìn mọi người:

    - Phá nhau kiểu này nhất định là bà chị dâu Ngô Cẩm-Thi rồi, chứ trong bọn mình không ai dám trêu mỗ.

    Cẩm-Thi hỏi:

    - Tại sao cậu biết là chị.

    - Dễ mà. Ông ỉn tính hiền lành, chẳng bao giờ nghĩ ra được lối chơi quái đản này. Anh Đản đang muốn cầu mỗ để mỗ gỡ rối cho cái vụ phải ứng tuyển phò mã, thân mình lo chưa xong, thì dám phá ai? Lê Văn với mỗ tuy hai, mà một, chẳng bao giờ nỡ trêu nhau. Còn bà chị Mỹ-Linh vốn thương yêu mỗ vô bờ bến, chắc không phải tác giả rồi. Cuối cùng còn Ngô công chúa mà thôi. Đúng không?

    Mỹ-Linh đưa mẩu giấy Thuận-Tường viết cho Tự-Mai. Nó bẽn lẽn cầm lên đọc, rồi bỏ vào túi. Nó trố mắt nhìn Thiệu-Thái:

    - Này ông ỉn. Bộ ông lột da hay sao, mà trước kia da bì bì, nay thì tươi sáng hồng hào không kém gì da Bố-đại hoà thượng, môi lại hồng như con gái vậy. Trước dáng điệu ụt ịt bộ tịch như như con lợn, bây giờ bụng thon, mặt như ngọc, tư thái phong lưu quá. Lạ thực.

    Lê Văn giải thích cho Tự-Mai nghe. Tự-Mai bảo Thiệu-Thái:

    - Tuy rằng bây giờ anh đẹp như cây ngọc trước gió, nhưng em vẫn gọi là ông ỉn để ghi lại kỷ niệm trước kia.

    Có tiếng Thanh-Mai vọng vào:

    - Tự-Mai đấy à? Tất cả ra đây.

    Thanh-Mai thấy em đượm vẻ phong trần, nàng trêu nó:

    - Gái phải trai như thài lài phải cứt chó. Trai phải gái như cò bợ phải nước mưa. Hồi đại hội Lộc-hà em nói với chị như thế phải không? Thuận-Tông, Thiện-Lãm đâu?

    - Chúng nó với em cùng trọ trong khách điếm Nam-phong này. Để em gọi bọn nó tới.

    Tự-Mai băng mình ra khỏi đảo, lát sau nó trở lại với Thuận-Tông, Thiện-

    Lãm. Khai-Quốc vương bảo Thiệu-Thái:

    - Cháu sai chim ưng canh phòng. Chúng ta họp nhau, có nhiều việc quan trọng.

    Mọi người ngồi vào chỗ nghiêm chỉnh. Vương hỏi Tự-Mai:

    - Em đã liên lạc được với Bảo-Hòa, Thông-Mai chưa?

    - Hai ông bà ấy như chim. Họ muốn, tự nhiên họ tìm mình. Còn mình muốn tìm họ thực khó khăn vô cùng. Hôm qua hai ông bà báo rằng biết sứ đoàn sẽ tới đây vào sáng nay, và cư trú tại khách điếm Nam-phong này. Cho nên bọn em không dám đi đâu, ngồi chờ.

    - Có tin tức gì lạ không?

    - Em vào cung gặp Lý thái phi ba lần. Đêm nay bà sẽ cho người dẫn em đến tẩm cung của Thiên-Thánh hoàng đế, tìm cho ra điều bí mật ấy.

    Mỹ-Linh giật mình:

    - Vậy chim ưng mang thư ban nãy, do Lý thái phi gửi ra, chứ không phải của Thuận-Tường à?

    - Không! Suốt từ khi đến đây em chỉ gặp nàng có một lần, sau đó toàn viết thư cho nhau mà thôi. Nàng khuyên em phải dùng hết khả năng vào điện thí, hai đứa mới mong thỏa tâm nguyện.

    - Vậy hai câu thơ trên ý nghĩa ra sao?

    - Bán dạ quỳnh hoa uyển là nửa đêm theo khu vực trồng hoa quỳnh trong vườn thượng uyển. Tiêu thanh là tiếng lóng chỉ con cọp. Cọp đây là đôi hổ anh Thiệu-Cực cho Thuận-Tường. Khi Thuận-Tường bị tiến cung, nàng dâng đôi hổ cho hoàng đế. Hoàng đế dùng nó để canh gác nơi làm việc đêm. Tâm hoài thì, nghĩa là phải cẩn thận.

    Tỳ nữ vào báo:

    - Thưa quý khách, có người muốn đến thăm, hiện chờ bên kia cầu.

    Nói rồi trình tấm danh thiếp. Khai-Quốc vương mở ra, thấy trên thiếp vẽ hình con chim ưng xòe cánh, cạnh đó vẽ bông hoa Dạ-lý. Vương bật cười, bảo nữ tỳ:

    - Mời quý khách vào.

    Tự-Mai hỏi:

    - Ai thế?

    - Người mà em thích nhất và người mà em ớn nhất.

    Tự-Mai xịu mặt xuống, vì nó biết đó là Bảo-Hòa, Thông-Mai. Quả nhiên Thông-Mai trong y phục Nho-sinh, còn Bảo-Hòa trong y phục thiếu phụ. Hai người vào phòng. Thông-Mai hỏi:

    - Có ai khác không?

    Thanh-Mai đáp:

    - Không.

    Bảo-Hòa nói với Khai-Quốc vương:

    - Bọn cháu bị lộ hình tích. Hôm qua hai đại cao thủ nội cung theo hút bọn cháu. Bọn cháu phải dùng xe ngựa rời thành. Chúng đuổi theo, rồi diễn ra trận đấu. Võ công hai tên này ngang với bọn trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Chúng dùng Chu-sa độc chưởng. Vì dấu tung tích võ công, nên mãi mới thắng được chúng. Anh Thông-Mai đẩy độc chất vào người chúng. Có lẽ mai này độc tố mới phát.

    Tự-Mai đã được Lý thái phi cho biết khá nhiều về nhân vật nội cung. Nó tò mò:

    - Chị có biết chúng tên gì không?

    - Một gã tên Dương Hoài-Mẫn, một gã tên La Sùng-Đản.

    Tự-Mai à lên:

    - La Sùng-Đản trước giữ chức Nhập-nội đô tri. Mới đây được thăng lên Bắc-ban chỉ hậu nội phẩm, thống lĩnh cung nga, thái giám cùng chỉ huy thị vệ trong Cấm-thành. Còn Dương Hoài-Mẫn giữ chức Hoàng-thành sứ, chỉ huy thị vệ trong hoàng thành. Hai tên này là chân tay của Lưu hậu.

    Khai-Quốc vương truyền mọi người vào họp. Mỹ-Linh hỏi Bảo-Hòa:

    - Chị Bảo-Hòa! Chị có thuộc hết lý lịch các quan trong triều Tống không? Hôm trước Định vương đã tóm lược cho em nghe, nhưng đó là cái nhìn của bậc tể phụ thân vương. Em muốn biết hết những uẩn khúc phía sau cung đình, cùng tư thất các quan kia.

    Thanh-Mai cũng tiếp:

    - Có lẽ Bảo-Hòa nên nói rõ tổ chức triều Tống cho các em chúng hiểu. Hôm trước tại Bắc-biên Thiệu-Cực đã trình bầy rồi, nhưng trên đường sang đây tôi thấy sai nhiều quá, nhất là bí mật quanh Lưu hậu. Vì mai này điện kiến, có thể chúng ta phải đối đầu với các quan, ta cần biết rõ từng người một.

    Bảo-Hòa trình bầy:

    - Tổ chức triều Tống hơi giống triều Đường. Có điều mỗi đời vua một thay đổi. Triều Đường có tể tướng. Triều Tống không dùng danh từ tể tướng mà dùng nhiều danh xưng khác nhau. Trên hết là hoàng đế, uy quyền bao la. Tiếp đó là Tam-sư, Tam-công. Dưới Tam-sư, Tam-công là Thượng-thư tỉnh tức triều chính.

    Lê Văn đưa mắt nhìn Khai-Quốc vương:

    - Như vậy tổ chức triều đình mình cũng hơi giống Tống đấy chứ! Tam sư gồm Thái-sư, Thái-phó, Thái-bảo. Tam công gồm Thái-úy, Tư-đồ, Tư-không. Những chức này thường phong cho thân vương, không dự vào chính sự. Thảng hoặc cũng có những tể thần ở chức vụ lâu năm cũng được đôn lên.

    Bảo-Hòa gật đầu:

    - Đúng thế. Thường từ Tư-đồ tiến Thái-bảo. Thái-phó lên Thái-úy. Đôi khi thêm chữ Kiểm-hiệu cho mỹ tự mà thôi. Bây giờ tới Thượng-thư tỉnh, đời Đường do tể tướng cầm đầu. Tống gọi là Đồng-bình chương sự, gồm hai ông. Hai ông này, mỗi ông đều lĩnh một chức đại học sĩ. Ông lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ giám tu quốc sử trên ông Tập-hiền viện đại học sĩ. Hiện Tào Lợi-Dụng lĩnh Tập-hiền viện đại học sĩ, mà lại làm tả thừa tướng. Trong khi Vương Tăng lĩnh Chiêu-văn quan đại học sĩ mà lại làm hữu thừa tướng.

    Tự-Mai nhìn Khai-Quốc vương:

    - Nhiệm vụ của tể tướng ra sao?

    - Rất rộng: Phụ tá thiên tử, thống trăm quan, bình thứ chính. Nghĩa là không sự gì trong nước mà không thống thuộc.

    Tôn Đản hỏi:

    - Như vậy có đến hai ông tể tướng. Có phó tể tướng không?

    - Có chứ, có từ hai đến sáu ông, gọi là Tham-tri chính sự. Ngoài ra có rất nhiều ông Thị-trung. Những ông Thị-trung này cũng được bàn chính sự với vua. Dưới Thị-trung tới phó Thị-trung thường gọi là Thị-lang.

    Khai-Quốc vương gật đầu:

    - Điểm này hơi khác với bên mình một chút đây. Thế dưới mấy ông tể tướng, có những tổ chức gì?

    - Gồm Khu-mật viện, Tuyên-huy viện, Đông cung quan, Lục bộ.

    Thuận-Tông rất chú ý tới vấn đề tổ chức. Nó hỏi:

    - Tuyên huy viện là gì vậy?

    - Tuyên-huy có hai. Tuyên-huy Nam-viện và Tuyên-huy Bắc-viện. Hai viện đảm trách những vấn đề lặt vặt, nhưng rất quan trọng. Ngoại sự, thâu gồm tài vật, kiểm kê kho tàng. Nội sự trông coi mọi cung phụng cho nội cung, triều đình như việc triều hội, yến tiệc. Nghiã là thống lĩnh tất cả việc cai trị thái giám, cung nga cùng cung phụng triều đình, nội cung. Còn Đông-cung quan, coi như một triều đình thu nhỏ, tức các quan quanh Đông-cung thái tử. Những chức này không thua chức tước triều đình làm bao.

    Tự-Mai gật đầu:

    - Em có nghe Lý thái phi nói rồi: Gồm các ông Thái-tử thái sư, Thái-tử thái phó, Thái-tử thiếu sư, Thái-tử thiếu phó và Thái-tử thiếu bảo. Những ông này là thầy dạy thái tử. Sau khi thái tử lên ngôi vua, các ông thành tể thần hết. Lỡ thái tử phạm tội, thì các ông cũng bị rơi đầu luôn.

    - Đúng vậy. Còn Lục-bộ gồm Lại-bộ, Hộ-bộ, Lễ-bộ, Binh-bộ, Hình-bộ,

    Công-bộ. Giống hệt bên mình.

    Tôn Đản hỏi:

    - Bây giờ xin sư tỷ cho biết những ông nào giữ chức vụ chính yếu trên? Đầu tiên hai ông tể tướng đã.

    - Cao nhất hiện thời là ông Tào Lợi-Dụng. Ông tự là Dụng-Chi, người đất Ninh-tấn thuộc châu Triệu. Thủa nhỏ đã nổi tiếng biện sĩ, có chí lớn, theo học với phái Liêu-Đông. Hai mươi tuổi triều đình mở cuộc tuyển võ. Trong hơn nghìn thí sinh, Lợi-Dụng cùng mười chín người khác được vào điện thí. Trong cuộc điện thí Lợi-Dụng cùng hai người nữa đứng đầu. Được cử vào chức Hữu-ban điện trực. Năm Cảnh-đức nguyên niên, Khất-đan đem quân đánh Hà-Bắc. Vua Chân-tông thân chinh. Tướng Khất-Đan là Đạt-Giác võ công cực cao, không tướng Tống nào địch nổi. Vua sai Lợi-Dụng song đấu với Đạt-Giác. Võ công hai người ngang nhau. Sau Lợi-Dụng dùng nội công Liêu-Đông làm tiêu tán công lực đối phương, giết Đạt-Giác. Giặc định rút lui, có ý nghị hòa. Sứ thần Tống là Vương Kế-Trung, muốn tìm người có thể cùng đi sứ Khất-đan. Khu-mật viện chọn Lợi-Dụng. Vua Chân-tông ban dụ : Khất-Đan đem quân xuống Nam kỳ này là muốn chiếm đất. Nó đã chiếm của ta mất một châu. Nay tuy bại, nhưng nó sẽ giữ luôn đất không trả. Xưa vua Hán đánh Thiền-vu, tuy bại, nhưng khi nghị hòa chỉ ban vàng lụa. Vậy khanh nên cố đòi đất, mà cho vàng lụa.

    Lợi-Dụng tâu:

    - Khất-Đan vốn thô lỗ, không trọng văn học, kính nể người có sức lực. Thần nguyện trổ thần võ thắng chúng. Nếu không đòi được đất, thần nguyện chết bên đất giặc chứ không dám trở về làm nhục mệnh quân vương. Sau qủa nhiên Lợi-Dụng đòi được đất. Vua phong cho làm Trung-châu thứ sử.

    Mỹ-Linh hỏi:

    - Trước đây nghe nói Lợi-Dụng đã xuống vùng Lĩnh-Nam mình một thời gian. Chuyện đó ra sao?


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ NĂM
    Cúi đầu e thẹn

    - Đúng vậy. Bấy giờ có viên tri phủ Nghi-châu tham nhũng, làm dân chúng oán giận. Họ bèn cùng hào kiệt, quân sĩ nổi dậy giết chết, chiếm Tuyên-châu, Liễu-châu, Tượng-châu, Quảng-châu. Khắp vùng Quảng Đông, Quảng-Tây chấn động. Lợi-Dụng được phong Quảng-Nam an vũ sứ (Gồm Quảng-Đông Nam lộ và Quảng-Tây Nam lộ) cầm quân dẹp. Một đêm Dụng giết chết mười hai tướng giặc. Bình định xong, được phong Dẫn-tiến-sứ. Sau dần dần được thăng Lịch-khách tỉnh sứ. Niên hiệu Đại-trung tường phù thứ bẩy (Giáp-Dần, 1014) vua Chân-tông phong làm Khu-mật viện phó sứ, kiêm Tuyên-huy Bắc-viện sứ, Đồng-tri viện sự. Chỉ ít lâu sau lên tới Khu-mật viện sứ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự. Niên hiệu Thiên-hy thứ nhì (Kỷ-Mùi, 1019) hai tể thần Đinh Vị, Lý Điệt cãi nhau trước mặt vua. Lý Điệt tố Lợi-Dụng với Đinh Vị gian tà, hợp đảng nhau. Vua nổi giận cách chức cả hai.

    Khai-Quốc vương hỏi:

    - Bấy giờ hai ông kia đang giữ chức gì? Bị cách tuột xuống còn thứ dân hay chỉ bị giáng chức thôi?

    Bảo-Hòa mở tập sách trước mặt đọc lên:

    - Bấy giờ Đinh Vị làm Thái-tử thái phó, Khu-mật viện sứ, Bình-chương sự. Vua giáng còn Hộ-bộ thượng thư. Lý Điệt làm Thái-tử thiếu phó, Bình-chương sự bị giáng còn Hộ-bộ thị lang.

    Thiệu-Thái hỏi:

    - Như vậy là Lý Điệt có thù hận với Lợi-Dụng. Điệt là văn quan hay võ quan? Vua có tin Điệt không?

    - Điệt là văn quan. Vua nghe tố, hỏi Lợi-Dụng. Dụng đáp :

    " Dùng văn gặp chúa, thần không bằng Điệt. Nhưng lăn mình vào chỗ chết thắng giặc phò quân vương, Điệt không bằng thần".

    Trần Bảo-Dân cười:

    - Thằng cha này xuất thân quan võ mà khôn bỏ mẹ. Bản lĩnh làm quan thực cao thâm. Y nói như vậy là có ý muốn tỏ với nhà vua rằng: Bọn quan văn chỉ có miệng lưỡi, thì việc Điệt tố cáo y là vô lý. Y là quan võ, nhất tâm trung kiên, đem mạng sống ra phò tá quân vương. Sau vụ này chắc Lý Điệt bị cách chức nữa.

    - Đúng vậy. Hôm sau vua gọi Đinh Vị vào cho giữ chức như cũ. Còn Lý Điệt bị cách. Lợi-Dụng được thăng lên Kiểm-hiệu thái-sư kiêm Thái-tử thiếu bảo, Hội-linh quan sứ, Thượng-thư hữu Bộc-xạ. Năm Càn-hưng thứ nhất (Nhâm-Tuất 1022) thăng lên Tả-bộc xạ kiêm Thị-trung, Võ-ninh quân tiết độ sứ. Sau đó lên Tư-không. Tới đây Lợi-Dụng lại bất hòa với Vương Tăng.

    Lê Văn nhăn mũi cười:

    - Lão này dễ hạ đấy. Vì y thích gây hấn với đồng liêu, chắc nhiều kẻ thù. Tại sao y gây với Vương Tăng?

    - Vương Tăng giữ chức Chiêu-văn quan đại học sĩ. Nguyên quan chế triều Tống định rằng Khu-mật viện sứ, Kiểm hiệu tam tư, kiêm Thị-trung, Thượng-thư lệnh, khi lâm triều đứng sau tể tướng. Trong khi đó chức Vương Tăng là Chiêu-văn quan đại học sĩ tức tể tướng, nhưng thứ bậc Tham-tri chính sự lại nhỏ hơn Tả-bộc xạ, Thị-trung. Nếu lấy đẳng trật, Lợi-Dụng đứng trước. Nếu lấy chức vụ, Vương Tăng đứng trước. Viên Hạp-môn có nhiệm vụ xếp chỗ lâm triều không biết giải quyết sao. Lợi-Dụng cho thủ hạ nhập dinh Vương Tăng, Trương Tri-Bạch dùng độc chưởng khống chế. Hai người chịu nép. Lợi-Dụng trực tiếp chỉ huy bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ khống chế bách quan. Khắp triều thần đều oán. Y còn dám ngang nghịch cả với Định-vương. Tước của y hiện tới quốc công 1.

    Tự-Mai hỏi:

    - Trong triều, những tên nào chủ trương mở rộng Nam-biên? Tên nào chủ trương hòa bình?

    - Những tên chủ xâm chiếm đại Việt gồm: Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thúc. Những người chủ hòa gồm Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng. Còn Yến Thù y đứng giữa.

    Trần Bảo-Dân nói sẽ vào tai Khai-Quốc vương:

    - Yến-Thù là danh sĩ. Y vờ theo Lưu hậu mà thôi. Y vốn gốc người Việt, kết bạn thân với tôi. Ta có thể nhờ y nhiều chuyện.

    Khai-Quốc vương hỏi:

    - Gốc tích Yến Thù ra sao?

    - Phụ thân y là di thần Ngô triều sang lập nghiệp ở Mân-Việt. Bẩy tuổi y nổi tiếng thần đồng. Thời Cảnh-đức (1004-1007), Trương Tri-Bạch đang làm An-vũ sứ Giang-Nam, nghe tiếng Yến Thù, cho mời tới đàm luận về văn chương. Y ứng đối như nước chảy. Tri-Bạch thượng biểu về triều, nhà vua cho gọi Thù vào triều. Bấy giờ Thù mới mười hai tuổi. Thù có người bạn gái tên Phương-Lan bằng tuổi Thù. Phương-Lan có thuộc loại sắc nước hương trời. Khi Thù lên đường, nàng nói : Người đi phen này thế nào cũng thanh vân đắc lộ, xin đừng quên nhau. Thù hứa : Dù cho sông cạn đá mòn, lòng này nào có đổi. Thù đến kinh giữa lúc đang đình thí của hơn nghìn tiến sĩ. Vua Chân-tông truyền cho Thù cùng dự thi. Thần sắc Thù thản nhiên, ung dung mài mực viết. Mỗi lần Thù làm xong một đoạn, vua với đại thần cùng đọc. Vua cũng như đại thần đều tấm tắc khen. Vua ban thưởng rồi ân tứ Đồng tiến sĩ xuất thân. Tể-tướng Khấu Chuẩn dèm : Thù không phải người Hán, y là người Việt. Nhà vua cười : Đại thi hào Trương Cửu-Linh đời Đường cũng người Việt vậy.

    Mỹ-Linh, Tự-Mai, Lê Văn vốn ưa văn học, ba người suýt xoa:

    - Tuyệt. Đánh giá một người về văn chương, y học, võ học không thể phân chủng loại, sắc dân.

    - Hai hôm sau, vua truyền Thù làm thi, phú, luận.

    Thù tâu :

    - Bệ hạ muốn thử kiến thức trời cho thần, chứ không phải thử những gì thần học. Hôm trước bệ hạ thân ban đề tài cho thí sinh, thần chưa hề biết qua, như vậy là đúng với long ý. Còn hôm nay bệ hạ truyền thần làm thi, phú, luận. Những thứ đó thần đã học, và làm nhiều rồi. Xin bệ hạ cho đề khác.

    Vua khen tặng Thù trung trực, không dối vua. Vua ra đề tài đặc biệt cho Thù : Di bất khả loạn Hoa.

    Thù cầm bút viết liền hai vạn chữ. Thù bác lời Khổng-tử, bởi Khổng phân biệt ra Bắc-địch, Tây-nhung, Đông-di, Nam-man. Như vậy là thiếu kiến văn. Mỗi nơi đều có sở trường về văn hóa. Như phương Tây có Phật-giáo, phương Nam có thiên-văn, phương Bắc có võ-bị, phương Đông có văn học.

    Lời Thù rất hợp ý vua. Vua phong Thù làm Mật thư tỉnh chính tự.

    Thuận-Tông hỏi:

    - Chức đó là chức gì vậy?

    Mọi người đều lắc đầu. Khấu Kim-An đáp:

    - Chức này nhỏ, nhưng tín cẩn lắm, làm việc cạnh vua. Khi vua ban chỉ thì sao chép, rồi gửi cho tòa Bình-chương. Ở đây sẽ cho những người chữ tốt soạn thành các bản chiếu chỉ.

    Mỹ-Linh hỏi:

    - Thế Thù vinh quy bái tổ, có cưới Phương-Lan không?

    - Có. Khi Thù vinh quy về, bố mẹ Thù hỏi Phương-Lan cho. Hai người lai kinh, ngày ngày ngâm vịnh, ai cũng khen là cặp tài tử giai nhân.

    Lê Văn lắc đầu:

    - Hỏng bét. Anh chàng này hỏng bét rồi!

    Khai-Quốc vương hỏi:

    - Tại sao em bảo hỏng bét?

    - Đại phàm, con trai đến tuổi nhược quán (20 tuổi) tinh khí mạnh, thì cưới vợ mới tốt. Con gái đến tuổi mười sáu tinh huyết sung thịnh, lấy chồng thì sau này nhan sắc bền, con cái khoẻ mạnh thông minh. Thù cưới vợ sớm như vậy thế nào quả chuối tiêu sẽ biến thành quả ớt. Hay cũng lâm cảnh cúi đầu e thẹn.

    Đám đàn ông, từ Bảo-Dân đến Khai-Quốc vương đều bật cười. Mỹ-Linh ngơ ngác hỏi:

    - Cái gì chuối tiêu thành ớt rồi cúi đầu e thẹn?

    Lê Văn hỏi ngược lại:

    - Em không thể trả lời chị, vì phải nói đến những điều cấm con ghế nghe. Tuy vậy, nếu anh cả bảo nói, thì em nói.

    Khai-Quốc vương bật cười:

    - Cái gì mà cấm với không cấm. Chuyện đó là chuyện thực tế, ai cũng phải trải qua. Con gái nên nghe để biết. Vả em là thầy thuốc, cần giảng giải cho mọi người hiểu. Ai cấm, ta cho em vã vào miệng, và cắt cái đó đi.

    Tự-Mai cười khoái trá:

    - Sao anh giống bố quá. Bố cũng nói: Mấy thằng hủ Nho làm bộ cấm đoán con gái nghe truyện tình dục, cấm bàn về truyện phòng the, trong khi họ dâm kinh khủng. Truyện đó không những không cấm mà còn phải viết thành sách dạy cho trai gái nữa.

    Lê Văn ngồi nghiêm trang lại:

    - Cái bộ phận sinh con, đẻ cái của đàn ông có nhiều tên gọi khác nhau. Tên Hán-Việt là dương vật. Tên Việt gọi là con buồi, cái buồi, con cặc, con củ cặc, con cặc lõ. Nhưng đôi khi không muốn nói trắng ra, người ta dùng những tiếng khác thay thế như: Con chim, con cu, con chim cu, con cá chuối, con cá quả, của làm giống, cái đầu gà, thằng củ lẳng, đầu thằng nhỏ. Bộ phận này gồm có hai phần. Thứ nhất là nang hoàn, tức túi đựng hòn dái, hay trứng dái. Cái túi co dãn bất thường, nhờ lớp da dăn deo xếp lại. Bên trong có hai hạt, lớn nhỏ khác nhau tuỳ giống, tùy tuổi, tùy người. Hai hạt đó có tên hòn dái, trứng dái, hột mít, ngọc hành, hai hột, hai trứng. Hai hòn này với thận là bộ phận chính để sản xuất tinh khí.

    Thông-Mai hỏi:

    - Có khi nào người đàn ông chỉ có một hột, hay không có hột không?

    Lê Văn đưa mắt nhìn cử tọa một lượt:

    - Em sẵn sàng nói, nhưng yêu cầu tất cả đàn ông, con trai có mặt phải chắp tay, để lên đầu đã.

    Thông-Mai để tay lên đầu rồi hỏi:

    - Tại sao?

    - Kinh nghiệm hàng trăm lần giảng bài học này cho các ông, là các ông thọc tay vào quần khám hai hột của mình, nên em phải đề phòng sẵn.

    Mọi người cười ồ lên. Lê Văn tiếp:

    - Đại ca Thông-Mai hỏi như vậy là phải. Hoặc vì di truyền, hoặc vì trong khi mang thai, bà mẹ bị bệnh, ăn uống những thức độc, thì đứa trẻ ra đời chỉ có một hòn, hoăc một hòn lớn, một hòn nhỏ, đôi khi không có hòn nào. Y kinh nói: Thận, nang hoàn chủ về chí. Chí tức ý chí. Khi người đàn ông có hột lớn, hột nhỏ, tính tình thường trôi nổi, thiếu chí khí khi học hỏi, khi làm việc, hành sự trì nghi không quyết đoán. Người có một hòn thì tình trạng nặng hơn. Còn người không có hòn nào, thì tiếng nói ỏn ẻn như con gái, không có râu, cơ thể yếu đuối. Những người này thường được tuyển làm thái giám.

    Lê Văn đưa mắt nhìn Thông-Mai:

    - Bộ phận thứ nhì là qui đầu, tức đầu rùa.

    Rồi chàng đứng lên vẽ hình, giảng giải chi tiết ống dẫn tinh, đường dẫn nước tiểu v.v. cuối cùng kết luận:

    - Y kinh nói: Thận chủ não, chủ tủy. Anh chàng Yến Thù làm quan, cần lao chính sự ở vào cái tuổi đáng lẽ được chạy chơi, được phá phách; đó là một nguyên do thận hao. Anh chàng lại cưới vợ sớm, trong khi tinh khí chưa sung thịnh, đó là hai lý do thận hao. Anh chàng đọc sách nhiều, sáng tác nhiều, khiến não tủy hư không, đó là ba điều thận hao. Năm nay anh chàng mới vào tuổi trên ba mươi, nhưng em chắc cái đầu nhỏ thụt vào như đầu rùa mất.

    Bảo-Dân vỗ vai Lê Văn:

    - Em giỏi thực. Mấy tháng trước đây có hai thiếu nữ tuyệt sắc tên Hạnh-Chi, Hạnh-Diệp đến kinh thành thả thơ tuyển phu. Anh ta trúng cả hai. Như thế trong nhà anh ta có Phương-Lan, sáu mỹ mữ, nay thêm hai giai nhân nữa. Anh ta than: Hai giai nhân chỉ để mà nhìn thôi, vì... cái đầu nhỏ anh ta cúi xuống e thẹn. Các danh y đều chịu. Nếu Văn đệ trị được cho anh ta, thì hay biết mấy.

    - Trị thì em dư sức, song anh bắt gã phải giúp mình.

    - Chả cần em trị, anh ta cũng giúp mình tận tâm.

    - Được, em sẽ đi với anh để trị cho y. Thôi, anh nói tiếp về y đi 2.

    Bảo-Dân thuật:

    - Thù ở cạnh vua, tha hồ đọc sách. Sách nào, tấu chương, quốc vụ Thù đều đọc hết. Năm mười bốn tuổi vua thăng lên : Mật các độc thư. Tức chuyên đọc tất cả tấu chương các nơi gửi về, tóm lược hầu vua. Năm sau được thăng chức đến sáu lần: Chiếu thí trung thư, Thái-thường-tự lễ lang, Đông-phong ân, Quang-lộc tự thừa, Tập hiền hiệu lý. Cuối năm phụ thân qua đời, y cáo quan về chịu tang. Hết tang lai kinh được giữ chức coi về lễ nghi cung Thái-thanh, đặc biệt ghi chép những lời dạy dỗ của thái hậu, hoàng đế cùng hoàng hậu ban cho quần thần, phi tần. Khi mẫu thân qua đời, y xin về cư tang, vua không thuận. Y làm bài thơ cổ phong dài trăm câu khóc mẹ cực thảm thiết. Vua cùng hoàng hậu cảm động, thăng lên Thái-thường tự thừa. Hoàng hậu thấy y thông minh, cho y giữ chức Tham-quân tại phủ Thăng-vương.

    Thiệu-Thái hỏi:

    - Thăng vương là ai vậy?

    - Là Thiên-Thánh hoàng đế. Bấy giờ ông còn là Thái-tử, tước phong Thăng-vương. Cũng năm đó, y được thăng Thượng-thư hộ bộ ngoại lang, kiêm Thái-tử xá nhân. Ít lâu sau thăng Hàn-lâm học sĩ. Mỗi khi vua hỏi Thù về điều gì, Thù lại lấy trong tráp khóa kín ra mẩu giấy nhỏ, ghi chú sự sự chi tiết. Vua rất hài lòng về tính cẩn thận của y.

    Mỹ-Linh hỏi:

    - Y thông minh, cần mẫn, làm quan lớn khi tuổi trẻ như vậy mà không bị người ta ghen tức ư?

    - Không. Y rất khiêm tốn lễ độ. Trong khi làm quan, y để nhiều thời giờ sáng tác văn học. Văn của y từ vua, đại thần cho đến thứ dân đều ưa chuộng. Công chúa nên nhớ các quan cũng như dân chúng Tống rất trọng văn học. Nếu khi triều kiến, công chúa trổ tài văn chương ra, mới thu phục được nhân tâm 3.

    - Khi Thiên-Thánh hoàng đế lên ngôi vua. Chương-hiến Minh-túc hoàng thái hậu tức Lưu hậu vâng di chiếu buông rèm thính chính, tể thần Đinh Vị, Khu-mật-viện Tào Lợi-Dụng muốn chỉ một mình mình tấu lên Thái-hậu, chứ không muốn đem ra đình nghị. Các quan đều sợ không dám lên tiếng. Mình Thù dám tâu với thái hậu : Quần thần tấu lên Thái-hậu, nào biết sự thể ra sao? Thái-hậu có ngồi sau màn không? Thành ra ai cũng tưởng hai tể thần tự quyết. Thái-hậu khen phải, truyền việc gì cũng phải đình nghị. Sau vụ này Thù được thăng lên Gián-nghị đại phu kiêm thị độc học sĩ.

    Thiện-Lãm hỏi:

    - Hai chức này có lớn không?

    - Lớn. Hơn nữa chức vụ rất tín cẩn. Gián-nghị đại phu chuyên để can gián vua khi vua làm sai, nói nôm na là chức cố vấn cho vua. Còn thị độc học sĩ là chức hầu vua để đọc tấu chương, giảng sách cho vua, tức ông thầy của vua.

    Lê Văn thở dài:

    - Triều Tống đang thịnh có khác. Họ dùng một thần đồng, một văn gia lỗi lạc vào chức giảng sách, cũng như đọc tấu chương. Vua không hiểu thì giảng giải cho. Hèn chi họ muốn mở rộng biên cương.

    - Đâu đã hết. Thái-hậu thấy Thù là cựu thần của Đông-cung, mà chỉ

    giữ chức nhỏ, dù tín cẩn, như vậy không xứng. Bà thăng cho Thù lên làm Lễ-bộ thị lang, Khu-mật viện phó sứ. Khi làm phó sứ, y thấy Khu-mật viện sứ Trương Kỳ vô tài. Y dâng sớ vạch ra những sai lầm của Kỳ.

    Thanh-Mai cau mặt:

    - Y vốn nhũn nhặn, nhưng nay sao sinh chứng vậy?

    - Có gì lạ đâu, y vốn là bạn của đại sư huynh, tam sư huynh với ta. Nguyên Trương Kỳ cho rằng cần phải mở rộng Nam-thùy, sau khi có thêm dân, thêm lúa gạo, quay lên Bắc diệt Liêu, Tây-hạ, Cao-ly. Bốn ta họp nhau, cùng vạch ra những sai lầm của Kỳ: Nam-biên gồm Đại-Việt, Đại-lý, cả hai luôn tuế cống, thần phục, văn học thịnh. Khi không mang quân đánh, thì sĩ dân ai phục? Quân tướng không hết lòng. Chi bằng chấn hưng Nho-học, khuyến khích nông tang cho dân giầu, như vậy mới là đấng nhân quân. Các văn thần đều phụ theo Thù.

    Bảo-Hòa hỏi:

    - Trong tập ghi chú về Tống triều, đại ca Trần Phụ-Quốc có chép truyện Thù bị cách chức. Việc ấy ra sao?

    Bảo-Dân cười:

    - Thù trước đã học võ công Long-biên của phụ thân. Khi y làm quan ở kinh đến tuổi mười tám. Nghe tiếng bọn ta, y đến tham luận về thi, về họa, nhạc, rồi kết bạn. Chúng ta mật cho y biết rằng mình cũng người Việt. Y mừng lắm. Chúng ta đem võ công Đông-a dạy y. Hiện bản lĩnh y ngang với bọn ta.

    Mỹ-Linh bật nói lớn:

    - Có thế chứ. Tiểu muội nghĩ y là văn quan, trói gà không chặt, sao có thể đủ sức khoẻ vừa học, vừa làm quan, vừa viết văn. Thì ra y nhờ võ công, nên có sức khỏe để làm ba bốn chuyện một lúc. Thế y bị cách trong trường hợp nào?

    - Vì ở chức vụ thị độc học sĩ, y ra vào Ngọc-thanh chiếu ứng cảnh linh cung rất thường. Một lần có tên thái giám họ Trịnh hầu nhà vua từ nhỏ cầm gậy trúc chỉ vào mặt y nói đùa : Ông có phải Nam-man không. Y nổi giận vung tay gạt gậy trúc. Chân khí tòng tâm phát ra, khiến gậy vỡ làm nhiều mảnh bay tứ tung. Một mảnh làm gẫy bốn răng cửa của Trịnh tổng thái giám. Quan ngự sử dâng sớ đàn hạch. Y bị cách làm tri huyện Nghi-châu. Khi y lên đường, sĩ tử theo y đến hàng ngàn.

    - Tại sao vậy?

    Thiện-Lãm hỏi.

    - Khi y ở kinh, có mở trường dạy học. Trường của y dành cho Nho-sĩ sắp thi tiến sĩ. Mỗi khoa thi, thí sinh đậu tiến sĩ do cửa y xuất ra đến phân nửa. Vì vậy khi y bị giáng, học sinh đều theo y đi. Ở Nghi-châu mấy tháng, nhà vua nhớ những ngày cùng y làm việc, thăng y coi phủ Ứng-thiên. Ở đây y gặp Phạm Trọng-Yêm. Hai người bàn định lập ra kế hoạch giáo dục học sinh trong nước. Tiếng tăm hai người vang khắp thiên hạ.

    Mỹ-Linh gật đầu:

    - Đúng thế, học phong thời Đường có qui củ. Nhưng sau khi Đường tàn, suốt thời Ngũ-đại cho đến nay, nhờ Thù, Yêm, mới thịnh lên.

    - Triều đình nghị, triệu hồi y về, phong Ngự sử trung thừa, rồi Tư-chính điện học sĩ, kiêm Hàn-lâm độc học sĩ, Binh bộ thị lang. Y về tới kinh, thái hậu thăng y lên Tham-tri chính sự, Thượng-thư tả thừa. Hiện y giữ chức này. Tuy làm quan thân tín, nhưng y cũng bị Tôn Đức-Khắc khống chế bằng độc chưởng. Lát nữa đây ta sẽ thăm y. Thiệu-Thái phải theo ta đi, để giải Chu-sa ngũ độc chưởng cho y. Ta sẽ dạy y phương pháp phản Chu-sa độc chưởng của sư phụ.

    Khai-Quốc vương xoa tay vào nhau:

    - Đánh rắn phải đánh dập đầu. Chúng ta cần ghi tâm: Kẻ nào chủ xâm Đại-Việt ta dùng đủ mọi phương kế hạ chúng. Dù phải xử dụng võ công, vu oan giá hạ, giết chết bố mẹ, vợ con chúng. Ta đã loại được bốn tên trợ thủ đắc lực của Lưu hậu là: Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản. Bây giờ tới tên Tào Lợi-Dụng. Bảo-Hòa, Thông-Mai cần nghiên cứu kế sách sao cho mau chóng.

    Thông-Mai đưa mắt nhìn năm cậu em Đản, Mai, Tông, Lãm, Văn. Tia hàn quang từ mắt chàng chiếu ra uy nghiêm, khiến bọn chúng đều rùng mình, không dám nhìn thẳng vào mặt chàng. Bọn chúng đều nhủ thầm: Hung dữ như Nhật-Hồ lão nhân, mà chúng còn dám phá phách, không hiểu tại sao, chàng là anh chúng, mà chỉ đưa mắt một cái khiến chúng kinh sợ?

    Chỉ riêng Thanh-Mai, nàng đã được sư phụ Hồng-Sơn giải cho rõ: Xưa Phù-Đổng thiên vương thường đốt lửa xung quanh để luyện võ, vì vậy khói bay mù mịt. Nhân đó mắt ngài phải chống với khói, riết rồi nội công của ngài khiến người sau luyện thành, mắt chiếu ra tia nhìn cực mạnh, dù bất cứ ai bị rọi vào người cũng phải rùng mình.

    Thông-Mai chỉ năm trẻ:

    - Việc hạ Lưu hậu với bọn chân tay không khó. Kế hoạch đã sẵn. Nhưng thành hay không do các em. Các em phải tuyệt đối nghe lời ta.

    Cả năm trẻ đều răm rắp:

    - Bọn em tuyệt đối tuân lời sư huynh.

    Quốc-Vương nói với Tự-Mai:

    - Việc hạ Lưu hậu cần chờ tới cuộc thám thính đêm nay của Tự-Mai đã. Cuộc thám thính đêm nay rất quan trọng. Nếu ta thành công, có thể bảo vệ Đại-Việt ít nhất trong ba mươi năm không sợ Tống xâm lăng. Lỡ ra bị lộ, sẽ đưa đến Lý thái-phi, Thiên-Thánh hoàng đế và tất cả chúng ta e khó toàn tính mạng. Dù tính mạng chúng ta được bảo toàn, nhưng Tống-Việt sẽ có chiến tranh. Em thử nghĩ xem có làm nổi không?

    - Em đã suy nghĩ kỹ, nếu em bị bắt, chắc chắn sẽ bị giết. Em sẽ xưng là người của Tây-hạ, rồi tự tử. Chị Bảo-Hòa đã may cho em bộ quần áo thái giám bằng vải Tây-hạ rồi. Trong túi, em còn bỏ một bộ giản sử Tây-hạ nữa. Như vậy Lưu hậu nổi giận, thì chiến tranh Tống-Hạ sẽ xẩy ra, chứ không liên quan tới Đại-Việt.

    - Được rồi. Ta sợ trong đám thị vệ có người nhận ra võ công, chiêu số của mình mới phiền.

    - Chị Bảo-Hòa đã tính đến truyện đó. Trong khi đấu, em dùng Thái-cực quyền cùng phép điểm huyệt. Hai pho võ công này chưa truyền ra ngoài, thì bọn thị vệ khó lòng biết nổi.

    - Bằng vào dịch lý của Nho-gia, Nhân-qủa của nhà Phật, chúng ta hành sự theo đạo lý, không thể chịu sự thất bại. Em cứ cố gắng mà làm.

    Vương ghé tai Tự-Mai dặn nhỏ một lúc. Nó gật đầu liên tiếp:

    - Như vậy sau này gặp sư phụ, em phải xám hối về tội ăn cắp. Hà, không ngờ bây giờ em thành tên trộm.

    Vương vỗ vai nó:

    - Mỗi tộc có một nền văn minh riêng. Hiện về phương diện đó, Tống hơn ta nhiều, ta phải học lấy. Chứ đừng tự ái dân tộc, rồi phủ nhận hết cái hay của người.

    Vương nhấn mạnh:

    - Tộc Hán có kẻ tốt người xấu. Em không thể và không nên học thói dã man của bọn Lê Ba, Vũ Nhất-Trụ, Lê Đức vơ đũa cả nắm. Thấy một người Hoa xấu, rồi kéo cao cờ xua đuổi họ, chém giết họ, cướp của mồ hôi nước mắt của họ. Hán, Việt cùng gốc từ vua Phục-Hy, Thần-Nông. Suốt mấy nghìn năm sống yên ổn với nhau. Mãi tới đời Tần Thủy-Hoàng, đạo lý suy đồi y sai Đồ Thư mang quân sang đánh Âu-Lạc; đời Hán Quang-Vũ mưu diệt tộc Việt. Từ đó Việt-Hoa mới thù oán nhau. Quốc sách của chúng ta hiện chủ xướng sao cho hai tộc sống thuận hoà với nhau. Ta diệt tất cả bọn Hán trịch thượng, bọn Việt ác độc với Hán. Ta chỉ chống cái dã tâm của bọn ác độc muốn chiếm đất nước ta, coi ta như chó như lợn. Còn văn hóa vốn vô tri, không nên bỏ cái hay của người. Họ sang đánh ta cướp hết sách về. Nay ta cũng lấy sách của của họ.

    Bảo-Dân, cùng Thiệu-Thái, Lê Văn lên đường đến bộ Lễ trở về, chàng thuật truyện:

    - Khi tôi xưng là người của sứ đoàn Đại-Việt, viên tham-tri Phùng Nguyên vội kính cẩn mời vào. Chính lễ bộ thượng thư Tôn Thích thân rót trà mời tôi. Y thấy tôi nói giọng Biện-kinh thì phục lắm. Trong khi nói truyện vô tình y tiết lộ cho biết Lưu hậu cực kỳ bối rối khi mất tin hai lão Sử cùng Khiếu. Nhất là hôm qua có tấu chương từ Kinh-châu tâu về hai tên đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản vào dinh kinh lược sứ trộm bảo vật của sứ đoàn Xiêm. Tiếp theo sáng hôm qua Diêu Vạn cũng dâng biểu về việc dọc đường có giao chiến với hai tên đại đạo Sử, Khiếu. Thái-tử, công chúa An-nan Tam-gia La-sun cùng tâu về việc bị hai tên đạo tặc Sử, Khiếu cướp bảo vật. Tôi tới thăm Yến Thù. Thiệu-Thái đã trị bệnh cho y. Tôi dạy y phương pháp phản Chu-sa độc chưởng rồi.

    - Thế bộ Lễ có cho biết bao giờ chúng ta vào triều kiến không?

    - Không! Về việc tuyển phò mã. Nửa tháng nữa tất cả các ứng sinh đều tề tựu tại bộ Lễ để coi hình dạng, cùng bệnh tật. Vậy mấy cậu em phải chuẩn bị ngay mới kịp.

    Tự-Mai cười lớn:

    - Chị Bảo-Hòa đã may quần áo cho bọn em rồi. Em với Lê Văn mặc y phục thời Lĩnh-Nam. Anh Đản mặc y phục vùng Bắc biên.

    Lê Văn hỏi:

    - Nghĩa là đầu tiên các quan bộ Lễ nắm chân, nắm cẳmg xem bọn em có đẹp trai không? Mắt có bị lác, miệng có bị méo không? Tuổi có quá già không? Sau đó bọn em phải làm gì?

    - Bộ Lễ loại ra một số người. Những người trúng cách được mời ăn tiệc. Hôm sau vào đình thí.

    - Thể lệ ra sao?

    - Các thí sinh vào yết kiến nhà vua. Sau đó, mười bẩy thiếu nữ cùng công chúa cũng xuất hiện, ngồi vào mười tám chiếc ghế kê thành một hàng. Thí sinh chọn cô nào, đứng trước ghế cô ấy. Như vậy họ bị phân thành mười tám toán. Nhà vua ra đầu đề cho các thí sinh thi văn. Mỗi toán lấy trúng cách ba người. Ba người này sẽ đấu võ. Người nào thắng, được làm tân lang.

    Khai-Quốc vương bảo Lê Văn:

    - Em điểm vào mấy huyệt cho Tự-Mai ngủ một giấc. Hết canh một gọi y dậy. Như vậy y khỏe mạnh, tỉnh táo hơn.

    Lê Văn dùng ngón tay trỏ điểm vào huyệt Nội-quan, Thần-môn, Đại-lăng của Tự-Mai. Quả nhiên, Tự-Mai ngáp dài, rồi vào phòng ngủ.

    Trời vừa sập tối, trên trời có tiếng chim ưng réo. Thiệu-Thái nhắc cậu:

    - Bảo-Hòa sai chim ưng đến dẫn đường cho Tự-Mai đấy. Cháu nghĩ cậu nên cho cháu với Mỹ-Linh vào hoàng-thành điều khiển chim ưng theo dõi Tự-Mai, lỡ có gì còn cứu trợ kịp.

    Khai-Quốc vương gật đầu. Tự-Mai được đánh thức. Thanh-Mai thân dọn cơm cho em ăn. Nàng pha một bình trà đặc cho Mỹ-Linh, Thiệu-Thái cùng Tự-Mai uống. Rồi dặn:

    - Cẩn thận nghe.

    Ba người theo dấu chim ưng dẫn đường biến vào đêm tối. Tới khu cửa Đông hoàng-thành nghe tiếng tiêu văng vẳng. Ba người lần theo mà đi. Tới một nơi thấp nhất, bên trong chỉ là bãi đất đổ rác, không có thị vệ canh coi. Ba người tung mình nhảy lên mặt thành, rồi đáp xuống như chiếc lá rụng.

    Tự-Mai đã quen đường, nó dẫn hai người đến cửa Nam cấm thành, rồi chỉ một cây cao:

    - Chị Mỹ-Linh ở dưới canh chừng, anh Thiệu-Thái lên cây chỉ huy chim ưng. Em vào thành.

    Vì tường cấm thành quá cao, Tự-Mai phải dùng dây, một đầu có thỏi chì tung lên cho quấn vào một trụ thành, rồi giật mạnh. Người nó tung lên cao, đáp lên mặt thành. Nó thu cuộn dây ném ra ngoài cho Mỹ-Linh, rồi đáp xuống đất. Nhanh nhẹn, nó băng mình vào khu vườn thượng uyển nơi trồng toàn hoa quỳnh. Sau khi quan sát, nó nghĩ:

    - Theo bản đồ Lý thái phi vẽ cho ta, ngay Nam cấm thành là Sùng-chính điện, nơi vua ngự triều. Vậy thì kia là Sùng-chính điện rồi. Sau điện Sùng-chính tới Tập-hiền viện, nơi Thiên-Thánh hoàng đế thường làm việc ban đêm.

    Nó băng mình vượt qua khu Sùng-chính tối om, thấy trước mặt là ngôi điện khá lớn, đèn đuốc sáng choang. Nó đoán là điện Tập-hiền. Bên ngoài thị vệ cầm vũ khí đi đi, lại lại canh phòng. Vòng ra phía sau không thấy có thị vệ, nó núp ngay vào bụi cây sát bên cửa sổ.

    Thình lình một luồng gió quạt vào đầu. Kinh hãi, nó tung người lên không. Còn lơ lửng trên cao, dưới ánh sáng lờ mờ, nó nhận ra con Sơn-sơn. Lập tức nó chụm miệng gừ lên mấy tiếng rồi đáp trên lưng cọp. Con Sơn-sơn đã nhận ra Tự-Mai, nó để nguyên cho Tự-Mai cỡi trên lưng. Cả đôi cọp cùng đến bên nó. Nó vuốt ve như chơi với chó. Nó gừ thêm mấy tiếng ngụ ý dặn cọp canh chừng phía sau.

    Nó nhìn vào trong cửa sổ. Bên trong không có ánh sáng chiếu ra. Nó đoán là phòng trống. Lắng tai nghe ngóng một lúc, nó dùng tay sẽ kéo. Cửa sổ có then cài. Nó lùi lại, vận âm kình phát nhẹ một chưởng. Then cửa sổ bị gẫy, cánh cửa từ từ mở ra. Nó nhảy ngay vào trong, rồi đóng cửa lại.

    Ánh sáng từ phòng bên kia lọt qua đủ cho nó nhìn rõ chỗ nó đứng là phòng chứa sách. Phòng này rộng thênh thang. Nhìn những bộ sách xếp ngay ngắn trong hơn trăm giá. Nó than thầm:

    - Sách vở mấy nghìn năm của Trung-nguyên, có bao nhiêu họ đều bảo tồn được hết. Bên mình, văn tự Khoa-đẩu nào có thua gì Trung-nguyên. Nhưng nay bị hủy diệt hết rồi. Bây giờ chỉ có mấy chục bộ, viết bằng chữ Hán lưu truyền mà thôi.

    Có tiếng động từ phòng bên kia vọng lại. Nó leo lên giá sách nhìn qua. Đó là một thư phòng, đèn nến sáng choang. Một thiếu niên đang ngồi trên chiếc ngai sơn son thiếp vàng, cạnh án thư đầy sách. Một trung niên Hán tử mặc quần áo đại thần đứng bên thiếu niên. Gần đó, hai thái giám đang quạt than lò sưởi đỏ rực. Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Cơ chừng gã thanh niên này là Thiên-Thánh hoàng đế đây. Kể ra tướng mạo y coi được hơn anh cả mình. Còn trung niên Hán tử là ai, mà tướng mạo thanh nhã, tiên phong đạo cốt, rõ ra con nhà Nho. Có điều chòm râu y hơi giống Nhật-Hồ bên Đại-Việt.

    Một thái giám bước vào quỳ gối:

    - Tâu bệ hạ, thái hậu có chỉ dụ. Hôm nay người se mình, không thính chính. Vậy bệ hạ cùng các đại học sĩ cứ tiếp tục cần lao chính sự.

    Thiếu niên gật đầu, rồi vẫy tay ra hiệu cho thái giám lui. Tự-Mai im lặng theo dõi.

    Bỗng thiếu niên ngửng đầu lên hỏi trung niên Hán tử:

    - Này, Yến học sĩ, trẫm mệt quá rồi, đọc tấu chương không nổi nữa. Người tâu cho trẫm rõ về sứ đoàn Giao-chỉ đi. Vấn đề này lôi thôi quá.

    Nghe thiếu niên nói, Tự-Mai cười thầm:

    - Thì ra gã là Thiên-Thánh hoàng đế thực. Còn Hán tử là Yến Thù đây. . Hai năm trước y được phong Tham tri chính sự, Thượng thư tả thừa, Hàn-lâm thị độc học sĩ cho đến nay vẫn còn giữ chức này. Theo quan chế nhà Tống, chức vị y ngang với phó tể tướng.

    Yến Thù cung tay:

    - Tâu bệ hạ sự việc như sau. Tháng tám năm trước, võ lâm thuộc Lĩnh-Nam cũ, tổ chức đại hội ở Thăng-long, để giỗ Bắc-bình vương Đào Kỳ. Tám vùng có người Việt sống, bầu Khai-Quốc vương Lý Long-Bồ làm minh chủ, và tôn làm trừ quân.

    - Việc này trẫm theo dõi rất chi tiết.

    - Sau đại hội, Khai-Quốc vương cho rằng dân chúng ở Nam-thùy Tống thuộc Quảng-Đông, Quảng-Tây, Vân-Nam phần đông là người Hoa gốc Việt. Nếu cứ để cho biên thần hai bên gây hấn, bắt dân chúng thù hận nhau mãi, biết đến bao giờ cho yên. Vương quyết định lên đường sang Tống kết hiếu, giải quyết mọi rắc rối với ta.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Người Tống cứ gọi nước mình là Giao-chỉ. Trong khi Yến Thù gọi là Đại-Việt. Khi y nói tới anh cả, luôn gọi là vương. Thế thì đúng y là bạn của đại, nhị, tam sư huynh. Y có thiện cảm với Đại-Việt.

    - Khá đấy. Long-Bồ có lòng nhân như vậy thực đáng khen.

    - Khi sứ đoàn tới Quảng-Đông Nam-lộ, tuyên-vũ sứ tấu về triều. Khu-mật viện xin cử thiết kị theo hộ tống. Thái hậu chỉ dụ rằng việc đón sứ đoàn không thuộc Khu-mật viện. Người sai Đàm-châu tư-mã Tào Khánh cùng mười thị vệ võ công cao nhất đi đón. Trên đường tới Quảng-châu, sứ đoàn bị bọn Trường-giang thất quỷ bắt. Chúng ép sứ đoàn khai ra bí mật kho tàng Lĩnh-Nam.

    - Trẫm nghe Lý Long-Bồ võ công cao lắm, sao để cho bọn giặc cướp bắt đi?

    - Khai-Quốc vương là người thủ lễ. Vương cho rằng Tống là nước lớn. Triều đình đã cử thiết kị hộ tống rồi, sứ đoàn không được dùng võ. Dụng võ trên đất Tống là vô lễ với tộc Hán, với võ lâm, với triều đình.

    - Cử chỉ đáng khen. Giữ lễ như thế thực chưa có nước nào hơn.

    - Tâu bệ hạ, trên đường đến Khúc-giang, sứ đoàn khuyên răn thế nào không biết, Trường-giang thất quỷ quay lại qui phục triều đình, thành bộ hạ của Định-vương.

    - Chắc Thái-sư vui lắm.

    - Vâng. Giữa lúc đó bang Nhật-hồ đại hội ở Tuyệt-phong, đánh thuốc độc hại Định-vương cùng phái đoàn của người. Khai-Quốc vương với sứ đoàn xuất hiện. Sứ đoàn dùng võ công chinh phục bang này. Họ đồng ý giải tán, đổi thành bang Hoàng-Đế, chuyên đi trị bệnh cho dân chúng. Vì vậy Định-vương, Quốc-vương kết làm anh em.

    - Từ trước đến giờ, triều đình truy lùng trải mấy chục năm, mà không diệt được tụi Nhật-hồ. Nay Khai-Quốc vương khiến chúng cải tà qui chánh. Như vậy vương có công lớn với triều đình. Hà! Triều đình nợ vương hai món lớn quá.

    - Thái hậu sai hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ cùng mười thị vệ võ công cao nhất xuống Khúc-giang đón sứ đoàn. Dọc đường không biết một thế lực nào đó, bắt mất mười thị vệ. Hai vị Tôn, Lê thua trí, hoá điên hoá khùng. Triều đình mất tin tức sứ đoàn.

    - Võ công hai vị này bậc nhất đất Tống, thêm mười thị vệ mà sao còn để thất bại.

    - Thực khó hiểu! Thái hậu lại sai hai vị đại tướng quân Sử, Khiếu đi đón. Không rõ tại sao hai vị lại đột nhập dinh kinh lược sứ Kinh-châu ăn trộm cống phẩm cửa sứ bộ Xiêm rồi trốn mất. Hiện sứ bộ Xiêm đã tới Biện-kinh.

    - Trước đây trẫm đã tâu với thái hậu rằng: Bọn theo Hồng-thiết giáo ở bất cứ đâu cũng thuộc loại du thủ du thực, ngu ngu đần đần, điên điên khùng khùng. Mình dùng nó, có ngày nó cắn mình. Tục ngữ nói đừng chơi với hổ, có ngày nó ăn thịt. Đừng gần với rắn, có ngày nó nhả nọc. Bọn Hồng-thiết giáo vừa là hổ vừa là rắn. Đến sứ đoàn mà hai lão còn dám ăn trộm thì trong cung này khó yên.

    Ngừng lại suy nghĩ một lúc, nhà vua tiếp:

    - Thế sứ đoàn Đại-Việt đâu?

    - Tâu vẫn chưa có tin tức gì cả.

    Nhà vua bứt rứt ra mặt:

    - Như vậy thì còn gì thể diện của Thiên-triều nữa. Bọn Tôn, Lê, Sử, Khiếu tội đáng xử trảm. Học sĩ soạn cho trẫm hai chỉ dụ kể tội chúng, trao cho đình thần nghị tội. Nếu không xử bọn chúng, từ nay các phiên thần không qui phục chúng ta. Nguy lắm.

    Bỗng có tiếng nói vọng vào:

    - Tả Bộc-xạ, Hàn quốc công Tào Lợi-Dụng xin vào triều kiến.

    Thiên-Thánh hoàng đế gật đầu:

    - Mời quốc công.

    Một đại thần thân thể hùng vĩ, mũ áo chính tề, tay cầm trục giấy tiến vào, định quỳ gối hành lễ. Nhà vua đứng dậy phất tay:

    - Quốc công an tọa. Miễn lễ. Đêm khuya quốc công vào có việc gì vậy?

    - Tâu bệ hạ, sứ đoàn Giao-chỉ tự tới Biện-kinh, hiện trú ngụ ở khách điếm Nam-phong. Sáng nay họ đến bộ Lễ cáo tri.

    - Thực nhục quốc thể. Tể tướng phải chiếu luật trị tội bọn hộ tống sứ đoàn Đại-Việt. Ai đời ba đoàn được cử đi, mà để cho đạo tặc quấy nhiễu, rồi họ tự tới kinh bao giờ. Theo ý tể tướng nên cử ai tiếp sứ cho tiện?

    Tự-Mai chửi thầm:

    - Trong khi nhà vua gọi nước mình là Đại-Việt. Mà lão già này cứ gọi là Giao-chỉ, như vậy lão thuộc phe chống nước mình đây.

    - Tâu bệ hạ, sứ đoàn Giao-chỉ gồm Lý Long-Bồ cùng vợ tên Trần Thanh-Mai. Cháu gái tên Lý Mỹ-Linh. Cháu trai tên Thân Thiệu-Thái. Ngoài ra có năm thiếu niên sang ứng tuyển phò mã. Nhưng chỉ có ba người chính thức được đề cử. Dọc đường sứ đoàn tuyển thêm vợ chồng Trần Bảo-Dân, con gái Ngô Quảng-Thiên tên Ngô Cẩm-Thi làm hướng đạo. Theo ý ngu thần, nên cử Hàn-lâm thị độc học sĩ Yến Thù tiếp sứ đoàn. Sở dĩ sứ đoàn có phụ nữ vì họ nghe thái hậu lâm triều, nên muốn bệ kiến.

    - Được rồi, ngày mai truyền cho Yến Thù đem sứ đoàn đến Nam-thanh điện ở. Thôi quốc công về nghỉ, tuổi hạc quốc công đã cao, mà khuya còn phải lao quốc sự làm trẫm không an tâm.

    Nhà vua rót một chung trà trao tay cho Tào Lợi-Dụng:

    - Đây là sâm thang. Quốc công uống một chung cho đỡ mệt.

    Lợi-Dụng tạ ơn, bưng chung sâm thang uống. Nhà vua lấy trong tráp ra một hộp bằng bạc, trao tay cho Lợi-Dụng:

    - Hôm rồi sứ Cao-ly đem đến cống mười cân sâm. Trẫm dâng thái hậu một cân, dùng một cân. Quốc công nên dùng một cân, bảo vệ sức khỏe.

    Tào Lợi-Dụng nói lời tạ ơn rồi ra về. Nhà vua thân tiễn Tào khỏi điện rồi mới trở vào. Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Ông vua này thực nhân từ, anh minh. Ông đối với quần thần hơi giống như Thuận-Thiên hoàng đế. Vua, quan như thế, hèn chi nước họ giầu, dân họ mạnh, họ mới nghĩ đến mở rộng Nam-thùy.

    Thiên-Thánh hoàng đế cầm bút phê vào tấu chương về việc tiếp sứ, bỏ ra bên cạnh, rồi cúi xuống đọc tấu chương tiếp. Đọc được một lát, nhà vua buông bút hỏi Yến Thù:

    - Bây giờ đến vấn đề tuyển phò mã. Từ trước đến giờ trẫm không mấy chú ý tới việc này. Hôm trước nghe tuyển phò mã hoàng muội khóc lóc không muốn. Rồi mới đây tự nhiên đổi thái độ, vui vẻ khác thường. Trẫm cật vấn, hoàng muội chỉ cười, không trả lời. Về việc này trẫm có ý nghĩ: Thiếu niên anh hùng thiên hạ thi nhau kéo về, trong lòng họ cực hoan hỉ, phải làm sao cho cuộc đấu võ không có kẻ sống người chết. Khanh nghĩ sao?

    - Việc này thần không được dự vào. Mọi việc do thái hậu định đoạt cả. Chỉ còn tháng nữa bộ Lễ khám bệnh, duyệt lý lịch. Kỳ tuyển này chỉ lấy có một trăm tám mươi người. Sau đó có cuộc điện thí. Đề tài điện thí do bệ hạ ra.

    - Trẫm sẽ không ra đề tài trong Tứ-thư, Ngũ-kinh, mà ra đề tài về những việc trọng đại bản triều. Như vậy, sau này ta có mười tám thiếu niên anh tài từ võ công đến kiến thức đều siêu đẳng.

    - Tại Sùng-chính điện, các ứng sinh được ban cho dự yến. Giữa yến, công chúa cùng mười bẩy tiểu thư con đại thần xuất hiện đi một vòng cho sĩ tử thấy dung nhan. Mỗi hoa khôi ngồi vào một ghế, trước ghế để một án thư, trên án thư có nhánh hoa bằng vàng. Sĩ tử được quyền chọn hoa khôi. Ai muốn ứng làm tân lang của hoa khôi nào, thì đứng trước ghế hoa khôi đó.

    Nhà vua bật cười:

    - Lỡ ra một hoa khôi có hàng mấy chục người xin ứng tuyển thì thực rầy ra to. Lại nữa, lỡ một hoa khôi không ai đoái hoài thì sao?

    - Tâu bệ hạ, tỷ như hoa khôi Giáp có hai mươi người dự tranh, họ sẽ phải đấu võ với nhau. Ai thắng mười chín đối thủ thì được. Lại như hoa khôi Ất không có ai xin dự tranh, thì sau khi những người dự tranh các hoa khôi khác bị loại, sẽ lại có quyền tái xin dự tranh.

    - Ai nghĩ ra thể lệ này vậy?

    - Thần không rõ, tất cả do chỉ dụ của thái hậu truyền cho Tào Lợi-Dụng.

    - Chắc Tào bầy ra đây.

    Nhà vua bảo hai thái giám:

    - Cho hai người rời khỏi đây. Trẫm có việc riêng muốn nói chuyện với Yến đại học sĩ.

    Hai thái giám lui khỏi phòng. Nhà vua vẫy Yến Thù lại gần. Ông thở dài não nuột:

    - Trẫm có một điều khổ tâm riêng, mong khanh cứ thực tình tâu bầy, đừng dấu diếm trẫm.

    Yến Thù rùng mình, cúi đầu xuống:

    - Thần tội đáng chết, thân làm tới đại thần, mà để chúa có điều khổ tâm. Tâu bệ hạ điều đó thần biết rất rõ, nhưng quả thực sức thần có hạn, không làm được gì hơn.

    - Khanh biết rồi à? Việc đó là việc gì?

    - Tâu bệ hạ, việc nội cung.

    - Từ lâu trẫm thắc mắc về việc thái hậu sinh ra trẫm, thế nhưng người không nuôi trẫm, mà giao cho Dương thục-phi nuôi. Sau người sinh hoàng muội Huệ-Nhu cũng giao cho Lý thần-phi nuôi. Đúng lý ra thái hậu phải thương yêu trẫm với hoàng muội lắm. Thế nhưng người đối với trẫm hết sức nghiêm khắc. Trong khi Lý thần phi lại yêu thương trẫm đến chỗ không thể tưởng tượng nổi.

    - Bệ hạ thánh minh ít ai sánh kịp.

    - Từ khi trẫm có trí khôn, Lý thần phi thường tìm cách gần trẫm vào những lúc vắng người. Tin này tới tai thái hậu, người cấm không cho Thần-phi thăm trẫm nữa. Trẫm phải âm thầm thăm thần phi.

    - Tâu bệ hạ, Thần-phi với Thái-hậu hai lần cùng mang thai, sinh cùng ngày. Lần đầu thái hậu sinh bệ hạ, thần phi sinh một hoàng nam. Được mấy giờ hoàng nam hoăng. Lần sau thái hậu sinh công chúa Huệ-Nhu. Lý thần phi cũng sinh một công chúa. Như lần trước, được mấy giờ cũng hoăng. Nhưng thần biết, bệ hạ không xuất từ Lưu thái hậu. Mà xuất từ Lý phi. Vụ này hiện đổ bể. Thái hậu định dùng hai lão Sử, Khiếu đem thị vệ hại thái phi, giáng bệ hạ xuống tước vương rồi sát hại. Sau đó lập lên một ấu quân.

    - Sao khanh biết?

    - Định-vương ban dụ rằng hiện người của thái hậu bao quanh hoàng thượng, vương rất khó tâu điều này. Vì vậy vương truyền thần thay vương tấu ngũ sự khẩn yếu.

    Nhà vua nắm lấy tay Yến Thù:

    - Trẫm thấy từ hôm Nam-du về đến giờ thái sư không vào cung gặp trẫm. Trẫm cho rằng người mệt mỏi, nên nghỉ tĩnh dưỡng. Thì ra thái sư dương Đông kích Tây như thế đó.

    - Điều thứ nhất, nhân vụ Sử, Khiếu lộ bản tướng đạo tặc. Bệ hạ phong hai đại võ lâm cao thủ, hiện đang làm quan ở ngoài vào chức vụ của chúng để có người tâm phúc hộ vệ.

    - Điều này sẽ làm thái hậu nổi lôi đình, nhưng bắt buộc.

    - Điều thứ nhì, chuyển hai đạo thị vệ Hoàng-thành thay hai đạo thị vệ Cấm-thành. Hai đạo Hoàng-thành hầu hết đều là người thân tín của thái sư. Như vậy thái hậu có muốn dùng binh biến truất phế bệ hạ, cũng không làm được nữa.

    - Thì ra thái sư chuẩn bị cả rồi.

    - Tâu bệ hạ, thái hậu bàn Nam chinh với thái sư. Thái sư vờ tán thành. Người còn xin đi sứ, đem cả cháu thái hậu là Dư Tĩnh theo, làm như nhất tâm với thái hậu. Cho nên bề ngoài người giả như gây hấn với võ lâm Nam phương. Nhưng bề trong người mật sai Phạm Trọng-Yêm, Ngô Anh bí mật liên lạc, kết thân với võ lâm nhân sĩ Lĩnh ngoại. Trong khi người vắng nhà, thái hậu tha hồ tung hoành. Thái hậu đâu ngờ thái sư tuy vắng nhà, nhưng người thân tín thực nhiều chuẩn bị hết mọi sự.

    - Tuyệt.

    - Điều thứ ba, Thái-sư cử người thay thế Tôn Đức-Khắc thống lĩnh Ngự-lâm quân. Các tướng trong Ngự-lâm quân toàn người trung nghĩa của triều đình, mà thái sư đã thay dần và loại bọn dư đảng bang Nhật-hồ rồi.

    - Thái sư đã dự trù cử ai vào chức vụ này chưa?

    - Tâu bệ hạ người xếp đặt xong rồi. Điều thứ tư, có người nhập cung trị Chu-sa ngũ độc chưởng cho Lý phi, truyền phản Chu-sa ngũ độc để phi quay lại khống chế thái hậu. Bấy giờ bệ hạ mới tôn phi lên làm thái hậu. Thân phận Lưu thái hậu để Lý thái hậu quyết định.

    - Khanh khải với thái sư rằng trẫm xin thái sư bảo toàn cho Lưu thái hậu. Dù gì Lưu hậu cũng là người sủng ái của tiên đế.

    - Thần xin truyền chỉ của bệ hạ tới thái sư. Điều thứ năm, nhân có sứ thần Đại-Việt tiến cống. Bệ hạ chú ý: Đại thần nào dùng tiếng Đại-Việt, Thuận-Thiên hoàng đế, Khai-Quốc vương thì là người trung tín của bệ hạ. Người nào dùng tiếng Giao-chỉ, Nam-man, Lý Công-Uẩn, Lý Long-Bồ thì là người của Lưu thái hậu.

    - Nhưng cho đến nay trẫm cũng chưa có bằng chứng đích xác về xuất thân của mình.

    Yến Thù ghé miệng vào tai nhà vua nói nhỏ. Nhà vua rùng mình, định hỏi một vài chi tiết, thình lình một thái giám vào quỳ tâu:

    - Tâu bệ hạ có quan Tư-mã Kinh-châu Trần Trung-Đạo và Chiêu-võ hiệu úy lĩnh Đô đốc Tương-giang hồ Động-đình Vương Văn xin vào bệ kiến mật tấu khẩn cấp.

    Yến Thù nói:

    - Mời Tư-mã vào trước.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Chắc là anh cả, Định-vương xếp đặt với Yến Thù đây, chứ dễ gì nhà vua tiếp ngoại thần trong đêm. Nhất, tam sư huynh về đây từ bao giờ mà mình không biết.

    Trần Trung-Đạo vào quỳ gối:

    - Thần Trần Trung-Đạo, Tư-mã Kinh-châu, lĩnh Phiêu-kị đại tướng quân xin yết kiến thánh hoàng.

    - Tư mã bình thân. Đêm khuya Tư-mã tâu trình việc chi khẩn cấp?

    Trần Trung-Đạo tâu:

    - An-vũ sứ Kinh-châu nhận chỉ của triều đình tiếp sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la. Trong khi sứ đoàn cư ngụ trong dinh An-vũ sứ, thì hai vị đại thần tên Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản có nhiệm vụ tiếp sứ đoàn Đại-Việt, lại giả làm kẻ trộm đột nhập trộm cống phẩm.

    Rồi Trung-Đạo trần thuật vụ trong khi giao đấu, kiếm Sử, Khiếu bị gẫy rơi lại, quân-sĩ nhận diện được, nên An-vũ sứ sai vẽ hình truy tầm. Dọc đường chiêu thảo sứ Diêu Vạn hộ tống sứ đoàn Xiêm gặp Sử, Khiếu đang áp tải sứ đoàn Đại-Việt. Diêu Vạn đoạt lại được cống phẩm v.v.

    Nhà vua đã đọc qua tấu chương, nay Trung-Đạo diện tấu, khiến nhà vua nổi giận. Nhưng nhà vua ớn vụ Sử, Khiếu thuộc nhóm Nhật-hồ theo giúp thái hậu, nên ông còn trù trừ. Chợt nhớ ra điều gì nhà vua hỏi:

    - Võ công Tư-mã so với Sử, Khiếu ra sao?

    Yến Thù tâu:

    - Võ công Trần Trung-Đạo thuộc võ công Thiền-môn. Người lại học được phương pháp phản Chu-sa độc chưởng, nên mới đánh đuổi nổi hai lão Sử, Khiếu. Nay Sử, Khiếu phạm tội đạo tặc, thần nghĩ bệ hạ nên lưu Trung-Đạo ở kinh, hầu chờ khi hai tên kia trở lại, có người trị chúng.

    Nhà vua gật đầu:

    - Mời Tư-mã ngồi. Cho Vương Văn vào.

    Trần Phụ-Quốc vào, quỳ gối:

    - Thần Vương Văn, lĩnh Chiêu-võ hiệu uý, Đô đốc Tương-giang hồ Động-đình xin yết kiến thánh hoàng.

    Yến-Thù cầm bản tấu chương lên tóm lược cho nhà vua nghe về vụ hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ được chỉ dụ đi đón sứ đoàn Đại-Việt cùng mười thị vệ. Mười thị vệ mất tích trong trường hợp kỳ lạ, rồi hai lão hóa điên hóa khùng giết thuyền trưởng ở Tỷ-quy, nay không biết ra sao.

    Nhà vua hỏi Yến Thù:

    - Khanh nghĩ sao?

    Yến Thù ghé sát miệng vào tai nhà vua:

    - Nên phong Trung-Đạo vào chức của Tôn Đức-Khắc. Vương Văn vào chức của Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản. Như vậy bệ hạ có người thân tín hầu giải quyết vụ bảo an cho Lý phi.

    Nhà vua tỏ vẻ cương quyết:

    - Khanh soạn chiếu chỉ cho trẫm, ngay từ bây giờ. Một là phong Trần Trung-Đạo làm Phiêu-kị đại tướng quân, tổng lĩnh Ngự-lâm quân. Hai là phong Vương Văn làm Trấn-quốc đại tướng quân tổng lĩnh thị vệ.

    Yến Thù cầm bút viết chiếu chỉ, rồi tuyên đọc. Phụ-Quốc, Trung-Đạo cúi đầu lạy tạ. Nhà vua tuyên chỉ:

    - Bất cứ trường hợp nào, hai khanh không thể nghe lệnh ai, dù là tể thần. Hai khanh chỉ trực tiếp nghe chỉ dụ của trẫm, hoặc trẫm sai Yến đại học sĩ truyền đến. Ngay bây giờ hai khanh có thể đi nhậm chức được rồi.

    Nhà vua nói nhỏ với Yến Thù:

    - Người mật cáo cho Định-vương biết những gì mới xẩy ra. Người đi ngay, đừng chần chờ nữa.

    Yến Thù cúi đầu bái biệt rời khỏi điện.

    --------------------------------
    1 Tất cả chi tiết về Tào Lợi-Dụng, chúng tôi thuật theo Tống sử quyển 290, Tào Lợi-Dụng liệt truyện, trang 9705-9709.
    2 Chi tiết về căn bệnh này xin xem phụ lục Cúi đầu e thẹn ở cuối quyển.
    3 Chi tiết về Yến Thù, tôi thuật theo bộ Tống sử, quyển 311, trang 10195 - 10198, Yến Thù liệt truyện.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ SÁU
    Tử vì đẩu số

    Nhà vua quay ra ngoài hỏi một thái giám:

    - Hồi chiều ta tuyên chỉ cho người đi thỉnh Tây-Sơn đạo sư. Đạo-sư đã tới chưa?

    - Tâu bệ hạ đạo sư tới lâu rồi, nhưng hạ thần thấy bệ hạ bận chính sự nên không dám vào tâu.

    Nghe đến Tây-Sơn đạo nhân, Tự-Mai giật mình, tự hỏi:

    - Không biết có phải Tây-Sơn lão nhân mà mình đã gặp trên Tản-lĩnh không? Mình cứ chờ xem, lát nữa sẽ biết.

    Không phải chờ lâu, Tây-Sơn lão nhân từ ngoài bước vào. Lão chắp tay xá ba xá, chứ không lạy. Nhà vua đối với lão tỏ ra trọng vọng vô cùng. Ông đứng dậy đón lão, rồi mời ngồi xuống chiếc ghế cạnh án thư:

    - Nghe đạo sư mới sang Đại-Việt chắc biết nhiều về xứ này, vì vậy trẫm thỉnh đạo sư đến đàm đạo.

    Trên mặt Tây-Sơn lão nhân hiện ra vẻ bẽn lẽn:

    - Cơ trời thực ảo diệu, bộ máy tạo hoá khéo xếp đặt. Năm nay bốn anh em hạ thần đều gặp hạn xấu. Bắc-Sơn lão nhân đại hạn ngộ Kình, tiểu hạn ngộ Kiếp, Phục. Nam-Sơn lão nhân đại, tiểu trùng phùng tại Hợi ngộ Liêm, Tham.

    Nhà vua tính đốt ngón tay:

    - Như vậy Bắc-Sơn đạo sư thế nào cũng bị người ta đánh lừa, rồi đến nỗi bị đau đớn thân xác. Còn Nam-Sơn lão nhân không bị thương cũng bị quan sự. À, nhưng Nam-Sơn lão nhân tuổi Bính có Hóa-kị đi với Liêm-trinh thì giải được cái độc Liêm, Tham, chắc chỉ bị thương thôi.

    - Bệ hạ thực minh kiến. Còn đại hạn thần ngộ Không, Kình. Tiểu hạn bị Hình chiếu. Thành ra bị thương suýt mất mạng.

    Nhà vua đưa mắt nhìn khắp người Tây-Sơn lão nhân:

    - Sự thực ra sao? Không lẽ các vị bị người Việt đánh đến bị thương?

    - Tâu bệ hạ bọn thần bị lừa, lại được võ lâm Đại-Việt cứu trợ. Họ tiếp đãi anh em thần rất chí tình, thế mới xấu hổ chứ.

    Rồi lão thuật lại chi tiết bị Hồng-thiết giáo Tây-vực bắt sứ giả, sửa chiếu chỉ đánh lừa toàn phái Hoa-sơn sang Bắc-biên ra sao. Khi về còn được vua Bà đãi yến, cho uống rượu quý.

    Nhà vua nghe xong bật cười:

    - Khi vận hạn đến, thì dù minh mẫn như các vị cũng không tránh được. Người Việt cũng rộng lượng đấy chứ. Họ không thù oán, mà còn trợ giúp mình. Thành ra mình mắc nợ họ một món nhân tình lớn. Hôm nay trẫm muốn đạo sư giảng chi tiết về nguồn gốc phái Hoa-sơn cùng sự hình thành khoa Tử-vi cho trẫm nghe lại một lần.

    Tây-Sơn lão nhân chắp hai tay vào nhau:

    - Phái Hoa-Sơn được thành lập từ năm Thiên-thụ nguyên niên thời Vũ-hậu đời Đường (Canh-Dần, 690), do tổ Trương Hư đạo sư sáng lập. Nguyên tổ là người đọc sách, rồi làm tướng võ. Thấy Vũ hậu chuyên quyền, người có ý định khởi binh. Nhưng vua Duệ-Tông không có chí khí. Vì vậy người cùng một số tướng sĩ bỏ di tu. Sau nhân du ngoạn qua Hoa-sơn, xem cảnh trí hùng vĩ, người mới xây am, dựng đền thờ Tam-thánh, thu đệ tử, lập ra phái Hoa-Sơn.

    Nghe Tây-Sơn lão nhân nói, Tự-Mai tỉnh ngộ:

    - Hèn chi phái Hoa-Sơn do đạo sĩ cầm đầu, mà lại chủ trương nhập thế. Thì ra nguyên ủy từ ông tổ làm tướng.

    - Lúc đầu bản phái chỉ dạy đệ tử về võ công. Trải mấy trăm năm, đến tổ Hy-Di, bản phái thay đổi, dậy đệ tử cả võ công lẫn thiên văn, lịch số. Nổi danh nhất là khoa Tử-vi.

    Nhà vua mỉm cười:

    - Nhờ khoa Tử-vi, mà bản triều được thành lập. Hồi còn tại thế, tiên đế hằng nhắc đến công ơn của các đạo sư phái Hoa-Sơn, người không tiếc lời xưng tụng. Xin đạo sư cho trẫm nghe về nguồn gốc tổ Hy-Di.

    - Vâng, thần xin tâu.

    Tây-Sơn lão nhân ngồi ngay ngắn lại:

    - Tổ Hy-Di họ Trần, húy Đoàn, sinh trưởng ở phía Nam núi Đại-dữu. Thân phụ của tổ là một nhà Thiên-văn, Lịch-số đương thời. Người sinh vào giờ Tỵ, ngày mười sáu tháng giêng, niên hiệu Cảnh-phúc nguyên niên đời Đường Chiêu-Tông (Nhâm-Tý, 894). Thân mẫu lâm bồn sớm một tháng, nên thời thơ ấu tổ bị bệnh hoạn liên miên. Tuy nhiên tổ rất thông minh, học một biết mười. Trong khi đó gặp phải người anh lêu lổng ham chơi, thường hay đánh đập tiên sinh cực tàn nhẫn.

    ...Vào năm lên tám, tổ bắt đầu học thiên-văn. Bấy giờ tổ đứng xem phụ-thân quan sát Thiên-hà, để tính nhật thực. Phụ thân phải nhân chia dài hàng mười con số, mà tổ cứ hỏi vặt. Người tìm cách sao cho tổ đừng quấy rầy. Người trao cho tổ máy Trắc-thời-đồ, rồi chỉ lên Thiên-hà:

    - Con hãy xem, kia là chòm sao Tử-vi, kia là chòm sao Thiên-phủ. Con hãy đếm xem hai chòm này có bao nhiêu sao?

    Thế là tổ ngồi xử dụng Trắc-thời-đồ đếm sao. Thân phụ tổ tưởng rằng ít ra phải mất một giờ tổ mới đếm xong. Không ngờ chỉ mấy khắc sau, tổ chạy vào nói:

    - Con đếm hết rồi. Đi sau Tử-vi gồm năm sao. Như vậy chòm Tử-vi có sáu sao. Đi sau Thiên-phủ có bẩy sao, như vậy chòm Thiên-phủ có tám sao.

    Từ đấy tổ được phụ thân giảng dạy rất kỹ về khoa Thiên-văn, Lịch số. Năm hai mươi tuổi tổ ngộ đạo làm đệ tử phái Hoa-sơn, bắt đầu học võ công.

    Khi thành danh, tổ ngao du khắp thiên hạ, rồi khải ngộ tìm ra khoa Tử-vi.

    Nhà vua ngắt lời:

    - Trẫm đọc bộ Tử-vi chính nghĩa phần tựa tổ viết rằng: Nhân người học thuyết Âm-dương, Ngũ-hành, Dịch-lý, Hình-tượng, Lịch-số, rồi hợp lại thành khoa Tử-vi.

    Nhà vua rót chén sâm thang trao cho Tây-Sơn lão nhân:

    - Mời đạo-sư uống cho tinh thần thanh thản.

    - Đa tạ bệ hạ.

    Tự-Mai không dám thở mạnh, vì nó biết nội công Tây-Sơn lão nhân rất cao thâm, chỉ hấp khí hay gây tiếng động nhỏ lập tức lão khám phá ra liền. Trước khi khởi hành, Khai-Quốc vương dặn nó:

    - Đời vua Hùng, quan Lịch-lệnh nhìn Thiên-hà tìm ra phép làm lịch. Sau khi dùng trong hơn ba trăm năm, mỗi năm đều có sửa đổi. Niên hiệu Hồng-bàng thứ năm trăm hai mươi bẩy (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch), bấy giờ bên Trung-quốc là niên hiệu thứ năm đời vua Nghiêu; vua Hùng thấy Trung-quốc chưa biết làm lịch, mới sai chép phép làm lịch của người Việt lên lưng một con rùa lớn đem cống. Vua Nghiêu sai quan Thái-sử-lệnh chép lấy, rồi làm ra lịch. Bởi vậy gọi là Qui-lịch. Sau này người Hán nghiên cứu rất rộng về Lich-số. Trong khi đó bên mình chỉ có phái Sài-sơn nghiên cứu khoa này. Gần đây đạo sĩ Trần Đoàn tìm ra khoa Tử-vi, truyền cho Tống Thái-tổ. Học Tử-vi để biết kẻ trung người nịnh, vận số tốt xấu mà mưu đại sự. Nhưng họ dấu diếm, không truyền ra dân gian. Hiện tất cả bí mật đó, họ chép thành sách cất ở Tập-hiền viện. Ta phải tìm cách lấy đem về.

    Nhưng từ lúc đột nhập vào đây, giữa rừng sách hàng mấy chục vạn quyển, nó không biết những sách đó để ở chỗ nào. Hơn nữa trong phòng chứa sách không có đèn, làm sao mà tìm. Bây giờ nghe Tây-Sơn lão nhân đàm luận với nhà vua về khoa Tử-vi, nó chỉ hiểu lờ mờ, nhưng đã có chút hy vọng.

    Tây-Sơn lão nhân tiếp:

    - Sau đó tổ được truyền ngôi chưởng môn.

    " Một hôm đang cùng chư đệ tử ngắm Thiên-hà, coi vận số đất nước. Bỗng tổ chỉ lên trời kêu lớn:

    - Kìa, quái lạ không kìa.

    Đệ tử cùng nhìn theo tay tổ chỉ, thấy sao Tử-vi, Thiên-phủ đi vào địa phận sao Phá-quân và Hóa-kị, mà ánh sáng chiếu xuống Hoa-sơn.

    Tổ nói:

    - Tử-vi, Thiên-phủ thuộc đế tượng, tức là vua. Tử-vi bao giờ cũng đi trước. Thiên-phủ bao giờ cũng theo sau. Hai ngôi sao này chiếu xuống Hoa-sơn ứng vào anh em một gia đình nào đó, đang gặp thủa tiềm-long. Sau này sẽ làm lên sự nghiệp vẻ vang, vị tới đế-vương. Phá-quân là hao tinh, chủ nghèo đói. Hóa-kị chủ bần hàn, như miệng lưỡi kêu xin. Phá ngộ Kị, ắt nghèo quá phải đi ăn xin. Tử-Phủ ngộ Hao, Kị ứng vào đềm hai vị thiên tử chưa gặp thời, đang lưu lạc hành-khất. Tất cả chiếu xuống Hoa-sơn, chắc ngày mai hai vị thiên tử qua đây ăn mày. Vậy ngày mai, các người theo ta xuống núi cứu giúp người anh hùng đang khốn cùng.

    Đệ tử thưa:

    - Đệ tử nghĩ, nhân lúc thiên tử chưa gặp thời, ta nên cho người vay nợ. Sau này người thành đại nghiệp, ta đòi, để cứu giúp dân nghèo.

    Tổ đồng ý. Hôm sau tổ dẫn chư đệ tử xuống núi, có đoàn người chạy loạn đi qua. Tổ để ý thấy một thiếu phụ gánh hai chiếc thúng, trong mỗi thúng để một đứa trẻ khôi ngô dung quang khác thường. Tổ biết hai trẻ ấy ứng vào sao Tử, Phủ. Tổ hỏi thiếu phụ:

    - Này bà ơi. Bà gánh hai vị thiên tử đi đâu vậy?

    Thiếu phụ đặt gánh xuống thưa:

    - Con tôi đó, vua chúa gì đâu. Chúng đang đói. Từ sáng đến giờ bụng trống không. Tiên sinh bố thí cho chút đồ ăn được không?

    Tổ truyền đem cơm chay khoản đãi thiếu phụ cùng hai trẻ. Tổ lại hỏi giờ, ngày, tháng cùng năm sinh của hai trẻ. Tổ bấm số Tử-vi rồi nói với đệ tử:

    - Đứa lớn đắc cách Tử, Phủ, Vũ, Tướng, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, Lộc. Ngặt đại hạn đang ngộ Hình, Kị, Kiếp, Không. Số của đứa nhỏ đắc cách Thiên-phủ lâm tuất, ngộ Tả, Hữu, Khoa, Quyền, đại hạn đang gặp Kiếp, Kị. Vì vậy cả hai nghèo đói trong nhất thời mà thôi.

    Một đệ tử thưa:

    - Sư phụ! Đệ tử nghĩ, hai trẻ là chân mệnh đế vương. Khi đại hạn gặp Khôi, Việt, Xương, Khúc là lúc thành đại nghiệp. Sư phụ nên giúp đỡ, mua lấy cảm tình. Khi thiên tử đắc thời ta nhân đó giúp dân.

    Tổ mỉm cười nói với thiếu phụ:

    - Bần đạo tính số, biết sau này hai con bà làm vua. Khi lên ngôi vua, tất cả giang sơn vạn dậm đều thuộc về con bà. Vậy bà bán giải núi Hoa-sơn này cho bần đạo, lấy tiền mà tiêu.

    Thiếu phụ tưởng tổ điên khùng mới mua núi, nên đồng ý bán ngay. Bởi thiếu phụ không biết chữ, bà xé vạt áo hai con quấn vào đôi đũa, nhét trong ống, coi như văn tự... Tổ trao cho bà mười nén vàng.

    Nhà vua bật cười:

    - Thiếu phụ đó tức là Chiếu-Huệ thái hậu 1. Còn hai trẻ sau thành đức Thái-tổ, Thái-Tông nhà trẫm. Có phải vậy không?

    - Tâu bệ hạ đúng thế.

    - Vì vậy sau này suốt một giải Hoa-sơn, triều đình, cũng như quan lại địa phương không được quyền thu thuế. Nhưng không biết từ năm nào?

    - Tâu bệ hạ năm Càn-đức nguyên niên (Quý-Hợi, 963), quan trấn thủ vùng Hoa-sơn tâu về triều rằng : Có đạo sĩ tên Trần Đoàn, tự Hi-Di bao dưỡng dân chúng khắp vùng Hoa-sơn không nộp thuế. Đạo sĩ nói rằng Hoa-sơn là đất riêng của ông, đã được thiên-tử bán cho rồi. Đức Thái-Tổ nổi giận, sai bắt tổ giải về triều. Vì tổ có đức, võ công cực cao nên các quan không dám trói, còn cấp lừa cho cỡi về kinh. Trên đường đi, tổ làm bài phú Tử-vi cốt tủy.

    Nhà vua gật gật đầu:

    - Khi giảng bài phú Tử-vi cốt tủy cho trẫm, Định-vương có nói: Vì bước chân lừa gập ghềnh, nên nhịp điệu bài phú bị ảnh hưởng.

    Nhà vua đọc lớn:

    "Phượng hàm thư nhi phùng Nhật, Nguyệt,
    Tam kỳ lai nhập Tử, Sinh,
    Nam tất uy bá quyền danh,
    Nữ tất danh đằng xướng vũ.
    Mã ngộ Khốc nhi phùng Hình, Quyền, Lộc, ấn tại quan cung,
    Võ tất thăng ban đệ nhất, văn hội chuyển đạt Tam-công. 2
    - Người có Thiên-mã, Thiên-khốc thủ mệnh, cung quan có Điếu-khách, Thiên-hình, làm quan võ tới bậc đệ nhất. Cũng mệnh có Mã, Khốc, mà cung quan có Hóa-lộc, Quốc-ấn, làm quan văn tới Tam-công.

    Nhà vua gật đầu đọc mấy câu nữa rồi hỏi:

    - Cuộc triều hội giữa đức Thái-Tổ với tổ Hi-Di chắc lý thú lắm.

    - Vâng. Tổ vào triều kiến. Đức Thái-Tổ hỏi : Đạo sư dù thông thiên, dù võ công cao cũng phải tuân phép nước chứ? Hà cớ phao ngôn rằng mua núi của triều đình?

    Tổ tâu:

    - Năm nay bần đạo tuổi trên bẩy mươi, đâu dám nói dối bệ hạ? Luật của bệ hạ nói rằng: Đời cha vay nợ, đời con phải trả. Trước đây thái hậu qua Hoa-sơn bán cho bần đạo toàn vùng này. Văn tự thần vẫn giữ.

    Tổ trình ống đũa, vạt áo lên. Thái-Tổ truyền đem vào hậu cung hỏi

    Chiếu-Huệ thái hậu. Thái-hậu nhớ truyện cũ phán:

    - Vị thần tiên ở núi Hoa-sơn đây mà.

    Thái hậu kể lại tích xưa. Đức Thái-Tổ và triều thần đều kinh sợ về tài tiên tri của tổ. Truyền lưu tổ sinh lại triều, kính như thầy. Đức Thái-Tổ hỏi về khoa Tử-vi, tổ xuất trong bọc ra bộ Tử-vi chính nghiã dâng lên. Tâu rằng:

    - Đây, tất cả tinh nghĩa về khoa Tử-vi. Bần đạo không phải là người đặt ra khoa này. Bần đạo chỉ nhân thấy khoa Dịch-lý, Hình-tượng, Thiên-văn, Lịch-số, Địa-lý đều có uyên nguyên với nhau, mới tước bỏ những phần rườm rà, hợp thành. Với khoa Tử-vi, học tới bậc sơ đẳng, bệ hạ có thể biết kẻ trung, người nịnh, thời nào tốt, khi nào xấu mà mưu đại kế, tránh nhiễu sự. Học tới chỗ uyên thâm, có thể nhân số mạng người thân xấu, dùng loại người nào thì cứu được, cứu bằng cách nào. Thấy kẻ ác, thì dùng người nào, cách nào mới trị được. Còn học tới chỗ uyên nguyên cùng cực, có thể làm đảo lộn thiên hạ, nắm thiên hạ trong tay. Tuy nhiên bần đạo cũng xin dâng bệ hạ một câu: Khi dùng khoa này nên lấy chữ nhân làm gốc, đừng quá ỷ tài, mà đi vào chỗ ác độc tổn âm đức.

    Nhà vua cười thích thú:

    - Vì vậy từ ngày ấy đến giờ, phái Hoa-sơn được trọng vọng nhất võ lâm Trung-quốc. Phái Hoa-sơn cũng dâng cho triều đình nhiều nhân tài. Trẫm hy vọng kỳ này thiếu niên Hoa-sơn sẽ thành phò mã.

    - Đa tạ bệ hạ.

    Nhà vua vẫy tay gọi thái giám đang quạt lò sưởi:

    - Người vào lấy bộ Tử-vi chính nghĩa cho ta.

    Thái giám hỏi:

    - Tâu bệ hạ có ba bản khác nhau. Bản Thái-Tổ ngự bút, bản Thái-Tông châu phê và bản Kim-quỹ, không biết bệ hạ muốn lấy bản nào?

    - Lấy cả ba bản .

    Nhà vua nói với Tây-Sơn lão nhân:

    - Bản chính có thủ bút của tổ, đức Thái-Tổ cất vào hộp vàng, gọi là Tử-vi kinh. Người sai quan đại học sĩ chép thành ba bản. Người dùng một bản, ban cho đức Thái-Tông một bản, Tần-vương Đình-Mỹ một bản 3. Người ban chỉ dụ rằng khoa này mỗi đời chỉ có thể truyền cho ba người. Không truyền cho công chúa. Đức Thái-Tổ đọc đến đâu, ghi chú kinh nghiệm sang bên cạnh chính bản, thành bản Thái-Tổ ngự bút. Bản đức Thái-Tông khi học ngự phê bằng bút son, thành bản Thái-Tông châu phê. Đức Thái-Tông sai chép bản Kim-Quỹ thành hai bản. Một ban cho phụ hoàng trẫm, một ban cho Định-vương. Trẫm dùng bản của phụ hoàng. Vì phụ hoàng băng hà khi trẫm còn thơ, nên trẫm phải mò mẫm học lấy. Nay có đạo sư đây, trẫm xin hỏi đạo sư về những chỗ khó hiểu.

    Thái-giám trình ra ba cuốn sách khác nhau. Nhà vua cầm lên một quyển đọc, rồi hỏi:

    - Thắc mắc của trẫm về cách Tam-hóa liên châu. Theo trong Tử-vi kinh thì : Tam hoá là Khoa, Quyền, Lộc, khi đóng liền ba cung với nhau. Như vậy khi người tuổi Canh thì Khoa đi với Nhật, Quyền đi với Vũ, Khoa đi với Đồng. Vậy hễ tuổi Canh thì đắc cách này sao?

    - Tâu bệ hạ không. Gọi là Tam-hóa liên châu khi Khoa, Quyền, Lộc đóng liên tiếp nhau, mà mệnh một hóa, bào một hóa, phụ mẫu một hóa. Như tuổi Canh, bắt buộc phải là Vũ-khúc thủ mệnh. Còn như ba hóa, mà một hóa ở cung mệnh, một hóa ở cung huynh đệ và một hóa ở cung phu-thê thì không phải.

    Nhà vua thở phào một cái:

    - Vậy mà trước đây trẫm tính một số, gặp Khoa ở phúc, Quyền ở điền, Lộc ở quan, mà cũng tưởng đắc cách Tam-hóa liên châu. Trẫm có một thắc mắc nữa: Trong cùng một giờ, một ngày, một tháng, một năm, có hàng vạn vạn người sinh ra, không lẽ cuộc đời họ cũng giống nhau ư?

    - Bệ hạ hỏi thực phải. Điều này có chép trong Tử-vi kinh, nhưng bệ hạ không ngự lãm mà thôi.

    Nhà vua cầm cuốn sách lên:

    - Trẫm đã đọc kỹ, đọc đến thuộc làu, mà không thấy đoạn ấy. Đạo-sư chỉ cho biết vấn đề này chép ở chương nào.

    - Xin bệ hạ mở trang đầu, bài phú Tử-vi cốt tủy, sẽ thấy.

    - Quả thực trẫm sơ ý. Khi mở sách, trẫm đọc ngay chương nhất, mà không đọc phần tựa. Thì ra tổ chép ở đó.

    Nhà vua trao sách cho Tây-Sơn lão nhân:

    - Xin đạo sư chỉ cho.

    - Tâu bệ hạ đây.

    Nhà vua đọc lớn:

    Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ,
    Do ư phúc trạch cát hung.
    Thương, tang, hình, khổn, hạnh, lạc, hỉ, hoan,
    Thị tại vận hành hung cát.
    À, hai câu này trẫm có đọc qua, mà không hiểu rõ cho lắm.

    - Không phải mình bệ hạ, mà hầu như những đệ tử Hoa-sơn đời sau, khi xem số đều chỉ chú ý đến những cung Mệnh, Tài, Quan cùng vận hạn. Ít người chú ý đến cung Phúc cũng như cung Tật-ách. Cái chìa khóa khoa Tử-vi là câu này.

    - Trẫm chờ đạo-sư chỉ dạy.

    - Tâu bệ hạ, cung Phúc rất quan trọng. Nó ảnh hưởng đến ba cung Phu-thê, Tài-bạch, Thiên-di là lẽ đương nhiên. Nó gần như khống chế toàn cuộc đời về: Giầu-nghèo, thọ-yểu, sang-hèn, vinh-nhục, sầu-thảm và khổ-cực. Tùy theo cung Phúc tốt hay xấu mà biết đương số giầu hay nghèo, sống lâu hay chết yểu; sang hay hèn, sang cũng có nghĩa làm quan lớn, có danh tiếng hay không? Tức có vinh không? Rồi cuộc đời bi-ai hay toại chí đắc thế?

    - Không ngờ cung phúc quan trọng như vậy. Nhưng trẫm vẫn chưa hiểu rõ hơn về những người sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm.

    - Tâu bệ hạ, cung Phúc bao gồm nhiều yếu tố cuộc đời. Mà cung Phúc lại ứng vào với ngôi mộ mà đương số được hưởng phúc.

    - Trẫm vẫn chưa hiểu. Xin đạo-sư lấy một vài lá số làm tỷ dụ.

    - Vâng, thần xin lấy số của Chiêu-văn quan đại học sĩ Vương Tăng cùng với số của Kinh-lược sứ Quảng-Tây lộ Vương Duy-Chính. Cả hai cùng sinh vào giờ Tỵ, ngày hai mươi tháng sáu năm Bính-Tý. Thế nhưng cuộc đời hai vị hoàn toàn khác nhau về chi tiết, nhưng đại thể thì giống nhau.

    - Ừ nhỉ, khi bổ nhiệm hai người, trẫm đều xem qua số trước, nhưng trẫm sơ tâm không chú ý đến hai người cùng một số. Cả hai người cùng đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần. Đồng, Lương thủ mệnh, thêm Mã, Lộc, Tang, Hình, Tam-thai. Đồng, Lương là cách làm quan, nhưng đắc cách cực tốt Lộc, Mã giao trì. Tử-vi kinh nói Lộc, Mã giao trì, kinh nhân giáp đệ. Nên hai người tuy thi hai khóa khác nhau, mà cùng đỗ cao cả. Thời thơ ấu của Tăng thì yên ổn, nhung lụa. Còn thời thơ ấu của Chính thì khổ cực đến phải đi làm nô bộc. Cả hai cùng bị người anh ngu si, dốt nát, lêu lổng ghen tỵ, đánh đập. Cả hai năm trước đây vợ đều chết. Tăng tục huyền với con nhà danh gia. Chính tục huyền với con nhà bần hàn. Tăng làm quan tại triều, Chính trấn ngự Nam-thùy.

    - Thần xin giải cái khác nhau đó. Cả hai vị cung Phúc-đức do Thái-dương thủ, ngộ Triệt, gặp Kiếp, Đà. Thái-dương chỉ vào ngôi mộ ông nội. Ngôi mộ ông nội của Tăng để vào đầu mỏm núi, hướng ra vòm sông, cảnh trí rất dẹp, giống như ngồi trong cái nghiên bút. Thế đất đó trong khoa Địa-lý gọi là Bút mặc, văn giai. Còn mộ ông nội Chính để vào khu ruộng trũng, phía trước có cồn dâu, trên cồn có tượng thờ hổ đá. Thế đất đó gọi là Bạch-hổ tọa trấn. Vì vậy Tăng thi đậu sớm, làm quan tại triều, chức tới tể thần, ngoài ra còn lĩnh Khu-mật-viện sứ. Còn Chính thi đậu trễ hơn mấy năm, gốc là quan văn, sang làm quan võ, hay Tử-vi kinh gọi là Xuất võ do văn .

    Tự-Mai nghe hai người bàn về khoa Tử-vi tuy nó hiểu lỗ mỗ, nhưng trong lòng nảy ra mối lo lắng:

    - Làm vua cũng như thống lĩnh môn phái, bang hội, luôn gặp khó khăn là khó biết lòng người, khó biết người, cũng như vận so mà mưu đại sự. Triều Tống có khoa Tử-vi lợi hại thế này, làm sao mình địch lại? Anh cả bảo ta ăn trộm bộ sách này, thực có lý. Được, hôm nay ta vì nước mà ăn trộm. Sau chết xuống âm phủ, Diêm-vương hỏi ta tại sao trộm cắp. Ta đành chịu tội. Dù quỷ sứ có bỏ ta vào vạc dầu ta cũng cam tâm.

    Tây-Sơn lão nhân tiếp:

    - Cả hai người, đều đắc cách Mã đầu đới kiếm, trấn ngự biên cương đến hai lần. Vì vậy Chính lĩnh kinh lược sứ Quảng-Tây, trấn Nam-thùy. Còn Tăng tuy ở triều, nhưng trong Khu-mật viện, y lĩnh trọng trách Nam-phòng cũng giống như trấn ngự biên cương.

    - Trẫm tưởng chỉ một lần thôi chứ. Hai người cùng có cách Kình-dương cư quan tại Ngọ, là Mã đầu đới kiếm.

    - Tâu bệ hạ, Thiên-hình, Thiên-mã thủ mệnh tại Dần cũng là cách Mã-đầu đới kiếm. Nhưng vì ngôi mộ ông nội của Tăng thiên về văn, nên tiến trình của Tăng văn nhiều hơn võ. Còn ngôi mộ ông nội Chính thiên về võ nhiều hơn văn, nên ngôi sao võ có dịp nổi dậy.

    Lão nhân ngừng lại một lúc, rồi tiếp:

    - Hồi thơ ấu, đức Thái-Tổ có người bạn tên Chu Năng. Hai người cùng số Tử-Vi. Cung Phúc-đức có Tham-lang tại Tuất. Ngôi mộ ứng với Tham-lang của đức Thái-Tổ kết phát nên người lập được nghiệp rồng. Còn ngôi mộ ứng với cung Phúc của Chu Năng ở vào chỗ cùng cực xấu, nên Chu cũng sáng nghiệp bằng cách qui dân lập được mấy ấp, được tôn làm hương trưởng, rồi sau khi chết được tôn làm thần Thành-hoàng. Đó bàn về phúc. Cung Phúc-đức bao gồm phần phúc và đức. Hai người cùng một số, nhưng tổ-tiên, ông-bà, bố-mẹ, và bản-thân xây dựng cái thiện-đức, thì đương số được hưởng phú, thọ, quý, vinh nhiều hơn. Phần yểu, bần, ai, khổ giảm. Còn như tiền nhân gây nhiều ác-đức, thì phú, thọ, quý, vinh giảm; mà yểu, bần, ai, khổ tăng.

    Nhà vua hiểu ra:

    - Như vậy những người cùng số, có cuộc đời hao hao giống nhau. Nhưng tùy theo ngôi mộ ứng với cung Phúc-đức táng ở thế đất kết hay bại, mà phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ khác nhau. Bây giờ tới vấn đề khác. Như số những người chết một lúc như chiến-tranh, đắm thuyền. Không lẽ số những người đó đều đến ngày ly thế cả hay sao?

    - Tâu bệ hạ, trong Tử-vi kinh có nói rồi. Thần xin đọc:

    Vận con phải thua vận cha.
    Vận người không bằng vận nhà.
    Vận nhà không bằng vận làng.
    Vận làng không bằng vận châu.
    Vận châu không bằng vận nước.
    Vận nước không bằng vận thiên hạ.
    Nhà vua suýt xoa:

    - Trẫm hiểu rồi! Trước đây trẫm đọc đoạn này chỉ hiểu lờ mờ. Bây giờ nhờ đạo sư nhắc, trẫm mới vỡ lẽ. Trẫm thử kiến giải xem có chỗ nào sai, đạo sư minh cho. Như hai trẻ cùng số, nhưng thời thơ ấu sống với cha mẹ. Nếu cha mẹ giầu sang, thì dù số nó xấu, vẫn được ấm no. Còn như cha mẹ nghèo khó, thì dù số nó tốt, vẫn bị cơ cực. Đó là vận con phải thua vận cha.

    - Bệ hạ kiến giải thực minh mẫn. Rộng hơn chút nữa, một người ở trong làng, dù số tốt hay xấu cũng phải chịu chung số phận của cả làng. Tỷ như hai người cùng số giầu. Một người sống trong làng giầu, thì của cải súc tích. Còn người sống trong làng khó, thì chỉ giầu so với người trong làng, nghĩa là kha khá vậy thôi.

    - Trẫm hiểu rồi, khi người ta đi cùng thuyền, giống như ở trong cùng làng. Nếu hơn phân nửa người trong thuyền tận số, thì thuyền đắm. Số còn lại bị chết oan theo. Như vận một châu không có người chết, nhưng vận nước có binh ách, châu cũng chịu chung, ắt có nhiều người chết.

    - Không biết bệ hạ đã gặp một số nào giống số của bệ hạ chưa?

    - Năm trước đây, trẫm tiếp sĩ tử trúng tuyển kỳ thi, gặp một tiến sĩ tên Chu Hội. Y sinh cùng giờ, ngày, tháng, năm với trẫm. Tại sao trẫm làm vua, đã mười năm, mà nay y mới đậu tiến-sĩ?

    - Số của Chu ra sao?

    - Y sinh tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Dần.

    - Như vậy là cuộc đời Chu đúng với lá số đấy chứ. Mệnh y lập tại Ngọ. Thiên-lương thủ mệnh. Cung quan Thiên-đồng gặp Hóa-lộc, cung tài Thiên-cơ gặp Hóa-quyền. Cung phúc có Văn-xương ngộ Hóa-khoa. Năm trước, mười bẩy tuổi, đại tiểu trùng phùng ở cung Thân ngộ Lộc-tồn, Văn-xương, Hóa-khoa. Trong khi mệnh y hưởng cách Tọa-qúy hướng-quý tức Thiên-việt ở mệnh, Thiên-khôi ở tài. Chu đậu đại khoa là phải.

    - Tại sao năm ngoái, trẫm không có gì tốt cả?

    - Bệ hạ sinh cùng ngày, tháng, năm với y, nhưng không cùng giờ. Bệ hạ sinh giờ Ngọ. Bệ hạ đâu có sinh giờ Dần?

    - Rõ ràng lúc trẫm sinh ra, Thái-quốc phu nhân đỡ đẻ, đã ghi như vậy mà. Đạo sư có nhớ lầm không? Em trẫm, do Lý phi cũng sinh cùng ngày, tháng, năm với trẫm mới giờ Ngọ. Sau một ngày, em trẫm qua đời.

    Tây-Sơn lão nhân lột mũ bỏ xuống đất, vái ba vái:

    - Ngày hôm nay bần đạo muôn thác, tâu rằng bệ hạ sinh giờ Ngọ, để sau này... bệ hạ không bắt tội bần đạo.

    Nhà vua ngơ ngơ ngác ngác nhìn Tây-Sơn lão nhân, rồi nhớ lại dĩ vãng, cùng những lời úp úp mở mở của Định-vương Nguyên-Nghiễm, của Lý thần-phi, của Yến Thù. Nhất là gần đây vương với thái hậu chống đối nhau kịch liệt. Vương tổ chức hệ thống bảo vệ nhà vua cực kỳ chu đáo. Trong khi thái hậu lại xử dụng cao thủ khống chế quần thần. Nhà vua tự hỏi:

    - Tại sao ông chú lại lo bảo vệ mình, mà mẹ mình lại bỏ lơ ? Bây giờ đến Tây-Sơn đạo nhân cũng úp mở nói về bí mật đó. Hình như thân phận mình có điều gì không minh bạch. Mình làm tới Hoàng-đế, uy quyền nhất Thiên-hạ mà không tìm ra được, thì còn ngồi trên ngai vàng được không?

    Nhà vua thở dài:

    - Thôi được, coi như trẫm sinh giờ Ngọ, vậy số của trẫm có gì đặc biệt?

    - Như lá số của bệ hạ. Bệ hạ tuổi Canh-Tuất, tháng bẩy, ngày sáu, giờ Ngọ. Bệ hạ đắc cách Cơ, Nguyệt, Đồng, Lương. Mệnh lập tại Dần, Thiên-đồng, Thiên-lương thủ mệnh.

    - Trước đây trẫm tưởng số đó của hoàng đệ. Trẫm tính thử, y không thể nào chết yểu. Hơn nữa y đắc cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ mới biết không phải. Nếu như trẫm sinh giờ Tỵ, mệnh lập tại Mão, Vũ-khúc, Hóa-quyền thủ mệnh mới được hưởng cách đó.

    - Vâng, Lộc ở Phụ-mẫu, Quyền ở mệnh, Khoa ở Huynh-đệ, như vậy mới là một trong cách Tam-hóa liên châu. Bây giờ trở lại số của bệ hạ. Cung Phúc của bệ hạ cực tốt vì Thái-dương thủ tại Thìn. Tử-vi kinh gọi là Nhật xuất Thiên-môn. Như vậy bệ hạ bẩm sinh do ngôi mộ của tam đại. Tam đại tức đức Thái-Tông. Suốt cuộc đời bệ hạ: Phú, thọ, quý, vinh, yểu, bần, ai, khổ do ngôi mộ đức Thái-Tông kết phát hay không. Có điều Thiên-hình, Hóa-quyền, đóng với Vũ-khúc, Thất-sát ở phụ mẫu, phải xa cách một trong hai thân.

    - Chắc vì vậy thái hậu mới đem trẫm giao cho Dương Thục-phi nuôi.

    - Tâu bệ hạ, Vũ, Sát, Hình không ứng với việc giao bệ hạ cho Dương Thục-phi nuôi.

    Nhà vua cau mặt lại:

    - Dường như đạo sư dấu trẫm một điều gì thì phải.

    - Tâu bệ hạ không phải bần đạo dấu, mà không thể nói ra. Bệ hạ là cháu, là đệ tử của Định-vương, bệ hạ cứ hỏi Định-vương thì rõ điều bí mật này. Bần đạo chỉ thỉnh cầu: Bệ hạ không thể, và không nên hỏi thái hậu, e người nổi lôi đình.

    - Thôi được, trẫm sẽ hỏi Định-vương. Bây giờ đạo sư tính xem vận số năm tới của trẫm ra sao.

    - Năm nay là năm Đinh-Mão. Đại vận của bệ hạ đóng ở cung Thìn ngộ Thái-dương miếu địa. Thái-dương lại được Tả, Hữu, Xương, Khúc, Hóa-lộc phò trợ, như vậy là cực tốt. Tiểu vận đóng ở cung Dậu ngộ Thiên-phủ, Kình-dương hãm. Phủ ngộ Kình, e có tiểu nhân hại. Nhưng mệnh bệ hạ có Đồng là phúc tinh, Lương là ấm tinh, lại thêm Khoa thuộc đệ nhất giải thần, vì vậy vẫn vô sự. Lại có Thiên-hình, Hóa-quyền từ Mão chiếu sang. Hình chiếu thì xấu. Nhưng Hình đắc địa ngộ Quyền chủ chiến thắng. Như vậy trong cái tốt có cái xấu. Tốt, bệ hạ mưu đại sự gì dù khó đến đâu cũng thành công. Xấu vì có truyện bất hòa giữa mẫu tử. Một tin vui nhỏ: Cung Mão có Đào-hoa chiếu, bệ hạ ắt có duyên tình kỳ lạ. Tất cả bằng ấy biến cố sẽ xẩy ra nay mai.

    Lão tính đốt ngón tay rồi tiếp:

    - Năm tới đại hạn ở Thìn. Tiểu hạn ở Tuất, ngộ Tả, Hữu, Xương, Khúc, Lộc trong cách Âm-Dương Thìn, Tuất cực tốt. Nhưng tuổi Thìn, Tuất tối kị hạn tới cung Thìn, Tuất đối nhau. Vì vậy tuy cực tốt, mà cũng bị giảm đi một chút. Thần kính mong bệ hạ nguyện đắc như sở cầu.

    Nhà vua nhìn Tây-Sơn lão nhân:

    - Như vậy ngày sinh của trẫm lại chính là ngày sinh hoàng đệ. Trẫm sẽ tìm cho ra điều bí ẩn về thân thế.

    Trầm tư suy nghĩ một lúc, nhà vua tiếp:

    - Bây giờ trẫm có thắc mắc nữa, theo lịch số thì mặt trời từ Đông di chuyển dần sang phía Tây, cứ mười hai giờ là một ngày. Như lúc rạng Đông ở Thái-hồ 4 giờ Thìn thì ở Biện-kinh giữa giờ Mão, trong khi ở Hàm-dương mới giờ Dần, ở Tây-vực lại giờ Sửu. Vậy nếu một người sinh tại Tây-vực vào giờ Sửu, khi lấy số để nguyên giờ Sửu hay đổi lại thành giờ Thìn, giờ Mão? 5

    - Sinh ở đâu, lấy giờ theo đó.

    - Xin đạo sư giải rõ nguyên lý?

    - Khoa Tử-vi đặt cơ sở trên Thiên-văn, căn cứ vào sự vận chuyển tinh tú trên thiên-hà. Khi sinh ở đâu, thì chịu ảnh hưởng bởi tinh tú. Lúc ra đời, sao này sáng, sao kia tối tức là cái sáng tối ở nơi mình ra đời. Tỷ như số của Chu Hội. Chu sinh tại Thường-sơn vào giờ Dần. Nếu đổi ra giờ Hoa-sơn thì y sinh giờ Sửu. Nào, xin bệ hạ hãy tính số của Chu, nếu theo giờ Hoa-sơn xem nào?

    Nhà vua tính đốt ngón tay khoảng một khắc rồi nói:

    - Nếu quy về giờ Hoa-sơn, tức giờ Sửu thì mệnh y lập tại Mùi, Liêm-trinh, Thất-sát thủ mệnh, thêm Kình-dương.

    - Bệ hạ thấy hai số khác nhau chưa? Đúng số, y là người ôn nhu, văn nhã, bút mặc công danh, suốt cuộc đời tài lộc phi tiễn. Còn quy về giờ Hoa-sơn, y trở thành một tên thợ rèn tàn tật, thô lỗ cộc cằn.

    Nhà vua chỉ bút, nghiên, cùng giấy:

    - Xin đạo-sư chấm dùm trẫm một lá số. Nhất là định rõ vận hạn sắp tới của đương số, vì đây là điều chính yếu của vận mệnh xã tắc: Nam mệnh tuổi Giáp-Tuất, tháng hai, ngày 12, giờ Dậu.

    Tây-Sơn lão nhân lấy tờ giấy, tính đốt ngón tay rồi viết liên tiếp một lúc. Mỗi khi lão viết xong một chữ, nhà vua lại gật đầu. Một lát sau, lão cầm tờ giấy lên, rồi nói:

    - Chà số tốt đấy. Bần đạo e đương số không phải người Tống, mà là người ngoại quốc.

    - Tại sao đạo sư biết?

    Tự-Mai nghe nhà vua hỏi câu đó, nó nghĩ thầm:

    - Lão Tây-Sơn đoán đúng rồi. Nếu sai, nhà vua sẽ hỏi : Với lý do nào đạo sư lại cho rằng y không phải người Tống. Nay nhà vua hỏi : Tại sao đạo sư biết đương nhiên công nhận lão đoán trúng.

    - Bởi đây là một kỳ nhân, xuất thân bần hàn, rồi lập thành sự nghiệp đế vương. Mà Trung-quốc chỉ có bản triều. Vị đế vương này ắt hẳn thuộc nước khác.

    - Đúng thế.

    Nhà vua tính đốt ngón tay nói:

    - Trẫm đã tính số của y: Mệnh y lập tại Thân, Liêm-trinh, Hoá-lộc thủ mệnh. Tài Tử-vi, Thiên-tướng tại Thìn. Quan Thiên-phủ, Vũ-khúc, Hoá-khoa tại Tý. Lộc-tồn cư Thiên-di. Phá-quân, Hóa-quyền cư Phúc-đức. Nhưng giải không ra.

    - Tâu bệ hạ, Liêm-trinh chủ nghèo khó. Vì vậy đương số xuất thân trong gia đình bần hàn. Đúng ra Liêm ngộ Hóa-lộc cũng không đến nỗi khổ cho lắm. Nhưng Liêm, Lộc lại bị Tuần, Triệt phá mất. Đương số bị cả Tuần lẫn Triệt đương đầu. Tử-vi kinh nói: Tuần, Triệt đương đầu, thiếu niên tân khổ . Kết hợp Liêm thủ mệnh, thêm Tuần, Triệt đương đầu, vì vậy hồi niên thiếu trải qua thời kỳ cực khổ, đến nỗi phải đi làm đầy tớ cho người.

    - Ừ, có thế chứ, vậy mà trẫm nhìn không ra.

    - Cung Phúc-đức có Phá-quân, Hóa-quyền thủ mệnh, lại thêm Thiên-hình đắc địa. Phá-quân thuộc võ cách, thêm Hình, Quyền thì sẽ khởi đầu bằng võ nghiệp. Cung quan cực tốt: Thiên-phủ thuộc đế tượng. Vũ-khúc thuộc võ cách. Hóa-khoa phù cho Phủ-Vũ công danh lên cao đến tột đỉnh thiên hạ, vị tới đế vương. Cho nên người này lúc đầu làm quan võ, rồi được tôn lên làm vua, giống như đức Thái-Tổ nhà ta.

    - Thế người này có được bầy tôi trung thành chăng?

    - Tâu cung nô có Nhật, Nguyệt thủ tại Sửu. Phù trợ có Xương, Khúc, Khôi, Việt. Cả bốn sao này chủ học hành, khoa cử. Vậy người này được sư phụ, cùng bạn hữu dạy dỗ, rồi phù trợ mà thành nghiệp lớn. Tuy nhiên cung nô còn có Hóa-kị. Hóa-kị tuy xấu, nhưng gặp Nhật, Nguyệt rất tốt. Mệnh người này do Liêm-trinh tọa thủ, đúng ra là người ác độc. Nhưng cung nô có Kị. Mà Kị có khả năng giải tính ác của Liêm. Vậy người này nhờ thầy dạy dỗ, bỏ được tính ác, thành người thiện.

    Nghe Tây-Sơn lão nhân giải lá số, Tự-Mai kinh hãi:

    - Chà! Tống có khoa này lợi hại quá. Họ biết hết những gì đã và sắp xẩy ra cho các tướng tá, đại thần của họ đã đành. Họ còn biết rõ từng ly từng tý về kẻ thù nữa.

    Nhà vua hỏi:

    - Bao giờ người này chết?

    Tây-Sơn lão nhân lẩm nhẩm tính một lúc rồi nói:

    - Y sắp chết rồi! Chỉ ba tháng nữa thôi. Hiện y đang khỏe mạnh, nhưng sang năm tới thì chết.

    Mặt nhà vua hơi nhăn:

    - Đạo sư tính lại một lần nữa cho thực kỹ.

    - Đây! Bệ hạ xem: Năm tới là năm Mậu-Thìn, đương số năm mươi sáu tuổi. Đại hạn đến cung Thiên-di gặp Tham-lang, Lộc-tồn, Thiên-không 6 lưu niên Thiên-mã, tức cách rất độc : Lộc đảo, Mã đảo, Thiên-không. Tiểu hạn tới cung Tuất ngộ Thái-tuế, Thiên-hình thêm lưu Thái-tuế ở Thìn chiếu sang thành Lộc đảo, Mã đảo, ngộ Thái-tuế chi hợp Kiếp, Không. Chết trăm phần trăm.

    Nhà vua gật đầu:

    - Như vậy trẫm có thể quyết định chính sách Nam-thùy được rồi.

    - Tâu bệ hạ, số của ai thế?

    - Của Lý Công-Uẩn.

    Tự-Mai kinh hoàng, nó nghĩ thầm:

    - Mình phải nói điều này cho anh cả biết, hầu chuẩn bị mới được. Ông vua này biết Thuận-Thiên hoàng đế sắp băng, e sẽ mang quân sang đánh không chừng. Nếu ngài băng, thì anh cả phải hiện diện để giúp Khai-Thiên vương lên làm vua. Bằng không thì rắc rối to.

    Nhà vua suy nghĩ một lúc, rồi nói:

    - Bây giờ phiền đạo sư tính lại cho trẫm một lá số nữa. Nam mệnh sinh ngày mười hai, tháng ba, giờ Dần, tuổi Tân-Sửu.

    Tây-Sơn lão nhân tính đốt ngón tay một lúc rồi nói:

    - Dây là số của một anh hùng hiếm có trên thế gian. Nếu bệ hạ được người này phò tá, thì sự nghiệp e không thua vua Vũ nhà Hán, vua Thái-tông nhà Đường.

    - Trẫm cũng thấy như vậy. Mệnh lập tại Dần các sao lớn tụ cả về đây. Cự-môn, Thái-dương thủ mệnh. Tử-vi kinh nói:

    Quyền hội Cự, Vũ anh hùng.

    - Đương số tuổi Tân nên Hóa-lộc đi với Cự-môn. Hóa-quyền đi với Thái-dương. Hóa cho nên bốn sao Cự, Nhật, Quyền, Lộc tụ cả một chỗ, tạo thành con người có tư cách anh hùng, hành sự quang minh lỗi lạc. Đương số lại văn võ kiêm toàn, trông rộng, nhìn xa, nhã lượng, cao trí. Tam hợp hội đủ Tả, Hữu, Xương, Khúc, thì sự nghiệp thực không nhỏ.

    Nhà vua gật đầu:

    - Tỷ như đương số thuộc loại đối đầu với ta. Trẫm phải làm gì để thắng y?

    Tây-Sơn lão nhân suy nghĩ một lúc rồi lắc đầu thở dài:

    - Không có cách nào thắng y được cả. Tại sao bệ hạ phải thắng y, mà không thể kết thân với y?

    - Trẫm cũng muốn kết thân với y, mà e thái hậu không muốn mới khổ chứ. Vận số của y ra sao?

    - Năm nay đại hạn ở Sửu, Thiên-phủ ngộ Hình. Tiểu hạn ở Thân ngộ Văn-xương, gặp những điều bất như ý, nhưng sự nghiệp lên cực cao. Sang năm, tiểu hạn Liêm, Phá ngộ Thiên-không, e công danh gặp nhiều gian truân. Tuy nhiên cuối cùng vẫn vô sự. Chỉ có cung thê lưu niên Bạch-hổ ngộ Nguyệt, Đồng, e vợ con nan toàn.

    - Trẫm cũng thấy thế. Thái-âm cư Tý cực tốt, vợ đẹp, học giỏi, nhưng khi lưu hạn ngộ Tang, Hổ thực khó bảo trọng.

    - Thần thấy trong triều chỉ Định-vương mới có thể so sánh với người này. Tâu bệ hạ y là ai vậy? Thần mong gặp y để kết thân.

    Nhà vua mỉm cười:

    - Y... Y đã kết huynh đệ với Định-vương. Y là Khai-Quốc vương bên Đại-Việt.

    Tây-Sơn lão nhân bật lên:

    - Ái chà.

    - Chỉ còn mấy hôm nữa, trẫm sẽ tiếp y. Bây giờ biết y rồi, trẫm sẽ tùy nghi xếp đặt. Rất tiếc Lã Duy-Giản, Tào Lợi-Dụng theo thái hậu chống y. Trẫm khó mà kết thân với y được.

    Qua cuộc hội kiến giữa nhà vua với Tây-Sơn lão nhân. Tự-Mai nói thầm:

    - Tống có khoa Tử-vi như thế này, thực lợi hại. Mình phải ăn trộm sách của họ mới được.

    Nhà vua đứng dậy tỏ ý tiễn khách:

    - Bây giờ để đạo sư về nghỉ. Mai trẫm sẽ thỉnh Định-vương, cùng với đạo sư bàn về mấy là số của Đoàn Tố-Trinh bên Đại-lý, rồi quyết định chính sách Nam-thùy.

    Tây-Sơn lão nhân đứng dậy cáo từ ra về.

    Nhà vua vẫy thái giám:

    - Người cất ba tập sách này đi cho trẫm, rồi đốt đèn trong thư phòng, đợi trẫm ăn xong, sẽ trở về đọc sách.

    Nói rồi nhà vua đi ra. Tự-Mai đã được Bảo-Hòa cho biết: Hoàng đế ăn uống không có giờ giấc nhất định. Khi đói thì truyền thái-giám, cung nữ dọn lên ăn. Nó nghĩ thầm:

    - Ông hoàng đế này chắc ăn ở nơi khác chứ không ăn ở đây.

    Thái giám mang ba bộ sách cất vào chỗ cũ. Y thắp lên mười ngọn nến cực lớn, rồi đốt trầm. Thư phòng sáng rực. Xong công việc y sang phòng bên cạnh ngồi chầu chực.

    Tự-Mai từ trên giá sách nhảy xuống như chiếc lá rụng. Nó lấy cả ba bộ Tử-vi chính nghĩa dấu vào bọc. Tò mò, nó nhìn sang bên cạnh, thấy toàn cách sách nói về Lịch-số.

    Nó nói thầm:

    - Lịch Trung-quốc gốc từ Quy-lịch của triều Hồng-bàng. Cho đến thời Lĩnh-Nam, Tư-đồ Phùng Vĩnh-Hoa soạn lịch cho vua Trưng đã chia năm làm hai mươi bốn tiết, cùng tính nhật thực, nguyệt thực cực chính xác. Mã Viện chiếm Lĩnh-Nam rồi y chở hết sách nghiên cứu về lịch dâng cho vua Quang-Vũ. Từ đấy lịch Trung-quốc đổi đến hai mươi bẩy lần. Ta cần lấy hết sách của họ mang về cho lịch quan nghiên cứu xem có gì hay hơn không?

    Nó đếm : Từ Thái-sơ lịch pháp của Đặng Bình đời Hán. Càn-tượng lịch pháp của Lưu Hồng cho tới Minh-Thiên lịch pháp của Lưu Tông mới soạn xong, gồm hai mươi bẩy bộ. Nó xé khăn choàng cổ bện thành sợi dây, bó lại rồi vác lên vai, vượt qua cửa sổ ra ngoài.

    Nó tiến thẳng đến chỗ Mỹ-Linh, Thiệu-Thái núp. Hai người từ bóng tối nhảy ra hỏi:

    - Việc xong chưa mà về sớm vậy?

    - Xong một nửa. Anh Thiệu-Thái mang về đi. Để chị Mỹ-Linh ở lại canh chừng được rồi.

    Trao bọc sách cho Thiệu-Thái rồi Tự-Mai theo đường cũ trở về, nó lại leo lên núp trên nóc kệ sách. Nó thấy nhà vua đã trở về, đang ngồi đọc sách. Nó nghĩ thầm:

    - Ông vua này ăn uống gì mà mau như ma đói vậy à?

    --------------------------------
    1 Mẹ của Tống Thái-Tổ, Thái-Tông họ Đỗ. Khi con lên làm vua, phong cho bà làm Chiếu-Huệ thái hậu.
    2 Câu trên trong Triệu-thị minh thuyết Tử-vi kinh chú như sau:
    - Đàn ông mệnh tại cung Thìn gặp Thái-dương thủ mệnh, đàn bà mệnh tại cung Tuất gặp Thái-âm thủ mệnh; được Khoa, Quyễn, Lộc củng, thêm sao Tử, cùng Trường-sinh. Nam quyền tới bá. Nữ nổi danh về ca, vũ.
    3 Tống-sử, quyển 242, Hậu-phi liệt truyện trang 8606 chép rằng: Chiếu-Huệ thái hậu lúc sắp băng gọi Tống Thái-Tổ đến bên giường bệnh. Bà hỏi:
    - Con có biết tại sao Chu Thế-Tông băng, mà sự nghiệp lại vào tay con không?
    Đáp:
    - Vì con giữ chức Điểm-kiểm triều Chu.
    Thái hậu lắc đầu:
    - Không phải.
    Nhà vua không sao trả lời được. Thái hậu cật vấn qúa, nhà vua đáp:
    - Do tổ khảo trải đến thái hậu tích đức để lại.
    Thái hậu lắc đầu:
    - Vì con của Thế-Tông còn thơ ấu. Nếu bấy giờ họ Sài có ông vua lớn tuổi, liệu ngôi vua có đến con không. Vậy con đừng đi vào vết cũ nữa. Khi thấy mình già yếu, nên truyền ngôi cho em con là Quang-Nghĩa. Quang-Nghĩa già, truyền ngôi cho em thứ ba là Đình-Mỹ. Đình-Mỹ già, truyền ngôi cho con trưởng của con.
    Sau này Tống Thái-Tổ truyền ngôi cho em là Triệu Khuông-Nghĩa tức Tống Thái-Tông. Thái-Tông không muốn truyền ngôi cho em là Tần vương Đình-Mỹ. Đình-Mỹ tài kiêm văn võ, lại có nhiều công lao chinh chiến. Nhưng sau Thái-Tông nghe lời xui khiến của Tể-tướng Triệu Tấn rằng nên truyền ngôi cho con. Ông mật sai các quan vu cho Đình-Mỹ tội phản nghịch, cách hết chức tước, đầy đi xa, rồi cho người ám toán. Khi về già ông lập con đầu lòng làm Thái-tử tước phong Sở-vương. Sở-vương bị ám toán hóa điên. Ông lập con thứ nhì làm Chiêu-Thành thái tử. Chỉ ít lâu sau, Chiêu-Thành bị ám toán chết. Ông định lập Nguyên-Nghiễm lên thay. Nguyên-Nghiễm thấy vua cha trái lời bà, trái lời bác, nên từ chối. Thái-Tông phải lập con thứ ba làm thái tử, truyền ngôi cho, tức vua Chân-Tông. Vua Chân-Tông đức còn kém hơn nữa, truyền ngôi cho Nhân-Tông (Thiên-Thánh) mới có mười ba tuổi, và để cho vợ là Lưu hậu cầm quyền.
    4 Thái-hồ thuộc Tô-châu, Thượng-hải, nằm sát bờ biển phía Đông của Trung-quốc, thuộc kinh-tuyến thứ bẩy, cùng giờ với Đại-Việt.
    5 Như ngày nay, người Việt sinh ở Paris giờ Tý, trong khi ở Hoa-sơn là giờ Mão. Khi lấy số nên lấy giờ Tý hay Mão? Theo Tử-vi kinh phải lấy giờ Tý.
    6 Xin lưu ý độc giả: Tây-Sơn lão nhân cùng vua Nhân-Tông tính Tử-vi theo chính phái: Không có sao Địa-không, mà chỉ có sao Thiên-không. Thiên-không an như sao Địa-không, chứ không đứng trước Thái-tuế một cung. Đại hạn thứ nhất ở cung Phụ-mẫu, hoặc Huynh-đệ, chứ không phải ở mệnh. Còn Hỏa, Linh cũng an khác:
    - Tuổi Thân, Tý, Thìn: Hỏa ở Dần, Linh ở Tuất.
    - Tuổi Dần, Ngọ, Tuất: Hỏa ở Sửu, Linh ở Mão.
    - Tuổi Tỵ, Dậu, Sửu: Hỏa ở Mão, Linh ở Tuất.
    - Tuổi Hợi, Mão, Mùi: Hỏa ở Dậu, Linh ở Tuất.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ BẢY
    Ngậm đắng, nuốt cay

    Thiên-Thánh hoàng đế lên tiếng gọi:

    - Các người đâu?

    Hai thái giám vào. Nhà vua nói:

    - Các người tâu với Hoàng-hậu rằng đêm nay quốc sự đa đoan, trẫm ngự tại đây. Còn thị vệ cho về nghỉ. Hai con hổ canh gác cũng đủ rồi.

    Ngẫm nghĩ một lúc, nhà vua truyền chỉ tiếp:

    - Người pha nước cho trẫm tắm.

    - Tâu bệ hạ nước đã nấu với Hương-nhu, Bạc-hà, Mộc-hương chờ bệ hạ. Không biết bệ hạ ban hồng ân cho phi tần nào kỳ lưng hôm nay?

    - Trẫm muốn yên tĩnh. Trẫm tự kỳ lấy. Thôi người lui về ngủ đi.

    Thái-giám lui ra.

    Nhà vua đi đi lại lại trong phòng một lúc, rồi mở tráp lấy ra cuốn trục trải lên án thư, chăm chú quan sát. Tự-Mai tò mò không biết trên trục lụa vẽ gì, mà khiến nhà vua nhìn chăm chú đến thế. Quan sát một lúc, rồi nhà vua trịnh trọng ôm cuốn trục lên ấp vào ngực bằng tất cả âu yếm nhất.

    Nó tự hỏi:

    - Trục lụa vẽ gì mà nhà vua yêu thương đến như thế kia. Không chừng hình một giai nhân đây. Y là Hoàng-đế Tống, uy quyền bốn phương, nhất hô bách nặc, muốn cô gái nào mà chẳng được; không ngờ cũng có tư tình tuyệt vọng.

    Nhà vua cuộn cuốn trục lại, rồi lui vào phòng phía sau. Tự-Mai nghe tiếng nước đổ, biết nhà vua đang tắm. Nó buông mình nhảy xuống cạnh án thư, tay mở cuốn trục lụa xem. Bất giác nó ngẩn người ra, vì trong trục vẽ hình Lý thái phi sống động như người bên ngoài. Nhận được nét bút của sư huynh Trần Trung-Đạo, nó nghĩ thầm:

    - Rõ ràng nhà vua do Lưu hậu sinh ra, mà ông ta lại thương nhớ Lý thái phi như thế này, thực kỳ lạ. Tại sao Lưu hậu ngăn cấm Lý thái phi gần nhà vua?

    Nhớ lại nhiệm vụ, nó buông cuốn trục, lạng người vào phòng tắm. Một mùi hương dễ chịu xông lên mũi. Nó khen thầm:

    - Thái y của hoàng đế biết hầu hạ đấy chứ. Y dùng mấy thứ hương liệu nấu nước thế này, dù mệt mỏi, sau khi tắm cũng cảm thấy khoan khoái.

    Nhà vua trong tư thế trần truồng đang đứng trước tấm gương lớn, nghẹo đầu ra sau nhìn vết chàm trên mông phải của mình, nên không biết Tự-Mai vào. Nhìn chán, nhà vua quay lại định mặc quần áo. Chợt thấy một bóng lạ in trước mặt. Ông cho rằng bóng mình. Nhưng ông hiểu ngay không phải. Vì bóng ông đang lồng lên tường. Còn bóng này của một người ngồi. Bất giác ông quay lại: Trước mặt ông một người ngồi bất động như pho tượng. Nhà vua kinh hãi tự hỏi:

    - Ta đã cấm không cho ai vào, tại sao người này cả gan dám ngồi đây? Y mặc quần áo thái giám, nhưng sao ta chưa thấy mặt y bao giờ?

    Nhà vua lên tiếng hỏi:

    - Người là ai mà lớn mật dám vào đây?

    Tự-Mai vẫn ngồi bất động.

    Nhà vua tưởng ma quái hiện hình, bất giác chân tay ông bủn rủn:

    - Nếu mi là ma chết oan, hãy hiện hồn trong giấc mộng. Trẫm sẽ xử cho. Nơi này không phải chỗ người tới được.

    Tự-Mai vẫn không trả lời. Nhà vua vội lấy áo quần mặc vào. Nhanh như chớp Tự-Mai chĩa ngón tay ra điểm liền hai tiếng véo, véo vào huyệt Dương-trì ở cườm tay nhà vua. Hai bàn tay nhà vua tê liệt, quần áo rơi xuống. Ông quát:

    - Thì ra người là người. Người định làm gì đây?

    Tự-Mai lại chĩa ngón tay điểm một tiếng véo nữa trúng huyệt Á-môn. Nhà vua bị câm, không nói lên lời. Tính quật cường nổi dậy, nhà vua co chân phóng một cước vào ngực nó. Nó chĩa ngón tay điểm vào huyệt Phong-thị lập tức chân nhà vua tê liệt. Ông ngã ngồi xuống chiếc ghế, đưa con mắt hằn học, lo sợ nhìn nó.

    Tự-Mai nở một nụ cười. Nó cầm con hổ bằng ngọc bích bầy trên án thư lên, rồi vận tay bóp mạnh. Con hổ biến thành bột. Nó từ từ trải bột rơi xuống nền nhà:

    - Tôi hứa không làm khó dễ bệ hạ. Nhưng tôi yêu cầu bệ hạ không được tri hô lên. Nếu bệ hạ giữ lời hứa, tôi giải huyệt cho bệ hạ. Nhược bằng bệ hạ cưỡng lời, tôi sẽ bóp bể đầu bệ hạ như con hổ này.

    Nói rồi nó ướm bàn tay lên đầu nhà vua, bóp nhè nhẹ. Nhà vua kinh hãi run lật bật. Nó xoa tay vào sau cổ nhà vua. Lập tức huyệt đạo được giải. Nhà vua hỏi:

    - Thiếu hiệp là ai, vào đây với mục đích gì?

    - Tôi là người Việt, không phải người Hán. Tôi biết người ta sắp sát hại bệ hạ, sau khi vu cho bệ hạ đủ tội: Hôn ám, hồ đồ. Bệ hạ băng hà là lẽ đương nhiên. Nhưng triều Tống sẽ vào tay bọn Hồng-thiết-giáo mới tiếc.

    - Trẫm không tin.

    - Được, tôi sẽ vì bệ hạ mà nói. Âm mưu sát hại bệ hạ do nhóm Hồng-thiết-giáo chủ động. Bệ hạ là thiếu niên nhân từ, thế mà sau khi bị giết chết rồi, lịch sử còn ghi tên bệ hạ là đứa con đại bất hiếu. Vì vậy tôi phải cứu giá.

    - Tại sao thiếu hiệp lại cứu trẫm?

    - Vì tôi muốn có lợi trong việc này.

    - À, thì ra thiếu hiệp muốn làm quan. Kể ra với võ công của thiếu hiệp cũng xứng tài đại tướng.

    - Không, tôi không thủ lợi cho tôi, mà muốn Tống, Việt đều có lợi. Cho nên tôi tới đây thương lượng với bệ hạ những điều trọng đại sao cho dân hai nước hạnh phúc.

    Nhà vua nói:

    - Thiếu hiệp giải huyệt cho trẫm. Trẫm mặc quần áo đã rồi hãy thương lượng. Chứ cơ thể trẫm trần truồng như thế này, còn ra thể thống gì nữa.

    - Không vội. Câu của tôi muốn hỏi bệ hạ: Bệ hạ có muốn biết rõ tại sao trên mông phải của bệ hạ lại có hình một bông hoa, với chữ Lý không? Tại sao từ Định-vương, Yến Thù cho tới Tây-Sơn lão nhân đều úp úp mở mở hé lộ cho bệ hạ biết về một bí ẩn của thân thế bệ hạ? Theo tôi nghĩ, bệ hạ muốn biết minh bạch hơn.

    - Đó là điều từ khi khôn lớn trẫm muốn biết, nhưng không ai giải thích cho trẫm thỏa đáng cả. Mãi gần đây hoàng thúc, Yến đại học sĩ với Tây-Sơn đao sư cùng hé lộ cho trẫm biết đôi chút mà thôi. Trẫm còn kinh ngạc hơn: Nếu trẫm có điều cơ mật về thân thế. Tại sao suốt mười tám năm nay không ai nói gì. Mà gần đây chẳng hẹn, ba vị lại muốn tỏ cho trẫm biết?

    - Vì trước kia có ai nói, bệ hạ cũng chưa đủ trí khôn giải quyết. Nói ra sớm e người nói lẫn bệ hạ đều bị họa sát thân. Bây giờ bệ hạ đã lớn tuổi rồi, đủ sức phán đoán. Hơn nữa người ta đang định giết bệ hạ, nguy cơ gần kề, nên ba vị kia, một vị thương yêu bệ hạ như con, một vị là Nho-sĩ trung quân, một vị là đạo-sư nhân từ. Cả ba không hẹn mà cùng quên thân mình, nói cho bệ hạ biết.

    - Tại sao họ không nói trắng đen, mà chỉ nói lờ mờ thôi.

    - Vì điều này tối cơ mật. Nên họ dò dẫm đấy. Nếu bệ hạ tin, họ sẽ nói tiếp.

    - Ba người kia, họ vì trẫm hy sinh, trẫm tin được. Định-vương thương yêu trẫm hơn cả phụ hoàng. Tây-Sơn đạo sư là thầy trẫm. Yến đại-học-sĩ là gan ruột của trẫm. Còn người, người là ai mà cũng vì trẫm hy sinh?

    - Ba người kia chỉ biết bệ hạ có thể gặp nguy hiểm. Còn tôi, tôi biết người ta sắp sát hại bệ hạ đến nơi, nên phải ra tay gấp, hầu kiếm lợi. Tôi sẽ giải thích cho bệ hạ biết tất cả cơ mật về thân thế bệ hạ.

    Nó móc trong bọc ra chiếc hộp bằng vàng, rồi mở nắp để trước mặt nhà vua:

    - Đây, cành thoa in vào mông bệ hạ vào lúc sơ sinh đây.

    Nó xoa tay hai cái, huyệt Dương-trì được giải. Nhà vua cầm cành thoa ướm vào mông. Vết thẹo tuy lớn hơn, nhưng khuôn khổ không khác biệt chút nào cả.

    Tự-Mai nói:

    - Thôi bệ hạ mặc y phục vào. Bệ hạ đừng quên rằng tôi đến đây để cứu giá. Nếu bệ hạ tri hô lên, tôi phải tàn ác với bệ hạ đấy.

    Nó vận âm kình dùng cườm tay chém vào góc cái bàn. Bịch một tiếng, cái bàn bị chặt đứt bằng phẳng như dao cắt vậy.

    - Võ công thiếu hiệp thực kinh nhân. Tại sao lại đi làm thái giám?

    - Tôi yêu một cung nữ, nên hằng đêm vào cấm thành tâm tình với nàng. Chẳng may truyện đổ bể, tôi hút bị giết. May có người cứu tôi thoát nạn. Người ấy khẩn khoản yêu cầu tôi cứu bệ hạ. Vì vậy tôi giả thái giám đến đây.

    Nhà vua mặc quần áo rồi, nói:

    - Chúng ta ra ngoài kia nói truyện.

    Tự-Mai cùng nhà vua sóng đôi ra trước án thư. Nó rót chén sâm thang trao cho nhà vua:

    - Bệ hạ mới tắm xong, thân thể lạnh, uống bát sâm thang này cho khỏe đã.

    Nhà vua tuyệt không thấy Tự-Mai có ác ý, ông yên tâm bưng bát sâm thang uống. Tự-Mai trải cuốn trục có hình Lý thái phi ra, hỏi nhà vua:

    - Tại sao bệ hạ lại phải chờ lúc đêm khuya thanh vắng mới dám ôm hình Lý thái phi vào ngực để tỏ ý thương cảm? Tại sao bệ hạ là người con cực có hiếu. Trong khi thái hậu ghét Lý phi, mà bệ hạ lại yêu thương Lý phi hơn mẹ đẻ?

    - Trẫm cũng không biết nữa. Thiếu hiệp hãy giải thích cho trẫm biết đi.

    - Giản dị lắm. Vì bệ hạ do Lý thái phi sinh ra. Mẹ con cùng giòng máu, nên cả bệ hạ lẫn Lý thái phi đều thương yêu nhau.

    - Trẫm không tin.

    Tự-Mai cười nhạt:

    - Tôi có đủ chứng cớ.

    - Thiếu hiệp cứ nói.

    - Tôi nhắc lại, tôi đến đây để thương lượng. Nếu tôi có đủ bằng chứng bệ hạ do Lý thái phi sinh ra, và hiện đang có âm mưu sát hại bệ hạ với Lý thái phi. Bệ hạ phải thuận với tôi ba điều.

    - Người cứ nói.

    - Điều thứ nhất, bệ hạ triệt trọng binh ở Nam-thùy, bỏ hẳn tham vọng đánh chiếm Đại-lý, Đại-Việt, hầu dân hai tộc Hán, Việt sống trong thương yêu nhau.

    - Điều đó trẫm vẫn ước mơ. Chỉ có thái hậu với một vài đại thần muốn mở rộng Nam-thùy mà thôi. Hiện nay trẫm đã trưởng thành, nhưng quyền thái hậu vẫn giữ, điều này trẫm không thực hiện được.

    - Dễ! Tôi có cách giúp bệ hạ có thực quyền của ông vua.

    - Điều này rất khó. Trước kia tể tướng Khấu Chuẩn đã làm rồi, nhưng thất bại.

    - Xưa khác, nay khác.

    - Xưa thực quyền do tiên đế. Thái-hậu chỉ trợ giúp mà còn không làm gì nổi. Huống hồ nay văn võ bá quan đều do Thái-hậu bổ nhiệm cả. Lại nữa, Thái-hậu dùng dư đảng Nhật-hồ xử dụng độc chưởng khống chế từ ngoài triều cho đến nội cung.

    - Thế nhưng độc chưởng trở thành vô dụng với chúng tôi. Bệ hạ có nhớ việc cách nay mấy tháng Thái-hậu dùng chưởng này đánh thích khách, không những không hại được thích khách, mà còn bị độc chất chạy ngược trở lại, suýt mất mạng không?

    - Trẫm nghe biết vụ đó. Thái-hậu tấn công người ấy ba chưởng. Người ấy vô tình đỡ, chứ không chủ đánh lại. Nếu người ấy đánh thực, e Thái-hậu lâm nguy rồi.

    - Sự thực không phải vậy. Người ấy vào cung vì việc khác, chẳng may gặp Thái-hậu, bị Thái-hậu tấn công người ấy tự vệ mà thôi.

    - Trẫm nghĩ khác, có người muốn cảnh cáo Thái- hậu, mới bầy kế để người ấy nhập cung, rồi phối trí cho gặp Thái-hậu, để Thái-hậu biết rằng độc chưởng không còn là vô địch nữa.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Thiếu niên này là học trò của Định-vương có khác. Y thông minh thực, đoán ra thâm ý của anh cả với Định-vương. Trong khi mình phải chờ tới khi anh Thông-Mai nói mới biết.

    - Bệ hạ minh mẫn ít ai bằng. Nhưng cái minh mẫn không có chỗ phát triển cho trăm họ nhờ.

    - Đúng thế. Trẫm vì đạo hiếu mà tự giới hạn mình. Trẫm còn trẻ mà. À, người có biết võ công của kẻ đối chưởng với thái hậu không? Võ công ấy của môn phái nào? Ai đã đối chưởng với Thái-hậu đêm đó?

    - Người sáng chế ra nội công đó họ Trần tên Tự-An.

    - Ủa! Y là người Việt. Hồi Thái-hậu mới lên cầm quyền, có sai sứ sang mời y làm nguyên soái đánh Tây-hạ. Y đuổi sứ về. Trẫm nghe nói, y là bác học về võ thuật đương thời. Người có quen biết y không?

    - Không những quen, mà còn rất thân nữa.

    - Thân đến độ nào?

    - Ông ấy là bố tôi.

    - À, vậy kẻ đối chưởng với Thái-hậu là thiếu hiệp ư?

    - Đúng thế.

    Nhà vua ngồi ngay ngắn lại:

    - Thiếu hiệp biết xử dụng võ công khắc chế Chu-sa ngũ độc chưởng. Thế thiếu hiệp có thể giải được vĩnh viễn độc chưởng này không?

    - Tôi không làm được, nhưng có hai người rất thân với tôi làm được?

    - Trẫm cũng bị trúng độc này. Liệu thiếu hiệp có thể nhờ người trị giúp trẫm không?

    - Được. Nhưng...

    - Điều kiện gì?

    - Tôi đã nói rồi.

    - Được rồi! Trẫm hứa, nếu trẫm nắm thực quyền, trọn đời trẫm sẽ triệt trọng binh ở Nam-thùy, không bao giờ xâm lấn Đại-Việt.

    - Đại-lý nữa.

    - Dĩ nhiên. Đại-Lý, Đại-Việt cũng thế cả. Nơi đó tộc Việt sống. Trẫm sẽ thay đổi hết bọn quan lại Nam-thùy cũng như trong triều chủ trương gây hấn giữa hai tộc Việt-Hán. Nhưng điều này hơi khó. Cần phải có sự tương thuận giữa hai nước Tống-Việt. Bây giờ trẫm hứa với người, trong khi bên Đại-Việt gây hấn thì sao?

    Tự-Mai bật cười:

    - Kể từ khi vua Đế-Minh chia thiên hạ làm hai. Nam cho tộc Việt. Bắc cho tộc Hán. Có bao giờ tộc Việt hướng lên Bắc gây rối không?

    - Được rồi. Trẫm tin người, điều kiện thứ nhì là gì?

    - Mở cửa biên giới, cho dân hai nước tự do thông thương, hầu kết chặt tình Hán-Việt đều cùng một tổ. Như vậy tình thân hai tộc sẽ được nối tiếp, sau này khó có thể xẩy ra chiến tranh.

    - Thiếu hiệp thông minh thực. Hai đề nghị đều hợp ý trẫm. Giá thiếu hiệp làm vua Đại-Việt, thì Hán-Việt sẽ hoà thuận đời đời. Còn đề nghị thứ ba?

    - Công nhận quốc hiệu Đại-Việt, cũng như niên hiệu của Đại-Việt hoàng đế.

    - Khi trẫm đã muốn Hoa-Việt sống trong tình anh em, dĩ nhiên phải có điều này. Nào bây giờ người hãy chứng minh rằng Lý thái phi sinh ra trẫm đã. 1

    - Được, tôi vì bệ hạ mà nói.

    Nhà vua rót một chén sâm thang để trước mặt Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp uống đi cho tỉnh. Tiếc quá.

    Tự-Mai chĩa ngón tay vào chén sâm thang. Nước vọt lên thành một tia nhỏ rơi trúng họng nó. Nó uống rồi nói:

    - Đa tạ bệ hạ. Bệ hạ tiếc gì vậy?

    - Ta tiếc vì người là người Việt. Nếu người là người Hán, ta sẽ để người ngồi ở toà Bình-chương cùng ta chung lo sao cho dân hạnh phúc.

    Tự-Mai nắm lấy tay nhà vua cảm động:

    - Tự cổ đa số vua chúa chỉ lo gái đẹp, sung sướng, làm những điều khiến cho dân đau khổ. Trọn đời, tôi mới thấy hai vị hoàng đế lúc nào cũng chỉ lo cho dân hạnh phúc. Bệ hạ là một. Sau này nếu bệ hạ cần, tôi luôn ở cạnh bệ hạ, nhưng tôi không muốn làm quan. À, hiện bệ hạ đang bị bó tay.

    - Người vừa nói hai vị hoàng đế chỉ nghĩ đến dân. Người thứ nhì là ai?

    - Thuận-Thiên hoàng đế của Đại-Việt.

    - Trẫm nghe nói Lý Công-Uẩn cướp ngôi của ấu quân, hiện y làm cho trăm họ Đại-Việt điêu linh vô cùng. Sao thiếu hiệp lại so sánh trẫm với y?

    Tự-Mai lắc đầu:

    - Biên thần của bệ hạ tâu láo đấy. Sự thực như thế này.

    Rồi nó thuật lại những điều ác độc kinh khủng của vua Lê Ngọa-triều. Sau khi vua Ngọa-triều chết, anh hùng Đại-Việt tôn Lý Công-Uẩn lên làm vua như thế nào. Trong mười bẩy năm qua, xá thuế ra sao, dùng đức cai trị dân khiến đạo lý hưng thịnh hơn bao giờ cả. Cuối cùng đại hội Lộc-hà vừa qua lại tôn ngài lên làm vua vĩnh viễn.

    Nhà vua nghe Tự-Mai thuật, ông cau mặt, rồi thình lình đập tay xuống bàn:

    - Trẫm phải cách chức hết bọn biên thần mới được. Trời ơi, từ trước đến giờ chúng coi trẫm như con nít vậy.

    - Không phải mình bệ hạ lầm, mà Định-vương cũng lầm nữa.

    Nó thuật lại việc Định-vương bị biên thần tâu lầm, sang Đại-Việt hống hách ra sao, sau biết sự thực, vương hối hận, rồi kết thân với Khai-Quốc vương.

    Nhà vua hỏi:

    - Thiếu hiệp tiếp cho.

    Tự-Mai hắng giọng rồi nói:

    - Tự cổ, đàn bà Hán hay Việt đều giống nhau. Ai cũng cho rằng mình thương yêu con mình nhất, nên chỉ mượn vú nuôi sữa. Còn dạy đỗ, quản chế, bao giờ cũng tự làm lấy. Nếu Lưu hậu sinh bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu. Tại sao người không nuôi dạy, mà giao bệ hạ cho Dương thục phi, giao Huệ-Nhu cho Lý thần phi.

    - Trẫm cũng nhận thấy cái bất thường dó.

    - Không đàn bà nào có thể xa con được. Thế sao Lưu hậu giao bệ hạ với công chúa Huệ-Nhu cho hai vị phi tần nuôi, cũng được đi. Nhưng mỗi tháng chỉ hai lần, lệnh cho hai phi đem bệ hạ với công chúa chầu Lưu hậu một lần? Bệ hạ thử xét lại mà xem, các bà phi của tiên đế, sinh con xong tuyển vú nuôi. Nhưng lúc nào cũng để con ở cạnh. Có đâu bắt con xa cách, tháng thăm đôi lần? Được làm mẹ, dạy con, nuôi con là điều hạnh phúc nhất của đàn bà. Cớ sao Lưu hậu bỏ phế không hưởng?

    - Ừ nhỉ, bây giờ trẫm mới chú ý đến điều đó.

    - Thôi, tôi nói thực hết. Thái-hậu là người của Hồng-thiết giáo.

    - Điều này trẫm biết rồi.

    - Bệ hạ chỉ biết một mà không biết hai.

    - Còn gì nữa?

    - Thế nguồn gốc Thái-hậu ra sao? Bệ hạ thử nghĩ xem, bất cứ con người ta phiêu bạt đến đâu cũng biết rõ nguốn gốc mình: Cha mẹ là ai, họ hàng, quê quán. Tại sao Thái-hậu lại không biết mình họ gì, phải lấy họ Lưu của chủ?

    Để cho nhà vua suy nghĩ một lát, Tự-Mai tiếp:

    - Bệ hạ có biết việc những cao thủ Hồng-thiết giáo thường dùng thiếu nữ trẻ làm cây thuốc luyện công không?

    - Trẫm được Khu-mật viện tâu rất chi tiết việc này.

    - Cách đây mấy chục năm, Nhật-Hồ lão nhân lập ra Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Trên cao nhất lão làm giáo chủ.

    - Trẫm biết rất chi tiết vấn đề tổ chức Hồng-thiết giáo. Dưới Nhật-Hồ có Tả, Hữu hộ pháp. Tả tên Đào Tường-Phúc, hữu tên Chu Bội-Sơn. Đào phụ trách giáo chúng vùng Lưỡng-quảng. Chu phụ trách giáo chúng vùng Hồ-Nam. Dưới nữa có Ngũ-sứ. Trung-sứ tên Nguyễn San. Nam-sứ tên Khiếu Tam Bản. Đông-sứ tên Sử-vạn Na-vượng. Tây-sứ tên Bun-Thành. Bắc-sứ tên Nguyễn Thúy-Minh. Thúy-Minh là vợ của Đào Tường-Phúc.

    - Khu-mật viện Tống thực giỏi. Nhưng có một điều Khu-mật viện không biết là: Nguyễn Thúy-Minh tuy làm vợ Đào Tường-Phúc, nhưng Nhật-Hồ lão nhân cũng dùng làm cây thuốc. Vì vậy sau thị có thai sinh ra một gái, không ai rõ y thị là con Nhật-Hồ hay Tường-Phúc. Đứa con gái ấy trao cho giáo chúng Lưu Đình-Mỹ nuôi. Còn thị giả đi tu làm đạo cô, rồi nhập cấm cung được phong lễ nghi học sĩ.

    - Trẫm không tin.

    - Nhưng đó là sự thực. Khi Đặng Đại-Bằng tái lập bang Nhật-Hồ, y không biết gốc tích Lưu hậu. Y cho mười trưởng lão xâm nhập làm thị vệ khống chế Lưu hậu bằng Chu-sa chưởng. Không ngờ Lưu hậu nhờ cha mình khống chế lại, biến mười trưởng lão thành người của bà.

    - Trẫm biết việc này.

    -- Sau, người được giáo chủ Hồng-thiết giáo Đại-Việt sai hai vị Tả, Hữu hộ giáo cùng ba vị sứ giả theo giúp bên cạnh từ khi còn thơ ấu .

    - Trẫm cũng biết rất rõ.

    - Lưu hậu được Tả, Hữu hộ giáo thuộc Hồng-thiết giáo Đại-Việt ở cạnh. Họ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho Lưu hậu, để tự giải vĩnh viễn độc chưởng Chu-sa. Nhưng công lực Lưu hậu không đủ, nên chỉ có thể không lên cơn hàng năm mà thôi. Hai người đó cũng được phong Nhập-nội đô-tri. Chính hai người này bầy mưu cho Lưu hậu có con. Họ được Lưu hậu phong chức tước rất lớn.

    - Hai người đó tên gì?

    - Một người tên Đào Tường-Phúc, một người tên Chu Bội-Sơn.

    - Hai người này, một làm giáo chủ Hồng-thiết giáo vùng Quảng-Tây, Hồ-Nam. Một người làm giáo chủ Hồng-thiết giáo Quảng-Đông, Ngô-Việt. Họ đâu có làm quan với bản triều?

    - Khi họ làm quan với Tống, Đào Tường-Phúc đổi tên là Tôn Đức-Khắc. Chu Bội-Sơn đổi tên là Lê Lục-Vũ.

    - À, hai lão đó. Mới đây thái hậu đề nghị với trẫm phong cho Tôn Đức-Khắc làm Tổng-lĩnh thị vệ, cùng Ngự-lâm-quân. Còn Lê Lục-Vũ làm kinh lược sứ Nam-thùy. Hà, nguy thực. Người nói tiếp đi.

    - Cái nguy kinh khiếp khi Lê Lục-Vũ làm kinh lược sứ Nam-thùy. Y sẽ gây sự với Đại-Việt, Đại-Lý. Trong triều Lưu hậu với bọn Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản lấy cớ đó đem trọng binh xuống Nam. Bấy giờ y mới hòa hoãn với Đại-Lý, Đại-Việt, kéo quân lên Bắc. Trong triều Tôn Đức-Khắc tổ chức chính biến. Giang sơn Đại-Tống sẽ biến thành giang sơn Hồng-thiết giáo.

    Mặt nhà vua tái đi.

    - Nhưng nay nhân Định-vương điều tra ra vụ Lưu thái-hậu sai người hại Sở-vương rồi Chiêu-Thành thái tử, để Tiên-đế lên ngôi vua. Người hại là một trong bốn ma đầu Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vượng. Bốn tên này bị lộ tông tích, chúng định hại bệ hạ, rồi Lưu hậu lập một ấu quân lên thay. Ai cũng tưởng bệ hạ là con Lưu hậu, đâu có nghi ngờ đến việc mẹ hại con. Trong khi bệ hạ là con Lý thái-phi.

    - Trẫm vẫn chưa tin Lý phi sinh ra trẫm.

    - Được, tôi sẽ vì bệ hạ mà nói.

    Tự-Mai biết rằng đã có Định-vương, Tây-sơn lão nhân, Yến Thù, dọn đường rồi. Nó chỉ đánh đòn cuối cùng mà thôi. Vấn đề quá ư trọng đại: Nhà vua được Lưu hậu nuôi dạy, lại bảo vệ đưa lên ngôi vua, rồi phụ chính mười năm qua, tình nghĩa thâm trọng biết bao. Bây giờ bảo nhà vua phản lại bà rất khó. Nếu nhà vua không tin nó. Ông chỉ hé lộ cho Lưu hậu biết, ắt Lưu hậu dùng bọn Tào Lợi-Dụng tổ chức chính biến diệt Định-vương. Trong trường hợp ấy bà có chính nghĩa, tướng sĩ theo bà. Định-vương cùng sứ đoàn e khó toàn mạng. Vì vậy nó gằn từng tiếng:

    - Về nguồn gốc bệ hạ. Khi biết Lý phi mang thai. Lưu hậu cũng vờ mang thai. Cho đến ngày Lý phi lâm bồn, Lưu hậu cũng vờ lâm bồn. Lý phi sinh hoàng nam, Lê Lục-Vũ bắt một hài nhi dân giã đem vào giả làm hoàng nam do Lưu hậu sinh ra. Trong khi Tôn Đức-Khắc pha Di-hồn tán vào với thuốc bổ máu của Lý phi. Lý phi ngủ say rồi, y bắt hoàng nam của Lý phi sang cung trao cho Lưu hậu. Bóp mũi cho đứa trẻ dân dã chết, thay vào chỗ hoàng nam của Lý phi. Hoàng nam do Lý phi sinh ra chính là bệ hạ.

    - Trời! Bây giờ trẫm như người mù được mở mắt. Trước nghe phụ hoàng thuật rằng trẫm với hoàng đệ con Lý phi sinh cùng ngày, cùng lúc, mà hoàng đệ chết ngay. Lý phi tỉnh dậy cho rằng hài nhi chết không phải của người sinh ra. Phụ hoàng tưởng Lý phi mới sinh con, thấy con chết, tinh thần thác loạn mà tưởng tượng con mình còn sống. Thì ra thế.

    Thấy nhà vua đã tin, Tự-Mai phóng vào người ông tia sáng nữa:

    - Bởi vậy mới có việc ghi chú ngày, giờ, tháng, năm sinh của bệ hạ không đúng sự thực. Tây-Sơn lão nhân nhân giải lá số cho bệ hạ đã tiết lộ một điều: Thái hậu không sinh ra bệ hạ. Còn bệ hạ chính là con Lý phi.

    Nhà vua run run cầm tay Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp tiếp đi.

    Tự-Mai biết mình đã thành công. Nó tiếp:

    - Bất cứ người đàn bà nào sinh con xong cũng phải cho bú một thời gian, rồi mới từ từ ngừng, giao cho nhũ mẫu nuôi. Nếu Lưu hậu sinh ra bệ hạ, tại sao phải trao cho Thục-phi nuôi ngay? Thục-Phi đâu có sữa?

    - Trước đây trẫm nghe phụ hoàng kể rằng, sau khi sinh trẫm, hậu kiệt sức không có sữa!

    - Bệ hạ quên mất Lưu hậu là một võ lâm cao thủ hiếm có thuộc phái Hoa-sơn, trước khi tuyển cung ư? Với công lực như vậy, sinh con ra sao kiệt lực được?

    Nhà vua gật đầu:

    - Phụ hoàng kể rằng sau khi sinh rồi, tất cả các phi tần đều phải uống thuốc bổ khí-huyết. Riêng hậu không phải uống. Ừ, sinh xong kiệt lực không sữa, mà lại không cần uống thuốc bổ cho khỏe, cũng là điều hãn hữu.

    - Khi Lý phi sinh xong, người lấy chàm bôi trên cành thoa tiên đế ban cho hôm nhập cung, in vào mông hoàng nam. Vì vậy sau khi thuốc mê di hồn hết hiệu lực. Người tỉnh dậy, thấy hoàng nam chết, mà trên mông không có dấu chàm, người cho rằng con người chưa chết. Ban nãy tôi cố ý để bệ hạ trần truồng, rồi đem cành thoa cho bệ hạ so sánh là thế.

    - Cành thoa người trao cho trẫm ban nãy là cành thoa ấy ư? Ai đã trao cho người?

    - Bệ hạ khoan hãy hỏi ai trao cho, để chúng ta có thời giờ nói truyện với nhau. Sau khi kể hết cho bệ hạ nghe, chúng ta có nhiều việc phải làm. Bằng để sáng mai, e tôi không còn thời giờ gần bệ hạ nữa.

    - Trẫm hiểu hết rồi, sau khi Lý phi mang thai lần thứ nhì, thảm kịch cũ lại tái diễn phải không?

    - Đúng thế. Song có điều lần này Lưu hậu lại trao công chúa Huệ-Nhu cho chính mẹ đẻ nuôi làm con nuôi.

    - Thái hậu làm được nhiều việc như vậy, ắt phải có chân tay thân tín giúp. Ngoài bọn Hồng-thiết ra còn ai là nhân chứng không?

    - Những cung nga, thái giám tham đự vào vụ này đều bị Lưu hậu sai Tôn Đức-Khắc giết hết. Nhân chứng quan trọng nhất là thái hậu với Lý phi, rồi tới Sở-vương, Định-vương, Tào Lợi-Dụng, Trương Sĩ-Tổn. Sau này thêm Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực, Yến Thù. Nhất là hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ. Nhưng nếu bệ hạ hỏi thái phi, người sẽ im lặng, không nói gì đâu?

    - Tại sao?

    - Dễ hiểu. Con mình sinh ra, đau đớn đứt ruột, thế mà lỗi đạo thần hôn định tỉnh, đã là một điều đau đớn cùng cực. Hơn nữa khi lên ngôi, chỉ thí cho chức Thuận-dung, như một cung nga, chứ không được bằng như phi tần, rồi đầy ra coi Vĩnh-định lăng, sống với sương gió như kẻ lưu đầy. Đau đớn, phẫn hận, tủi nhục biết bao? Trong khi kẻ thù thì ngồi trên uy quyền đầy đọa mình. Bây giờ phải nhờ người ngoài nói ra, con mới biết. Sau khi biết không tin thì chớ, còn đến cật vấn, hỏi người mẹ nào chịu cho nổi nỗi phẫn hận đó?

    - Trẫm đi gặp Thái-sư ngay. Thái sư vừa là hoàng thúc, vừa là sư phụ của trẫm, ắt người không nỡ dấu diếm trẫm làm gì?

    - Thái sư là ai?

    - Định-vương Nguyên-Nghiễm.

    - Bệ hạ không nên nóng nảy. Hiện đang có sứ đoàn Xiêm-la, Đại-Việt cùng ba trăm thiếu niên ứng tuyển phò mã ở kinh. Thái-hậu tung thị vệ, tế rác khắp nơi, bệ hạ tìm gặp Định-vương sẽ bị lộ ngay. Tôi đề nghị bệ hạ cùng tôi bí mật đi gặp Lý phi. Bệ hạ núp ở ngoài nghe ngóng. Còn tôi vào thăm Thái- phi. Bệ hạ sẽ rõ ngay. Sau đó chúng ta gặp Thái-hậu.

    - Gặp Thái-hậu? Nếu sự thực trẫm do Thái-hậu sinh ra, mà trẫm đặt câu hỏi về xuất thân, e người nổi lôi đình. Còn trường hợp trẫm do Lý phi sinh ra, người thấy bị lộ, sẽ trở mặt, e Lý phi với trẫm khó toàn tính mệnh.

    - Dễ lắm. Phàm phụ nữ sinh đẻ rồi, da bụng dăn deo, thớ thịt đứt ra. Còn người chưa đẻ bao giờ, da bụng nhẵn, trơn. Bệ hạ tìm cách xem bụng thái hậu thì rõ trắng đen ngay.

    - Khi Thái-hậu đau yếu, trẫm thường thoa bóp cho người. Hiện nay người không đau, làm sao sờ vào bụng được?

    - Tôi có dự trù rồi. Hôm trước tôi đỡ của Thái-hậu ba chưởng, tôi đẩy chất độc chạy ngược vào kinh Dương-minh, nên vào lúc giờ Tý huyệt Thiên-khu, Đại-hoành, Quan-nguyên của người vẫn còn bị đau. Bây giờ đang giờ Tý, bệ hạ lấy lý do nghe tin người đau bụng, tới thăm, rồi dùng bàn tay chà vào năm huyệt này , bệ hạ sẽ thấy ngay sự thực.

    - Trước đây trẫm thăm Thái-hậu rất thường. Nhưng nay sự đã ra thế này, lỡ Thái-hậu trở mặt thì sao? Người mặc y phục thái giám như vậy, có thể theo hộ giá không?

    - Mình tôi thì đấu ngang tay với Thái-hậu. Muốn chắc hơn, tôi sẽ gọi một người thân, võ công cực cao siêu cùng tôi hộ giá bệ hạ.

    - Y là ai?

    - Y là con gái Hồng-Sơn đại phu họ Lê tên Thiếu-Mai. Y thuật y rất cao minh.

    - Có phải Hồng-Sơn đại phu là Lê Long-Mang, con của Lê Hoàn không?

    - Đúng thế.

    - Lê Thiếu-Mai hiện ở đâu?

    - Lê Thiếu-Mai hiện ở phủ Định-vương. Vương sắp xin bệ hạ phong làm vương phi.

    - Thực tuyệt. Từ trước đến nay trẫm tuyển không biết bao nhiêu mỹ nữ cho Thái-sư, mà không người nào được Thái-sư để mắt tới. Bây giờ Lê thị được Thái-sư xin lập làm vương phi, ắt tài sắc phải vẹn toàn lắm.

    Tự-Mai chợt nghĩ ra điều gì:

    - Vậy bây giờ bệ hạ sai một thái giám sang phủ thái sư thỉnh Lê tiểu thư vào cung trị bệnh cho Thái-hậu. Bệ hạ đứng cạnh sẽ có dịp nhìn bụng người.

    - Người nghĩ ra biện pháp này hay thực.

    Nhà vua hướng cửa gọi lớn:

    - Có thái giám nào không?

    Một thái giám chạy vào. Nhà vua trao cho y một lệnh bài:

    - Người sang phủ Thái-sư thỉnh Lê vương-phi mang kim vào cung trị bệnh cho Thái-hậu.

    Tự-Mai hỏi:

    - Hồi nãy bệ hạ đá tôi một đá bằng võ công Hoa-sơn. Dường như chiêu đó tên là Phong suy hoa lạc thì phải. Song nội công lại của Thiếu-lâm là tai sao? Ai là sư phụ của bệ hạ?

    - Người còn trẻ mà kiến thức đã siêu phàm. Trẫm khai tâm với phụ hoàng. Phụ hoàng dạy trẫm võ công Hoa-sơn. Sau trẫm học với hoàng thúc Định-vương. Như người biết, Định-vương theo học với Minh-Thiên phái Thiếu-lâm. Cho nên nội công của trẫm thuộc phái này.

    Tự-Mai chợt nhớ ra một điều:

    - Tôi có một thắc mắc. Vì đạo sư Trần Đoàn liên hệ sâu sa với Thái-Tổ do vậy các hoàng tử đều học võ công Hoa-sơn. Sao Định-vương lại học với phái Thiếu-lâm?

    - Cũng như tất cả các hoàng tử khác, phụ hoàng bắt buộc phải học võ công phái Hoa-sơn. Duy có hoàng-thúc người say mùi đạo đức Thế-tôn nên học võ với phải Thiếu-lâm.

    Thái-giám đi rồi, nhà vua nói:

    - Từ đây đến cung Ôn-đức không xa. Chúng ta đi thôi.

    Hai người rời Tập-hiền viện. Một bọn thái giám, thị vệ đốt đèn lồng đi theo. Nhà vua truyền:

    - Các người ở lại. Trẫm vấn an Thái-hậu.

    Gần tới cung Ôn-đức, Tự-Mai ngạc nhiên vì mọi hôm lúc nào cũng có cung nga, thái giám, thị vệ ứng trực. Mà hôm nay sao vắng lặng vô cùng. Nó kéo nhà vua núp phía ngoài cửa sổ. Có tiếng người nói từ trong vọng ra. Lắng tai nghe, bất giác nó cũng như nhà vua đều giật mình, vì đó là tiếng Lưu hậu cùng Lý phi.

    Tiếng Lý phi nói:

    - Thái-hậu cầm quyền lâu như vậy cũng đủ rồi. Thái-hậu nên lui về hậu cung tĩnh dưỡng tuổi trời chẳng nên ư? Thái-hậu ơi, Thái-hậu nên trả quyền về cho hoàng nhi đi.

    Lưu hậu quát lên:

    - Người nói sao? Người chỉ là chức phi hèn hạ, mà dám gọi Thiên-tử là hoàng nhi ư?

    - Thái-hậu dối tiên đế, dối quần thần, dối sĩ dân bấy lâu, rồi bây giờ tưởng điều man trá đó là sự thực ư? Thái-hậu ơi, hoàng nhi cũng như Huệ-Nhu đều do tôi sinh ra cả. Tôi cắn răng chịu đựng bao lâu cũng đủ rồi.

    Tự-Mai lấy ngón tay thấm nước bọt để lên dấy dán cửa sổ, giấy mủn ra. Nó ra hiệu cho nhà vua nhìn vào. Nó cũng đục hai lỗ khác cùng nhìn. Trong phòng Lưu hậu ngồi đối diện với Lý phi. Mặt Lưu hậu tái đi, tay bà run run:

    - Bằng vào đâu mi dám nói điều loạn này? Chắc mi hóa điên quá. Ta phải chặt đầu mi mới được?

    Lý phi thản nhiên:

    - Không dễ đâu! Chân tay của Thái-hậu có gã Tào Lợi-Dụng cùng bốn tên Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản với mười trưởng lão bang Nhật-hồ. Nhưng Tôn, Lê, Sử, Khiếu cũng như bọn mười trưởng lão đều phản Thái-hậu rồi. Chúng đã đến đây khấu đầu thuật hết mọi truyện.

    Người Thái-hậu run lên:

    - Mi nói láo.

    - Bây giờ Tổng lĩnh thị vệ, Ngự-lâm-quân cũng như Điện-tiền chỉ huy sứ đều đã thay bằng người thân của tôi rồi. Hoàng nhi cũng biết rõ sinh mẫu mình là ai, đời nào y để cho Thái-hậu hại mẹ đẻ mình? Thái-hậu cô thân, thì làm gì được nữa mà hy vọng.

    Thình lình Thái-hậu cười nhạt:

    - Sự đã như vậy, thì hai ta cùng chết cả.

    Thái-hậu vung chưởng tấn công Lý phi. Lý phi né người tránh khỏi, chưởng đó đánh bay tung cửa sổ đi. Lý phi vọt mình ra ngoài, Lưu hậu tung người theo. Vừa đáp xuống đất, Lưu hậu tấn công liền ba chưởng. Lý phi vung tay đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai người đều bật lui lại. Lưu hậu cười nhạt:

    - Mi thực đáng tội chết. Mười năm trước mi bại dưới tay ta, xin đầu hàng để được thuốc giải Chu-sa độc chưởng. Mi tuyên thệ rằng tuyệt đối bỏ không luyện võ công nữa. Thế mà... thế mà mi vẫn âm thầm luyện. Hôm nay mi đừng trách ta.

    Lý phi cười nhạt:

    - Có ai ngu như hậu không nhỉ? Con mình đẻ đứt ruột ra, bị người ta cướp đi mất, rồi dùng võ công khống chế, nhục nhằn, mà cứ cúi đầu chịu cả đời ư ? Con dun đạp mãi cái đầu cũng quằn. Trước tôi phải theo gương Hàn Tín, chịu nhục cho con mình vinh hiển, an ninh. Nhưng không lẽ chịu suốt đời? Vì vậy tội vẫn âm thầm luyện võ để chờ ngày hôm nay. Thái-hậu ơi! Nghĩ cho cùng, hoàng nhi chỉ là con thứ sáu của tiên đế. May nhờ Thái-hậu bắt làm con mà được lên ngôi vua. Công Thái-hậu phò tá hoàng nhi bấy lâu, nay tôi nào không biết. Bây giờ Thái-hậu lui về cung đi, tôi hứa sẽ giữ nguyên danh dự cho Thái- hậu.

    Lưu hậu tức quá, không chịu được, vung chưởng tấn công. Chưởng phong của bà có mùi hôi tanh khủng khiếp. Lý phi ung dung trả đòn. Cứ mỗi chiêu Lưu hậu đánh ra, bà lại lui một bước. Tự-Mai mừng thầm, vì Lý phi đã xử dụng thành thạo phản Chu-sa chưởng pháp nó truyền cho bà. Trong khi nhà vua không hiểu, cho rằng Lý phi bị kém thế. Nhà vua hỏi Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp có cách nào can hai vị ra không? Lý phi nguy đến nơi rồi.

    Quan sát trận đấu, Tự-Mai thấy công lực Lưu hậu mạnh ơn Lý phi. Nhưng vì Lý phi xử dụng phản Chu-sa độc chưởng, nên Lưu hậu không thắng được bà, Nó an ủi nhà vua:

    - Hoàng thượng đừng lo. Tôi hứa không để Lưu hậu hại Lý phi đâu.

    Trong khi đó Lưu hậu tiếp tục phóng chưởng đánh Lý phi. Lý phi thủy chung không trả đòn. Bà ung dung phát chưởng đỡ. Cứ sau mỗi chưởng bà lui lại một bước. Lưu hậu cười:

    - Lý phi. Mi trúng của ta trước sau mấy chục Chu-sa ngũ độc chưởng, mi chết đến nơi rồi.

    --------------------------------
    1 Sử chép vua Tống Nhân-Tông (Thiên-Thánh) là một minh quân cực nhân từ, thương yêu dân như con đỏ. Trong thời gian đầu mới lên ngôi (1018-1027) nhà vua còn niên thiếu, Lưu thái hậu buông rèm thính chính, nắm mọi quyền hành. Bà chủ trương mở rộng Nam-thùy, nên trọng dụng bọn hiếu chiến. Khi nhà vua nắm thực quyền, ông cách chức từ tể tướng trở xuống đến bọn quan Nam-trấn hơn ba trăm người, rồi thực thi chính sách ôn hòa với các nước lân bang. Cho nên trong triều không có gian thần, ngoài biên không chiến tranh, dân chúng sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Dân Tống sung sướng chỉ thua dân Việt dưới triều Thuận-Thiên. Nhưng các sử gia đời sau không biết tính nhân từ đó của nhà vua do đâu mà có. Chỉ độc giả Anh-linh thần võ tộc Việt biết mà thôi.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ TÁM
    Nhớ ơn chín chữ cao sâu

    Lý phi hứ một tiếng:

    - Thái-hậu sao chưa tỉnh ngộ? Phàm khi người ta trúng Chu-sa độc chưởng, chỉ một chiêu đã đau đớn thấu tim gan rồi. Có đâu tới mấy chục chưởng?

    Từ lúc phóng chưởng tấn công Lý phi, Lưu hậu cảm thấy như có gì không ổn, mà bà tìm không ra. Trước kia công lực Lý phi thấp hơn bà. Từ khi bà khống chế phi rồi, thì bỏ không tích cực luyện nữa, nên công lực không tiến, không giảm. Trong khi đó Lý phi âm thầm luyện, nên nay công lực không kém gì bà. Thế nhưng Lý phi chỉ đỡ, mà không phản công là tại sao? Cứ sau mỗi chiêu, tay bà cảm thấy nặng nề, chân khí mất đi một chút.

    Thình lình Lưu thái-hậu lui lại, quay một vòng, rồi xuất một Hồi-phong cước đánh vào ngực Lý phi. Lý phi trầm người xuống cho chân Thái-hậu qua đầu, sau đó thuận thế đẩy tay vào bàn chân bà. Lưu hậu đánh hụt, dư lực làm bà choáng váng, lại thêm lực Lý phi, nên người bà quay tròn. Bà vội nhảy vọt lên cao, lộn một vòng, đáp xuống như con đại bàng, tay chụp lên đầu Lý phi.

    Tự-Mai nhận ra đó là chiêu Loa thành nguyệt chiếu của phái Mê-linh. Võ công Mê-linh xuất từ phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam. Võ công Cửu-chân khắc chế với võ công Trung-nguyên. Mà võ công Lý phi do võ công Trung-nguyên cổ truyền lại. Nếu Lý phi đỡ chiêu đó thì nguy hiểm vô cùng. Nó định la lên, nhưng không kịp.

    Bình một tiếng, Lý phi cảm thấy trời long đất lở, bà lảo đảo lui lại. Lưu hậu không bỏ lỡ dịp, bà xuất chiêu Loa-địa song thu, tay trái vòng như vòng cầu, tay phải đánh từ trên xuống. Hai lực đạo ập vào người Lý phi. Lý phi nào biết trời cao đất dầy là gì, bà lùi hai bước, tay phải đỡ tay trái, tay trái đẩy ngược lên hóa giải kình lực Lưu hậu. Bốn lực đạo gặp nhau, binh một tiếng, Lý phi bật lui ba bốn bước, đầu óc choáng váng.

    Lưu hậu cười gằn:

    - Hôm nay cho con tiện nhân nát thây.

    Tay phải bà quay tròn, tay trái đẩy về trước, đó là chiêu võ công ác độc nhất của phái Mê-linh tên Hải-triều lãng lãng lớp thứ nhất. Lý phi phát chiêu chưởng Nga-mi đẩy vào hông Lưu hậu. Tự-Mai biết mình chậm trễ thì e Lý phi tan xương nát thịt mà chết. Nó nhặt viên sỏi búng đến véo một tiếng, trúng huyệt Khúc-trì tay trái Lưu hậu. Lập tức tay bà bị tê liệt, kình lực phát không ra. Trong khi chưởng của Lý phi ập tới.

    Lưu hậu tưởng kết liễu tính mệnh đối thủ, nào ngờ tự nhiên tay trái đau nhói một cái, kình lực bế tắc. Bà kinh hãi vội nhảy vọt lên cao tránh thế chưởng của Lý phi.

    Lý phi nghe tiếng viên sỏi bay qua tai mình trúng tay Lưu hậu, thì biết rằng Tự-Mai đã hiện diện, ra tay cứu bà. Tinh thần bà phấn chấn lên, bà buông tiếng cười nhạt:

    - Thái-hậu. Thái-hậu đánh tôi bẩy mươi hai chưởng. Bây giờ tôi xin trả lại ba chưởng. Nếu sau ba chưởng mà Thái-hậu không bại, tôi xin chịu thua Thái-hậu. Thái-hậu muốn băm vằm, mổ xẻ sao tùy ý.

    Nói rồi bà hít hơi nói:

    - Chưởng thứ nhất này.

    Bà phát một chưởng cực mạnh, gió lộng ào ào. Bình một tiếng, Lưu hậu cảm thấy như trời long đất lở, bà bật lui liền ba bước.

    Lý phi để cho bà hít một hơi, chân khí bình hòa, rồi nói:

    - Chiêu thứ nhì, thứ ba này.

    Bà phát hai chiêu nữa, Lưu hậu nghiến răng đỡ, bình một tiếng, bà lảo đảo bật lui liền ba bước, cơ hồ đứng không vững. Lý phi hắng rặng một tiếng:

    - Thái hậu đánh tôi bẩy mươi hai độc chưởng, tại sao tôi không việc gì? Tôi nói cho Thái-hậu biết cũng không sao. Cứ mỗi chiêu đỡ, tôi lại đẩy những gì Thái-hậu đánh tôi trở về cơ thể Thái-hậu mà thôi.

    Lưu hậu cảm thấy chân khí muốn tuyệt, thình lình bà bật lên tiếng ái. Toàn thân bà đau đớn giống như hồi bị Tự-Mai đánh. Bà vội nghiến răng hướng Ngọc-thanh chiếu ứng cảnh linh cung dùng khinh công vọt mình tới. Nhưng thấp thoáng, Lý phi đã chặn trước bà. Hai người đụng vào nhau đến binh một tiếng. Lưu hậu loạng choạng ngã ngồi xuống, người run bần bật:

    - Ái, đau quá, giết ta đi.

    Lý phi nhắc bổng Lưu hậu đem vào phòng, để ngồi ngay ngắn xuống ghế hỏi:

    - Trước đây Thái-hậu xuất thân từ phái Hoa-sơn. Hoa-sơn là danh môn chính phái. Ai cũng tưởng chỉ vì Thái-hậu thích uy quyền, học Chu-sa độc chưởng, mà theo Đặng Đại-Bằng phản sư môn đi vào đường tà. Nhưng không phải thế! Suốt bao năm qua, Thái-hậu dùng dư đảng bang Nhật-hồ khống chế triều thần nắm quyền bính. Riêng tôi còn biết rõ hơn: Thái-hậu là con của hai nhân vật uy quyền bậc nhất Hồng-thiết giáo Đại-Việt.

    - Ai cho người tin đó?

    - Thái hậu chưa biết việc Nhật-Hồ lão nhân bị một thiếu niên đả bại. Y lên làm giáo chủ, vì vậy bao nhiêu điều cơ mật trong Hồng-thiết giáo y được báo cáo hết. Y trao tin tức đó cho Khu-mật viện Đại-Việt biết. Khu-mật Đại-Việt sai người sang báo cho tôi biết.

    Bà cười nhạt:

    - Thái-hậu nắm quyền mặc Thái-hậu. Song Thái-hậu làm cho tình mẹ con của tôi bị ngăn cách. Trên thế gian, không tội nào lớn hơn. Đường mà Thái-hậu đi toàn tà khí. Gieo gió thì gặt bão, vay nợ thì phải trả. Nay Thái-hậu tính sao đây?

    Thái-hậu tuy đau đớn, nhưng vẫn quật cường:

    - Đường tà là thế nào? Ta hỏi ngươi, ta đã làm gì tổn hại cho họ Triệu không? Ta đã thấy bọn hủ Nho nguyền rủa Võ hậu, rồi nguyền rủa đàn bà nắm quyền. Ta phải chứng minh cho hậu thế biết rằng đàn bà cai trị dân còn hơn đàn ông. Thời Võ hậu nắm quyền, bà tàn sát tôn thất nhà Đường. Còn ta, ta làm ngược lại. Ta rất thân ái với các công chúa, trọng dụng các thân vương. Hừ!

    Bà ngước mắt nhìn lên nóc nhà:

    - Ước vọng của ta giản dị thôi: Sau khi dùng binh lực Tống chiếm Đại-Việt, Đại-lý rồi thì nào Xiêm, nào Chiêm, nào Chân ta chỉ truyền hịch là bình định. Bấy giờ ta sẽ lên ngôi giáo chủ Hồng-thiết giáo. Ta sẽ hợp với Tây-dương giáo chủ, biến gầm trời này thành Thiên-hạ Hồng-thiết.

    Nghe Lưu hậu nói, nhà vua với Tự-Mai đều rùng mình về mưu đồ của bọn Hồng-thiết giáo.

    Bà ngừng lại run rẩy mấy cái rồi tiếp:

    - Võ hậu dâm tà, cướp ngôi rồi đổi tên triều đại. Ta không thế, một lòng thờ tiên đế, hết tâm hết dạ phù trợ hoàng nhi. Người có thấy không? Hơn mười năm qua, ta làm cho nước giầu dân mạnh. Mấy tên cẩu Nho khuyên ta lên ngôi vua, ta đã đầy chúng đi hết rồi.

    Bà hừ một tiếng:

    - Ta hỏi người, nếu ta không dùng dư đảng bang Nhật-hồ làm sao có thể khiến cho bọn hủ Nho chịu khuất phục?

    Lý phi hỏi:

    - Thái hậu khống chế ta bằng Chu-sa độc chưởng, bắt hai con ta làm con mình. Làm cho mẹ xa con, như vậy còn tội nào nặng hơn nữa?

    - Hai trẻ là con ai, cho đến giờ này không thể bàn đến nữa. Ta hỏi người: Ai đã dạy ngươi phương pháp phản Chu-sa ngũ độc chưởng này? Thì ra thích khách đấu chưởng với ta hôm trước cùng đảng với người. Y là ai?

    - Y là cháu của tôi.

    - Ta không tin. Hôm nay ta bại dưới tay mi là do tự nhiên tay trái bị tê. Ta không phục. Mi khống chế ta, làm ta đau đớn, nhưng ta nhất định không khuất phục. Mi muốn giết ta thì cứ xuống tay đi. Ta về đây.

    Lý thái phi cười nhạt:

    - Như vậy, chỉ nội đêm nay Thái-hậu băng hà mà thôi. Thái-hậu ơi, tôi muốn đền đáp công ơn Thái-hậu bảo trọng hoàng nhi, nên không muốn Thái-hậu chết.

    - Người muốn thế nào?

    Thái-phi để tay lên huyệt Bách-hội Thái-hậu vuốt một cái. Thái-hậu rùng mình rồi đau đớn từ từ giảm. Lý thái-phi ghé tai bà nói nhỏ một hồi lâu. Thái-hậu gật đầu liên tiếp. Thái phi đứng dậy:

    - Thôi kính thỉnh thái hậu về. Chúng ta cứ thế mà làm.

    Lưu thái-hậu run rẩy ra về.

    Lưu thái-hậu ra về rồi, Lý phi cười hì một tiếng:

    - Hoàng nhi, điệt nhi, ra đây mau.

    Nhà vua cùng Tự-Mai vội rời chỗ núp chạy ra. Lý phi vòng tay ôm lấy nhà vua, tay kia bà dắt Tự-Mai vào phòng. Bà nâng cằm nhà vua dậy, tay sẽ tát vào má, trong khi nước mắt bà chan hòa:

    - Hoàng nhi, mười tám năm qua, ta sống trong đau đớn nhục nhằn, để chờ có ngày hôm nay.

    Bà bẹo má Tự-Mai:

    - Hảo điệt nhi, người hay lắm. Nếu người không búng sỏi cứu ta, e giờ này ta không còn tại thế, mà sự nghiệp nghìn năm của Đại-Tống cũng mất theo.

    Tự-Mai biết mẹ con nhà vua trùng phùng, ắt có nhiều truyện muốn nói với nhau. Nó lẻn ra ngoài tuần phòng quanh cung Ôn-đức, vì sợ Lưu hậu có phản ứng gì không. Nó nghĩ thầm:

    - Hôm trước Thuận-Tường nói, nàng ở cung Ôn-đức. Tại sao mình không đi tìm Thuận-Tường nhỉ?

    Tò mò, nó tới phía ngoài một căn phòng có ánh đèn, định chọc thủng giấy đòm vào. Có tiếng thị vệ hỏi:

    - Người là ai, mà dám đến chỗ cấm địa này?

    Rồi một thanh đao chĩa ngay vào cổ nó. Kinh hoàng, nó chìa hai ngón tay cặp cứng thanh đao. Viên thị vệ vận sức giật ra, nhưng thanh đao như cắm sâu vào tường. Tự-Mai vung tay một cái, thanh đao gẫy làm năm sáu mảnh. Viên thị vệ phóng chân đá vào bụng Tự-Mai. Tự-Mai búng tay điểm vào huyệt Dương-lăng-tuyền. Lập tức viên thị vệ ngã lăn xuống đất. Y la lớn:

    - Có gian tế.

    Hoảng kinh, Tự-Mai vội điểm vào huyệt Á-môn của y. Viên thị vệ bị cấm khẩu ngay, nhưng đâu đó vang lên tiếng thanh la báo động. Tự-Mai vội đẩy cửa sổ căn nhà trước mặt. Nó chuồn vào trong như chiếc lá rụng, rồi khép cửa lại. Trong phòng, ánh sáng lờ mờ, nhưng nó cũng nhận ra đó là phòng tắm. Một thiếu nữ đang nằm trong bể nước nóng, khói bốc lên nghi ngút, thoang thoảng mùi thơm.

    Tự-Mai định lùi trở ra. Trong khi thiếu nữ kinh hãi mở to mắt nhìn nó, nàng kinh hoàng đến chết trân. Biết rằng chậm trễ, thiếu nữ sẽ hét lên, thì nguy tai. Tự-Mai xẹt tới phóng chỉ điểm vào huyệt Hạ-quan của nàng. Thiếu nữ vừa mở miệng ra, thì bị phong tỏa, không ngậm lại được nữa. Nàng dùng cùi trỏ thúc vào ngực Tự-Mai. Nó cúi đầu xuống, khòm lưng lại, thành ra cùi trỏ tuy trúng, mà rất nhẹ nhàng.

    Thiếu nữ co chân lên một gối. Tự-Mai vận công chịu đòn. Bình một tiếng, nó cảm thấy ngực đau đớn. Thuận tay nó điểm vào huyệt Phong-thị thiếu nữ. Nàng lảo đảo ngã xuống. Trong đầu óc nó nghĩ thực nhanh:

    - Chết thực, phải làm sao bây giờ?

    Nghĩ vậy nó chụp chiếc khăn lớn bọc lấy thân thể thiếu nữ rồi đặt nàng lên dường. Bấy giờ nó mới có thời giờ nhìn mặt thiếu nữ. Bất giác nó ngẩn người ra, chân tay không cử động được nữa.

    Nguyên nàng là Thuận-Tường.

    Thuận-Tường cũng đã nhận ra nó, nàng chớp mắt lia lịa, không biết ngụ ý muốn nói gì. Nó biết mình có lỗi, ghé tại Thuận-Tường nói nhỏ:

    - Ngu huynh đi tìm muội muội, bị thị vệ phát giác, nên nhảy đại vào. Trong phòng đầy khói nước, vì vậy huynh không nhận ra muội muội.

    Nước mắt Thuận-Tường từ chảy ra tuôn trên má.

    Tự-Mai vô cùng hối hận. Trong lòng nó bồn chồn không tả. Nó nói:

    - Tường muội đừng giận ngu huynh nhé.

    Thuận-Tường vẫn khóc. Tính ngang tàng nổi dậy, Tự-Mai nghĩ:

    - Mình giải khai huyệt đạo cho nàng. Bất quá nàng la lên, mình bị chết chém còn hơn để nàng giận.

    Nó vuốt tay một cái, chân tay Thuận-Tường cử động được. Nàng vung tay tát nó hai cái. Nó không tránh, cũng không vận công chống trả. Thuận-Tường bật lên tiếng khóc.

    Bên ngoài vọng vào tiếng hỏi:

    - Khải tấu công chúa, có gian tế đột nhập. Không biết ngọc thể công chúa ra sao?

    Thuận-Tường chỉ gầm dường, ý bảo Tự-Mai chui vào. Không suy nghĩ, nó lạng người ẩn thân dưới gầm dường. Thuận-Tường nói vọng ra:

    - Công chúa ngủ rồi, các người giải tán đi.

    Bước chân đám thị vệ xa dần. Thuận-Tường mặc quần áo, rồi ngồi trên chiếc ghế bọc nhung. Nàng lên tiếng:

    - Tên to gan lớn mật làm càn đâu, ra đây mau.

    Tự-Mai chui ra, nó thấy Thuận-Tường khóc. Biết không thể một vài câu mà chuộc được lỗi, nó vội quỳ xuống, ôm lấy hai chân nàng:

    - Huynh nhớ Tường muội qúa, nên đánh bạo đi tìm, không ngờ... không ngờ bị thị vệ khám phá ra.

    Thuận-Tường hắt hai tay nó ra:

    - Đứng dậy đi. Người có biết đây là tẩm cung của công chúa không? Ta... ta hầu công chúa nên ở chỗ này. Cũng may công chúa ngủ rồi. Bằng không đại ca với muội bị chết chém hết.

    Tự-Mai đứng dậy. Thuận-Tường đổi giận làm vui hỏi:

    - Đại ca đến đây từ bao giờ? Làm sao qua được màng lưới thị vệ mà vào được ? Nhất định phải có người dẫn tới. Người đó là ai?

    - Là hoàng thượng.

    - Hoàng thượng?

    - Đúng vậy.

    Nó thuật sơ lược cuộc thám thính nhà vua, cùng những gì đã diễn ra ở điện Tập-hiền, cuối cùng là cuộc đấu chưởng của Lý thái-phi với Thái-hậu. Thuận-Tường chăm chú nghe, nàng hỏi lại vài chi tiết, rồi nói với nó:

    - Đại ca nên rời khỏi đây ngay hầu bảo vệ hoàng thượng. Đại ca nhớ nhé: Phải cố ứng tuyển phò mã. Khi điện thí, đại ca xin Hoàng-thượng gả muội cho. Như vậy chúng ta mới có thể đoàn tụ. Thôi đại ca đi đi. Đại ca ở đây, thị vệ khám phá ra, thì cả hai chúng ta cùng cụt đầu.

    - Huynh mà ra bây giờ, e bị thị vệ giết chết.

    - Ngốc ơi là ngốc. Hôm trước Thái-phi có cho đại ca thẻ bài, chứng nhận là thái giám cung Ôn-đức. Thì bây giờ đại ca mang ra, rồi đường đường chính chính di chuyển, hỏi ai dám làm khó dễ?

    Tự-Mai tỉnh ngộ, nó sờ tay vào túi, thẻ bài còn nguyên. Nó nắm lấy tay Thuận-Tường:

    - Muội muội ở lại.

    Thuận-Tường nói vọng ra:

    - Thái giám Mai-Tự mau sang hầu Thái-phi ngay.

    Tự-Mai lên tiếng:

    - Tuân chỉ.

    Nó ra khỏi phòng. Thuận-Tường đóng cửa lại. Tự-Mai đến phòng Lý phi khoanh tay đứng ở ngoài. Một thị vệ cầm đao dí vào cổ nó:

    - Người đi đâu? Ai cho người đến đây?

    - Ta theo hầu hoàng thượng.

    Một cung nữ dơ đèn vào mặt nó, viên thị vệ thấy nó lạ mặt, định hỏi, thì nhà vua nói vọng ra:

    - Mai-Tự đâu. Vào đây ngay.

    Tự-Mai méo mặt trêu tên thị vệ với cung nữ, rồi bước vào trong.

    Lý phi nói:

    - Mọi chuyện coi như xong. Ta muốn giữ kín sự trong cung. Bây giờ điệt nhi nên tìm cách trị bệnh cho Thái-hậu. Ta không ngờ Lưu hậu dám làm lộng đến thế. Nếu điệt nhi chậm trễ mấy hôm nữa thì bà với bọn Hồg-thiết Đại-Việt mưu thí Hoàng-thượng. May sao Thái-sư với Khai-Quốc vương đã khám phá ra. Ta ngồi im nhìn Thái-hậu xử dụng bọn Tào Lợi-Dụng cùng bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản dẫy chết. Khu-mật viện do Định-vương cùng Yến Thù trực tiếp rồi. Bọn Tào không làm gì được đâu. Về Ngự-lâm quân, quan điện tiền chỉ huy sứ Trần Trung-Đạo chỉ huy. Trong nội cung này, thị vệ đã do Vương Văn thống lĩnh, an ninh của ta được bảo đảm.

    Lý phi xoa đầu Tự-Mai:

    - Hài điệt nhi, người hay lắm. Ta hứa việc Thuận-Tường sẽ tốt đẹp. Hồi nãy người làm quấy, bị Thuận-Tường đánh mấy bợp tai có đau lắm không? Thôi người cùng Hoàng-thượng đi đi.

    Tự-Mai kinh hãi, không hiểu sao Lý phi biết nó bị Thuận-Tường tát tai. Nó lưỡng lự định hỏi. Bà cười:

    - Điệt nhi! Người đừng ngạc nhiên tại sao ta biết. Có khó gì đâu? Trong nội cung này không ai đủ bản lĩnh tát trúng người hai cái. Mà nếu có đủ bản lĩnh tát trúng người, thì ắt võ công phải cao thâm lắm. Đã cao thâm mà tát người, thì người còn sống được chăng? Ta thấy má người đỏ lên, in vết ngón tay, tỏ ra người không vận công, không tránh né. Trên đời này chỉ mình Thuận-Tường mới khiến người thích được tát mà thôi.

    Nói rồi bà mỉm cười tỏ ra tha thứ.

    Nhà vua bảo Tự-Mai:

    - Từ đây đến Ngọc-thanh Chiếu-ứng Cảnh-linh cung không xa. Chúng ta đi thôi.

    Nhà vua cùng Tự-Mai rời khỏi cung Ôn-đức, hướng Ngọc-thanh cung. Còn cách xa hơn năm mươi trượng, bên ngoài có lần cổng. Viên thị vệ canh gác hỏi:

    - Ai đó?

    Tự-Mai lên tiếng:

    - Hoàng-thượng giá lâm.

    Viên thị vệ kinh hoảng vội mở cổng, quỳ gối tiếp giá.

    Tự-Mai hô:

    - Miễn lễ.

    Trong cung đèn, nến sáng trưng. Tự-Mai hô:

    - Hoàng thượng giá lâm thỉnh an thái hậu.

    Hai người vào trong, đám cung nga, thái giám đồng loạt quỳ gối. Thái-hậu nằm trong màn người run run, dường như đau đớn lắm. Nhà vua vẫy Tự-Mai lui ra ngoài. Nghĩ lại tình cảm Lưu hậu dành cho mình bấy lâu không khác mẹ đẻ, nhà vua nắm tay Thái-hậu:

    - Thần nhi nghe mẫu hậu bất an, nên thỉnh một danh y tới trị bệnh cho mẫu hậu?

    Thái-hậu thở dài:

    - Vô ích! Thái-y đều bó tay rồi. Vả ta bị trúng độc chưởng của gian nhân, y sĩ thường trị không nổi đâu. Trừ khi thỉnh được Hồng-Sơn đại phu bên Giao-chỉ, mới hy vọng.

    - Tâu mẫu hậu, danh y này là con gái Hồng-Sơn đại phu, hiện là vương phi của Định-vương.

    Thái-hậu ngồi nhỏm dậy:

    - Hoàng nhi cho thỉnh Lê thị đến ngay đi.

    - Thần nhi đã ban chỉ rồi, Lê phi sắp tới.

    Lát sau, có mấy thái giám, cung nữ cầm đèn lồng đi trước, Lê Thiếu-Mai đi sau. Tự-Mai sợ Thiếu-Mai nhận ra nó. Nó lui lại chỗ tối đứng. Một thái giám hô:

    - Lê Thiếu-Mai bái kiến Thái-hậu, Hoàng-thượng.

    - Thỉnh Lê vương-phi vào.

    Lưu thái-hậu đưa mắt nhìn Thiếu-Mai. Bà từng tiếp xúc với hàng triệu người, nên chỉ liếc qua, nhìn tướng đi, bà đã biết Thiếu-Mai còn đồng trinh. Bà chỉ ghế:

    - Mời tiểu thư ngồi. Hà, tiểu thư còn nhỏ tuổi, mà võ công đã cao đến trình độ này rồi, thực hiếm có. Nghe hoàng nhi tâu y thuật tiểu thư cao minh lắm. Vậy tiểu thư hãy trị bệnh cho ta.

    Thiếu-Mai kính cẩn:

    - Đa tạ Thái-hậu quá khen.

    Lê Thiếu-Mai tiến tới cầm hai tay Thái-hậu bắt mạch. Nàng cau mặt tỏ vẻ đăm chiêu, rồi thở dài:

    - Xin thái hậu cho cung nga, thái giám lui, thần mới dám tâu trình.

    Nhà vua đưa mắt một cái, đám cung nga thái giám lui ra hết. Lê Thiếu-Mai tâu:

    - Thần thấy mạch Thái-hậu hồng đại. Hồng-đại thuộc thực nhiệt. Thế nhưng cứ mười tiếng lại chen vào sáu tiếng hư nhược. Như vậy bệnh Thái-hậu không phải bệnh thường. Nguyên Thái-hậu luyện nội công chính đại quang minh phái Hoa-sơn. Sau lại luyện Chu-sa ngũ-độc chưởng. Thành ra trong người Thái-hậu, nội lực chính, tà công phá lẫn nhau. Đêm thuộc âm, thuộc tà. Cho nên khi đêm xuống, âm khí thịnh, tà khí mạnh trấn nhiếp tâm thần, nên Thái-hậu hay có ý nghĩ ác. Dương thuộc ngày, thuộc chính khí. Nên ban ngày, dương khí thắng, trấn tà khí, nên những gì Thái-hậu nghĩ đều cao minh không thể tưởng tượng nổi.

    - Giỏi.

    - Thần bạo gan khuyên Thái-hậu không nên lo chính sự về đêm, mà chỉ lo ban ngày mới thuận lý.

    - Ta sẽ nghe lời tiểu thư.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Chưa chắc sự thực như Thiếu-Mai nói. Ta nghi chính anh cả tính trước rằng Thiếu-Mai sẽ trị bệnh cho bà, nên dặn Thiếu-Mai nói như vậy, hầu đêm đêm Hoàng-đế có dịp tiếp xúc với đại thần, với ta.

    Thiếu-Mai tiếp:

    - Cách nay mấy tháng, Thái-hậu đối chưởng với một võ lâm cao thủ. Nội lực y cao thâm hơn Thái-hậu, nên khi Thái-hậu vận độc chưởng đánh y. Y đẩy chất độc ngược lại. Vì vậy Thái-hậu bị đau đớn hai tay hơn tháng, rồi bây giờ chất độc chạy vào đại-trường, tiểu trường, thành ra mỗi đêm vào giờ Tý, Thái-hậu bị lên cơn hơn giờ, đau đớn như đứt ruột ra.

    Khi bắt mạch Lưu thái hậu, Lê Thiếu-Mai biết bà đã đối chưởng với người của phái Đông-a. Nàng thấy nội lực người này thấp hơn Thiên-trường ngũ kiệt với Thông-Mai, Thanh-Mai. Thoáng một cái biết ngay là Tự-Mai, nàng muốn mượn dịp này gây chút cảm tình giữa Lưu hậu với Tự-Mai, nên tiếp:

    - Người đối chưởng với Thái-hậu còn rất trẻ. Dường như mười bẩy, mười tám mà thôi. Rõ ràng y không muốn hại Thái-hậu, bằng không e Thái-hậu nguy rồi.

    - Thực là thần y.

    Thiếu-Mai tiếp:

    - Vừa rồi Thái-hậu lại đối chưởng với đại cao thủ phái Nga-mi. Công lực người này thấp hơn Thái-hậu nhiều. Không hiểu sao tự nhiên chân khí Thái-hậu bị tắc nghẽn. Nên đối thủ đẩy độc chất trở về người Thái-hậu. Thái-hậu tưởng mình trúng Chu-sa độc chưởng, rồi uống thuốc giải, khiến thuốc công hãm, nên Thái-hậu đau đớn đến đứt ruột ra được.

    - Lê tiểu thư biết bệnh ta, vậy có thể trị được không?

    - Tâu Thái-hậu thần xin cố gắng. Thỉnh Thái-hậu nằm trên ngự sàng. Thần dùng châm cứu trị mới được.

    Thái-hậu nằm trên dường. Thiếu-Mai cúi xuống kéo xiêm áo bà lên, lộ ra làn da bụng trắng mịn, trơn nhẵn, không một vết răn như bụng con gái. Nàng cầm kim, châm vào huyệt Thiên-khu, Đại-hoành, Quan-nguyên, Trung-uyển. Rồi xoay kim.

    Nàng lại vén xiêm lên, châm vào huyệt Túc-tam-lý, Thượng-cự-hư, Hạ-cự-hư, Tam-âm-giao, rồi xoay kim.

    Nàng xoay kim một lúc, Thái-hậu ợ lên mấy tiếng, bao nhiêu cái đau đớn từ từ tan biến đi mất. Thiếu-Mai nói:

    - Tâu Thái-hậu, hiện chất độc tan ra khắp cơ thể. Đêm nay Thái-hậu cảm thấy ớn lạnh, rồi mồ hôi vã ra như tắm, hôi hám cùng cực. Mai thần trị một lần nữa, coi như khỏi.

    Thái-hậu ngạc nhiên:

    - Ta có một điều thắc mắc, những huyệt mà tiểu thư châm trên người ta, thái-y cũng đã châm. Tại sao tiểu thư châm ta thấy hết đau liền, còn thái-y châm lại vô hiệu?

    - Tâu Thái-hậu, vì công lực Thái-hậu cao thâm, mà thái-y không luyện võ, sao có thể dùng chân khí đả thông kinh mạch hầu Thái-hậu!

    - Ta hiểu rồi. Này Lê cô nương. Cô nương thuộc giòng dõi vua Lê bên Giao-chỉ. Thân phụ cô nương trị bệnh hàng vạn, hàng triệu người, ân đức trải khắp nơi. Cô nương được hưởng cái đức đó. Ta muốn phong cô nương làm Định-vương vương phi. Cô nương nghĩ sao?

    Dù võ công cao, dù y thuật thần thông, Thiếu-Mai cũng là thiếu nữ. Nghe Thái-hậu nói, nàng cúi đầu làm thinh. Thái-hậu cười:

    - Ta hiểu rồi, có lẽ tiểu thư chưa được lệnh của đại phu, nên không dám trả lời. Tiểu thư đừng ngại. Ta sẽ cử sứ sang thưa với đại phu sau.

    Được hai khắc, Thiếu-Mai rút kim ra. Thái-hậu ngồi dậy.

    Trong khi Thái-hậu, Thiếu-Mai đối đáp, nhà vua chú ý nhìn rất rõ bụng Thái-hậu. Trong lòng nhà vua nổi lên cơn bão táp:

    - Ta thực không xứng đáng bằng loài quạ. Loài quạ khi biết bay, lập tức kiếm mồi mớm lại mẹ trong ba tháng để tỏ lòng hiếu. Còn ta, thân làm Hoàng-đế, ngồi cao ban phúc giáng họa cho người mà, mẹ ngay trước mắt không biết. Đã vậy còn đầy mẹ ra coi lăng miếu... Mọi việc đều do Thái-hậu cả. Ôi bấy lâu nay mẹ ta đau đớn biết bao!

    Chợt nhà vua nghĩ lại:

    - Ta chỉ là con trai thứ sáu của phụ hoàng. Nếu như ta không được Lưu hậu cướp làm con, thì ngôi vua đâu đến tay ta? Còn việc Thái-hậu lâm triều, ngay từ khi phụ hoàng còn tại thế, Thái-hậu đã cầm quyền rồi kia mà? Khi ta lên ngôi vua mới mười ba tuổi. Nếu không có Thái-hậu xử lý việc nước, liệu giang sơn còn được như ngày nay không?

    Nghĩ vậy lòng nhà vua lại nhũn ra.

    Thái-hậu phán:

    - Hoàng nhi hồi cung thôi. Lê tiểu thư ở lại đây làm bạn với ta. Ta phải có người bạn gái vong niên như Lê tiểu thư ở cạnh tâm tình cho vui.

    Bà nắm tay Thiếu-Mai:

    - Trong các hoàng tử của vua Thái-Tông, Định-vương là người tài trí, đức hạnh nhất. Vua Thái-Tông định nhường ngôi cho vương, mà vương từ chối. Vương là sư phụ của hoàng nhi, thương yêu hoàng nhi còn hơn ta nữa. Ta với Lê tiểu thư thành chị em dâu, cùng lo phù trì cho hoàng nhi thì hay biết mấy.

    Lời nói của Thái-hậu, làm cho nhà vua mềm lòng:

    - Thái-hậu chỉ vì thích quyền hành mà áp chế sinh mẫu ta. Còn đối với ta như mẹ đẻ. Ta không thể trở mặt với người.

    Nhà vua vùng Tự-Mai rời Ngọc-thanh cung trở về Tập-hiền viện. Tự-Mai hỏi nhà vua:

    - Bệ hạ tin lời tôi chưa?

    - Tin! Ta sẽ hết sức làm tròn lời hứa. Nhưng người thử nghĩ xem, ta phải có thái độ nào với Thái-hậu.

    Nhớ lại lời Định-vương dặn, Tự-Mai cười:

    - Việc triều đình, việc hậu cung, kiến thức tôi không bằng bệ hạ. Kiến thức bệ hạ lại càng không bằng một người. Người đó thương yêu bệ hạ hơn con đẻ, xin bệ hạ thỉnh người thì hay hơn.

    - À, người muốn nói Thái-sư chăng?

    - Đúng thế! Tôi hứa, phía Đại-Việt sẽ diệt hết mầm mống bọn bang Nhật-hồ trong cung, cùng tay chân Lưu hậu dùm bệ hạ.

    Về tới Tập-hiền viện, nhà vua nắm tay Tự-Mai:

    - Thiếu hiệp! Trẫm ở trong cung, suốt ngày chỉ thấy thái giám, cung nga, phi tần, thực không khác gì ngồi tù. Lâm triều, thì Thái-hậu cùng mấy lão già phe đảng quyết định hết. Trẫm không có lấy một người bạn. Phải chi trẫm có người bạn như thiếu hiệp, mới thực sung sướng. Thiếu hiệp có nhiều bạn cùng lứa tuổi không?

    Tự-Mai thấy thương hại nhà vua:

    - Tôi có rất nhiều bạn, nhưng thân với nhau nhất chỉ có năm đứa.

    - Chắc năm vị được đặt cho cái tên Ngũ-hổ tướng mới xứng.

    Tự-Mai bật cười:

    - Không! Làm gì có tên đẹp như vậy! Người ta đặt cho chúng tôi nhiều tên khác nhau. Chị gái tôi gọi là Năm thằng giặc trời. Còn chị Mỹ-Linh gọi chúng tôi là Năm ông Thiên-lôi. Mấy quan Tống ở Nam-thùy gọi là Năm ông phá trời.

    Nói rồi nó kể hết tình hình đùa bỡn với nhau trong năm anh em. Nhà vua thở dài:

    - Ước gì trẫm có năm người bạn như vậy.

    Tự-Mai chợt động tâm cơ:

    - Mình đi sứ mục đích để kết hiếu. Tại sao ta không kết hiếu với ông vua này?

    Nó nắm tay nhà vua:

    - Hán-Việt vốn cùng một tổ. Chỉ vì những ông vua ác độc muốn xâm chiếm tộc Việt, mới tạo Hán-Việt thành thế thù nghịch. Nếu bệ hạ giữ lời hứa với tôi, năm đứa chúng tôi luôn ở cạnh bệ hạ.

    Nhà vua cảm động:

    - Trẫm muốn kết bạn với thiếu hiệp, không biết thiếu hiệp nghĩ sao?

    - Phải làm bạn với ông vua, tôi thấy chán ngấy. Nhưng được làm bạn với người ngày quên ăn, đêm quên ngủ, chỉ lo cho dân như bệ hạ, làm tôi sung sướng vô cùng.

    - Vậy hai chúng ta kết bạn ngay đêm nay.

    - Tạo sao lại không?

    Nhà vua gọi thái giám lấy hương. Hai người đốt hương, ngửa mặt lên trời khấn:

    - Xin Quốc-tổ Phục-Hy, Thần-Nông, thái cô Nữ-Oa chứng kiến. Chúng con là Triệu Nguyên-Trinh mười tám tuổi, cùng Trần Tự-Mai, mười bẩy tuổi, nguyệt kết làm anh em, có phúc cùng hưởng, có họa cùng chịu. Nếu ai sai lời, chết dưới muôn nghìn đao thương.

    Thề xong, Tự-Mai hướng nhà vua lạy một lạy:

    - Đại ca.

    Nhà vua chắp tay đáp lễ:

    - Nhị đệ.

    Nhà vua hỏi Tự-Mai:

    -- Nhị đệ cho trẫm biết về thân thế nhị đệ đi.

    Thế rồi Tự-Mai tường thuật tỷ mỉ thân thế mình, cùng những gian nan trên đường đi sứ. Nó bỏ qua, không thuật việc trêu hai lão Tôn, Lê, vu oan cho Sử, Khiếu cùng việc nó tìm Thuận-Tường.

    Nhà vua lấy một thẻ bài, cầm bút viết lên mấy chữ trao cho Tự-Mai:

    Người cầm lệnh bài này tên Trần Tự-Mai, nghĩa đệ của trẫm. Bách quan văn võ từ tể-tướng trở xuống, thấy người như thấy trẫm. Phải tuyệt đối kính trọng.

    Nhà vua nói:

    - Với thẻ bài này, nghĩa đệ tự do ra vào mọi nơi trong cấm cung, không ai có quyền hạch hỏi.

    Bấy giờ đã sang canh ba. Hai người trải qua những suy tư, những triết luận, nên cả hai cùng buồn ngủ. Nhà vua nhớ lại Tự-Mai kể truyện nó với các bạn thường ôm nhau ngủ trong rừng, ông đề nghị:

    - Đêm nay nhị đệ nghỉ tại đây với trẫm, nên chăng?

    - Ừ, chúng ta ngủ với nhau tha hồ mà nói truyện.

    Nhà vua cùng Tự-Mai dẫn nhau về tẩm-cung. Mấy thái giám, cung nữ đồng quỳ gối vấn an. Họ thấy nhà vua nắm tay một thái giám lạ mặt đi vào, đều dương mắt lên nhìn. Nhà vua ra hiệu cho chúng bình thân. Một thái giám cung kính:

    - Không biết đêm nay bệ hạ tuyên chỉ cho cung-nga nào hầu hạ?

    Nhà vua lắc đầu:

    - Trẫm muốn yên tĩnh. Các người đi nghỉ thôi.

    Hoàng đế Tống bao giờ cũng có một hoàng-hậu, và khoảng từ một tới hai mươi bà phi. Mỗi bà đều có cung riêng với thái giám cung nữ hầu hạ. Ngoài ra nhà vua còn có hằng trăm cung nga, tùy theo nhan sắc, tài ba được phong chức Tu-dung, Dung-nghi, Tu-nghi, Mỹ-nữ v.v. gọi chung là phi tần. Những người này cũng là vợ vua, nhưng theo hầu hoàng hậu cùng các vị phi. Đôi khi họ được nhà vua sủng ái, cấp cho cung điện riêng. Mỗi khi nhà vua sủng ái hoàng hậu, hoặc phi, thì tới thẳng cung điện của họ. Còn nhà vua muốn gần các phi-tần không có cung riêng, thì cho thái giám tuyên triệu đến tẩm cung của mình.

    Hai người dắt nhau vào tẩm cung. Tự-Mai đã được thấy giường nằm của Khai-Quốc vương cùng những đại thần triều Lý. Nhưng đây là lần đầu tiên nó thấy một phòng ngủ rực rỡ như thế này. Trên chiếc giường sơn son, thiếp vàng, chạm trổ ngọc ngà sáng rực. Nệm, chăn dầy thoang thoảng mùi thơm. Nhưng vì mệt qúa nó không có thời giờ quan sát thêm. Nó cởi dầy, cùng nhà vua leo lên giường ôm nhau nằm ngủ.

    Nó nói với nhà vua:

    - Đại ca này, hôm nay đại ca trải qua những suy tư rất mệt tâm thần. Để đệ điểm vào mấy huyệt cho đại ca ngủ ngon.

    Không đợi nhà vua có đồng ý hay không, Tự-Mai điểm vào huyệt Thần-môn, Nội-quan, Phong-trì của nhà vua. Quả nhiên nhà vua ngáp một cái, mắt chĩu xuống:

    - Nhị đệ có võ công gì kỳ diệu vậy? Nhị đệ dạy ta được không?

    - Được chứ.

    Đến đó cả hai nhập vào giấc ngủ.

    Tự-Mai giật mình vì có tiếng động sẽ ngoài cửa, rồi có tiếng gõ cửa ba lần nhỏ, ba lần lớn. Nó nhận ra đó là ký hiệu của Khu-mật viện Đại-Việt. Nó ngồi nhỏm dậy, có tiếng Mỹ-Linh dùng lăng không truyền ngữ hỏi:

    - Tự-Mai! Thức dậy chưa? Ngủ sướng nhé, quên mất bà chị chờ mỏi mắt ngoài vườn hoa quỳnh lạnh thấu xương. Có ra đây ngay không?

    Tự-Mai sẽ mở cửa, nó thấy hai thái giám, một cung nữ ứng hầu ngủ gật trên ghế, biết Mỹ-Linh đã điểm huyệt chúng. Mỹ-Linh vẫy nó ra ngoài bụi hoa:

    - Sự thể ra sao?

    - Tốt đẹp vô cùng.

    Nó thuật lại mọi chi tiết. Mỹ-Linh nói:

    - Chị Bảo-Hòa truyền lệnh ngày mai em phải dụ nhà vua trốn ra ngoài kinh thành chơi, và nhớ làm như thế... như thế... Làm được không?

    - Được chứ.

    Mỹ-Linh tung người đi. Tự-Mai lại trở về, nó chui vào chăn ngủ tiếp.

    Sáng hôm sau, Tự-Mai tỉnh giấc trước. Nó ngồi dậy, làm nhà vua cũng thức giấc. Nó hỏi:

    - Hôm nay đại ca có thiết triều không?

    - Không.

    Cung nga dâng nước nóng súc miệng. Một thái giám dâng trà, cùng bánh điểm tâm. Tự-Mai đã được ăn uống không thiếu của ngon vật lạ, nhưng thức điểm tâm của Tống-đế nó chưa ăn bao giờ cả. Lạ miệng, lại đói, nó ăn hết ba điã bánh. Hai người vừa ăn vừa nói truyện.

    Tự-Mai đề nghị:

    - Đại ca này. Việc quan trọng là phải giải Chu-sa ngũ độc chưởng cho đại ca. Đại ca cùng đệ ra ngoài thành gặp Thân Thiệu-Thái. Thiệu-Thái sẽ giải độc chưởng cho đại ca. Vậy đại ca mặc giả làm dân chúng. Mình dạo chơi kinh thành một chuyến cho biết mùi. Chứ sống trong hoàng cung không khác cá chậu chim lồng.

    Nhà vua chợt thấy rằng: Mình sinh ở đế đô, nhưng chỉ luẩn quẩn trong cấm thành, chưa một lần dạo chơi Biện-kinh bao giờ cả. Đúng như Tự-Mai ví với cá chậu, chim lồng.

    - Ừ nhỉ, chúng ta đi chơi ngay sáng nay được không?

    - Được chứ! Tại sao không? Bây giờ đại ca lấy quần áo thái giám mặc, rồi chúng ta đi chơi.

    Nhà vua gọi một thái giám vào truyền lệnh:

    - Người mang cho ta một bộ quần áo của người, cùng thẻ bài, mũ, dầy.

    Tên thái giám đứng hầu, đã nghe hết truyện của nhà vua với Tự-Mai hôm qua, nên y không ngạc nhiên. Y lui trở ra, một lúc đem vào đủ: Quần, áo, mũ, khăn choàng cổ, áo lạnh, thẻ bài. Y cùng Tự-Mai giúp nhà vua thay quần áo. Phút chốc nhà vua trở thành một thái giám đẹp trai. Nhà vua cầm kính soi, nhìn hình mình, ông bật cười:

    - Trẫm cũng không nhận ra mình thì người khác khó mà biết trẫm là ai.

    Nhà vua cầm thẻ bài lên xem, thấy đề tên: Lê Luyện, mười chín tuổi, thuộc Ngự-thư phòng. Ông truyền lệnh cho Lê Luyện:

    - Người phải ứng trực tại đây. Ai tìm trẫm phải nói rằng trẫm với một tân cung nữ nghỉ ở tẩm-cung. Người mà tiết lộ truyện này ra ngoài, trẫm sẽ cắt lưỡi.

    Lê Luyện biết thể lệ ở nội cung: Khi vua cùng một cung nữ nhập tẩm-thất, dù hoàng thái hậu cũng không được vào. Y cúi đầu:

    - Thần xin thủ kín miệng bình.

    Nhà vua cầm bút viết vào tờ giấy in hình con rồng vàng chầu nguyệt mấy chữ:

    Truyền chỉ cho thái giám Lê-Luyện, Mai-Tự xuất thành khẩn cấp.

    Hai người hướng cửa Nam đi ra. Bấy giờ sang giờ Mão. Hai người tới cửa Thuần-dương cấm thành, một thị vệ hỏi:

    - Hai vị công công đi đâu đây?

    Tự-Mai trình lệnh của nhà vua. Viên thị vệ kính cẩn lui lại. Hai người qua hoàng thành, rồi tới kinh thành. Đám phu xe thấy hai thái giám trẻ từ trong hoàng thành đi ra, chúng đon đả chào:

    - Mời hai công công đi xe.

    Tự-Mai vẫy một xe song mã:

    - Người đưa ta về khách điếm Nam-phong.

    - Xin công công cho ba chục đồng.

    - Được rồi.

    Nhà vua hỏi:

    - Mình đi đâu đây?

    - Đại ca về chỗ trọ của em. Chúng mình thay y phục thường dạo chơi mới thú. Chứ làm thái giám thế này chán ngấy.

    Xe lăn bánh trên đường phố.

    Thiên-Thánh hoàng đế ( Sau này, khi qua đời được truy hiệu là Nhân-Tông) sinh trưởng ở đế đô, mà chưa bao giờ được ngao du hoàng thành. Suốt từ thời thơ ấu, nhà vua chỉ được rời cấm thành có hai lần. Lần đầu đưa linh cữu phụ hoàng đến sơn lăng, và một lần trong ngày lễ đăng cực. Cả hai ngày, đều đi giữa đám thị vệ tiền hô hậu ủng, dân chúng đứng nghẹt hai bên đường xem mặt nhà vua. Vì vậy đâu biết gì về đời sống dân chúng.

    Bây giờ nhà vua ngồi xe ngựa chạy trên phố phường. Bất cứ cái gì đối với nhà vua cũng đều lạ hết. Tự-Mai tuy mới đến Biện-kinh, nhưng mấy tháng qua, nó cùng các bạn suốt ngày dạo chơi, nên thông thuộc mọi ngõ ngách. Nó luôn chỉ cửa hiệu này, gian hàng nọ giảng giải cho nhà vua.

    Lát sau xe tiến vào khu Bồng-lai của lữ điếm Nam-phong. Nó dặn nhà vua:

    - Đại ca! Lát nữa gặp anh rể, chị gái, và các bạn kết nghĩa của đệ. Đệ sẽ giới thiệu đại ca là Nho-sinh Lê Luyện mà đệ mới kết thân.

    Nhà vua nghe Tự-Mai nói, ông nghĩ thầm:

    - Khó đấy! Mình kết bạn với Tự-Mai, lát nữa đây gặp chị, anh rể y, không lẽ mình lại hành lễ trước? Mình đường đường là Thiên-tử, trong khi Lý Long-Bồ chỉ là một thái-tử của tiểu quốc?

    Nhà vua nghĩ lại:

    - Mình kết thân với nhị đệ, rồi lại ước mong kết thân với người Việt. Họ hứa giúp mình trong vụ đối phó với đám Nhật-hồ của Thái-hậu. Như vậy có nghĩa mình đi cầu hiền tài như vua Thành-Thang cầu Y-Doãn. Vua Văn cầu ông Khương. Hậu chúa cầu Gia-cát. Mình càng nhún nhường, càng được sĩ dân thiên hạ tôn phục. Không sao!

    Hai người vượt cầu vào đảo Bồng-lai. Lê Văn trông thấy Tự-Mai, nó reo lên:

    - Anh đi đâu suốt từ qua đến giờ làm bọn này tìm muốn chết. Tại sao lại mặc quần áo thái giám thế này?

    - Ta mới được hoàng đế tuyển làm tân thái giám.

    Lê Văn rút trong bọc ra con dao sáng loáng:

    - À, làm thái giám phải cắt cái đó đi. Để em xẻo. Cam đoan đứt ngon.

    Nó làm bộ định cắt. Tự-Mai chỉ nhà vua:

    - Ta mới kết bạn với anh Lê Luyện này.

    Lê Văn cười lớn:

    - Chắc cũng thái giám giả?

    - Không! Thái giám thực.

    Lê Văn phát một chưởng hướng bụng nhà vua, rồi nó để tay lên mũi:

    - Xạo! Nói dối không xem ngày. Em phát chưởng, thấy của qúy còn nguyên, đâu phải thái giám.

    Nhà vua kinh ngạc nghĩ thầm:

    - Ta tưởng Tự-Mai đã là thiếu niên tài ba có một không hai. Nào ngờ chú bé này coi bộ không kém Tự-Mai. Các thái y của ta khi khám thái giám phải thay quần ra mới quyết được. Trong khi y chỉ phất tay một cái đã biết rõ.

    Tự-Mai nói:

    - Ta với anh Lê Luyện giả làm thái giám dạo chơi trong cung cấm xem vườn thượng uyển thỏa thích.

    Lê Văn suýt xoa:

    - Thế mà không rủ em đi.

    Nó nhìn nhà vua:

    - Ôi cùng họ Lê với nhau, mà sao anh Luyện đẹp thế này. Ừ, anh ấy đẹp hơn tất cả bọn mình.

    Nhà vua hỏi:

    - Ta làm sao mà đẹp hơn Văn đệ.

    Lê Văn phân giải:

    - Em nói đẹp là đẹp tướng. Em công nhận, mặt em với Tự-Mai đẹp hơn Lê đại ca. Nhưng tướng Lê đại ca đẹp hơn bọn em. Trong tướng mệnh, đại ca xú mạo, nhưng mỹ tướng. Còn bọn em mỹ mạo mà xú tướng.

    - Tướng ta mỹ ở chỗ nào?

    Lê Văn cười:

    - Lê đại ca muốn xem tướng ư? Phải đặt quẻ thầy mới nói.

    Suốt đời, nhà vua chỉ tiếp xúc với quan thái phó dạy văn, cùng cung nga thái giám, lúc vào họ cũng dập đầu lạy, cho đến nay lần đầu tiên mới được vui đùa cùng Tự-Mai, Lê Văn. Nhà vua sờ tay vào túi: Không vàng, chẳng bạc. Bí qúa nhà vua nói:

    - Cho nợ được không?

    Lê Văn nghe tiếng Bảo-Hòa đâu đó dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:

    - Ông này là Thiên-Thánh hoàng đế đấy. Chị nói sao, em nhắc lại như vậy. Em ra giá như chị dặn. Nào nhắc lại.

    Lê Văn cung kính:

    - Được. Bây giờ thế này: Đại ca là nhà Nho tất văn hay chữ tốt. Em đoán trúng một câu, đại ca phải làm tặng em một bài thơ hay bài từ. Được không?

    - Được chứ.

    Nó mời nhà vua vào phòng, truyền pha trà đãi khách.


  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM LẺ 9
    Trăm năm chữ tòng

    Tiếng Bảo-Hòa vẫn nhắc Lê Văn. Nó nhìn nhà vua rồi nói:

    - Mắt của đại ca là mắt rồng, mũi lân, miệng sư tử. Tướng đi ngay, mắt nhìn thẳng. Ôi! Thực đệ chưa từng thấy ai có quý tướng như vậy.

    - Liệu ta thi tiến sĩ có đậu không?

    - Không! Đại ca không thể là tiến sĩ, vì thi không bao giờ đậu, nhưng văn mô, vũ lược đến bậc thầy tiến sĩ cũng không bằng. Đại ca sinh trong gia đình cực kỳ phú quý. Nhưng vừa sinh ra đã gặp bất hạnh, phải ly cách một trong hai thân.

    Nhà vua gật đầu:

    - Giỏi.

    - Đại ca có mẹ nuôi. Mẹ là người học ít, mà thành công lại nhiều. Chính nhờ người này, mà đại ca có công danh sự nghiệp vượt hơn anh em mình.

    - Giỏi.

    - Đại ca được đến sáu anh em. Người nào cũng có sự nghiệp hiển hách, nhưng không thể nào bằng đại ca.

    - Đúng qúa.

    - Đại ca là người nhân từ, bình dị ít thấy trên đời.

    Cứ thế Lê Văn đoán trúng ba mươi sáu câu. Nhà vua hỏi:

    - Văn đệ nói ta sắp gặp biến cố lớn trong đời. Biến cố đó tốt hay xấu?

    Lê Văn nháy mắt cười:

    - Vấn đề này cực kỳ quan trọng. Đệ xin đoán, nếu trúng, sau này đại ca phải làm cho đệ một việc.

    Nhà vua nhớ lại vụ bán núi của tổ tiên xưa, nên cẩn thận hơn:

    - Việc gì, Văn đệ phải nói trước, xem ta có đủ sức không đã?

    - Dễ lắm, nếu bọn đệ dự thi, trường hợp có thể, đại ca gà cho bọn đệ trúng tuyển. Thế thôi.

    Nhà vua quên mất mình đang giả làm Nho-sinh, ông nghĩ thầm:

    - Thằng bé này định thi tiến sĩ chắc? Tài của nó cho đến ba lần trạng nguyên cũng đáng. Ta nên hứa.

    Nhà vua dơ tay:

    - Ta hứa giúp.

    Lê Văn nói nhỏ vào tai nhà vua:

    - Từ trước đến giờ đại ca như cọp trong chuồng, voi trong cũi, phượng hoàng trong lồng. Chỉ nay mai thôi, có quý nhân phương xa tới sẽ phá cũi xổ lồng. Đại ca gặp mọi sự như sở cầu.

    Nhà vua nắm tay Lê Văn:

    - Ta sẽ tặng Văn đệ ba mươi sáu bài thơ.

    Mỹ-Linh từ trong chạy ra, nàng kéo tai Tự-Mai:

    - Em giả thái giám vào cấm thành chơi đấy à?

    - Giả mà thực.

    Mỹ-Linh cốc lên đầu Tự-Mai:

    - Giả hay thực không thể giống nhau. Em đừng quên rằng mình đi sứ để kết hiếu. Kết hiếu mà làm truyện phi pháp sau lưng hoàng đế Tống, như vậy là vô phép, là thiếu tự trọng.

    Tự-Mai lè lưỡi trêu Mỹ-Linh:

    - Đúng là ngôn từ của công chúa, cha mẹ dân.

    Nó chắp tay:

    - Tấu lạy công chúa điện hạ. Hạ thần thấy Thiên-tử Tống lâm nguy, phải giả thái giám cứu người. Sau đó được Thiên-Thánh hoàng đế ban thưởng bằng cách cho phép mặc quần áo thái giám, rồi dắt đi khắp cấm thành.

    - Thực không?

    - Nếu em nói dối thì không đáng làm em bà chị xinh đẹp nữa. Em nói cho chị mừng, Hoàng-đế còn rót sâm thang thưởng cho em uống.

    Nó chỉ nhà vua:

    - Có anh Lê Luyện làm chứng. Anh là Nho-gia chính tông, anh không nói dối đâu.

    Mỹ-Linh thấy nhà vua, hỏi:

    - Ai đây?

    - Anh bạn mới của em tên Lê Luyện. Anh là nhà Nho.

    Mỹ-Linh cúi chào:

    - Kính chào Lê công tử. Mời công tử vào chơi.

    Nhà vua thấy Mỹ-Linh, trong lòng nảy ra mối cảm hoài:

    - Cứ như Tự-Mai nói, cô này là Lý Mỹ-Linh, được phong công chúa Bình-Dương đây. Gái Việt đẹp thực. Trong hậu cung mình làm gì có người như thế này. Những lời nàng trách Tự-Mai, tỏ ra Đại-Việt có thiện chí kết hiếu với Tống bằng tất cả chân tình. Hà! Một cô gái, cháu nội Lý Công-Uẩn mà tư cách đã như thế này, thì đủ biết y đạo đức biết chừng nào! Tự-Mai nói đúng. Bọn biên thần của mình tâu láo hết.

    Nhà vua nắm tay Tự-Mai:

    - Công chúa yên tâm. Chính mắt tôi hấy Thiên-tử dắt tay nhị đệ dạo chơi khắp cấm thành. Người còn lưu nhị đệ ngủ tại tẩm cung nữa.

    Mỹ-Linh dặn Tự-Mai:

    - Em nhớ nhé, tuy Thiên-tử kết huynh đệ với em, nhưng vẫn phải giữ lễ. Em đừng quên Định-vương Nguyên-Nghiễm là sư phụ, là chú thiên tử, mà người vẫn giữ lễ như quần thần.

    Tự-Mai biết câu này Mỹ-Linh dặn thực. Nó tỉnh ngộ:

    - Dĩ nhiên trước mặt mọi người em cũng phải giữ lễ như thường. Còn trường hợp hai người với nhau không lẽ ???

    - Đạo lý Hán, Việt rất trọng trung nghĩa. Em kết thân với Thiên-tử tức là mang nhiều trọng trách lắm. Một là trọng trách của bậc tôi đối với vua. Hai là trọng trách người em đối với nghĩa huynh.

    - Em sẽ noi gương Quan Vân-Trường đời Tam-quốc.

    Mỹ-Linh vuốt tóc nó:

    - Ít ra phải như vậy.

    Mỹ-Linh hỏi Tự-Mai:

    - Em cứu giá trong trường hợp nào?

    - Em không thể nói ra được. Khi nào Hoàng-đế cho phép, em mới dám nói.

    Lê Văn vào nhà lấy ra tấm lụa, nó mài mực, để bút trước mặt nhà vua:

    - Đại ca là nhà Nho, chữ viết hẳn đẹp lắm, xin thứ cho thầy tướng ba mươi sáu bài thơ đi.

    Nhà vua cầm bút thoăn thoắt đưa lên tấm lụa, phút chốc đủ ba mươi sáu bài. Mỹ-Linh nhìn ba mươi sáu bài thơ nhà vua chép vào lụa; nàng thấy cả ba mươi sáu bài đều tình ý đậm đà, nhưng toát ra nỗi cô đơn của tuổi niên thiếu. Nàng nói:

    - Lê đại ca là nhà Nho, mà tình cảm lại trầm hùng, đâu kém gì Ngụy Võ-Đế thời Tam-quốc?

    Thiệu-Thái, Thuận-Tông, Thiện-Lãm cùng ra. Tự-Mai đi một vòng giới thiệu. Thấy vắng mặt Khai-Quốc vương, Thanh-Mai, Thông-Mai, Bảo-Hòa nó hỏi Tôn Đản:

    - Ông kẹ Thông-Mai với hai bà chằng đâu rồi?

    Tôn Đản chỉ vào trong nhà:

    - Anh cả với chị Thanh ở trong đó. Còn anh Thông-Mai với chị Bảo-Hòa có bao giờ cho chúng mình thấy mặt đâu? Hai ông bà ấy như chim vậy.

    Nó nói với Thiệu-Thái:

    - Ông ỉn ơi. Người này là nghĩa huynh của em, nhân từ nhất thiên hạ. Không may bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng. Xin ông ỉn trị cho anh ấy với.

    Thiệu-Thái xòe tay ra:

    - Trị cũng được, nhưng em phải trả tiền cho thầy lang chứ? Cứu một mạng người chứ có ít đâu?

    Tự-Mai thấy từ xưa đến giờ bất cứ nó với Lê Văn nói gì Thiệu-Thái cũng chiều theo. Tự nhiên lần này chàng lại lý sự đòi tiền, thì chắc Bảo-Hòa xui đây. Nó hậm hực hỏi:

    - Thầy lang đòi bao nhiêu tiền?

    - Ta trị bệnh vẫn có lệ chia làm hai loại người. Có loại người anh phải năn nỉ để xin trị cho. Có loại người trả bao nhiêu tiền anh cũng không trị.

    - Nói rõ hơn một chút đi ông ỉn!

    - Loại ác đức, không những anh không trị, mà còn truyền độc chất vào người cho chết luôn. Còn loại chính nhân quân tử thì anh xin trị không lấy tiền.

    Tự-Mai chỉ nhà vua:

    - Lê đại ca của em là nhà Nho, dĩ nhiên là chính nhân quân tử rồi còn gì nữa.

    Thiệu-Thái lắc đầu:

    - Nho có Nho quân tử, Nho tiểu nhân. Khi anh sang Tống, đi đâu cũng thấy dân chúng, võ lâm, nhân sĩ ca tụng Thiên-Thánh hoàng đế là một nhân quân. Trong triều có những bậc quân tử như Trương Sĩ-Tổn, Lý Điệt, Vương Tùy, Lý Ty, Vương Đức-Dụng, Phạm Trọng-Yêm, Yến Thù. Ngược lại họ chửi bọn khuyển Nho như Lã Di-Giản, Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực.

    Nghe Thiệu-Thái nói, Tự-Mai biết muôn ngàn lần ông ỉn không thể có ngôn từ đó. Nó đoán chắc là Bảo-Hòa mớm cho. Những người mà Thiệu-Thái nói là quân tử chắc thuộc phe thân Đại-Việt. Còn bọn mà chàng bảo là tiểu nhân chắc thuộc phe chủ Nam xâm.

    Nhà vua tò mò:

    - Vì lý do gì họ thống mạ sáu người ấy là khuyển Nho?

    - Họ nói: Khuyển Nho còn khá. Bọn chúng đều phạm tội khi quân cực kỳ gia trọng. Nhưng Hoàng-đế vô quyền nên chưa thể tru lục chúng.

    Nhà vua kinh ngạc:

    - Họ nói chúng khi quân ra sao?

    - Chúng a tùng với Lưu thái-hậu, đưa nhà vua vào đường đại bất hiếu. Chúng biết nhà vua không xuất từ Lưu thái-hậu, mà xuất từ Lý phi. Thế nhưng chúng ngậm tăm, hùa theo Thái-hậu, soạn chiếu để Hoàng-đế phong Lý phi làm Thuận-dung đầy ra coi lăng tiên đế. Ôi, trong lịch sử cổ kim chưa có ông vua nào lại đầy mẹ như vậy. Hết hạn lưu đầy, chúng đem bà về cung Ôn-đức hầu hạ công chúa Huệ-Nhu. Như vậy còn trời đất nào nữa không?

    Tự-Mai biết Bảo-Hòa ở quanh đây đang dùng lăng không truyền ngữ nhắc Thiệu-Thái, chứ muôn ngàn lần ông ỉn cũng không nói được những lời đó. Thấy mặt nhà vua tái đi, trong lòng nó khoan khoái:

    - Chị Bảo-Hòa hay thực, sai ta đem nhà vua ra đây, rồi dùng lối khích ông. Có như thế mới hạ được bọn chủ chiến. Đã vậy ta phải đổ dầu thêm vào mới đựợc:

    - Chắc vì bọn khuyển Nho này sợ Thái-hậu, hoặc giả chúng bị khống chế bằng Chu-sa độc chưởng nên mới phải a tòng chăng?

    Mỹ-Linh bẹo tai Tự-Mai:

    - Nói thế mà cũng nói. Phàm làm nhà Nho, là kẻ sĩ, phải lấy chính đạo, lòng trung phò tá quân phụ. Chị đọc Xuân-Thu thấy nói nhiều kẻ sĩ nhìn chúa bị nhục, biết rằng nói ra sẽ chết, mà dám khẳng khái đối địch với giặc. Em chẳng nghe quan thái sử Giản nước Tề, quan thái sử Đổng-Hồ nước Tấn, khi cường quyền kề gươm vào cổ bắt chép sai lịch sử. Hai ông cứ chép sự thực rồi thung dung chịu chết đó sao? Đây bọn này đẩy chúa vào đường vô đạo, bất hiếu, tội ấy phải tru di tam tộc.

    Tự-Mai văng tục:

    - Con bà nó, bọn này ăn cơm chúa, mặc áo chúa, mà đưa chúa vào đường bất hiếu, bất nghĩa. Anh cả cấm bọn mình không được xử dụng võ công trên đất Tống, nhưng em không thể tuân lệnh trong vụ này. Em phải bắt tụi nó đánh cho nát thây, cạo đầu bôi vôi, rồi bắt đeo bảng mang chữ Khuyển Nho dong khắp phố cho thiên hạ xem mới được.

    Lê Văn reo:

    - Cho em đi với. Bọn mình làm vậy nhất định Thiên-Thánh hoàng đế khoan khoái lắm.

    Mỹ-Linh lắc đầu:

    - Nhưng Hoàng-đế lại không biết sự thực. Hai em làm vậy e người nổi lôi đình lên thì nguy.

    Tự-Mai đang cầm chung trà trong tay, giận qúa, nó bóp mạnh, bốp một tiếng, chung vỡ nát. Nó vo thành bột rồi tung lên cao:

    - Em cứ làm. Dù nghĩa huynh Hoàng-đế có phải vì quốc pháp chặt đầu em, em vẫn làm. Trước khi bị chém, em cười thỏa mãn mà không giận hờn chi hết.

    Nhà vua nói với Tự-Mai:

    - Nhị đệ. Theo ta nghĩ nếu như nhị đệ làm điều đó, không chừng nghĩa huynh Hoàng-đế còn ban thưởng cho nhị đệ nữa. Khai-Quốc vương cấm nhị đệ xử dụng võ trên đất Tống do lòng tôn trọng Tống mà ra. Khi nhị đệ làm truyện đó, thì nhị đệ không còn nhân danh sứ đoàn, mà nhân danh nghĩa đệ Hoàng-đế. Ai dám trách nhị đệ. Vả lại sử cũng ghi một gương tương tự.

    Mỹ-Linh cười:

    - Lê huynh nói đúng đó. Thời Tam-quốc, Tiên-chúa truyền cắt ba quận thuộc Kinh-châu trả cho Ngô. Khi sứ Ngô đến nhận đất, Quan Vân-Trường không trao, ông lý luận: Đất trong thiên hạ là của nhà Hán. Huynh trưởng ta là hoàng thúc, khởi binh trung hưng Hán thất, trao cho ta trấn Kinh-châu, mà ta cắt cho Ngô, thì ra ta trao đất cho giặc ư? Rồi ông đuổi sứ đi.

    Nhà vua nhìn Mỹ-Linh, trong lòng khâm phục:

    - Cô công chúa này kiến thức không tầm thường. Hèn chi Đại-Việt muốn đòi lại cố thổ Lĩnh-Nam.

    Thiệu-Thái vái nhà vua:

    - Mời Lê đại ca ngồi im, giống như người ngủ. Nếu có thấy khó chịu, cũng đừng vận công chống lại, để tôi trị bệnh cho.

    - Thân huynh vẫn chưa nói rõ ta phải trả bao nhiêu tiền mà?

    - Chỉ cần mấy câu nói của Lê huynh, đệ biết Lê huynh là chính nhân quân tử.

    Thiệu-Thái để tay lên huyệt Bách-hội nhà vua, dồn chân khí sang. Nhà vua rùng mình một cái, rồi mồ hôi toát ra như tắm. Mùi hôi thối bốc ra khủng khiếp. Khoảng ăn xong bữa cơm, Thiệu-Thái thu công lại. Tự-Mai nói:

    - Đại ca đứng dậy thôi. Độc chất thúc ra khỏi cơ thể đại ca rồi.

    Nhà vua hướng Thiệu-Thái:

    - Đa tạ Thân huynh, nguyện sẽ có ngày báo đáp.

    Tự-Mai nói với Tôn Đản:

    - Anh Đản cho Lê đại ca mượn bộ quần áo, rồi chúng ta đại náo Biện-kinh một ngày cho thỏa thích. Ngày mai phải ứng tuyển phò mã rồi.

    Nhà vua hỏi:

    - Trong sứ đoàn Đại-Việt có mấy người ứng tuyển phò mã?

    Mỹ-Linh chỉ Tôn Đản, Lê Văn:

    - Hai cậu này với Tự-Mai là ba. Công tử có phải ứng viên phò mã không?

    - Không. Vì võ công tôi thấp lắm. Tuy văn thì dư thừa.

    Lê Văn nói nhỏ:

    - Tôi đâu có muốn làm phò mã? Tôi bị bố bắt buộc đấy chứ. Khi đấu võ, tôi sẽ giả thua để bị đánh trượt. Anh Đản cũng thế. Anh ấy có Ngô Cẩm-Thi rồi. Cuối cùng chỉ còn Tự-Mai thôi. Mà coi bộ Tự-Mai cũng không muốn làm phò mã. Anh ấy đang si tình một cung nữ.

    Nhà vua hỏi:

    - Cung nữ Đại-Việt hay Tống?

    Mỹ-Linh đáp thay em:

    - Cung nữ Tống triều. Chứ nếu cung nữ Đại-Việt tôi đã tâu ông nội gả cho y rồi. Ông nội tôi là con nuôi một vị Bồ-tát, là đệ tử một Bồ-tát mà.

    Nhà vua tò mò:

    - Công chúa! Tôi nghe nói Hoàng-đế Đại-Việt hai lần kén khắp nước mới được hai giai nhân cho Khai-Quốc vương. Vương tuy say mê hai nàng, nhưng nghe hai nàng nói có ý trung nhân, vương cho tiền bạc để hai nàng về với tình quân. Hơn nữa tình quân của hai nàng là hai người lăm le khởi loạn chống triều Lý. Có đúng thế không?

    Mỹ-Linh nhoẻn một nụ cười, ánh mắt nàng sáng long lanh:

    - Kiến thức Lê huynh rộng lắm nhỉ. Quả chú tôi có làm việc đó.

    - Khai-Quốc vương thực rộng lượng. Nhưng khi vương làm truyện đó, thì phạm trọng tội đối với phụ hoàng. Lý hoàng-đế không nói gì ư?

    - Lúc mới nghe truyện, ông tôi định đem chú hai ra chặt đầu. Hoặc phế làm thứ dân. Nào ngờ ý trung nhân của hai giai nhân kia sau khi nghe các nàng thuật lại lý do được trả về... Hai vị ấy cảm động, bỏ ý định chống triều đình. Hơn nữa còn trở thành hai trợ thủ đắc lực.

    Nhà vua suýt xoa:

    - Chỉ mất có hai người đẹp, mà tránh đổ biết bao nhiêu máu. Hỡi ơi! Vua Lý cũng như Khai-Quốc vương thực là những người tài trí nhất thiên hạ. Trẫm... à tôi nghĩ Thiên-Thánh hoàng đế cũng không bằng vậy.

    Mỹ-Linh chắp tay:

    - Đa tạ Lê huynh quá khen.

    Nhà vua nói với Lê Văn:

    - Lê công tử! Ta coi tướng của công tử, biết công tử thế nào cũng thành công trong việc ứng tuyển phò mã này.

    - Nhưng tôi không muốn làm phò mã Tống.

    - Sao vậy? Làm phò mã cao sang cực điểm, lầu son, gác tía. Hơn nữa công chúa Huệ-Nhu vừa xinh đẹp, vừa ôn nhu văn nhã.

    - Tôi biết vậy. Nhưng bọn tôi ba đứa, mà chỉ có một công chúa thôi. Tôi nhường cho Tôn Đản, Tự-Mai. Vì tôi đã có một công chúa khác rồi.

    - Công chúa Đại-Việt chăng? Nàng tên gì?

    - Không! Công chúa Thái. Nàng tên An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt.

    Nhà vua hỏi Tự-Mai:

    - Nhị đệ. Em si tình cô cung nữ nào vậy? Nhị đệ gặp nàng bao giờ?

    Tự-Mai xấu hổ:

    - Em gặp nàng hồi nàng chưa bị tuyển cung.

    - Nàng tên gì? Hiện thuộc cung nào? Ty nào?

    Trong lòng Tự-Mai nảy ra tia sáng:

    - Tại sao ta không nói với đại ca gả Thuận-Tường cho ta? Việc gì ta phải tranh dành khổ sở? Lỡ ra hôm ấy Thái-hậu gả cho ta người khác thì hỏng bét.

    Nó đáp nho nhỏ:

    - Nàng tên Thuận-Tường. Dường như thuộc cung Ôn-đức phục thị Lý thần-phi.

    - Cung Ôn-đức à? Cung Ôn-đức của công chúa Huệ-Nhu. Hồi tiên đế còn tại thế Lý phi chỉ là cung nữ thôi. Vì Lý phi là nhũ mẫu công chúa Huệ-Nhu, nên ở cùng.

    Nói đến Lý phi long tâm cảm thấy đau nhói một cái. Nhà vua hỏi:

    - Nhị đệ. Ta nhớ trong cung Ôn-đức không có cung nữ nào tên Thuận-Tường cả. Ta e nhị đệ nhớ lầm đấy.

    Lê Văn cãi dùm Tự-Mai:

    - Lê đại ca ơi, tên người yêu làm sao mà nhớ lầm được. Chính đệ cũng gặp nàng. Mọi người đều gọi nàng là Thuận-Tường mà.

    Nhà vua chau mày:

    - Nhị đệ có thể kể cho ta nghe chi tiết về cuộc gặp gỡ với nàng chăng?

    Tự-Mai chưa kịp đáp, Lê Văn đã thuật vắn tắt việc phái Hoa-sơn sang Đại-Việt cùng trận đánh Tản-lĩnh cho nhà vua nghe. Nhà vua hỏi:

    - Em có chắc Thuận-Tường là học trò Bắc-sơn lão nhân không?

    Tự-Mai gật đầu:

    - Đúng vậy. Nàng gọi ông bằng sư phụ.

    Mặt nhà vua biến sang mầu hồng, cười mà không phải cười:

    - Ta biết nàng là ai rồi. Nhị đệ ơi! Nhị đệ có thương yêu nàng thì phải hết sức trong cuộc tranh đua này. Lúc đầu nàng chỉ là cung nữ. Sau khi tuyển cung, vì thấy nhan sắc diễm tuyệt, võ công cao, văn chương quán thế, Thái-hậu nhận nàng làm con nuôi. Nàng chính là một trong mười tám giai nhân sẽ gả cho các ứng sinh đấy. Ta nói cho nhị đệ biết, có ít nhất ba người cũng xin ứng tuyển phò mã vì muốn được kết hôn với nàng, chứ không phải muốn làm phò mã.

    - Những ai thế?

    - Triệu Tiết, Khúc Chẩn.

    Tự-Mai cười:

    - Hai tên đó em thừa sức thắng. Còn người thứ ba?

    - Y chính là trạng nguyên Địch Thanh.

    - Ái chà!

    - Nhị đệ đã đấu với Địch Thanh rồi à?

    - Chưa, nhưng đã thấy y đấu với một trưởng lão Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Gay nhỉ. Nhưng nếu đại ca giúp em thì mười Địch Thanh em cũng không sợ. Đại ca hứa không?

    Nhà vua cầm tay Tự-Mai:

    - Ta hứa. Nhị đệ yên tâm. Nào bây giờ chúng ta đi chơi.

    Tôn Đản chỉ ra ngoài:

    - Hôm nay anh cả cho chúng mình tự do đi chơi. Nào, chúng mình năm đứa, thêm anh Lê Luyện nữa là sáu. Chúng mình tiếu ngạo Biện-kinh nào.

    Tự-Mai, nhà vua vào trong nhà thay quần áo. Sáu người lên một chiếc xe song mã. Lê Văn nói:

    - Để em đánh xe.

    Lê Văn cho xe chạy khắp những con đường lớn trong thành Biện-kinh. Khi mặt trời đứng bóng, Thuận-Tông đề nghị:

    - Chúng mình kiếm một tửu lầu nào đánh chén đi?

    - Ừ nhỉ. Đói lè lưỡi ra rồi đây.

    Lê-Văn ngừng lại trước tửu lầu Cô-tô:

    - Chúng ta vào đây. Hôm nay có Lê đại ca, chúng ta đãi đại ca một bữa. Nhưng Lê đại ca à, đệ nói một câu, đại ca đừng giận nghe.

    - Văn đệ cứ nói.

    - Sau nửa ngày đi chơi Biện-kinh, đệ có cảm tưởng lần đầu tiên đại ca du ngoạn đế đô quá.

    - Văn đệ nói đúng đó. Ta vì lý do riêng, chỉ biết đọc sách, chứ nào có

    biết ngoài đời là gì.

    Chủ tửu lầu Cô-tô thấy có sáu thiếu niên quần áo sang trọng vào, vội chạy ra tiếp. Nhà vua nói như ra lệnh:

    - Người cho ta một bàn, càng yên tĩnh càng tốt.

    Thấy dáng điệu uy nghiêm của nhà vua, chủ nhân chắp tay chỉ vào cầu thang:

    - Mời mấy công tử lên lầu.

    Y thân dẫn sáu người tới căn phòng. Trong phòng chỉ có hai bàn. Bàn nào cũng chưng hoa thực đẹp. Bốn vách đều treo tranh cùng bút thiếp.

    Nhà vua hỏi:

    - Nhà hàng có những món gì đặc biệt?

    Chủ nhân đáp đầy vẻ tự hào:

    - Bản tửu lầu có thể cung cấp hầu quý công tử bất cứ món gì quý nhất thế gian. Ngoài ra còn có ba hoa khôi. Ba nàng đều thuộc con nhà danh gia bị hàm oan. Các nàng chỉ nhận tiếp thiếu niên công tử, với lời ước hẹn: Nếu nói lên được mối oan khuất của phụ thân, các nàng nguyện theo hầu trọn đời.

    Nhà vua gật đầu hài lòng:

    - Vậy nhà người đem cho ta sáu cân Thái-tổ ngự tửu. Hai con gà nướng xứ Thục. Ba con cá hồ Động-đình hầm nấm Đại-lý. Sáu con cua Liêu-Đông hấp tương Đàm-châu. Còn tráng miệng thì cam Giang-Nam, quýt Tương-dương. Người cho chúng ta gặp ba đóa hoa tươi được không?

    Chủ nhà tửu lầu nghe nhà vua gọi toàn món trân quý, thì biết đây là những thiếu niên con nhà danh gia. Y cúi đầu chào, rồi lui xuống lầu. Lát sau ba thiếu nữ tuổi khoảng mười tám, y phục tha thướt bưng rượu lên. Ba người mặc quần áo ba mầu khác nhau: Hồng, thanh, tím. Cô mặc áo hồng giới thiệu:

    - Chúng em được chủ nhân sai lên hầu tiếp sáu vị công tử. Em tên Hồng. Con hai cô này tên Thanh và Tử.

    Tự-Mai giật mình, vì cả ba thiếu nữ đều nhan sắc tuyệt thế, không thua gì Mỹ-Linh, Hà-Thanh, Huệ-Phương. Nét mặt nàng Hồng trông quen quen, mà Tự-Mai không nhớ ra đã gặp ở đâu.

    Ba nàng thay nhau rót rượu. Nhà vua bưng chung rượu uống một hớp, cầm đũa khuấy lên ba lần rồi uống hớp nữa. Ông gật đầu nói:

    - Được! Đúng là Thái-tổ ngự tửu đây.

    Nàng Tử nói:

    - Công tử thực sành sỏi. Bọn em tiếp vương tôn quý khách tới hàng nghìn người. Họ cứ gọi Thái-tổ ngự tửu rồi uống như trâu uống. Nào có biết gì thực hay giả. Chỉ công tử biết thử mà thôi.

    Thiện-Lãm thực thà:

    -- Cô nương ơi! Trong sáu anh em tôi , chỉ mình Lê đại ca biết giá trị của Thái-tổ ngự tửu. Còn chúng tôi thì chưa từng nghe danh loại rượu này bao giờ, nên dù có uống cũng uống như trâu mà thôi.

    Ba nàng bật cười.

    Nhà vua thấy Thiện-Lãm thực thà thì vừa lòng:

    - Hà đệ tính tình trung thực đấy. Thái-tổ ngự tửu nguyên do thừa tướng Cao Hoài-Đức nghiên cứu, tìm ra một thứ nấm trong hang Tý-Ngọ đất Thục về cấy thành men, rồi nấu với nếp trồng trên sườn núi vùng Kinh-châu. Khi cất phải cất đến bốn lần. Sau khi cất, bỏ hũ rượu xuống đáy sông hay giếng. Lúc uống mới lấy lên.

    Bỗng chủ tửu lầu dẫn thêm hai người khách vào phòng. Y mời khách ngồi vào cái bàn còn lại, rồi nói:

    - Xin các vị đại nhân thông cảm. Phòng này đã có sáu tiểu công tử chiếm một bàn. Còn một bàn dành cho các vị.

    Một khách phất tay:

    - Thôi được rồi. Người dọn các món ăn ta đã đặt sẵn ra đi. Gọi con hát lên tiếp ta.

    Tôn Đản liếc nhìn hai thực khách. Nó thấy dáng điệu quen thuộc, nhưng không nhớ đã gặp nhau ở đâu. Nó đưa mắt cho Lê Văn. Lê Văn dùng

    Lăng-không truyền ngữ nói cho cả bọn nghe:

    - Phải cẩn thận. Ngồi im, đừng quay lại. Hai tên đại địch đã tìm tới. Có lẽ chúng theo dõi, biết ta lên đây, nên theo sau định mưu đồ gì.

    Tôn Đản hỏi:

    - Chúng hoá trang chăng?

    Lê-Văn đáp:

    - Đúng vậy. Hai lão già kia chính là Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vượng. Lê đại ca nội công thấp quá, không thể dùng Lăng-không truyền ngữ nói với anh ta. Làm sao bây giờ?

    Tự-Mai đưa hai ngón tay ra hiệu ngụ ý: Tuyệt đối không xử dụng võ công. Nó dùng ngón tay viết lên đùi nhà vua, kể cho nhà vua nghe về lý lịch hai tên Sử-vạn, Khiếu. Nhà vua cũng dùng tay viết lên đùi Tự-Mai:

    "Ta nhận ra chúng rồi. Chúng hóa trang chắc có mục đích riêng. Nhị đệ hứa trừ bọn chúng cho ta. Vậy làm đi thôi."

    Tự-Mai viết:

    "Không vội. Chúng theo lên đây ắt có mưu đồ. Cứ chờ xem."

    Nhà vua viết:

    "Sử-vạn Na-vượng trước thống lĩnh Ngự-lâm quân. Còn Khiếu-tam-Bản thống lĩnh Thị-vệ cùng tế tác của thái hậu. Không hiểu chúng có nhận diện được ta không? Nhị đệ trị được hai tên này, ta mới hy vọng nắm quyền."

Trang 1 / 6 123 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •