Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc giống như tiếng vang, chỉ nghe được tiếng trả lời mà không bao giờ thấy đến.
Carmen Sylva
Trang 2 / 6 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 55

Chủ Đề: Anh Linh Thần Võ Tộc Việt

  1. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tự-Mai viết:

    "Đại ca yên tâm."

    Nó tảng lờ hỏi nhà vua:

    - Đại ca có biết nguyên lý cất rượu Thái-tổ ngự tửu không?

    - Không.

    Lê Văn cười khì khì:

    - Phương pháp không có gì lạ hết. Để em giải thích cho các anh nghe. Ai đã tìm ra phương pháp cất rượu này thực tuyệt! Giống nấm ở trong hang không mặt trời vốn thuộc vật chí âm. Lúa trên núi hứng ánh nắng thuộc chí dương. Khi cất, hơi bốc lên thành dương khí. Sau lại bỏ xuống nước tẩm âm khí. Vậy rượu này uống vào sẽ có vị ngọt, vị cay, cùng hương thơm rất lâu trong miệng. Còn uống bình thường với uống sau khi quậy lên quả tình em không biết.

    Nhà vua nắm tay Lê Văn:

    - Văn đệ giỏi y lý thực. Thái-tổ ngự tửu có tính chất rất đặc biệt. Nếu uống bình thường, hương tỏa ra khắp miệng, cổ hầu, cay cay, ngọt ngọt. Còn quậy lên uống, thì chỉ còn ngọt ngọt thôi, cay cay giảm phân nữa.

    Ba thiếu nữ cúi đầu tạ:

    - Công tử thực sành điệu.

    Cả bọn bắt chước nhà vua, uống một hớp, rồi lấy đũa quậy lên uống. Cả năm đều gật đầu:

    - Đúng như đại ca nói.

    Tửu bảo dọn các món ăn lên. Nhà vua giảng chi tiết những hương vị khác nhau cho năm người bạn mới. Trong năm trẻ, Tự-Mai đã được hưởng hầu hết thực vật trân quý của Đại-Việt. Còn những món ăn Trung-quốc quả tình nó chỉ biết lờ mờ. Nay vừa được ăn, vừa được giải thích, khiến nó muốn nuốt cả lưỡi vào.

    Chợt nhà vua để ý đến một bức trướng lụa treo trên tường. Ông hỏi nàng Hồng:

    - Ai viết bức trướng này thế?

    Nàng Hồng chỉ vào nàng mặc áo tím:

    - Nguyên bức này của Tử muội mang đến. Tử muội vốn con nhà danh gia. Phụ thân bị hàm oan. Người buồn khổ qúa, đã viết bức trướng này để tỏ mối ẩn ức của bậc tôi trung. Tử muội hứa rằng: Nếu ai hiểu thấu tâm tư phụ thân nàng. Nàng nguyện theo hầu cả đời.

    Nàng ngừng lại chỉ vào nàng Thanh:

    - Còn Thanh muội thì hứa rằng, nếu ai đoán đúng tên tuổi, chức tước của người viết. Thanh muội cũng xin dâng cả cuộc đời. Nàng liếc mắt nhìn Khiếu Tam Bản:

    - Còn tiểu nữ. Tiểu nữ lại đi tìm một vị nam tử thực thông minh hầu trao thân gửi phận.

    Nàng chỉ Sử-vạn Na-vượng:

    - Hai vị đại nhân đây đã thử, nhưng không vị nào đạt được cả.

    Sử-vạn Na-vượng giật mình:

    - Ta... ta đã thử bao giờ đâu mà cô nương bảo không đạt được?

    Nàng Hồng vội chắp tay:

    - Nếu vậy tiểu tỳ xin lỗi hai đại nhân. Tiểu tỳ thấy hai đại nhân hao hao giống hai đại thần tên Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản. Hai vị đó thường hay tới đây xơi rượu, đã từng dự việc bình văn này, nhưng không trúng cách.

    Khiếu Tam Bản chỉ bức trướng:

    - Mỗi lần cô nương đưa ra một bức khác nhau. Hôm trước cô nương đưa ra bức trướng viết bài Ly-tao của Khuất-Nguyên, nói rằng của thân phụ cô. Còn hôm nay sao lại là bức này? Tuồng chữ hoàn toàn khác với tuồng chữ hôm trước.

    Tự-Mai cười thầm:

    - Tên này dấu đầu hở đuôi rồi. Sử vừa nói: Chưa thử bao giờ. Thế mà tên Khiếu lại phun ra: Hai bức trướng khác nhau, thì rõ ràng đã thử rồi.

    Nàng Hồng đáp:

    - Thưa tiên sinh, bức viết bài Ly-tao là bút tích của thân phụ Thanh muội. Bức hôm nay là bút tích của thân phụ Tử muội.

    Mọi người đều nhìn vào bức trướng bằng lụa, trên viết bài Tiền xuất sư biểu của Gia-cát Lượng, Thừa-tướng Thục đời Tam-quốc. Đối với Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm, chữ Hán của chúng chỉ đủ để đọc những bản văn thông thường thì sao hiểu được bài biểu uẩn súc trên? Còn Tự-Mai, Lê Văn, cả hai đã thuộc làu hai bài Xuất sư biểu của Gia-cát từ hồi chín mười tuổi.

    Nhà vua hỏi Tự-Mai:

    - Nhị đệ có biết hai bài văn này không? Nhị đệ thử kiến giải, biết đâu không trúng ý Tử cô nương? Người đẹp thế kia, thực xứng làm nhà vàng cho ở.

    Tự-Mai lắc đầu:

    - Đệ có học Bắc-sử. Nhưng bản văn này bây giờ mới thấy lần đầu. Mà dù văn gì chăng nữa, đệ chỉ đọc một lần thì thuộc ngay.

    Nàng Hồng, Thanh, Tử cùng lắc đầu:

    - Công tử khéo đùa thì thôi. Bài Tiền xuất sư biểu này dài thế kia, dù người thông minh nhất cũng phải học hàng chục lần mới thuộc. Có đâu công tử chỉ đọc một lần đã thông.

    Lê Văn biết ý Tự-Mai, nó nói:

    - Anh tôi học chữ Hán không làm bao, nên bản văn trên có thể nhiều chữ không biết đọc, dĩ nhiên làm sao hiểu nổi. Tuy nhiên nếu có ai đọc cho nghe một lần, ắt anh ấy thuộc.

    Nàng Thanh nói:

    - Vậy chúng ta đánh cuộc.

    - Cuộc gì nào?

    Lê Văn hỏi: Cả ba tiểu thư đánh cuộc hay một mình Tử tiểu thư?

    Nàng Hồng đáp:

    - Bây giờ thế này. Nếu như tiểu nữ bình lên một lần, mà Trần công tử đọc lại được. Tiểu nữ nguyện làm tỳ nữ cho công tử cả đời. Còn như Trần công tử đoán được tâm sự người viết, Tử muội hoàn toàn thuộc Trần công tử.

    Nhà vua để ngón tay lên đùi Tự-Mai viết mấy chữ:

    Nhị đệ đừng sợ. Ta nói gì mặc ta, nhị đệ ậm ừ cho qua.

    Nhà vua nói:

    - Nếu như nhị đệ của tôi tìm ra được lý lịch người viết, thì các cô tính sao? Tôi nói cho các cô hay, nhị đệ của tôi chỉ nhìn nét chữ, có thể biết tiểu sử người viết nữa.

    Cả ba cô đều trợn mắt lên kinh ngạc. Nàng Thanh đáp:

    - Nếu Trần công tử có thể gọi ra tên người viết thôi. Tiểu nữ cũng xin làm tỳ nữ cho Trần công tử. Nhưng còn trường hợp Trần công tử thua thì sao?

    Trong khi mọi người truyện trò, bàn bên cạnh, bọn Sử-vạn Na-vượng vẫn thản nhiên đánh chén, nói truyện thì thào.

    Tự-Mai đáp:

    - Tôi cũng xin làm nô bộc cho ba cô nương.

    Nàng Hồng đáp:

    - Bọn tiểu nữ đâu dám thế. Tiểu nữ chỉ yêu cầu; nếu Trần công tử thua cuộc, xin sáu vị công tử giết dùm sáu người.

    Lê Văn lắc đầu:

    - Chúng tôi từ muôn dặm tới đây, phải tuyệt đối tuân theo phép vua Tống. Có đâu giết người Tống. Tuy nhiên nếu sáu người mà các cô muốn giết thuộc loại ác bá, giết đi mà vua Tống vui lòng, thì chúng tôi xin tình nguyện ra tay.

    Nàng Tử đáp:

    - Thế thì dễ quá rồi. Xin thưa với sáu công tử rằng sáu tên mà bọn tiểu nữ nhờ giết tội ác ngập đầu. Hoàng-đế đều muốn giết chúng, nhưng ngài cũng không giết được.

    - Vậy thì hay quá. Nào chúng ta bắt đầu cuộc đánh cuộc.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Tuy ta thuộc lòng, nhưng cũng nên dò lại xem, bản chép này có giống bản mình học chăng? Lỡ có chỗ không giống nhau, hoá ra mình đọc sai, thì thua cuộc mất.

    Nàng Tử cất cao giọng đọc. Tự-Mai đọc theo. Thỉnh thoảng vờ không biết đọc một vài chữ, nó ngừng lại chỉ vào hỏi, rồi đọc tiếp cho đến hết. Nó nhận ra bản này với bản nó học không khác nhau một chữ nào. Nhưng có nhiều chữ người viết cố ý bớt đi vài nét, viết nhỏ lại, đó là những chữ: Nghĩa, Trinh. Nó biết người viết kiêng tên vua Thái-Tông, Chân-Tông, Thiên-Thánh. Như vậy ắt là thần tử Tống triều.

    Đọc xong nó nói:

    - Bây giờ tôi quay lưng lại bức trướng đọc. Xin ba vị cô nương dò xem có sai không?

    - Bọn tiểu nữ chờ công tử.

    Nó hắng rặng một tiếng, rồi đọc:

    " Thần, Lượng ngôn: Tiên đế sáng nghiệp vị bán, nhi trung đạo băng tồ; kim thiên hạ tam phân, Ích-châu bì tệ, thử thành nguy cấp, tồn vong chi Thu dã. Nhiên, thị vệ chi thần, bất giải vu nội; trung chí chi sĩ, vong thân vu ngoại giả: Cái truy Tiên-Đế chi thù ngộ, dục báo chi ư bệ hạ dã..."

    Trung khí Tự-Mai cực hùng hậu, nó đọc lớn, khi trầm khi bổng, mọi người đồng theo dõi bản văn trên vách xem có chỗ nào sai không. Trong khi đó Thiện-Lãm hỏi Lê Văn:

    - Văn gì mà trúc trắc qúa, mình hiểu lờ mờ. Lê Văn dịch cho nghe đi.

    Lê Văn dịch nhỏ:

    Thần là Lượng, xin tâu: Tiên-Đế sáng lập nghiệp rồng chưa được một nửa, mà giữa đường đã sớm băng. Nay thiên hạ chia ba, Ích-châu nghèo khó, nguy cấp đến trong sớm tối. Tuy nhiên bậc thần trong triều không quản ngại khó khăn; trung, chí sĩ bỏ mình ở ngoài đều vì ơn Tiên-Đế tri ngộ, muốn báo đáp ở bệ hạ vậy...

    Cứ như thế Tư-Mai đọc cho đến câu Kim đương viễn ly, lâm biểu thế khấp, bất tri sở vân . Nghĩa là : Nay phải đem quân đi xa, dâng biểu lệ ứa, nói không hết lời , rồi ngừng lại. Tôn Đản reo:

    - Chú Sáu của tôi thắng rồi. Hồng cô nương! Cô nương tính sao đây?

    Sử-vạn Na-vượng cười khúc khích:

    - Thằng nhỏ láu cá này bịp cô nương đấy. Có khi nó được học từ nhỏ, nay vờ đóng kịch, rồi đọc lại mà thôi.

    Tôn Đản cãi:

    - Đó chẳng qua là tiên sinh tưởng tượng mà thôi. Anh Sáu của tôi đâu có phải người Hán mà thuộc áng văn cổ kính này?

    - Được, bây giờ đánh cuộc lại. Ta sẽ đưa ra bài thơ, nếu mi đọc một lần thuộc, ta mới chịu phục, không can thiệp vào truyện này nữa.

    Lê Văn hỏi nàng Hồng:

    - Ông cụ này là người ngoại cuộc. Chúng tôi chỉ xin hỏi cô nương mà thôi. Cô nương có chịu thua cuộc hay còn nghi ngờ như ông cụ kia?

    Nàng Hồng phân vân nghĩ một lát rồi nói:

    - Trần công tử. Xin Trần công tử cho tiểu nữ được kiến thức trí thông minh một lần nữa.

    Lê Văn hỏi:

    - Mình anh Sáu thôi ư? Có cho bọn này thử không?

    - Xin tùy lượng chư quân tử.

    Nàng Hồng lui ra ngoài một lúc, khi trở lại mang vào một cuốn trục lụa treo lên tường, rồi cung kính nói:

    - Đây là một bài từ, mà trên thế gian này chỉ có chưa đầy năm người biết. Xin Trần công tử cho tiểu nữ được thấy thần thông của công tử.

    Trong khi Tôn Đản cãi, Lê Văn dùng lăng không truyền ngữ nói với Tự-Mai:

    - Dễ quá, anh cứ đọc qua một lần, rồi quay lưng lại. Em dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai anh. Anh đọc lên cho họ khiếp vía một bữa.

    Mọi người nhìn lên bức trướng. Trên bức trướng vẽ một giai nhân đang đứng bên vườn đầy hoa. Cạnh giai nhân, đề một bài từ, nét chữ không lấy gì làm đẹp cho lắm. Thoáng nhìn, bọn Tự-Mai nhận ra giai nhân chính là Khấu Kim-An, vợ của Trần Bảo-Dân. Bất giác cả bọn đưa mắt nhìn nhau.

    Nhà vua thấy bức trướng, long tâm dâng lên mối buồn vô hạn. Kỷ niệm hơn mười năm trước trở về:

    Năm ấy vua Chân-Tông đang buồn bực vì quần thần phản đối, muốn truất phế Lưu hoàng hậu. Vì hoàng hậu xuất thân bần hàn. Một lần đến dinh tể tướng Khấu-Chuẩn, vô tình liếc thấy tiểu thư Khấu-kim-An, Chân-Tông như ngây như dại. Rồi không đừng được, ngài sai đón nàng về, những tưởng sẽ phong nàng làm hoàng hậu. Vì Kim-An là con tể thần, lập nàng làm hoàng hậu, không ai bàn tán dị nghị được nữa. Khi đón nàng về, ngài sai họa sĩ vẽ hình. Chính ngài cầm bút viết lên bài từ tả nhan sắc nàng. Đêm ấy ngài cùng nàng uống rượu. Khi sắp động phòng, nhà vua bị một võ lâm đột nhập bắt nàng đi mất. Khấu thừa tướng lại tưởng Lưu hậu ghen tuông, sai người hại Kim-An. Để đền bù, nhà vua tặng lại bức tranh cho Khấu Chuẩn. Sau vua Chân-Tông có ngự bút tặng nhà vua một bản. Nhà vua đọc riết rồi thuộc làu.

    Nay nhìn nhìn nét chữ của phụ hoàng, nhớ lại mối nhu tình tuyệt vọng của người, mà lòng nao nao.

    Nhà vua nghĩ thầm:

    - Ba nàng này thế nào cũng có liên hệ với Khấu Chuẩn.

    Nhà vua nói với Tự-Mai:

    - Nhị đệ, người nhường cho đại ca đánh cuộc được không?

    - Đệ xin nhường.

    Nhà vua cất cao giọng đọc. Bài từ gồm hơn bốn mươi câu. Giọng nhà vua tuy không hay, nhưng cũng diễn tả được hồn thơ tả người đẹp. Đọc xong, nhà vua nói:

    - Hồng tiểu thư. Ta xin đọc lại. Tiểu thư kiểm xem có sai không nghe.

    - Xin công tử diễn cho.

    Nhà vua lại cất cao giọng ngâm. Lần này giọng ngân dài hơn lần trước. Thoáng một cái, hơn bốn mươi câu được ngâm xong.

    Tự-Mai vỗ tay:

    - Hồng cô nương. Người chịu phục đại ca tôi chưa?

    Sử-vạn Na-vượng cãi:

    - Gã họ Lê kia cũng thuộc bài từ này trước rồi.

    Nhà vua nghĩ mình là đế vương, không muốn đánh lừa người con gái của bầy tôi, ông định lên tiếng xác nhận mình thuộc từ trước. Nhưng nàng Hồng đã nói:

    - Sử lão gia. Bài từ này chưa quá năm người đọc qua, muôn ngàn lần Lê công tử không thể thuộc trước được.

    Nàng Thanh hỏi:

    - Cuộc thứ nhất Trần công tử thắng. Cuộc thứ nhì Lê công tử thắng. Vậy Hồng thuộc về ai bây giờ?

    Tự-Mai nói:

    - Tôi xin nhường cho đại ca.

    Nàng Hồng tươi mặt lên, vén vạt áo quỳ trước nhà vua:

    - Tiểu tỳ xin tham kiến công tử. Từ nay đến hết đời, tiểu tỳ nguyện theo hầu công tử. Theo hầu một thiếu niên thông minh nhất thiên hạ, thực không uổng tấm hồng nhan.

    Nhà vua tháo sợi dây vàng trên cổ có tượng Tống Thái-Tổ đeo vào cho nàng Hồng:

    - Gọi là chút quà diện kiến. Sau này ta sẽ tặng nàng nhiều món khác.

    Nàng Hồng chắp tay đứng hầu sau nhà vua.

    Nàng Tử chỉ lên bức trướng viết bài Tiền xuất sư biểu nói:

    - Các công tử thử đoán tâm sự người viết. Ai đoán đúng, thân của tiểu nữ thuộc về người đó.

    Nhà vua viết trên đùi Tự-Mai:

    - Xin được nghiên cứu một khắc.

    Tự-Mai vội đáp:

    - Đại ca được nàng Hồng. Còn lại hai nàng, tôi xin nhập cuộc. Hãy cho tôi suy nghĩ một khắc, sẽ trả lời cô nương.

    Nó ngồi mở to mắt lên đọc. Trong khi đó nhà vua viết lia lịa trên đùi nó. Chưa hết một khắc, nhà vua viết xong. Tự-Mai làm bộ cau mày, kỳ thực nhắc lại những gì nhà vua viết:

    - Xưa Vũ-hầu được Tiên-đế Lưu Bị thác con côi là Hậu-Chúa cho. Lúc ông xuất sư đánh giặc, dâng bài biểu này lên Hậu-Chúa. Vậy người viết cũng là đại thần nhận cố mệnh của chúa, cùng một tâm sự với Vũ-hầu.

    Nàng Tử gật đầu khen:

    - Đúng.

    - Nét bút người này hoa dạng, mà lại sắc. Hai thứ đó hợp lại, hẳn đã đỗ đại-khoa, rồi lên tới bậc tể thần. Có là tể thần mới được chúa thác con côi cho.

    Nàng Tử gật đầu:

    - Giỏi.

    - Nết chữ hoa dạng ắt là tay văn chương quán thế. Sắc, hẳn là người trực tính. Khi một tể thần, lại trực tính muốn thi hành đạo Nho cho chính đạo, bên cạnh ấu quân sao khỏi bị dèm pha, tôi e đường công danh khó toàn vẹn được.

    Cả ba nàng đều gật đầu:

    - Tuyệt.

    - Người này chắc cũng được chúa thác cô, phù ấu quân. Nhưng tại sao văn chương ông quán thế, không làm thơ, văn ký thác tâm sự như Khuất Nguyên mà phải chép lại bản văn của người xưa? Có lẽ ông được chúa ủy thác con côi. Một tấc lòng son vì chúa. Nhưng bị vu oan, bị hiểu lầm, nên bị cách chức, phải xa chúa. Đau đớn thay, mình là tể thần, được tiên đế ủy thác đại sự, tài có, chí có, mà không được giúp chúa hành đạo. Hơn nữa bị vu hãm oan khuất, dù chết cũng khó nhắm mắt nên mất bình tĩnh, đâu có thể làm thơ văn ký thác tâm sự? Nên đành chép văn của Vũ-hầu, để lại cho hậu thế, may ra có ai thấu tấm lòng cô trung cho chăng?

    Nàng Tử ôm mặt bật lên tiếng khóc thút thít, rồi tới trước mặt Tự-Mai quỳ gối lạy:

    - Trần công tử. Kể từ nay, tấm thân bèo bọt này thuộc về công tử. Công tử đã minh oan dùm cho phụ thân tiểu tỳ.

    Tự-Mai phất tay một cái, kình lực đỡ nàng dậy:

    - Cô nương! Tự-Mai này vốn vô tài, sở dĩ tôi đoán trúng là do...

    Nó định nói thực do nhà vua mách nước. Nhưng nhà vua viết trên đùi nó:

    Cứ nhận nàng làm tỳ nữ đi. Sau này có nhiều điều hay. Tặng nàng vật gì làm lễ diện kiến.

    Tự-Mai tiếp:

    - ... nhờ ơn trên giúp cho.

    Nó nói câu này, dự trù sau đây sẽ thú thực do nhà vua ám trợ. Rồi nó tháo sợi dây vàng trên cổ có tượng con rồng với con chim âu tượng trưng Quốc-tổ, Quốc-mẫu đeo cho nàng Tử:

    - Đây là vật bố tôi cho tôi năm mười hai tuổi. Xin tặng cô nương làm lễ diện kiến.

    Nàng Tử tạ ơn, rồi chắp tay đứng sau Tự-Mai.

    Nhà vua hỏi nàng Thanh:

    - Thế nào, Thanh cô nương có còn muốn đánh cuộc với nhị đệ tôi không?

    Nàng Thanh đáp:

    - Tiểu nữ vẫn không đổi ý. Trần công tử. Xin công tử tiếp cho.

    Tự-Mai không thấy nhà vua viết trên đùi nữa. Nó biết vị tể thần thân sinh nàng Tử bị Lưu hậu cách chức oan, nên nhà vua không muốn bàn tới lỗi lầm của mẹ. Nó kết hợp những gì Thiệu-Cực nói, những gì Lý thái-phi tiết lộ, và những gì nhà vua viết trên đùi nó, rồi nói:

    - Xét cho kỹ, tấm lụa còn mới, chắc viết chưa lâu. Vị tể tần này cũng mới viết mấy năm gần đây thôi. Vậy việc ủy thác con côi ứng vào với triều Tống. Con côi không ai khác hơn Thiên-Thánh hoàng-đế.

    Nhà vua bẹo đùi Tự-Mai một cái, mỉm cười. Nó tiếp:

    - Thiên-Thánh hoàng đế năm nay mới mười tám. Như vậy khi ngài lên ngôi năm mười hai tuổi. Chắc chắc đức Ứng phù, kê cổ, thần công, tuyên đức, văn minh, võ định, chương thánh nguyên hiếu hoàng đế tức vua Chân-Tông khi băng hà đã thác côi cho người viết bản văn này.

    Nàng Thanh thản nhiên:

    - Xin công tử tiếp cho.

    Tự-Mai xua tay:

    - Tôi đã nói hết đâu! Dường như năm Càn-hưng nguyên niên (Nhâm-Tuất, 1022), tháng hai ngày Giáp-Thìn vua Chân-Tông phong cho Đinh Vị tước Tào-quốc công lĩnh Thái-tử thiếu-sư môn hạ thị lang. Phùng Thừa tước Ngụy-quốc công lĩnh Thiếu-phó lại bộ thượng thư, đồng bình chương sự. Tào Lợi-Dụng tước Hàn-quốc công lĩnh Thiếu-bảo đồng bình chương sự. Như vậy ba ông là tể thần bấy giờ. Sau vụ thăng chức tước này mười bốn ngày sau tức ngày Mậu-Ngọ vua băng. Vậy chắc chắn ngài thác cô cho ba ông Đinh, Phùng, Tào chứ không phải ai khác.

    Cả ba cô đồng reo lên:

    - Tuyệt.

    - Có ba đại thần được ủy thác con côi. Thế nhưng tháng bẩy năm đó, ngày Tân-Mão, Đinh quốc-công bị cách chức, biếm làm Nhai-châu tư hộ tham quân. Năm sau, Thiên-Thánh nguyên niên ( Quý-Hợi, 1023) tháng chín, ngày Bính-Dần, đến lượt Phùng quốc công bị cách chức, Vương Khâm-Nhược lên thay. Cũng năm, tháng đó ngày Kỷ-Hợi, tức chín ngày sau Phùng quốc công chết. Hiện nay trong ba tể thần được ủy thác con côi chỉ còn có mình ông Tào Lợi-Dụng. Vậy người viết bản văn này là một trong hai ông Đinh, Phùng.

    Nhà vua gật đầu khen:

    - Giỏi.

    - Cứ lý mà suy, ông Đinh bị đầy, hy vọng có ngày được phục chức, vì vậy đâu dám chép văn người xưa ký thác tâm sự? Bởi khi chép lời người xưa ủy thác tâm sự, tức cho rằng mình bị hàm oan. Chúa đầy, mà mình cho rằng oan, có nghĩa rằng chúa bất minh, là hôn quân. Còn ông Phùng, bị cách chức oan uổng, tâm tư rối loạn đến nỗi chết, viết văn ký thác tâm sự không nổi, nên đành chép văn người tỏ lỗi lòng mà thôi. Vậy người viết bản văn này là ông Phùng Thừa.

    Nó hỏi nàng Thanh:

    - Tiểu thư. Thì ra tiểu thư là ái nữ của Ngụy quốc công Phùng Thừa đó ư?

    Đến lượt nàng Thanh quỳ gối hành lễ với Tự-Mai.

    - Trần công tử đã minh oan cho tiên phụ. Tiểu tỳ nguyện theo hầu cả đời.

    Nhà vua vỗ vai Tự-Mai:

    - Nhị đệ! Mừng cho nhị đệ. Nhị đệ thấy con gái Hán tộc giữ lời hứa không?

    Lời nói của nhà vua làm hình ảnh Đỗ Lệ-Thanh hiện lên trước mặt Tự-Mai. Nó vội lắc đầu:

    - Đệ không thể, không dám nhận hai tiểu thư khuê các này làm tỳ nữ đâu. Còn thu nàng làm tỳ thiếp, đệ lại càng không dám. Trong tâm đệ chỉ có Thuận-Tường mà thôi. Đệ nhường cho đại ca đấy.

    Nhà vua nói như ra lệnh:

    - Nhị đệ là em ta, thì bất cứ cô gái trong thiên hạ này làm tỳ thiếp cho nhị đệ cũng là vinh hạnh. Nhị đệ cứ thu nhận hai nàng, thêm Thuận-Tường là ba, có sao đâu?

    - Đệ là người Việt, không phải người Hán, cũng chẳng là vua là quan, đệ chỉ muốn một vợ thôi.

    Nó nói với hai nàng:

    - Tôi thực không xứng đáng làm chồng hai tiểu thư, lại càng không thể làm chủ nhân hai vị. Vả lại việc kiến giải này do người trên dạy dỗ tôi. Tôi... tôi không muốn lừa dối hai nàng. Thôi, hai tiểu thư có thể đi được rồi.

    Nàng Thanh nói:

    - Công tử ơi, công tử hiểu cho tiểu tỳ. Kinh Thi nói Phiếm bỉ bách chu, nghĩa là thân con gái như chiếc thuyền lênh đênh. Khi gặp được đấng quân tử mình mơ ước, thì dù chết cũng không bỏ. Chị em tiểu tỳ nhất định theo công tử đến cùng.

    Tự-Mai vò đầu:

    - Trời đất ơi! Tuổi tôi còn nhỏ, trên có cha, anh, chị. Tôi đâu dám quyết định càn. Huống hồ Hán, Việt khác nhau, tôi đâu có thể...

    Đến đây nó chợt nhớ lại: Thuận-Tường cũng là người Hán, chứ đâu phải người Việt. Nó xua tay:

    - Vạn vạn lần tôi không dám nhận hai vị cô nương làm tỳ thiếp hay nô bộc. Thôi hai cô nương nên rời đây. Xung quanh có hàng vạn vạn đấng quân tử khẩn cầu.

    Hai nàng òa lên khóc:

    - Nếu công tử không thu dụng, bọn tiểu tỳ đành tự tận thôi.

    Tự-Mai hoảng kinh:

    - Thôi, đừng! Đừng làm thế. Hai cô mà tự tử, bản sư nghe biết ắt đốt tôi thành than mất.

    Nó thở dài:

    - Hôm nay tôi đi chơi, không mang theo vật dụng làm lễ diện kiến. Đợi lát nữa trở về, tôi sẽ xin chị tôi mấy món tặng hai nàng. Tôi nói trước: Tính tôi ưa nghịch, ưa phá. Các cô theo tôi e mang khổ vào thân.

    Thiên-Thánh hoàng đế quên mất mình là Lê Luyện. Ông phán như truyền chỉ:

    - Hai nàng cứ theo hầu nhị đệ. Hễ nhị đệ vui lòng, thì tương lai trẫm... ta tin rằng phụ thân các nàng sẽ được truy hồi chức tước.

    Sử-vạn Na-vượng nói với Khiếu-tam-Bản:

    - Hiền đệ coi sáu thằng nhãi ranh chưa ráo máu đầu bịp bợm ba cô gái. Nhất là cái tên họ Lê kia làm như Hoàng-đế không bằng.

    Nhà vua quát:

    - Không được vô phép.

    Sử-vạn Na-vượng cười ha hả:

    - Ta cứ vô phép, thì mi tính sao?

    Nói rồi y cầm cái chung trà bóp vỡ ra thành bột tung về phía nhà vua. Tự-Mai phất tay một cái, đám bụi bay chéo ra sau lưng nó.

    Tôn Đản là người thâm trầm, nó dùng lăng không truyền ngữ nói với anh em:

    - Chưa chắc nhà vua đã thực sự ghét hai tên này. Ta phải làm sao cho chúng vô lễ với nhà vua. Trong khi anh em ta càng tỏ ra sức nhũn nhặn, như vậy chúng càng làm tới. Thuận-Tông khéo nói, hãy lên tiếng trước đi.

    Thuận-Tông đứng dậy chắp tay hướng Sử-vạn:

    - Lão tiên sinh! Hôm nay tam sinh hữu hạnh anh em vãn sinh được ngồi ăn cùng phòng với tiên sinh. Chẳng hay anh em vãn sinh có chỗ nào vô phép, bịp bợm, mong tiên sinh chỉ cho.

    Nói rồi nó xá một xá nữa. Sử-vạn Na-vượng thấy dáng điệu Tôn Đản, Lê Văn rất quen, kể cả giọng nói. Nhưng vì hôm trước hai đứa hóa trang, nên y không nhận được. Thấy Thuận-Tông nói năng lễ độ, Sử-vạn cho rằng đám thiếu niên này sợ y. Y càng lớn lối:

    - Ba thiếu nữ sắc nước hương trời này là của hiếm có trên thế gian. Hôm nay đại giá ta đến đây, các thị phải hầu hạ chúng ta. Vậy kể từ lúc này, ta cấm bọn mi không được đụng tới ba nàng.

    Nhà vua bực mình hỏi:

    - Phải chăng mi tên Sử-vạn Na-vượng trước đây thống lĩnh Ngự-lâm quân? Còn lão kia tên Khiếu Tam Bản trước làm tổng lĩnh thị vệ. Các người ỷ làm quan lớn, rồi muốn ăn hiếp thiên hạ ư? Dù các ngươi làm quan tới tể thần, cũng không thể vô lý như vậy.

    Sử-vạn Na-vượng kĩnh hãi hỏi:

    - Mi, mi là ai?

    Tự-Mai dọa già:

    - Hai lão tiên sinh ơi, dù hai lão có hóa trang đến đâu cũng không dấu được tông tích. Thế nào, hôm trước đây võ lâm Trung-nguyên đồn rằng hai tiên sinh mới phát tài một món lớn. Người ta nói những gì, tiên sinh nhập phủ Kinh-lược sứ Kinh-châu lấy cống phẩm xứ đoàn Xiêm đến hàng cân ngọc trai, hàng tạ vàng... Hai tiên sinh muốn anh em tại hạ nhường ba nàng này cho ư? Dễ lắm.

    Khiếu Tam Bản kinh hãi hỏi:

    - Mi... mi là ai?

    Lê Văn cười:

    - Bọn vãn sinh là ai, hai tiên sinh khỏi cần hỏi. Chỉ cần hai tiên sinh xác nhận xem những lời đồn đó có đúng hay không mà thôi.

    Khiếu Tam Bản quát:

    - Chúng ta cứ bắt bọn sáu tên về tra xét xem ai xui chúng phao vu chúng ta ăn trộm.

    Nói rồi y vung tay chụp nhà vua. Lê Văn lạng người dùng lưng đỡ cho ông. Nó bị Sử-vạn chụp. Sử-vạn không ngờ chụp Lê Văn dễ dàng quá. Y nhắc bổng nó lên, rồi cười khành khạch:

    - Ta chỉ định trừng phạt tên họ Lê mà thôi. Không ngờ mi tự hứng lấy đau khổ. Mi đừng trách ta tàn nhẫn.

    Lê Văn cười lớn:

    - Lão Sử-vạn Na-vượng kia! Vì muốn làm phò mã, ta phải kính trọng Tống thiên-tử nên không thể dùng võ công. Chứ ta dùng võ công, thì e mười mi chúng ta cũng giết chết.

    Khiếu Tam Bản hỏi:

    - Người nói cái gì phò mã?

    Lê Văn đáp:

    - Chúng ta là ứng tuyển sinh phò mã. Khi làm phò mã đương nhiên thành cha mẹ dân, có đâu dụng võ với bọn mi?

    - Mi là ứng sinh phò mã, chứ dù mi có là phò mã, công chúa, ta cũng không cần biết tới. Bây giờ mi phải kêu ta ba tiếng Ông nội ta sẽ tha cho mi.

    Lê Văn cười khành khạch, nó chĩa ngón tay điểm vào huyệt Khúc-trì Sử-vạn. Tay Sử-vạn bị tê liệt liền, Lê Văn cựa mình một cái đứng xuống cạnh nhà vua.

    Khiếu Tam Bản lạng người tới chụp nhà vua. Nhà vua kinh hãi gọi Tự-Mai:

    - Nhị đệ cứu ta với.


  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI
    Ứng tuyển phò mã

    Tự-Mai lạng người tới trước mặt y, chàng chĩa ngón tay trỏ về trước. Nếu Khiếu tiếp tục đánh tới, thì lòng bàn tay của y bị thương trước. Khiếu Tam Bản vội biến chưởng thành cầm nã định bẻ ngón tay Tự-Mai. Tự-Mai xoè tay thành chưởng quay một vòng. Kình lực trên tay Khiếu Tam Bản tự nhiên biến mất. Y kinh hãi lùi lại hỏi:

    - Mi... mi dùng ma thuật gì thế?

    Tự-Mai cười:

    - Chiêu đó gọi là Lam tước vĩ trong Thái-cực quyền Bạch-Đằng giang thập ngũ thức.

    Tay Sử-vạn đã hoạt động lại được. Lập tức, y phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực. Chưởng của y chưa ra mà mọi người đã muốn nghẹt thở. Trong chưởng có mùi hôi tanh khủng khiếp. Tôn Đản thấy nếu để chưởng đó đánh ra, e tất cả bọn Tự-Mai sáu người cùng ba thiếu nữ ắt tan xác mà chết, chàng vội phát chiêu Loa-thành nguyệt chiếu đánh thẳng vào người Sử-vạn. Trong khi Tự-Mai vòng tay trái ôm nhà vua, tay phải ôm nàng Tử vọt ra ngoài. Lê Văn chụp cổ áo nàng Hồng, nàng Thanh cùng nhảy ra khỏi phòng.

    Hai chưởng dương cương chạm nhau đến rầm một tiếng. Bao nhiêu bát đũa vỡ tan tành.

    Sau khi đối nhau một chưởng, Sử-vạn đã nhận ra Tôn Đản. Y cười khành khạch:

    - Thì ra mi. Thiên đàng có nẻo mi không đến. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Hôm nay mi đừng hòng thoát tay ta.

    Chủ tửu lầu đã xuất hiện từ bao giờ. Y chắp tay:

    - Mong các vị đại nhân, các vị công tử bớt nóng giận. Nếu như các vị muốn dùng võ, xin xuống dưới nhà. Chứ ở đây mà mấy vị kịch đấu, e tửu lầu tan nát hết.

    Y hỏi ba thiếu nữ:

    - Cái gì đã xẩy ra?

    Nàng Hồng chỉ vào Tự-Mai với nhà vua:

    - Hai công tử đây thắng cuộc, rồi bị hai lão gia bắt phải trao ba chị em tôi cho người.

    Chủ tửu lầu chắp tay hướng Sử-vạn Na-vượng:

    - Xin đại nhân bớt nóng giận. Ba ca kỹ này tới bản lầu đã hơn năm. Ba nàng dùng văn chương kén chồng, tài tử giai nhân khắp kinh thành đều biết. Nay hai công tử đây trúng cách, được ba nàng theo về là lẽ thường. Không biết sao nhị vị lại nổi giận?

    Sử-Vạn chợt nhớ ra mình đang giả trang, không phải quan thống lĩnh Ngự-lâm quân. Y nói lảng:

    - Ta giận vì sáu tên nhãi con này khi không gán cho ta mang tên quan thống lĩnh Ngự-lâm quân Sử-vạn Na-vượng, như vậy ta... ta có thể mất mạng như chơi, cho nên ta nổi giận mà thôi.

    Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản trước đây đã được phong chức tước cực lớn. Song chức tước đó khi họ còn ở nước họ. Từ khi thất thế, họ sang Tống, chỉ được thí cho chức Nhập-nội đô-tri, tức thống lĩnh một đội thị vệ. Tuy chức quan nhỏ, nhưng Lưu hậu tín cẩn, chuyên sai hai lão đi khống chế quần thần. Hai lão lập nhiều công lớn với bà. Trước kia Tôn Đức-Khắc, giữ chức thống lĩnh Ngự-lâm quân. Lê Lục-Vũ giữ chức tổng lĩnh thị vệ. Mới đây Lưu hậu phong cho Tôn Đức-Khắc làm kinh lược Nam-thùy. Lê Lục-Vũ làm thống lĩnh Ngự-lâm quân cùng thị vệ. Bà mới cải phong cho Sử-vạn Na-vượng thống lĩnh Ngự-lâm quân. Khiếu Tam Bản coi thị vệ.

    Tuy hai lão được phong chức tước lớn, nhưng ngay tại triều cũng ít ai biết tên cùng mặt chúng ra sao. Huống hồ các quan ở ngoài xa? Hai lão nhận mật dụ của Lưu hậu tìm sứ đoàn Đại-Việt, hộ tống về kinh. Nhưng thực sự để dò la tung tích kho tàng Tần-Hán hầu có thể cướp lại. Nếu cần, dùng Chu-sa độc chưởng khống chế sứ đoàn để tra khảo.

    Không ngờ tất cả mưu kế của Lưu hậu bị tế tác Đông-a, Đại-Việt biết được. Trong bóng tối, Bảo-Hòa, Thông-Mai thiết kế cho Lê Văn, Tôn Đản hóa trang làm hai lão đột nhập dinh Kinh-lược Kinh-châu ăn trộm cống phẩm sứ đoàn Xiêm, rồi gây cuộc đấu kinh thiên động địa, vờ làm gẫy kiếm có khắc tên hai lão. Kiếm để lại phạm trường. Quan quân nhặt được, tin ngay thủ phạm là chủ kiếm.

    Mặt khác Thông-Mai gặp riêng Trần Trung-Đạo. Đạo đang là Tư-mã Kinh-châu, nhờ y giúp một phần kế hoạch. Vì vậy khi đấu với hai tên trộm Lê Văn, Tôn Đản, y không xử dụng hết công lực. Bằng không chỉ vài chiêu Trung-Đạo đã biết lai lịch võ công hai tên trộm rồi chụp cổ đem giam. Trung-Đạo vờ đuổi theo Tôn Đản, Tự-Mai. Trở về y họa hình Sử, Khiếu, niêm yết khắp nơi truy tầm hai tên đại đạo.

    Trung-Đạo trình lên cho Kinh-lược Kinh-châu. Kinh lược sứ sai ngựa lưu tinh khẩn cấp về Biện-kinh tâu việc sứ đoàn Xiêm bị hai đại đạo Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản ăn trộm cống vật. Trong khi đó hai lão Khiếu, Sử nào biết gì, đang trên đường đi với sứ đoàn Đại-Việt về kinh, thấy khắp nơi niêm yết bảng văn truy tầm. Hai lão định vào dinh Kinh-lược lý luận. Nhưng khổ cho hai lão: Thái hậu ban mật dụ rằng suốt thời gian theo sứ đoàn, không được lộ chân tướng, làm như mình là đạo tặc vậy.

    Hai lão ấm ức lai kinh. Bảo-Hòa sai Tôn Đản ăn cướp túi hành lý của Sử, rồi cho Lê Văn xuất hiện gây sự, hầu Sử, Khiếu gặp đoàn hộ tống sứ đoàn Xiêm. Tướng hộ tống sứ đoàn Xiêm đâu biết gì? Y chỉ tin vào bảng văn niêm yết của Kinh-lược sứ Kinh-châu, cùng lời tố cáo của công chúa An-Nan Tam-gia La-sun Nong-Nụt, Đặng Tông (Tôn Đản). Rồi hai lão đụng chạm với sứ đoàn Xiêm. Sau khi hai lão bại tẩu. Diêu Vạn cùng thái tử An-nan Tam-gia La-sun sai phi mã thượng biểu về triều: Dọc đường bị hai tên đại đạo Sử, Khiếu đón cướp, nhưng đã đánh đuổi được chúng.

    Bảo-Hòa nhờ Trung-Đạo sai người thượng biểu chậm ít ngày, chờ biểu của Thái-tử Xiêm với Diêu Vạn tới trước. Lưu hậu cùng triều đình nhận được hai tờ biểu, một của Thái-tử Xiêm, một của Diêu Vạn thì cho rằng hai tên đại đạo Sử, Khiếu trùng tên với hai đại thần mà thôi. Chứ có đâu hai lão đi ăn trộm. Mãi tới khi biểu của Kinh-lược Kinh-châu tới, với hình vẽ giống như người bên ngoài, cả Lưu hậu lẫn triều đình đều tin rằng hai lão đã trộm bảo vật thực.

    Triều thần biết hai lão là người thân của Lưu hậu, nên không dám bình luận gì. Việc này làm lòng tự ái của Lưu hậu bốc lên ngùn ngụt. Bà quyết định chờ hai lão về triều, sẽ đem chặt đầu, hầu bịt miệng thế gian. Tin này lọt vào tai chân tay hai lão. Bọn chúng cho người tìm hai lão báo hung tín. Vì vậy hai lão phải hóa trang để trên đường về kinh không lộ hình tích, rồi đêm nhập cung, biện minh oan khuất với Lưu hậu.

    Hai lão tưởng mình cải trang, không ai nhận ra; điềm tĩnh vào đại tửu lầu ăn uống. Không ngờ bị Lê Văn nhận được, rồi bị nhà vua, Tự-Mai gọi đích danh. Hai lão vừa tức vừa sợ, đi đến gây sự. Bây giờ nghe chủ tửu lầu can, hai lão mới thấy hối hận.

    Khiếu Tam Bản móc trong bọc ra đĩnh vàng trao cho chủ tửu lầu:

    - Đây ta bồi thường tất cả thiệt hại đổ vỡ.

    Chủ tửu lầu cung cung kính kính tiếp vàng bỏ vào túi. Lê Văn nói với y:

    - Ông chủ. Ba nàng này thua cuộc, hứa trọn đời theo Lê đại ca cùng anh sáu của tôi. Không biết bao giờ ba nàng có thể đi được.

    - Việc đó không thể làm ngay hôm nay. Ba tiểu thư yết bảng tuyển phu hơn năm, có hàng nghìn tao nhân mặc khách nhập cuộc, nhưng đều không thành. Nay nhị vị công tử hạnh ngộ, thiểm tửu lầu phải cáo yết cùng anh hùng thiên hạ, rồi mới có thể để ba tiểu thư theo nhị vị công tử đi.

    Lê Văn lắc đầu:

    - Tôi muốn ba bà chị dâu đi ngay, chứ chậm một chút, e bị quan quân đến bắt chặt đầu cùng với chủ nhân, đầu bếp, tửu bảo; chẳng hóa ra hai ông anh tôi bị mất vợ ư?

    Chủ nhân kinh ngạc hỏi:

    - Công tử nói sao lạ quá. Chúng tôi làm ăn lương thiện đã ba đời, chưa hề phạm pháp, có đâu quan quân bắt chặt đầu?

    Lê Văn chỉ vào túi chủ nhân:

    - Ông tuy không phạm pháp, nhưng tình ngay, lý gian. Ông sẽ bị ghép vào tội ăn trộm vàng của công khố. Kìa ông nhìn xem nén vàng trong túi ông do đâu mà ra?

    Chủ nhân cầm nén vàng Khiếu Tam Bản trao cho, trên khắc hai con rồng tranh viên châu, cạnh có chữ Thiên-thánh bảo khố. Y rùng mình hỏi Khiếu Tam Bản:

    - Vàng này của đức Hoàng-đế. Tại sao lại ở trong tay khách quan?

    Khiếu Tam Bản thản nhiên:

    - Vàng nào trên toàn đất Tống mà không in hình rồng cùng chữ Thiên-Thánh bảo khố. Có gì lạ đâu?

    Chủ tửu lầu lắc đầu:

    - Khách quan chưa rõ. Phàm vàng trong bảo khố đều giống nhau. Nhưng châu nào đem ra chi tiêu, đều có kiềm ấn chìm của quan Chuyển-vận sứ. Còn như vàng không kiềm ấn là của gian.

    Khiếu Tam Bản cau mày:

    - Vô lý, tại sao ta chưa nghe biết điều này?

    Thấy chủ nhân với khách dằng co, đám tửu bảo bu lại đứng coi. Chủ nhân nháy mắt cho tửu bảo, rồi xua tay:

    - Người lui xuống nhà mau. Có gì lạ đâu mà đứng đó.

    Thường tửu lầu hay gặp những khách giang hồ gây sự đánh nhau, hoặc ăn quịt, chủ nhân chỉ việc nháy mắt, vẫy tay ra hiệu, là tửu bảo chạy đi mời quan quân tới ngay.

    Khiếu Tam Bản cầm lấy nén vàng coi, bất giác y rùng mình, vội mở bọc ra xem. Trong bọc của y còn bốn nén nữa, cũng giống như nén vừa trao cho chủ tửu lầu.

    Nguyên khi y khởi hành, viên quan phụ trách tài vật của ty tế tác trao cho y năm nén vàng, với dấu kiềm ấn của Tuyên-huy Nam-viện-sứ. Sao bây giờ vàng lại không còn dấu nữa? Y đờ người ra.

    Bất giác y nhớ lại: Trên đường đi, y bị Đặng Tông (Tôn Đản) cướp hành lý. Sau khi Tôn Đản trả hành lý, y đã kiểm điểm lại, vàng bạc, châu báu không mất thứ gì. Y yên tâm, không xem kỹ. Bây giờ y mới hiểu: Đặng Tông đã đổi vàng của y.

    Y đưa mắt nhìn Tôn Đản, trong lòng nảy ra một nghi vấn:

    - Tại sao tên Đặng Tông này lại đón đường ăn cướp túi hành lý của ta? Tại sao một tên ôn con cỡi ngựa đón đường gây sự với ta đúng lúc bọn Diêu Vạn tới? Tại sao Kinh-lược Kinh-châu yết bảng truy tầm ta? Rồi bây giờ chúng gặp ta ở đây? Chắc chắn đều do một thế lực nào đó hại ta. Ai? Ta nghĩ chẳc chắn chỉ Định-vương Nguyên-Nghiễm mới có khả năng này. Định-vương không thù, không oán mà hại ta, chắc chỉ vì ta theo phe Lưu hậu. Được. Ta phải nhập cung tâu với Thái-hậu mọi truyện.

    Y nói với chủ tửu lầu:

    - Ta giữ nén vàng này lại. Tất cả tiền ăn uống ta sẽ cho người đem đến trả sau.

    Tửu bảo la lớn lên:

    - Đâu có dễ dàng vậy. Người ăn rồi định quịt hay sao đây?

    Khiếu Tam Bản vung tay chụp tửu bảo nhắc bổng y lên. Tiểu bảo la oai oái:

    - Loạn rồi! Loạn rồi. Đại-Tống ta trên có thánh Thiên-tử trị vì, mà mi làm càn ư? Mi có bỏ ta xuống không?

    Có nhiều tiếng lao xao, tiếng binh khí chạm nhau, rồi mười tên bộ khoái, dẫn đầu bởi viên hiệu-úy lên lầu. Viên hiệu-úy hỏi chủ tửu lầu:

    - Ông Thuận-Hỷ, bọn du thủ du thực đâu?

    Lão Thuận chỉ vào Sử-vạn, Khiếu:

    - Không có du thủ du thực. Nhưng hai vị tiên sinh đây ăn xong trả bằng vàng không dấu kiềm thự, rồi hành hung tiểu bảo.

    Mười tên bộ khoái bao vây hai lão Sử-vạn, Khiếu vào giữa. Viên hiệu úy tiếp vàng từ tay lão Thuận-Hỷ, y xem qua rồi nói:

    - Vàng này của hoàng cung. Trước khi đem xử dụng phải có dấu kiềm ấn của Tuyên-huy Nam viện sứ. Vàng không kiềm ấn là vàng gian. Bắt hai lão về phủ Khai-phong.

    Thông thường với chức vụ tổng quản Thị-vệ, cùng thống lĩnh Ngự-lâm quân của hai lão, thì đến quan phủ Khai-phong cũng không dám nhìn thẳng vào mặt, huống hồ viên hiệu-úy? Nhưng hai lão biết rằng chức tước mình chưa bị cách, mà Lưu hậu đang căm hận vì hiểu lầm. Hai lão cần bí mật nhập cung phân giải, nên không thể xưng chức tước ra được.

    Hai lão đưa mắt nhìn nhau, rồi đồng phát chưởng tấn công đám bộ khoái. Đám bộ khoái bị bật lui lại. Hai lão phóng thêm chưởng nữa, cửa sổ vỡ tan tành. Cả hai tung mình nhảy ra.

    Khi còn lơ lửng trên không, hai lão cảm thấy hai luồng lực đạo từ dưới đánh ngược lên mạnh đến long trời lở đất. Hai lão kinh hoàng vội đánh xuống chân một chưởng. Bùng, bùng hai tiếng. Người hai lão bay bổng lên không, chân tay như tê dại, tai phát ra tiếng vo vo không ngừng. Mùi hương thơm như trầm thoang thoảng trong chưởng. Hai lão kinh hoảng nghĩ:

    - Nếu hai kẻ kia phát thêm chưởng nữa thì mình về với thánh Mã-Mặc, Lệ-Anh mất.

    Nhưng hai người kia không đánh tiếp. Hai lão rơi xuống đến hụych một cái như bà già ngã. Cả hai vội hít một hơi rồi đứng dậy. Sử-vạn đưa mắt nhìn quanh. Trong bóng đêm y thấy hai người đứng xa xa khoanh tay nhàn nhã. Biết gặp kình địch, dù có đấu cũng mất mạng vô ích, Khiếu Tam Bản lên tiếng:

    - Tôn giá là ai? Tại sao lại tấn công anh em tại hạ?

    Có tiếng trầm trầm đáp lại:

    - Có cút mau không? Trái lệnh ta đánh thêm chưởng nữa mất mạng bây giờ.

    Hai lão tung mình vào đêm tối.

    Vừa lúc đó Tônn Đản, Tự-Mai, cũng đáp xuống. Một trong hai người đứng trong bóng tối lên tiếng:

    - Hai thằng cà chớn, xuống đây làm gì, để các bạn ở trên đó bị người ta hại thì sao?

    Tự-Mai đã nhận ra tiếng người nói. Chàng cảm thấy ớn xương sống, vội dạ một tiếng rồi tung mình lên lầu đứng cạnh nhà vua.

    Tuy võ công Thiên-Thánh hoàng đế không cao, nhưng ông đã từng xem hàng nghìn trận đấu, đã được các đại cao thủ phân giải, nên kiến thức võ công rất quảng bác. Nhà vua nghĩ thầm:

    - Thái hậu thực có con mắt tinh đời, nên mới dùng hai lão Sử-vạn, Khiếu bấy lâu. Mình e tại triều khó có võ tướng nào địch lại một trong hai lão.

    Bất giác nhà vua đưa mắt nhìn Tự-Mai:

    - Ban nãy một lão phóng chưởng cực kỳ hùng hậu, Tôn Đản đỡ chưởng ấy, dường như ngang sức nhau. Như vậy võ công y ngang với nhị đệ. Ừ, còn hai người ở dưới lầu là ai, võ công thực kỳ diệu, chỉ một chiêu làm cho hai lão già kia kinh hoảng bỏ chạy.

    Thuận-Tông hỏi Lê Văn:

    - Chú mười! Hai người đó là ai vậy? Một người xử dụng võ công Sài-sơn dường như chiêu Thiên-vương bạt sơn. Còn người kia xử dụng chiêu Ác ngưu nan độ của Tản-viên.

    Lê Văn méo miệng trêu:

    - Ông mập! Đần nó vừa vừa thôi nhé.

    - Ta đần ở chỗ nào?

    - Trên đời này làm gì có người nào toả ra mùi hương thơm ngát ngoài tiên cô nhà mình? Thế gian cũng không hai người, mà chỉ nói một câu, khiến ông Thiên-lôi Tự-Mai tuân lệnh răm rắp.

    - Ừ, ta đần thực. Thì ra ông kẹ, bà chằng. Hai ông bà ấy như chim vậy. Bố ai biết đâu mà tìm.

    Viên hiệu-úy kinh khiếp về võ công hai lão Sử-vạn, Khiếu vừa hoàn hồn. Trở lại thực tại, liếc qua một cái y đã nhận ra trong sáu thiếu niên, thì năm không phải là người Hán. Vừa rồi nghe nàng Thanh thuật, một thiếu niên đối chưởng ngang tay với Sử-vạn. Y tỏ vẻ khách khí:

    - Xin các công tử cho xem thẻ bài.

    Tôn Đản trình thẻ bài ra. Trên thẻ bài có khắc dấu hiệu của Khu-mật viện rằng người xử dụng thuộc sứ đoàn Đại-Việt sang kết hiếu. Y hỏi nhà vua:

    - Vị công tử này mặc y phục Nho-sinh, vậy thẻ bài của trường Quốc-tử giám đâu?

    Tự-Mai đáp:

    - Anh tôi không có thẻ bài của Quốc-tử giám.

    Viên hiệu úy tỏ vẻ cương quyết:

    - Nếu công tử không có thẻ bài của Quốc-tử giám, thì phải theo chúng tôi về phủ Khai-phong.

    Nhà vua quên mất mình là Lê Luyện:

    - Không được vô lễ.

    Viên hiệu úy kinh ngạc:

    - Bản chức thi hành luật của đức Hoàng-đế, mà bảo là vô lễ ư?

    Mấy bộ khoái vây xung quanh sáu người.

    Giữa lúc ấy có tiếng hô lớn:

    - Kính chào hai lão công công. Không biết luồng gió nào thổi hai công công tới đây.

    Mọi người nhìn ra: Hai thái giám lớn tuổi đang đi vào. Nhà vua thấy hai lão, thì than thầm:

    - Hỏng bét. Hai lão này nhận ra ta mất.

    Nguyên đó là hai thái giám hầu cận nhà vua. Một lão tên Trịnh Đức, một lão tên Trịnh Ngọc. Trịnh Đức hầu hạ nhà vua từ hồi mới sinh ra. Hiện lão làm tổng lĩnh thái giám coi tẩm cung của hoàng hậu. Một lão tổng lĩnh thái giám coi tẩm cung của nhà vua. Nhà vua vội đứng lui ra sau Tự-Mai.

    Viên hiệu-úy cũng như đám bộ khoái, thấy hai lão Trịnh vội cung cung kính kính nhường lối cho hai lão.

    Nguyên theo quan chế nhà Tống, Tổng-lĩnh thái-giám, đẳng trật cao ngang bằng quan phủ, thấp hơn quan phủ Khai-phong một chút. Nhưng vì hai lão hầu cận vua vùng Hoàng-hậu, quan xa không bằng lính gần, hai lão được kính trọng hơn.

    Hai lão vẫy tay đáp lễ, rồi lên lầu. Nhác thấy nhà vua, hai lão vội phủ phục xuống:

    - Trịnh Đức, Trịnh Ngọc xin...

    Tự-Mai rất nhanh trí, chàng nói lớn lên át giọng hai lão:

    - Hai lão Trịnh không nên đa lễ. Đại ca ta họ Lê tên Luyện, hiện làm Ngự-sử trung thừa. Người vâng mật chỉ thiên tử ra ngoài có việc trọng đại. Hai lão đứng dậy thôi.

    Hai lão thái giám hiểu rằng nhà vua giả làm Nho-sinh vi hành thăm dân, ông không muốn hiển lộ thân thế. Hai lão vội đứng dậy, chắp tay lui lại.

    Lê Văn móc ra một nén vàng đưa cho lão Thuận-Hỷ:

    - Đây là vàng Đại-Việt. Ta trả cho tửu lầu về chi phí sứ đoàn Đại-Việt ăn uống. Trả luôn chi phí rượu thịt cho hai tên du thủ du thực, cùng bồi hoàn đổ vỡ ở đây. Chủ nhân dọn cho một tiệc khác.

    Nhà vua vẫy bọn Tôn Đản:

    - Chúng ta lại đối ẩm.

    Ông ban chỉ cho hai lão thái giám:

    - Các người xuống lầu ăn uống, chờ ta.

    Trước khi hai lão thái giám xuống lầu Lê Văn nói vọng ra:

    - Hai lão Trịnh. Liệu cái lưỡi nhà người có dai bằng gân bò không?

    - Dạ...dạ lưỡi của lão nô cứng như sỏi, như đá, không nói được nhiều.

    - Vậy thì hơn hết kiếm cái gì bỏ đầy miệng, bằng không lúc nằm mơ xủa bậy thì không còn chỗ đội nón.

    - Bọn lão nô nhất định đậy kín miệng bình.

    Nhà vua đến bên nàng Hồng, mời ngồi xuống cạnh ông:

    - Hồng cô nương! Ta với nhị đệ thực không phải với ba cô nương. Mấy bài từ trên bức lụa mà cô nương đem thử trí thông minh của ta; thực ra ta đã thuộc làu từ trước. Còn nhị đệ, y cũng thuộc bài Tiền xuất sư biểu từ hồi chín mười tuổi.

    Nàng Tử nói:

    - Thế nhưng Trần đại ca đoán được tâm sự phụ thân tiểu muội, thì Trần đại ca vẫn trúng cách như thường.

    Nhà vua xua tay:

    - Lỗi tại ta. Khi nhìn nét bút của lệnh tôn, ta đã nhận ra ngay. Tất cả tiến trình cũng như tâm sự của lệnh tôn ta đều biết trước cả. Ta dùng ngón tay viết lên đùi gà cho nhị đệ. Vì vậy y mới nói được tâm sự lệnh tôn. Chỉ có việc gọi ra tên họ, chức vụ lệnh tôn do y suy luận mà thôi. Như vậy coi như anh em chúng ta gian lận. Gian lận tức thua cuộc.

    Lê Văn hỏi nàng Tử:

    - Đinh tỷ tỷ. Hai ông anh thua cuộc rồi. Vậy Đinh tỷ tỷ bảo chúng tôi phải giết ai, xin nói ra đi thôi. Tôi nhắc lại, những kẻ đó phải là bọn ác đức. Chứ giết người ngay, thì chúng tôi không dám làm. Mà ví dù chúng tôi có làm, khi về nước đức Hoàng-đế của tôi cũng chặt đầu. Hơn nữa đức Hoàng-đế Đại-Việt có khoan thứ, bố tôi cũng đánh què.

    Nàng Thanh chắp tay:

    - Đúng là mệnh trời. Nếu không do trời xui khiến, sao đưa Lê đại ca đến đây? Dù hai đại ca thuộc thơ văn từ trước. Dù Lê đại ca nhận ra nét bút Phùng quốc công, rồi nhân đó giải đoán, cũng do thiên mệnh. Vì vậy ba chị em tiểu muội vẫn không đổi ý.

    Tự-Mai biết khi con gái người Hán đã nguyện theo ai, không bao giờ đổi thay. Chàng đành chấp thuận:

    - Tử muội. Thôi được, coi như anh em ta thắng cuộc. Tuy thắng chúng ta vẫn sẵn sàng giúp muội hoàn thành những điều tâm nguyện.

    Nàng Tử chỉ vào nàng Hồng:

    - Hồng tỷ tỷ họ Khấu tên Kim-Hồng.

    Nhà vua nghĩ thầm:

    - Nàng là con thừa tướng Khấu Chuẩn đây.

    Tự-Mai chửi thầm:

    - Mình thực ngu, lúc đầu nhác thấy nàng Hồng quen quen, mà không nhận được gặp ở đâu. Thì ra nàng là em vợ anh Bảo-Dân, nên khuôn mặt hao hao giống nhau.

    Khấu Kim-Hồng chỉ bức tranh vẽ Kim-An nói với nhà vua:

    - Việc đầu tiên tiểu muội muốn nhờ đại ca tìm kiếm tung tích chị Kim-An dùm.

    Rồi nàng tóm lược sơ sài vụ Kim-An tiến cung làm phi tần cho vua Chân-Tông. Nhà vua định phế Lưu hậu, phong Kim-An làm hoàng hậu theo lời quần thần. Sau đó Kim-An mất tích. Triều thần cho rằng gian nhân bắt Kim-An là của Lưu hậu. Không chừng Kim-An bị giết rồi cũng nên.

    Nhà vua nắm tay nàng Hồng lắc đầu:

    - Ta không thể hứa trước được. Hồi tiên đế còn tại thế, người sai thị vệ, cùng Khu-mật viện truy lùng khắp nơi cũng không ra tung tích, thì nay anh em chúng ta e cũng uổng công. Nhưng Khấu muội đừng vội tuyệt vọng. Ta hứa sẽ làm hết sức.

    Lê Văn nghe tiếng Bảo-Hòa dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai chàng:

    - Thằng em cà chớn, hãy làm theo lời chị nói để được kết hôn với Nong-Nụt. Bằng không thì đừng hòng. Nào nói đi.

    Lê Văn nói theo lời Bảo-Hòa:

    - Hai ông anh giỏi văn chương mà được vợ đẹp. Nhưng bây giờ người đẹp nhờ vả lại bó tay. Trong khi thằng nhỏ có thể thực hiện được điều Khấu tỷ tỷ nhờ, thì không trúng cách. Ôi! Phải chi có nàng thứ tư cho mình dự thi.

    Nhà vua cầm tay Lê Văn:

    -- Văn đệ ngoan. Nếu Văn đệ tìm ra được tung tích Khấu Kim-An, bất cứ Văn đệ yêu cầu điều gì ta cũng chiều.

    Lê Văn ngồi ngay ngắn lại, chỉ mọi người:

    - Các vị làm chứng cho nghe. Nếu tôi tìm được Khấu quý phi, Lê đại ca phải giúp tôi một việc.

    - Một việc chứ mười việc ta cũng thuận.

    Lê Văn ghé tai nhà vua nói nhỏ mấy câu. Nhà vua gật gật đầu:

    - Được, ta sẽ làm như lời Văn đệ muốn. Bao giờ Văn đệ cho biết tin tức Khấu quý phi?

    Lê Văn bấm đốt ngón tay nói:

    - Đệ biết bấm độn. Phương pháp của đệ theo Lý Thuần-Phong lão tiên. Hôm nay là ngày mười tám, tháng chạp. Bây giờ thuộc giờ Tuất. Như vậy được quẻ Tốc hỷ. Tốc là mau chóng. Tốc hỷ chủ tin vui đến gấp. Tỷ tỷ sẽ tìm thấy Khấu quý phi trong một vài ngày.

    Nó làm bộ đọc thơ:
    Tốc hỷ, hỷ lai lâm,
    Cầu tài hướng Nam hành.
    Thất vật Thân, Mùi, Ngọ.
    Phùng nhân lộ thượng tầm.
    Quan sự hữu phúc đức,
    Bệnh giả vô họa xâm,
    Điền trạch lục súc cát,
    Hành nhân hữu tín âm.
    Thuận-Tông hỏi:

    - Mấy câu thơ đó nghĩa là gì vậy?

    Lê Văn nói với nhà vua:

    - Lê đại ca. Ông anh mập ù của đệ muốn đệ dịch sang tiếng Việt. Đệ phải nói tiếng Việt. Mong đại ca tha thứ.

    Chàng nói tiếng Việt:

    - Mấy câu thơ đó tạm dịch như sau:

    Tốc hỷ, vui đến mau,
    Ước tiền hướng Nam cầu,
    Vật mất Thân, Mùi, Ngọ,
    Mong người sẽ gặp nhau.
    Việc quan hưởng phúc đức,
    Đau yếu thoát âu sầu.
    Ruộng vườn lục súc tốt,
    Tìm người nào khó đâu?
    Trong mấy người, chỉ mình Tự-Mai biết Lê Văn dịch tào lao, nhưng thoát ý. Chàng bấm bụng cười thầm:

    - Lê Văn khéo giả bộ thực. Không chừng Đản, Lãm, Tông cũng tin mất.

    Chàng làm bộ tính toán nhắm mắt một lúc rồi nói:

    - Khấu quý phi vẫn còn tại thế. Người hiện đang ở Biện-kinh này.

    Khấu Kim-Hồng giật mình:

    - Chị Kim-An bị giam trong ngục ư?

    - Không! Trong đêm đó, chị bị một võ lâm cao thủ, tuân lệnh người nữ bắt đem ra ngoài Cấm-thành giết. Nhưng may mắn thay, Khấu quý phi được một đại hiệp cứu sống. Hiện hai người thành vợ chồng.

    Nhà vua hỏi:

    - Bao giờ Văn đệ cho Hồng muội với Khấu quý phi gặp nhau?

    - Không thể và không nên. Theo đúng phong hóa Nho-gia, Khấu quý phi đâu được quyền kết hôn với bất cứ ai, mà phải ở vậy suốt đời thờ Chân-Tông hoàng đế. Nay nàng đã kết hôn với người khác, mà xuất hiện, e Thiên-Thánh hoàng đế chặt đầu.

    Nhà vua vẫy tay:

    - Ta chắc hoàng đế ân xá.

    - Vậy lát nữa đây Hồng tỷ tỷ có thể gặp Khấu quý phi.

    Đến đó tiếng Bảo-Hòa nói tiếp:

    - Cà chớn, sang vấn đề Tự-Mai đi.

    Lê Văn hỏi nàng Thanh, nàng Tử:

    - Vấn đề thứ nhất đã xong. Bây giờ đến lượt hai bà chị. Hai bà chị muốn ông anh chúng tôi làm gì? Tôi nói cho hai tỷ tỷ biết, ông anh của tôi đang ứng tuyển phò mã. Lỡ mà thành phò mã thì e hai tỷ tỷ phải làm phận tiểu tinh.

    Nàng Tử nói:

    - Nơi này đông người, nói ra e không tiện.

    Lê Văn cười:

    - Thì nói thầm vậy.

    Nàng Tử ghé miệng trái đào nói vào tai Tự-Mai. Tự-Mai gật đầu liên tiếp tỏ ý vui lòng.

    Ăn uống xong nhà vua nói với Tự-Mai:

    - Muộn rồi, để đệ đưa ta về thôi. Ta xuất hành dấu tung tích, lý lịch. Nhưng các hiền đệ thông minh ắt biết ta là ai rồi. Nếu chưa biết, sau Tự-Mai sẽ nói cho các đệ biết. Đừng đa lễ.

    Ông nói với Tôn Đản, Lê Văn:

    - Nhị vị hiền đệ nhớ nhé, cứ dự tuyển phò mã như thường. Ta hứa Đản sẽ được kết hôn với Cẩm-Thi, Văn đệ sẽ được kết hôn với Nong-Nụt. Còn Tự-Mai cũng phải dự thi, ta sẽ gả Thuận-Tường cho.

    Nhà vua nắm lấy tay Khấu Kim-Hồng:

    - Hồng muội đi với Văn đệ để gặp chị Kim-An. Ta hứa nội trong một tháng sẽ nhờ mai mối đến rước Hồng muội về với ta.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhà vua bảo lão Thuận-Hỷ:

    - Nhà ngươi để ba tiểu thư đi với nhị đệ của ta được chứ?

    Lão Thuận-Hỷ chắp tay:

    - Dạ, xin đại nhân cứ tự tiện.

    Tự-Mai nói với Lê Văn:

    - Em ở lại dọn hành lý của ba bà chị về Bồng-lai. Còn ta tiễn Lê đại ca về.

    Nhà vua, Tự-Mai giã từ mọi người, rồi lên xe ngựa vào Cấm-thành. Vừa tới cửa Chính-dương thì thấy có đám đông đang bao quanh đội thị vệ. Một trung niên nam tử kêu gào thảm thiết:

    - Trời hỡi trời có thấu cho không? Tôi đến cửa khuyết kêu oan. Oan không được xét, mà còn bị bắt thế này.

    Một viên võ quan hất hàm ra lệnh cho thị vệ:

    - Lệnh của tể tướng, bắt tên này đem điều tra. Bỏ nó lên xe cho ta.

    Đám thị vệ chưa kịp ra tay, thì hai võ sĩ đã nắm cổ người dân đó liệng lên xe. Người này không vừa. Y nhảy xuống xe cầm dùi định đánh trống tiếp. Hai võ sĩ trói anh ta lại. Anh ta kêu lớn:

    - Bàn dân thiên hạ biết cho. Tôi tên Triệu Đức-Sùng, ngoan dân ở Triệu-châu. Viên Giám-binh bắt vợ tôi về làm tỳ thiếp, còn vu cho tôi làm phản. Ức lòng tôi lên cửa vua đánh trống kêu oan. Không ngờ lại bị bắt.

    Nhà vua hỏi:

    - Viên Giám-quan đó tên gì?

    Thanh niên chỉ vào viên quan võ:

    - Chính là y. Y là con quan tể tướng Tào Lợi-Dụng tên Tào Nhuế. Y biết tôi về kinh kêu oan, nên dẫn thủ hạ đón bắt tôi.

    Tào Nhuế tát Đức-Sùng một cái:

    - Nói láo, đem y đi ngay.

    Nhà vua quát:

    - Ngừng tay.

    Đám võ sĩ với Tào Nhuế vội ngừng tay nhìn lại thấy hai thái giám, có hơi ngại. Tào Nhuế hỏi:

    - Hai công công ở cung nào? Đêm khuya ra ngoài có việc gì?

    Nhà vua quát:

    - Ta ra ngoài có việc gì, cái thứ như mi không có quyền hỏi.

    Nhà vua bảo thị vệ:

    - Bắt tất cả đem giao cho Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản.

    Đám thị vệ trù trừ chưa quyết định, thì một võ quan cỡi ngựa đi tới. Y hỏi:

    - La Sùng-Đản là ta. Ai vừa nói đến ta đó?

    Vừa thấy nhà vua với Tự-Mai, Sùng-Đản kinh hoảng. Nhà vua vội nói:

    - Ta là thái giám Lê Luyện, vâng chỉ Hoàng-thượng ra ngoài có việc. Nay gặp con Tào Lợi-Dụng ức hiếp dân. Vậy người hãy bắt cả bọn này điều tra, rồi tâu lên thiên tử.

    Bắc-ban chỉ hậu nội phẩm là chức tước cao bậc nhất của quan tại nội cung. Sùng-Đản hiện coi cung nga, thái giám cùng thị vệ Cấm-cung. Trước đây La phạm lỗi, bị thái hậu sai tể tướng Tào Lợi-Dụng quản thúc. Tào cho lột khăn, đai của Sùng-Dản, cùng làm nhục y biết bao phen. Y giận căm gan, mong có ngày trả thù. Nhưng chức tước y nhỏ bé thì làm gì được Tào. Trong khi đó Tào còn là cao thủ bậc nhất triều đình. Hôm nay được chỉ dụ của nhà vua, La Sùng-Đản mừng rú. Y truyền thị vệ bắt Tào Nhuế cùng đám vệ sĩ giam lại.

    Trời đã khuya, thị vệ tưởng nhà vua là thái giám Lê Luyện, nên phải mở cửa cho vào. Nhà vua nắm tay Tự-Mai:

    - Thôi nhị đệ về với sứ đoàn. Ngày mai chúng ta gặp nhau.

    Tự-Mai bái biệt nhà vua, chàng tung mình vào đêm tối. Khi chàng về đến khách điếm thì trời quá khuya, mọi người đã ngủ. Chàng về phòng trùm chăn, đánh một giấc ngon lành.

    Tự-Mai giật mình tỉnh giấc vì nhiều tiếng nói lớn:

    - Thượng-thư tả thừa, lĩnh Hàn-lâm thị độc học sĩ Yến Thù, tuân chỉ Thiên-Thánh hoàng đế đến rước Khai-Quốc vương cùng sứ đoàn về Nam-thanh điện cư ngụ.

    Có tiếng Khai-Quốc vương:

    - Thực nhọc công đại học sĩ. Kính mời đại học sĩ vào.

    Vương thân ra tiếp Yến Thù, truyền pha trà. Phân ngôi chủ khách xong, vương nói :

    - Xin đại-học sĩ chờ mấy khắc, để tiểu vương cho tùy tùng chuẩn bị.

    Vào trong, thấy nét mặt vương phi bối rối, vương hỏi:

    - Có truyện gì không?

    - Bảo-Hòa, Thông-Mai, Tự-Mai không có tin tức gì cả.

    - Hỏi chim ưng xem.

    - Thiệu-Thái hỏi rồi, nhưng chim ưng không biết nói. Bảo nó đi tìm ba người, chúng đi mất tích từ sáng tới giờ.

    Ngô Cẩm-Thi lo nghĩ:

    - Hay bị bắt hết rồi.

    Lê Văn lắc đầu:

    - Với võ công ba người, nếu chẳng may bại lộ, ắt có trận đấu long trời lở đất mới bị bắt. Ba người mà bị bắt, thì thị vệ đã kéo tới vây kín Bồng-lai đảo rồi. Em chắc vô sự.

    Mỹ-Linh sủng ái cậu em Tự-Mai cùng cực. Nàng nói:

    - Thôi ta cứ dọn hành trang của nó tới điện Nam-thanh. Hễ nó trở về, khách điếm chỉ cho nó tới chỗ ta ở.

    Nói rồi Mỹ-Linh vào phòng Tự-Mai dọn đồ cho cậu sư đệ. Vừa vào tới phòng, một cảnh làm nàng vừa bực mình, vừa vui mừng: Tự-Mai ngồi xếp bằng tròn trên dường, hai bàn tay banh mắt, căng miệng, thè lưỡi nhát nàng.

    Vừa lo lắng cho em, bây giờ thấy nó an toàn, còn trêu mình. Mỹ-Linh nổi giận. Nàng nhảy tới kéo tai y. Tự-Mai không dám chống lại, để Mỹ-Linh nắm tai lôi ra ngoài. Nàng kéo Tự-Mai chạy khắp nhà. Mọi người đều bật cười.

    Khai-Quốc vương bảo cháu:

    - Tạm thời cho Tự-Mai nợ một lần. Khi khác tính tội cũng chưa muộn.

    Yến Thù rước cả sứ đoàn lên xe ngựa, có thiết kị hộ tống, hướng Nam-thanh điện. Nam-thanh điện đã được lau chùi, đốt trầm hương chờ đón sứ đoàn. Thù nói bằng tiếng Việt:

    - Vương gia! Nam-thanh điện có đủ xe cộ, mã phu, ngựa tốt, cùng nữ tỳ, bộc phụ. Viên quản Nam-thanh cung tên Triệu Tiền. Vương gia cần gì xin cứ sai y. Y sẽ lo liệu đủ.

    Trước khi rời Nam-thanh điện, Yến Thù nói:

    - Vào giờ Tỵ ngày mai, các ứng sinh phò mã chín mươi ba châu sẽ đến bộ Lễ để tuyển chọn vòng đầu. Nếu vương gia có thời giờ, xin thỉnh ghé qua xem cho vui.

    Đợi Yến Thù đi rồi, Trần Bảo-Dân gọi chim ưng canh gác, còn tất cả vào trong phòng nghe Tự-Mai thuật về tất cả những gì đã diễn ra hôm qua. Y thuật lại tỷ mỷ từng chi tiết một, chỉ dấu không nói đến việc nhà vua trao thẻ bài trên

    ghi nó là nghĩa đệ.

    Tôn Đản hỏi Lê Văn:

    - Có ba điều anh không hiểu.

    - Ba điều gì?

    - Một là, tại sao Văn đệ không yêu cầu nhà vua ưng cho vấn đề to lớn, mà chỉ đòi viết tặng ba mươi bài thơ.

    Thanh-Mai nói sẽ:

    - Không phải Văn đệ yêu cầu đâu, mà tiên cô Bảo-Hòa sai nó đấy. Chị đoán thế này: Bảo-Hòa thấy nhà vua với Tự-Mai kết bạn, ắt sau này khắp Tống, Việt đều biết. Vì vậy nếu như Tự-Mai cầm lệnh chỉ của nhà vua trao một đại thần. Đại thần thấy bút tích của hoàng đế thì tin ngay.

    Lê Văn nhảy dựng lên:

    - À, phải rồi, bà Bảo-Hòa muốn biết tuồng chữ của nhà vua. Sau này, nếu cần sẽ làm lệnh chỉ... giả.

    Thanh-Mai cười:

    - Đề phòng vậy thôi.

    Tôn Đản hỏi:

    - Còn vấn đề thứ nhì: Lê Văn nhờ nhà vua một điều. Nhà vua gật đầu. Thế việc đó là việc gì vậy?

    Lê Văn cười:

    - Em nghĩ rằng: Bố em bắt em phải ứng thí phò mã. Khi đấu võ, em mà giả bộ thua thì tiên cô Bảo-Hòa biết liền. Bà ấy không bẹo tai, mà mách bố. Bố sẽ đánh em què giò. Vì vậy em xin nhà vua: khi em điện thí về văn, nhà vua tìm cớ đánh em trượt. Thế là hòa cả làng.

    Khai-Quốc vương lắc đầu:

    - Hư qúa. Còn điều nàng Tử yêu cầu Tự-Mai là điều gì vậy?

    Tự-Mai nói sẽ:

    - Phụ thân nàng bị Tào Lợi-Dụng hại. Nàng nhờ chúng ta hạ y dùm. Việc hạ Tào không khó, bởi chính nhà vua cũng muốn làm việc đó. Vì vậy em gật đầu.

    Vương nghe xong, nắm tay Tự-Mai:

    - Mục đích chuyến đi của chúng ta là kết hiếu với Tống. Nay Thiếu-Mai kết thân được với Lưu hậu. Tự-Mai kết thân với Lý thái phi, cùng Thiên-Thánh hoàng đế. Hôm nay chúng ta tới bộ Lễ xem tuyển phò mã, nhân tiện kết thân với anh hùng bốn phương. Vả ta cần đi, để xem ba ứng sinh Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn trổ tài.

    Ăn sáng xong, vương phân phối cho Bảo-Dân, Khấu Kim-An, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm, Ngô Cẩm-Thi giữ nhà. Nhất là thù tiếp ba nàng Hồng, Thanh, Tử. Còn lại vương với vương phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái áp tải ba ông thiên lôi đi ứng tuyển phò mã.

    Tôn Đản thấy rõ ràng mình đi ứng tuyển phò mã, trong lòng như lửa đốt, sao Ngô Cẩm-Thi vẫn vui cười như không có gì xẩy ra? Y muốn phân trần với nàng, mà không có dịp.

    Trước khi lên xe, Khai-Quốc vương dặn các em:

    - Trong gần ba trăm người về ứng tuyển lấy một phò mã, mười bẩy rể của đại thần này, chúng ta có ba ứng sinh. Về võ công chúng ta không sợ bất cứ thiếu niên nào. Nhưng việc tuyển chọn có ba kỳ. Kỳ một xem hình thể, bệnh tật, tuổi tác, lý lịch đều do các quan bộ Lễ đảm nhiệm. Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích, thuộc phe chủ xâm lăng Đại-Việt. Tôn Thích vốn xuất thân làm Ngự-y. Y đã nghe tiếng Hồng-Sơn đại phu, tỏ ra ganh ghét, dèm pha người. Nay gặp Lê Văn, chắc y sẽ gây khó dễ. Ngược lại Phùng Nguyên kiêm thêm chức vụ Thiên-văn lịch số, chủ trương đánh Tây-hạ, Kim trước. Vì vậy các sư đệ phải khéo léo lắm mới được. Dù y gây rắc rối gì, ta cũng thản nhiên như không. Nhưng...

    Vương ngừng lại, suy nghĩ, rồi tiếp:

    - Nếu bất cứ kẻ nào nhục mạ quốc thể, ta không để yên. Ta phải nhân dịp này, tìm xem những kẻ nào chủ Nam xâm, kẻ nào chủ hòa bình, rồi còn đối phó. Thôi ta đi.

    Xe tới bộ Lễ.

    Hào kiệt các nơi tụ về đông như kiến, đều đứng chờ ở ngoài cổng. Kẻ đi ngựa, người đi xe. Cứ mỗi ứng viên lại có thân thuộc tháp tùng, thành ra số người hội về có đến hàng mấy vạn.

    Mỹ-Linh dặn các em:

    - Theo như thể lệ, lát nữa sẽ có quan Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích, Lễ-bộ tham-tri Phùng Nguyên đích thân đọc danh sách ứng viên vào. Tổng cộng Tống có chín mươi ba châu, mỗi châu ba người trúng sơ tuyển, thành hai trăm bẩy mươi chín người. Ngoài ra còn Đại-Việt, Bắc-biên, Tây-hạ, Thổ-phồn, Đại-lý, Đại-liêu, Xiêm-la, mỗi nơi ba người nữa thành ba trăm. Ba trăm người chia làm ba mươi cửa. Mỗi cửa mười người vào. Các em phải nhớ một điều: Chúng ta sang Tống kết hiếu với anh hùng. Phải hết sức lễ độ, nhũn nhặn. Trừ trường hợp nguy đến tính mệnh, còn ngoại giả cấm xứ dụng võ công.

    Thanh-Mai tiếp:

    - Các em xuống xe làm quen với anh hùng thiên hạ đi. Kìa, phái Hoa-sơn kìa.

    Phái Hoa-sơn đi trên ba chiếc xe, chiếc đầu có Bắc-Sơn lão nhân ngồi với Khúc Chẩn. Chiếc thứ nhì có Tây-Sơn lão nhân ngồi với Triệu Tiết. Chiếc thứ ba Địch Thanh ngồi với Nam-sơn lão nhân,.

    Đám Hoa-sơn đã từng thân quen với Tự-Mai, Lê Văn, Tôn Đản. Hai bên gặp nhau truyện trò nổ như pháo rang. Chỉ riêng Triệu Tiết, Khúc Chẩn, nhìn Tôn Đản, Tự-Mai bằng con mắt hằn học.

    Lê Văn vồn vã hỏi Triệu Tiết:

    - Thế nào, thương thế Triệu huynh khỏi hẳn chưa?

    Triệu Tiết nhớ lại trận đánh Tản-lĩnh, y xấu hổ cau mặt lại:

    - Đa tạ Lê huynh. Đệ khỏi rồi.

    Người mà Triệu Tiết thù ghét nhất là Tự-Mai. Y hỏi mát:

    -_Trần huynh cũng ứng tuyển phò mã đấy à? Tôi tưởng trên thế gian này Trần huynh chỉ có sư muội Thuận-Tường mà thôi?

    Tự-Mai cười:

    - Câu hỏi này xin nhường cho Triệu huynh tự trả lời. Triệu huynh nhất tâm, nhất trí chỉ biết có Thuận-Tường, mà sao cũng ứng tuyển phò mã?

    Triệu Tiết nổi giận:

    - Dĩ nhiên ta chỉ biết có sư muội. Ta ứng tuyển...

    Tây-Sơn lão nhân đưa mắt cho Triệu Tiết:

    - Không được nhiều lời.

    Tự-Mai vái Tây-Sơn lão nhân:

    - Đại sư! Tiểu bối nghe đại sư có tài thông thiên, huyền diệu, mong đại sư tính số Tử-vi xem tiểu bối có thể trở thành phò mã không?

    Tây-Sơn lão nhân kinh ngạc nghĩ thầm:

    - Tại sao thiếu niên này biết mình giỏi Tử-vi? Điều mà chỉ có hoàng cung Tống cùng đệ tử phái Hoa-sơn rõ thôi. Y từ xa tới cũng biết, quả thực sứ đoàn Đại-Việt nhiều tai, lắm mắt.

    Ông chỉ vào gốc cây gần đó:

    - Bần đạo cũng đang muốn nghiên cứu lá số kỳ diệu của công tử đây. Nào, chúng ta lại gốc cây kia cho yên tĩnh.

    Tự-Mai xuống xe, theo Tây-Sơn lão nhân. Chàng biết lão sẽ hỏi chàng về giờ, ngày, tháng, năm sinh. Chàng nghĩ thầm:

    - Mình khai trước lá số, tỏ cho lão rõ mình cũng biết sơ về khoa này.

    Nghĩ vậy chàng chắp tay:

    - Thưa đại sư, tiểu bối tuổi Nhâm-Tý, sinh tháng năm, ngày hai mươi bốn, giờ Sửu.

    Tây-Sơn lão nhân xòe bàn tay ra bấm, ông gật gật đầu rồi nói:

    - Công tử! Công tử thuộc loại người hiếm có trên thế gian. Nói rằng số công tử tốt cũng cực tốt, mà xấu cũng cực xấu. Nhưng cũng may cái xấu đã được Trần đại hiệp vô tình giải cho rồi, nên chỉ còn cái tốt thôi.

    - Xin đại sư chỉ rõ hơn.

    - Mệnh công tử lập tại Tỵ. Tử-vi, Thất-sát thủ mệnh. Công tử tuổi Nhâm, đắc cách cực tốt, mà trong Tử-vi kinh nói:

    " Tử, Sát Tốn cung,
    Đế huề bảo kiếm.
    Tử, Tuyệt nhập xâm,
    Đa sát chi nhân.
    Hạnh ngộ chiến công, vi đại tướng".
    (Câu trên nghĩa là: Người có Tử-vi, Thất-sát thủ mệnh tại Tỵ, thêm sao Tử, Tuyệt nữa, thì luôn gặp chiến công thành đại tướng. Nhưng tính hay đa sát).

    - Tử-vi là sao đế tượng, lớn nhất của tinh đẩu. Tử-vi thủ mệnh, thì mệnh công tử thuộc loại lớn, lớn vô cùng. Bản chất lớn, mà Tử-vi lại chủ thông minh. Nên công tử học một biết mười. Tử-vi là vua, cần phải có văn, võ phù tá, bằng không cũng là cô quân. Thất-sát cư chung với Tử-vi... Thất-sát là thượng tướng tinh đẩu, là võ quan. Công-tử sinh giờ Sửu, được Văn-khúc thủ mệnh, Văn-xương cư quan. Như vậy là có đủ văn võ phò tá. Mệnh công tử lớn là thế đó.

    Ông chau mày suy nghĩ:

    - Tử-vi vốn thông minh, lại thêm Văn-khúc thủ mệnh nữa, thành ra công tử thuộc loại thông minh quán thế. Ông vua thông minh, có văn võ phù tá, thế nhưng vua có uy quyền hay vua bù nhìn? Làm vua, mà không có của cũng vô ích. Đây công tử tuổi Nhâm nên được thêm Hóa-quyền thủ mệnh; Lộc-tồn cư Hợi, thêm Hóa-khoa ở Thiên-di. Thành ra ông vua có quyền, có của chứ không phải cô quân nghèo khó.

    Tự-Mai định hỏi, Tây-Sơn lão nhân xua tay không cho chàng hỏi. Ông tiếp:

    - Về công danh. Cung quan có Liêm-trinh, Phá-quân, Văn-xương, Đào-hoa, Liêm, Phá chủ về võ. Văn-xương chủ về văn. Vậy công tử xuất ra làm võ, rồi lĩnh luôn cả văn lẫn võ. Đào-hoa cư quan là cách sớm hiển đạt công danh. Vì Tử-vi kinh nói:

    " Đào hoa cư quan,
    Tảo tuế thanh vân đắc lộ"
    (Nghĩa là người mà có Đào-hoa đóng ở cung quan, thì sớm hiển đạt).

    Tự-Mai hỏi:

    - Đại sư nói số tiểu bối tốt, cũng cực tốt. Xấu cũng cực xấu. Cực tốt đại sư đã nói rồi. Còn cực xấu nó ra làm sao?

    - Xấu vì mệnh công tử có Tử-vi thủ, thêm Thất-sát. Tử-vi là ông vua. Thất-sát là thượng tướng của tinh đẩu, hóa hình là thanh kiếm. Cái cách Tử-Sát trong Tử-vi kinh gọi là Đế huề bảo kiếm tức ông vua đeo kiếm. Trong khi công tử thuộc Hỏa-lục-cục, sao Tử cư quan, sao Tuyệt ở thiên-di, đúng với câu trên.

    ... Tóm lại công tử thông minh, công danh hiển đạt, được chúa yêu trao cho trọng quyền. Nhưng hiềm vì sau này làm đại tướng, lâm vào tình trạng đa sát, thành ra thất đức.

    Ông ngừng lại, mỉm cười:

    - May thay cái xấu của công tử đã được phụ thân giải cho rồi, do vậy không đáng ngại nữa.

    - Tiểu bối không hiểu.

    - Vô tình, Côi-Sơn đại hiệp gửi công tử cho sư thái Tịnh-Huyền giảng về Phật-pháp, lòng dạ công tử trở thành từ bi, sát nghiệp do đó giải được phần nào. Nhưng cũng chính vì lẽ ấy, công tử sẽ chán mùi thế tục, thích tiêu dao với cỏ cây.

    Tự-Mai định hỏi xem việc ứng tuyển phò mã của chàng sẽ ra sao, nhưng chàng chợt nghĩ lại:

    - Ông này đang phò trợ cho hai đệ tử Triệu Tiết, Khúc Chẩn ứng tuyển, đương nhiên đối đầu với mình. Mình chả nên hỏi ông việc này.

    Chàng chắp tay:

    - Đa tạ đạo sư.

    Chợt có tiếng quát tháo, rồi một cỗ xe tứ mã phóng tới. Tự-Mai nhìn thấy rõ: Tào Nhuế ngồi chễm chệ ở trên. Xung quanh có hơn mười võ sĩ theo hầu. Chàng nghĩ thầm:

    - Rõ ràng hôm qua nhà vua sai Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản bắt giam y, mà sao nay y còn thung dung ứng tuyển phò mã? Thế lực Tào Lợi-Dụng thực kinh khiếp.

    Có tiếng lóc cóc, chàng nhìn thấy ba chiếc xe chạy tới, trên xe kéo lá cờ, trên lá cờ thêu hình bông sen. Giữa nhụy sen một nhà sư ngồi kiết già. Tự-Mai biết đó là biểu hiệu của phái Thiếu-lâm. Thoáng nhìn thấy Quách Quỳ ngồi bên một nhà sư lớn tuổi trên xe đi đầu, tính tinh nghịch nổi dậy, Tự-Mai hướng Quách Quỳ chắp tay vái:

    - Quách huynh! Quách huynh đã trúng sơ tuyển làm phò mã ư?

    Nghe tiếng quen quen, Quách Quỳ quay lại thấy Tự-Mai, Tôn Đản, Lê Văn, mặt y sa sầm, nhưng bất đắc dĩ phải đáp lễ:

    - Vâng, tiểu đệ nhờ ơn Thái-sư phụ, trúng sơ tuyển. Nên hôm nay về đây.

    Tự-Mai nhớ lại, Mỹ-Linh kể truyện Triệu Anh chết thảm trên ngọn Tuyệt-phong, chàng nói bằng giọng ôn nhu:

    - Hôm trước nghe tin tôn sư vị quốc vong thân, anh em chúng tôi cùng bùi ngùi thương tiếc. Hôm nay gặp Quách huynh đây, chúng tôi xin chia buồn.

    Tự-Mai hướng nhà sư:

    - A-di Đà-Phật, đệ tử Trần Tự-Mai, thuộc Đại-Việt, không dám thỉnh pháp danh đại sư.

    Vị sư già thấy Tự-Mai lễ độ, rõ ra một Phật-tử thuận-thành, ông cũng đáp lễ:

    - Bần tăng pháp danh Minh-Đức. Chẳng hay thí chủ thuộc châu nào?

    - Đệ tử không thuộc chín mươi ba châu, mà thuộc Đại-Việt.

    Mắt nhà sư hiện ra tia sáng long lanh:

    - Đại-Việt nổi tiếng nhiều cao nhân võ học, không biết tôn sư là ai? Chắc thí chủ nhờ tôn sư truyền cho tuyệt học, nên mới được cử đại diện cho quý quốc ứng tuyển phò mã.

    Nhà sư muốn hỏi sư phụ truyền thụ võ công cho Tự-Mai, chàng vờ như hiểu lầm, đáp:

    - Bổn sư của đệ tử pháp danh thượng Tịnh hạ Huyền. Thưa đại sư, nói ra thực xấu hổ, bổn sư dạy thực nhiều, mà đệ tử vẫn chưa vượt xa hơn được bộ Kim-cương cùng bài kinh Bát-nhã Ba-la mật-đa tâm kinh.

    Chàng suýt xoa:

    - Sau đệ tử có duyên gặp Minh-Thiên đại sư giảng cho yếu chỉ của Thiền-môn. Đệ tử ước ao mãn việc ở đây sẽ được viếng chùa Thiếu-lâm để nghe các cao tăng giảng về lẽ huyền diệu đạo đức Thế-tôn.

    Thiền-sư Bồ-đề Đạt-Ma cỡi thuyền từ Tây-trúc qua Đại-Việt, rồi sang Trung-thổ, mục đích hoằng đương đạo pháp, độ cho những người trong bến mê. Sau đó, đồ tử đồ tôn của người thành lập phái Thiếu-lâm. Võ lâm Trung-thổ chỉ biết về võ công Thiếu-lâm. Trong khi các cao tăng lại tự hào về Thiền-học của mình.

    Minh-Đức thấy Tự-Mai không chú ý đến võ học, mà chỉ ước ao nghe giảng Thiền-học, ông mở to mắt nhìn chàng, trong lòng nghĩ thầm:

    - Đúng là đệ tử danh gia, mới có cái nhìn thấu đạt như vậy.

    Ông chắp tay:

    - Bản tự lúc nào cũng mở cửa rộng đón nhận những người có túc duyên như thí chủ.

    Quách Quỳ quen cả hai bên, y giới thiệu một lượt. Khi y giới thiệu đến một thiếu niên dáng điệu thanh nhã tên Đào Bật. Tự-Mai nghe tên y quen quen, chưa nhớ ra đã nghe ở đâu, thì Thanh-Mai đã hỏi:

    - Đào công tử. Hôm trước công tử ghi danh ứng tuyển làm động trưởng Bắc-biên, rồi sao lại bỏ cuộc? Với võ công, nhân phẩm của công tử mà ứng tuyển làm châu trưởng Phong-châu, chắc chắn phải được.

    Đào Bật chắp tay:

    - Tiểu bối cũng định tham dự đấy, nhưng cuối cùng sư phụ truyền lệnh phải luyện võ hầu ứng tuyển phò mã, nên bỏ cuộc.

    Thanh-Mai cười:

    - Tôn sư thực xứng đáng là người tính xa. Làm phò mã dĩ nhiên hơn làm châu trưởng.

    Đến đó, tiếng trống nổi lên. Mọi người cùng im lặng. Quan Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích xuất hiện trên đài, cầm loa xướng:

    - Xin các vị anh hùng bốn phương nghe.

    Chờ cho mọi người hoàn toàn im lặng Tôn Thích tiếp:

    - Vâng chỉ dụ của Thiên-Thánh hoàng đế về việc tuyển phò-mã. Hôm nay thiểm bộ trách nhiệm tuyển kỳ thứ nhất. Các vị khi nghe đến tên, xin ứng thanh dạ, rồi tiến vào cổng.

    Tôn Thích ngừng lại môt lát, rồi tiếp:

    - Những ai trúng sơ tuyển, nhưng vắng mặt hôm nay, coi như bỏ cuộc, dĩ nhiên không được vào kỳ tuyển võ. Sau đây là những điều lệ cuối cùng: Một là gái giả trai, phải tự biết thân phận rút lui. Hai là những người đời ông, đời cha từng phạm tội đại nghịch, trộm cướp, hoặc bất cứ tội gì phải đi tù, phát vãng, không được vào dự kỳ này. Dù cố vào dự, sau khám phá ra, bị mang tội khi quân, phải tội trảm. Ba là những người đời ông, cha, hay sư phụ từng theo Hồng-thiết giáo, bang Nhật-hồ, phải lui ngay. Nếu miễn cưỡng dự, sẽ bị chém đầu.

    Tham-tri Phùng Nguyên cầm loa tiếp:

    - Bây giờ xướng tên ai, người ấy vào. Phải giao vũ khí, ám khí cho thân thuộc ở ngoài giữ.

    Tiếng loa xướng:

    - Hoa-sơn Triệu Tiết, Khúc Chẩn.

    Hai người dạ thực lớn, rồi bái biệt sư phụ vào trong cổng. Tiếng loa tiếp:

    - Thiếu-lâm Yên Đạt, Tu Kỷ.

    Hai người dạ, rồi tiến vào. Lê Văn nói nhỏ:

    - Tu Kỷ bị dập chim ở Bắc-biên rồi, chỉ nên ứng tuyển thái giám mà thôi, chứ làm phò mã sao được?

    Mọi người cười ồ. Tiếng loa lại gọi:

    - Thiếu-lâm Đào Bật, Quách Quỳ.

    Hai người ứng thanh, rồi vào cổng. Loa gọi hai trăm bẩy mươi chín người, nhưng chỉ có hai trăm năm chục người hiện . Tiếp theo Tôn Thích nói lớn:

    - Bây giờ tới bẩy ngoại quốc.

    Loa gọi đủ hai mươi mốt người. Tên Tự-Mai, Lê Văn đứng cuối cùng sau cả Tôn Đản. Ba thiếu niên vào trong, lập tức cánh cổng bộ Lễ đóng lại. Ngay khi bước vào sân, ba anh em bị chia nhập làm ba toán khác nhau.

    Khai-Quốc vương cùng vương phi, Mỹ-Linh, Thiệu-Thái trở về Nam-thanh điện.

    Tối hôm đó, Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn trở về. Khai-Quốc vương hỏi:

    - Lê Văn kể cho anh nghe công cuộc tuyển ra sao?

    - Bọn đệ bị chia làm mười tám toán. Mỗi toán do một quan bộ Lễ khảo hạch. Họ hỏi về nguồn gốc từ ông tam đại trở xuống. Hỏi về sư phụ. Sau đó một thái y khám bệnh.

    Mỹ-Linh hỏi:

    - Ông ta khám ra sao?

    Lê Văn lắc đầu:

    - Ông nói thầm vào từng tai xem có bị điếc không? Ông bắt mạch, xem lưỡi. Cuối cùng...

    - Cuối cùng cân xem nặng bao nhiêu cân, đo xem cao bao nhiêu

    thước phải không?

    - Không! Không nói với con gái được.

    Mỹ-Linh cốc vào đầu Lê Văn:

    - Tất cả con gái ở đây đều lớn hơn cậu nhiều. Cậu là em nhỏ nhất, cứ nói đi. Ai mà chấp với cậu.

    Lê Văn bẽn lẽn:

    - Ông ta sờ chim, rồi nắn hai hột. Nhột chết đi được.

    Mọi người cười ồ. Lê Văn tiếp:

    - Có hai người bị loại về vụ khám chim này.

    Thuận-Tông tò mò:

    - Sao?

    - Còn sao nữa. Một người tên Lý Hiến. Y không có chim. Còn một người hai trứng lép. Y tên Tu Kỷ.

    Nghe đến tên Tu Kỷ, mọi người đều nhớ lại trận đấu tuyển người thống lĩnh Khê-Động. Tu Kỷ bị đối thủ bóp chim đến trợn mắt hút chết. Hôm đó Lê Văn khám đã nói: Y không thể làm chồng nữa.

    - Sau khi đúc kết, bộ Lễ chỉ còn giữ lại một trăm tám chục người. Ngày mai vào yết kiến nhà vua, dự thi văn trước điện.

    Cơm chiều dọn ra, mọi người chuẩn bị ăn cơm, thình lình Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn cùng kêu thét lên tỏ vẻ đau đớn.

    Thanh-Mai hỏi:

    - Cái gì vậy?

    Lê Văn nhăn nhó:

    - Con chim. Con chim, ối đau chết.


  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI MỘT
    Triều đình Đại Tống

    Lê Văn cùng Tôn Đản, Tự-Mai chạy vào phòng riêng. Y vội kéo quần Tự-Mai, Tôn Đản ra xem: Dương vật bị sưng lớn đỏ lòm. Y nói:

    - Chúng mình bị trúng Chu-sa độc phấn rồi. Gọi ông heo mau.

    Thiệu-Thái chạy vào, chàng nâng chim ba cậu em lên coi: Sưng đỏ lòm. Đúng là bị trúng Chu-sa phấn. Chàng bảo cả ba ngồi ngay ngắn lại, rồi vỗ tay lên huyệt Bách-hội ba người. Cả ba rùng mình một cái, mồ hôi toát ra ướt hết quần áo. Mùi hôi tanh khủng khiếp xông lên. Khoảng nhai dập miếng trầu, cả ba đã hết đau, cùng mặc quần áo lại.

    Thiệu-Thái dặn:

    - Ba đứa đi tắm, rồi trở ra đây cho cậu hai hỏi truyện.

    Tắm xong, Tôn Đản văng tục:

    - Con bà nó. Nếu không có ông ỉn, e bọn mình mất chim, phải làm thái giám không chừng.

    Lê Văn hỏi Thiệu-Thái:

    - Ông heo ơi. Em đề nghị thế này: Ông heo dạy bọn em luyện Hồng-thiết tâm pháp. Không cần dạy đến trình độ có thể giải độc cho người, mà chỉ cần tự chống được mọi độc tố cũng đủ rồi.

    Mỹ-Linh bước vào, nàng nắm tai Lê Văn vặn tréo đi:

    - Vừa rồi em gọi anh Thiệu-Thái là gì?

    - Ối đau. Bà sề làm gì người ta đây. Tai em là tai người, vặn đứt đem cho chó, chó cũng không ăn đâu. Tốt hơn hết vặn tai ông heo làm giò thủ hoặc luộc lên ăn dòn đáo để.

    Mỹ-Linh càng vặn tai mạnh hơn:

    - Hôm ở Tân-Dã khi nhờ chị cứu Nong-Nụt cho. Em đã hứa từ nay không được gọi anh Thiệu-Thái bằng cái tên ỉn nữa. Tại sao nay lại nuốt lời?

    - Ái, em hứa không gọi tên ỉn. Vừa rồi em gọi là ông heo chứ có gọi cái tên cúng cơm kia đâu?

    Tính Mỹ-Linh vốn hiền hậu, lại tu Thiền từ bé. Vì vậy dù mấy cậu em phá đến đâu nàng cũng không giận. Biết môn võ mồm, muôn ngàn lần không thể địch lại Tự-Mai, Lê Văn, nàng đành buông tai nó ra:

    - Chị không thèm nói truyện với em nữa.

    Lê Văn chưng hửng, chàng nắm tay Mỹ-Linh:

    - Chị giận đấy à? Đi tu mà giận thì sao thành Phật được?

    Biết võ công này có hiệu quả với Lê Văn, nàng đẩy tay y ra:

    - Từ nay chị không nói truyện với em nữa. Suốt từ khi sang Tống đến giờ, em với Tự-Mai phá chị đến điên đầu lên được.

    - Em không phá chị thì phá ai bây giờ? Không lẽ phá hai bà chằng Bảo-Hòa, Thiếu-Mai để ăn đòn? Hay phá bà la sát Thanh-Mai để bà tụng cho mấy bộ kinh A-Di-Đà?

    Thế là Mỹ-Linh bật cười, bẹo má y:

    - Cái mỏ như con két.

    Chị em cùng cười.

    Khi Tự-Mai cùng Lê Văn trở ra, đã thấy Khai-Quốc vương, vương phi, Thông-Mai, Bảo-Hòa ngồi đó từ bao giờ. Thấy Thông-Mai, Bảo-Hòa, hai đứa trẻ phát rét, không dám đùa nữa.

    Khai-Quốc vương hỏi Lê Văn:

    - Em thử đoán xem ai đã hạ độc thủ này? Chúng hạ độc với mục đích gì?

    Lê Văn đáp ngay:

    - Chắc chắn người hạ độc thuộc bang Nhật-hồ Trung-quốc. Có hai trường hợp xẩy ra. Nếu do viên y quan bôi phấn vào tay khi khám hạ độc, thì ít nhất có ba tên đồng bọn. Vì ba đứa thuộc ba toán khác nhau.

    Bảo-Hòa gật đầu:

    - Đúng vậy.

    Bảo-Hòa phân tích:

    - Cháu nghĩ chúng không chỉ hạ độc bọn ba đứa nhà mình, mà còn hạ độc tất cả các ứng viên. Vậy có khi cả mười tám tên đều hạ độc thủ. Trường hợp này tất phải Lưu thái hậu, nhà vua hay Định-vương mới đủ uy quyền ra lệnh. Nhà vua vốn hiền hậu, lại đang nhờ vả ba đứa, chắc không phải ông. Định-vương là người quân tử, không thể làm truyện ác đức. Rút cuộc chỉ còn mình Lưu hậu mà thôi. Cuộc tuyển phò mã do Lưu hậu chủ xướng, không lẽ bà hại bà?

    Mọi người đều công nhận lời Bảo-Hòa hợp lý. Nàng tiếp:

    - Bây giờ chúng ta thám thính xem có ứng sinh nào trúng độc nữa không. Nếu tất cả đều bị trúng độc, ta lập tức cho Tự-Mai nhập cung báo với nhà vua, rồi ta bắt một tên y quan tra khảo, tất y khai ra người truyền lệnh. Còn như không có ai trúng độc cả, thì ba đứa trẻ nhà mình trúng độc do nguyên cớ khác.

    Đến đó, Khấu Kim-Hồng vào cung tay:

    - Khải vương gia, có Tây-sơn lão nhân cầu kiến.

    Vương vội đứng dậy, vẫy Mỹ-Linh, Thiệu-Thái theo. Ngoài phòng khách Tây-sơn lão nhân cùng Địch Thanh, Triệu Tiết, Khúc Chẩn đang ngồi chờ. Thấy Vương ra, Tây-Sơn lão nhân cùng ba đệ tử đứng dậy chắp tay hành lễ. Vương vội đáp lễ mời ngồi. Cứ nhìn sắc diện ba đệ tử Hoa-sơn, Vương đã biết việc gì xẩy ra. Vương hỏi lão:

    - Đạo sư. Đạo sư thử nghĩ xem ai đã đánh thuốc độc bọn trẻ?

    Tây-Sơn lão nhân thở dài:

    - Khó đoán quá. Dường như kẻ nào đó định phá hoại cuộc tuyển phò mã thì phải. Bần đạo phải khẩn tâu lên Hoàng-đế điều tra ngay mới được. Bần đạo nghe trong sứ đoàn Đại-Việt có công tử của Hồng-Sơn đại phu. Vì vậy bần đạo đem ba tên đệ tử tới nhờ người trị cho.

    Khai-Quốc vương nhìn Địch Thanh:

    - Trạng nguyên đã trúng Chu-sa phấn hai lần. Vậy lần trạng nguyên có thấy giống những lần trước không?

    Địch Thanh cung tay:

    - Khải vương gia giống hệt. Vừa nóng, vừa nhức, lại vừa đau.

    Vương mỉm cười:

    -- Thế thì có thuốc tạm cầm đau đớn. Thuốc này cô gia đã tặng Định-vương khá nhiều. Tuy vậy Lê Văn mang theo đây mười mấy bình, ta dùng để trấn tĩnh rồi tính sau.

    Vương truyền mời Lê Văn. Y thấy tình trạng ba đệ tử Hoa-sơn thì lắc đầu:

    - Ba anh em chúng tôi cũng bị trúng độc như các vị. Đây thuốc đây, các vị uống vào cầm cơn đau, rồi ta tìm cách trị sau.

    Địch Thanh hỏi:

    - Lê công tử, tại hạ nghe Thân giáo chủ có thể dùng thần công trị tuyệt độc tố Chu-sa. Xin công tử mời Thân giáo chủ trị cho anh em tại hạ, nguyện không bao giờ quên ơn.

    Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Tây-Sơn lão nhân, rồi mỉm cười:

    - Xin đạo sư hiểu cho. Chúng tôi đang trên đường đi sứ, nên không muốn, và không thể làm trái với những thế lực tối cao.

    Lão nhân lắc đầu:

    - Khải vương gia, bần đạo nghĩ Hoàng-thượng không hề biết gì về việc này.

    Triệu Tiết ngơ ngác hỏi:

    - Sư thúc, đệ tử không hiểu ý tứ cao xa của sư thúc với vương gia.

    Địch Thanh vốn cực kỳ thông minh, y giảng giải cho Triệu Tiết:

    - Sư đệ ơi! Sư đệ nên biết việc đầu độc này do mười tám y quan cùng ra tay. Phàm người thường, đụng vào Chu-sa phấn, thì tay mình bị trúng độc trước. Đây các y quan không bị trúng độc, hẳn họ đã có thuốc phòng. Việc tuyển phò mã do chỉ dụ của Thái-hậu, mà mười tám y quan cùng ra tay phá, e có thế lực cực lớn sai khiến.

    Triệu Tiết hiểu ra:

    - Đệ hiểu rồi. Vì thế Vương gia mới phán : Không muốn và không thể làm trái với thế lực tối cao. Sư thúc cho rằng ý vương chỉ Thiên-tử. Người mới nói rằng Hoàng-thượng không biết gì về việc này.

    Lê Văn tiếp:

    - Cho nên anh Thiệu-Thái không thể trị dứt cho các vị. Trị như vậy, là gây hấn với thế lực tối cao. Theo tại hạ, có lẽ Thái-hậu hoặc triều đình chủ trương việc này để thử công lực của sĩ tử không chừng.

    Tây-Sơn lão nhân chắp tay hướng Khai-Quốc vương:

    - Đa tạ vương gia cứu trị cho ba đệ tử thiểm phái. Bần đạo phải đi yết kiến Thiên-tử ngay, để tâu trình việc này.

    Ba anh em Địch, Triệu, Khúc cáo từ ra về.

    Tự-Mai hỏi Khai-Quốc vương:

    - Sáng mai tất cả ứng sinh phải vào sân rồng điện Sùng-chính yết kiến nhà vua, cùng nhận hoa, sau đó thi văn, đấu võ. Trong khi bộ Lễ loan báo nhà vua tiếp anh cả cũng vào ngày mai. Vậy em có nên đợi cùng mọi người vào, hay theo sứ đoàn?

    - Em nên vào cung báo cho nhà vua biết trước vụ này để người đề phòng.

    Bảo-Hòa mỉm cười:

    - Em với Lê Văn phải nhập cung thực sớm tâu trình cho nhà vua. Hiện Định-vương chuẩn bị giáp binh bao vây tư thất đại thần thuộc dư đảng Hồng-thiết giáo, những biến chuyển dồn dập, rất có thể Lưu hậu ra tay hại nhà vua. Em là em kết nghĩa với nhà vua phải xin theo đến điện Sùng-chính để hộ vệ cho nghĩa huynh.

    Khai-Quốc vương ra hiệu cho mọi người im lặng, rồi nói rất chậm:

    - Mai này sứ đoàn vào triều yết Thiên-Thánh hoàng đế. Trong lúc bách quan lâm triều thì Định-vương cùng Phụ-Quốc, Trung-Đạo với mười trưởng lão bang Nhật-hồ cũ tổ chức chính biến. Dinh thự của đại thần thuộc phe Lưu hậu bị bao vây. Trong cung, đội thị vệ cuối cùng của Lưu hậu sẽ bị bắt. Có người đánh thuốc cho Lưu hậu mê man. Nhưng ta sợ một điều là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn cũng học được Hồng-thiết tâm pháp. Tuy bản lĩnh không bằng Nhật-Hồ lão nhân với Thiệu-Thái, nhưng y cũng có thể giải độc cho Lưu hậu. Còn Lý thái-phi được tôn lên làm Thái-hậu. Khi lâm triều Lý thái-hậu ngồi trong màn thính chính. Bọn thủ hạ Lưu hậu tưởng Lưu hậu ngồi đó. Vì vậy...

    Vương nhìn năm trẻ:

    - Năm hiền đệ tuyệt đối tuân lệnh anh Thông-Mai với chị Bảo-Hòa mà hành sự.

    Tự-Mai, Lê Văn đưa mắt nhìn nhau mỉm cười. Thiệu-Thái hỏi:

    - Có gì lạ không?

    Lê Văn nheo mặt:

    - Anh cả ra lệnh cho bọn em phải tuân lệnh ông kẹ, bà chằng e... thừa. Vì có bao giờ ổng bà nói mà bọn em dám cãi đâu?

    Khai-Quốc vương cười:

    - Đêm nay Bảo-Hòa nhập cung ở bên cạnh Lý hậu bảo vệ bà. Mai lâm triều, giả làm cung nữ ngồi sau bà để điều khiển năm ông phá trời. Còn anh Thông-Mai, sẽ được anh Trung-Đạo cấp thẻ bài giả làm thị vệ tại điện tiền.

    Tự-Mai hỏi:

    - Khi vào thành yết kiến nhà vua, em mặc giả thái giám hay mặc y phục Đại-Việt?

    Vương đáp ngay:

    - Em có thẻ bài, cùng chỉ dụ nhà vua chứng nhận là em kết nghĩa, thì việc gì phải giả thái giám? Cứ đường đường chính chính mặc y phục Đại-Việt nhập thành.

    Vương bảo Lê Văn:

    - Em theo đánh xe cho Tự-Mai cùng vào thành. Tuyệt đối không được đùa nghịch thái quá. Mang theo ít thuốc cùng kim châm cứu.

    Sáng hôm sau, đầu giờ Mão.

    Lê Văn đánh xe cùng Tự-Mai hướng cửa Đan-phượng tiến phát. Trên càng xe, một lá cờ Đại-Viêt bay phất phới. Xe tới cổng hoàng thành. Viên thị vệ ra ngăn lại hỏi:

    - Hai vị là ai? Nhập hoàng thành có việc gì?

    Tự-Mai trình thẻ bài cùng chỉ dụ ra. Viên thị vệ xem qua, rồi chạy vào trao cho một viên hiệu-úy. Viên hiệu-úy cung cung kính kính gọi một tên đội trưởng:

    - Người lấy ngựa, đưa công tử vào cửa Đông-hoa trong Cấm-thành.

    Viên thị vệ lên ngựa dẫn đường. Tới cửa Cấm-thành, y nói lớn:

    - Có đại quý khách.

    Một viên võ quan chạy ra. Tự-Mai trao thẻ bài cho y. Y xem qua, rồi cung cung kính kính:

    - Hoàng thượng hiện ngự tại Sùng-văn điện. Tiểu nhân xin dẫn đường.

    Y đi bộ, Lê Văn đánh xe theo sau. Tới điện Sùng-văn, viên võ quan cầm lấy cương ngựa cột vào gốc cây. Y gọi một tên thái giám:

    - Trịnh công công. Có quý khách tới yết kiến thiên tử.

    Tự-Mai đã nhận ra tên thái giám già Trịnh Đức mà nó đã gặp ở tửu lầu cùng nhà vua. Trịnh Đức thấy em kết nghĩa của thiên tử, y vội cúi rạp người xuống:

    - Thần xin tham kiến nhị vị vương gia. Xin nhị vị chờ, thần vào tâu cùng hoàng thượng đã.

    Trịnh Đức vào một lúc, rồi y trở ra cung tay:

    - Hoàng-thượng tuyên triệu mời hai vị.

    Y mở cửa. Tự-Mai, Lê Văn bước vào.

    Trong căn phòng rộng thênh thang đầy những giá sách. Nhà vua đang ngồi trước án thư, cạnh đỉnh hương khói bốc nghi ngút. Tự-Mai, Lê Văn định hành lễ, nhà vua đã phất tay:

    - Nhị đệ, Lê đệ! Miễn lễ.

    Nhà vua đứng dậy ôm lấy hai trẻ:

    - Ta biết sau cuộc sơ tuyển, thế nào nhị đệ, Lê đệ cũng đến thăm ta. Cho nên ta ngồi chờ sẵn ở đây.

    Tự-Mai hỏi:

    - Tại sao đại ca biết trước?

    - Ta đoán thế này: hai đệ dự cuộc tuyển ở bộ Lễ xong, sẽ lo lắng không ít. Lê đệ sợ bị trúng tuyển, thì sao có thể kết hôn với công chúa Nong-Nụt? Vì vậy Lê đệ nhờ ta ban chỉ cho các quan đánh trượt. Còn nhị đệ, cũng không muốn dự tuyển vì sợ được gả cho một tiểu thư khác. Nhị đệ xin ta gả cung nữ Thuận-Tường cho. Có phải thế không?

    Lê Văn vỗ vào đầu một cái:

    - Bệ hạ xứng đáng là đệ tử của Định-vương. Việc gì bệ hạ cũng đoán trước được. Quả anh em hạ thần có ý đó. Nhưng anh em hạ thần yết kiến bệ hạ khẩn cấp vì lý do khác.

    - Lý do gì?

    Tự-Mai nói:

    - Có âm mưu ám hại toàn thể các ứng tuyển viên phò mã. Mấy trăm thiếu niên tinh hoa con dân Thiên-triều chết tuy không phải việc lớn. Nhưng sĩ dân cho rằng triều đình ám hại anh tài mới là điều đáng buồn.

    Nhà vua kinh ngạc:

    - Truyện ra sao. Nhị đệ kể cho ta nghe từ đầu đến cuối. Ta chưa được tâu trình về việc này.

    Tự-Mai tóm tắt tâu trình một lượt. Nhà vua kinh hãi:

    - Ta nghĩ việc này không phải do Thái-hậu, cũng không do ta, lại càng không thể do Thái-sư. Nhưng ai mà dám lộng hành đến như thế?

    Nhà vua bảo Tự-Mai:

    - Nhị đệ gọi Trịnh Đức cho ta.

    Tự-Mai ra ngoài, hô lên:

    - Hoàng thượng tuyên triệu Trịnh công công.

    Trịnh Đức vào quỳ gối. Nhà vua phán:

    - Người tuyên triệu Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích cùng Lễ-bộ tham tri Phùng Nguyên khẩn cấp cho ta.

    Trịnh Đức tâu:

    - Tâu bệ hạ, Thái-hậu tuyên chỉ thỉnh bệ hạ tới Sùng-chính điện ngay, để dự tuyển phò mã.

    Nhà vua nhìn Tự-Mai:

    - Nhị đệ nghĩ sao.

    - Đại ca đang ở vào thế bất lưỡng lập với bọn cường thần. Từ trước đến nay chúng chỉ biết có Thái-hậu. Chúng coi đại ca như bù nhìn. Việc này chắc do bọn chúng gây ra với mục đích gì khó mà biết được. Như vụ Tào Nhuế, rõ ràng hôm qua đại ca sai bắt giam y, mà sáng nay đệ thấy y đi nghênh ngang ngoài đường. Như vậy chúng còn coi đại ca ra gì đâu.

    Tự-Mai ôm lấy nhà vua:

    - Đại ca ơi, những biến chuyển dồn dập khó có thể đoán trước được. Đại ca cho đệ với Lê Văn theo sau hộ giá, đệ mới an tâm. Nếu như đại ca có gì thì...thì đệ sống không nổi. Một mặt đại ra tuyên chỉ cho tổng lĩnh thị vệ Trần Phụ-Quốc canh phòng Cấm-thành thực cẩn mật. Quanh Sùng-chính điện để một đội võ sĩ thực thân tín. Một mặt sai tổng lĩnh Ngự-lâm quân Trần Trung-Đạo truyền các đạo thiết kị ứng trực đề phòng biến cố.

    - Nhị đệ thực cẩn thận. Trẫm đã làm như ngự đệ nói. Về đội thị vệ gác điện Cần-chính, trước đây đo Sử-vạn Na-vượng đưa đám đệ tử bang Nhật-hồ vào. Hôm qua trẫm đã thay thế bằng nhóm đệ tử của Yến Thù rồi.

    - Như vậy đệ mới yên tâm.

    Nói câu đó, Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Anh cả vừa là anh kết nghĩa, vừa là anh rể, vừa là chúa. Mình vừa yêu vừa kính lại vừa sợ. Còn Thiên-Thánh hoàng đế mình thấy thâm tình lạ lùng, mình vừa yêu vừa thương cảm. Tuy vậy về quốc sự thì mình phải theo anh cả.

    Nhà vua cảm động:

    - Nào chúng ta đi. Nhị đệ có biết Sùng-chính điện là điện gì không?

    - Đệ nghe nói: Sùng-chính điện dùng để thiết đại triều hoặc tiếp sứ thần.

    - Đúng vậy. Tới nơi, hai hiền đệ cứ đứng sau ta, không nói không rằng. Chỉ khi nào ta gặp nguy hiểm, hai hiền đệ mới ra tay. Ai hỏi gì, hai hiền đệ cũng đừng trả lời. Hai hiền đệ không phải hành lễ với bất cứ ai, ngoài Thái-hậu. Thôi ta đi.

    Nhà vua đi trước, Tự-Mai, Lê Văn theo sau. Tới Sùng-chính điện, có tiếng hô lớn:

    - Hoàng thượng giá lâm.

    Nhã nhạc nổi lên nhu hòa, đầm ấm. Lê Văn là đệ tử phái Sài-sơn, rất giỏi âm nhạc. Chàng tò mò đưa mắt nhìn: Ban nhạc có tới hơn trăm nhạc công, họ xử dụng đủ mọi nhạc khí. Những nhạc khí này, chàng đều biết cả.

    Nhà vua cùng hai trẻ bước vào trong đại điện giữa hai hàng quan văn võ quỳ gối. Có một người không phải quỳ đó là Định-vương Nguyên-Nghiễm (Triệu Thành). Định-vương thấy Tự-Mai, Lê Văn theo sau nhà vua, nhưng vương lặng thinh như không hề quen biết. Còn triều thần họ kinh ngạc khi thấy hai thiếu niên theo sau nhà vua mà trang phục lại không giống người Tống.

    Tự-Mai liếc qua, trong điện, y than:

    - Mình đã xem Thuận-Thiên hoàng đế thiết đại triều chỉ khoảng hơn trăm quan lại. Tống có nhiều quan lắm chắc chỉ hai trăm là cùng, không ngờ đông thế này... có lẽ năm trăm là ít.

    Nhà vua hướng Định-vương:

    - Hoàng nhi thỉnh an hoàng-thúc. Thỉnh hoàng-thúc an tọa.

    Định-vương cúi đầu:

    - Đa tạ bệ hạ.

    Nhà vua lên ngai ngồi, phán:

    - Chư khanh bình thân.

    Các quan đồng loạt đứng dậy theo hai hàng. Một bên văn, một bên võ. Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Đám võ quan này đông gớm. Bao nhiêu tinh hoa võ công, bao nhiêu cao thủ tập trung cả vào đây. Mình phải chú ý theo dõi xem những tên nào chống Đại-Việt để còn tỉa chúng.

    Tự-Mai chú ý thấy ngang với ngai vàng có hai màn bằng lụa thực dầy che kín. Trong thấp thoáng một phụ nữ ngồi trên chiếc ngai. Chàng đoán là Lưu thái-hậu.

    Tự-Mai, Lê Văn đứng sau ngai vàng, hai tay khoanh lại.

    Nhã nhạc ngừng. Một đại thần quỳ gối:

    - Muôn tâu bệ hạ, thần Lã Di-Giản, lĩnh Hữu-bộc xạ, Đồng-bình chương sự, Thái-tử thiếu bảo, tước Quốc-công, tuân chỉ Thái-hậu thỉnh bệ hạ thiết đại triều. Hôm nay là ngày các ứng sinh phò mã nhập điện yết kiến bệ hạ, cùng tuyển hoa. Nhưng việc tuyển phò mã gặp biến cố.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Triều Đường dùng danh tự Thừa-tướng, Tể-tướng. Triều Tống dùng danh tự Bộc-xạ thay thế. Lão này làm Hữu bộc-xạ, còn Tả-bộc xạ là Tào Lợi-Dụng ta đã biết mặt.

    Nhà vua gật đầu:

    - Có phải các ứng sinh đều bị trúng Chu-sa phấn của bang Nhật-hồ chăng?

    - Tâu bệ hạ quả như thế. Khi hay tin, thần đã cho câu lưu mười tám y quan phụ trách khám xét ứng sinh, giao cho Khu-mật viện điều tra. Thần xin để Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích tâu trình mọi sự.

    Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích rời văn ban quỳ tâu:

    - Thần Tôn Thích lĩnh Lễ-bộ thượng thư, phụ trách kỳ tuyển trạch ứng sinh phò mã xin tâu: Mười tám y quan đều thuộc Ngự-y viện, xưa nay hành sự cẩn trọng, chưa từng phạm lỗi lầm. Không hiểu sao nay lại xẩy ra cơ sự thế này.

    Nhà vua hỏi Định-vương:

    - Hoàng thúc nghĩ sao?

    Định-vương tâu:

    - Hiện chưa có cung từ của mười tám y quan, nên khó có thể đoán trước. Hồi thần sang Đại-Việt cùng sứ đoàn đã trúng phải phấn này. Người tung phấn hại sứ đoàn tên Chu An-Bình. Y giữ chức Nam-phương sứ giả trong bang Nhật-hồ cùng hai cháu y tên An-Khôi, An-Việt. Thần được Cổ-loa hầu Hoàng Văn cấp thuốc giải, tạm trấn cơn đau. Khi trên đường hồi Trung-thổ, thần lại bị người ta bôi phấn độc trên sách, thần đụng vào sách, lại trúng độc lần nữa được tiểu thư Lê Thiếu-Mai cấp thuốc giải trấn thống. Lại tới khi lên đỉnh Tuyệt-phong bị bang Nhật-hồ hại độc lần nữa. May thay gặp giáo chủ Lạc-long giáo Đại-Việt dùng thần công trị tuyệt bệnh cho thần cùng sứ đoàn.

    Vương ngừng lại một lúc rồi tiếp:

    - Cứ như thần nghĩ, nếu y quan hạ độc các ứng sinh, thì hẳn họ đã luyện thần công Chu-sa để độc chất không ngấm vào tay. Như vậy họ thuộc dư đảng bang Nhật-hồ. Khi hạ độc xong, họ phải trốn ngay chứ có đâu ngồi chờ để bị bắt, để rồi cả nhà bị tru diệt?

    Một đại thần bước ra quỳ tâu:

    - Thần Tào Lợi-Dụng lĩnh Đồng-bình chương sự, Thượng-thư Tả bộc-xạ, Tư-không, Hàn quốc công xin kính tâu: Trước hết phải tìm hiểu xem việc hạ độc này với mục đích gì? Ai được lợi trong vụ này, từ đó mới lần ra manh mối. Theo lời Định-vương, bang Nhật-hồ đã giải thể, biến thành bang Hoàng-Đế đi khắp nới cứu người. Vậy thì ai đầu độc? Theo ngu thần, trong khắp thiên hạ, không ai có khả năng, cũng như bản lĩnh phóng độc một lúc mấy trăm người, ngoài trừ bang Nhật-hồ. Vì vậy thần nghĩ, việc bang Nhật-hồ quy phục triều đình e không thực.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Tên này mình đã biết rồi. Chức tước của Lã Di-Giản là Hữu-bộc xạ, làm Hữu thừa-tướng. Còn y là Tả bộc xạ, tức Tả thừa tướng đây. Y tâu như vậy tỏ ra muốn ăn thua đủ với Định-vương. Không chừng bọn y phóng độc, để có thể làm mất uy tín của Định-vương.

    Nhà vua đưa mắt nhìn quần thần một lượt rồi tuyên dụ:

    - Đêm qua trẫm đã ban chế, tôn Lý thái-phi làm Trang duệ minh đức hoàng thái hậu. Nay cáo cho chư khanh biết.

    Các đại thần cùng quỳ xuống đưa lời chúc tụng.

    Tự-Mai nghe nhà vua nói, nó nghĩ thầm:

    - Đêm qua, Định-vương, Khai-Quốc vương, nhà vua cùng các sư huynh Phụ-Quốc, Trung-Đạo, chắc đã tổ chức binh biến, khống chế hết phe đảng Lưu hậu, mà cho đến nay bọn văn võ quan phe Lưu hậu vẫn chưa biết. Người ngồi trong màn kia không biết có phải Lưu hậu không? Chắc bà bị Lý phi dùng phản Chu-sa độc chưởng khống chế, bây giờ mượn tay bà bắt hết phe đảng ...bà đây.

    Một viên quan bước vào quỳ tâu:

    - Muôn tâu, có Hoa-Sơn tứ lão dẫn ba đệ tử Hoa-sơn xin cầu kiến.

    Nhà vua phán:

    - Mời chư vị đạo sư vào.

    Hoa-Sơn tứ lão bước vào vái ba vái, trong khi Địch Thanh, Triệu Tiết, Khúc Chẩn quỳ gối rập đầu tung hô vạn tuế. Nhà vua tuyên chỉ:

    - Lã quốc công mời chư đạo sư an tọa.

    Lã Di-Giản kéo ghế mời Hoa-Sơn tứ lão nhân cạnh Định-vương. Định-vương hỏi:

    - Chư vị Đạo sư! Phải chăng chư đạo sư tới đây vì việc ba cao đồ bị trúng độc?

    Bắc-Sơn lão nhân cung tay:

    - Thưa vương gia quả thế.

    Nhà vua hỏi:

    - Theo đạo sư, ai là kẻ hạ độc thủ? Họ hạ độc thủ với mục đích gì?

    - Tâu bệ hạ theo thần nghĩ họ muốn giết đi mấy trăm thiếu niên anh tài, làm nguyên khí bản triều giảm thiểu. Thứ nhì làm mất uy tín triều đình. Thứ ba họ làm cho trăm họ nghi kị Thiên-tử.

    Tất cả đình thần đều gật đầu tán thành.

    Tây-Sơn lão nhân tiếp:

    - Hôm qua, trong lúc tệ đồ đau đớn vì bị trúng độc, thần dẫn tới Nam-thanh cung yết kiến sứ đoàn Đại-Việt để xin được giải độc. Thần thấy ba ứng viên phò mã Đại-Việt cũng bị trúng độc. Họ được giáo chủ Lạc-long giáo Thân Thiệu-Thái dùng Thiền-công giải độc cho. Thần xin Khai-Quốc vương trị dứt độc, mà vương không thuận, chỉ cấp thuốc trấn thống mà thôi.

    Thượng-thư, Vũ-lâm đại học sĩ, Đồng trung thư môn hạ bình chương sự Vương Tăng hỏi:

    - Thưa đạo sư, kể từ khi bang chủ cuối cùng bang Nhật-hồ họ Đỗ bị giết, Hồng-thiết tâm pháp giải vĩnh viễn Chu-sa ngũ độc chưởng thất truyền. Nhưng bang chúng Nhật-hồ tản mát khắp nơi, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng hại không biết bao nhiêu người. Nhưng họ chỉ có thể cấp cho thuốc giải trong một năm, chứ không thể giải vĩnh viễn. Không lẽ bên Đại-Việt còn có người biết xử dụng ư?

    Đông-Sơn lão nhân gật đầu:

    - Bên Đại-Việt có hai người biết thần công này. Một là sư phụ của Lưu Trí-Viễn tên Nhật-Hồ lão nhân. Hai là Thân Thiệu-Thái, giáo chủ Lạc-long giáo. Ngoài ra còn Ngũ-sứ Hồng-thiết giáo là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Bun Thành, Khiếu Tam Bản, Sử-vạn Na-vương, và Nguyễn Tuyết-Minh cũng được truyền thần công này. Song họ chỉ có thể không bị lên cơn đau, chứ chưa trị dứt hoàn toàn cho người khác. Việc này Thái-sư biết rõ hơn bần đạo.

    Triều thần đều hướng Định-vương chờ đợi. Định-vương khoan thai tường thuật chi tiết về việc Khu-mật viện Tống gửi Hồ Dương-Bá, Đỗ Lệ-Thanh sang Đại-Việt trong mưu đồ trường kỳ mai phục. Dương-Bá tiềm ẩn trong phái Tiêu-sơn, giam Đỗ Lệ-Thanh. Đỗ được Thiệu-Thái giải cứu, rồi được Đỗ truyền Hồng-thiết tâm pháp cho. Rồi bang Nhật-hồ sai chú cháu Chu An-Bình tìm Đỗ. Tình hình Hồng-thiết giáo Đại-Việt trong đại hội Thăng-long, cuối cùng tới việc bang Nhật-hồ biến thành bang Hoàng-Đế. Vương cùng sứ đoàn được Thiệu-Thái giải vĩnh viễn độc Chu-sa cho.

    Có tiếng Thái-hậu nói sau màn:

    - Tây-sơn đạo sư. Tại sao Lý Long-Bồ không sai Thân Thiệu-Thái trị cho ba đệ tử Hoa-sơn, mà chỉ cấp thuốc giải?

    Nghe Thái-hậu nói, Tự-Mai tỉnh ngộ:

    - Võ công bà này thuộc phái Hoa-sơn, vai vế bà ngang với Hoa-sơn tứ lão, tức ngang với Đặng Đại-Bằng. Rõ ràng bà là sư muội của tứ lão. Thế mà sao Tây-Sơn lão nhân lại khui bí mật về thân thế của nhà vua ra, điều này đại bất lợi cho bà, cho phái Hoa-sơn?

    Chợt một tia sáng lóe lên trong đầu nó:

    - Phải rồi bà này theo phe Đào Tường-Phúc, nên được y truyền Hồng-thiết công cho. Đặng Đại-Bằng sai mười trưởng lão áp lực cạnh bà. Bá dùng Đào, biến chúng thành tay sai cho bà đây. Nhưng sao tiếng bà giống tiếng Lý thái-hậu quá?

    Tây-Sơn lão nhân đáp:

    - Tâu thái hậu, Khai-Quốc vương đã nói rõ với bần đạo: Hiện Trung-nguyên có chân chúa nhân từ. Triều thần toàn bậc túc Nho đạo hạnh cực cao, hỏi sao gian nhân có thể tiềm ẩn trong Ngự-y mà ra tay hạ độc thủ mấy trăm thiếu niên anh tài? Thế nhưng mấy trăm thiếu niên đều trúng độc, thì hẳn họ bị triều đình trừng phạt hầu giáo hóa, cho bớt kiêu căng trước khi đại dụng. Hoặc giả thử thách công lực.

    Tây-Sơn lão nhân nhìn khắp quần thần, rồi tiếp:

    - Vương nhấn mạnh: Vương hiện đi sứ kết hiếu, nên không dám, không thể trị cho các thiếu niên. Trị cho các thiếu niên đang được triều đình thử thách, là điều đắc tội với thiên tử.

    Thái-hậu ngắt lời:

    - Triều đình không hề làm việc đó.

    - Bần đạo biện minh với vương như vậy. Nhưng vương không tin, người trao cho bần đạo ba viên thuốc giải, và nói rằng: Tặng thuốc là vương. Còn trị cho đệ tử là bần đạo. Sau này nếu Thiên-tử nổi lôi đình, bần đạo phải chịu trách nhiệm. Bần đạo trao cho ba tệ đồ uống rồi.

    Lưu thái-hậu lại nói với nhà vua:

    - Hoàng nhi! Ta ban chỉ cho Lã Di-Giản gọi sứ đoàn Đại-Việt vào triều kiến cùng một lúc với các ứng sinh phò mã, để họ thấy rằng Trung-thổ lắm nhân tài. Nhưng sự việc này xẩy ra, làm ta khó nghĩ vô cùng.

    Tào Lợi-Dụng hỏi Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích:

    - Hôm nay các thiếu niên sẽ được tới đây bệ kiến hoàng thượng. Nhưng họ bị trúng độc, liệu họ có đến đúng giờ được không?

    - Trình quốc công lệnh ban ra rằng giờ Mão họ phải tề tựu tại thiểm bộ. Giờ Thìn yết kiến hoàng thượng. Bây giờ mới cuối giờ Mão, phải chờ xem đã.

    Đông-Sơn lão nhân nói:

    - Theo bần đạo biết, người bị trúng Chu-sa chưởng cũng như Chu-sa phấn, mỗi ngày chỉ lên cơn trong một giờ. Sau đó lại tỉnh táo như thường. Hôm qua tệ đồ bị lên cơn lúc giờ Mùi, chắc các thiếu niên khác cũng lên cơn vào giờ đó. Vậy đương nhiên sáng nay họ tề tựu đông đủ tại bộ Lễ.

    Có tiếng xướng:

    - Sứ đoàn Giao-chỉ xin triều kiến.

    Nhà vua nói với Định-vương:

    - Thông thường các sứ thần tới thì Lễ-bộ thượng thư rước vào. Nhưng chánh sứ Đại-Việt là Khai-Quốc vương, một đấng anh hùng Nam-biên. Xin hoàng thúc ra rước, để tỏ lượng trọng khách của triều đình.

    Định-vương rời điện ra ngoài. Tất cả bá quan văn võ đều hướng mắt nhìn theo. Vì từ lâu, không ít thì nhiều họ đã nghe nói về Khai-Quốc vương. Có kẻ nghi ngờ về vụ vương nhã lượng cho Lâm Huệ-Phương, Đào Hà-Thanh về với tình quân. Có kẻ nghe nói về vụ vương được tám vùng tộc Việt tôn làm thủ lãnh. Gần đây nhất, họ đều nghe biết về việc vương thu phục bang Trường-giang, Nhật-hồ. Kẻ ghét, người yêu đều muốn thấy diện mạo Vương ra sao. Trong điện hơn năm trăm người, mà không một tiếng động.

    Họ không phải chờ lâu, cánh cửa điện mở rộng, Định-vương cùng Khai-Quốc vương sóng vai vào. Phía sau là vương phi Thanh-Mai, công chúa Mỹ-Linh, thế tử Thân Thiệu-Thái cùng Tôn Đản, Lê Thuận-Tông, Hà Thiện-Lãm.

    Khai-Quốc vương hô sứ đoàn quỳ gối hành lễ. Vương nói lớn:

    - Thần Lý Long-Bồ, tước phong Khai-Quốc vương cùng vương phi và sứ đoàn bái yết thái hậu, hoàng thượng.

    - Quốc vương bình thân. Xin hoàng-thúc mời Quốc-vương an tọa.

    Định-vương chỉ vương phi Thanh-Mai:

    - Tâu bệ hạ, chủ đạo tộc Việt rất trọng phụ nữ. Đại-Việt hoàng đế nghe Thái-hậu lâm triều, nên truyền cho vương phi Khai-Quốc theo sứ đoàn sang bái yết thái hậu. Vương-phi xuất thân gia đình danh tiếng võ học Lĩnh-Nam. Phụ thân vương phi là Trần Tự-An, chưởng môn phái Đông-a.

    Khắp võ ban cùng bật lên tiếng ồ. Thời bấy giờ võ lâm Hoa-Việt không ít thì nhiều đều nghe danh phái Đông-a về võ công, về võ đạo. Danh tiếng đại hiệp Tự-An lừng lẫy bốn phương. Nên nghe nói Thanh-Mai là con đại hiệp Tự-An, họ đều đưa mắt nhìn.

    Định-vương tiếp:

    - Vương phi tuổi trẻ, nhưng võ công cực kỳ cao thâm. Trong đại hội Thăng-long đánh thắng đệ nhất đệ tử Nhật-Hồ lão nhân tên Vũ Nhất-Trụ, khiến y đau đớn đến chết đi sống lại.

    Nghe Định-vương nói, mọi người tỏ ý không tin:

    - Xưa đệ tử Nhật-Hồ là Lưu Trí-Viễn, một chưởng lập nên bang Nhật-hồ gây nghiệp Hán. Các đệ tử đời sau của y như Đặng Đại-Bằng, Phương Hổ, Phương Báo khét tiếng Trung-nguyên. Võ lâm Trung-thổ nghe tên chúng đều kinh hồn táng đởm. Thế mà Định-vương giới thiệu cô gái ẻo lả kia thắng Nhất-Trụ, đại đệ tự của Nhật-Hồ thì ai mà tin cho được?

    Có tiếng thái hậu truyền:

    - Mời vương phi vào sau màn đàm đạo cùng ta.

    Thanh-Mai đứng dậy lui vào phía sau điện.

    Định-vương chỉ Mỹ-Linh:

    - Vị này nhũ danh Lý Mỹ-Linh sắc phong công chúa Bình-Dương, chưởng môn phái Mê-linh, kiếm thuật lừng lẫy trời Nam. Đông-Sơn đạo sư bị bại dưới tay công chúa.

    Mỹ-Linh cúi đầu:

    - Đa tạ vương gia quá khen. Tiểu nữ trẻ người non dạ, vô phép với Đông-Sơn đạo sư, được đạo sư nhường cho mấy chiêu hầu khuyến khích, chứ có đâu thắng được người?

    Triều thần đã nghe nói đệ nhất kiếm thuật danh gia Trung-thổ là Đông-Sơn lão nhân bị một cô gái trẻ tộc Việt đả bại. Họ vốn không tin. Nay nghe Mỹ-Linh nói, họ cảm thấy tự ái thỏa mãn phần nào.

    Tiếng Thái-hậu truyền chỉ:

    - Mời công chúa vào đây đàm đạo với ta.

    Mỹ-Linh đứng dậy lui vào hậu điện.

    Định-vương chỉ Thiệu-Thái tiếp:

    - Vị này là thế tử Thân Thiệu-Thái, một chưởng thắng Nhật-Hồ lão nhân, được tôn làm giáo chủ Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Sau khi lên ngôi, Thế tử đổi Hồng-thiết giáo thành Lạc-long giáo. Trước kia Hồng-thiết giáo chủ trương căm thù, chém giết, bỏ đạo lý cổ truyền, nay Lạc-Long giáo nêu cao chủ đạo tộc Việt. Mà chủ đạo tộc Việt gốc từ Nho, Lão, Phật cùng đạo đức cổ truyền của người Việt.

    Bên võ ban cùng bật lên tiếng suýt xoa. Vì ai ai cũng sợ bóng sợ gió bọn bang Nhật-Hồ như ma như quỷ, không biết chúng bắt hồn đi lúc nào. Bây giờ nghe tổ sư của bang Nhật-hồ là Nhật-Hồ lão nhân bị Thiệu-Thái đả bại, ai nấy đều dương mắt nhìn. Lại nữa, hầu hết triều thần bị Lưu hậu sai Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ dùng độc chưởng khống chế. Nay nghe Thiệu-Thái có thể giải vĩnh viễn độc chưởng này, họ đều hy vọng làm thân với y, để nhờ y giải ách cho.

    Nhà vua truyền chỉ:

    - Mời thế tử an tọa.

    Định-vương giới thiệu đến Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm. Sau khi ba trẻ an tọa. Tào Lợi-Đụng hỏi Khai-Quốc vương:

    - Thế tử. Lão phu nghe sứ đoàn Giao-chỉ có ba ứng sinh phò mã, tại sao lại chỉ Tôn Đản hiện diện, hai thiếu niên kia đâu?

    Khai-Quốc vương đáp:

    - Thưa đại nhân còn Trần Tự-Mai, Lê Văn đã nhập cung yết kiến thiên tử. Cả hai đang thi hành chỉ dụ của thiên tử nên không thể trình diện đại nhân.

    Tự-Mai chửi thầm:

    - Con bà thằng Tào này. Y thuộc phe Lưu hậu đây, nên coi Thuận-Thiên hoàng đế là Nam-Bình vương. Còn anh cả là thế tử thôi. Được, ta sẽ có cách trị mi.

    Khai-Quốc vương hướng vào Thiên-Thánh hoàng đế:

    - Tâu bệ hạ. Phụ hoàng thần ở Nam-thiên, nghe thánh đức nhân từ, cùng uy danh các bậc đại Nho đất Trung-nguyên, nên sai thần đem phương vật sang cống hầu kết hiếu. Thần xin bệ hạ cho dâng phẩm vật.

    Định-vương nói:

    - Vương cứ dâng lên.

    Tôn Đản lùi khỏi điện. Lát sau nó với Trần Bảo-Dân bưng vào một hộp sơn son thiếp vàng lớn, cùng ba ống tre sơn đỏ. Cả hai quỳ trước mặt nhà vua. Khai-Quốc vương bưng hộp dâng:

    - Tâu bệ hạ, bảo vật này có từ thời Cao-tổ nhà Hán. Tệ quốc lưu giữ biết bao đời. Nay dâng bệ hạ để tuyên thánh đức.

    Theo luật lệ cung đình nhà Tống, thì Chiêu-văn quan đại học sĩ coi như tể tướng sẽ mở hộp dâng tận tay Hoàng-đế. Hiện Tào Lợi-Dụng lĩnh chức Tả bộc-xạ, nhưng y tranh chức của Lã Di-Giản. Y đỡ hộp, định mở ra.

    Khai-Quốc vương nói:

    - Linh vật này phải người có đức, có uy lắm mới đụng vào được. Xin quốc-công chẳng nên mở ra.

    Tào Lợi-Dụng bất bình:

    - Lão phu thân làm tể thần, mà không thể tiếp lễ vật của đất Giao-chỉ sao?

    Khai-Quốc vương xua tay:

    - Vãn sinh đã thưa: Đây là linh vật của một vị đế uy trùm Hoa-hạ. Đức của Tào Tư-không dù cao đến đâu cũng không thể, và không nên mở ra. Vãn sinh chỉ khuyên vậy thôi, còn Thái-phó cho rằng đức cao bằng Vũ đế, xin cứ tự tiện.

    Tào Lợi-Dụng không trả lời, tay y mở hộp ra. Cả triều thần cùng dương to mắt xem trong hộp có gì, mà Khai-Quốc vương dám bảo thái phó không thể mở ra. Hơn nghìn con mắt thấy Lợi-Dụng cầm ra một thanh kiếm, ánh sáng chiếu xanh lè.

    Phiêu-kị đại tướng quân Trần Trung-Đạo quát lớn:

    - Trước mặt Hoàng-thượng, không ai được cầm vũ khí. Xin Quốc-công để kiếm xuống.

    Nguyên luật lệ Trung-quốc từ thời Tam-hoàng, Ngũ-đế đến nay có một điều không bao giờ đổi: Mỗi khi yết kiến Hoàng-đế, hoặc chầu Hoàng-đế, không ai có quyền mang vũ khí vào. Chỉ những đại thần quyền cao, chức trọng, được tin cậy cực kỳ, Hoàng-đế mới đặc cách phong cho khi vào chầu được đeo kiếm, tâu không phải xưng tên. Đó là lý thuyết. Trên thực tế những tể thần ấy không bao giờ mang kiếm khi triều yết cả. Vì vậy khi Kinh-Kha ám sát Tần Thủy-Hoàng, triều thần không ai có vũ khí chống lại.

    Từ khi Tống triều lập lên, đời Thiên-Thánh chỉ có một người được danh dự mang kiếm vào triều đó là Định-vương Nguyên-Nghiễm, vì vương là chú, là sư phụ nhà vua. Bây giờ Tào Lợi-Dụng cầm kiếm chĩa ngay mặt vua là điều đại bất kính, đại tội.

    Tiếng quát làm Lợi-Dụng cùng các văn quan muốn nổ tung màng nhĩ ra. Một là Lợi-Dụng bị ảnh hưởng của tiếng quát, hai là y bướng bỉnh không hạ kiếm xuống, nên mũi thanh kiếm vẫn chĩa thẳng về phía bụng nhà vua.

    Thấp thoáng, có hai bóng cùng xẹt đến. Một bóng ôm lấy ngực nhà vua, đưa lưng vào thanh kiếm như che chở. Một bóng phóng chưởng đánh vào hông Lợi-Dụng. Lợi-Dụng thấy chưởng phong cực kỳ hùng hậu đánh vào phía trái. Y vội vung tay đỡ. Binh một tiếng, cánh tay y cảm thấy tê liệt. Y quay lại nhìn, người đánh y là viên quan võ, lĩnh quản thị vệ Trần Trung-Đạo. Còn người đưa lưng che cho nhà vua là Tự-Mai, y chưa biết lý lịch.

    Trong khi y đang sững sờ, Tự-Mai thấy sư huynh Trần Trung-Đạo đánh một chưởng, không làm Lợi-Dụng lui bước. Đạo đang đánh sang chiêu thứ nhì. Thừa thế y đang kinh hoàng, lo đỡ chưởng của sư huynh. Chàng phát hai Lĩnh-Nam chỉ véo véo trúng huyệt Khúc-trì của y. Cánh tay Tào bị tê liệt. Tự-Mai đá mạnh vào thanh kiếm, thanh kiếm vuột khỏi tay Lợi-Dụng.

    Kiếm đang rơi xuống, Tự-Mai dùng chân móc một cái, thanh kiếm bay ra xa trúng nền điện đến choang một tiếng. Chàng lạng mình tới chĩa ngón tay phóng liền hai chỉ, véo, véo vào huyệt Hoàn-khiêu, của Lợi-Dụng. Chân y tê liệt, ngã ngồi về trước giống như quỳ gối. Chàng phóng thêm một chỉ vào huyệt Á-môn khiến y câm không nói được nữa.

    Nói thì chậm, chứ động tác điểm huyệt, đá kiếm rồi khống chế Tào của Tự-Mai nhanh như điện xẹt, khiến Tào không bị kiềm chế.

    Tự-Mai cúi đầu quỳ trước nhà vua:

    - Đại ca xá tội. Đứa em cứu giá chậm trễ, làm kinh động long tâm.

    Nói rồi chàng lui lại sau ngai vàng khoanh tay.

    Bàn cho thực phải, với võ công của Tào Lợi-Dụng, dù cả Tự-Mai lẫn Trung-Đạo cũng không phải là đối thủ của y. Nhưng vì vô tình cầm kiếm lên, bị Trung-Đạo quát, y bàng hoàng, rồi chàng đánh chiêu. Y vừa đỡ, khí huyết nhộn nhạo, luống cuống, thì bị Tự-Mai dùng Lĩnh-Nam chỉ pháp điểm huyệt. Hai môn võ công này y chưa thấy bao giờ, nên mới bị lạc bại.

    Diễn biến xẩy ra, cả triều thần cùng kinh ngạc. Bởi từ thời vua Thái-tông đến giờ, Tào Lợi-Dụng là đệ nhất cao thủ của triều đình. Võ công y cao thâm không biết đâu mà lường. Nay không hiểu Tự-Mai dùng thứ chỉ pháp gì khiến y như bị trói chân tay. Duy có sứ đoàn với tùy tùng của Định-vương là hiểu rõ. Còn lại những võ quan cùng thị vệ có mặt đều kinh hãi tự hỏi:

    - Phiêu-kỵ đại tướng quân lĩnh Kinh-châu tư mã trước đây tuy nổi danh thực. Y mới được phong làm Tổng-lĩnh Ngự-lâm quân mấy ngày... nhưng muôn ngàn lần không thể địch lại Tào quốc-công. Tại sao chỉ một chiêu khiến Tào lạc bại, rồi thiếu niên kia phóng chỉ khiến Tào tê liệt đến ngã ngồi thế kia?

    Trong điện, ngoài Định-vương cùng đám Hoa-Sơn không ai biết tung tích Tự-Mai. Sau khi tâu, chàng lui lại phía sau ngai vàng khoanh tay.

    Lã Di-Giản tâu:

    - Xin hoàng thượng rộng dung. Tào quốc-công đâu biết trong hộp có kiếm, nên mở ra, rồi thuận tay cầm lên. Chứ không có ý khác.

    Một văn thần bước ra tâu:

    - Thần Vương Đức-Dụng lĩnh chức Ngự-sử đại phu, xin hoàng thượng cho thần được hỏi Tào quốc-công mấy câu.

    Tự-Mai nghĩ thầm:

    - Triều Tống đặt ra tới sáu ông Ngự-sử chuyên theo dõi các quan. Ông nào phạm lỗi, tâu lên xin vua trị tội. Khi Ngự-sử khép tội, dù Hoàng-đế muốn tha cũng không được. Lão Tào Lợi-Dụng chết đến nơi rồi.

    Vương Đức-Dụng hỏi Tào Lợi-Dụng:

    - Sứ thần Đại-Việt là Khai-Quốc vương đã can ngăn quốc công rằng vật trong hộp với chức vụ của quốc công không thể mở ra. Thế mà quốc công cứ mở. Có phải quốc công kiêu căng không? Một tể thần mà lòng kiêu căng, e khinh rẻ đấng quân phụ. Đó là một tội.

    Tào Lợi-Dụng bị điểm huyệt Á-môn không nói được. Y chỉ lắc lư cái đầu. Mọi người cho rằng y nhận tội.


  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI HAI
    Sáng tổ tiêu thuật

    Tự-Mai nghe Vương gọi tên nước mình là Đại-Việt, thì biết y thuộc phe chống Lưu hậu, thân với Đại-Việt. Chàng nói thầm:

    - Ông này chơi được.

    Đức-Dụng tiếp:

    - Quốc-công không biện minh được, như vậy là nhận tội. Câu hỏi thứ nhì là: Khi Quốc-công mở ra, thấy rõ ràng trong hộp có thanh kiếm. Đáng lẽ Quốc-công phải buông hộp lùi bước. Lý đâu Quốc-công lại mang kiếm ra đưa vào trước ngực hoàng thượng. Nếu như không có Phiêu-kị đại tướng quân đẩy Quốc-công lui lại...

    Ông ta chỉ vào Tự-Mai:

    - Hơn nữa thiếu niên này không đem thân đỡ kiếm, có lẽ Hoàng-thượng đã bị hại rồi. Chiếu luật bản triều, tội kiêu căng với quân phụ, cùng tội thí chúa, phải tru di tam tộc.

    Tào Lợi-Dụng nghe buộc tội, y kinh hồn táng đởm, nhưng không nói được, chỉ biết lắc đầu, trong khi vẫn quỳ gối.

    Nhà vua nghĩ thầm:

    - Kể ra với tội trạng tên Tào này làm từ xưa đến giờ cũng đáng tru di tam tộc. Nhưng khốn nỗi y là cố mệnh đại thần, ta không thể giết y ngay được. Hơn nữa hôm qua ta truyền bắt giam con y về tội hà hiếp lương dân. Khi đem việc này ra đình nghị, chắc chắn con y bị xử tử. Y sẽ bị cách chức. Như vậy cũng đủ rồi. Còn hôm nay, y ngay tình, mà ta bắt tội y, e phe đảng y không phục.

    Nhà vua quay lại nói với Tự-Mai:

    - Tào quốc-công là võ quan, nên thiếu tinh tế. Chứ sự thực không tà ý. Nếu có tà ý, thì đêm qua, trong lúc hội kiến với trẫm Quốc-công đã ra tay gia hại, chứ đâu để đến hôm nay? Tội của Tào quốc-công sẽ đình nghị sau. Nhị đệ buông tha cho Quốc-công.

    Tự-Mai khoan thai bước đến trước Tào Lợi-Dụng, nó xoa tay vào huyệt Đại-trùy. Lợi-Dụng rùng mình, chân tay cử động được. Y lườm lườm nhìn Trung-Đạo, rồi về chỗ đứng.

    Xuất thân phái Liêu-Đông, Tào dùng võ công lập nghiệp. Trong suốt hai triều Thái-tông, Chân-tông không ai địch nổi Tào. Từ khi Lưu hậu nhiếp chính, Tào giúp bà điều khiển bọn Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản và mười trưởng lão bang Nhật-hồ khống chế triều thần, anh hùng thiên hạ. Tào tuy làm Tả bộc-xạ, nhưng y lấn át Lã Di-Giản làm Hữu-bộc xạ. Khắp quần thần không ai dám chống đối y. Hôm nay y bị viên tổng lĩnh Ngự-lâm quân, cùng thiếu niên vô danh làm nhục, y căm hận vô cùng, tự hứa trong lòng:

    - Đêm nay ta sẽ tìm đến chúng bay để đòi món nợ này.

    Mọi người cùng đưa mắt nhìn Tự-Mai. Thái-hậu hỏi:

    - Thiếu niên trung nghĩa kia là con cháu của bậc đại thần nào vậy? Hãy lại gần đây cho ta nhìn rõ mặt.

    Tự-Mai tiến đến trước màn rập đầu bốn lần. Nhưng chàng không nói một lời nào cả. Định-vương lên tiếng:

    - Trần hiền đệ. Hiền đệ khấu đầu chưa đủ, lễ nghi bản triều định rằng khi khấu đầu phải xưng tên họ. Hiền đệ xưng tên họ đi.

    Tự-Mai lắc đầu nhìn nhà vua. Nhà vua nhắc:

    - Nhị đệ! Nhị đệ ra mắt Thái-hậu đi.

    Tự-Mai lại rập đầu:

    - Tên nhà quê Trần Tự-Mai thuộc Đại-Việt xin tham kiến Thái-hậu. Kính chúc Thái-hậu được Trời, Phật hộ trì vạn sự nguyện đắc như sở cầu. Muôn tâu... khi thần tới đây, hoàng thượng ban chỉ dụ: Tuyệt đối không được nói. Dù ai hỏi cũng không trả lời. Vì vậy hạ thần chỉ khấu đầu, mà không thỉnh an Thái-hậu. Mãi tới khi hoàng thượng lên tiếng cho phép, thần mới dám nói.

    Thái-hậu trầm ngâm:

    - Thiếu niên này dùng võ công gì mà khống chế được Tào Lợi-Dụng, kể cũng lạ. Với tài của y mà ứng tuyển phò mã, thì thực xứng đáng.

    Bà hỏi Tự-Mai:

    - Cháu bình thân. Thì ra cháu là em của vương phi Khai-Quốc vương. Thức khinh thân vừa rồi của cháu hơi giống võ công Thiếu-lâm. Lúc co chân đá bay kiếm là chiêu gì, ta nhìn không ra. Lại ba chỉ phóng vào Tào Lợi-Dụng kình lực vô song. Ta chưa từng thấy qua.

    Tự-Mai đáp:

    - Tâu thái hậu, chiêu đó tên Kình ngư nhược thủy thuộc võ công phái Cửu-chân thời Lĩnh-Nam. Còn chỉ đó có tên Lĩnh-Nam chỉ pháp.

    Thái-hậu hỏi nhà vua:

    - Hoàng nhi, hoàng nhi gặp Tự-Mai ở đâu? Tại sao lại gọi là nhị đệ?

    Nhà vua tâu:

    - Hài nhi xuất thành vi hành, thăm dân cho biết sự tình. Chẳng may gặp bọn ác nhân nhận diện. Chúng định hại hài nhi. May nhờ Trần Tự-Mai đánh đuổi chúng đi. Hài nhi đã kết huynh đệ với y.

    Triều Tống gồm toàn Nho-thần, họ rất trọng những người trung nghĩa. Vừa rồi họ thấy Tự-Mai đem lưng đỡ kiếm cho nhà vua, nên người người đều nhìn chàng với con mắt thiện cảm.

    Trương Sĩ-Tổn hỏi:

    - Trần công tử. Công tử đem lưng đỡ kiếm cho Hoàng-thượng là cứu một Thiên-tử hay một nghĩa huynh?

    Tự-Mai đáp:

    - Thưa đại-học sĩ, vãn sinh không chủ tâm đem lưng đỡ kiếm cho ông vua Trung-thổ. Vãn sinh là người Việt, chẳng việc gì phải chết thay cho ông vua Tống triều.

    Mọi người tỏ vẻ bực mình:

    - Thằng nhỏ này vô phép quá.

    Tự-Mai tiếp:

    - Nhưng từ lúc vãn sinh theo sứ đoàn sang Tống, đã nghe khắp anh hùng võ lâm, nhân sĩ, dân Hán ca tụng: Trong triều có ông vua cực kỳ hiếu thảo, lại nhân từ, thương dân như thương con. Vì vậy vãn sinh nghĩ mình được chết thay một nhân quân, để nhân quân sống mà ban phúc cho dân, thì vãn sinh sẵn sàng.

    Lã Di-Giản hỏi:

    - Chú em bảo người ta ca tụng hoàng thượng nhân từ, cùng hiếu thuận, vậy họ có nói nhân từ cùng hiếu thuận ra sao không?

    Tự-Mai định trả lời, thì có tiếng Bảo-Hòa dùng lăng không truyền ngữ rót vào tai:

    - Tự-Mai ngoan. Hãy nói theo chị. Ta nịnh ông vua cùng quần thần, để dùng họ diệt bọn mưu chiếm Đại-Việt. Nào nói theo chị nào.

    Tự-Mai nói:

    - Tể tướng thử vãn sinh hẳn? Từ trước đến giờ, cứ mỗi năm vua lại tăng thuế. Thế mà Hoàng-thượng lên ngôi mười năm không những không tăng, mà còn tha thuế ba năm. Hỏi suốt ba trăm năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?

    Cả triều thần cùng nhìn nhau gật đầu, công nhận lời Tự-Mai nói đúng. Chàng tiếp:

    - Khi tiên đế băng hà, xây lăng mộ tốn biết bao? Các vua đời trước đều bắt dân đóng thêm thuế, hoặc lấy công khố ra dùng. Đây Hoàng-thượng lại bắt hậu cung giảm chi. Thế mà số tiền xây lăng vẫn nhiều hơn bao giờ cả. Hỏi trong hơn nghìn năm qua, có vị Hoàng-đế nào nhân từ như vậy không?

    Mọi người đều gật đầu. Tự-Mai nói lớn:

    - Lại nữa, trong mười năm chấp chính, Hoàng- thượng luôn giảm án cho tù. Khắp nước chưa có vụ xử tử hình nào cả. Hỏi ngay thời vua Văn-vương cũng chưa chắc hơn. Như vậy không phải nhân từ là gì?

    Trương Tri-Bạch hỏi:

    - Vì thấy Thiên tử Thiên-triều nhân từ, nên chú em mới quyết định bỏ Đại-Việt theo Tống hẳn?

    Tự-Mai cười lớn:

    - Trương đại học sĩ lầm rồi. Hôm rồi vãn sinh dạo chơi Biện-kinh, thấy người ăn mày dắt con chó. Gặp người nhà giầu, ông ta trả cho lão ăn mày trăm đồng tiền để mua chó. Nhưng sau khi trả tiền, con chó nhất định không theo ông nhà giầu. Chó còn không nỡ tham phú phụ bần, huống chi người? Vãn sinh cứu giá là cứu một ông vua nhân từ. Chứ nếu Hoàng-thượng ác độc như Tùy Dương-Đế, e vãn sinh đá cho một đá chết tốt, chứ đừng nói cứu giá.

    Mọi người thấy Tự-Mai nói ngỗ nghịch, nhưng đúng đạo lý, họ đều bật cười. Tự-Mai tiếp:

    - Vì lý do đó vãn sinh không thể bỏ chúa Việt theo hoàng thượng. Vì bỏ chúa Việt, vãn sinh không bằng con chó. Huống hồ chúa Việt cũng là ông vua cực kỳ nhân từ. Nhân từ nhất cổ kim.

    Lã Di-Giản hỏi:

    - Lý Công-Uẩn nhân từ ở chỗ nào?

    Tự-Mai dõng dạc kể hết những năm xá thuế, tô tượng làm chùa, đúc chuông, cùng ân xá tù nhân. Rồi nó tiếp:

    - Chúa Việt làm vua mười tám năm, mà chỉ thu thuế trước sau có bốn năm. Hỏi còn chúa nào nhân từ hơn? Nhà tù trống trơn. Ngay cả phản thần Đàm Can, mưu thí chúa mà người cũng không bắt tội.

    Chàng nói lớn:

    - Các vị ở đây đều là đại Nho, trong lòng đầy trung quân. Hàng ngày phò tá đấng quân phụ nhân từ. Nhưng các vị có biết lòng nhân đó trong tâm Hoàng-thượng ở đâu mà nảy sinh không? Theo vãn sinh nghĩ, một là do từ Tiên-đế cùng mẫu hậu truyền lại. Hai là do các vị sư phó giảng dạy. Vãn sinh không biết ông thầy nào đã dạy Hoàng-thượng học? Người đó xứng đáng làm tể thần.

    Cả triều đình đều đưa mắt nhìn Định-vương, Vương Khâm-Nhược với Yến Thù.

    Trương Sĩ-Tổn hỏi:

    - Theo chú em, một vị vua cần nhất đức tính gì?

    Tự-Mai vẫn nói theo Bảo-Hòa:

    - Theo vãn sinh, một vị Thiên-tử không cần thông minh, chẳng cần võ công cao, văn chương quán thế, mà cần nhất cái đức.

    Sĩ-Tổn hỏi:

    - Chú em nói thiên tử cần đức. Nhưng có hàng trăm đức: Đức nhu, đức cương, đức dũng, đức liêm. Đức nào cần nhất?

    - Thưa trong bộ Thánh-tổ sự tích đại nhân Vương Định-Quốc 1 có luận rồi . Tiên sinh chẳng từng viết :" Than ôi, đấng quân phụ gặp lúc nước loạn cần đức dũng. Xã tắc đói khổ cần đức từ. Khi phải xét người cần đức minh. Nhưng thời nào cũng cần đức nhân. Không nhân thì sao thương dân. Thánh nhân nói: Bậc vua chúa như cha mẹ dân. Lo trước cái lo của dân, vui sau cái vui của dân".

    Tào Lợi-Dụng vốn ghen tài với Khâm-Nhược. Y hận Tự-Mai điểm huyệt, nên cắt ngang:

    - Tên bé con Nam-man kia, mi nói đã đọc sách của Vương Khâm-Nhược, thế mi đã đọc những bộ nào?

    Tự-Mai hỏi nhà vua:

    - Tâu đại ca. Trong lịch sử Hoa-hạ, chưa đời nào văn học, tư tưởng thịnh bằng bản triều. Tại sao có một đại thần nói năng như phường vô học bất thuật vậy kià. Xin hoàng huynh trao y cho Yến đại-nhân, Vương đại-nhân dạy ít bộ sách. Y bảo đệ là người Nam-man, nhưng đệ dám thách y thi văn chương với đệ.

    Triều đình thấy Tào Lợi-Dụng nói năng cục súc, đều cau mặt khó chịu. Nhà vua nói với Lợi-Dụng:

    - Trần nhị đệ là em kết nghĩa của trẫm. Quốc-công chẳng nên quá lời.

    Nhà vua nghe Lợi-Dụng nói cũng muốn thử kiến thức của Tự-Mai, nên hỏi nó:

    - Nhị đệ đã đọc những bộ sách nào của Vương đại học sĩ?

    - Đệ mới tới kinh sư hai tháng qua, nên chỉ mới đọc được các bộ: Thiên-thư nghị chế, Thánh-tổ sự tích, Ngũ-nhạc quảng văn ký.

    Ba bộ sách trên là ba bộ Vương Khâm-Nhược viết vào thời vua Chân-tông. Triều thần cùng nghĩ rằng: Thư tịch Trung-quốc có hàng nghìn, hàng vạn. Sách của Khâm-Nhược chỉ mới in gần đây, thế mà thiếu niên này mới sang đã đọc hết ba bộ trên, thì e sách khác y đọc đến hàng trăm bộ.

    Tự-Mai nói một hồi làm Vương Khâm-Nhược, Trương Tri-Bạch, Yến Thù đều khoan khoái trong lòng. Nó chỉ vào thanh kiếm:

    - Tâu hoàng-thượng, xin hoàng-thượng cầm thanh kiếm mà Khai-Quốc vương đem cống. Cam đoan long tâm sẽ vui mừng.

    Nhà vua cầm thanh kiếm lên xem, ánh thép lạnh toát tỏa ra. Thoáng nhìn qua, cũng biết thanh kiếm lâu đời lắm. Dưới chuôi kiếm có khắc chữ:

    Đại phong khởi hề,
    Vân phi dương.
    Uy gia hải nội hề,
    Qui cố hương,
    An đắc mãnh sĩ hề,
    Thủ tứ phương. 2
    Nhà vua trầm ngâm suy nghĩ, rồi tiến đến bên Định-vương:

    - Hoàng-thúc. Hoàng-thúc xem này, quý vật mà đức Cao-tổ nhà ta suốt đời tìm kiếm không được, nay đã thấy rồi đây.

    Định-vương đỡ lấy kiếm xem qua một lượt, vương hỏi Khai-Quốc vương:

    - Nhị đệ, báu vật này nhị đệ tìm thấy ở đâu vậy?

    Khai-Quốc vương nói:

    - Tâu bệ hạ, nguyên thanh kiếm này của Cao-tổ nhà Hán là Lưu Bang. Khi Cao-tổ khởi nghiệp đã dùng nó chém rắn khởi nghĩa. Lúc thành đại nghiệp, Cao-tổ về đất Bái, họp con em đệ tử, mở tiệc mừng. Trong tiệc ngài hứng chí cầm kiếm múa và làm ra bài ca trên. Cho nên thanh kiếm có tên Đại-phong.

    Nhà vua gật đầu:

    - Suốt triều Tây-Hán, các vua dùng thanh Đại-phong này làm Thượng-phương bảo kiếm. Từ sau khi Vương Mãng cướp ngôi, Đại-phong kiếm bị tuyệt tích 3.

    Quả nhiên Thiên-Thánh hoàng đế mừng không bút nào tả siết. Ông bảo một võ quan:

    - Hoàng-môn chỉ hạp. Khanh đưa thanh kiếm này để bách quan xem một lần cho biết.

    Lý Chính vâng mệnh hai tay đỡ kiếm mang đi khắp điện.

    Khai-Quốc vương cho mở bốn ống tre ra. Trong mỗi ống có một ống tiêu chạm trổ xà cừ rất tinh vi. Một ống chạm sự tích vua Đế-Minh kết hôn với tiên nữ ở núi Ngũ-lĩnh, sinh ra thái tử Lộc-Tục. Nhà vua cầm ống tiêu xem:

    - À, đây là sự tích triều Thần-Nông phân ra Bắc sau thành Trung-nguyên. Nam sau thành Lĩnh-Nam đây.

    Ống thứ nhì chạm sự tích vua Đế-Minh tế cáo trời đất ở Thiên-Đài. Ống thứ ba chạm sự tích Lạc-Long quân kết hôn với Âu-Cơ, đẻ ra trăm con.

    Nhà vua cầm ba ống tiêu lên coi, tần ngần một lúc, rồi nói:

    - Đúng rồi, Hán, Việt vốn gốc cùng ông tổ. Hán là con nhà bác là vai anh. Việt là con nhà chú, là em.

    Một văn thần cầm ống tiêu lên xem xét một lúc rồi lắc đầu:

    - Nam-man học tiêu của Hoa-hạ, nhưng cơ chừng không biết tấu, nên làm ống to qúa. Ống tiêu này chỉ dùng để trang trí thôi, chứ dù hơi voi, hơi trâu cũng không tấu nổi.

    Từ lúc nhập điện, Lê Văn đứng sau ngai vàng, ít ai chú ý đến nó. Chàng lẳng lặng nghe Bảo-Hòa truyền ngữ cho Tự-Mai đối đáp. Đến đây, thình lình tiếng Bảo-Hòa rót vào tai:

    - Thằng này tên Phạm Ung, rất giỏi âm nhạc. Văn đệ ra bẻ gẫy lý luận của y đi.

    Lê Văn bước ra chắp tay xá Phạm Ung:

    - Ngài có phải là Phạm Ung, hiện lĩnh Long-đồ các trực học sĩ, kiêm Khu-mật viện phó sứ đấy không? Vãn sinh họ Lê tên Văn, y sinh nước Đại-Việt. Trước khi khởi hành, vãn sinh nghe danh đại nhân như sấm nổ bên tai. Không ngờ bây giờ trước mắt vãn sinh chỉ thấy một gã hủ Nho hồ đồ.

    Phạm Ung nổi giận:

    - Ta hồ đồ ở chỗ nào?

    - Theo vãn sinh, khi một người vị tới đại thần, ắt phải thông lịch sử. Ngài không thông lịch sử, mà làm đại thần thực khổ cho trăm họ. Thưa đại học sĩ, khắp thiên hạ, ai cũng biết rằng nhạc sư sáng chế ra ống tiêu họ Trương tên Chi. Ông là người Việt. Trương Chi chế ra ống tiêu vào niên hiệu Hồng-bàng bên Văn-lang năm 527 (Mậu-Thân, 2353 trước Tây-lịch). Bấy giờ bên Trung-nguyên là niên hiệu vua Nghiêu năm thứ năm.

    Phạm Ung ngơ ngác lắc đầu tỏ ý không tin.

    Lê Văn cười khúc khích:

    - Hỡi ôi! Đại-học sĩ lại quên quốc sử rồi.

    Chàng hỏi Yến Thù:

    - Thưa Hàn-lâm thị độc học sĩ. Xin tiên sinh dạy dỗ cho Phạm đại-học sĩ bài sử về giai đoạn này đi.

    Yến Thù biết Lê Văn muốn đưa mình lên, cùng hạ Phạm Ung xuống. Y cười:

    - Lê huynh đệ. Phạm đại học sĩ muốn thử kiến thức huynh đệ đó thôi, chứ truyện này ai mà không biết. Nguyên thời bấy giờ bên Trung-nguyên chưa biết làm lịch. Trong khi lịch pháp bên Văn-lang lại rất tinh kỳ. Vua Hùng sai chép phương pháp làm lịch lên lưng một con rùa rồi mang sang cống. Vua Nghiêu truyền chép lại mà dùng. Lịch pháp Hoa-hạ khởi đầu bằng việc này, nên gọi là Qui-lịch. Sau này các lịch gia Trung-thổ nghiên cứu rộng ra, chi tiết hơn, nhưng vẫn nằm trong nguyên tắc Qui-lịch. Trong lễ cống Qui-lịch còn có cả bốn ống tiêu.

    Lê Văn muốn cho đám quan lại chủ chiến chiếm Nam-địa chùn nhụt, đưa đám chủ hòa lên. Chàng nói:

    - Hỡi ôi! Yến đại học sĩ đúng là một bác học đa năng. Sau khi Văn-lang cống tiêu cho vua Nghiêu, tiêu thuật truyền sang Trung-nguyên. Nay Phạm tiên sinh nói ngược lại rằng Việt tộc học tiêu của người Hoa thì còn trời đất nào nữa.

    Phạm Ung cười nhạt:

    - Sử sách còn ghi: Tiêu Sử thổi tiêu mà được Tần Mục-công gả Lộng-Ngọc. Trương Lưu-hầu thổi tiêu ở Cai-hạ, làm tan mười vạn binh của Sở-bá vương. Rồi tiêu thuật lưu truyền lại hậu thế. Mãi sau này người Việt mới biết thổi tiêu, thì không học của Hoa-hạ là gì?

    - Tôi dám hỏi, ống tiêu mà Trương Lương dùng bằng vàng hay bạc?

    - Bằng trúc. Từ Lưu hầu về trước, người ta dùng ống tiêu bằng trúc. Sau này, đến đời Đường mới chế ống tiêu bằng bạc, bằng vàng.

    - Sai. Bộ Tả-truyện chép: Con gái Tần-mục công là Lộng-Ngọc, lớn tuổi chưa chồng. Một ngày, có thanh niên anh tuấn đến dùng ống tiêu tấu nhạc bên nàng. Hai người tâm đầu ý hợp, Tần Mục-công bèn gả Lộng-Ngọc cho nhạc sĩ. Vì vậy người ta gọi nhạc sĩ là Tiêu Sử. Từ Tần Mục-công đến Trương Lương ước hơn bẩy trăm năm. Nhưng Trương Chi chế tiêu trước Tần Mục-công hơn hai nghìn năm, vậy tiêu tộc Việt có trước tộc Hán.

    - Trương Chi chế tiêu trước, biết đâu y chẳng học của Hoa-hạ.

    - Được. Xin đại học sĩ cho vãn sinh biết: Có phải cổ thời, từ sông Trường-giang về Nam thuộc tộc Việt. Từ Trường-giang về Bắc thuộc tộc Hán không?

    - Dĩ nhiên như thế. Nguồn gốc tộc Việt với tiêu sử đâu có gì liên hệ với nhau?

    - Sao lại không? Đại học sĩ công nhận từ Trường-giang trở xuống thuộc lĩnh thổ tộc Việt. Vậy thì đại học sĩ công nhận tiêu tổ là người Việt rồi.

    - Ta công nhận bao giờ?

    - Không đúng ư? Tiêu bằng trúc, vì từ hồ Động-đình lên phía Bắc làm gì có trúc mà người Hoa chế tiêu? Công nhận lãnh thổ tộc Việt từ hồ Động-đình xuống Nam là công nhận tiêu tổ Trương Chi.

    Phạm Ung cố cãi:

    - Tiêu tổ là người Việt hay Hán cũng được. Nhưng hiện nay người Việt chế ống tiêu to như thế này là không biết tấu tiêu rồi.

    Tào Lợi-Dụng cắt ngang:

    - Đại học sĩ tranh biện với trẻ con làm gì? Tranh biện vô ích. Lão phu đề nghị hai bên tấu ít bản tiêu, để mọi người cùng nghe. Như vậy sẽ phân biệt ai là người cao thuật.

    Lê Văn cười:

    - Đa tạ Tào quốc-công. Tôi tuy còn niên thiếu, học chưa được một phần nghìn bản lĩnh của cao nhân nước tôi, nên không thể tranh tài cùng danh tiêu Hoa-hạ. Nhưng với Phạm đại-học sĩ thì tôi nhất định hơn. Thể lệ thế nào, xin đại-học sĩ dạy cho.

    - Giản dị lắm, mỗi người cùng dùng ống tiêu của mình tấu một bản nhạc. Tấu đi, tấu lại cho đến khi mệt thì thôi. Hễ ai tấu được nhiều lần thì thắng cuộc. Nhưng nếu cả hai cùng tấu đến lần thứ năm mà chưa phân thắng bại, thì thôi không đấu nữa, coi như trận này hòa, đấu trận thứ nhì. Trận thứ nhì giản dị thôi: Cả hai cùng tấu một bản, hễ âm điệu của người nào loạn, coi như thua cuộc. Đó là thể lệ đấu tiêu của Trung-nguyên.

    Lê Văn cười:

    - Đây thuộc đất Tống dĩ nhiên vãn sinh phải tuân theo lệ Tống. Vãn sinh chưa biết lệ Tống, ắt khó bằng đại-học sĩ. Giả như đấu theo lệ Việt, chắc chắn đại-học sĩ thua ngay.

    Nhà vua vốn thích Lê Văn ngay từ khi gặp y. Ông hỏi:

    - Lệ Việt thế nào? Hay là thế này, sau một trận đấu theo lệ Tống, hai người lại đấu một trận theo lệ Việt.

    Lê Văn tâu:

    - Lệ Việt định rằng khi đấu về âm nhạc, có ba phần. Phần thứ nhất ngồi trên lưng ngựa, vừa phi vừa tấu nhạc. Ngựa ai về trước, coi như thắng cuộc. Phần thứ nhì âm thanh của ai ít rối loạn coi như thắng cuộc. Phần thứ ba, đem đến cặp rắn hay cặp công. Ai dùng tiêu khiến chúng nhảy múa theo mình được coi như thắng cuộc.

    Phạm Ung nghe Lê Văn nói, y mừng thầm. Bởi tuy là văn quan, nhưng y nổi tiếng về thuật kị mã số một đế đô. Những võ quan giỏi nhất trong đội thiết kị cũng không hơn y. Y cười thầm:

    - Tự nhiên mi chui đầu vào rọ. Mi đừng trách trời oán đất bữa nhé.

    Phạm Ung nói:

    - Đây thuộc đất Tống. Ta là chủ, người là khách. Ta nhường cho người tấu trước. Nào, thi trận đầu theo lệ Tống.

    Lê Văn cầm lấy ống tiêu lớn, để cách xa miệng hơn gang tay, rồi vận nội lực dùng môi điều khiển khí lọt vào lỗ, thành âm điệu. Chàng thử mấy tiếng, âm thanh vang động rất xa, khiến mọi người đều kinh ngạc. Chàng hướng nhà vua:

    - Tâu hoàng thượng, thần xin tấu bản Động-đình ca, nói về Quốc-tổ, Quốc-mẫu tộc Việt kết hôn, rồi lên Tam-sơn hưởng thanh phúc.

    Hiện diện nhiều người biết thổi tiêu, nhiều người kinh lịch có thừa, nhưng chưa từng ai thấy lối tấu tiêu, để ống xa miệng hơn gang tay bao giờ. Lê Văn vận khí như sợi tơ truyền vào ống tiêu tạo thành tiếng véo von. Khi cao lên đến lưng trời khi trầm như nước suối đổ thấp đến độ thoang thoảng như tình nhân thủ thỉ bên tai. Những người biết thổi tiêu đều kinh hãi:

    - Tại sao âm điệu lại có thể xuống thấp đến trình độ này nhỉ? Xuống thấp như vậy thì làm sao thành tiếng được?

    Cả triều thần như bị tiếng tiêu của Lê Văn làm cho mơ mơ màng màng, tâm hồn thư thái lạ lùng. Tấu liền năm lần, chàng cầm ngang ống tiêu:

    - Xin bệ hạ ân xá cho, vì tài thần còn quá non kém.

    Chàng nói với Phạm Ung:

    - Đại-học sĩ. Tài tôi không hơn bất cứ nhạc công nào của đất Tống, nhưng chắc chắn hơn ngài.

    Phạm Ung không chấp trẻ con. Y rút trong bọc ra một ống tiêu dài. Y cung tay hướng nhà vua:

    - Thần xin tấu bản Trường-giang nguyệt lãng hầu hoàng thượng.

    Nói rồi y đưa tiêu ngang miệng thổi. Tiếng tiêu vừa cất lên, Trần Bảo-Dân, Lê Văn đều phải gật đầu công nhận tài của y thực hiếm thấy trên đời. Trong điện Sùng-chính có hơn năm trăm người, mà không một tiếng động. Lê Văn chú ý nghe, phân nhịp, điệu để học hỏi thêm.

    Phạm Ung tấu được hai lần, thì Trần Bảo-Dân bật lên mấy tiếng ho. Lạ lùng thay, tiếng ho của Bảo-Dân làm tiêu thanh hỗn loạn. Hơi của Phạm Ung bị nghẽn, y cố gắng tấu nữa, nhưng không ra. Kinh hoảng, y ngừng lại, rồi tấu từ đầu. Tiếng ho của Bảo-Dân chỉ nhiễu loạn trong chốc lát, nên lần này Phạm Ung thổi, âm thanh nhu hòa vang đi rất xa.

    Cả đình thần không ai hiểu tại sao. Duy sứ đoàn Đại-Việt biết Bảo-Dân dùng nội công thượng thừa truyền vào tiếng ho dài nhỏ như tơ xuyên qua ống tiêu, làm rối loạn âm điệu của Ung.

    Bảo-Dân dùng Lăng-không truyền ngữ nói với Mỹ-Linh:

    - Công chúa, trong chúng ta, nội công âm nhu của công chúa cực cao. Hôm đại hội Thăng-long công chúa đã dùng kiếm khí đấu với Đông-Sơn lão nhân. Bây giờ công chúa dùng Lăng-không truyền ngữ xử dụng Mê-linh kiếm pháp tấn công Phạm Ung giúp Văn đệ, bằng không y khó thắng tên họ Phạm.

    Mỹ-Linh tuyệt không ngờ Bảo-Dân lại giỏi về âm thanh như vậy. Nghe y nói, nàng thử vận công, rồi dùng Lăng-không truyền ngữ hướng vào ống tiêu của Phạm Ung. Nàng xuất chiêu Phong suy hoa lạc. Âm thanh của Ung đang véo von như chim hót giữa trời, bỗng tắt nghẽn bật thành tiếng ồ ồ như người bị suyễn. Mọi người không nhịn được, đều cười ồ lên. Phạm Ung kinh ngạc, cố thổi, nhưng âm không ra. Y ngừng lại nhìn tiêu: Bên trong vẫn như thường.

    Tào Lợi-Dụng hỏi:

    - Phạm đại-học sĩ. Sao vậy?

    - Tiểu nhân cũng không biết nữa.

    Y lại cầm ống tiêu thổi. Âm thanh trỗi dậy vi vu rất thanh nhã.

    Thấy lối phá phách của Bảo-Dân có kết quả, Mỹ-Linh tấn công chiêu thứ nhì, âm thanh lần này không tắt nghẽn, mà bị đổi thanh điệu. Chỗ đáng lẽ lên cao, thì lại xuống thấp. Chỗ đáng lẽ xuống thấp thì lại lên cao, thành ra âm thanh hỗn tạp, cực kỳ khó nghe. Phạm Ung có cảm tưởng như bị ma trêu quỷ ám, mặt y tái đi vì giận.

    Nhìn tình cảnh Phạm Ung; Tự-Mai biết Mỹ-Linh phá y. Nó dùng Lăng-không truyền ngữ nói:

    - Chị Mỹ-Linh, nhường cho em đùa với gã này đi.

    Vốn tính hiền hậu, Mỹ-Linh nghe Bảo-Dân phá Phạm Ung, mà trong lòng nàng không nỡ. Bây giờ được Tự-Mai lĩnh nhiệm vụ ác đức dùm, nàng mừng quá, thu chiêu.

    Phạm Ung đang bị Mê-linh kiếm đánh vào âm thanh làm rối loạn, bỗng y cảm thấy hơi phát ra êm dịu dìu dặt. Vui mừng, y tấu được nửa bản bằng tất cả nghệ thuật điêu luyện của mình.

    Tự-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ, xuất chiêu Phong hoa hợp bích đánh vào tiêu Phạm Ung. Ung đang lên bổng, xuống trầm, thình lình bị tắc nghẽn, thổi không ra hơi. Y cảm thấy mệt mỏi, vội buông tiêu, than:

    - Thực là bị ma trêu quỹ ám. Chắc phía Giao-chỉ đùng tà thuật hại thần.

    Y đưa ống tiêu lên miệng thổi một hơi nữa, âm thanh vang lên rất mạnh. Tự-Mai sướng qúa, nó dùng Lĩnh-Nam chỉ pháp truyền lăng không đánh vào ngang ống tiêu. Cứ mỗi chỉ, âm thanh lại nghẽn, thành tiếng tiêu khi tắt, khi ra, khi lộc cộc như ngựa phi. Cả triều thần đều bật lên tiếng cười. Họ không hiểu tại sao tự nhiên Phạm Ung lại biến âm hưởng kỳ lạ như thế. Cứ vậy hết bản. Y ngừng lại, chân tay bải hoải.

    Tự-Mai reo lên:

    - Phạm đại học sĩ thua rồi, vì trong khi tấu khi thì đứt hơi, khi thì lạc điệu.

    Lã Di-Giản nói:

    - Đứt hơi là thế nào, âm điệu bản nhạc như thế đó, chứ Phạm đại-học sĩ đâu có đứt hơi?

    Tự-Mai cười nhạt:

    - Các vị là người lớn, mà dối trẻ còn ư? Như thế là văn phong của bậc đại Nho nhà Tống ư? Như thế là tư cách của đại thần ư?

    Tào Lợi-Dụng, Lã Di-Giản nói:

    - Phạm đại-học sĩ với Lê công tử đều tấu hết năm lần bản nhạc của mình. Như vậy là hòa. Bây giờ hai vị song tấu.

    Tự-Mai hỏi Lã Di-Giản:

    - Quốc công. Phải chăng bản nhạc vừa rồi mang tên Kị mã xuyên sơn cho nên cộc cộc không ra âm hưởng gì cả? Hay có tên Đắt-Kỷ ho gà?

    Di-Giản hỏi Phạm Ung:

    - Có phải bản nhạc vừa rồi mô tả tiếng ngựa phi, tiếng gió bão không?

    Phạm Ung đỏ mặt lên, đúng thể lệ, âm thanh của y loạn, coi như thua cuộc. Nhưng Di-Giản đỡ cho, y cũng phải làm mặt dầy gật đầu.

    Lê Văn tuy thắng cuộc, nhưng chàng tự biết mình thắng là do Bảo-Dân, Tự-Mai, Mỹ-Linh công phá đối thủ, nên chàng không tranh luận nữa. Nó nói:

    - Bây giờ đấu theo lệ Đại-Việt.

    Quần thần đều ra trước sân Sùng-chính điện. Hai con ngựa của thị vệ đầy đủ yên cương được đưa tới. Tự-Mai, Lê Văn hộ giá nhà vua. Thanh-Mai, Thiếu-Mai, Mỹ-Linh cũng ra trước sân. Nhưng không thấy Lưu hậu ra. Sân Sùng-chính điện rộng mênh mông.

    Quan điện tiền chỉ huy sứ, kiêm tổng lĩnh thị vệ Trần Trung-Đạo nói:

    - Một vòng sân này hơn hai mươi dặm (10 cây số ngày nay). Thị vệ thường đua ngựa với nhau. Bây giờ hai vị có thể phi ngựa men theo lối cũ. Không thể cho ngựa chạy vào trong vườn hoa, không thể cho ngựa chạy ra ngoài sân. Ai để ngựa phi vào vườn hoa, hay ra ngoài sân coi như thua.

    Phạm Ung, Lê Văn lĩnh ngựa. Lê Văn hướng vào nhà vua:

    - Tâu bệ hạ. Phàm cỡi ngựa có hai phép. Một là dùng yên cương như thường lệ. Còn ai có thuật kị mã cao, thì không cần tới yên cương.

    Lê Văn hỏi Ung:

    - Nào bây giờ đại học sĩ có dám phi ngựa không yên cương chăng? Rồi chúng ta cùng tấu một khúc nhạc. Tùy quan đại-học sĩ chọn.

    Nghe Lê Văn nói, các võ quan đều kinh hãi:

    - Mình có nghe nói, xưa một danh tướng bên Văn-lang giỏi thuật kị mã đến độ không dùng yên cương. Y luyện một đội kị binh thuật đó, rồi dùng đánh nhau với quân nhà Ân. Sau khi thắng quân Ân, y bỏ không làm quan, được phong làm Thiên-vương. Y gốc làng Phù-đổng nên võ lâm gọi y là Phù-đổng thiên vương. Y lập ra phái Sài-sơn. Có lẽ thiếu niên này thuộc phái võ Sài-sơn đây.

    Bị thách, nhưng Phạm Ung nghĩ thầm:

    - Trên đời làm gì có người cỡi ngựa không yên cương nhỉ? Thằng lỏi láu cá này bịa đặt dọa ta đây. Ta mà rút lui thì còn chi là thể thống?

    Y nói:

    - Nếu người có tài thì cỡi ngựa không yên cương thử coi. Nào, chúng ta cùng tấu bản Cai hạ loạn Sở binh của Trương Lưu hầu.

    Lê Văn nhắc bổng yên, tháo cương ra, trao trả viện thị vệ kị mã. Chàng quát một tiếng, phi thân ngồi lên trên lưng ngựa. Phạn Ung cũng nhảy lên yên, tay cầm cương. Hai ngựa đứng song song. Nhà vua cầm dùi đánh một tiếng trống. Phạm Ung thúc chân vào bụng ngựa, ra roi. Ngựa vọt tới trước. Lê Văn quát lên một tiếng, con ngựa tung vó lên sải bước như bay. Hai ngựa phi song song. Phạm Ung đưa tiêu lên miệng thổi. Còn Lê Văn, chàng dùng hai tay giữ ống tiêu bắt nhịp, miệng vận khí phát hơi vào lỗ. Tiếng tiêu của chàng lớn gấp mấy tiếng của Phạm Ung. Đến độ người nghe chỉ thấy tiếng tiêu của chàng, còn tiếng tiêu của Phạm Ung như sợi tơ.

    Ngựa Phạm Ung phi như bay. Trong khi ngựa Lê Văn cùng sải bước song song. Hai ngựa chạy hết vòng, trở lại trước thềm điện Sùng-chính. Phạm Ung ghì cương cho ngựa dừng lại. Y hướng hoàng-đế, cúi đầu ba lần.

    Lê Văn phi song song với Phạm Ung, khi đến thềm điện, chàng vận khí xuống chân truyền vào hai huyệt Chương-môn của ngựa. Con ngựa dựng đứng hai vó trước, chụm hai chân vào nhau gật đầu ba cái.

    Tất cả võ quan, thị vệ hiện diện đều kinh hãi:

    - Trên đời sao lại có kẻ giỏi thuật kị mã đến thế kia? Không dùng yên cương mà điều khiển được ngựa thì mình có thể làm được. Nhưng vừa phi ngựa không yên cương, vừa tấu nhạc, rồi lại sai ngựa dựng vó hành lễ, thực chưa từng thấy qua.

    Nhà vua nói:

    - Vòng đầu hai ngựa về cùng, coi như hòa. Bây giờ phi vòng thứ nhì.

    Nhà vua đánh tiếng trống. Hai ngựa vọt lên như tên bắn. Biết rằng qua vòng đầu, ngựa đã thấm mệt. Lê Văn nghĩ thầm:

    - Ta dùng khinh công thượng làm cho cơ thể nhẹ. Như vậy dù Phạm Ung cỡi ngựa giỏi đến đâu cũng thua ta.

    Chàng tung mình lên cao. Ở trên không chàng lộn một vòng, người vọt về trước. Khi chàng rơi xuống, ngựa vừa trờ đến. Chàng đáp một chân lên cuối sống lưng ngựa. Con ngựa của chàng mất đi trọng lượng, vó câu xẹt như tên bắn, lên trước ngựa Phạm Ung đến hơn hai trượng. Kỳ diệu ở chỗ tuy chàng nhảy lên cao, mà tiếng tiêu vẫn không rồi loạn. Thế là ngựa Lê Văn phi trước ngựa Phạm Ung mỗi lúc một xa. Khi Lê Văn về tới thềm điện, thì ngựa Phạm Ung mới chạy được ba phần tư vòng. Y luôn thúc chân vào bụng, nhưng sức ngựa có hạn. Rút cuộc y về sau Lê Văn một lúc khá lâu.

    Nhà vua phán:

    - Cuộc này Lê thế tử thắng. Phạm đại-học sĩ thua rồi.

    Nhà vua muốn biết thêm khả năng của Lê Văn. Ông truyền:

    - Đem ra đây cặp công, để hai người cùng thổi tiêu xem ai có thể làm cho công nhảy múa.

    La Sùng-Đản đã đem đến hai cặp công từ trước. Tiếng Bảo-Hòa rót vào tai Lê Văn:

    - Em nhường Phạm Ung tấu trước, để chị dạy cho em ít tiếng nói của loài công. Em dùng tiếng tiêu tạo âm thanh giống hệt tiếng công nói, sai khiến chúng hành lễ, cùng lui tới.

    Trong khi đó tiếng Trần Bảo-Dân rót vào tai Lê Văn:

    - Hôm trước trên hồ Động-đình ta cùng em đã nghiên cứu về âm thanh vũ-động. Chúng ta làm bọn thủy thủ cũng như hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ nhảy múa như điên như loạn. Bây giờ em cũng áp dụng lối đó khiến loài công múa theo điệu Việt mình. Còn ta, ta sẽ dùng Lăng-không truyền ngữ làm cho tên Phạm Ung nhảy chồm chồm cho bõ ghét.

    Nhà vua hỏi:

    - Trong hai người, ai sẽ trổ tài trước?

    Lê Văn chắp tay nói:

    - Tâu bệ hạ, thần chỉ là tên nhà quê, sao có thể so với vị đại-học sĩ. Xin mời đại-học sĩ trổ tài trước cho.

    Tấu nhạc cho hạc, cho công múa là môn giải trí rất cổ trong văn hóa Hán, Việt. Hầu hết những người hiện diện biết chơi nhạc đều đã học qua. Phạm Ung tiến tới chọn một cặp công. Hai thái giám ôm cặp công để trước sân, rồi lui lại.

    Trong khi đó Bảo-Hòa dùng Lăng-không truyền ngữ dạy Lê Văn những tiếng nói của loài công. Vốn thông minh, lại giỏi âm thanh, Lê Văn học hơn mười câu trong chốc lát.

    Phạm Ung cầm ông tiêu lên miệng tấu. Âm thanh dìu dặt phát ra, đôi công xòe cánh vươn cổ múa theo điệu nhạc rất đẹp mắt. Khi thì chúng cùng hướng vào nhau như đôi tình nhân e ấp. Khi thì chúng quay tròn, khiến mọi người hoa mắt, vỗ hay hoan hô vang dậy.

    Thình lình con công trống bay lên cao, rồi phóng tới mổ vào chân Phạm Ung. Phạm Ung kinh hãi lùi lại. Lập tức con mái bay đến sau y dương cổ lên mổ. Y vội buông tiêu, chạy ra sân. Đôi công đuổi theo, xù lông, dương cổ lên mà mổ y. Y la lên:

    - Đôi công này hóa điên rồi.

    --------------------------------
    1 Người xưa khi nói tới văn gia, thường gọi tên tự để tỏ ý kính trọng. Vương Khâm-Nhược tự là Định-Quốc, vì vậy Bảo-Hòa nhắc Tự-Mai gọi tên tự của ông ra, để lấy lòng.
    Hiện nay bốn biển thái bình, trong triều toàn túc Nho, trung thần. Ngoài dân, chỗ nào cũng mở mang truyền bá đạo thánh Khổng. Thiên-tử cần đức nhân hơn cả. Tỷ như vừa rồi, nếu Thiên-tử không nhân, ắt Tào quốc-công bị chặt đầu. Cho nên tiểu sinh nghĩ: Mình theo sứ đoàn để học văn minh Hoa-hạ, không ngờ được thấy một anh quân nhân từ... lại được đọc biết bao sách của Vương đại-nhân, Yến đại-nhân, Trương đại-nhân. Có lẽ tiểu sinh xin Khai-Quốc vương cho ở lại ít năm để học những cái hay của văn minh Hoa-hạ.
    2 Đây là bài ca rất cổ, do Lưu Bang, Cao-tổ nhà Hán làm. Sau khi thắng Hạng Vũ, thống nhất đất nước, Lưu Bang về thăm quê hương, rồi làm ra bài ca này. Tạm dịch:
    Gió lớn khởi chừ,
    Mây bay cao.
    Oai khắp bốn bể chừ,
    Về cố hương.
    Sao được mãnh sĩ chừ,
    Trấn giữ bốn phương.
    3 Bộ Đông-Hán cảo lục chép rằng: " Khi Vương-Mãng cướp ngôi nhà Hán, y đoạt thanh Đại-phong. Y đem cất chung vào với bảo vật ở dưới đáy điện Vị-ương, rồi sai người chôn ở hồ Động-đình".
    Thời vua Trưng thành đại nghiệp, ngài sai công chúa Trần Năng, Quỳnh-Hoa, Quế-Hoa đào kho tàng Tần-Hán mang về. Trong kho tàng có thanh Đại-phong. Phái đoàn Lĩnh-Nam chở kho tàng về tới Khúc-giang, bị đoàn cao thủ của Mã hậu đuổi theo. Công chúa Trần Năng đem chôn kho tàng ở Tuyệt-phong.
    Khai-Quốc vương sai Bảo-Hòa, Thông-Mai, Tự-Mai đào kho tàng mang về Đại-Việt, nhân đó đem thanh Đại-phong cho
    Theo tin tức tế tác Đại-Việt, Tống thái tổ Triệu Khuông-Duẫn cướp ngôi của ấu quân nhà Chu. Cho nên trong lòng luôn luôn sợ thiên hạ dị nghị. Ông nghĩ rằng, nếu mình có thanh kiếm Đại-phong trong tay, thì dân chúng sẽ tin rằng trời trao thiên hạ cho. Ông truyền tìm thanh kiếm này khắp nơi mà không thấy. Vì vậy Bảo-Hòa khuyên Khai-Quốc vương nên cống Tống-đế, để mua cảm tình.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BA
    Quốc sự tối khẩn

    Mọi người cùng ngơ ngác. Lê Văn cũng kinh ngạc. Nhưng chợt nó hiểu ngay:

    - Bà chằng Bảo-Hòa chứ không ai lạ. Bả dùng Lăng-không truyền ngữ sai đôi công đánh Phạm Ung.

    Nguyên từ thời Lĩnh-Nam, công chúa Hồ Đề cùng chư đệ tử phái Tây-vu nghiên cứu về tiếng nói của các loài thú vật, luyện thành tám đạo quân ưng, sói, voi, ong, rắn, khỉ, hổ, báo gây kinh hoàng cho quân Hán. Sau khi vua Trưng tuẫn quốc, các đệ tử Hồ Đề lập thành phái Tây-vu chuyên nghiên cứu về âm thanh của thú vật.

    Trải hơn nghìn năm đến nay chưởng môn phái Tây-vu là ông nội Bảo-Hòa thì bản lĩnh học tiếng thú vật càng tinh thâm đến cùng cực. Ngay từ nhỏ, Bảo-Hòa được chân truyền thuật này. Bây giờ nàng cùng Thông-Mai ẩn thân trong lớp áo thị vệ, cung nữ. Nàng thấy Phạm Ung dùng tiêu tấu nhạc cho công múa. Tính tinh nghịch nổi dậy, nàng dùng lăng không truyền ngữ sai nó tấn công Phạm Ung. Vì vậy không ai hiểu tại sao bỗng dưng đôi công lại hóa điên như vậy.

    Duy sứ đoàn Đại-Việt biết ngay đây là tuyệt tác của Bảo-Hòa. Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản vội sai hai thái giám trông coi thú vật trong ngự hoa viên ra bắt đôi công về.

    Mặt Phạm Ung tái đi:

    - Ma nhập! Quỷ ám. Hai con công này hóa điên.

    Tào Lợi-Dụng hất hàm cho Lê Văn:

    - Bây giờ đến lượt chú bé kia.

    Hai thái giám ôm cặp công khác để giữa sân. Lê Văn dùng ống tiêu phát ra tiếng loài công, sai chúng. Đôi công đến trước thềm đình hướng Hoàng-đế cúi đầu, xòe cánh, qùy gối lạy đủ tám lạy. Mỗi lần lạy chúng lại hót mấy tiếng.

    Từ nhà vua đến quần thần thấy Lê Văn sai công hành đại lễ, đều hoan hô. Trong lòng họ nảy ra sự cảm phục thiếu niên nhiều biệt tài.

    Lê Văn dịch:

    - Đôi công tham kiến Thái-hậu, Hoàng-thượng cùng chư vị đại thần.

    Sau khi chúng lạy đủ tám lạy. Lê Văn ra giữa sân cầm tiêu tấu nhạc. Tiếng tiêu cất lên, đôi công múa thực đẹp. Có khi chúng bay lên cao, nhào lộn trên không, cùng cất tiếng hót theo âm tiêu. Có khi chúng tới trước nhà vua xòe cánh, cúi đầu. Cứ như vậy cho đến hết bản nhạc, chúng lại hành lễ với nhà vua, rồi lạy Lê Văn bốn lạy.

    Tự-Mai hỏi Phạm Ung:

    - Phạm đại học sĩ. Người thấy sao?

    Mặt Phạm Ung xám như tro. Y nói:

    - Đây là ta không may, trúng phải cặp công điên khùng, chứ về tiêu thuật ta đâu thua thằng láu cá kia?

    Tự-Mai cười nhạt:

    - Thú vật vốn có linh tính. Khi thấy người bất trung, bất hiếu, thì chúng mổ, cấu là lẽ đương nhiên. Ngài bảo chúng điên ư? Vãn sinh cho rằng chúng rất tỉnh. Ngài thử nhìn, Lê đệ của vãn sinh sai nó múa cho ngài coi.

    Nghe anh nói, Lê Văn cười rất tươi. Chàng để tiêu lên miệng thổi bài Phụng cầu kỳ hoàng. Bốn con công cùng cất cánh bay lên trời, múa theo tiếng tiêu. Khi bản nhạc dứt, nó bay về phía ngự viên, chứ không đáp xuống cạnh thái giám chăn nó nữa.

    Triều Tống cùng cảm thấy trong cuộc đấu ẩn tàng điều bí mật gì, nhưng không có chứng cớ, nên đành im lặng.

    Phạm Ung nói:

    - Bây giờ đấu theo lệ Tống. Hai bên cùng tấu nhạc. Ai muốn tấu bản gì tùy ý. Cả hai dùng âm thanh nhiễu loạn nhau. Ai mệt, tiếng tiêu bị rối loạn coi như thua cuộc.

    Lê Văn cười nhạt, nghĩ thầm:

    - Thiên đường có nẻo mi không đến. Địa ngục không đường dẫn xác vào. Nếu mi chịu thua ta có thể tha cho mi. Mi cãi chầy, cãi cối, ta sẽ cho mi bài học.

    Chàng nói:

    - Nào chúng ta cùng tấu.

    Lê Văn, Phạm Ung đưa ống tiêu lên miệng. Hai người tấu được nửa bản, thình lình Lê Văn truyền nội lực vào tiếng tiêu. Âm thanh phát ra khiến Phạm Ung không tự chủ được người y lảo đảo. Lê Văn càng thổi, người y càng ngả nghiêng. Lát sau y buông hai tay, ống tiêu rơi xuống thềm điện. Hai chân y bước loạn, chân nam đá chân xiêu như người say rượu. Mặc Ung nghiêng ngả, Lê Văn tiếp tục thổi, tiếng tiêu lọt vào vào tai mọi người rất dễ chịu. Trong khi cũng tiếng tiêu đó vào tai Phạm Ung, thì y ngả nghiêng múa may theo điệu nhạc.

    Cả triều thần không ai hiểu tại sao cả. Chỉ duy Khai-Quốc vương là hiểu rõ:

    - Thì ra Bảo-Dân dùng Lăng-không truyền ngữ rót vào tai Phạm Ung một thứ âm giai. Thứ này hợp với tiếng nhạc của Lê Văn thành bản nhạc ma quái mà y đã dùng để hại hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ trên hồ Động-đình. Cho nên ai nghe tiếng nhạc cũa Lê Văn cũng khoan khoái. Còn Phạm Ung thì khốn khổ thế kia. Nhị sư huynh quá lắm. Nhưng đối phó với bọn hủ Nho, mà lại tham vọng muốn gây hấn với lân bang này không thế không xong.

    Tiếng tiêu của Lê Văn thì rất lọt tai. Trong khi Phạm Ung múa may quay cuồng như người điên. Y muốn dừng lại, nhưng không được. Y lảo đảo đến gần ngai vàng, rồi lại lui sang tả ban, hữu ban. Có lúc người quay tròn như chong chóng. Lát sau, mệt quá, y ngồi thụp xuống điện, nhưng tay vẫn múa, đầu vẫn lắc. Bản nhạc hết, Lê Văn hạ tiêu xuống, thì Phạm Ung cũng thôi múa. Y mệt quá, y gục xuống điện. Thị vệ vội vực y đem ra ngoài.

    Lê Văn khấu đầu trước nhà vua:

    - Chút tài mọn, thực không bõ làm trò cười. Xin bệ hạ khoan thứ.

    Cả đình thần nhà Tống đều thấy trong cuộc ấu này, phía Đại-Việt ẩn tàng một điều kỳ bí, mà không ai biết rõ. Nhưng vì không chứng cớ, họ đành ngậm tăm.

    Thái-hậu hỏi:

    - Lê công tử. Phải chăng người là con trai của Hồng-Sơn đại phu bên Đại-Việt?

    - Tâu thái hậu, thần trẻ người, non dạ, tính bồng bột, nên chưa học được một phần trăm bản lĩnh của phụ thân, nghĩ thực xấu hổ. Vừa rồi thần lộ cái xấu xa ra, mong Thái-hậu khoan dung đại độ.

    Tự-Mai với Lê Văn cùng xuất thân trong gia đình danh gia, hơi giống nhau. Tự-Mai ảnh hưởng tính ngang tàng của Trần Tự-An, một anh hùng thảo dã coi trời bằng vung, nói năng không cần quy củ phép tắc. Ngược lại Lê Văn là cháu nội một Hoàng-đế, nên nó quen với ngôn từ của cung đình. Nó nói mấy câu, làm Thái-hậu cũng như triều đình hài lòng.

    Thái-hậu nghĩ:

    - Thiếu niên này có thực tài. Ta phải ban khen cho đúng thể diện mẫu nghi thiên hạ.

    Nghĩ vậy bà tuyên:

    - Thực không hổ con cháu vua Lê. Vừa rồi thế tử dùng nội lực dồn vào tiếng tiêu, làm Long-đồ các đại học sĩ không tự chủ được, đến phải múa may quay cuồng. Lối để tiêu xa miệng, rồi dùng môi khiến hơi thành gió vào ống tiêu, ta có nghe nói, nay mới được thấy. Này Lê thế tử, năm trước Lê triều đem cống tiên đế một cây đàn cùng nhạc công. Đàn gì mà chỉ có một dây? Nay nhạc công đã qua đời rồi nên không ai biết xử dụng. Lê công tử thử tấu cho triều đình biết một lần.

    Một nhạc quan bưng ra cây đàn bầu. Lê Văn tiếp đàn, rồi tâu:

    - Tâu thái hậu, nguyên cây đàn này được chế ra hồi vua Hùng bên Văn-lang. Người chế ra là công chúa Tiên-Dung cùng Chử đồng tử. Hai vị dùng cây đàn này làm vật trị bệnh cho dân chúng. Sau Trương Chi sửa chữa lại, lưu truyền cho đến nay.

    Tập-hiền viện đại học sĩ Lý Điệt hỏi:

    - Lê thế tử. Lối trị bệnh bằng âm nhạc, lão phu có nghe nói, nhưng thực sự chưa bao giờ thấy. Không biết thuật ấy của tộc Việt có còn lưu truyền chăng? 1

    Thấy Lý Điệt gọi mình bằng thế tử, Lê Văn nghĩ thầm:

    - Ông này thân với Đại-Việt đây. Vì vậy ông coi ông nội mình là vua, phụ thân mình là vương, mình là thế tử. Mình phải lấy lòng ông mới được.

    Chàng chắp tay:

    - Lý đại học sĩ hỏi câu này thực phải, vãn sinh tuy mới học qua từ phụ thân, nhưng đã lòng quân tử dạy đến, cũng đành trình bầy cái xấu ra để được các vị cao minh Hoa-hạ dạy dỗ.

    Mỗi lời của Lê Văn đều làm mọi người đẹp lòng. Trần Trung-Đạo nghĩ thầm:

    - Lúc đầu thấy Khai-Quốc vương dẫn năm trẻ đi sứ, mình cho rằng vương chiều chúng quá đáng. Có ai đời đi sứ kết hiếu mà mang mấy đứa phá trời theo, chúng sẽ làm triều thần nhà Tống cười cho. Bây giờ mình mới thấy, vương quả thực biết người. Chỉ cần Tự-Mai trổ tài, tỏ cái tự hào dân tộc, rồi Lê Văn nói vài câu, thực nhũn nhặn mà từ Thái-hậu đến quần thần đều lọt tai.

    Lê Văn lên phím đàn, rồi nói:

    - Thưa đại học sĩ. Xưa tộc Việt có một nhạc sĩ tài ba, tên Trương Chi. Trương Chi làm nghề đánh cá ven sông. Đêm đêm thường tấu nhạc. Ông chính là tổ của tiêu thuật, tổ của đàn cò, tổ của đàn bầu. Quan tể tướng có một Mỵ-Nương. Nàng ở trên lầu Tây bên sông, hàng đêm nghe tiếng hát, tiếng đàn, tiếng tiêu của Trương Chi, rồi cảm chàng. Nàng lâm bệnh, không thuốc gì trị khỏi. Sau nàng thú thực cùng cha. Tể tướng cho mời Trương Chi vào lầu Tây. Trương Chi tấu một khúc nhạc, Mỵ-Nương nghe xong, khỏi bệnh liền. Từ đó, Trương Chi nghiên cứu thành hẳn một nhạc trị liệu, lưu truyền khắp tộc Việt.

    Chàng ngừng lại tiếp:

    - Bên Trung-nguyên, tại nước Lỗ, đức thánh Khổng là thủy tổ của nhạc trị liệu. Bất cứ đi đâu ngài cũng mang theo cây đàn. Ngài dùng nhạc để tâm hồn thư thái. Đó là gốc của việc dùng nhạc trị bệnh. Bên Văn-lang, sau Tiên-Dung đến Trương Chi nghiên cứu ra rằng trong nhạc dùng năm âm Cung, Thương, Dốc, Chủy, Vũ. Phầm âm Cung thuộc tỳ, thuộc tiếng ca. Âm Thương thuộc phế, thuộc tiếng khóc. Âm Dốc thuộc can, thuộc tiếng hô. Âm Chủy thuộc tâm thuộc tiếng cười. Âm Vũ thuộc thận thuộc tiếng thân tức rên rỉ.

    Miệng nói tay chàng bật những âm thanh tương ứng, kéo dài ra cho mọi người nghe. Chàng tiếp:

    - Y kinh nói: Tâm chứa thần. Phế chứa phách. Can chứa hồn. Tỳ chứa ý. Thận chứa chí. Tiên-Dung áp dụng như sau: Khi thần bị tổn thương, đưa đến tâm bệnh. Ngược lại tâm bệnh đưa đến thần thương. Cũng như can bệnh đưa đến hồn tổn thương hay cáu giận. Ngược lại bị uất ức hay cáu giận đưa đến thương can. Người bị bệnh thận thường thiếu ý chí. Ngược lại người chí suy cũng đưa đến thận suy. Tất cả bệnh do thần, phách, hồn, ý, chí đều dùng âm thanh trị được.

    Chàng đưa mắt nhìn một vòng quần thần, rồi chỉ vào Lý Điệt nói:

    - Tỷ như Lý đại học sĩ, vì cần lao chính vụ quá độ, nên gần đây trí nhớ giảm, đầu mề mệt. Y kinh nói: Thận chủ não tủy. Theo ngũ hành, thận thuộc thủy, phế thuộc kim, can thuộc mộc. Kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Trong khoa trị bệnh phải tả tử, bổ mẫu. Như vậy cần phải dùng bản nhạc với những âm tương ứng sao cho bổ kim thuộc phế là mẹ thủy thuộc thận mạnh tức phế mạnh. Công năng thận sinh công năng can. Vậy thận thủy là mẹ, can mộc là tử. Cần dùng những âm nhiễu loạn sao cho trấn áp công năng can. Như vậy bệnh của đại học sĩ giảm ngay.

    Tào Lợi-Dụng thấy triều đình lắng tai nghe Lê-Văn nói, lão ấm ức, nói bâng quơ:

    - Ranh con nói láo.

    Lê Văn mỉm cười:

    - Vãn sinh xin tấu một bản hầu trị bệnh cho Lý đại-học sĩ.

    Chàng bật giây đàn. Mọi người đều thấy âm thanh choang choảng, khiến cho tâm thần bừng bừng muốn khoa chân múa tay. Riêng Lý Điệt, lão cảm thấy những âm thanh lọt tai khiến cho trong người nóng bừng, chân khí chạy rần rật khắp người. Bản nhạc chưa hết mà mặt lão hồng hào khác thường.

    Bản nhạc dứt, Lê Văn nói với Lý Điệt:

    - Đại-học sĩ thấy thế nào?

    Lý Điệt chắp tay:

    - Đa tạ công tử trị bệnh cho.

    Nhà vua chỉ Phạm Ung:

    - Vừa rồi Long-đồ các đại học sĩ đấu nhạc với khanh, mà bị âm thanh đưa vào trận đồ. Trẫm công nhận Phạm đại học sĩ thua rồi. Vậy khanh hãy trị cho đại-học sĩ đi.

    Lê Văn nhìn lại, Phạm Ung mệt lử, đang ngồi dựa cột điện. Chàng cúi đầu:

    - Thần xin tuân chỉ.

    Rồi chàng bật lên những âm thành dài nhỏ như tơ. Phạm Ung đang ngồi mệt lử, lập tức riu riu, rồi nhập vào giấc ngủ rất sâu. Lê Văn tâu:

    - Tâu bệ hạ, Phạm đại học sĩ chỉ bị mệt vì múa qúa nhiều. Thần tấu nhạc cho đại-học sĩ ngủ một giấc thì mêt mỏi hết ngay. Tuy vậy trong khi đại học sĩ ngủ, thần vẫn dùng âm thanh làm cho can, thận khỏe lên. Bởi y học nói: Can chủ cân, thận chủ cốt. Vừa rồi Phạm đại học sĩ múa nhiều tất gân, cốt bị tổn hại, nên cần bổ.

    Nói rồi chàng lại tấu một khúc nhạc nữa. Lưu thái-hậu khen:

    - Lê công tử quả thực là con nhà danh gia. Hôm nay ta muốn ban cho công tử một đặc ân, vậy công tử có ước nguyện gì cứ tâu trình. Ta sẽ ưng cho.

    Thái-hậu thấy Lê Văn nhiều tài, bà yêu tài đó. Nhân nghe chàng xin ứng tuyển phò mã, bà mới nói câu này, ngụ ý nếu chàng thích giai nhân nào, bà đặc ơn gả cho chàng, hầu tỏ lòng cầu hiền tài.

    Tự-Mai dùng Lăng-không truyền ngữ nói vào tai Lê Văn:

    - Văn đệ cứu ta với. Văn đệ xin thái hậu gả Thuận-Tường cho ta.

    Lê Văn mừng quá, chàng quỳ xuống tạ ơn, định xin Thái-hậu gả Thuận-Tường cho Tự-Mai. Thình lình tiếng Bảo-Hòa lọt vào tai:

    - Sư đệ nói theo chị. Truyện Tự-Mai để đó, lấy quốc sự đặt lên trên tình huynh đệ.

    Lê Văn kinh hãi vội nói theo Bảo-Hòa:

    - Thần xin Thái-hậu cứu mạng cho một người bị oan khuất, không biết chết sống lúc nào.

    Thái-hậu hỏi:

    - Nếu là việc oan khuất, cháu khỏi cần xin ân huệ. Thế nào việc đó ra sao?

    Lê Văn nói lớn:

    - Tâu thái-hậu, tại Triệu-châu có một Nho-sinh tên Triệu Đức-Sùng, vô tội. Y cưới cô vợ cực kỳ xinh đẹp. Vì vậy y bị viên giám-binh vu cho tội phản nghịch, bắt giam, rồi cướp vợ. Ức lòng, y vượt ngục về kinh, đến cửa Thuần-dương đánh trống kêu oan. Y bị viên giám binh cùng võ sĩ tùy tòng đánh đập, bắt giam. Bấy giờ có Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản đi qua, bắt viên giám binh giam lại. Nhưng thế lực viên giám binh lớn quá, y được thả ra, rồi lại thung dung ứng tuyển phò mã.

    - Viên giám binh tên gì?

    - Y họ Tào tên Nhuế, công tử của tể tướng Tào Lợi-Dụng.

    Tào Lợi-Dụng kinh hãi bước ra tâu:

    - Tấu thái hậu, mấy tên ôn con theo sứ đoàn Đại-Việt mưu hãm hại công thần. Thần quả có con trai làm giám binh Triệu-châu tên Nhuế. Nhưng con thần văn hay chữ tốt, đạo đức hiếm ai bì. Không thể có truyện con thần hãm hại lương dân.

    Vương Đức-Dụng nói với Lê Văn:

    - Lê thế tử. Có chắc Tào công tử làm việc vô pháp, vô thiên không? Nếu triều đình điều tra ra thế tử vu hãm công thần, e thế tử sẽ bị tội khi quân, khó tránh khỏi sát thân.

    Lê Văn nói:

    - Xin quan Ngự-sử cho triệu Tào Nhuế, La Sùng-Đản cùng Triệu Đức-Sùng vào đối chất sẽ ra ngay đen trắng.

    Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích tâu:

    - La Bắc-ban chỉ hậu hiện diện tại đây. Còn Tào công tử ứng tuyển phò mã đang chờ ở ngoài. Chỉ còn thiếu Triệu Đức-Sùng mà thôi.

    Thái hậu ra lệnh:

    - Triệu Tào Nhuế vào.

    Tào Nhuế bước vào điện quỳ gối tung hô vạn tuế. Y liếc mắt thấy La Sùng-Đản, thì đã đoán ra mấy phần bất tường.

    Vương Đức-Dụng hỏi:

    - Tào công tử, Lê thế tử đây tố đích danh công tử ức hiếp ngoan dân Triệu Đức-Sùng, cướp vợ y. Vậy công tử trả lời đi.

    Tào Nhuế rập đầu tâu:

    - Muôn tâu Thánh-hoàng. Phụ thân thần lăn mình vào chỗ trăm chết, một sống trải ba đời vua, mới có địa vị ngày nay. Cho nên trong triều, ngoài dân dã không thiếu gì người ghen ghét bịa đặt. Xin bệ hạ đừng nghe tên Nam-man Lê Văn.

    Vương Đức-Dụng hỏi La Sùng-Đản:

    - La Bắc-ban chỉ hậu. Lê công tử nói chính người bắt giam Tào công tử. Việc này có không?

    La Sùng-Đản run rẩy, không nói lên lời. Tào Lơi-Dụng tâu:

    - Thái độ của La Sùng-Đản như vậy, chứng tỏ không hề có truyện y bắt giam con hạ thần. Xin bệ hạ cho chặt đầu Lê Văn để trừng trị tội vu hãm công thần.

    Lê Văn thoáng nhìn qua La Sùng-Đản, Tào Nhuế, chàng đã hiểu tự sự: Tào Nhuế luyện Chu-sa độc chưởng. Chắc hôm qua Đản bắt Nhuế, rồi bị Nhuế dùng Chu-sa độc chướng đánh, sau đó y cho thuốc giải, với lời đe dọa. Hôm nay trước triều thần, nếu y nói thực, thì mối nguy Chu-sa hành hạ đến chết khó tránh. Còn y nói theo Nhuế, thì nhà vua ngồi kia không tha cho y tội khi quân.

    La Sùng-Đản chưa biết nói sao, thì một giọng trầm rót vào tai y:

    - Đừng sợ, cứ nói thực, sẽ được cung cấp thuốc giải. Hơn nữa còn được trị vĩnh viễn độc tố. Người nói láo ắt Hoàng-thượng tru di tam tộc.

    Sùng-Đản rùng mình rập đầu, y thuật lại chi tiết vụ Triệu Đức-Sùng đến cửa Thuần-dương đánh trống khiếu oan, rồi Tào Nhuế xuất hiện với đám võ sĩ đánh đập, bắt giam ra sao. Tới lúc đó y xuất hiện bắt giam Nhuế. Nhuế dùng Chu-sa ngũ độc chưởng khống chế y, nên y phải thả Nhuế ra. Còn Triệu Đức-Sùng không hiểu Nhuế giam đâu.

    Tào Lợi-Dụng kinh hoàng nghĩ:

    - Không ngờ con ta lớn mật làm càn, mà ta không biết gì cả.

    Y hỏi Nhuế:

    - Sự thực ra sao, người phải tâu thực.

    Tào Nhuế rập đầu:

    - Bịa đặt. Trước đây Bắc-ban chỉ hậu La Sùng-Đản phạm tội, Thái-hậu giao cho phụ thân thần quản chế, nay y toa rập cùng mấy thiếu niên Nam man trả thù cũ. Mong bệ hạ xét lại lời khai của y.

    Một võ quan bước ra cúi đầu:

    - Thần Chinh thảo đại tướng quân Đặng Tấn, lĩnh Tiết độ sứ Giang-hoài xin bệ hạ xét lại lời La Sùng-Đản. Tào công tử học võ với Tào quốc công, thuộc danh môn chính phái, đâu biết gì về Chu-sa ngũ độc chưởng.

    Nhà vua nghe đối chất, trong lòng giận vô cùng:

    - Ấy là chính ta ra lệnh bắt giam Tào Nhuế, mà chúng còn dám chối bai bải, huống hồ việc khác. Hôm nay ta mà không hạ được tên Tào Lợi-dụng này, e có ngày chúng hại ta. Nhưng ta không thể làm chứng được, vì việc ta rời thành đâu có thể nói với quần thần?

    Nhà vua liếc nhìn Tự-Mai:

    - Nhị đệ biết xử dụng phản Chu-sa ngũ độc chưởng. Ta sai nhị đệ đấu với Tào Nhuế, thì y hết chối.

    Nhà vua bảo Tự-Mai:

    - Nhị đệ! Ta nhờ nhị đệ ra đấu mấy chiêu với Tào Nhuế, để các quan thấy rõ Nhuế có luyện Chu-sa ngũ độc chưởng không.

    Tự-Mai dạ một tiếng, rồi tiến tới trước Tào Nhuế:

    - Tào công tử. Tuân chỉ Hoàng-thượng, tôi xin công tử chỉ giáo cho mấy chiêu võ cao siêu.

    Tào Nhuế bái tổ rồi nói:

    - Ta sẵn sàng dạy cho tên Nam-man mấy chiêu, để bọn bay biết rằng võ công Trung-thổ vô địch thiên hạ.

    Y xuất chiêu đánh thẳng vào mặt Tự-Mai. Chưởng phong của y hùng hậu vô cùng. Tự-Mai bước xéo sang một bên tránh khỏi. Chàng nghĩ thầm:

    - Võ công tên này hơn xa bọn Quách Qùy, Triệu Tiết, Khúc Chẩn. Ta có nên giết chết y không?

    Bỗng nghe tiếng Khai-Quốc vương rót vào tai:

    - Đánh thực mau, dồn cho y luống cuống, như vậy y sẽ xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Nhớ chớ dùng Đông-a chưởng pháp, bằng không y đề phòng trước thì hỏng bét.

    Trong khi đó tiếng Tôn Đản rót vào tai chàng:

    - Tự-Mai, tên này dùng võ công Không-động. Vậy em dùng võ công Mê-linh, khắc chế võ công Liêu-Đông, thì tên Tào Nhuế té đái vãi phân ngay.

    Tự-Mai lùi lại, chàng tấn công liên tiếp mười chiêu bằng võ công Mê-linh tức Cửu-chân cũ. Võ công của Tào Nhuế là võ công Không-động, gặp võ công khắc chế, thành ra y kinh hoảng cứ lùi liên tiếp. Đến chiêu thứ mười, y bị đồn vào chân cột, không còn đường tránh. Tự-Mai ra chiêu Kình qúa đông ba. Theo chiêu này, tay phải đánh thẳng vào ngực. Tay trái vòng từ dưới lên.

    Phàm con người học nhiều thứ võ công. Khi bị đồn đến chỗ nguy hiểm, thường trở lại với nguồn gốc căn bản mình. Tào Nhuế học võ công Không-động, rồi luyện Chu-sa ngũ độc chưởng. Y rất thành thạo chưởng pháp ác bá này. Nhưng vì muốn dấu chân tướng, nên khi đấu với Tự-Mai, y chỉ dùng võ công Không-động. Bây giờ trong lúc thập tử nhất sinh, bị Tự-Mai dồn đến chỗ cùng, khiến y không còn đường thoát thân. Khi Tự-Mai ra chiêu Kình quá đông ba, cái chết khó tránh, y tòng tâm tự phát một chiêu trong Chu-sa ngũ độc chưởng. Chưởng phòng cực kỳ trầm trọng. Mùi hôi tanh bay khắp điện.

    Tự-Mai lùi lại không đỡ. Tào Nhuế thừa thắng đánh liền năm chiêu. Cứ mỗi chiêu phát ra, Tự-Mai khoan thai đỡ, rồi lùi lại một bước. Chàng dùng phương pháp phản Chu-sa độc chưởng.

    Tào Nhuế nào hiểu mỗi chiêu y đi dần đến chỗ chết. Cứ sau một chiêu y thấy tay nặng nề thêm. Đến chiêu thứ mười, tay y như bị đeo viên đá nghìn cân. Tự-Mai cười lớn:

    - Tào công tử. Công tử đánh tôi mười chiêu Chu-sa ngũ độc chưởng. Bây giờ tôi trả lại công tử ba chiêu. Nếu trong ba chiêu, công tử chưa bại, tôi nguyện theo làm đầy tớ cho công tử cả đời.

    Chàng phát chiêu Đông-hải lưu phong, nhưng chỉ xử dụng có ba thành công lực, bằng không Tào Nhuế nát thịt ra mà chết. Miệng chàng đếm:

    - Chiêu thứ nhất này.

    Tào Nhuế vung tay đỡ. Bình một tiếng, y loạng choạng lùi lại. Tự-Mai phát chiêu thứ nhì:

    - Chiêu thứ nhì này.

    Tào Nhuế vung tay đỡ, binh một tiếng, y bật lui hai bước mặt tái xanh. Tự-Mai vỗ tay vào nhau:

    - Chiêu thứ ba này.

    Chàng phát nhẹ một chiêu, Tào Nhuế chưa kịp đỡ, người y đã lảo đảo. Tự-Mai cười lớn:

    - Tào công tử, người thua rồi.

    Tào Nhuế định vung chưởng đánh nữa, y cảm thấy như có con dao đâm vào hông đau đớn muốn đứt ruột. Y vội ngừng lại thở. Thình lình y hét lên một tiếng khủng khiếp.

    Từ lúc Tào Lợi-Dụng thấy con mình phát Chu-sa ngũ độc chưởng, y hoảng kinh, như vậy Nhuế tự tố cáo luyện Chu-sa độc chưởng đúng như La Sùng-Đản tố cáo. Y nghĩ thầm:

    - Ta phải dùng một chiêu, giết tên Nam-man con, rồi đổ rằng chính y dùng Chu-sa ngũ độc chưởng. Triều đình ai dám cãi mình?

    Bây giờ thấy con bị bại, y lạng mình tới, tay phát chiêu tấn công Tự-Mai, miệng quát:

    - Nam man dùng Chu-sa ngũ độc chưởng.

    Chưởng của y chưa ra hết. Mà mọi người muốn nghẹt thở. Ai cũng nghĩ rằng chưởng đó đánh ra ắt Tự-Mai nát thịt ra mà chết. Có nhiều tiếng quát:

    - Ngừng tay.

    - Không được hại người.

    Nhiều người muốn can thiệp, nhưng đứng quá xa, biết có nhảy vào cũng vô ích. Họ chỉ biết nhắm mắt lại, không dám nhìn một thiếu niên chết thảm.

    Tự-Mai thấy chưởng của Tào Lợi-Dụng ngang với Đại-Việt ngũ long. Chàng kinh hãi. Trong lúc thập tử nhất sinh, nhớ lại phương pháp qui liễm chân khí của công chúa Trần Năng xưa, mà trong trận Tản-lĩnh Đặng Đại-Khê dạy chàng. Chàng vội hít một hơi phát chiêu Ác ngưu nan độ đỡ. Bình một tiếng, người chàng bay bổng lại phía sau. Khi còn lơ lửng trên không, chàng mượn đà lộn liền ba vòng, rồi từ từ đáp xuống. Tay chàng lĩnh chân khí Tào, khiến trong người đầy chân khí, muốn nổ tung ra. Chàng vội thở một hơi để phân tán khắp người.

    Lợi-Dụng xuất thân phái Liêu-Đông. Nội công Liêu-Đông thuộc loại tà môn. Khi đệ tử phái này đấu với ai, chỉ cần hai chưởng chạm nhau, sẽ làm tiêu tan công lực đối thủ. Đối thủ bị tuyệt chân khí, hóa ra người tàn tật. Trong khi phương pháp qui liễm của phái Tản-viên xuất thân từ Thiền-công Vô-ngã tướng thuộc chính phái: Nếu đối thủ tấn công ta, ta thu chân khí của người. Còn như đối thủ không tấn công ta, thì không sao.

    Khi hai đệ tử phái Liêu-Đông đấu với nhau, nội công ai cao hơn, sẽ hóa giải công lực đối thủ.

    Bởi vậy từ xưa đến giờ, võ lâm Trung-nguyên nghe đến tên Liêu-Đông đều táng đởm kinh hồn. Khắp võ quan hiện diện đều biết Tào Lợi-Dụng là cao thủ bậc nhất phái này. Họ thấy Tào phát chưởng với mười thành công lực đánh vào Tự-Mai. Ai cũng tưởng chàng không tan xương nát thịt, ắt cũng tàn tật. Không ngờ chàng đáp xuống an toàn. Trong khi Tào Lợi-Dụng cảm thấy chưởng phong như nắm muối rơi xuống biển, chân tay bải hoải. Y nhìn Tự-Mai, nghĩ thầm:

    - Dường như thằng Nam-man này cùng môn phái với mình. Nhưng với tuổi của nó sao có thể luyện nội công tới mức cao hơn mình?

    Trần Trung-Đạo mới gặp sư đệ. Y không biết nhiều về những gì Tự-Mai đã học được. Y sợ sư đệ lâm nguy, quát:

    - Quốc-công không thể can thiệp vào truyện này.

    Tự-Mai nhảy lui lại. Tào Lợi-Dụng cũng không dám phát chiêu nữa. Y chỉ mặt Tự-Mai:

    - Người... người là dư đảng của bang Nhật-hồ, dùng độc chưởng hại con ta.

    Tự-Mai cười lớn đưa hai bàn tay ra:

    - Quốc công sao lại chỉ trâu bảo ngựa vậy? Này quốc công ơi, phàm khi người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng, lòng bàn tay phải đỏ. Lòng bàn tay tôi thế này, mà bảo rằng luyện Chu-sa chưởng ư?

    -- Thế sao con ta bị trúng độc?

    -- Công tử dùng Chu-sa độc chưởng tấn công tôi. Nhưng nội công người thấp hơn tôi xa, nên bị tôi đẩy ngược trở về thân người. Tôi chỉ trả những gì người đánh tôi mà thôi.

    Tào Nhuế vừa rên vừa thét lên kinh khủng. Y móc trong bọc ra viên thuốc, cho vào miệng nuốt, rồi ngồi xuống vận công cho mau tan. Nhưng càng vận công y càng đau đớn khủng khiếp.

    Thái- hậu hỏi Lê Văn:

    - Thế tử. Liệu thế tử có thể trị được bệnh cho Tào Nhuế chăng?

    Lê Văn tâu:

    - Thần có thể làm cho Tào công tử tê liệt trong hai giờ mà thôi.

    Lê Văn bước tới điểm vào huyệt Đại-trùy, khiến cho Tào Nhuế bớt đi phân nửa đau đớn. Chàng cười lớn:

    - Tào công tử. Người hãy trả lời những câu hỏi của tôi, tôi sẽ trị bệnh cho. Bằng không tôi để mặc. Câu hỏi thứ nhất: Có phải người luyện Chu-sa ngũ độc chưởng không?

    - Ái, đau chết đi được. Giết ta đi. Ta... ta có luyện Chu-sa độc

    chưởng. Ái.

    - Thế sư phụ công tử là ai?

    - Ái, ái... là Lê Lục-Vũ. Giết ta đi.

    - Triệu Đức-Sùng công tử giam đâu?

    - Ta... ta giết chết, chôn xác ở ngoài thành rồi.

    Lê Văn điểm vào huyệt Nội-quan của Tào Nhuế. Y hết đau liền. Tự-Mai cúi đầu hướng nhà vua xá ba xá, rồi về chỗ đứng. Còn Lê Văn hướng hướng Thái-hậu:

    - Điều mộng ước của thần là mong Thái-hậu xử vụ này công bằng cho người chết được ngậm cười.

    Thái-hậu ra lệnh:

    - Giam Tào Nhuế lại, giao cho Hình-bộ thượng thư xét trị tội.

    Luật triều Tống rất nghiêm. Phàm con cháu đại thần phạm tội lấn át lương dân, thì dù là tể thần, cũng bị cách trật, chức tước, bắt đi đầy. Tự-Mai thấy Thái-hậu lờ không trị tội Tào Lợi-Dụng, chàng biết rằng chưa thể hạ y được. Vì Lợi-Dụng là cột trụ của Thái-hậu.

    Một đại thần bước ra quỳ tâu:

    - Tâu hoàng thượng, thần Trương Sĩ-Tổn, lĩnh Văn-minh điện đại học sĩ, Đồng bình chương sự, Hữu bộc xạ xin tâu: Xét trong sử Việt, Hán, cũng như di tích còn ghi ở vùng Động-đình, Tương-giang, Tương-đài, thì tộc Hán, tộc Việt vốn cùng một nguồn gốc. Sau này những người hiếu sự mới gây ra cuộc Nam, Bắc chiến tranh, khiến cho Việt, Hán thù hận nhau.

    Tự-Mai nghe Tổn tâu, nó nghĩ thầm:

    - Ông này chủ trương thân Lĩnh-Nam, mình phải đưa hơi cho Hoàng-đế phong ông làm tể tướng mới được.

    Chàng bước ra tâu:

    - Tâu đại ca. Nếu như trong triều toàn Nho-sĩ giữ chính đạo như Trương đại-học sĩ, đệ e khắp bốn phương nghe danh, đều cúi đầu như cỏ rạp hướng về thiên triều, khỏi cần binh cách. Hỡi ôi! Trương đại-học sĩ là hình bóng của đức thánh Khổng cùng Mạnh á-thánh vậy.

    Trương Sĩ-Tổn cùng phe chủ hòa nghe Tự-Mai tâu, họ đều nghĩ thầm:

    - Với một thiếu niên tuổi nhỏ thế kia đâu có thể nói được những điều cao xa như vậy. Đây hẳn là ý Hoàng-đế đây. Người sai nó ra nói, để dằn mặt bọn hiếu chiến. Nghĩ vậy y tâu tiếp:

    - Hoàng thượng nức danh thiên hạ về đức hiếu, đức nhân. Nay nhân có Khai-Quốc vương đây. Bệ hạ làm vua tộc Hán, thì là anh. Thuận-Thiên hoàng đế làm vua tộc Việt, thì là em. Bệ hạ nên tỏ ra bao dung, phủ dụ Thuận-Thiên hoàng đế, hầu kết chặt tình Hán-Việt.

    Nhà vua hướng vào quần thần:

    - Hôm nay chư khanh cùng hiện diện với sứ thần Đại-Việt. Chúng ta nghị sự về việc này. Bây giờ chư khanh cho biết ý kiến.

    Lã Di-Giản bước ra tâu:

    - Từ khi đức Thái-tổ nhà ta lập nghiệp rồng, Đinh Bộ-Lĩnh sai sứ sang triều phục, được phong Khai phủ nghị đồng tam tư, kiểm hiệu thái sư, Giao-chỉ quận vương . Sau Lĩnh, Liễn bị giết, Lê Hoàn cướp ngôi từ ấu chúa, nên niên hiệu Thái-bình hưng quốc thứ năm (Canh-Thìn 980), triều đình quyết đem quân chinh thảo. Đức Thái-tông sai Lan-châu đoàn luyện sứ Tôn Toàn-Hưng, Bát-tác sứ Trương Tuyền, Tả-giám vệ tướng quân Thôi Lượng, Tả ngưu vệ thượng tướng quân Hầu Nhân-Bảo, Trang-võ đại tướng quân Trần Khâm-Tộ, Tuyên-uy đại tướng quân Triệu Phụng-Huân, Ninh-viễn đại tướng quân Quách Quân-Biện...đem bộ quân theo đường Ung-châu tiến sang. Lại sai Ninh-châu thứ sử Lưu Trừng, Quân-khí khố phó sứ Giả Thực, Cung-phụng quan chỉ hậu Vương Tuyển, theo đường thủy từ Quảng-châu nhập. Hoàn dám đem quân chống cự.

    Tự-Mai cười thầm:

    - Mẹ cha tên cẩu Nho này trí nhớ tốt gớm.

    Di-Giản tiếp:

    - Thái-bình hưng quốc thứ sáu (Tân-Tỵ, 981), vì thủy thổ bất hợp, tướng sĩ bị bệnh. Triều đình ra lệnh thoái quân. Năm sau Lê Hoàn hậu lễ xin quy phục. Triều đình nghị tha tội Hoàn, phong cho Kiểm hiệu thái bảo, đô đốc Giao-chỉ chư quân, An-Nam đô hộ, Tĩnh hải quân tiết độ sứ. Sau thăng lên Kiểm hiệu thái úy. Đời Tiên-đế gia cho làm Nam-bình vương, đới Thị-trung. Niên hiệu Đại-trung tường phù thứ ba (Canh-Tuất 1010), nhân Lê Long-Đĩnh chết, con còn thơ, cường thần Lý Công-Uẩn cướp ngôi. Y biết điều, sai sứ hậu cống xin phong. Tiên đế khoan thứ, phong cho Kiểm hiệu thái phó. Tĩnh hải tiết độ sứ, quan sát sứ, xử trí sứ. An-Nam đô hộ. Ngự sử đại phu. Thượng trụ quốc, Giao-chỉ quận vương, suy thành thuận hoá công thần dần dần đến nay là Kiểm hiệu thái sư. Đồng bình chương sự. Nam-bình vương.

    Di-Giản đưa mắt nhìn Định-vương:

    - Xét ra chức tước triều đình phong cho Uẩn lên đến tột đỉnh. Thế mà y rắp tâm làm phản dám xưng là Thuận-Thiên hoàng đế, bỏ tên quận Giao-chỉ, đổi thành Đại-Việt. Đại để tỏ ra nước y lớn. Việt là vượt, tức vượt biên hướng lên Bắc, xâm phạm đất của Thiên-triều. Nay có con Uẩn là Long-Bồ đây, xin triều đình bắt y trả lời rõ về việc đại nghịch của cha. Nếu y trả lời không thông, Thiên-triều phải mang quân sang chinh thảo, chém bọn phản nghịch, để bọn Man-di kinh hồn không dám phạm biên nữa.

    Tào Lợi-Dụng được dịp trả thù. Y tâu:

    - Mới đây, con gái Lý Công-Uẩn là vợ Thân Thừa-Quý cho quân vượt biên lên Bắc, tiến chiếm hết các khê-động theo Thiên-triều. Chúng chỉ dừng quân lại khi chiếm được vùng Tả-giang, Hữu-giang. Quân Giao-chỉ giết hại biết bao lương dân, cùng văn võ các quan ở Nam-biên. Lý Long-Bồ lĩnh Phụ-quốc thái-úy Giao-chỉ, y không thể chối cái tội này.

    --------------------------------
    1 Dùng âm nhạc trị bệnh do Trương Chi khởi xướng từ thời vua Hùng, trị cho Mỵ-Nương. Sau đến Nam-quốc vương Lê Long-Mang đặt hẳn thành hệ thống. Ngày nay Tây-phương mới mò mẫm dùng tới, gọi là Sorphonogy, hay Misicotherapy, rất thô sơ, chưa có căn bản.


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI BỐN
    Trọng tội khi quân

    Một văn quan quỳ tâu:

    - Thần Trần Nghiêu-Tá lĩnh Tham-tri chính sự, đồng tri Khu-mật viện xin tâu: Lý Công-Uẩn gần đây lộng quyền quá đáng. Y chỉ là một tước Nam-bình vương quận Giao-chỉ, thế nhưng y dùng võ lực ép Chiêm-thành, Chân-lạp, Lão-qua tiến cống. Tin tế tác cho biết con y là Lý Long-Bồ còn tiến xa hơn. Y muốn thống nhất tám vùng tộc Việt, rồi đem quân xâm vương thổ. Bây giờ y hiện diện ở đây, xin hoàng thượng đem y ra xử lăng trì, để an Nam-biên.

    Tiếp theo bọn Hạ Tủng, Phạm Ung, Triệu Thực đều cùng một luận điệu. Nhà vua biết bọn này theo chủ trương của Lưu hậu, khó lòng bẻ gẫy lý luận của chúng, ông hỏi Định-vương:

    - Hoàng thúc. Hoàng thúc vừa từ Nam-phương trở về, sự thực thế nào, Hoàng-thúc cho trẫm biết.

    Định-vương nghĩ thầm:

    - Hôm nay ta mà không hạ được mấy tên hủ Nho này, e rằng Tống-Lý chiến tranh khó lòng tránh khỏi. Đã vậy ta hãy làm giảm khí thế bọn chúng trước. Ta dùng nhị đệ đối phó cho chúng biết Nam-quốc không sợ chiến tranh như chúng tưởng.

    Vương hỏi Khai-Quốc vương:

    - Vương gia hãy trả lời các đại thần đi.

    Khai-Quốc vương khoan thai bước ra, vận nội lực nói thực lớn:

    - Tâu bệ hạ. Từ xưa đến giờ Hán-Việt phân Nam, Bắc lấy Ngũ-lĩnh làm ranh giới trải mấy nghìn năm có dư. Theo nghi lễ đời Thần-Nông, ngày tết em phải đem lễ tới tặng anh, đó là đạo lý áp dụng cho dân chúng. Còn giữa hoàng đế Trung-thổ với hoàng đế Lĩnh-Nam, thì hoàng đế Lĩnh-Nam làm em, nên bao đời theo lệ hằng năm tiến cống, để tỏ lòng hiếu đễ. Vì vậy dù Bắc phong chức tước gì chăng nữa, Nam vẫn có triều đình, quốc hiệu, niên hiệu riêng. Như vậy việc phụ hoàng hạ thần lấy hiệu Thuận-Thiên, quốc danh Đại-Việt chỉ theo truyền thống. Các đại thần tại đây không thể, và không được bàn đến.

    Vương ngừng lại tiếp:

    - Còn các đại thần coi phụ hoàng thần như một chức quan của Tống triều, xin bệ hạ cho thần được hỏi các vị ấy mấy câu.

    - Vương cứ hỏi.

    Khai-Quốc vương đưa mắt nhìn Lã Di-Giản. Nội công Vương cực cao, ánh mắt chiếu ra tia hàn quang, khiến Giản bật lui liền ba bước. Vương hỏi:

    - Ngài có phải quan cao tới tước Quốc-công, lĩnh Đồng-bình chương sự, Tả bộc xạ, Khu-mật viện sứ đó không? Triều Tống có hai cơ quan cao nhất: Tòa Bình-chương coi về nội trị, thuộc văn. Khu-mật viện coi về võ. Cả hai thường được gọi là Nhị-phủ. Đại nhân ngồi trùm cả hai phủ. Nhưng đại nhân lại phạm tội đại bất kính. Đại nhân có biết không?

    Lã Di-Giản hỏi:

    - Lão phu phạm tội đại bất kính ư? Thế tử thử nói ra xem. Nếu đúng, Lã này xin lột mũ từ chức ngay ngày hôm nay.

    Khai-Quốc vương nói:

    - Nếu coi phụ hoàng vãn sinh như một chức quan triều Tống. Mà phụ hoàng tước phong tới Nam-bình vương cao hơn hàm Quốc-công của đại nhân mấy bậc. Thế mà đại nhân cứ gọi tên phụ hoàng ra loạn lên, có phải là tội đại bất kính không? Chức văn phụ hoàng tới Khai phủ nghị đồng tam ty, đồng bình chương sự cao hơn chức Đồng-bình chương sự của đại nhân nhiều. Chức võ của đại nhân là Khu mật viện sứ, thua hẳn chức Thượng trụ quốc kiểm hiệu thái sư của phụ hoàng rất xa.

    Vương nói chậm lại:

    - Đại nhân ơi. Đại nhân làm tể thần, mà không biết giữ qui củ, luật lệ, phạm tội đại bất kính với thượng quan hỏi có đáng ngồi ở tòa Bình-chương nữa không? Đại nhân trả lời cho đi?

    Lã Di-Giản cười nhạt:

    - Này Lý Long-Bồ. Người nên biết rằng người đang ngồi ở sân rồng Thiên-triều. Văn quan như rừng. Võ chức như núi. Người chưa có một chút chức tước cũng như công lao nào, kể cả cái hàm thế tử con trai Nam-bình vương, người không đủ tư cách tranh luận với tể thần.

    Khai-Quốc vương thấy bọn cường thần quên đi vụ Đại-Việt tiến công lên Bắc. Vương mừng thầm, vận khí phát ra tiếng cười hướng Lã Di-Giản, khiến y muốn nổ tung màng nhĩ ra. Vương nói:

    - Lã quốc công có nghĩ kỹ trước khi nói không? Vãn sinh biết thân phận mình không nhận chức tước nào của Thiên-triều, nên đã tâu hoàng thượng xin phép rồi mới nói kia mà? Hơn nữa đây là cuộc đối thoại của sứ thần Đại-Việt từ xa đến kết hiếu với Hoa-hạ. Thế mà tể thần có ngôn từ của phường vô học bất thuật như thế này ư? Hơn nữa chính kim khẩu hoàng thượng cho phép vãn sinh hỏi đại nhân mà?

    Vương nghĩ thầm: Đã vậy ta cứ hành xử như tước vương, để chúng biết rằng ta không sợ. Vương tiếp:

    - Còn Quốc-công bảo cô-gia không có công với Tống ư? Này Quốc-công ơi, có phải từ khi đức Thái-tổ dựng nghiệp, đến nay trải bốn đời. Lúc nào triều-đình cũng lao tâm khổ tứ với dư đảng bang Nhật-hồ. Triều đình tốn không biết bao nhiêu tiền bạc, mà cũng không diệt được chúng. Chúng không bị diệt thì chớ, chúng còn len lỏi lên tới tể thần. Kìa, chính công tử Tào quốc công đã học Chu-sa độc chưởng với một đại thần. Bang Nhật-hồ hoành hành như không coi thiên hạ ra gì, phải chờ đến khi trên đường đi sứ, cô-gia khuyến dụ chúng cùng bang Trường-giang qui thuận triều đình. Như vậy mà Lã quốc-công bảo cô-gia không chút công lao nào ư?

    Vương gằn từng tiếng:

    - Mới đây, gần ba trăm ứng sinh phò mã bị trúng Chu-sa phấn. Chắc chắn dư đảng Nhật-hồ phải lớn lắm mới làm nổi việc đó. Nếu Lã quốc-công có tài, xin trị bệnh cho các ứng sinh đi!

    Khắp điện Sùng-chính im phăng phắc. Vương nói lớn:

    - Cô gia xin hỏi Quốc-công: Bấy lâu trong hoàng cung có hai vụ án lớn lao vô cùng. Một là, ai hại Sở-vương Nguyên-Tá? Ai ám toán Chiêu-thành thái-tử Nguyên-Hy? Các vị đầy tài chí, ăn cơm, mặc áo chúa bấy lâu, các vị đã tìm ra thủ phạm chưa?

    Nguyên trước đây, con đầu lòng vua Thái-tông tên Nguyên-Tá được lập làm thái tử tước phong Sở-vương. Anh hùng tài kiêm văn võ, bị gian nhân dùng Huyền-âm độc chưởng đánh lén, đến hóa điên, rồi bị giáng chức. Vua Thái-tông lập con thứ nhì là Nguyên-Hy làm Chiêu-Thành thái-tử. Ít lâu sau cũng bị trúng Huyền-âm độc chưởng mà chết. Vì vậy vua Chân-tông là con thứ ba mới được lập lên làm thái tử, rồi kế vị.

    Bấy giờ khắp triều thần không ai biết hung thủ thuộc loại người nào. Sự việc dần dần lãng quên theo thời gian. Nhưng mấy năm trước, khi biết mình sắp lìa trần, Sở vương gọi Định-vương lại nói cho biết rằng ông bị Lưu hậu ám hại. Ông khẩn khỏan nhờ Định-vương trả thù cho. Định-vương đã bàn với Minh-Thiên, nhưng vẫn chưa xuống tay được, vì thế lực Lưu hậu quá lớn.

    Bây giờ Khai-Quốc vương nhắc lại truyện cũ, trong ý Vương tỏ cho triều thần biết rằng ông đã tìm ra hung thủ hai vụ án lớn. Tào Lợi-Dụng nghe Khai-Quốc vương nói, y kinh hoảng. Nhưng rồi y tự nhủ:

    - Ngay đương thời, vua Thái-Tông còn tìm không ra thủ phạm, huống hồ tên này mới qua Biện-kinh mấy ngày.

    Nhà vua nghe Khai-Quốc vương nói, ông hỏi:

    - Khai-Quốc vương đã biết hung thủ là ai rồi phải không? Vương có thể nói ra cho triều đình cùng nghe, hầu tru di tam tộc kẻ đó.

    - Dĩ nhiên hạ thần biết. Hạ thần cam đoan hôm nay sẽ bắt hung thủ để các đại thần đây biết rằng thần nhất tâm nhất trí kết hiếu giữa hai tộc Hoa-Việt.

    Nói đến đây vương biết mình đã khai chiến với bọn phe đảng của Lưu hậu chủ xâm Nam phương. Mà bọn chúng hầu hết bị khống chế bằng Chu-sa ngũ độc chưởng. Chi bằng đem vụ Thiệu-Thái trị được họa này nói toẹt ra, để lôi kéo những nạn nhân về với mình. Nghĩ vậy vương tiếp:

    - Cô-gia xin nói rõ, có rất nhiều vị hiện diện tại đây bị trúng Chu-sa ngũ độc chưởng, đã được Thân Thiệu-Thái trị dứt vĩnh viễn. Hành động đó của sứ đoàn có thể coi là tốt hay xấu? Công hay tội?

    Lã Di-Giản tím mặt lại, y hỏi:

    - Đâu? Ai trong chúng ta bị trúng Chu-sa độc chưởng đã được Thân Thiệu-Thái trị khỏi? Chứng cớ ở đâu?

    Định-vương đứng dậy nói bằng giọng khoan thai:

    - Chính cô-gia cùng sứ đoàn đi Nam-thùy đều bị trúng Chu-sa độc đến hai ba lần, được Thân giáo-chủ cứu trị. Khai-Quốc vương còn gửi công chúa Bình-Dương với thế tử Thân Thiệu-Thái theo sứ đoàn Tống về triều để trị cho bất cứ ai bị trúng chưởng này. Nhưng vì sứ đoàn Đại-Việt chưa điện kiến, nên cô-gia không thể tâu lên Hoàng thượng.

    Vương gằn từng tiếng:

    - Thế nhưng sứ đoàn vừa tới triều kiến thiên tử, thì các đại thần tự hào về văn minh Hoa-hạ, tự hào về Nho, tự hào về đủ thứ lại lên tiếng vấn nạn sứ đoàn, coi Đại-Việt như man di. Hỡi ôi.

    Khắp triều Tống nghe Định-vương nói, đều hiện ra vẻ hân hoan không bút nào tả xiết. Vì họ hy vọng sẽ được giải thoát khỏi cái ách độc chưởng đè lên người bấy lâu.

    Định-vương tiếp:

    - Những người đã được trị Chu-sa độc chưởng trong sứ đoàn gồm bản sư Minh-Thiên. Đông-Sơn đạo sư, Dư Tĩnh, Vương Duy-Chính, Địch Thanh, Triệu Anh, Triệu Huy, Quách Quỳ. Cũng chính Thân thế tử trị cho Trường-giang thất quỷ, cùng bang chúng Nhật-hồ vì vậy khi nghe Vương thuyết phục họ cảm động, qui phục triều đình.

    Từ khi nghe tin sứ thần Đại-Việt thuyết phục hai bang Nhật-hồ, Trường-giang quy phục triều đình. Trên từ Lưu hậu, Hoàng-đế cho tới quần thần không hiểu bằng cách nào mà Vương nói cho bọn đại ma đầu nghe theo. Bây giờ Định-vương nói ra, mọi người mới hiểu. Họ nghĩ thầm:

    - Thì ra thế. Bọn Nhật-hồ dùng bá đạo khống chế người. Đại-Việt dùng ân đức thu phục nhân tâm chúng.

    Hầu hết các quan văn thần đều có thiện cảm với sứ đoàn Đại-Việt. Còn những người bị trúng Chu-sa độc chưởng lại mong Hoa-Việt thân thiện để được giải ách. Bởi bị độc chưởng hành hạ bấy lâu, họ như sống trong địa ngục. Nếu không có Lưu hậu ngồi trong màn, có lẽ họ đã chạy tới xin Thiệu-Thái trị bệnh cho rồi.

    Bỗng nhà vua lên tiếng:

    - Bách quan nghe cho rõ.

    Tất cả mọi tiếng xì xầm đều tắt hết. Nhà vua tiếp:

    - Chính trẫm cũng bị trúng độc chưởng này. Cách đây hai ngày, Thân thế-tử đã trị cho trẫm rồi.

    Từ trước đến giờ quần thần đều nghe biết nhà vua cũng bị trúng chưởng này, nhưng không ai dám nói ra. Bây giờ chính miệng nhà vua tuyên phán, thì còn sai thế nào được? Khi nhà vua đã nói ra, chắc chắn bọn bang Nhật-hồ tiềm ẩn trong triều sẽ bị chỉ mặt điểm tên.

    Yến Thù vái Khai-Quốc vương:

    - Thưa vương gia, vương gia nói trong triều có nhiều dư đảng bang Nhật-hồ, thế chúng là những ai?

    Khai-Quốc vương nghĩ thầm:

    - Yến Thù biết rõ mọi biến cố nội cung. Khi y dám nói câu này, có nghĩa là Thái-hậu đã bị kiềm chế hoàn toàn. Phe đảng hiếu chiến không còn nữa. Đã đến lúc nên công khai hạ chúng đây. Ta phải can đảm mới được.

    Vương chắp tay vái Yến:

    - Đa tạ đại-học sĩ hỏi đến. Vãn sinh xin thưa: Hiện có những đại thần bậc nhất bậc nhị xuất thân Hồng-thiết giáo. Cao nhất là ngài Thái-tử thiếu phó, Kinh-hồ tiết độ sứ, Đồng-trung thư môn hạ bình chương sự, Tổng-quản ngự-lâm quân, Tổng-lĩnh thị vệ, Ngô quốc-công Tôn Đức-Khắc. Tôn quốc-công nguyên có tên Đào Tường-Phúc lĩnh Tả hộ pháp của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.

    Khai-Quốc vương không nói, thì cả triều đình nhà Tống đều tưởng Tôn Đức-Khắc là dư đảng bang Nhật-hồ Trung-quốc, mà Lưu hậu dùng y khống chế quần thần. Muôn ngàn lần họ không bao giờ ngờ y lại chính là Đào Tường-Phúc, một đại ma đầu, một khâm phạm từ đời vua Thái-tông. Vì vậy khi vương nói xong, họ kinh ngạc đến nỗi không ai dám bật lên tiếng súyt xoa.

    Khai-Quốc vương tiếp:

    - Nhân vật thứ nhì là ngài Thái-tử thiếu bảo, Tả-vệ thượng tướng quân, Nam-thiên kinh lược sứ, Việt-quốc công Lê Lục-Vũ. Lê quốc-công nguyên có tên Chu Bội-Sơn lĩnh Hữu hộ-pháp của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.

    Đến đây thì triều thần chỉ biết mở to mắt kinh ngạc, không ai nói lên lời. Khai-Quốc vương tiếp:

    - Nhân vật thứ ba là ngài Sử-vạn Na-vượng. Ngài Sử-vạn nguyên là em của quốc-vương Lão-qua. Người được phong chức tước như sau: Kiểm-hiệu thái sư, Tĩnh hải tiết độ sứ, Đồng bình chương sự, Nam-phương tĩnh lự công thần, Lão-qua quận vương. Thực ấp vạn hộ, thực phong ngũ thiên hộ. Nhưng vì theo Hồng-thiết giáo, nên khi về nước tranh ngôi vua với anh bị thất bại. Ngài sang Thiên-triều, được phong Trấn-quốc đại tướng quân lĩnh chức Tổng-lĩnh ngự lâm quân. Nhưng có ai ngờ ngài lại là Đông-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.

    Triều thần không ít thì nhiều đã bị Sử-vạn dùng Chu-sa độc chưởng khống chế, vì vậy khi Khai-Quốc vương nói y là Đông-phương sứ giả Hồng-thiết giáo Đại-Việt, họ đều mặc nhiên công nhận là đúng.

    Khai-Quốc vương tiếp:

    - Nhân vật thứ tư là ngài Khiếu Tam Bản, chức tước tại Chân-lạp là Thái-tử thiếu sư, Nam-thiên tiết độ sứ, Tả vệ thượng tướng quân, Đồng bình chương sự, Chân-lạp quận vương. Vì theo Hồng-thiết giáo bị thất thế, sang Thiên-triều được phong Hoài-hóa đại tướng quân, Tổng-lĩnh thị vệ. Không ai ngờ ngài là Nam-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt.

    Tào Lợi-Dụng thấy bao nhiêu cơ mật mà chỉ Lưu hậu với y cùng bọn Lã Di-Giản biết, nay bị Khai-Quốc vương nói toẹt ra giữa triều đình. Y hoảng kinh, chờ Lưu hậu phản ứng, mà tuyệt không thấy bà nói gì cả. Cơ chừng này nhà vua cầm quyền đến nơi rồi. Nhà vua mà cầm quyền, thì chỉ nguyên tội con y hiếp đáp lương dân cũng đủ làm cho y mất hết chức tước. Huống hồ cái tội kiềm chế Lý phi, hoán chúa, khi quân bấy lâu, có khi cả Lưu hậu với y cũng không còn đất mà chôn. Trước thế nguy, y quát lên:

    - Tên ôn con Lý Long-Bồ kia, mi... mi giám bịa đặt truyện vu hãm công thần. Hai vị đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ mà mi dám bảo là Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn không khác gì nói mặt trời mọc đằng Tây. Còn hai vị Sử-vạn, Khiếu, mi bảo là sứ giả Hồng-thiết giáo Giao-chỉ. Mi láo đến như thế, khiến lão phu không thể chịu nổi nữa rồi. Mi có câm họng không?

    Khai-Quốc vương vẫn khoan thai tiếp:

    - Ngoài ra còn mười trưởng lão bang Nhật-hồ ẩn thân dưới lớp áo thị vệ, được phong chức Nhập-nội đô-tri.

    Tào Lợi-Dụng kinh hoảng nghĩ thầm:

    - Ta phải giết ngay tên này để bịt miệng mới được. Sau khi y chết rồi, hỏi ai dám xung chàng lý luận với ta?

    Nghĩ vậy y bước ra, phát một chưởng bằng tất cả bình sinh công lực hướng vào người Khai-Quốc vương. Y ra tay như điện chớp. Mọi người đều la hoảng, nhắm mắt lại, vì không muốn nhìn Khai-Quốc vương tan xương nát thịt.

    Không ngờ khi chưởng sắp tới, vương lách mình một cái nhảy lên cao. Chưởng trúng ghế vương ngồi. Rầm một tiếng, chiếc ghế bằng gỗ trắc lớn như vậy vỡ tan thành từng mảnh. Trong khi đó vương đáp xuống bên văn ban.

    Tào Lợi-Dụng đánh hụt. Y quyết không tha, chuyển tay phát chưởng nữa nhanh như điện chớp. Khai-Quốc vương thấy nếu mình nhảy tránh, ắt ít nhất có mấy văn quan tan xương nát thịt mà chết. Vương vận sức theo Vô-ngã tướng Thiền-công của công chúa Yên-Lãng, tay như ôm vòng Thái-cực. Chưởng của Tào Lợi-Dụng trúng người vương, bao nhiêu kình lực bị thu hết. Vù một cái, y cảm thấy như đánh một chưởng lên trời, kình lực trong người mất. Kinh hoảng y nhảy lui lại, miệng la:

    - Mi... mi dùng tà thuật.

    Nhà vua quát lên:

    - Tào quốc công ngừng tay.

    Từ ngày vua Chân-tông băng hà, Lưu hậu cầm quyền, Lợi-Dụng phụ chính. Y coi nhà vua như đứa trẻ đã quen. Mỗi khi y tâu gì, Lưu hậu quyết định hết. Hôm nay là ngày đầu tiên Lưu hậu im lặng, và nhà vua quát lên tỏ ra có uy quyền. Y vội lùi lại.

    Nhà vua nói với Khai-Quốc vương:

    - Việc vương tố đích danh bốn đại thần cùng mười thị vệ thuộc dư đảng bang Nhật-hồ, hiện mới có bên nguyên. Đợi mười bốn vị kia về đây, trẫm sẽ cho đối chất. Bây giờ hãy nghị về quốc danh Đại-Việt đã.

    Nghe nhà vua nói: Nghị về quốc danh của Giao-chỉ, mà lại gọi Giao-chỉ bằng danh tự Đại-Việt. Quần thần đều biết ý nhà vua muốn để yên cho Giao-chỉ với quốc danh Đại-Việt. Cho nên phe thân Đại-Việt, phe trung lập đều hiểu vấn đề đã ngã ngũ.

    Yến Thù tâu:

    - Kể từ khi đức Thái-tổ ta dựng nghiệp. Những nước xung quanh, vì nghe thánh đức, dùng Nho trị dân, nên đều hướng về. Trong tất cả các nước đó, Đại-Việt là đất văn hiến nhất. Hiện nay trên có nhân quân trị vì. Dưới có văn võ bá quan trung thành. Nhất là võ học cực thịnh. Thuận-Thiên hoàng đế lại lễ hậu, cử Khai-Quốc vương đi sứ kết hiếu. Trên đường sang Tống, vương thu phục được bang Trường-giang, bang Nhật-hồ, công lao ấy thực quý không gì bằng. Thần nghĩ, bệ hạ nên triệu những quan biên trấn thích gây thù hận với tộc Việt, hầu nêu cao thánh đức.

    Bọn Lã Di-Giản thấy Yến Thù từ trước đến nay là người cùng phe đảng với mình, chủ xâm Đại-Việt. Hơn nữa y thuộc tâm phúc của Thái-hậu, cùng Hoàng-đế. Nay bỗng dưng đổi hẳn thái độ... thì cho rằng Hoàng-đế đã bỏ ý chiếm Nam phương. Chúng đưa mắt nhìn nhau:

    - Không chừng là ý riêng của Hoàng-đế, chứ không phải của Thái-hậu. Ta cứ chờ xem.

    Lã Di-Giản im lặng. Nhà vua nói với Định-vương:

    - Như vậy nghị sự đã quyết. Từ khi trẫm lên ngôi, được các khanh phò tá, lấy đức nhân trị dân. Bốn phương phẳng lặng. Thế nhưng mấy biên thần hiếu sự, khi quân, nói xàm, tâu bậy về Nam-biên, khiến bao lần Hán-Việt suýt có chiến tranh. Ngược lại tế tác Khu-mật viện cho biết Đại-Việt đang có nhân quân trị vì, dân chúng sống những ngày Nghiêu, tháng Thuấn. Vì vậy trẫm phải để đích thân Thái-sư vi hành Nam-phương. Chính mắt Thái-sư đã thấy, lại chính tai Thái-sư đã nghe về đời sống hạnh phúc trăm họ Nam-phương, khiến trẫm nghe tâu lại mà lòng hân hoan đến vô cùng. Biên thần tấu rằng Thuận-Thiên hoàng đế là tên chăn trâu, là tên ở chùa, vô học bất thuật. Điều này đúng, thủa thơ ấu Thuận-Thiên Hoàng-đế theo học với Bồ-tát Vạn-Hạnh tại chùa Tiêu-sơn, cho nên văn võ toàn tài. Vả dù người có là tên ở chùa chăng nữa, thì anh hùng đâu quản xuất thân? Hán Cao-tổ không xuất thân ti tiện đó ư? Bậc quân phụ không cần giỏi, mà cần đức, sao đem hạnh phúc cho dân.

    Nhà vua nói lớn:

    - Vương cho triệu hồi biên thần Nam-phương đã dối triều đình tâu rằng Thuận-Thiên hoàng đế là hôn quân ác độc, thay vào đó những văn thần ôn hòa, đem văn phong, lễ nghĩa dạy dân chúng. Những đạo quân đóng ở Nam-biên phải di về Bắc-biên, hầu đối phó với Khất-đan.

    Lại tuyên chỉ cho Yến Thù:

    - Yến đại học sĩ thu thập tất cả thư tịch về kinh, sử, tử, tập, mỗi lọai chọn lấy hai bộ giao cho sứ đoàn Đại-Việt mang về tặng cho Thuận-Thiên hoàng đế. Như vậy từ nay tộc Hán, tộc Việt sống như anh em.

    Quần thần ngơ ngác nhìn nhau, không hiểu những gì đã xẩy ra. Vì từ trước đến giờ, triều thần nghị sự rồi, thì chính Thái-hậu ban chỉ dụ. Nay những việc lớn lao vô cùng về Nam-thùy, Thái-hậu ngồi kia, mà sao Hoàng-đế lại tự quyết không hỏi ý kiến bà?

    Lã Di-Giản biết ý nhà vua đã định. Y kinh hoảng nghĩ thầm:

    - Nếu để cho nhà vua nắm quyền, thì việc Lưu hậu khống chế Thần-phi sẽ đổ bể. Bọn ta bị liên đới, ắt họa tru di tam tộc khó tranh. Âu là ta cứ coi như nhà vua vô quyền.

    Y đâu biết rằng chính Lưu hậu bị Lý phi khống chế, nhà vua thay đổi hết chức vụ Ngự-lâm quân cùng thị vệ rồi? Y đến trước màn tâu:

    - Tâu Thái-hậu, Hoàng-thượng quyết định về chính sách Nam-thùy có phần không ổn. Mong Thái-hậu ban chỉ dụ.

    Thái-hậu quát lên:

    - Lã Di-Giản! Người thực là to gan lớn mật, dám chống lại cả chỉ dụ của Hoàng-thượng ư? Tiên-đế di chỉ cho ta thính chính, chứ có cho ta định quốc sự đâu? Thế mà mi dám nói Hoàng-thượng quyết định không ổn. Mi khinh khi Hoàng-thượng là ấu quân ư? Thị vệ đâu! Bắt Lã Di-Giản bỏ ngục chờ đình thần luận tội.

    Trần Bảo-Dân dạ một tiếng tiến đến nhắc bổng Di-Giản mang khỏi điện.

    Quần thần ngơ ngác nhìn nhau không ai hiểu gì cả.

    Bọn Trương Kỳ, Hạ Tủng, Trần Nghiêu-Tá, Phạm Ung, Triệu Thực cùng đến trước màn quỳ gối:

    - Muôn tâu Thái-hậu.

    Tiếng Thái-hậu quát:

    - Các người muốn gì?

    Trần Nghiêu-Tá tâu:

    - Từ hơn mười năm nay, Thái-hậu cùng triều đình mất không biết bao nhiêu tâm huyết cũng như tiền bạc. Nào luyện binh tuyển tướng. Nào mua sắm vũ khí, nào đóng thuyền chuẩn bị Nam-chinh. Nay chỉ vì sứ đoàn Giao-chỉ sang, mà đổi ngược lại. Hơn nữa, Lã tể-tướng là lão thần phò tá đã ba đời vua, không hề phạm tội. Chỉ vì trung thành với Thái-hậu, nên thấy Thái-hậu chưa tuyên thánh ý, trong khi Hoàng-thượng còn qúa trẻ, bồng bột quyết định chính sách Nam-biên hấp tấp mới can gián... thế mà Thái-hậu truyền bắt giam.

    Vương Đức-Dụng tâu:

    - Tâu bệ hạ, giữa triều đường mà Trần thượng-thư dám buông lời khi quân tác loạn. Xin bệ hạ truyền bắt chặt đầu ngay để răn chúng.

    Từ trước đến giờ bọn Lã Di-Giản, Trần Nghiêu-Tá nịnh hót theo Lưu hậu, khinh khi nhà vua cùng đồng liêu đã quen. Nay đà cũ còn, Nghiêu-Tá hách dịch quát:

    - Vương Đức-Dụng, mi định phản thái hậu ư?

    Thái-hậu quát:

    - Vương ngự-sử đàn hạch đúng. Thị vệ đâu, bắt năm tên này giam lại cho ta.

    Thị vệ dạ ran. Nghiêu-Tá hỏi:

    - Tâu Thái-hậu bọn thần tội gì?

    - Còn tội gì ư? Chính mi vừa nói Hoàng thượng còn quá trẻ, quyết định chính sách Nam-thùy bồng bột hấp tấp. Như vậy là khi quân, nhục mạ chúa, tội phải tru di tam tộc.

    Thị vệ dẫn năm người rời khỏi điện.

    Tự-Mai cười thầm:

    - Tiên sư cha bọn hiếu chiến. Đám đầu sỏ quan văn bị bắt hết rồi, còn bọn võ quan nữa là xong.

    Đến đó lễ quan vào quỳ tâu:

    - Có sứ đoàn Xiêm-la xin vào triều kiến.

    Thái-tử An-Nan Tam-gia La-sun cùng vương phi, công chúa Nong-Nụt cùng vào quỳ gối hành lễ. Diêu Vạn theo sau. Diêu Vạn tâu:

    - Hạ thần Diêu Vạn, lĩnh Chiêu-thảo sứ thuộc Kinh-châu, giữ trách vụ hộ tống sứ đoàn Xiêm xin triều kiến. Thần kính chúc Thái-hậu cùng Hoàng-thượng vạn tuế, vạn vạn tuế.

    Tiếp theo An-Nan Tam-gia La-sun, vương phi và Nong-Nụt cùng quỳ tâu, chúc tụng. Thái hậu nói vọng ra:

    - Mời vương phi An-Nan Tam-gia La-sun cùng công chúa Nong-Nụt vào trong này đàm đạo với ta.

    Vương Kỳ hỏi Diêu Vạn:

    - Chiêu thảo sứ. Triều đình nhận được tấu chương của Kinh-lược sứ Kinh-châu cùng Chiêu-thảo sứ về việc hai đại thần Sử-vạn Na-vượng cùng Khiếu Tam Bản làm đạo tặc. Bây giờ Chiêu-thảo sứ hiện diện tại đây, người hãy trực tiếp tấu trình lên Hoàng-thượng.

    Diêu Vạn khoan thai thuật lại từ đầu đến cuối việc y hộ tống sứ đoàn Xiêm, dọc đường xẩy ra cuộc động thủ với Sử-vạn, Khiếu một lượt.

    Nhà vua hỏi Định-vương:

    - Hoàng thúc nghĩ sao?

    Định-vương tâu:

    - Triều đình cần phải làm cho sáng tỏ việc tiếp sứ đoàn Đại-Việt, Xiêm-la, bằng không uy của Thiên-tử bị giảm rất nhiều. Còn gì nhục nhã bằng Thiên-triều mà không bảo vệ nổi sứ đoàn, để đạo tặc lộng hành? Thần xin để Khai-Quốc vương tâu trình nữa mới có thể quyết đoán được sự thực ra sao.

    Khai-Quốc vương tâu tỉ mỉ chủ trương của Đại-Việt: Đất có chủ, nước có vua. Tống là nước lớn. Đại-Việt sang cống là để tỏ lòng hiếu kính. Vì vậy mọi sự xẩy ra trên đất Tống, sứ đoàn tuyệt đối không xử dụng võ công. Khi tới biên giới gặp tiếp dẫn sứ Tào Khánh dẫn mười thị vệ đi đón. Sau đó bang Trường-giang dùng kế bắt Tào Khánh, cùng đám kị binh hộ tống, rồi quay lại uy hiếp sứ đoàn bắt đi tìm kho tàng ở Khúc-giang. Dọc đường sứ đoàn thuyết phục bang Trường-giang quy phục triều đình ra sao.

    Lý Điệt bước ra xá Khai-Quốc vương:

    - Vương gia! Lão phu nghe nói Trường-giang thất quỷ vốn thuộc dư đảng của bang Nhật-hồ. Hai gã Phương Hổ, Phương Báo trước đây là tả, hữu sứ của bang này, võ công, độc công chúng cao thâm không biết đâu mà lường. Lại nữa, Động-đình tam ưng nức tiếng vùng Giang-hạ. Vương gia làm thế nào mà khuyến dụ họ theo triều đình?

    Khai-Quốc vương biết Lý Điệt muốn vương đi vào chi tiết, để bọn hiếu chiến nể mặt. Vương gật đầu:

    - Thưa đại học sĩ. Thực sự nếu dùng bản lĩnh võ công, anh em vãn sinh dư sức đàn áp chúng. Nhưng khổ nỗi anh em vãn sinh đi sứ kết hiếu với triều đình, nhân sĩ, võ lâm Tống, lại nữa có Tiếp-dẫn sứ cùng thị vệ hộ tống. Vì vậy anh em vãn sinh nhất định không dùng võ công. Cuối cùng Thân Thiệu-Thái trị dứt Chu-sa độc chưởng cho họ. Còn vãn sinh đem chính đạo ra thuyết phục. Họ nghe theo.

    Bọn theo phe đảng Lưu hậu lòng như lửa đốt. Bang Trường-giang lớn biết bao. Bọn chúng mất mấy năm mới thu phục được, bang này dùng khống chế các quan vùng Giang-Nam. Mới đây nghe bọn Trường-giang quy phục Định-vương, chúng cứ nghĩ rằng vương dùng đại binh diệt. Bây giờ chúng mới vỡ lẽ do Khai-Quốc vương khuyến dụ. Nhưng khuyến dụ như thế cách nào, vương lại không chịu khai rõ.

    Tào Lợi-Dụng nói:

    - Lão phu không tin.

    Định-vương dơ tay ra hiệu im lặng. Vương nói:

    - Quốc công không tin cũng phải tin. Cô-gia đã sung đám bang chúng Trường-giang vào thủy quân rồi. Ai không muốn làm quan, đã ngoan ngoãn về quê làm ăn. Hiện giờ khắp vùng Trường-giang không còn nạn đạo tặc nữa.

    Khai-Quốc vương lại kể đến việc hai lão Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ hợp với Dư Tĩnh đánh thuốc độc sứ đoàn cùng Định-vương với tùy tùng. Chúng còn nói rõ nhận chỉ dụ của Thái-hậu làm điều đó.

    Quần thần nghe vương thuật họ tin ngay. Trong khi Thái-hậu, nổi giận đùng đùng:

    - Hai tên này nói láo. Hoàng-nhi mau truyền chỉ truy tầm chúng đem về xẻo từng miếng thịt ra để trị tội.

    Vương thuật tiếp, hai lão Tôn, Lê tưởng sứ đoàn bị trúng độc. Trong khi sứ đoàn được Thiệu-Thái giải độc, vẫn mạnh khỏe như thường. Khi đến Tương-giang bị một lực lượng bí mật bắt gần hết mười thị vệ. Thuyền vào hồ Động-đình hai lão mải đuổi theo địch thủ, bỏ mặc sứ đoàn. Sứ đoàn tự lên Kinh-châu, thì bị Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản nói rằng tuân chỉ Thái-hậu áp tải về kinh. Rồi dọc đường xẩy ra cuộc đụng độ với thiết kị hộ tống sứ đoàn Xiêm. Hai lão Sử, Khiếu bỏ chạy. Sứ đoàn tự đến kinh một mình.

    Triều đình biết tất cả những điều vương kể đều đúng. Họ chờ xem Thái-hậu phản ứng ra sao. Lý Ty tâu:

    - Tâu hoàng thượng, xét cho kỹ hai đại thần Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ quả có phạm tội thực, nhưng phải chờ hai vị đó về mới có thể kết tội được. Còn Sử-vạn Na-vượng vốn người Lão-qua, nhờ võ công cao, cần mẫn chính vụ, nên được phong Trấn-quốc đại tướng quân thống lĩnh thị vệ. Khiếu Tam Bản vốn người Chân-lạp, nhờ võ công cao, từ chức Nhập-nội đô-tri, thăng lên Hoài-hóa đại tướng quân, lĩnh Bắc-ban nội phẩm. Cả hai đã tới cực phẩm, không lẽ đang lĩnh chỉ đón sứ đoàn Đại-Việt, lại làm đạo tặc? Tuy có tấu trình của Kinh-lược sứ Kinh-châu cùng như Chiêu-thảo sứ, xin Hoàng-thượng chờ hai vị đó về đây đối chất, rồi hãy kết tội.

    Vương Đức-Dụng tâu:

    - Tâu hoàng thượng, việc Sử, Khiếu làm đạo tặc không phải mình Kinh-lược sứ Kinh-châu tấu, mà chính ngay Tư-mã Kinh-châu Trần Trung-Đạo trực tiếp đánh đuổi Sử, Khiếu cũng đã về triều điện tấu thì còn sai thế nào được? Sau đó tới Chiêu-thảo sứ Diêu Vạn cùng đội thiết kị trăm người, hơn hai trăm con mắt đã chứng kiến, liệu có lầm được chăng? Lại nữa sứ thần An-Nan Tam-gia La-sun cùng vương phi, công chúa cũng chứng kiến. Xin Hoàng-thượng ban chỉ triệu bốn người vào triều kiến ngay để rõ ngay gian.

    Đến đó Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích quỳ tâu:

    - Tâu hoàng thượng, đến giờ các ứng sinh phò mã vào điện kiến. Xin bệ hạ cho ngừng triều nghị.

    Nhà vua gật đầu:

    - Mời các ứng sinh vào.

    Tôn-Thích vẫy tay, từ ngoài, các ứng sinh hàng mười lũ lượt tiến vào điện. Đám Địch-Thanh, Triệu-Tiết, Khúc-Chẩn lẫn vào với các ứng sinh. Khai-Quốc vương ra hiệu cho Tôn-Đản đứng vào chỗ của nó. Thấy vương không gọi, Lê-Văn, Tự-Mai vẫn khoanh tay hầu sau nhà vua.

    Tôn-Thích hô:

    - Các ứng sinh phò mã bái kiến Thái-hậu cùng Hoàng-thượng.

    Các ứng sinh đồng rập đầu bốn lần. Tôn Thích ra hiệu, các ứng sinh đứng sang một bên. Một văn quan dùng tay ra hiệu, nhã nhạc êm dịu nổi lên. Một lễ quan xướng:

    - Công chúa điện hạ cùng các thiên kim tiểu thư hội diện với chư ứng sinh.

    Từ sau màn, tiếng ngọc bội khua rổn rang, rồi cứ ba thiếu nữ một từ từ tiến ra, tay mỗi người cầm một cành hoa bằng vàng. Trong đại điện hơn năm trăm người, mà không một tiếng động. Các thiếu nữ tiến ra, mỗi người ngồi vào một chiếc ghế đặt đối diện với ứng sinh. Các nàng cầm cành hoa bằng vàng cắm vào chiếc ống bạc gắn trước ghế của mình.

    Mọi người cùng đưa mắt nhìn, xem trong mười tám hoa khôi, ai là công chúa Huệ-Nhu, mà tuyệt không nhận ra.

    Tôn Đản, Tự-Mai, Lê Văn nhìn nhau, như tự nói:

    - Hỡi ôi! Có đi ra ngoài mới biết đất thấp trời cao, ngoài bầu trời này còn bầu trời khác. Trước kia mình cứ tưởng Thanh-Mai đẹp hồng hào, đẹp lồ lộ như đóa hoa hải đường. Mỹ-Linh đẹp như đóa hoa lan, trong cái đẹp có cái ôn nhu văn nhã. Đào Hà-Thanh đẹp tươi như bông hồng dưới nắng ban mai. Lâm Huệ-Phương đẹp huyền ảo, mờ mờ như người trong mộng. Bây giờ mới thấy mười tám thiếu nữ này mỗi người một vẻ, đâu kém gì Hà-Thanh, Huệ-Phương?

    Tự-Mai đưa mắt nhìn một lượt, bỗng chàng giật bắn người lên, vì thiếu nữ ngồi ở ghế thứ chín chính là Thuận-Tường. Bất giác chân tay chàng run run. Chàng muốn làm một cử chỉ gì cho Thuận-Tường nhận ra chàng, nhưng Thuận-Tường vẫn nhìn vào đám ứng sinh.

    Lễ-bộ thượng thư Tôn Thích nói:

    - Bây giờ các ứng sinh tự chọn lấy một hoa khôi, rồi đến đứng trước hoa khôi đó.

    Các ứng sinh khoan thai đến trước các hoa khôi. Hoa khôi có nhiều người đứng trước nhất là mười lăm. Hoa khôi có số người đứng trước ít nhất là năm. Tự-Mai giật mình khi thấy Triệu Tiết đứng trước Thuận-Tường. Mà Thuận-Tường chính là hoa khôi có nhiều ứng sinh nhất.

    Tôn Thích hỏi Tự-Mai, Lê Văn:

    - Dường như hai vị cũng ứng tuyển phò mã thì phải? Nếu có xin chọn hoa khôi đi chứ?

    Tự-Mai lẳng lặng đến đứng trước Thuận-Tường. Thuận-Tường đã nhận ra chàng. Bốn mắt nhìn nhau, biết bao nhiêu tình. Còn Lê Văn, chàng chọn một hoa khôi ít ứng viên nhất.

    Tôn Thích hướng vào các ứng sinh:

    - Các vị đây sắp sửa thành phò mã, cũng như rể đông sàng của đại thần. Tuy các vị đã được An-vũ sứ châu quận xét lý lịch. Tuy vậy bây giờ nếu vị nào thấy mình ở trong phạm vi cấm, hãy xin rút tên ra cho kịp. Bằng không sau này truyện đổ bể sẽ mang tội khi quân.

    Các ứng sinh im lặng. Tôn Thích tiếp:

    - Trong các quan cũng như ứng sinh, nếu vị nào nhận ra một ứng sinh dối trá, phải thẳng tay tố cáo. Bằng không cũng mang tội khi quân.

    Quách Quỳ tiến ra quỳ tâu:

    - Thần Quách Quỳ, giòng dõi Quách Quân-Biện. Tâu bệ hạ. Trong chỉ dụ tuyển phò mã nói rằng: Ứng sinh tam đại không được ở trong các trường hợp sau: Không thuộc bọn ngụy, phản tặc chống triều đình. Không thuộc bọn bọn trộm cướp. Không thuộc dư đảng của bang Nhật-hồ. Thần thấy ở đây có hai người thuộc phản tặc chống triều đình.


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tôn Thích hỏi:

    - Quách sinh cho biết hai người đó là ai?

    Quách Quỳ chỉ Lê Văn:

    - Người này họ Lê tên Văn. Phụ thân y là Lê Long-Mang, con thứ Lê Hoàn. Như vậy y là cháu nội của Hoàn. Thời vua Thái-tông, triều đình sai nguyên soái Hầu Nhân-Bảo, cùng nội tổ thần sang chinh thảo Giao-chỉ. Hoàn mang quân chống lại làm quan quân chết rất nhiều. Vì vậy y không thể được ứng tuyển.

    Vương Đức-Dụng hỏi Lê Văn:

    - Ứng sinh Lê Văn phải trả lời cho rõ. Việc ấy có đúng không?

    Lê Văn vốn nhũn nhặn, nhưng từ ngày sinh ra nó đã tự hào về chiến công của ông nội. Chàng nghĩ thầm:

    - Mình có cần trúng cách đâu? Mình cần trượt kia mà. Đã vậy mình nói ngang như cua, như ghẹ cho chúng biết mặt anh hùng. Rối bị trượt càng tốt.

    Chàng nói vang cả điện lên:

    - Quách huynh thực không hổ giòng dõi trung thần. Đúng đấy, tôi nghe phụ thân kể rằng trong trận đánh trên sông Bạch-đằng, tên Quách Quân-Biện bị bắt sống. Y kinh sợ, run rẩy đến nỗi rập đầu ba trăm lần trước một nữ tướng để khỏi bị giết. Trong thời gian ở tù, mỗi ngày y đều khóc lóc xin được về quê sống với vợ con. Sau khi Tống, Việt hòa, y được trao trả. Nghe đâu về Tống, y huênh hoang kể công trận anh hùng tưởng tượng của y.

    Tự-Mai chêm vào một câu:

    - Lúc bị bắt, y rập đầu binh binh trước nữ tướng: Xin tiểu cô nương tha cho cái mạng kiến ruồi này. Nữ tướng khinh khi hỏi: Người đường đường là tướng của Tống triều. Tại sao lại hèn hạ qúa vậy? Nữ tướng đá vào đít mấy cái, rồi truyền cho y mỗi ngày múc mười thùng phân tưới rau.

    Lê Văn tiếp:

    - Đã hết đâu. Ngày nào y cũng khóc lóc thảm thiết xin được phóng thích...

    Quách Quỳ tức qúa văng tục:

    - Mi... mi nói như người ta đánh... rắm ấy.

    Lê Văn làm bộ điếc để tay lên tai hỏi:

    - Quách huynh nói gì? À, có phải Quách huynh nói lúc bị cầm tù, tổ phụ phải ăn thịt rắn ư? Trời ơi, làm gì có truyện đó. Nước tôi là nước nhiều gạo, lắm thịt, dù nuôi tù cũng không đến nỗi bắt ăn thịt rắn.

    Quách Quỳ nhảy vọt lên tấn công Lê Văn bằng một chưởng Thiếu-lâm, chưởng phong khá hùng hậu. Mọi người kinh ngạc khi thấy Lê Văn không đỡ, chàng thản nhiên vận công chịu đòn. Bình, rắc rắc. Một thân hình bay bổng lên cao, rơi xuống đến huỵch một tiếng. Mọi người tưởng Lê Văn bị đánh bay đi. Không ngờ lại chính là Quách Quỳ.

    Quách Quỳ đánh trộm mà không thành. Y bị nội công Lê Văn phản ứng, xương tay bị gẫy đau thấu ruột gan. Nhưng nó không dám rên la vì tự biết rằng mình dùng võ công trước mặt Hoàng-đế là tội đại bất kính, có thể mất đầu. Y vội giả vờ nằm quằn quại không bò dậy được.

    Lê Văn là thầy thuốc, thoáng nhìn chàng đã biết gian mưu của Quách Quỳ, chàng cười:

    - Chà Quách huynh qủa thực giòng dõi tướng môn, mưu trí tuyệt vời. Nhưng Quách huynh ơi, cái khổ nhục kế của Quách huynh chẳng nên dùng ở đây.

    Nói rồi chàng chĩa ngón tay phóng một Lĩnh-Nam chỉ vào huyệt Kiên-ngung, Phong-thị của Quách Quỳ. Quỳ cảm thấy hết đau, nó ngồi dậy:

    - Tôi với Lê huynh không thù, không oán. Nhưng chiếu chỉ của triều đình nói... nếu tôi biết mà không tố cáo, thì cũng mang tội khi quân.

    Lê Văn cười:

    - Đa tạ Quách huynh.

    Chàng đưa mắt nhìn Nong-Nụt. Câu nói đó của chàng chỉ sứ đoàn Việt biết chàng nói thực. Nói rồi chàng bước khỏi chỗ đứng, ra sau nhà vua khoanh tay thái độ ngang tàng, coi như không cần cái ngôi phò mã. Vô tình chàng đứng cạnh ghế của Nong-Nụt. Bốn mắt nhìn nhau chan chứa tình.

    Quách Quỳ chỉ Tự-Mai:

    - Cũng trong lần Nam chinh thời vua Thái-tông, có Trần Trí-Đức. Trần Tự-Mai là con của Trần Tự-An. Mà Tự-An là con Trần Trí-Đức. Chính Trần Trí-Đức chỉ huy đệ tử phái Đông-a đánh trận Bạch-đằng. Vì vậy Tự-Mai không thể được ứng tuyển.

    Tự-Mai thấy Thuận-Tường cau mặt lại. Nàng nhìn Quách Quỳ như muốn ăn tươi nuốt sống nó. Tự-Mai hứng chí, chàng cười ha hả gật đầu:

    - Đúng thế. Ông nội tôi cùng đệ tử Đông-a giết không biết bao nhiêu giặc ở trận Bạch-đằng. Sau khi giết giặc người không nhận bất cứ chức tước nào của triều Lê. Đó là chủ đạo của tộc Việt.

    Chàng nhìn lên thấy Thuận-Tường cau mày lắc đầu, dùng ngón tay ra hiệu cho chàng, ý bảo: Đừng nói nữa. Chàng định lui lại. Nhưng khi nhìn thấy vẻ mặt đắc chí của Tào Lợi-Dụng, cáu quá chàng nghĩ thầm:

    - Tổ bà nó. Ta đếch cần. Bất biết Thuận-Tường sẽ được gả cho ai. Ta hãy bênh vực chủ đạo của tộc Việt đã. Đêm nay ta đi tìm cứu nàng ra, rồi ngao du như nhị sư huynh. Ta đía cần ứng tuyển nữa.

    Tào Lợi-Dụng vẫn hầm Tự-Mai. Lão hỏi chàng:

    - Trần huynh đệ. Nếu như huynh đệ trúng tuyển làm phò mã, triều đình sai huynh đệ mang quân Nam chinh. Huynh đệ sẽ hành động như thế nào?

    - Dĩ nhiên vãn sinh sẽ từ chối.

    Lợi-Dụng cười lớn:

    - Làm phò mã mà bất tuân chỉ của triều đình, chẳng hóa ra khi quân phạm thượng ư? Chủ đạo của tộc Việt thế sao?

    Tự-Mai cười lớn:

    - Ngài là tể tướng mà không hiểu gì về đạo lý cả. Ngài thử nghĩ xem, vãn sinh xuất thân là người Việt, mà lại cầm quân nước ngoài về đánh quê hương mình, giết đồng bào mình, thì sau khi thành công, Hoàng-đế cũng chém đầu vãn sinh. Vì sao? Hoàng-đế sẽ nghĩ: Đất nước nó, mồ mả tổ tiên nó mà có còn vì chút danh lợi đem quân về phá, thì nó trung gì với ta? Nếu sau này nó gặp lợi lớn hơn, ắt nó cũng sẽ phản ta.

    - Trường hợp triều đình mang quân Nam chinh, mà huynh đệ đang cầm quân ở Bắc. Chắc huynh đệ đem quân về chiếm Biện-kinh cứu nước Việt.

    - Ngài đừng suy bụng ta ra bụng người. Vãn sinh là tên nhà quê của đất Việt, hạnh ngộ kết huynh đệ với Hoàng-thượng. Hoàng-thượng với vãn bối đã vượt ra ngoài những gì là Hán, là Việt, những gì là Hoàng-đế chí tôn với tên nhà quê. Như vậy Hoàng- thượng đãi ngộ vãn bối quá nhiều, trọn đời vãn bối không làm lợi cho Hoàng-thượng, thì cũng không làm hại. Dù vãn bối không là Quan Vân-Trường thì cũng không thua Nghiêm-Tử-Lăng.

    Thái-hậu, lẫn nhà vua đều nhìn chàng gật đầu.

    Lợi-Dụng cười vang cả điện:

    - Dù huynh đệ có lý luận đến đâu, huynh đệ cũng thuộc giòng dõi phản tặc.

    Tự-Mai cười ha hả. Chàng vận nội công làm tiếng cười vang khắp điện:

    - Phản tặc. Thế nào là phản tặc? Tào quốc công có đọc kinh Xuân-Thu không? Tôi sinh ra làm người Việt, lại được giáo dục về chủ đạo tộc Việt, tôi phải giữ chủ đạo đó. Từ mấy nghìn năm nay, Hán, Việt phân cương vực. Theo nghĩa quốc tổ tôi là con thứ, quốc tổ Trung-quốc là con cả. Vì vậy vua tôi là vai em, hằng năm phải đem phương vật tiến cống. Khi Trung-nguyên có vua nhân từ, để chúng tôi yên, thì Nam, Bắc hòa thuận. Còn như Trung-quốc ỷ lớn, ỷ mạnh mang quân sang đánh, chúng tôi tuy bé nhỏ, nhưng tự hào đủ sức bảo vệ đất tổ. Thời Ân, Phù-Đổng thiên vương đốt hai mươi vạn quân, nay vết tích vẫn còn.

    Chàng ngừng lại nhìn Khai-Quốc vương, thấy vương tỏ ý tán thành, chàng tiếp:

    - Thời Thủy-Hoàng, sai Đồ Thư mang năm mươi vạn quân sang, chỉ một trận, Trung-tín hầu đốt sạch tại khe Ma-tần-lĩnh, Đồ Thư bị nướng như nướng chả. Thời vua Trưng, Quang-Vũ sai Mã Viện, Lưu Long mang quân sang đánh. Hai phen trận hồ Động-đình, xác lấp Trường-giang. Tại Tượng-quận, công chúa Nguyệt-Đức đốt hai chục vạn quân Vương Bá. Trận Nam-hải, đô đốc Trần Quốc chém tươi Đoàn Chí. Trận Lãng-bạc, đến nay còn hơn trăm gò mả xương chưa mục. Mới đây vua Ngô một trận, vua Lê một trận, sông Bạch-đằng cá ăn thịt quân Thiên-triều vẫn còn no. Gò Chi-lăng cao hơn núi, oan hồn hai chục vạn quân chưa tan.

    Chàng nhìn Tào Lợi-Dụng:

    - Nếu như Tào quốc công muốn lĩnh ấn nguyên nhung sang đánh Đại-Việt ư? Xin người về dặn con cháu đóng bàn thờ, rồi leo lên đó mà ngồi, đỡ phải khó nhọc lặn lội đi xa, rồi kết quả cũng giống Đồ Thư, Đoàn Chí, Hầu Nhân-Bảo mà thôi.

    Nhà vua cũng như Yến Thù thấy Tự-Mai vì bảo vệ chủ đạo tộc Việt, mà đang từ thiếu niên ôn nhu văn nhã, bỗng biến thành ương ngạnh, ngang như cua, vội đưa mắt cho chàng như muốn bảo:

    - Thôi đi. Bây giờ bọn chủ chiến chưa bại hẳn, nếu cứ lối nói này, chúng vin vào đó mà tấn công thì thực khó chống đỡ nổi.

    Tự-Mai tuy hiểu ý hai người, nhưng chàng vẫn bất chấp:

    - Tôi nhắc lại: Nước tôi tuy nhỏ, nhưng chí khí anh hùng dân tôi không nhỏ. Tổ tiên tôi bảo vệ nước, mà bảo rằng phản tặc, thực không còn đạo lý nào vô đạo hơn nữa. Tống Thiên-tử là nhân quân, quần thần đều là những bậc hiền Nho, lấy đức trị thiên hạ, không hề có dã tâm Nam xâm. Duy một vài quái vật đa sự, việc bằng con tép, thổi phồng thành con cá voi; tìm cái xương trong qủa trứng gà...

    Chàng chợt nhìn thấy ánh mắt đau khổ của Thuận-Tường, hùng khí trong lòng chàng nguội như tro tàn, chàng không nói nữa, lùi lại sau nhà vua khoanh tay.

    Sau đó nhiều ứng sinh tố lẫn nhau. Có ba mươi mốt ứng sinh bị loại vì lên hệ với bang Nhật-hồ.

    Tôn Thích lại hô:

    - Phò mã hay rể đông sàng đại thần phải văn võ kiêm toàn. Bây giờ các ứng sinh thi văn. Mỗi người phải trả lời một bài văn sách. Giám khảo lựa mỗi hoa khôi hai ứng sinh. Cuối cùng hai ứng sinh sẽ đấu võ. Ai thắng thì được.

    Các ứng sinh đã mang theo giấy bút. Mỗi người được chỉ định một chỗ ngồi trước chiếc tráp. Tôn Thích quỳ gối:

    - Xin bệ hạ ban đầu đề thi.

    Nhà vua gật đầu nói:

    - Tôn Tử viết Phù, dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng, công thành vi hạ. Tâm chiến vi thượng, binh chiến vi hạ. Mạnh-tử viết Ta hồ! Binh đao chi sự hung khí dã. Thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi 1.

    Các ứng sinh thi nhau cầm bút viết.

    Trong khi các ứng sinh viết, thì có tiếng hô:

    - Trấn-quốc đại tướng quân thống lĩnh Ngự-lâm quân Sử-vạn Na-vượng. Hoài-hóa đại tướng quân tổng lĩnh Thị-vệ Khiếu Tam Bản xin triều kiến.

    Sử-vạn, Khiếu tuy lĩnh chức tước của triều đình, nhưng chúng chỉ trực tiếp với Lưu Thái-hậu thi hành mật lệnh khống chế quần thần. Cho nên ngay Hoàng-đế cũng không biết mặt chúng. Mãi gần đây, Lưu hậu nhân Định-vương vắng mặt, ban mật chỉ cho đại thần làm biểu tâu lên bà về công trạng hai người. Bà truyền phong chức tước cho chúng, để thay thế vào chỗ của Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ. Từ hôm sắc chỉ ban ra, hai người lĩnh mật lệnh Lưu hậu thi hành sứ mạng, nên đến giờ chưa ai biết mặt chúng.

    Thái-hậu truyền:

    - Cho vào.

    Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản bước vào phủ phục rập đầu xưng tên họ chức tước. Thái hậu hỏi:

    - Hai vị đại tướng quân. Ta giao cho hai vị đi đón sứ đoàn Giao-chỉ. Thế sứ đoàn đâu?

    Khiếu Tam Bản tâu:

    - Hai anh em thần tới Giang-Bắc thì gặp sứ đoàn, rồi hộ tống về kinh. Dọc đường không hiểu sao có lệnh của quan Tư-mã Kinh-châu truy tầm anh em hạ thần về tội trộm. Vì không mang thẻ bài, chiếu chỉ theo, nên thần đành lui trước thiết kị.

    Khiếu Tam Bản tiếp:

    - Anh em thần có cảm tưởng như một thế lực nào đó, trong bóng tối mưu hại anh em hạ thần.

    Nói rồi y thuật lại chi tiết những gì xẩy ra trên đường đi, đụng chạm với Diêu Vạn. Cả triều thần cùng nhìn nhau tự hỏi:

    - Vậy ai là người bầy mưu hãm hại y? Điều vô lý là võ công y rất cao thâm, sao có thể để bị một thiếu niên đả bại?

    Vương Đức-Dụng hỏi:

    - Nhị vị đại tướng quân. Kinh-lược-sứ Kinh-châu thượng biểu rằng nhị vị nhập dinh người trộm cống bảo. Quan quân đều thấy mặt. Nhị vị giao chiến với tư-mã Trần Trung-Đạo. Kiếm nhị vị bị gẫy, cán kiếm để tại phạm trường. Hiện Trần Trung-Đạo lĩnh điện tiền chỉ huy sứ có mặt tại đây. Lại nữa Khai-Quốc vương tố đích danh hai vị là Đông-phương và Nam-phương sứ giả của Hồng-thiết giáo Đại-Việt. Xin các vị đối chất với nhau đi.

    Sử-vạn Na-vượng kêu lên:

    - Oan uổng! Oan uổng, thần chưa từng biết dinh Kinh-lược sứ, cũng chẳng hề giao chiến với ai tên Trần Trung-Đạo. Vậy Trần Trung-Đạo là vị nào?

    Quần thần thấy y lờ vụ bị tố là người Hồng-thiết giáo, tức y mặc nhiên công nhận rồi.

    Trần Trung-Đạo từ võ ban bước ra, tay chỉ vào mặt Sử-vạn, Khiếu:

    - Tâu, đêm đó thần cùng chư tướng nghe tiếng báo động bên dinh Kinh-lược, vội chạy sang. Thần có giao chiến với hai người, tướng mạo tương tự như hai vị này. Sau khi giao chiến mấy chiêu, kiếm của hai người đó bị gẫy. Chúng quẳng kiếm lại, tháo chạy. Hiện tang vật thần có mang theo.

    Y vẫy tay. Một thị vệ bưng tới gói vải để giữa điện. Trung-Đạo mở ra, trong có hai cán kiếm cùng mảnh kiếm gẫy. Sử-Vạn trông thấy vội chạy lại cầm kiếm lên xem. Bất giác mặt y tái xanh, vì đúng là kiếm của y với Khiếu. Hai thanh kiếm này chúng để ở Biện-kinh, chứ nào có mang theo. Chứng cớ sờ sờ như thế này còn chối vào đâu?

    Vương Đức-Dụng tiếp:

    - Khai-Quốc vương nói rằng nhị vị dùng thuốc Di-hồn ngũ-hoa phấn đầu độc sứ đoàn, rồi lại còn nói đó là chỉ dụ của Thái-hậu. Sau đó dùng Chu-sa ngũ độc chưởng đánh Trần Bảo-Dân. Hiện sứ đoàn Đại-Việt cũng như Trần Bảo-Dân có mặt ở đây. Hai vị hãy đối chất với sứ đoàn đi.

    Khiếu Tam Bản nghĩ rất nhanh:

    - Khi Thái-hậu ban chỉ dụ cho bọn ta, có dặn rằng không được cho người khác biết. Nhưng nay không biết ma quỷ nào hai ta, không chừng là Định-vương. Chứng cớ sờ sờ, ta không chối nổi. Muốn thoát chết chỉ có cách đổ cho Thái-hậu, rồi sau đó cao chạy xa bay. Với võ công của ta, dễ gì ai làm địch nổi?

    Nghĩ vậy Khiếu tâu:

    - Muôn tâu, Thái-hậu không ban chỉ trực tiếp cho thần đánh thuốc độc sứ đoàn. Người dạy rằng phải bắt sứ đoàn lai kinh. Vì võ công nhân vật trong sứ đoàn rất cao thâm, nên thần phải đánh thuốc, mới bắt nổi.

    Chợt nhìn thấy Lê Văn đứng sau nhà vua, Khiếu kinh hãi nghĩ:

    - Rõ ràng tên này phi ngựa trêu chọc bọn mình. Y là đồ đảng của tên Đặng Tông. Tại sao y lại đứng sau nhà vua? Thôi rồi, người hại ta là nhà vua chứ không phải Định-vương.

    Bất giác đưa mắt nhìn nhà vua, Khiếu nhận ra nhà vua là thiếu niên đi cùng Tôn Đản vào tửu lầu hôm trước, khiến y càng tin tưởng thêm rằng nhà vua sai bọn này hại mình. Y chú ý thấy trong đám sĩ tử ứng tuyển phò mã có Tôn Đản, máu giận sôi lên, y nghĩ thầm:

    - Hoàng-đế hại mình, nhưng mình không có chứng cớ. Bây giờ chỉ cần bắt tên này, dùng Chu-sa ngũ độc chưởng tra khảo, hy vọng y khai sự thực. Như vậy ta đổ cho Hoàng-đế mưu hại Thái-hậu. Tất Thái-hậu sẽ truất phế Hoàng-đế, lập một vua bù nhìn khác lên thay.

    Thấy cử chỉ, con mắt của Sử-vạn, Khiếu. Khai-Quốc vương đoán ra y muốn làm gì rồi. Vương dùng lăng không truyền ngữ nói với Tôn Đản:

    - Cẩn thận! Bọn Khiếu muốn bắt sống em đấy. Đừng chống lại, để cho Hoàng-đế sai các tướng bắt y. Như vậy sẽ có trận đấu của những người trong triều đình. Ta ở giữa làm ngư ông hưởng lợi.

    Tiếng Vương vừa dứt, Khiếu Tam Bản lạng người đến chộp Tôn Đản. Tôn Đản thản nhiên cười hô hố. Khiếu tức qúa quát:

    - Con bà mi! Mi mới đích là thủ phạm hại ta. Mi có chạy đằng trời. Bây giờ mi phải nói thực, ai xui mi hại lão gia. Bằng không lão gia phải bóp chết mi ngay lập tức.

    Tôn Đản thản nhiên:

    - Tôi là ứng sinh phò mã, nhưng gốc thuộc sứ đoàn Đại-Việt. Đây là Sùng-chính điện, tôi không thể và không nên dùng võ. Bằng không đại tướng quân đâu có thể bắt được tôi?

    Hôm trước, nhà vua thấy Tôn Đản đấu hai chưởng với Sử-vạn ngang tay. Mà bây giờ y đành để cho Khiếu Tam Bản bắt. Ông tin ngay rằng Đản không dám dụng võ trong Sùng-chính điện. Nhà vua quát:

    - Khiếu Tam Bản! Bỏ ngay Tôn Đản xuống.

    Khiếu Tam Bản còn ngần ngừ, thì từ phía võ ban, một người nhảy ra chụp lưng y. Y vội trầm người xuống tránh, rồi vòng tay ra sau gạt. Hai tay chạm nhau đến bộp một tiếng. Cả hai người đều bật lui.

    Mọi người nhìn lại, thì ra quan Chuyển-vận sứ Vương Duy-Chính thuộc Quảng-Tây. Duy-Chính phóng chưởng đánh thẳng vào mặt Khiếu. Khiếu thấy chưởng lực hùng hậu, vội tung Tôn Đản lên cao, rồi vung chưởng đỡ. Bình một tiếng cả hai đều lảo đảo lui lại.

    Còn Tôn Đản, nó cảm thấy trong người bứt rứt, biết bị Khiếu nhả độc chưởng vào vai. Nó lạng người qua chỗ Thiệu-Thái. Thiệu-Thái vỗ vai nó một cái. Bao nhiêu bứt rứt hết. Nó trở lại chỗ cũ, tiếp tục viết...bài.

    Duy-Chính, Khiếu đấu đến chiêu thứ mười, vẫn ngang tay. Bỗng hai chưởng chạm nhau đến binh một tiếng. Sử-vạn bật lui liền ba bước. Y cười lớn:

    - Mi bị trúng Chu-sa chưởng của ta rồi.

    Chính nhảy lui lại ôm tay nhăn nhó, miệng mắng:

    - Đồ hèn hạ. Mi dùng Chu-sa ngũ độc chưởng hại ta.

    Thị vệ đã xuất hiện bao vây kín xung quanh Sùng-chính điện. Trần Trung-Đạo hô:

    - Khiếu, Sử-vạn. Hai vị xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng, như vậy lời tố cáo của Khai-Quốc vương rằng hai vị là Đông, Nam sứ Hồng-thiết giáo Đại-Việt là đúng rồi. Hai vị chịu trói đi. Bằng không tôi hô lên một tiếng, hai vị sẽ bị bằm nát ra như chả ngay.

    Một liều ba bẩy cũng liều. Khiếu Tam Bản nghĩ thầm:

    - Sự đã ra thế này, chỉ có cách khống chế Hoàng-đế, mới mong sống sót ngày hôm nay.

    Y đưa mắt cho Sử-vạn, cả hai cùng nhảy bổ về phía Hoàng-đế. Dư Tĩnh đứng sát ngai vàng. Y vung tay phát chưởng đánh vào người Sử-vạn. Phía bên kia Địch Thanh phát chưởng cản Khiếu Tam Bản. Bình, bình hai tiếng. Khiếu, Sử lảo đảo lui lại. Trong khi Dư Tĩnh, Địch Thanh đều cảm thấy cánh tay ê ẩm.

    Nhà vua kinh hãi truyền lệnh:

    - Dư an phủ sứ. Người bắt ngay tên Sử-vạn cho trẫm. Trẫm sẽ tha tội đánh thuốc mê sứ đoàn Đại-Việt ở Khúc-giang cho người.

    Dư Tĩnh vung tay tấn công Sử-vạn. Trong khi phía bên này Địch Thanh đang khai diễn trận đấu với Khiếu Tam Bản. Chưởng phong tràn ngập điện. Bọn văn quan vội lui lại, để tránh áp lực chưởng. Thị vệ vây kín vòng trong vòng ngoài.

    Trong khi đó, sứ đoàn Đại-Việt đều được lệnh dụ của Khai-Quốc vương tuyệt đối không được can thiệp. Chỉ can thiệp khi có lời yêu cầu của Hoàng-đế.

    Nhìn trận đấu nhà vua hỏi Tự-Mai:

    - Nhị đệ. Nhị đệ liệu Dư, Địch có thắng được hai lão Sử-vạn, Khiếu không?

    Tự-Mai lắc đầu:

    - Bàn về công lực, thì Dư dư sức thằng Sử-vạn. Địch hơi thấp hơn Khiếu một chút. Nhưng trong hai trăm chiêu trở đi, Khiếu sẽ bị bại, vì Khiếu già rồi, trong khi đó Địch còn trẻ. Cuộc đấu này khó nói trước, vì Sử, Khiếu xử dụng Chu-sa ngũ độc chưởng. Lỡ ra Dư, Địch chạm vào chưởng Sử, Khiếu, ắt nguy ngay.

    Đấu được trên trăm chiêu, các võ quan đều kinh hãi nghĩ thầm:

    - Bản lĩnh Dư Tĩnh, Địch Thanh là thế, mà không đàn áp được Khiếu với Sử-vạn. Hèn gì Thái-hậu chẳng xử dụng y vào chức vụ thống lĩnh thị vệ.

    Bàn cho thực, công lực Dư Tĩnh ngang với Sử-vạn. Nhưng vì y úy kị Chu-sa độc chưởng, nên không dám đỡ vào chưởng của y. Vì vậy cuộc chiến kéo dài. Sử-vạn cũng biết thế. Y tìm trăm phương ngàn kế để hai chưởng chạm vào nhau. Y phát liền ba chiêu đánh thẳng vào mặt Dư. Dư vung chưởng đỡ. Bình, bình, bình. Sử-vạn bật lui liền ba bước, lưng y chạm vào tường. Dư Tĩnh mừng thầm phát chưởng như trời long đất lở, mong kết liễu tính mệnh Sử. Sử-vạn Na-vượng chỉ chờ có thế. Y vận độc công, đẩy cả hai tay ra đỡ. Bộp một tiếng, mùi hôi tanh bay khắp điện.

    Dư Tĩnh biết nguy, đưa tay lên nhìn, thấy cả bàn tay tím bầm. Nhờ lúc Dư kinh hoảng, Sử-vạn nhảy ra giữa sân điện, miệng cười ha hả:

    - Dư Chuyển-vận sứ, người trúng độc chưởng rồi, mau ngồi xuống vận công, may ra sống được. Còn như cố xử dụng võ công càng mau chết.

    Nhà vua hỏi đám ứng sinh:

    - Ai bắt được tên Sử-vạn, thì muốn giai nhân nào trẫm sẽ gả cho.

    Một ứng sinh dạ tiếng lớn. Y nhảy vọt ra phóng chưởng đánh Sử-vạn. Chưởng của y hùng hậu vô cùng. Mọi người cùng kinh ngạc:

    - Người này còn trẻ, mà sao công lực đã đến mức thượng thừa?

    Đó là một thiếu niên tuổi khoảng hai mươi, nước da trắng, mặt đẹp như ngọc. Nhà vua nhìn Tự-Mai, Lê Văn rồi cười phán nho nhỏ:

    - Hai hiền đệ có thấy thiếu niên này không? Y đẹp trai đâu thua gì hai hiền đệ.

    Tự-Mai tâu nhỏ:

    - Y đẹp hơn đệ với Văn nhiều. Nhưng kém đại ca xa.

    Nhà vua bật cười. Tự-Mai nói câu đó là nói thực. Cứ như trong Tống sử chép, Tống Nhân-tông là một Hoàng-đế đẹp trai hiếm có.

    Lễ-bộ thượng thư tâu sẽ với nhà vua:

    - Y tên Trương Ngọc thuộc phái Không-động.

    Trương Ngọc đánh liền ba chưởng vào Sử-vạn. Sử-vạn lùi lại đỡ. Bình, bình, bình. Cả hai lảo đảo lui lại. Tự-Mai đưa mắt cho Lê Văn:

    - Võ công Trương Ngọc thực chẳng kém bọn trưởng lão Lạc-long giáo. Không biết y có khống chế nổi Sử-vạn không?

    Về phía Khiếu Tam Bản, càng đấu công lực y càng giảm. Nhưng y lợi dụng Địch Thanh úy kị độc chưởng, nên thẳng tay tấn công. Địch Thanh cứ phải lui hoài. Khiếu thấy thế lại tiến về phía Hoàng-đế. Y nghĩ thầm:

    - Cơ chừng này, mình sẽ bị bại mất thôi. Chi bằng mình dương Đông kích Tây, giả tấn công Hoàng-đế, khiến Địch phải đỡ. Mình sẽ đẩy độc chất vào người y.

    Nghĩ vậy y nhảy bổ về phía nhà vua, tay phát một chưởng như sét nổ. Quả nhiên Địch Thanh vội lạng mình đỡ cho nhà vua. Bình một tiếng. Cả hai đều bật lui. Bấy giờ Địch Thanh mới biết mình trúng kế Khiếu Tam Bản. Y từng bị trúng Chu-sa độc, nên biết lợi hại của nó. Y nhảy lùi lại góc điện ngồi vận công.

    Khiếu Tam Bản thừa dịp nhào tới định chụp nhà vua, thì một thiếu niên khác nhảy ra cản lại. Bình, bình, bình. Hai người đấu với nhau liền ba chiêu.

    Lễ bộ thượng thư tâu:

    - Tâu bệ hạ, thiếu niên này tên Tôn Tiết thuộc phái Côn-luân.

    Xem trận đấu, Tự-Mai, Lê Văn đưa mắt nhìn nhau như cùng nói:

    - Mình những tưởng thuộc giòng dõi danh gia, lại gặp nhiều kỳ duyên, so với thiếu niên ngang tuổi, khó ai sánh kịp. Không ngờ bây giờ thấy bản lĩnh Trương Ngọc, Tôn Tiết, mình mới biết quả thực ngoài bầu trời này còn bầu trời khác.

    --------------------------------
    1 Câu " Phù, dụng binh chi đạo, công tâm vi thượng, công thành vi hạ. Tâm chiên vi thượng, binh chiến vi hạ" lấy trong Tôn-tử binh pháp. Nghĩa là: Than ôi! Phàm cái đạo dùng binh xưa nay, đánh vào lòng người là thượng sách, đánh vào thành người là hạ sách. Dùng tâm chiến là thượng sách, dùng binh chiến là hạ sách. Câu " Ta hồ! Binh đao chi sự hung khí dã. Thánh nhân bất đắc dĩ dụng chi" nghĩa là: Than ôi! Binh đao là đồ ác độc. Phàm thánh nhân, thì bất đắc dĩ mới phải dùng đến.



    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI LĂM
    Thiếu đoạn đầu của hồi 115. Xin cáo lỗi cùng độc giã.

    Đến đây mọi người cùng đưa mắt nhìn Hoa-Sơn tam lão.

    - Rồi cơ duyên đưa đến, Hồng-Minh được chưởng môn phái Hoa-sơn thu làm đệ tử. Vốn thông minh, lại có căn bản võ công từ trước, nên Hồng-Minh mau chóng theo kịp các sư huynh sư tỷ, liệt vào đồng hàng với Hoa-sơn Thập-nhị thái bảo, thành Thập-tam thái bảo.

    Hồi Thái-tổ, Thái-tông nhà Tống còn hàn vi, được đạo sĩ Trần Đoàn giúp đỡ, sau khi thành đại nghiệp, hai vị hoàng đế này cùng triều đình hậu đãi phái Hoa-sơn cực kỳ. Cho nên khắp bá quan văn võ đều nghe biết Hoa-sơn Thập-nhị thái bảo gồm Hoa-sơn ngũ lão, thất hùng. Ngũ lão họ chỉ biết gồm Đông, Tây, Nam, Bắc. Còn thất hùng gồm Chu Chiếu-Anh, Vương Lệ-Ngọc, Giáp Kim-Quy, Trí Thành, Du Minh, Ngô Nam, Vạn Quang. Giang hồ võ lâm tuyệt không biết người đứng đầu Hoa-sơn ngũ lão tức Trung-ương lão nhân với người thứ mười ba trong Thập-tam thái bảo hành tung, danh tính ra sao. Bây giờ họ mới biết một người là Lưu thái hậu.

    - Thấy Hồng-Minh xinh đẹp, võ công cao, Nhật-Hồ, Lê Lục-Vũ cùng có ý định đưa vào làm cung nữ, để biết rõ tình hình Tống triều. Từ đó giáo chủ định thống nhất vùng đất tộc Hoa, tộc Việt thành một nước dưới quyền giáo chủ Hồng-thiết Tây-vực Xích-Trà-Luyện. Người bầy ra kế cho để con gái vào làm tỳ nữ cho Sở-vương. Thất bại. Lão nhân gia bàn cách dâng cho Chiêu-Thành thái tử. Nhưng cũng không thành nốt. Cuối cùng thành công với hoàng tử Nguyên-Hằng.

    Nguyên-Hằng là tên vua Chân-tông. Nên khi triều đình nghe Sử-vạn nói đến tên tục tiên đế, họ đều quát mắng. Nhưng Sử-vạn bỏ sống chết ra ngoài, y tiếp tục:

    - Vì muốn cho Nguyên-Hằng lên ngôi vua, nên Nhật-Hồ lão nhân gia sai ta ám hại Sở-vương với Chiêu-Thành. Rồi từ đó tìm cách đưa Hồng-Minh lên làm Hoàng-hậu, rồi Thái-hậu. Ta... nói cho bọn Tống chúng bay biết gã Hoàng-đế kia là con của Lý thần phi, chứ không phải con của Hồng-Minh. Tất cả triều thần đều biết thế, nhưng họ hèn nhát, sợ oai Lưu hậu, mà không dám nói ra. Ngược lại hoàng-tộc cùng gã Hoàng-đế như người mù.

    Nói rồi y tường thuật tất cả chi tiết vụ Lưu hậu giả có thai, sau bắt con của Lý phi nuôi làm con mình để có thể danh chính ngôn thuận thính chính, dần dần cho phe đảng Hồng-thiết nắm quyền. Chính vì vậy Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc, Khiếu Tam Bản với y mới được phong chức tước lớn.

    Có tiếng Lý thái-hậu cười trong màn:

    - Sử-vạn Na-vượng, người lầm rồi. Tất cả việc làm của Lưu hậu đều bị Khai-Quốc vương, Định-vương biết hết. Hoàng-thượng cũng biết rõ. Nhưng chúng ta chưa muốn xuống tay, vì một là không muốn hại Lưu hậu. Dù sao Lưu hậu cũng là người tiên đế sủng ái. Nay thì hoàng thượng trưởng thành, mọi việc sáng tỏ. Người có thấy tất cả phe đảng của Lưu hậu bị bắt hết rồi không? Chức tước của Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn, Khiếu Tam Bản, cùng mười trưởng lão bang Nhật-Hồ với người đều bị tước cả? Từ lúc lâm triều, ta ngồi đây ban lệnh, mà các người ngu quá, tưởng là Lưu hậu.

    Sáng nay, lúc khai triều, bách quan nghe tiếng nói của Lưu hậu hơi khác, nhưng không thấy nhà vua nói gì, nên im lặng. Rồi Lưu hậu hành xử trái ngược hẳn với thường nhật, họ tuyệt không hiểu tại sao. Bây giờ Lý thái-hậu lên tiếng, họ mới vỡ lẽ rằng có một cuộc chính biến lớn lao do Định-vương, Khai-Quốc vương cùng nhà vua làm, mà họ tuyệt không biết.

    Lý thái-hậu tiếp:

    - Trong khi bách quan cùng các người chầu ở đây, thì dinh thự phe đảng Lưu hậu, cùng gia quyến đã bị bắt hết. Của cải bị xung công.

    Có tiếng phụ nữ the thé vọng lại:

    - Chưa chắc mi đã thắng. Ta chưa chết mà!

    Tiếp theo rầm, rầm, rầm ba tiếng. Mái điện thủng một lỗ. Có bốn người bịt mặt cùng nhảy xuống. Một người đàn ông áo đen chụp nhà vua. Một người đàn bà giật màn che chỗ Thái-hậu ngồi. Trong màn không thấy Lưu thái-hậu, mà chỉ có Lý thái-hậu.

    Mọi người nhìn lại: Người giật màn đó chính là Lưu thái-hậu. Lưu hậu tấn công Lý thái-hậu liền ba chưởng. Một người áo trắng chụp Thuận-Tường. Còn một người đàn bà buông tay đứng lược trận. Bắc-Sơn đạo nhân xỉa tay phát một ưng trảo đánh người áo trắng cứu Thuận-Tường.

    Tào Lợi-Dụng lách mình đứng chắn trước nhà vua, đánh ra chiêu Liêu-Đông chưởng cứu chúa. Bình một tiếng. Cả người áo đen với y đều bật lui. Lợi-Dụng lùi liền bốn bước, khí huyết trong người đảo lộn cực kỳ khó chịu. Còn người kia cảm thấy cánh tay tê rần, y lùi hai bước. Hai bên gườm gườm nhìn nhau.

    Sứ đoàn Đại-Việt đều kinh hãi vô cùng. Vì võ công Lợi-Dụng cao hơn đám trưởng lão Lạc-long giáo nhiều, e ngang Thiên-trường ngũ kiệt . Người kia là ai, mà võ công đến như thế. Người áo đen đánh một chiêu, không kết quả, cười nhạt:

    - Tả-bộc-xạ, người chẳng là Tể-tướng được Lưu thái-hậu tin dùng bấy lâu ư? Địa vị người do đâu mà có? Mà nay Thái-hậu bị người ta mưu hại, người lại chống Thái-hậu? Liệu khi gã vua con nít kia cầm quyền, thì người có thoát khỏi ách tru di tam tộc không?

    Miệng tuy nói, mà người áo đen vẫn phát chiêu. Mỗi chiêu đánh ra mạnh muốn nghiêng trời lệch đất. Giọng y khàn khàn, thành ra Lợi-Dụng không biết y là ai. Tuy nhìn lưng y rất quen thuộc. Nghe người ấy nói, Lợi-Dụng kinh hãi tự nghĩ:

    - Ừ nhỉ, gã hoàng-đế con nít với Định-vương tổ chức cuộc binh biến âm thầm mà ta không hay. Chúng khéo loại Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ, Sử-vạn Na-vượng, Khiếu Tam Bản cùng mười trưởng lão bang Nhật-hồ khỏi chức vụ, cho nhà vua nắm quyền. Bây giờ ta phải theo phe nào? Theo Lưu hậu ư? Bà cùng bốn ma đầu Hồng-thiết giáo lộ hình tích, e tướng sĩ không phục. Ta có giúp bà cũng vô ích. Còn như ta giúp nhà vua, thì sau này, với tội trạng quá lớn, làm sao ta thoát khỏi họa sát thân?

    Nghĩ vậy, y phát chiêu cầm chừng.

    Định-vương biết rõ tâm trạng Tào. Ông nói lớn:

    - Tào quốc công. Nếu như người bắt được thích khách, thì tội trạng cũ sẽ được khoan hồng.

    Nghe Định-vương nói, Tào thêm phấn khởi, y phát liền ba chiêu như trời long đất lở. Mỗi chiêu chạm vào chưởng của thích khách, bật lên tiếng bùng lớn. Hai người lảo đảo lui lại.

    Trong khi đó bên cạnh, Bắc-Sơn lão nhân đang đấu với người áo trắng. Còn Lý thái-phi đấu với Lưu thái-hậu.

    Trong điện náo loạn cả lên.

    Tây-Sơn, Nam-Sơn lão nhân đến đứng sau nhà vua để đề phòng. Minh-Thiên cùng Đông-Sơn lão nhân đứng cạnh Định-vương.

    Nhìn trận đấu, Đông-Sơn lão nhân hỏi Khai-Quốc vương:

    - Vương gia! Người đấu với Tào quốc công phải chăng thuộc phái Mê-linh ? Còn người đấu với Bắc-Sơn lão nhân phải chăng y dùng võ công Khúc-giang. Còn Lưu hậu dùng võ công hỗn hợp Hồng-thiết, Hoa-sơn, với Tản-viên. Vậy bọn họ là người Việt chăng?

    Khai-Quốc vương mỉm cười:

    - Đạo sư thực tinh mắt. Quả đúng họ là người Việt, lại có lý lịch rất lớn. Đạo sư cứ chờ đi, họ sẽ lộ chân tướng ra bây giờ.

    Nhà vua nhìn Lưu hậu đấu với Lý hậu, trong lòng phân vân cực điểm. Những kỷ niệm về thời thơ ấu được Lưu hậu trông coi, dạy dỗ cực kỳ chu đáo sống dậy. Nhà vua nghĩ thầm:

    - Phụ hoàng ta có sáu con, ta nhỏ hơn hết. Nếu không được Lưu hậu bắt làm con, đời nào ta được lên ngôi? Lưu hậu giết hại các thân vương, đại thần, tội ác thực không nhỏ. Nhưng đối vơi ta, bà một lòng từ ái. Nếu bà tàn ác, thì đã hại mẫu hậu ta để phi tang rồi, đâu có còn sống đến nay? Phụ hoàng ta băng khi ta còn thơ, bà cầm quyền bấy lâu nay, làm cho nước giầu, dân mạnh, so với hồi phụ hoàng tại thế cũng không bằng. Bây giờ việc vỡ lở, ta phải làm sao cho vẹn toàn?

    Định-vương thấy nhà vua trầm ngâm, thì hiểu tâm sự cháu. Ông bảo Trần Phụ-Quốc:

    - Vương Tổng-lĩnh thị vệ, mau bắt Lưu hậu.

    Phụ-Quốc dạ một tiếng, rồi hướng Lý hậu hô lớn:

    - Xin Thái-hậu lui lại, để thần bắt thích khách.

    Miệng nói chàng phát chiêu Phong-ba hợp bích đánh vào hông Lưu hậu. Lưu hậu cười lên the thé:

    - Lý thị tỳ. Mi hèn hạ, định dùng số đông thắng ta ư?

    Lý hậu lên tiếng:

    - Vương đô đốc mau lùi lại. Ta với thị có thù sâu tựa biển, để chúng ta giải quyết với nhau.

    Phụ-Quốc vội thu chưởng, đứng sang bên cạnh.



  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỒI THỨ MỘT TRĂM MƯỜI SÁU
    Thiên hạ Hồng Thiết

    Nhà vua nhìn mẹ nuôi, mẹ đẻ đang chiết chiêu đến độ một sống, một chết, mà lòng lo lắng:

    - Bất cứ ai trong hai bà mẹ bị tổn thương, cũng là thảm họa cho triều đình? Làm sao bây giờ?

    Nhà vua muốn hỏi Định-vương. Nhưng nghĩ lại:

    - Thái-sư yêu thương ta vô cùng tận. Nhưng người yêu ta với yêu giòng họ Triệu không thể tách rời. Lưu hậu đã gây ra biết bao thảm họa cho hoàng tộc. Bây giờ bà lại muốn hại Thái-sư, hại cả ta. Ta mà hỏi Thái-sư, ắt người sẽ giải quyết vấn đề thực giản dị: Giết Lưu hậu. Điều này thực ta không muốn. Thôi ta đành nhờ nhị đệ vậy.

    Nhà vua hỏi Tự-Mai:

    - Nhị đệ, ta phải làm gì để vẹn toàn cho hai Thái- hậu.

    Tự-Mai định trả lời, thì tiếng Thông-Mai rót vào tai:

    - Thằng cà chớn, nghe đây. Tuyệt đối không ra tay, để Lưu hậu phải dùng Chu-sa ngũ độc chưởng cùng võ công Lĩnh-Nam. Như vậy triều thần mới thực sự tin rằng Lưu hậu là con Lê Lục-Vũ.

    Tự-Mai tỉnh ngộ trả lời nhà vua:

    - Hoàng huynh đừng lo. Đệ khắc có biện pháp đối phó. Trước hết ta phải trừ mấy tên đầu sỏ kia. Sau đó xin Lưu hậu ngừng tay, và để Lưu hậu nguyên địa vị cũ. Khi chân tay Lưu hậu mất hết, quyền hành không còn, ta chẳng lo gì nữa.

    Nhìn trận đấu, Tự-Mai hiểu ý Thông-Mai:

    - Xét ra nội công Nga-mi Lý hậu ngang với nội công Hoa-sơn của Lưu hậu. Nếu Lưu hậu muốn thắng Lý hậu, bà phải dùng võ công Đại-Việt hoặc Hồng-thiết công. Ta nên làm thế nào cho Lý phi chiếm được tiên cơ, để Lưu hậu lộ hình tích mới được. Hôm trước Lý hậu bị bại, mình đã bắn sỏi cứu bà. Bây giờ giữa chỗ đông thế này, mình sao có thể ra tay trợ thủ?

    Quần thần triều Tống đã nghe truyền tụng rằng võ công của Lưu hậu cao thâm, nhưng chưa một ai kiến thức qua. Bây giờ nhìn tận mắt trận đấu của bà với Lý hậu, họ mới bật ngửa ra rằng:

    - Hỡi ơi, từ trước đến nay ai cũng chỉ biết Lý thần phi xuất thân từ phái Nga-mi võ công cực cao mà thôi. Không ngờ Lưu hậu lại là một đại hành gia, võ công kinh thế hãi tục thế kia? Nhưng võ công của Lưu hậu là võ công Hoa-sơn chứ đâu có phải võ công Hồng-thiết với Đại-Việt?

    Tự-Mai đến bên Thiệu-Thái, chàng hỏi nhỏ:

    - Ông ỉn này. Hôm đại hội Thăng-long, từ mẹ em, cho đến Chu Vân-Nga đều dùng phương pháp nhắc lại những kỷ niệm tình cảm của bọn Lê Ba, Nguyễn Chí, khiến công lực chúng giảm. Vậy nếu như một phụ nữ luyện Hồng-thiết công...

    Thiệu-Thái hiểu ý Tự-Mai, chàng nói:

    - Đối với phụ nữ cũng thế. Chỉ cần nhắc nhở đến những tình cảm của người chồng với họ, hoặc làm cho họ nổi cơn ghen lên, là chân khí hỗn loạn ngay. Có phải em muốn nhiễu loạn Lưu hậu, để bà lộ chân tướng ra không?

    - Đúng vậy.

    Trong khi đó, Lưu, Lý hậu vẫn phát những chiêu sát thủ kinh người. Mỗi lần hai chưởng gặp nhau lại bật lên tiếng binh. Dần dà, sau mấy chục chiêu Lý phi có vẻ yếu thế. Cứ ba chiêu bà mới trả lại được một chiêu.

    Tự-Mai hỏi nhà vua:

    - Đại ca này! Hôm trước, trong tửu lầu Cô-tô, đại ca thấy bài từ của phụ hoàng đề trên bức tranh vẽ Khấu Kim-An. Đại ca nhận ra vì nét chữ hay vì đã thuộc lòng?

    Nhà vua thấy giữa lúc sáu người đấu chưởng chí mạng, mà cậu em lại hỏi truyện cũ không ăn nhằm gì tới thực tại, thì hơi khựng lại, nhưng vẫn trả lời:

    - Bài từ đó ta thuộc lòng. Nhưng nhị đệ chớ có nhắc tới, Lưu thái hậu sẽ nổi nóng ngay đấy. Trong cung, ai cũng thuộc, nhưng không dám đọc, vì sợ mẫu hậu lên ruột.

    Tự-Mai đưa mắt nhìn Lê Văn. Lê Văn hiểu liền, chàng nói sẽ bằng tiếng Việt:

    - Có phải anh muốn bảo em ngâm bài từ vua Chân-tông đề tặng Khấu-kim-An để làm giảm công lực Lưu hậu không?

    - Đúng thế. Anh không thể ngâm, vì hiện giờ anh là phò mã mà nhắc lại truyện tình của phụ hoàng thì không ổn.

    Lê Văn cốc vào đầu Tự-Mai:

    - Anh thông minh thế, mà chỉ vì ái tình nó vật mờ người đi nên không nghĩ ra. Lưu hậu là người Việt, biết nói tiếng Việt. Anh cứ ngâm bài từ đó lên bằng âm Việt hay dịch ra tiếng Việt. Như vậy chỉ mình Lưu hậu nghe. Triều thần đâu hiểu gì mà trách anh được?

    Tự-Mai năn nỉ:

    - Văn đệ giúp ta đi. Muôn ngàn lần cảm ơn.

    Lê Văn bật cười:

    - Thôi, đã vậy để em làm công việc ấy cho.

    Y hướng Lưu hậu nói lớn lên bằng tiếng Việt:

    - Tâu Thái-hậu. Thái-hậu không thắng được Lý hậu ư? Xưa kia Lý hậu chẳng theo hầu lão nhân gia ư? Võ công lão nhân gia cao hơn Lý hậu biết bao, mà nay sao vô lực như này? Thái-hậu ơi! Lão nhân gia vốn người Việt, mà leo lên tột đỉnh danh vọng như vậy quá đủ rồi. Nay mọi sự đã bại lộ, lão nhân gia nên rút về hậu cung an dưỡng tuổi già chẳng thú lắm ru, hà cớ còn tranh dành làm gì?

    Nghe Lê Văn nói, Lưu hậu nổi nóng:

    - Thằng ranh con biết gì mà nói.

    Vô tình bà dùng tiếng Việt. Triều thần đều gật đầu:

    - Lời Khai-Quốc vương tố cáo, cũng như Sử-vạn Na-vượng khai quả không sai. Thì ra Lưu hậu là người Việt thực. Có điều không biết bà là con Nhật-Hồ lão nhân hay Lê Lục-Vũ?

    Lê Văn tiếp:

    - Nhớ xưa kia Tiên-hoàng sủng ái Thái-hậu biết bao. Nhưng vãn niên người lại say mê Khấu tiểu thư đến điên đảo thần hồn. Hôm tới Biện-kinh thần nghe nói khắp nơi truyền tụng rằng Tiên-hoàng làm bài từ đề trên bức tranh vẽ Khấu tiểu thư. Tò mò thần chép lại, rồi học thuộc. Nay xin dịch sang tiếng Việt để Thái-hậu chỉnh cho những chỗ khiếm khuyết.

    Trọn đời Lưu hậu, được vua Chân-Tông sủng ái cùng cực. Chỉ duy một lần: Cuối đời, nhà vua định phế bà, lập Khấu Kim-An lên thay. Bà hận vô cùng. Cho nên mỗi khi ai nhắc đến truyện này, bà lại lên ruột. Không ngờ bây giờ Lê Văn nói lên giữa triều thần. Bà liếc nhìn y với tất cả căm hận.

    Lê Văn đọc lớn:

    Giai nhân như sương mờ,
    Gót sen đi trong mơ,
    Ánh mắt, nụ cười, trời nghiêng, đất lở.
    Môi hồng, da tuyết, như vạn bài thơ.
    Tự-Mai suýt bật thành tiếng cười, vì Lê Văn dịch tào lao, y chỉ giữ ba phần ý, còn bẩy phần bịa. Nhưng Lưu hậu nghe đến đây khí uất bốc lên đến cổ, bà chửi tục:

    - Tiên sư cha thằng ôn vật, có câm đi không?

    Lê Văn càng trêu già:

    - Ngoài ra Tiên-đế còn làm một bài ca, thần xin dịch sang tiếng Việt, ca cho thái hậu nghe.

    Chàng rút hai cái phách trong bọc đánh vào nhau bắt nhịp, rồi cất tiếng hát theo điệu ca trù. Trong khi Bảo-Dân lấy tiêu ra hòa nhịp:

    Gót tiên lãng đãng như sương,
    Má hồng thu cả bốn phương hoa đào.
    Người đâu tá? Hằng-Nga hay tiên tử?
    Lạc thiên cung xuống Trung-thổ bấy lâu nay?
    Tiếng thanh tao như oanh hót trên cây,
    Dù Phi-Yến, dù Tây-Thi phải cúi đầu lùi bước.
    Mỹ nhân khả tác kim cung tặng,
    Hoa hậu thiên niên bất dị tầm. 1
    Nghìn năm sau, tiếng tài hoa, tiết liệt ai bằng?
    Khắp kim cổ luận bàn về tài sắc.
    Nếu Kim-An tiên nữ ngự tại cung Hàn trắc,
    Thì Hằng-Nga không tử tự cũng khóc hu hu,
    Huống chi Lưu hậu chuột chù?
    Sứ đoàn Đại-Việt, dù nghiêm trang như Khai-Quốc vương, dù chân thật như Thiệu-Thái, nghe Lê Văn ứng khẩu làm bài hát theo điệu Ả-Đào để ca tụng Khấu Kim-An, trêu Lưu hậu; đều không ngăn nổi tiếng cười. Vì điệu ca trù do Đào Hà-Thanh mới sáng chế ra gần đây, e rằng Lưu hậu chưa từng nghe qua, chưa từng biết, thế mà y dám bảo dịch từ bài thơ do vua Chân-tông sáng tác, thì còn trời đất nào nữa? Ý tứ trong bài ca-trù vừa ngỗ nghịch, vừa châm biếm. Tuy nhiên giọng ca Lê Văn rất tốt, ai nghe cũng cảm thấy hay. Nhưng mỗi chữ, mỗi lời đó lọt vào tai Lưu hậu như một mũi kiếm đâm trúng tim bà.

    Tức quá chân tay Lưu hậu muốn run lên. Bà phóng một chưởng hướng đỉnh đầu Lê Văn như trời long đất lở. Lê Văn vội trầm người xuống tránh, tay chĩa lên một chỉ. Nếu Lưu hậu đánh xuống thì huyệt Thiếu-phủ của bà bị tổn thương. Bà vội biến chưởng thành cầm nã bẻ ngón tay Lê Văn. Yù vọt mình lên cao tránh khỏi.

    Nhờ Lưu hậu tấn công Lê Văn, Lý hậu chiếm lại được thế công, bà đánh liền ba chưởng. Lưu hậu phải bỏ Lê Văn quay lại đỡ bình, bình, bình.

    Lê Văn biết có kết qủa, chàng tiếp:

    - Thái hậu ơi. Thần nghe Tiên-đế sai người dấu Khấu mỹ nhân một nơi, rồi đêm đêm người hội ngộ với nàng... Tình ý nồng nàn vô hạn.

    Lưu hậu hét lên:

    - Tên ôn con mất dạy, làm gì có truyện đó. Mi... mi mau im mồm đi ngay!

    Đến đây chân khí trong người Lưu hậu hỗn loạn, chiêu số rời rạc, Lý hậu đánh liền ba chưởng như trời long đất lở. Bà bị bật lui tới chân cột. Cùng đường, bà phát chiêu Chu-sa ngũ độc chưởng. Bình một tiếng. Lý hậu bật lui liền ba bước. Mùi hôi tanh nồng nặc khắp điện.

    Lý hậu vội vận phản Chu-sa độc công, rồi lùi một bước. Lưu hậu trong cơn ghen, quên mất việc dấu chân tướng. Bà đánh liền năm chiêu Chu-sa độc chưởng. Mùi hôi tanh bay khắp điện. Lý hậu thủy chung vừa đỡ vừa lui.

    Lê Văn sợ Lý hậu bại, chàng tiếp:

    - Hỡi ơi! Khi Tiên-đế sủng ái Khấu tiểu thư, thì Thái-hậu đã già lắm rồi, đó là lẽ thường, lão nhân gia chẳng nên giận dỗi làm gì! Thái-hậu ơi. Bây giờ ai cũng biết lão nhân gia là con gái của đại ma đầu Lê Lục-Vũ, nhũ danh Lê Hồng-Minh hay Kiều-Thu thì còn hy vọng gì nắm trọng quyền nữa.

    Lưu hậu chửi:

    - Đồ con nhà mất dậy.

    Lê Văn càng trêu già:

    - Tiên đế thực minh kiến, nên làm bài ca ví Thái-hậu như chuột chù. Chuột chù hôi thối nồng nặc, mà sao Tiên-đế lại ví như vậy kìa? À, chắc trước đây Thái-hậu luyện Chu-sa chưởng nên thánh thể có mùi giống chuột chù chăng? Ôi! nay thời của Thái-hậu hết rồi. Nào Thái-hậu, nào uy quyền, nào mưu chiếm Đại-Việt, nào biến Thiên-hạ thành một nước Hồng-thiết giáo nay thành mây khói. Lui về đi thôi Thái-hậu ơi.

    Chàng ca vang cả điện lên:

    Trường giáp qui lai hề,
    Quyền dĩ khứ.
    Trường giáp qui lai hề,
    Thời dĩ tuyệt. 2
    Rồi chàng cầm ống tiêu đưa lên miệng mà thổi.

    Khí uất trong người Lưu hậu bốc lên, chân khí chạy nhộn nhạo, bà thở hồng hộc, chưởng phát không ra nữa. Bà chỉ vào Lê Văn miệng lắp bắp:

    - Tiên nhân cha mày, mày động mồ động mả hay sao mà trêu bà. Bà...

    Đến đó Lý hậu cười lớn:

    - Thái hậu, người đánh tôi mấy chục chưởng. Bây giờ xin Thái-hậu nhận lại của tôi ba chưởng, gọi là có đi, có lại.

    Nói rồi bà phát ra chiêu chưởng nhẹ như gió thoảng qua:

    - Một này.

    Lưu hậu cảm thấy tay nặng nề, bà từ từ đưa lên đỡ. Bộp một tiếng, bà rung động toàn người, rồi cảm thấy như con dao đâm vào ngực đau đớn vô tả. Lý phi cười nhạt:

    - Chiêu thứ nhì đỡ này.

    Lưu hậu nghiến răng đỡ, bình một tiếng, khắp người bà như muôn ngàn mũi dao đâm vào. Lý hậu không tha:

    - Chiêu thứ ba này.

    Lưu hậu cố gắng đỡ, người bà như đeo hàng trăm cân đá. Lý hậu cười nhạt:

    - Thôi, thái hậu làm nhục tôi, chia rẽ tình mẫu tử bấy lâu, nay lĩnh hậu quả này thì đừng oán hờn chi cả.

    Lưu hậu run lên bần bật:

    - Ái, đau chết đi.

    Người đàn bà bịt mặt đứng lược trận xẹt tới, phất tay một cái, Lưu hậu bật lùi ba bước, rồi mụ vòng tay lên đỡ chưởng của Lý phi. Bình một tiếng Lý phi cảm thấy như trời long đất lở. Bà bật lùi ba bước, khí huyết trào lên cổ, bà ọe một tiếng, khạc ra một búng máu.

    Thuận-Tường la lớn:

    - Trần đại ca, mau cứu mẫu hậu.

    Dù Thông-Mai đã dặn, nhưng tiếng kêu cứu của Thuận-Tường làm Tự-Mai không tự chủ được, chàng lách mình đến ôm lấy Lý hậu nhảy lùi lại sau, tay vòng một chưởng đỡ chiêu thứ nhì của mụ bịt mặt. Bình một tiếng. Nó cảm thấy cánh tay tê chồn, tai phát ra tiếng kêu vo vo không ngừng.

    Mụ bịt mặt không tha, tay mụ vòng lên cao, đánh xuống một chưởng mạnh kinh người. Tự-Mai nhận ra đó là chiêu Loa-thành nguyệt chiếu của phái Mê-linh. Thuận tay chàng phát chiêu Thanh-ngưu ư hà trong Phục-ngưu chưởng. Hai chưởng dương cương gặp nhau, phát ra tiếng kêu lớn. Áp lực làm mọi người muốn nghẹt thở.

    Tự-Mai mượn đà, nhảy lùi lại liền ba bước. Vô tình chàng đứng trước Mỹ-Linh. Mỹ-Linh phát nhẹ một chiêu vào lưng Tự-Mai, rồi đỡ lấy Lý thái-hậu.

    Tự-Mai được cha, chú luyện tập căn bản cực kỳ vững trãi. Lúc ở trong động Xuân-Đài, chàng với Khai-Quốc vương học được thần công Yên-lãng, nhưng vì không có mật ngữ, nên khi phát lực không mạnh. Đợi đến trận Tản-lĩnh, chàng được Đặng Đại-Khê truyền mật ngữ cho, công lực của chàng tiến vô cùng. Tiếp theo, chàng hút công lực của hai đại cao thủ phái Hoa-sơn, đến đây bản lĩnh chàng ngang với bọn trưởng lão Lạc-long giáo.

    Vừa rồi chàng hút nội lực của Sử-vạn Na-vượng, Tào Lợi-Dụng. Đúng ra với công lực tổng hợp, nội công chàng không thua Đại-Việt ngũ long làm bao. Nhưng phàm khi hút nội lực, cần phải có mấy tháng để qui liễm hoà hợp nhau. Vì vậy hiện công lực của chàng chưa đến chỗ tối cao. Thế mà chưởng của người bịt mặt hùng hậu vô cùng. Do đó chàng bị lạc bại.

    Người đàn bà bịt mặt lên tiếng:

    - Tên ôn con, rõ ràng mi là đệ tử phái Đông-a, thế mà sao mi còn luyện cả nội lực Hoa-sơn, Tản-viên nữa?

    Tự-Mai thấy người đó bác học vô cùng, chàng khâm phục chắp tay:

    - Tiền bối nhận xét đúng. Tiểu bối có cơ duyên luyên Vô ngã tướng thiền công của công chúa Yên-lãng. Rồi sau đó được hai trong Hoa-sơn thất hùng ban cho ít nội lực. Tuy vậy tiểu bối không thể là đối thủ của tiền bối.

    Người đó lạng mình chụp nhà vua. Tây-Sơn đạo sư quát lên một tiếng, chĩa thẳng ngón tay vào chưởng người kia. Người kia biến trảo thành cầm nã bẻ ngón tay lão. Lão biến chỉ thành quyền đập vào cườm tay mụ. Bộp một tiếng, cả hai cùng cảm thấy ê ẩm khắp cánh tay.

    Tuy bị đau đớn, nhưng mụ vẫn không ngừng lại. Mụ biến chiêu thần tốc không thể tưởng tượng nổi. Tay bật lên cao, vòng qua vai Tây-Sơn đạo sư, vươn ra chụp nhà vua. Vô tình người mụ sát vào Tây-Sơn đạo sư. Ông vội đẩy một chưởng vào bụng mụ. Ai cũng tưởng mụ sẽ nhảy lùi lại tránh. Không ngờ người mụ di chuyển, vẫn sát vào Tây-Sơn đạo sư.

    Thấy nguy hiểm, Tự-Mai vội ôm nhà vua nhảy lùi lại ba bước. Trong khi đó chưởng của Tây-Sơn đạo sư chạm vào ngực mụ. Ông kinh hoàng vội thu kình lực lại, nhưng chỉ được bẩy phần. Còn ba phần trúng ngực mụ đến bình một tiếng.

    Lão xấu hổ, vội lên tiếng:

    - Bần đạo vô ý, xin tạ lỗi.

    Mụ nhảy lùi lại cười khành khạch:

    - Người ta đồn Hoa-Sơn ngũ lão đạo cao đức trọng, nào ngờ cái căn bản nhỏ xíu Nam nữ thụ thụ bất tương thân cũng không biết giữ, giữa chốn triều cương thế này, mà người dám trêu ghẹo lão nương ư?

    Mụ cười the thé:

    - Cái tội trêu ghẹo lão nương, là do đạo sư tự tìm lấy cái chết, chứ lão nương không chủ tâm ác ý đâu.

    Tây-Sơn lão nhân chưa hiểu rõ câu nói của mụ, thì mụ chỉ vào tay lão:

    - Lão hãy nhìn tay mình thì rõ.

    Tây-Sơn lão nhân đưa tay lên nhìn. Bàn tay lão tím ngắt. Lão quát lên:

    - Thì ra bọn ngươi thuộc bang Nhật-Hồ.

    Lão vung chưởng tấn công mụ. Nhưng chưởng chưa ra, mà tay lão đã

    mất hết lực, lão nghiến răng ngồi vận công chống đau.

    Trần Trung-Đạo quát lên thực lớn:

    - Ngừng tay!

    Sáu người cùng nhảy lui lại.

    Chàng bước ra xá mụ già bịt mặt:

    - Thì ra tiền bối là Bắc-sứ của Hồng-thiết giáo Đại-Việt đấy. Từ lâu võ lâm hằng nghe danh tiền bối như sấm nổ bên tai. Nhưng chưa ai biết dung nhan tiền bối ra sao. Xin tiền bối mở khăn ra cho mọi người được diện kiến.

    Mụ cười the thé:

    - Về võ công, mi bất quá là tên tiểu mao đầu. Khi lão nương thành danh trên chốn giang hồ, thì mi chưa ra đời. Còn về địa vị quan trường, bất quá mi là viên tướng nhỏ bằng hạt vừng, hạt đậu mà dám xung chàng với ta ư?

    Trung-Đạo cười nhạt:

    - Tiểu bối dùng lễ võ lâm, mà tiền bối không muốn hiển lộ dung nhan. Vậy tiểu bối xin làm nhiệm vụ của Điện tiền chỉ huy sứ. Mong tiền bối thứ lỗi.

    Chàng khoằm khoằm phát chiêu ưng trảo chụp khăn bịt mặt của mụ. Chiêu số chậm chạp, nhưng kình lực mạnh vô cùng. Mụ cười nhạt, xỉa tay vào ngực chàng, nếu chàng không thu tay đỡ thì vỡ ngực ra mà chết. Ai cũng tưởng Trung-Đạo phải thu tay về nhảy lui lại. Nhưng tay chàng vẫn không đổi chiều. Cùi chỏ hơi co lại, đập vào cùi chỏ mụ. Chàng nghiến răng vận công. Bàn tay mụ đánh trúng ngực chàng đếp bộp một tiếng. Trong khi tay chàng chụp trúng chiếc khăn che mặt mụ. Xoạc một tiếng, chàng nhảy lui lại, hít hơi, điều tức.

    Triều thần cùng bật lên tiếng ủa rồi ái chà đầy vẻ khủng khiếp. Còn Nong-Nụt thấy mụ, nàng hét lên, núp sau Lê Văn. Ai cũng nhận ra mụ là đạo cô đạo cao, đức trọng, thường ra vào cấm cung từ đời vua Thái-tông, được phong tước Ngọc-Chân huyền quân, phụ trách giảng dạy lễ nghi cho cung nga, công chúa. Lưu thái-hậu không mấy ưa mụ. Mụ chưa từng nói truyện với Lưu hậu bao giờ. Nào ngờ mụ lại là nữ đại ma đầu Nguyễn Thúy-Minh, hay Tăng Tuyết-Minh, vợ Lê Lục-Vũ tức nhiên là mẹ Lê Hồng-Minh tức Lưu hậu.

    Họ đưa mắt nhìn người áo đen, áo trắng như muốn hỏi xem chúng là ai?

    Lê Văn hỏi Nong-Nụt:

    - Tại sao em lại sợ con mụ kia?

    Nong-Nụt lấm lét nhìn mụ:

    - Chính mụ là người tra khảo, đánh đập em ở Hoàng-thành. Cũng mụ ra lệnh bắt giam, tra khảo Khai-Thiên vương phi. Đại ca mau mau đuổi mụ đi.

    Nói rồi nàng nắm lấy tay Lê Văn như cầu lấy sự che chở.

    Định-vương hướng Khai-Quốc vương:

    - Vương gia! Hôm trước anh em chúng ta đã thỏa thuận tại Khúc-giang rằng: Phàm dân Tống phạm tội trên đất Việt, thì Việt bắt trao Tống xử tội. Ngược lại dân Việt phạm tội trên đất Tống, tống trao cho Việt xử.

    Vương chỉ vào Lưu thái-hậu cùng ba thích khách:

    - Những người này, vốn là dân Việt. Họ phạm trọng tội với bản triều. Vương gia hiện diện tại đây, xin trao trả vương gia, để vương gia phát lạc.

    Khai-Quốc vương hướng vào hai người mặc áo đen và trắng:

    - Hai vị tiền bối. Mấy chục năm qua hai vị tung hoành trên suốt một giải Hoa-Nam, lan tới Biện-kinh, danh vang một thủa như vậy đủ rồi. Không còn mấy năm nữa hai vị đi vào tuổi tám mươi. Hai vị nên gác kiếm rửa tay quy ẩn chẳng thú vị lắm ư. Hà cớ còn len lỏi vào chốn bụi trần gây ra cảnh chém giết làm gì?

    Vương chỉ vào đám sĩ tử:

    - Thái-sư tổ chức Anh-hùng đại hội Biện-kinh vào tháng tám. Lưu thái hậu sợ Thái-sư nắm hết anh hùng thiên hạ, vội bầy ra việc tuyển phò mã, với ý nghĩ rằng anh hùng do Thái-sư nắm được sau này, bất qúa chỉ được phong những chức võ quan bình thường, lại không được tín nhiệm. Sao có thể so sánh bằng phò mã, bằng rể đông sàng của tể thần? Sáng kiến Lưu thái hậu thực cao minh không ai tưởng tượng nổi.

    Vương ngừng lại rồi thở dài:

    - Thế sao hai vị lại dùng phấn độc bắn vào hạ bộ định hại đám thiếu niên này, rồi định đổ cho Thiên-Thánh hoàng đế với Thái-sư để di họa cho hai vị rằng chủ ý muốn kình chống Lưu hậu, mà đánh thuốc độc? Hai vị, một là Tả-hộ-giáo, một là Hữu-hộ-giáo của Hồng-thiết giáo Đại-Việt, bây giờ lại muốn vu oan cho Hoàng-thượng, cho Thái-sư rằng hai người dùng dư đảng bang Nhật-hồ hại sĩ tử?

    Nghe đến đây, mọi người mới biết hai lão áo đen, áo trắng là Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc tức Đào Tường-Phúc, Chu Bội-Sơn hóa danh. Bất giác triều thần Tống mặt nhìn mặt xấu hổ:

    - Thì ra Lưu hậu là người của Hồng-thiết giáo Đại-Việt thực. Còn hai lão Tôn, Lê đúng là hai đại ma đầu Đào, Chu thực.

    Lão già áo đen quát lên:

    - Nói láo. Bịa đặt. Hai lão phu là con dân Hán, sinh trưởng ở vùng Quảng-Nam Đông-lộ, gia phả đời đời ghi, đâu liên quan gì tới bọn cẩu Việt các người. Người đừng nói láo. Chính tên Triệu Nguyên-Nghiễm ép Hoàng-thượng phóng độc hại thí sinh, hầu phá cuộc tuyển anh tài đất nước. Bây giờ mi nói ngược lại.

    Thấp thoáng bóng trắng, mọi người thấy hoa mắt một cái, ánh thép lóe lên. Hai lão áo trắng, đen nhảy lùi lại, mặt tái mét, trong khi khăn che mặt rơi xuống. Mọi người đồng ồ lên: Hai lão chính thị Tôn Đức-Khắc, Lê Lục-Vũ.

    Lê Lục-Vũ chỉ bóng trắng:

    - Mi... Mi... Mi đánh trộm ta ư? Mi là ai.

    Bấy giờ y mới biết bóng trắng xẹt đến rút kiếm của y, rồi vung lên cắt khăn che mặt y với Tôn Đức-Khắc là công chúa Bình-Dương.

    Mỹ-Linh chỉ vào mặt lão:

    - Tả-hộ-pháp. Người tự chối bỏ tổ tiên mình thì tùy ý người. Nhưng người nhục mạ giòng giống Việt của ta thì không được đâu. Ta cảnh cáo cho người biết như vậy cũng đủ rồi. Lần sau ta sẽ cắt lưỡi người.

    Lê Lục-Vũ cười nhạt:

    - Ta sơ ý bị đánh trộm. Con lỏi kia, người lại đây, ta đấu với nhau trăm chưởng.

    Mỹ-Linh đứng giữa triều Tống, nàng mặc quần áo trắng, khăn vàng,

    dây lưng vàng, phơi phới như Quan-thế-âm Bồ-tát, khiến ai cũng phải rung cảm trong niềm kính trọng:

    - Thái độ uy nghiêm, mà ngôn từ rõ ra một vị công chúa cha mẹ dân, trong khi kiếm pháp thần thông. Thực không khác Phật-bà.

    Nàng mỉm cười:

    - Lê tả-sứ. Kiếm pháp mà ta học là Long-biên kiếm pháp của tộc Việt xưa, tuy chỉ mới được ba thành, nhưng cũng đủ dạy dỗ cho bọn vong quốc các người. Nào người hãy rút kiếm ra.

    Đông-Sơn lão nhân vái Mỹ-Linh:

    - Công chúa điện hạ. Xin công chúa ban cho bần đạo được đòi món nợ cũ với tên ma đầu này.

    Lão hất hàm hỏi Lê Lục-Vũ:

    - Tên họ Lê kia, người có nhớ ra bần đạo là ai không?

    Lê Lục-Vũ cười nhạt:

    - Ta không cần biết đến bọn vô danh tiểu tốt như mi làm gì. Mi hãy nhìn tên sư đệ Tây-Sơn kia, y sắp chết rồi. Mi muốn chết với y thì tiến ra mà lĩnh Chu-sa ngũ độc chưởng.

    Nguyên cách đây mấy chục năm, phái Hoa-Sơn đào tạo được mười ba đệ tử. Đứng đầu là Ngũ-hùng, rồi tới Thất-kiệt. Cả mười ba người danh trấn giang hồ. Võ lâm mệnh danh là Hoa-sơn thập tam thái bảo. Sau người đứng đầu Ngũ-hùng là Đặng Đại-Bằng phản sư môn, theo bang Nhật-Hồ. Trong một đêm y về tổng đàn ăn trộm bí lục võ công, chẳng may bị lộ. Y bị vây đánh, súyt mất mạng, thì giữa lúc đó bọn bang Nhật-hồ xuất hiện. Chúng dùng Chu-sa độc chưởng, khiến cho sư phụ bị thương, rồi đi đến mất mạng. Trong bọn đó có hai tên Chu Bội-Sơn, Đào Tường-Phúc.

    Hoa-Sơn là võ phái phát tích ra Tống triều, vì vậy danh dự rất lớn. Nay chưởng môn bị đồ tử phản bội, rồi bị trúng Chu-sa độc chưởng đến mất mạng, thì còn nhục nhã gì bằng? Vì vậy người trong phái âm thầm ngậm hờn, không công bố ra ngoài.

    Từ đấy Hoa-sơn ngũ hùng chỉ còn có bốn. Cả bốn người ngày đêm luyện võ, trả thù cho sư môn, vì vậy họ nổi tiếng, được đời tặng cho danh hiệu Hoa-sơn tứ lão. Hôm nay, ngay giữa triều nghi, kẻ thù xuất hiện, hỏi sao Hoa-sơn tứ lão ngồi im được?

    Đông-Sơn lão nhân hướng vào Định-vương:

    - Xin vương gia cho bần đạo mượn kiếm, để tru diệt ma đầu.

    Định-vương vẫy tay, một thị vệ cung kính cúi đầu dâng kiếm cho Đông-Sơn lão nhân. Lão cầm kiếm vòng một vòng, rồi nói với Lê Lục-Vũ:

    - Chu Bội-Sơn. Người hãy rút kiếm ra.

    Lục-Vũ lạng người đến bên một thị vệ, y đã đoạt được kiếm. Y quát lên một tiếng, tay phóng chưởng tấn công. Sứ đoàn cùng bật lên tiếng:

    - Võ công Khúc-giang.

    Nhưng trong chưởng lại có mùi hôi tanh nồng nặc. Đông-Sơn lão nhân xỉa kiếm vào giữa chưởng của Lục-Vũ. Lục-Vũ không đỡ kiếm của ông, mà đưa kiếm vòng lên cao. Lối đánh của y giống như hai người cùng chết. Đông-Sơn lão nhân vòng kiếm thành quả cầu bạc, thế là hai người cùng lẫn trong làn kiếm quang.

    Kiếm của Đông-Sơn lão nhân vừa mau, lại vừa tinh diệu. Trong khi kiếm của Lục-Vũ thì chậm chạp, thô kệch, nhưng hung hiểm lạ thường. Lý Thái-hậu hỏi Thanh-Mai:

    - Vương phi, theo vương phi, cuộc đấu kết qủa sẽ ra sao?

    - Tâu thái hậu, về công lực thì Lê cao hơn Đông-Sơn đạo sư. Về kiếm pháp, thì Đạo-sư hơn Lê. Hoa-Sơn kiếm pháp vừa dùng kiếm chiêu, vừa dùng kiếm khí. Trong khi Khúc-giang kiếm pháp thì dùng kiếm khí. Vì vậy khó có thể tiên đoán được.

    Hai người đấu được trên hai trăm hiệp, thì Lưu hậu nghiến răng chịu đau, lên tiếng:

    - Kết thúc đi chứ!

    Lê Lục-Vũ cười nhạt một tiếng. Người y quay như cơn lốc. Một tay tung kiếm, một tay phóng chưởng. Đông-Sơn lão nhân cũng vội dùng tay trái đỡ chưởng của y. Ông thấy chưởng của y sao lại không có lực? Chưởng của ông trúng ngực y đến binh một tiếng. Một làn nước đục tung vào người ông. Ông kinh hãi, vội nhảy vọt lên cao tránh, nhưng cũng bị một tia trúng cổ.

    Biết là nước độc, ông không đỡ kiếm của Lê, đưa thẳng kiếm vào cổ y với ý định cả hai cùng chết. Nhưng lực không còn, ông lảo đảo như người say rượu.

    Mỹ-Linh đã từng chiết chiêu thắng Đông-Sơn lão nhân. Thế nhưng sau đó, gặp lại nàng, ông luôn dùng ngôn từ trân trọng có lợi cho Đại-Việt. Vì vậy nàng sinh cảm tình với ông. Nay thấy ông sắp nguy. Nàng vội quát lên một tiếng, xẹt tới đưa kiếm vào cổ Lê Lục-Vũ. Lục-Vũ kinh hãi, vội lộn về sau hai vòng. Nhưng Mỹ-Linh di chuyển thân mình, khiến kiếm như dính liền vào cổ y. Y lộn đến vòng thứ tám thì chạm phải bức tường. Lòng y nguội như tro tàn. Y chửi thề:

    - Con bà nó! Ta thua mi vì mi đánh trộm. Ta không phục.

    Khai-Quốc vương cười nhạt:

    - Xin lỗi tiền bối, đứa cháu còn nhỏ tuổi có hơi nóng nảy. Nào bây giờ Lê, Tôn tiền bối có còn chối rằng mình không phải là Chu Bội-Sơn với Đào Tường-Phúc không?

    Mặt Tôn Đức-Khắc vẫn lỳ lợm:

    - Láo!

    Quốc-vương lắc đầu:

    - Trời ơi, địa vị hai tiền bối cao biết mấy, mà mình làm lại không dám nhận. Như vậy đâu có xứng dáng? Hai vị là con cháu di thần Ngô triều, ẩn thân ở Khúc-giang, một tay giúp họ Tiền dựng triều Ngô-Việt, danh vang một thủa. Hai vị đã được phong tới tước công mà! Ở đây có nhiều người từng đến nước Ngô-Việt tiếp nhận đầu hàng vào thời vua Thái-Tông, đã gặp hai vị. Mới đây Thái-hậu phong chức tước cho hai vị tới quốc công chứ có nhỏ đâu?

    Vương chỉ vào đám sĩ tử:

    - Tại sao các vị lại hại đám thí sinh nhỏ tuổi vô tội này?

    Lê Lục-Vũ lắc đầu:

    - Bịa đặt.

    Khai-Quốc vương lắc đầu:

    - Dầu sao hai vị cũng có vai vế trong võ lâm, hà cớ lại chối như vậy? Việc hạ độc các thiếu niên đã rõ đen trắng. Bên cạnh mỗi y quan đều có chậu nước, và một khăn lau, để sau khi khám bệnh một sĩ tử, thì rửa tay. Rửa xong lau tay. Đầu tiên Lê tiên sinh sai thái-giám Lê Tất bỏ thuốc giải vào các chậu nước, rồi tung phấn độc vào những chiếc khăn. Thế là trước khi khám bệnh, y quan rửa tay, thuốc giải ngấm vào, tiếp theo lau tay. Phấn độc vào tay, mà y quan vô sự. Khi y quan mó vào người sĩ tử, phấn độc dính vào người họ. Họ bị trúng độc.

    Tất cả đám thiếu niên cùng mở to mắt ra kinh ngạc như muốn ăn tươi nuốt sống hai lão Lê, Tôn. Họ cùng thét lên:

    - Mau cùng nhau giết hai tên ma đầu báo thù.

    Rồi chia nhau vây kín xung quanh hai lão. Lưu hậu thấy chỉ mấy câu ngắn ngủi, Khai-Quốc vương biến đám sĩ tử thành kẻ thù của Tôn, Lê, mà không đụng chạm đến bà. Bà cũng sinh hoang mang. Bà đưa mắt nhìn hai lão:

    - Có việc đó ư?

    Lê Lục-Vũ cười nhạt:

    - Tên ôn con Lý Long-Bồ kia nói láo đấy. Thái-hậu đừng tin nó.

    Định-vương lắc đầu:

    - Hai người đừng chối vô ích. Cô gia đã thẩm vấn thái giám Lê Tất rồi. Hai người không chối được đâu. Nhất là những gì các người làm trên đường từ Khúc-giang về đây.

    Tôn Đức-Khắc hỏi:

    - Trên đường từ Khúc-giang về đây ư? Chúng thần chưa từng làm gì phạm pháp cả.

    Khai-Quốc vương ung dung:

    - Được, cô gia nói thực ra hết để hai vị khỏi chối. Hai vị được chỉ dụ Thái-hậu đến Khúc-giang cùng Dư Tĩnh đánh thuốc độc Định-vương cùng tùy tùng. Nhưng hai vị qúa khinh địch. Hai vị gia làm ẩn sĩ bái kiến cô gia. Hai vị quên mất tiện thê cùng Tự-Mai là con một bác học về võ công hiện đại. Chỉ liếc nhìn tướng đi, hơi thở, tiện thê cũng như Tự-Mai, đã nhận ra chân tướng võ công hai vị ngay.

    Tôn Đức-Khắc hất hàm hỏi Tự-Mai:

    - Bằng vào động tác gì huynh đệ nhận được chân tướng bọn ta?

    Tự-Mai chau mày, chàng định biến hai lão thành trò cười cho thiên hạ. Nhưng chợt nhớ lại bây giờ mình đã thành đại thần, thành phò mã, thành nghĩa đệ của hoàng đế. Chàng khoan thai đáp:

    - Nhị vị quốc công khảo sát kiến thức của cô-gia đấy ư? Để cô-gia nói cho nhị vị nghe. Khi nhị vị bước qua thanh gỗ làm cầu xuống thuyền. Tôn quốc công đi bằng đầu ngón chân. Thân thể Tôn quốc công đâu có nhẹ? Trong khi thanh ván rất mỏng. Thế mà mỗi bước đi của Tôn quốc công không làm cầu rung rinh. Như vậy võ công Tôn quốc công thuộc võ công Cửu-chân, luyện đến trình độ tuyệt cao, trên khắp Đại-Việt không ai sánh kịp. Khi quốc công bưng chung trà uống, lòng bàn tay đỏ lòm, thì rõ ràng quốc công luyện Chu-sa ngũ độc chưởng đến trình độ tối cao. Trong võ lâm Đại-Việt làm gì có người nào ngang tuổi với quốc công mà bản lĩnh Cửu-chân, Hồng-thiết cao như vậy ngoài Đào Tường-Phúc thuộc di thần Ngô-Việt, phản Ngô-Việt theo Hồng-thiết giáo?

    Chàng chỉ Lê Lục-Vũ:

    - Còn Lê quốc công. Khi quốc công dùng ngón tay gõ vào mạn thuyền xin yết kiến Khai-Quốc vương. Quốc công chỉ khẽ gõ, mà tiếng trầm vang đi rất xa. Đó là thủ pháp võ công Khúc-giang. Lòng bàn tay quốc công cũng đỏ lòm, rõ ràng quốc công luyện Chu-sa ngũ độc chưởng. Ngang tuổi với quốc công không có ai thuộc phái Khúc-giang, bản lĩnh cực cao mà theo Hồng-thiết giáo ngoài Chu Bội-Sơn. Cho nên sứ đoàn thản nhiên tiếp hai vị. Tưởng hai vị biết Cái sứ đoàn biết hai vị. Hóa ra hai vị không biết gì cả.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,759
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chàng cười lớn:

    - Nhưng lúc ấy sứ đoàn chỉ biết hai vị là cao nhân võ lâm Đại-Việt, đồng thời cũng là đại ma đầu của Hồng-thiết giáo mà không biết hai vị làm đại thần bản triều.

    Hai lão Tôn, Lê nghe Tự-Mai nói, bất giác mồ hôi đầm đìa ra áo vì kinh hãi:

    - Đáng chết. Quả thực hôm đó mình khinh thường sứ đoàn Đại-Việt toàn bọn con nít. Nào ngờ...

    Tự-Mai dơ tay làm hiệu bắt chước cử chỉ của Hoàng-đế nói với Tào Lợi-Dụng hôm trước, mà chàng đã thấy:

    - Hai vị khinh thường sứ đoàn, lại khinh thường của túi khôn Trung-nguyên là hoàng thúc, với Phạm Trọng-Yêm cùng sự kinh kịch của Minh-Thiên đại sư, Đông-Sơn đạo sư. Cho nên khi hai vị ngồi trên nóc điện bị khám phá ra. Dù hai vị đã hóa trang, nhưng hoàng thúc liếc qua cũng biết hai vị là Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc. Hai vị kinh ngạc ư? Hai đại hành gia ẩn thân trong hoàng cung, trong khi hoàng thúc là Thái-sư mà không biết thì còn ra cái gì nữa?

    Sự thực trước đây Định-vương, Minh-Thiên, Đông-Sơn đạo sư tưởng Lê, Tôn là hai cao thủ thuộc bang Nhật-Hồ gửi vào kiềm chế Lưu hậu. Cho tới khi Định-vương, Khai-Quốc vương kết thân, hợp tác ổn định Bắc-biên Đại-Việt. Khai-Quốc vương mới lộ Định-vương mới biết. Hôm nay nhân muốn hạ phe Lưu hậu xuống, Tự-Mai đề cao Định-vương lên, y nói như vậy.

    Thấy hai lão kinh hãi, Tự-Mai tiếp:

    - Hai vị quên rằng dù bản lĩnh độc công hai vị tài giỏi đến đâu chẳng qua cũng không bằng sư phụ hai vị là Nhật-Hồ lão nhân. Mà Nhật-Hồ lão nhân bị Thân đại ca đánh bại. Hôm ấy Thân đại ca hiện diện, nhưng hại vị không đề phòng. Cho nên Dư Tĩnh pha thuốc mê vào món gà nấu ngũ vị hương, Thân giáo chủ biết liền. Giáo chủ dùng Thiền-công tung ba viên thuốc giải tan thành bột rơi xuống món gà ngũ vị hương. Thành ra khi hai vị thấy Dư an phủ sứ làm không nên việc, mới giả làm lộ hình tích, rồi tung Di-hồn phấn, cùng Nhuyễn-cân tán một lần nữa.

    Hai lão Tôn, Lê mặt nhìn mặt, kinh hãi:

    - Đáng chết thực, tại sao mình không thấy cái sơ hở đó nhỉ?

    - Chưa hết, khi các vị tung thuốc. Sứ đoàn truyền nhau vận Thiền-công hóa giải. Trong khi đó Thân giáo chủ giả rót rượu cho Khai-Quốc vương, trao thuốc giải cho Định-vương. Khai-Quốc vương khuyên Định-vương cùng sứ đoàn giả mê man, để biết sự thực.

    Lê Lục-Vũ lắc đầu:

    - Ta không tin.

    Tự-Mai bèn thuật chi tiết cuộc đối thoại của hai lão Tôn, Lê cùng Dư Tĩnh, rồi chàng móc trong túi ra chiếc hộp nhỏ, trong hộp có tượng Quan-âm bằng ngọc xanh. Quần thần nhận ra ngay, đó là lệnh bài tuyệt mật của Lưu hậu. Ai cầm tượng đó, mà nói gì, truyền lệnh gì coi như lệnh của Lưu hậu. Chàng nói:

    - Dư an phủ sứ thấy tượng này của hai vị đưa ra, lập tức líu ríu tuân theo.

    Lục-Vũ hỏi:

    - Huynh đệ bảo Thiệu-Thái luyện được bản lĩnh Hồng-thiết tối cao, sao y bị lão phu cầm từ suốt từ Khúc-giang đến hồ Động-đình mới thoát được.

    Tâm tính Thiệu-Thái hiền hậu, dễ tha thứ. Từ hôm chàng được tôn làm giáo chủ Lạc-long giáo, vẫn có ý tìm ra tông tích Ngũ-sứ cùng Tả, Hữu hộ pháp để kéo họ về chính đạo. Trên đường từ Khúc-giang đi Trường-sa, chàng được Bảo-Hòa báo cho biết hai lão Tôn, Lê chính là Đào, Chu lĩnh Tả, Hữu hộ pháp. Nhưng chàng bị Khai-Quốc vương bắt phải giả ngây, giả dại trúng độc. Chàng bị hai lão khinh thị, uất ức chồng chất vừa mới nguôi, bây giờ hai lão hiện diện, đã không hành lễ với chàng, lại còn xỉ mạ người Việt, hỏi chàng chịu sao nổi?

    Chàng bước ra chỉ hai lão:

    - Hai vị phạm tội đại bất kính biết bao lần, bản nhân vì đại kế phải lờ đi. Bây giờ hai vị vô phép nữa, bản nhân dùng giáo quy đối với hai vị đấy.

    Hai lão cười:

    - Thực vô lý hết sức, khi chúng ta phải gọi một con lợn ụt ịt thế kia bằng giáo chủ. Nếu người có bản lĩnh thắng được hai chúng ta...

    Thiệu-Thái điên tiết lên, chàng vỗ hai tay vào nhau, hất hàm:

    - Hai người hãy vận công đi. Chúng ta đấu Hồng-thiết độc công.

    Kể từ khi giáo chủ Xích-trà-Luyện lên làm giáo chủ, đã cho đại hội các trưởng lão, rồi ra luật như sau: Nếu một giáo chúng nào tự thấy bản lĩnh mình hơn giáo-chủ, tả hữu hộ giáo, ngũ sứ cùng trưởng lão, đều có thể thách giao đấu. Nếu thắng, sẽ đương nhiên thay thế vào chức vụ kẻ bại. Ngược lại, những chức sắc lãnh đạo, tự thấy võ công mình thấp kém, có thể xin rút lui. Giáo chủ sẽ cho tuyển người thay thế.

    Từ ngày học Chu-sa độc chưởng, chưa bao giờ Thiệu-Thái xử dụng đến, vì nó quá bá đạo ác độc. Nay hai lão Tôn, Lê công khai thách thức, chàng mới xử dụng lần đầu. Tuy khi luyện, Đỗ Lệ-Thanh cho chàng hấp độc dược không nhiều. Nhưng sau đại hội Lộc-hà, chàng đã hút độc tố cứu hàng vạn giáo chúng. Rồi sau này chàng cứu cho bang chúng bang Trường-giang, Nhật-hồ lại hút thêm độc chất nữa. Thành ra khi chàng vừa vận công, lập tức độc tố chuyển động mạnh đến không tưởng tượng nổi.

    Chàng hướng Lê Lục-Vũ phát chiêu Nhân-ngưu câu vong trong Mục-ngưu thiền chưởng, miệng hô:

    - Chu hữu hộ giáo đỡ chưởng thứ nhất này.

    Lê Lục-Vũ cũng vận Hồng-thiết công phát chiêu trong Khúc-giang chưởng. Hai đại cao thủ cùng vận hết mười thành công lực. Chưởng chưa ra hết mà mọi người đều cảm thấy nghẹt thở. Rầm một tiếng, chưởng phong khiến nhiều người bị đẩy bay ra xa, màn trướng trong điện đứt rơi xuống ào ào.

    Lê Lục-Vũ chưa hề biết Mục-ngưu thiền chưởng. Lúc đầu y thấy phảng phất như Phục-ngưu thần chưởng. Sau khi hai chưởng giao nhau, y mới thấy trong một chiêu biến hóa, lại có kình lực âm nhu, dương cương lẫn hóa giải. Khi y nhận ra, thì đã trễ, người y bay bổng về sau, lưng y chạm vào tường đến bình một tiếng. Y nhăn nhó, đau đớn, chân tay như mất hết lực.

    Mỹ-Linh sợ Thiệu-Thái giết chết hai tên Tôn, Lê, thì hỏng hết mật kế của Khai-Quốc vương. Nàng vẫy tay ra hiệu cho Thiệu-Thái lui lại, rồi cười trong như sương mai:

    - Biểu huynh, truyện nội bộ Lạc-long giáo không nên đem ra làm phiền Tống triều.

    Nàng nói với hai lão Tôn, Lê:

    - Vừa rồi Lê hữu sứ đã lĩnh một chiêu của giáo chủ. Hồng-thiết giáo nay đổi thành Lạc-long giáo, nên giáo chủ chưa nỡ đẩy chất độc vào người hữu sứ. Bằng không...

    Lê Lục-Vũ nghĩ thầm:

    - Cô công chúa này nói đúng. Vừa rồi gã con lợn kia mà đẩy chất độc vào ta, e giờ này ta đã chết rồi.

    Mỹ-Linh tiếp:

    - Hai vị được đủ mọi nết: Võ công cao, kiến thức quảng bác. Nhưng hai vị mắc phải tật khinh địch, nên bị chú hai tôi cho mắc bẫy mà không biết.

    Rồi nàng thuật chi tiết việc sứ đoàn giả trúng độc lên đỉnh Thiên-đài, theo giòng sông Tương vào Tương-đài, vượt hồ Động-đình đến Tam-sơn một lượt. Cuối cùng nàng kết luận:

    - Chúng tôi giả trúng độc, nên mới được xem vở tuồng mười trưởng lão bang Nhật-hồ bị người ta bắt trước mặt hai vị, khiến hai vị hóa điên hóa khùng. Hỡi ơi, hai vị tài trí biết bao, nhưng nào ngờ bị trẻ con làm cho mê mê tỉnh tỉnh.

    Lê Lục-Vũ hỏi Mỹ-Linh:

    - Công chúa! Công chúa có thể cho hai lão phu biết kẻ nào đã làm anh em lão phu điên đầu từ Khúc-giang tới Trường-sa?

    Mỹ-Linh mỉm cười:

    - Tôi biết, nhưng không dám nói ra. Hai vị suy nghĩ kỹ, thì hiểu liền chứ có khó gì đâu?

    Nghe Mỹ-Linh nói, Lê Lục-Vũ tỉnh ngộ:

    - Tượng Phật bằng ngọc ta khám phá ra bị mất tại Tỷ-qui, mà nay ở trong tay tên Trần Tự-Mai, vậy ắt việc thổi tiêu dụ ta đuổi theo liên quan đến tên này.

    Khi đã nghi Tự-Mai, lão đưa mắt nhìn sứ đoàn Đại-Việt, bất giác lão nhận ra Tự-Mai, Lê Văn, Tôn Đản, Thuận-Tông, Thiện-Lãm trong đám bầy kế bắt bọn trưởng lão bang Nhật-hồ. Bát giác lão rùng mình:

    - Tên Lý Long-Bồ quả thực mưu trí trùm hoàn vũ. Y thấy ta khinh thường y. Y càng giả ngây, giả dại thêm. Vợ chồng y cùng sứ đoàn vờ bị trúng độc, trong khi đó y sai bọn trẻ con âm thầm thi hành qủy kế hại ta. Hỡi ôi, đáng lẽ ta phải biết ngay lúc đầu mới phải chứ? Quái thực, trong bọn chúng còn một phụ nữ tấu nhạc trên hồ Động-đình nữa, thị là ai?

    Lưu thái-hậu, cũng như triều đình nghe cuộc đối đáp giữa sứ đoàn Đại-Việt với hai lão Tôn, Lê, mắt họ như sáng ra. Bây giờ họ mới hiểu thực lực trong bóng tối của Lưu hậu đáng kinh khiếp, mà sứ đoàn Đại-Việt lại vượt xa hơn.

    Tôn Đức-Khắc hỏi Khai-Quốc vương:

    - Tham dự vào việc bắt mười thị-vệ, chức tới Nhập-nội đô-tri đem đi mất có tất cả bẩy thủ phạm. Hiện diện tại dây sáu tên, đều thuộc sứ đoàn. Lão phu muốn biết mười thị vệ đó vương gia giam họ ở đâu, mau đem thả họ ra.

    Khai-Quốc vương mỉm cười không trả lời.

    Tào Lợi-Dụng hướng Khai-Quốc vương:

    - Thế tử! Thế tử nói rằng trên đường sang Tống, sứ đoàn tuyệt đối không xử dụng võ công. Thế ra lời nói của Thế-tử là dối trá, là khi quân đấy!

    Khai-Quốc vương biết Tào đang phân vân không biết nên về phe Lưu hậu hay nhà vua. Nay y hỏi câu đó, có nghĩa muốn nghiêng theo Lưu hậu. Vương nói với Tôn, Lê:

    - Cô gia công nhận trong bẩy người bắt mười trưởng lão bang Nhật-hồ có sáu người hiện diện tại đây. Nhưng cô gia không hề ra lệnh cho họ. Từ đầu đến cuối cô gia đi cạnh hai vị, nếu cô gia ra lệnh, ắt hai vị đã thấy. Người ra lệnh cho họ hành sự là Định-vương.

    Tôn Đức-Khắc cau mày:

    - Hỡi ơi! Đường đường là đấng trừ quân, mà lại cúi đầu tuân lệnh một chức quan nhà Tống thì còn hy vọng gì ngửa mặt nhìn tộc Việt?

    Tự-Mai quát lên:

    - Tôn quốc công! Người chẳng là đại thần Tống triều đấy ư? Người là đại thần, mà sao nói năng vô pháp vô thiên như vậy?

    - Phò mã bảo lão phu vô pháp, vô thiên. Vậy lão phu vô pháp, vô thiên ở chỗ nào?

    Tự-Mai thấy lão Tôn không gọi mình là huynh đệ nữa, mà gọi là phò mã, như vậy lão tỏ ra trọng vọng mình rồi. Y nói:

    - Chúng tôi là em kết nghĩa với Khai-Quốc vương. Khi Định-vương, Khai-Quốc vương kết bạn. Khai-Quốc vương truyền cho chúng tôi rằng: Trong khi ở Tống, phải nhất nhất tuân lệnh Định-vương. Vì vậy Định-vương sai chúng tôi bắt mười tên khâm phạm thuộc dư đảng bang Nhật-hồ, đương nhiên chúng tôi phải tuân theo. Sau khi bắt họ, chúng tôi nhờ Thân giáo chủ trị dứt Chu-sa độc cho họ. Họ đã cải tà quy chính, trở lại với bang Hoàng-Đế rồi.

    Y nhìn nhà vua:

    - Tâu hoàng huynh, xin hoàng huynh ban chỉ ân xá cho mười vị Nhập-nội đô tri về vụ họ nguyên thuộc dư đảng bang Nhật-hồ. Đệ sẽ cho họ xuất hiện, hầu triều đình biết sự thực .

    Nhà vua gật đầu:

    - Khi họ cải tà quy chánh theo bang Hoàng-Đế, thì tội cũng tan theo. Trẫm thuận ân xá cho họ.

    Tự-Mai hô lớn:

    - Các vị xuất hiện đi thôi!

    Từ ngoài điện, mười thị vệ tiến vào. Họ quỳ gối hành đại lễ:

    - Bọn thần kinh cẩn tạ ơn bệ hạ ân xá.

    Họ đến trước Lưu hậu rập đầu liền bốn lần:

    - Thái hậu. Đa tạ Thái-hậu trọng đãi anh em thần bấy lâu. Bây giờ đã đến lúc bọn thần tỉnh ngộ, xa lánh Hồng-thiết ma kinh, quỷ kinh hại người, đi chữa bệnh cho dân để xám hối. Thần xin Thái-hậu nhận ở đây mấy lậy, rồi từ giã.

    Bây giờ Lưu hậu mới tỉnh ngộ. Bấy nhiêu chứng cớ, bà không cãi được nữa. Bà đưa mắt nhìn quần thần một lượt rồi nói với Định-vương:

    - Thái-sư! Khi Tiên-đế tại thế đãi Thái-sư không bạc. Từ hồi ta thính chính, một lòng tôn kính, trọng vọng thái sư. Nay sao Thái-sư lại nỡ chia rẽ tình mẹ con ta? Thái-sư bầy ra vụ Lý phi là sinh mẫu hoàng nhi cùng Huệ-Nhu. Con ta đẻ đứt ruột ra, bây giờ Thái-sư bảo chúng là con Lý phi, thì còn trời đất nào nữa?

    Bà run run hỏi nhà vua:

    - Hoàng nhi! Ta có còn là Thái-hậu chăng? Hoàng nhi có dám truất phế ta chăng?

    Nhà vua được Lưu hậu nuôi nấng dạy dỗ từ nhỏ. Hơn mười năm qua, tuy ông làm vua, mà thực quyền trong tay bà. Ông tuân phục bà đã quen, nay thấy bà hỏi, nhà vua đáp:

    - Tâu mẫu-hậu! Muôn ngàn lần hoàng nhi không dám bất hiếu với mẫu-hậu.

    - À! Như vậy ta vẫn là Thái-hậu. Hoàng nhi ngồi trên ngai vàng, uy quyền quán Thiên-hạ, mà để cho mẫu hậu đau đớn như thế này sao?

    Nhà vua hướng Thiệu-Thái:

    - Thân giáo chủ! Xin Thân giáo chủ mở lượng từ bi, trị đau đớn cho mẫu hậu. Trẫm nguyện báo đáp.

    Thiệu-Thái tâu:

    - Hoàng thượng ban chỉ, muôn ngàn lần thần không dám chối. Hồng-thiết thần công của thần chỉ có thể giải Chu-sa ngũ độc chưởng cũng như Nhật-hồ độc chưởng. Còn trường hợp của Lưu Thái-hậu. Lưu thái-hậu dùng độc chưởng đánh Lý thái-hậu, rồi bị Lý thái-hậu đẩy chất độc trở về. Muốn giải độc tố đó, phải do chính Lý thái-hậu hóa giải trước. Nội công Lý thái-hậu là nội công Nga-mi, nếu Lý thái-hậu không trị cho Lưu thái-hậu, Bệ-hạ có thể nhờ một cao thủ phái Nga-mi nào ra tay cũng được. Sau đó, thần sẽ dùng Hồng-thiết thần công đẩy hết độc tố Chu-sa trong người Lưu thái-hậu.

    Định-vương tiếp lời Thiệu-Thái:

    - Tâu Hoàng-thượng, Thân giáo-chủ tâu thực chứ không dám khi quân đâu.

    Rồi vương thuật lại việc Nhật-Hồ, Đặng Trường, Đỗ Xích-Thập bị người của phái Đông-a dùng phản Nhật-hồ độc chưởng đẩy vào người như thế nào hôm đại hội Thăng-long cho nhà vua nghe. Nhà vua đưa mắt nhìn Lý thái-hậu. Mặt Lý thái-hậu lạnh như tiền, bà từ từ lắc đầu:

    - Ta không trị cho con gái Nhật-Hồ ma đầu.

    Lưu hậu đau qúa, người bà run lên bần bật, rồi không chịu nổi, bà hét lên be be như con dê bị chọc tiết. Nhìn cảnh của Lưu hậu, nhiều người cảm thấy thỏa mãn trong lòng:

    - Con ma đầu này, bấy lâu sai thủ hạ dùng Chu-sa độc chưởng khống chế quần thần, mụ đâu biết cái đau đớn người ta phải chịu? Bây giờ mụ bị quả báo cho đáng kiếp.

    Cách đây ít lâu, Lê Thiếu-Mai đã vào cung trị bệnh cho Lưu hậu. Bà tỏ ra biết trọng hiền tài, lưu giữ nàng ngủ lại trong đêm, truyện trò rất tương đắc. Nay thấy bà đau đớn, lương tâm thầy thuốc không nỡ, nàng móc trong bọc ra hai viên thuốc rồi tiến ra nói:

    - Tâu thái hậu. Thần xin dâng Thái-hậu hai viên thuốc tạm trấn thống.

    - Đa...đa... tạ... vương phi.

    Thiếu-Mai vung tay, hai viên thuốc bay đến trên đầu Lưu hậu thì vỡ tan thanh bụi chụp xuống người bà. Bà rùng mình một cái, cơn đau biến mất. Tính cương cường trở lại, bà thở dài:

    - Ta nghe hồi đại hội Thăng-long, Nhật-Hồ lão nhân cùng đám trưởng lão bị phái Đông-a dùng phản Chu-sa độc chưởng đẩy chất độc trở lại người. Hồng-Sơn đại phu đã dùng Ma-túy hoàn để trấn tĩnh cơn đau cho họ. Sau này người sửa chữa đi đôi chút, thêm vào hai vị Đào-nhân, Viễn-chí thành Đào-chí hoàn. Đào-chí hoàn mạnh hơn Ma-túy hoàn nhiều. Có đúng vậy không? Dường như hai viên mà vương phi vừa tung vào người ta, thì một viên là Đào-chí, một viên là Ma-túy thì phải.

    - Tâu Thái-hậu đúng vậy.

    Lưu thái-hậu bật ra tiếng khóc, nói với Định-vương:

    - Dù ta là con của Nhật-Hồ lão nhân, thì ta vẫn là người Tiên-đế sủng ái. Ta là người Hán hay người Việt, chưa phải là vấn đề quan trọng. Việc trước mắt, ta hỏi Thái-sư: Khi Tiên-đế tại thế chẳng từng phong ta làm Hoàng-hậu đấy ư? Tiên-đế di chiếu lại ủy thác con côi cho Thái-sư, cùng ba vị quốc công là Đinh Vị, Phùng Thừa, Tào Lợi-Dụng. Trong chiếu chả tuyên rằng ta buông rèm thính chính đấy ư? Nay Phùng, Đinh không còn tại triều. Hiện diện chỉ có Thái-sư với Tào quốc công. Tại sao Thái-sư lại hại ta?

    Định-vương chắp tay:

    - Thần không hề hại Thái-hậu. Vì Thái-hậu muốn biến Trung-nguyên thành một Thiên hạ Hồng-thiết giáo, thần phải bảo vệ công nghiệp tổ tiên. Thái-hậu đang định vu vạ cho Lý thái-hậu, rồi ban chỉ giết chết. Thần không muốn Hoàng-thượng ký chiếu chỉ, thành người sát hại mẫu-thân, một tội đại bất hiếu, mà chưa một ông vua nào dám phạm. Hơn nữa trong bóng tối Lê Lục-Vũ, Đào Tường-Phúc đang có âm mưu sát hại Hoàng-thượng, nên bất đắc dĩ thần phải đem sự thực tâu với Hoàng-thượng.

    Vương ung dung tiếp:

    - Dù thần có nhu nhược, không làm việc này chăng nữa cũng không được. Vì đại sư Minh-Thiên, đạo sư Tây-Sơn, Đông-Sơn phiền trách, lại thêm các đại thần yêu cầu thần đứng ra đảm trách việc bảo vệ sự nghiệp của tổ tiên.

    Lưu hậu nhìn quần thần một lượt, rồi nói lớn:

    - Hơn mười năm qua, ta buông rèm thính chính, có gì qúa đáng chăng? Này Thái-sư, thời Tây-Hán, Lã thái-hậu cầm quyền, dâm đãng cùng cực, sát hại giòng họ Lưu, đổi niên hiệu, đổi triều đại. Đến thời Đông-Hán, Mã thái-hậu chứa gian nhân dâm ô kể sao cho siết. Gần đây đời Đường, Võ hậu ác chất như non, hại chồng, hại con, giết người trung lương, hại hoàng thân, đưa ngoại thích cầm quyền, cướp ngôi nhà Đường. Những điều này ắt Thái-sư biết chứ?

    Bà nhìn quần thần một lượt, rồi tiếp:

    - Ta buông rèm thính chính, mà kỷ cương bản triều không hề phạm tới. Lã, Mã, Võ hậu dùng ngoại thích, hại hoàng thân. Còn ta. Ta trọng dụng Thái-sư, kể từ khi bản triều lập lên, chưa một vị hoàng thân nào được phong chức tước lớn, trao trọng quyền bằng Thái-sư. Ta trọng Thái-sư vì Thái-sư là hoàng tử được vua Thái-tông sủng ái, rèn luyện thuật trị nước. Cũng vì Thái-sư là người Tiên-đế ủy thác con côi. Ta nhận biết ngay Thái-sư nhất tâm nhất trí phù trì cho hoàng nhi. Ta đâu có nghi ngờ, có đố kị Thái-sư? Về ngoại thích, ta không dùng một ai cả. Ta xuất thân nghèo khó, làm nô bộc cho Lưu Đình-Mỹ. Cho nên khi đắc thế, ta phong cho chủ cũ một chút chức quan nhỏ để đền đáp công ơn. Hỏi trong lịch đại Trung-thổ có một nữ lưu nào vượt hơn ta chăng?

    Bà quay lại nhìn Yến Thù, Vương Khâm-Nhược:

    - Hại vị đại học sĩ! Người làm việc gần ta nhất người biết đó. Ta trọng người, trọng Phạm Trọng-Yêm. Nhất là ta bỏ ra ngoài vấn đề Yến đại học sĩ là người Việt... Chỉ vì trọng văn tài ba vị. Ai cũng nói từ đời Đường đến nay, hơn ba trăm năm, chưa bao giờ học phong thịnh như vậy. Nhưng đâu có ai biết rằng chính ta trợ giúp, khuyến khích, ban nhiều quyền cho các vị, các vị mới thành công.

    Bà nhìn Trương Sĩ-Tổn:

    - Trong mười năm ngắn ngủi, ta làm cho quốc sản tăng gấp bội, mà không tăng thuế. Khắp bốn phương không có nạn binh đao, Man-di, Nhung-địch quy phục. Trong triều không gian thần. Ai cũng phải công nhận đó là mười năm thịnh trị hiếm có trong lịch đại Thiên-hạ. Bước cuối cùng ta định đánh chiếm Đại-Việt, Chiêm-thành, Lão-qua, Xiêm-la, Đại-lý, rồi tiến lên chiếm Khất-đan, Tây-hạ, thống nhất thiên hạ nữa là đúng ước vọng của đức Thái-Tổ, Thái-Tông. Sau đó hợp với Tây-phương giáo chủ, dùng Hồng-thiết kinh ban bố hạnh phúc cho dân.

    Nghe bà nói, quần thần đều kinh hãi về hùng tâm của bà. Nhưng có điều bà sau khi thống nhất, bà muốn bỏ Nho-học, cai trị thiên hạ bằng Hồng-thiết kinh, thì không ai chấp nhận cả.

    Bà đi quanh điện, khi đến bên nhà vua, bà nhìn nhà vua:

    - Này hoàng nhi. Việc hoàng nhi với Huệ-Nhu là con ta, hay con Lý phi chưa cần bàn đến. Hãy chỉ nên biết rằng hoàng nhi là giọt máu của Tiên-đế. Tiên đế có sáu hoàng tử. Ta là Hoàng-hậu. Hoàng nhi do ta sinh ra, mới được lên ngôi. Chứ nếu hoàng nhi do cung nữ Lý tu-nghi sinh ra, e bắc thang lên trời thì dễ, chứ việc nối ngôi vạn vạn lần không được. Có đúng thế không?

    Nhà vua cúi đầu:

    - Quả như mẫu hậu phán.

    - Ta là Hoàng hậu, thì bất cứ người con nào của Tiên-đế sinh ra, ta vẫn có toàn quyền đem về nuôi, dạy kia mà? Giả như hoàng nhi do Lý phi sinh ra, mà ta cướp đem về nuôi là sự thực đi. Chỉ nguyên dưỡng dục cù lao chín chữ, cũng nặng hơn công sinh thành nhiều. Đấy là nói về lẽ chính đạo. Còn nói về tình riêng, công ta nuôi nấng dạy dỗ, phù trì hai mươi năm qua, ta có đáng làm mẹ hoàng nhi không?

    Thình lình bà lạng người chụp nhà vua, rồi nhảy vèo đứng giữa Lê Lục-Vũ, Tôn Đức-Khắc và Nguyền Thúy-Minh. Mọi người kêu thét lên, nhưng không kịp nữa.

    Lý hậu, Lê Văn, Tôn Đản, Tự Mai cùng chụp Lưu hậu, thì bị Lê, Tôn, Nguyễn vung chưởng đẩy lui.

    Định-vương phất tay, Nam, Bắc-Sơn đạo sư, Minh-Thiên đại sư rồi Trần Trung-Đạo, Trần Bảo-Dân vây bọn Lê Lục-Vũ vào giữa.

    Lưu hậu cười nhạt. Bà để tay lên đầu nhà vua:

    - Tất cả đứng im, bằng không ta nhả chưởng lực liền.

    --------------------------------
    1 Hai câu này nghĩa là: Người đẹp đáng làm cung điện bằng vàng cho ở. Hoa hậu đẹp như vậy, khó tìm ở nhân gian.
    2 Tả-truyện chép: Mạnh Thường-Quân nuôi trong nhà ba nghìn tân khách. Tùy tài năng đức độ, tân khách được phân loại. Loại được ăn thịt, loại được ăn cá, loại chỉ được ăn rau. Một tân khách thuộc loại ăn rau, gõ vào bao kiếm ca:
    Trường giáp qui lai hề,
    Thực vô ngư.
    (Gươm dài ơi,
    Về đi thôi,
    Ăn không cá.)
    Mạnh-Thường-Quân thay đổi bậc, cho ông ta ăn cá. Ông ta gõ gươm ca:
    Trường giáp qui lai hề,
    Thực vô nhục.
    (Gươm dài ơi!
    Về đi thôi,
    Ăn không thịt.)
    Mạnh Thường-Quân lại đổi cho ông ta ăn thịt. Ít lâu sau ông ta lại gõ kiếm ca:
    Trường giáp qui lại hề,
    Xuất vô xa.
    (Gươm dài ơi!
    Về đi thôi,
    Đi không xe.)
    Mạnh Thường-Quân nói với ông:
    - Ông thực không biết điều. Ta đã thay đổi bậc cho ông hai lần rồi, mà ông chưa thỏa mãn ư?
    Tân khách đó sự thực không tham ăn, y hát như vậy chỉ muốn được tiếp kiến riêng với Mạnh Thường-Quân. Bây giờ được đối diện rồi, ông bầy cho Mạnh Thường-Quân một kế an ninh lâu dài.
    Lê Văn buột miệng hát nghêu, đổi đi một chút trêu Lưu hậu:
    Gươm dài ơi!
    Về đi thôi,
    Quyền đã mất.
    Gươm dài ơi!
    Về đi thôi,
    Thời đã tuyệt.

Trang 2 / 6 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •