Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “* Muốn hiểu thế nào là Tình Yêu và Hạnh Phúc, phải biết sống cho kẻ khác, nghĩa là phải biết yêu
Godwin
Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234
Results 31 to 40 of 40

Chủ Đề: Ỷ Thiên Đồ Long Ký

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ỷ Thiên Đồ Long Ký

    Tác giả :Kim Dung





    THIÊN NHAI TƯ QUÂN BẤT KHẢ VONG

    Chữ tình buộc lấy chữ sầu, Chân trời góc biển tìm đâu bây giờ Xuân du hạo đãng, thị niên niên hàn thực, lê hoa thời tiết.
    Bạch cẩm vô văn hương lạn mạn, ngọc thụ quỳnh bao đôi tuyết.
    Tĩnh dạ trầm trầm, phù quang ái ái, lãnh mạn dung dung nguyệt.
    Nhân gian thiên thượng, lạn ngân hà chiếu thông triệt.
    Hồn tự cô xạ chân nhân, thiên tư linh tú, ý khí thù cao khiết.
    Vạn nhị sâm sai thùy tín đạo, bất dữ quần phương đồng liệt.
    Hạo khí thanh anh, tiên tài trác lạc, hạ thổ nan phân biệt.
    Dao đài qui khứ, động thiên phương khán thanh tuyệt.
    Tiết trời lạnh hoa lê đang rộ, Khách nhàn du lãng đãng chơi xuân.
    Hương thơm bay tỏa không gian, Cành cây trắng xóa lộc non nở đầy.
    Ánh trăng lạnh canh khuya thanh tĩnh, Chiếu trên cao thấp thoáng sông ngân.
    Tâm tình một vẻ miên man, Trời cho tính khí cao sang vẻ người.
    Chen lẫn vẻ muôn hoa rực rỡ, Vẻ thanh cao vẫn tự vươn cao.
    Thanh anh trác lạc hơn người, Dẫu trong ngọc đá có chiều nọ kia.
    Dao đài ai kẻ đi về, Hương trời đôi lứa đã kề bên nhau.
    Bài từ “Vô Tục Niệm” này vốn là của một vị võ học danh gia, cũng là một đạo sĩ ở vào cuối đời Nam Tống họ Khưu tên Xứ Cơ, đạo hiệu Trường Xuân Tử. Ông là một trong Toàn Chân thất tử và là nhân vật xuất sắc của phái Toàn Chân. Trong “Từ Phẩm” đã bình về bài từ này như sau:
    “Trường Xuân, người đời vẫn coi là một vị tiên, nên lời từ mới hay và xuất sắc đến thế” Bài từ tuy nói về hoa lê, nhưng thật ra chính là để ca tụng một thiếu nữ xinh đẹp mặc áo trắng, coi nàng "thực không phải người phàm, thiên tư linh tú, khí độ cao khiết", lại nói nàng "hạo khí thanh anh, tiên tài trác lạc", "bất dĩ quần phương đồng liệt" (không giống như những người khác). Người con gái đẹp mô tả trong bài từ này, chính là truyền nhân của phái Cổ Mộ, Tiểu Long Nữ. Nàng vốn ưa mặc đồ trắng, chẳng khác gì gió thổi qua cây ngọc, đóa quỳnh nở trong tuyết, chỉ hiềm tính khí lạnh lùng, nên mới tả hình dung là “lãnh mạn dung dung nguyệt”. Khưu Xứ Cơ tặng nàng ba chữ “Vô Tục Niệm” thật mười phần xác đáng.
    Trường Xuân Tử Khưu Xứ Cơ ở ngay bên cạnh nàng tại Chung Nam Sơn, một lần gặp mặt nên viết ra bài từ này. Lúc bấy giờ Khưu Xứ Cơ tạ thế đã lâu, Tiểu Long Nữ cũng đã làm vợ Thần Điêu đại hiệp Dương Quá.
    Trên sơn đạo núi Thiếu Thất, tỉnh Hà Nam, có một thiếu nữ, đang cúi đầu lẩm nhẩm bài từ này. Cô gái ước chừng mười tám, mười chín tuổi, mặc áo màu vàng nhạt, cưỡi một con lừa đen, đi chầm chậm lên núi, vừa đi vừa nghĩ thầm: “Chỉ có người như Long tỉ tỉ mới xứng đáng lấy được chàng mà thôi”.
    Chữ “chàng” hiển nhiên là nói đến Thần Điêu đại hiệp Dương Quá. Cô gái lỏng dây cương, cứ để cho con lừa tự ý, thẳng đường lên núi. Một lúc lâu sau, cô lại lẩm bẩm: “hoan lạc thú, ly biệt khổ, tựu trung cánh hữu si nhi nữ. Quân ứng hữu ngữ, diểu vạn lý tằng vân, thiên sơn mộ tuyết, chích ảnh hướng thùy khứ?” Gặp nhau lòng những vui vầy, Xa nhau dạ những luống đầy khổ đau.
    Cõi tình mê đắm ai đâu?
    Chim kia thiếu bạn tiếng sầu lẻ loi.
    Từng mây muôn dặm xa xôi, Núi cao tuyết trắng nơi nơi cũng là.
    Một mình cô tịch gần xa, Trăm năm bến cũ biết là về đâu?
    Cô gái lưng đeo đoản kiếm, sắc mặt có nhuốm đôi chút phong trần, hiển nhiên đã viễn du lâu ngày. Gương mặt xinh tươi, đang ở vào tuổi vô tư lự, nhưng sao dung nhan như có gì muộn phiền, đầu mày cuối mắt không thể che dấu được.
    Nàng họ Quách, tên chỉ có một chữ Tương, chính là con thứ của đại hiệp Quách Tĩnh và nữ hiệp Hoàng Dung, còn có ngoại hiệu là Tiểu Đông Tà. Nàng một lừa, một kiếm, lang thang một mình, những tưởng phiền muộn trong lòng vơi đi, ai ngờ sầu lại thêm sầu, nơi danh sơn lẻ bóng lại càng hiu quạnh.
    Núi Thiếu Thất thuộc tỉnh Hà Nam cũng khá cao, đường lên núi là những bậc thang bằng đá rộng rãi, qui mô lớn lao, công trình không phải nhỏ, là do vua Đường Thái Tông đến thăm chùa Thiếu Lâm mà bỏ ra tạo dựng, dài cả thảy tám dặm. Quách Tương cưỡi lừa uể oải trèo lên, thấy trước mặt từ ngọn trên núi ào ào đổ xuống năm dòng thác tung tóe như ngọc, lại nhìn những ngọn núi khác chỉ nhỏ như đàn kiến. Theo đường sơn đạo chuyển vào một khúc quanh, thì thấy một tòa tự viện tường vàng ngói xanh.
    Nàng đứng ngắm dãy chùa một hồi, nghĩ thầm: “Thiếu Lâm tự vốn là nguồn gốc võ học của thiên hạ, nhưng sao hai kỳ luận kiếm Hoa Sơn, trong số ngũ tuyệt không thấy cao tăng nào của chùa Thiếu Lâm cả? Không lẽ hòa thượng trong chùa không tài cán gì, sợ mất uy danh, nên không dám phó hội? Hay là tăng lữ tu hành tinh thâm, không còn tham luyến hư danh, võ công tuy cao, nhưng không muốn tranh cường đổ thắng với người ngoài?”.
    Nàng xuống lừa, lững thững đến trước cửa chùa, chỉ thấy cây cối rậm rạp, bóng râm che phủ một khu rừng bia. Bia đá quá nửa đã bị hủy phá, nét chữ mơ hồ, không biết viết những gì. Nàng nghĩ thầm: “Chữ khắc sâu trên đá, theo năm tháng cũng mòn, thế nhưng sao những gì khắc trong tim ta, thời gian càng lâu càng sâu đậm?”.
    Chợt thấy một tấm bia lớn khắc việc Đường Thái Tông ban cho chùa Thiếu Lâm ngự trát, khen tăng nhân về việc lập công trừ loạn. Trong bia nói là khi Đường Thái Tông còn là Tần Vương, đem binh đánh Vương Thế Sung, hòa thượng chùa Thiếu Lâm đầu quân, xuất sắc nhất có cả thảy mười ba người. Trong số đó chỉ có Đàm Tông nhận phong làm Đại Tướng Quân, còn mười hai người còn lại không muốn làm quan, Đường Thái Tông ban cho mỗi người một áo cà sa bằng lụa tía. Nàng tưởng tượng ngay từ thời Tùy Đường mà võ công chùa Thiếu Lâm đã danh vang thiên hạ, mấy trăm năm nay lại càng thêm tinh xảo, không biết trong chùa có bao nhiêu ngọa hổ tàng long.
    Quách Tương từ khi chia tay với vợ chồng Dương Quá, Tiểu Long Nữ ở trên đỉnh Hoa Sơn tới giờ đã ba năm không nghe chút tin tức gì của hai người. Trong lòng mong nhớ, nàng thưa với cha mẹ, nói là muốn đi ngao du sơn thủy, nhưng thực ra là để nghe ngóng tin tức của Dương Quá. Nàng thực tâm cũng chẳng cần phải gặp mặt cặp vợ chồng này, chỉ cần nghe tin họ hành hiệp ra sao cũng đã thỏa mãn. Thế nhưng từ khi từ biệt, hai người không lộ diện giang hồ, chẳng biết ẩn cư nơi nào. Thành thử Quách Tương đi từ bắc xuống nam, lại từ đông sang tây, tưởng chừng đã đặt chân quá nửa đất trung nguyên, thủy chung vẫn không nghe thấy ai nói đến Thần Điêu đại hiệp Dương Quá cả.
    Một hôm nàng đến đất Hà Nam, chợt nhớ ra chùa Thiếu Lâm có một nhà sư tên Vô Sắc là bạn thân của Dương Quá, hồi mình sinh nhật mười sáu tuổi, nể mặt họ Dương nên ông đã sai người đem tặng một món quà. Tuy chưa bao giờ gặp mặt nhà sư này nhưng cũng nên lên hỏi thử một câu, biết đâu ông ta lại rõ tung tích của hai người. Vì thế Quách Tương mới lên chùa Thiếu Lâm.
    Đang lúc xuất thần, bỗng nghe thấy từ chòm cây bên cạnh rừng bia truyền ra tiếng leng keng, loảng xoảng và tiếng người niệm kinh Phật:
    Thị thời Dược Xoa cộng vương lập yếu, tức ư vô lượng bách thiên vạn ức đại chúng chi trung, thuyết thắng diệu già tha viết: do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược li ư ái giả, vô ưu diệc vô bố...[1] (Khi đó Thế Tôn đứng giữa thiên vạn ức người mà giảng rằng: Vì yêu mà sinh ra buồn phiền, vì yêu mà sinh ra sợ hãi, nếu như dứt được yêu, chẳng buồn cũng chẳng sợ...) Quách Tương nghe bốn chữ kệ đó, bỗng thấy ngơ ngẩn, trong lòng cũng nhẩm theo: "do ái cố sinh ưu, do ái cố sinh bố; nhược li ư ái giả, vô ưu diệc vô bố". Chỉ nghe thấy tiếng loảng xoảng cùng tiếng tụng kinh xa dần.
    Quách Tương cúi đầu: “Để ta hỏi ông ta làm cách nào có thể thoát khỏi tình yêu, làm cách nào để không buồn không sợ?”.
    Thuận tay nàng buộc lừa vào một gốc cây, vạch lùm cây đuổi theo. Chỉ thấy đằng sau tàn cây là một đường mòn lên núi, có một tăng nhân gánh một đôi thùng lớn, đang đi chầm chậm. Quách Tương rảo bước chạy theo, đến cách nhà sư chừng bảy, tám trượng, bỗng giật mình. Chỉ thấy người đó gánh một đôi thùng sắt lớn, so với thùng gánh nước thường phải hơn gấp đôi, vậy mà trên cổ, cánh tay, cẳng chân còn quấn quít đầy xích lớn, mỗi khi đi đứng tiếng kêu loảng xoảng. Hai chiếc thùng không cũng đã đến hơn hai trăm cân, trong lại đầy nước, phải nặng đến kinh người. Quách Tương kêu lên:
    - Đại hòa thượng, xin dừng chân, tiểu nữ có điều muốn thỉnh giáo.
    Nhà sư đó quay đầu lại, hai người nhìn nhau, đều tỏ vẻ ngạc nhiên. Hóa ra vị hòa thượng đó là Giác Viễn, ba năm trước, hai người đã gặp nhau tại đỉnh Hoa Sơn. Quách Tương biết ông ta tuy tính hơi cổ hủ nhưng nội công tinh thâm, không kém bất cứ cao thủ nào hiện thời, nên nói:
    - Tưởng ai hóa ra là Giác Viễn đại sư. Tại sao ông lại ra nông nỗi này?
    Giác Viễn khẽ gật đầu, mỉm cười, chắp tay hành lễ, nhưng không trả lời, quay mình bước đi. Quách Tương vội gọi:
    - Giác Viễn đại sư, ông không nhận ra tôi sao? Tôi là Quách Tương đây mà!
    Giác Viễn quay lại mỉm cười, khẽ gật đầu nhưng không ngừng bước. Quách Tương lại hỏi:
    - Ai lấy xích buộc ông vậy? Sao lại hành hạ ông như thế?
    Giác Viễn đưa tay trái ra sau đầu xua xua mấy cái, như ám chỉ cô ta đừng hỏi nhiều.
    Quách Tương thấy chuyện kỳ quái, lẽ nào không tìm cho ra đầu đuôi? Lập tức cất bước đuổi theo, tính sẽ chặn trước mặt nhà sư. Nào ngờ Giác Viễn tuy toàn thân đầy xích, lại gánh đôi thùng sắt, vậy mà dẫu Quách Tương hết sức chạy, thủy chung vẫn không vượt qua được ông ta. Tính trẻ con của cô gái nổi lên, thi triển khinh công gia truyền, hai chân nhún một cái, người bay vọt lên, vươn tay chụp vào thùng nước. Mắt trông tưởng ra tay ắt sẽ trúng, nào ngờ vẫn còn cách đến hai tấc. Quách Tương kêu lên:
    - Đại hòa thượng giỏi thật, nhất định tôi phải đuổi kịp ông mới thôi.
    Chỉ thấy Giác Viễn rảo bước đi, tiếng xích sắt leng keng như tiếng nhạc, mỗi lúc một xa về phía sau núi.
    Quách Tương đuổi theo một lúc hơi thở đã dồn dập, thế nhưng vẫn cách ông ta đến hơn một trượng, trong lòng không khỏi bội phục: “Cha mẹ ta lúc ở trên núi Hoa Sơn, đã từng nói là vị hòa thượng này võ công cực cao, lúc đó ta không tin, đến nay thử một chuyến, thấy lời hai ông bà quả thật không sai”.
    Chỉ thấy Giác Viễn quẹo vào đằng sau một ngôi nhà nhỏ, đổ hai thùng nước vào trong một miệng giếng. Quách Tương hết sức kỳ quái, kêu lên:
    - Đại hòa thượng, ông không điên đấy chứ? Đổ nước vào trong giếng để làm gì thế?
    Giác Viễn thần sắc bình hòa, lắc đầu. Quách Tương chợt hiểu ra, cười:
    - À, hóa ra ông đang luyện một môn nội công rất cao thâm.
    Giác Viễn lại lắc đầu lần nữa. Quách Tương hơi bực mình, nói:
    - Rõ ràng tôi nghe ông tụng kinh, tức không bị câm, sao bây giờ không trả lời tôi?
    Giác Viễn chắp tay chào, vẻ mặt hơi sượng sùng, không đáp lời, quảy đôi thùng đi xuống chân núi. Quách Tương thò đầu nhìn vào trong giếng, chỉ thấy nước trong vắt, không thấy điểm gì đặc biệt, ngẩn ngơ nhìn theo lưng Giác Viễn, lòng đầy nghi hoặc.
    Cô ta đuổi theo một hồi thấy đã hơi mệt nên ngồi xuống thành giếng, quan sát phong cảnh bốn bề. Nơi đó cao hơn những tòa nhà trong chùa Thiếu Lâm, nhưng thấy núi Thiếu Thất vươn thẳng lên trời, trải ra như một bức bình phong, bên dưới khói tỏa lung linh, tiếng chuông theo gió vang lại, khiến bao nhiêu nỗi phiền tục bay đi cả. Quách Tương thầm nghĩ: “Người đệ tử của ông hòa thượng này đi đâu, nếu ông ta không nói, ta đi hỏi thiếu niên này vậy”.
    Nghĩ vậy cất bước hạ sơn, định đi kiếm đệ tử của Giác Viễn là Trương Quân Bảo hỏi cho ra lẽ. Đi được một quãng, lại nghe tiếng xích leng keng, Giác Viễn lại gánh nước đi tới. Quách Tương lẻn ra sau một gốc cây, nghĩ thầm:” Để ta rình xem ông ta định làm trò quỉ quái gì”.
    Tiếng xích sắt tới gần, chỉ thấy Giác Viễn gánh đôi thùng sắt, tay cầm một quyển sách, chú tâm vào đọc. Quách Tương đợi ông ta đến gần bên, hết sức nhảy vọt ra, kêu lên:
    - Đại hòa thượng, ông đọc sách gì thế?
    Giác Viễn thất thanh kêu lên:
    - Ôi chà, làm tôi hết hồn, hóa ra là cô.
    Quách Tương cười:
    - Tưởng ông giả câm, sao bây giờ lại nói được?
    Giác Viễn hơi có vẻ sợ hãi, nhìn quanh một lượt, xua tay. Quách Tương hỏi:
    - Ông sợ cái gì?
    Giác Viễn chưa kịp trả lời, đột nhiên từ trong rừng cây có hai nhà sư mặc áo màu xám tro bước ra, một cao một lùn. Nhà sư cao gầy quát:
    - Giác Viễn không giữ giới pháp, dám tự tiện mở mồm nói chuyện với người ngoài chùa, nhất là lại nói chuyện với một thiếu nữ trẻ tuổi? Mau đi gặp thủ tọa giới luật đường.
    Giác Viễn lủi thủi, chỉ gật đầu, đi theo hai tăng nhân nọ.
    Quách Tương vừa tức, vừa giận, lớn tiếng hỏi:
    - Trên đời này sao lại có lề luật đâu cấm người ta nói chuyện bao giờ? Tôi quen biết vị đại sư này, tôi nói chuyện với ông ta, việc gì đến các ông?
    Nhà sư cao gầy trừng mắt nhìn, nói:
    - Từ một nghìn năm nay, chùa Thiếu Lâm không cho phép nữ lưu bước chân vào. Mời cô nương xuống núi, đừng để chúng tôi phải làm phiền.
    Quách Tương nổi giận:
    - Nữ lưu thì đã sao? Đàn bà con gái không phải người à? Các ngươi tại sao làm khó dễ vị Giác Viễn đại sư này? Đã lấy xiềng xích trói người ta, lại còn không cho người ta nói chuyện?
    Nhà sư đó cười nhạt:
    - Việc của bản tự, đến hoàng đế cũng chẳng can thiệp được. Không dám để cô nương phải nhọc lòng hỏi đến.
    Quách Tương càng giận hơn:
    - Vị đại sư này là người thực thà trung hậu, thấy người ta hiền lành, các ngươi hiếp đáp. Hừ hừ, Thiên Minh thiền sư đâu? Vô Sắc, Vô Tướng hòa thượng đâu? Các ngươi đi gọi họ ra đây để ta hỏi họ xem thế là thế nào?
    Hai nhà sư nọ nghe thấy thế đều giật mình. Thiên Minh thiền sư là phương trượng của chùa, Vô Sắc thiền sư là thủ tọa La Hán đường, còn Vô Tướng thiền sư là thủ tọa Đạt Ma đường. Ba người địa vị tôn quí nên tăng lữ trong chùa trước nay chỉ gọi là lão phương trượng, thủ tọa La Hán đường và thủ tọa Đạt Ma đường, chứ không dám gọi bằng pháp danh. Ngờ đâu một cô gái trẻ tuổi lại dám lên núi hô hoán thẳng tên như thế.
    Hai tăng nhân này đều là đệ tử của thủ tọa giới luật đường, được lệnh tọa sư sai đi giám thị Giác Viễn. Nghe thấy Quách Tương ăn nói không kiêng nể gì ai, nhà sư cao gầy quát:
    - Nữ thí chủ nếu còn làm rộn chốn Phật môn thanh tịnh thì đừng trách tiểu tăng vô lễ.
    Quách Tương nói:
    - Bộ tưởng ta sợ sư sãi các ngươi hay sao? Mau mau tháo dây xích xiềng trói Giác Viễn đại sư ra thì ta để yên, nếu không ta sẽ lôi Thiên Minh lão hòa thượng ra hỏi đấy.
    Nhà sư lùn nghe thấy Quách Tương ăn nói lếu láo, bên hông lại đeo đoản kiếm, nên gằn giọng:
    - Cô tháo binh khí để lại, chúng tôi không cãi lý với cô, mau xuống núi đi.
    Quách Tương tháo đoản kiếm ra, hai tây nâng lên cười nhạt:
    - Hay lắm, xin tuân lệnh tôn đài.
    Gã sư lùn từ nhỏ xuất gia, trước nay nghe sư bá, sư thúc, sư huynh đều nói là Thiếu Lâm tự là nguồn gốc chung của võ học, lại nghe là dù thanh vọng lớn đến thế nào chăng nữa, võ lâm cao thủ tài ba đến mấy chăng nữa, cũng không ai dám đeo binh khí tiến vào trong chùa Thiếu Lâm. Cô gái trẻ tuổi này tuy chưa bước chân vào cổng chùa, nhưng cũng đã thuộc phạm vi của Thiếu Lâm, hẳn là cô ta cũng sợ nên líu ríu giao đoản kiếm. Nghĩ thế nên y đưa tay nhận kiếm. Tay gã vừa chạm vào bao kiếm bỗng thấy cánh tay chấn động như bị điện giật. Một luồng sức mạnh từ đoản kiếm truyền lên, hất về phía sau, chân đứng không vững khiến gã ngã bổ chửng. Gã đang đứng tại triền núi dốc, bị ngã liền lộc cộc lăn xuống mấy trượng, may cố gượng mới dừng lại được.
    Nhà sư cao gầy vừa tức vừa sợ, quát:
    - Ngươi ăn tim sư tử, uống mật báo hay sao mà dám tới Thiếu Lâm tự gây rối hả?
    Y xoay người lại, tiến lên một bước, tay phải tung ra một chưởng, tay trái cũng đi theo đè lên tay phải, hai tay cùng đánh ra, chính là thế thứ hai mươi tám trong “Sấn Thiếu Lâm” Phiên Thân Phách Kích.
    Quách Tương tay cầm cán kiếm, dùng cả kiếm lẫn bao nhằm vai gã điểm tới. Nhà sư hạ vai xuống phản kích, vươn tay chộp lấy bao kiếm. Giác Viễn đứng bên thấy thế hoảng hốt kêu lên:
    - Xin đừng động thủ, đừng động thủ! Hãy từ từ nói chuyện phải quấy.
    Lúc đó tăng nhân đã nắm được bao, đang định vận kình đoạt kiếm, chỉ thấy lòng bàn tay bị chấn động, hai cổ tay hơi tê đi, kêu lên một tiếng: “Hỏng rồi”, Quách Tương chân trái đã quét ngang, đá y văng xuống sườn núi.
    Y bị đòn so với gã sư lùn nặng hơn nhiều, lăn xuống, trên đầu, trên mặt bị va vào đá máu chảy lênh láng, mãi mới ngừng lại được. Quách Tương nghĩ thầm: “Ta lên chùa Thiếu Lâm vốn chỉ muốn dò hỏi tin tức đại ca, vô cớ cùng bọn họ động thủ, xem ra không ổn rồi”.
    Liếc mắt thấy Giác Viễn mặt mày buồn thiu đứng tại bên cạnh, nên rút đoản kiếm ra, chặt những xích buộc ở tay ông ta. Tuy đoản kiếm đó không phải là vật hi hữu, quí báu, nhưng cũng là một loại binh khí rất sắc bén, chỉ nghe loảng xoảng mấy tiếng, dây xích đã đứt thành ba khúc. Giác Viễn luôn mồm kêu:
    - Không được đâu! Không được đâu!
    Quách Tương hỏi lại:
    - Cái gì mà không được?
    Rồi chỉ tay về phía hai tăng nhân cao lùn đang chạy vào chùa mà nói:
    - Hai tên ác hòa thượng đó hẳn là vào chùa phi báo, mình phải chạy ngay. Đồ đệ họ Trương của ông đâu? Dắt cậu ta theo với.
    Giác Viễn chỉ xua tay. Bỗng phía sau có tiếng người nói:
    - Đa tạ cô nương quan tâm, tôi đang ở đây.
    Quách Tương quay lại, thấy đằng sau lưng một thiếu niên chừng mười sáu, mười bảy tuổi, mày rậm mắt to, thân thể cao lớn, nhưng mặt vẫn còn trẻ con, chính là Trương Quân Bảo, người ba năm trước đã gặp trên núi Hoa Sơn. So với bây giờ, cậu ta đã cao lớn hơn nhiều, nhưng dung mạo không thay đổi mấy. Quách Tương mừng quá, vội nói:
    - Bọn ác hòa thượng ở đây chèn ép sư phụ ngươi, mình nên chạy ngay đi.
    Trương Quân Bảo lắc đầu:
    - Không ai chèn ép sư phụ tôi đâu.
    Quách Tương chỉ Giác Viễn:
    - Hai gã ác hòa thượng đó lấy xích buộc sư phụ ngươi, lại một câu cũng không cho nói, chẳng chèn ép thì là gì?
    Giác Viễn nhăn nhó lắc đầu, chỉ xuống chân núi, ý muốn Quách Tương mau mau thoát thân, đừng để bị rắc rối. Quách Tương biết rằng trong chùa Thiếu Lâm số người võ công cao hơn nàng không biết bao nhiêu, nhưng thấy việc bất bình trước mắt, không thể xuôi tay bỏ qua; lại ngại cao thủ trong chùa chạy ra ngăn trở, nên một tay nắm Giác Viễn, một tay nắm Trương Quân Bảo, dậm chân nói:
    - Chạy mau, chạy mau, có chuyện gì xuống núi đã rồi hãy nói cũng được.
    Hai người chỉ đứng yên không trả lời. Bỗng thấy cửa chùa ở triền núi bên dưới chạy ra bảy tám tăng nhân, tay cầm tề mi đại côn, kêu lên:
    - Con nhỏ mất dạy nào dám đến chùa Thiếu Lâm mà phá phách?
    Trương Quân Bảo đưa tay làm loa kêu lớn:
    - Các vị sư huynh không được vô lễ, đây là...
    Quách Tương hoảng hốt:
    - Đừng nói tên tôi ra.
    Nàng nghĩ chuyện ngày hôm nay xem chừng không nhỏ, thể nào rồi cũng đồn ra đến tai cha mẹ, nên thêm một câu:
    - Bọn mình nên theo đường núi chạy ngay, tuyệt đối đừng đề cập đến tên cha mẹ, bạn bè tôi.
    Chỉ nghe thấy sườn núi phía sau cũng có tiếng người la ó, lại thêm bảy tám nhà sư nữa chạy ra. Quách Tương thấy trước sau đều có sư bao vây, nhíu mày, trách:
    - Các ngươi cứ lừng chà lừng chừng, không có chút khí phách gì của nam nhi, chạy hay không nào?
    Trương Quân Bảo nói:
    - Sư phụ, cô nương đây có lòng tốt...
    Ngay lúc đó, cửa chùa bên dưới lại ra thêm bốn nhà sư áo vàng, phấp phới chạy thẳng lên, tay không cầm binh khí nhưng thân pháp nhanh nhẹn, gió thổi vào áo phần phật, xem ra võ công không phải tầm thường. Quách Tương thấy tình thế như vậy, xem chừng chạy thoát thân một mình cũng không xong, nên ngưng khí đứng yên, chờ xem chuyện gì xảy ra. Nhà sư chạy đầu đến cách cô ta chừng bốn trượng, lớn tiếng nói:
    - Thủ tọa La Hán đường sư tôn truyền rằng, người đến chùa mau bỏ binh khí, xuống lều tranh dưới núi nói rõ sự tình, để nghe pháp dụ.
    Quách Tương cười nhạt:
    - Gớm, các đại hòa thượng chùa Thiếu Lâm quan cách quá, nghe thật lọt tai. Xin hỏi các đại hòa thượng là quan của hoàng đế Đại Tống, hay là quan của hoàng đế Mông Cổ đấy?
    Khi đó đất đai phía bắc sông Hoài không còn thuộc về nhà Đại Tống nữa, khu vực chùa Thiếu Lâm cũng đã thuộc về Mông Cổ từ lâu. Thế nhưng quân Mông nhiều năm qua còn bận công thành Tương Dương chưa được, phải lo điều binh khiển tướng không hơi sức đâu mà lo chuyện chùa chiền, nên chùa Thiếu Lâm mọi sự vẫn y như ngày trước.
    Gã tăng nhân nghe Quách Tương mỉa mai thật là chua cay, nên không khỏi đỏ mặt, cảm thấy đối với người ngoài mà truyền dụ như vậy quả không ổn, nên chắp tay nói:
    - Không biết nữ thí chủ có chuyện gì mà quang lâm tệ tự, xin để binh nhận, mời xuống vi đình dưới chân núi uống trà nói chuyện.
    Quách Tương thấy y đổi giọng hòa nhã, nên cũng muốn làm hòa, nên nói:
    - Các ông không cho tôi vào chùa thì thôi. Hừ, hay là trong chùa có báu vật, tôi trông thấy sẽ được thơm lây chăng?
    Nói rồi liếc nhìn Trương Quân Bảo, nói nhỏ:
    - Có chạy hay không thì bảo?
    Trương Quân Bảo lắc đầu, nhếch mép về phía Giác Viễn, ý nói muốn ở lại hầu hạ sư phụ. Quách Tương lớn tiếng nói:
    - Thế thì thôi ta không lo cho nữa, ta đi đây.
    Nói rồi rảo bước chạy xuống núi.
    Nhà sư áo vàng đi đầu né sang nhường lối. Người thứ hai và người thứ ba giơ tay ngăn lại, cùng nói:
    - Hãy khoan, để binh khí lại.
    Quách Tương nhướng mày, tay để lên cán kiếm. Nhà sư thứ nhất nói:
    - Chúng tôi không dám giữ binh nhận của nữ thí chủ đâu. Khi xuống đến chân núi, chúng tôi lập tức đem bảo kiếm giao lại. Đây là qui củ của chùa Thiếu Lâm hàng nghìn năm nay, xin lượng thứ cho.
    Quách Tương nghe y ăn nói lễ độ, trong lòng thầm tính: “Nếu như mình không để kiếm lại, thế tất phải đánh nhau, ta chỉ có một mình, đâu phải là địch thủ của tăng chúng chùa Thiếu Lâm. Thế nhưng nếu để kiếm lại, chẳng há đem thể diện ông ngoại, cha mẹ, đại ca ca, Long tỉ tỉ bỏ đi sao?”.
    Nàng còn đang trù trừ chưa quyết, chỉ thấy trước mắt một bóng vàng thấp thoáng, một người thét:
    - Đã đeo kiếm đến chùa Thiếu Lâm, lại đả thương người, trên đời này đâu có lý nào như thế.
    Kình phong xô tới, năm ngón tay đã chộp lấy bao kiếm. Giá như tăng nhân đó để yên không ra tay, Quách Tương thấy trước mắt tình thế bất lợi, ắt sẽ tạm nhịn cái khí nhất thời, sau sẽ cùng với ông ngoại, cha mẹ bàn luận rồi quay lại tính chuyện. Thế nhưng đối phương đột nhiên ỷ mạnh, chẳng lẽ để y khơi khơi đoạt kiếm sao?
    Cầm nã thủ pháp của nhà sư đó quả thực xảo diệu, vừa nắm được bao kiếm, nghĩ là thể nào Quách Tương cũng giựt lại, một hòa thượng cùng một cô gái co co kéo kéo, trông rất bất nhã, nên y vận kình đẩy sang bên trái, thuận thế lại kéo về bên phải. Quách Tương bị y vừa nắm vừa đẩy như thế quả nhiên không cưỡng lại được phải lỏng tay ra, vội chụp lấy cán kiếm, chỉ soẹt một tiếng, hàn quang lấp lánh. Tăng nhân nọ tay phải tuy cầm được bao kiếm nhưng hai ngón tay trái đã bị đoản kiếm thuận thế cắt đứt, đau quá phải ném bao kiếm, lui sang một bên.
    Chúng tăng nhân thấy đồng môn bị thương, vừa kinh vừa giận, múa trượng giơ côn cùng xông lại. Quách Tương nghĩ thầm: “Thôi thì đến đâu thì đến, hôm nay chuyện xem không xong rồi”. Nghĩ rồi sử dụng tài nghệ gia truyền “Lạc Anh kiếm pháp”, vừa múa vừa xông xuống chân núi. Các nhà sư xếp thành ba vòng, chia nhau đỡ gạt.
    Lạc Anh kiếm pháp vốn do Hoàng Dược Sư theo Lạc Anh chưởng pháp mà chế ra, tuy không tinh diệu bằng Ngọc Tiêu kiếm pháp, nhưng cũng là một tuyệt kỹ của đảo Đào Hoa. Chỉ thấy ánh xanh lấp loáng, kiếm hoa từng điểm, như phất phới đang rơi khắp bốn bề. Trong chốc lát đã có hai tăng nhân bị thương. Thế nhưng phía sau lại có mấy nhà sư xông lên, thế từ cao đánh xuống. Nếu theo lý thì Quách Tương không thể nào đương cự nổi, nhưng tăng chúng Thiếu Lâm lấy từ bi làm gốc, không muốn hại đến tính mệnh cô ta, chiêu số đánh ra không dùng sát thủ, chỉ cốt đánh ngã, dạy dỗ một phen, giữ binh khí lại, đuổi xuống chân núi. Thế nhưng Quách Tương kiếm quang mù mịt, không dễ gì tới được gần.
    Lúc đầu tăng chúng nghĩ rằng cô gái tuổi còn trẻ, nên coi thường. Đến lúc thấy kiếm pháp tinh kỳ, biết là không thuộc giòng giõi danh môn cũng là đồ đệ danh sư, không nên đắc tội, phải ra chiêu dè dặt, một mặt cấp báo cho thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư.
    Đang lúc đó, một vị sư già thân thể cao gầy chầm chậm đi tới, hai tay luồn trong tay áo, mỉm cười xem hai bên giao đấu. Hai tăng nhân chạy đến trước mặt ông ta, nói khẽ vài câu. Quách Tương lúc này đã thở hồng hộc, kiếm pháp lăng loạn, kêu lớn:
    - Vậy mà dám gọi là nguồn gốc võ công thiên hạ, hóa ra hơn một chục hòa thượng vây đánh một người, lấy đông thắng ít.
    Vị lão tăng đó chính là thủ tọa La Hán đường Vô Sắc thiền sư, nghe vậy, liền nói:
    - Mọi người dừng tay!
    Những nhà sư nghe thế vội ngưng lại nhảy ra ngoài. Vô Sắc thiền sư nói:
    - Cô nương tên họ là gì, lệnh tôn và lệnh sư là ai? Đến chùa Thiếu Lâm chẳng hay có chuyện gì thế?
    Quách Tương nghĩ thầm “Ta không nên nói tên họ cha mẹ cho ông ta biết. Việc ta đến chùa Thiếu Lâm để thăm hỏi tin tức của đại ca cũng không thể nói ra cho mọi người nghe được. Mình đã gây rắc rối thế này, cha mẹ và đại ca biết được thể nào cũng rầy rà, chi bằng mình cứ lặng thinh là hơn. “ Vì thế nàng đáp:
    - Tên họ tôi không thể cho ông biết được, chẳng qua tôi thấy trên núi phong cảnh đẹp đẽ, nên lên ngắm cảnh đấy thôi. Nào ngờ chùa Thiếu Lâm so với nội viện hoàng cung còn khó khăn hơn, chẳng làm gì cũng đòi giữ binh khí người ta lại. Xin hỏi đại sư, tôi đã bước chân vào cổng chùa chưa? Ngày trước Đạt Ma tổ sư truyền võ nghệ, chẳng qua cũng chỉ để cho tăng chúng thân thể khỏe mạnh, khiến việc tu hành cho tinh tiến, nào hay danh tiếng càng to, võ công càng cao, thì cái việc cậy đông cậy mạnh lại càng lớn. Hay lắm, nếu các ông muốn giữ binh khí của tôi, thì tôi để lại, trừ phi giết tôi đi, chứ việc hôm nay đừng tưởng trên giang hồ không ai biết đến.
    Cô ta bản chất nhanh mồm khéo miệng, việc này lại không phải hoàn toàn lỗi ở nàng, chỉ một câu khiến Vô Sắc thiền sư cứng họng không trả lời được. Quách Tương nhìn mặt đặt tên, nghĩ thầm: “Việc quấy phá này chính ta mới là người sợ lộ ra ngoài, nhưng xem ra Thiếu Lâm tự còn ngại hơn. Hơn một chục hòa thượng vây đánh một cô gái trẻ tuổi, nghe có gì là hay ho?”. Nghĩ thế bèn hứ một tiếng, ném đoản kiếm xuống đất, quay mình bước đi.
    Vô Sắc thiền sư lạng người tiến lên, phất tay áo một cái đã cuộn được thanh kiếm, hai tay cầm lấy lưỡi kiếm, nói:
    - Cô nương nếu không nể tình thầy trò chúng tôi, thanh bảo kiếm này xin cầm lại. Lão nạp cung kính tiễn cô xuống núi.
    Quách Tương nghe vậy cười đáp:
    - Xem ra lão hòa thượng thông đạt tình lý, thế mới gọi là phong phạm của bậc danh gia.
    Cô ta thấy mình được thế nên thuận mồm khen Vô Sắc một câu, rồi thò tay nhắc kiếm, bỗng thấy giật mình. Nguyên lai lòng bàn tay đối phương sinh ra một hấp lực, tuy cô ta đã cầm được cán kiếm nhưng không sao nâng lên được. Nàng ra sức vận kình ba lần nhưng vẫn không sao lấy được đoản kiếm, bèn nói:
    - Hay nhỉ, ông định khoe công phu chăng.
    Đột nhiên tay trái vung ra, nhẹ nhàng hướng vào hai huyệt Thiên Đỉnh, Cự Cốt ở bên trái cổ ông ta phất tới. Vô Sắc kinh hãi, né người tránh, khí kình hơi lỏng ra nên Quách Tương thuận thế mà lấy được đoản kiếm.
    Last edited by giavui; 05-24-2020 at 02:34 PM.

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Du Liên Châu ngần ngừ đáp:
    - Nhưng nếu một chiêu không bắt được, người khác ắt xông vào tương trợ. Chỉ một chiêu là xong, e rằng Trương Tùng Khê nói:
    - Đại nạn trước mắt, ra tay độc một chút cũng không sao. Mình sử dụng Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ.
    Du Liên Châu giật mình, nói:
    - Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ? Hôm nay là ngày đại hỉ của sư phụ, dùng môn sát thủ đó, có độc ác quá không?
    Nguyên lai phái Võ Đương có một môn cầm nã thủ cực kỳ lợi hại tên là Hổ Trảo Thủ. Du Liên Châu học môn này xong, hiềm là một khi nắm được địch rồi, nếu như đối phương võ công cao cường, vẫn có thể vận nội kình thoát ra được, cục diện không khỏi thành ra đấu nội lực. Chàng bèn thêm thắt biến hóa, sáng chế thành mười hai chiêu mới thoát thai từ Hổ Trảo Thủ.
    Khi Trương Tam Phong thu đồ đệ, đối với mỗi người phẩm đức, hành vi, tư chất, ngộ tính, đều tra hỏi tìm hiểu cặn kẽ nên bảy đệ tử nhập môn rồi đều thành người, không những học những điều được dạy mà còn có thể tự mình sáng chế tân chiêu. Du Liên Châu biến hóa Hổ Trảo Thủ không phải là chuyện lạ, nhưng khi Trương Tam Phong thấy chàng thi diễn rồi, chỉ gật đầu mà không nói gì.
    Du Liên Châu thấy sư phụ không phê bình thêm, biết trong chiêu số vẫn còn khuyết điểm, tiềm tâm suy nghĩ cải tiến cho hoàn bị. Mấy tháng sau, chàng lại diễn cho sư phụ xem một lần nữa, Trương Tam Phong xem rồi thở hắt ra, nói:
    - Liên Châu, mười hai chiêu Hổ Trảo Thủ này so với những chiêu ta dạy cho con lợi hại hơn nhiều. Thế nhưng chiêu nào cũng chộp vào ngang lưng, ai bị trúng chiêu này, đều bị tổn âm tuyệt tự. Chẳng lẽ những gì chính đại quang minh ta dạy cho con chưa đủ hay sao, lại còn phải ra chiêu cho người ta tuyệt tử tuyệt tôn?
    Du Liên Châu nghe mấy lời giáo huấn của sư phụ, tuy đang trời rét, nhưng lưng cũng toát mồ hôi, trong lòng hãi sợ, lập tức nhận sai tạ tội. Mấy hôm sau, Trương Tam Phong gọi bảy đệ tử lại, thuật lại cho nghe mọi chuyện, sau cùng mới nói:
    - Liên Châu sáng tạo mười hai chiêu này, khổ tâm suy nghĩ, phải nói là một môn tuyệt học. Nếu chỉ vì một lời của ta mà bỏ đi, thật cũng đáng tiếc. Mọi người hãy theo học Liên Châu, nhưng chỉ khi nào sinh tử quan đầu mới được dùng chứ không được sử dụng bừa bãi. Ta thêm vào sau Hổ Trảo hai chữ Tuyệt Hộ để mọi người nhớ lấy là pho võ công này khiến cho người ta đoạn tử tuyệt tôn, là sát thủ khiến người ta hủy diệt môn hộ.
    Các đệ tử bái lĩnh những lời giáo huấn. Du Liên Châu liền đem pho võ công này truyền cho sáu đồng môn. Bảy người học rồi, quả nhiên tuân theo lời dạy, chưa hề sử dụng đến bao giờ. Hôm nay sự việc khẩn cấp nhưng khi Trương Tùng Khê đề cập đến, Du Liên Châu vẫn còn hơi ngần ngại. Trương Tùng Khê nói:
    - Môn Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ này khi chộp vào lưng người ta rồi sẽ khiến vĩnh viễn không còn khả năng sinh dục. Tiểu đệ có ý kiến là mình chỉ sử dụng đối với hòa thượng, đạo sĩ, hay những người già cả đã bảy, tám chục tuổi thôi.
    Du Liên Châu mỉm cười đáp:
    - Tứ đệ quả nhiên tâm cơ linh xảo, hòa thượng đạo sĩ thì đâu có sinh con đẻ cái gì, cái đó cũng không sao.
    Hai người bàn tính kế hoạch xong, chia nhau đi nói lại cho Tống Viễn Kiều và ba người sư đệ nghe, mỗi người chọn một đối thủ, đợi khi nào Trương Tùng Khê kêu lên Chao ôi, sáu người lập tức sử dụng Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ nắm ngay lấy kẻ địch. Du Liên Châu chọn người già nhất trong Không Động ngũ lão là Quan Năng, còn Trương Thúy Sơn nhắm vào đạo nhân của phái Côn Lôn là Tây Hoa Tử.
    Tân khách trong đại sảnh dùng bữa rồi, đạo nhân nhà bếp liền thu dọn chén đũa.
    Trương Tùng Khê đứng ra lớn tiếng nói:
    - Chư vị tiền bối, các vị bằng hữu!
    Hôm nay là ngày tiệc thọ trăm tuổi của gia sư, được quí vị quang giáng, tệ phái từ trên xuống dưới ai cũng lấy làm vinh dự. Có điều việc tiếp đãi quá ư đơn sơ, xin quí vị lượng thứ cho. Gia sư đã định mời các vị cùng đến uống rượu ở Hoàng Hạc Lâu Võ Xương để bàn bạc chung, những gì sai sót hôm nay khi đó sẽ bổ khuyết.
    Tệ sư đệ Trương Thúy Sơn đi xa mười năm, hôm nay đã trở về. Những gì tệ sư đệ gặp gỡ, kinh lịch trong mười năm đó, cũng chưa kịp bẩm minh sư trưởng. Hơn nữa hôm nay là ngày đại hỉ của gia sư, nếu lại đem ra bàn luận chuyện ân oán, giết chóc trong võ lâm, xem ra bất tường, hảo ý của quí vị từ xa đến chúc thọ, chẳng hóa ra biến thành đến để gây chuyện rắc rối hay sao?
    Các vị ít khi có dịp đến đây, vậy tại hạ xin bồi tiếp cùng đi thăm mặt trước mặt sau núi Võ Đương, thưởng ngoạn phong cảnh có được chăng?
    Chàng nói như thế là để chặn trước mọi người, nói rõ rằng hôm nay là ngày thọ diên cát kỳ, nếu có ai đưa chuyện Tạ Tốn hay Long Môn tiêu cục ra là có ý gây sự với phái Võ Đương.
    Những người lên núi hôm nay, trừ phái Nga Mi ra, ai ai cũng định tâm sẽ đánh nhau mộ trận để ép phải thổ lộ tung tích của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Thế nhưng phái Võ Đương uy danh vang dậy, không ai dám một mình đứng ra để kết oán thù. Nếu như cả mấy trăm người cùng nhất tề xông lên thì không ai ngại, thế nhưng bảo tự mình đứng ra gây chuyện đầu tiên, thì chẳng ai muốn làm chuyện vuốt râu hùm.
    Mọi người ai nấy bối rối, lặng thinh. Tây Hoa Tử của phái Côn Lôn đứng dậy, lớn tiếng nói:
    - Trương tứ hiệp không phải chặn trước như thế. Chúng tôi người quang minh không làm chuyện ám muội, chi bằng nói toạc ra cho xong. Hôm nay đến đây, trước là chúc thọ Trương chân nhân, sau là muốn dò hỏi nơi chốn của ác tặc Tạ Tốn.
    Mạc Thanh Cốc hậm hực suốt buổi nay, lúc này không còn nhịn nổi nữa, cười nhạt nói:
    - Hay nhỉ, hóa ra là thế. Thảo nào, thảo nào.
    Tây Hoa Tử trợn tròn đôi mắt, hỏi lại:
    - Thảo nào cái gì?
    Mạc Thanh Cốc nói:
    - Lúc đầu tại hạ nghe nói các vị lên núi Võ Đương là để chúc thọ gia sư, nhưng sau thấy trong người lại có dấu binh khí, cảm thấy lạ kỳ, không lẽ mọi người mang bảo đao, bảo kiếm lên để làm lễ vật hay sao? Đến bây giờ mới minh bạch, cái lễ vật mang lên là thế đó.
    Tây Hoa Tử vỗ vỗ vào người, kế đó cởi đạo bào ra, lớn tiếng:
    - Mạc thất hiệp nhìn cho rõ, người ít tuổi, chớ có ngậm máu phun người. Chúng tôi trong người có dấu binh khí bao giờ đâu.
    Mạc Thanh Cốc cười khẩy:
    - Hay lắm, quả nhiên không có.
    Chàng giơ hai ngón tay, rạch nhẹ vào thắt lưng hai người đứng kế bên. Chàng ra tay thật nhanh, lập tức cắt đứt dây lưng của hai người. Chỉ nghe loảng xoảng, loảng xoảng, hai thanh đoản đao rớt ra, lấp lánh sáng lòe cả mắt.
    Mọi người ai cũng biến sắc. Tây Hoa Tử lớn tiếng nói:
    - Đúng vậy, nếu như Trương ngũ hiệp không chịu nói chỗ ở của Tạ Tốn ra, nếu có động đao động kiếm thì cũng có sao đâu.
    Trương Tùng Khê đang định kêu lên Chao ôi ra hiệu để ra tay trước, bỗng nghe từ ngoài truyền vào một tiếng A Di Đà Phật. Phật hiệu đó truyền vào tai mọi người ai nấy đều nghe, vừa lớn vừa rõ, tuy là từ xa truyền đến nhưng người nghe tưởng như ngay ở bên cạnh.
    Trương Tam Phong cười nói:
    - Thì ra là Không Văn thiền sư của phái Thiếu Lâm đã đến, mau ra nghênh tiếp.
    Thanh âm từ ngoài cổng lại tiếp lời:
    - Trụ trì chùa Thiếu Lâm Không Văn, cùng với sư đệ Không Trí, Không Tính và các môn hạ đệ tử, cung chúc Trương chân nhân thiên thu trường lạc.
    Không Văn, Không Trí, Không Tính ba người là nhân vật trong tứ đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, trừ Không Kiến đại sư đã qua đời, cả ba thần tăng cùng đến. Trương Tùng Khê kinh hãi, hai tiếng Chao ôi không thể nào nói ra được, biết rằng các cao thủ phái Thiếu Lâm đã đến núi Võ Đương, dù mình có dùng Hổ Trảo Tuyệt Hộ Thủ chế ngự được các phái Côn Lôn, Không Động các người thì cũng vô ích.
    Chưởng môn phái Côn Lôn Hà Thái Xung nói:
    - Đã ngưỡng mộ thanh danh Thiếu Lâm thần tăng từ lâu, hôm nay may mắn được gặp, chuyến hành trình này cũng không uổng.
    Từ bên ngoài một giọng trầm trầm vọng vào:
    - Vị đó có phải là chưởng môn phái Côn Lôn Hà tiên sinh đấy chăng? May thay được gặp, may thay. Trương chân nhân, bọn lão nạp đến bái thọ trễ, thật là bất kính.
    Trương Tam Phong nói:
    - Hôm nay khách khứa đến đông đảo trên núi Võ Đương, lão đạo chỉ bất quá sống được đến một trăm, lại còn làm phiền cả đến gót ngọc ba vị thần tăng.
    Bốn người cách nhau mấy lần cửa, đều vận nội lực đối đáp với nhau, chẳng khác gì đối diện đàm thoại. Tĩnh Huyền, Tĩnh Hư sư thái của phái Nga Mi, Quan Năng, Tôn Duy Hiệp, Đường Văn Lượng, Thường Kính Chi công lực không bằng, không dám mở miệng xen vào. Các môn phái bang hội còn lại ai ai cũng kinh hãi, tự biết còn kém xa.
    Trương Tam Phong dẫn các đệ tử ra nghênh đón, thấy ba thần tăng dẫn theo chín nhà sư, đi chậm rãi đến trước Tử Tiêu Cung. Không Văn đại sư lông mày trắng xóa, rủ xuống, che cả mí mắt, trông chẳng khác gì La Hán mày dài, Không Tính đại sư thân thể cao to, tướng mạo uy võ, còn Không Trí đại sư nét mặt khổ tướng, góc miệng trễ xuống. Tống Viễn Kiều lấy làm lạ, chàng khá tinh thông thuật xem người, nghĩ thầm: Thường nhân dung mạo như Không Trí đại sư, nếu không đoản mệnh, ắt cũng gặp nạn sớm, sao ông ta hưởng thọ cao, lại còn là một tông sư võ học mọi người đều kính ngưỡng? Xem ra cái tướng học của ta vẫn còn có chỗ chưa biết đến.
    Trương Tam Phong và ba người Không Văn tuy đều là võ học đại tông sư nhưng chưa từng gặp mặt. Nói về tuổi tác, Trương Tam Phong hơn ba nhà sư ba bốn chục tuổi. Ông xuất thân từ chùa Thiếu Lâm, nếu tính theo vai vế thầy của ông là Giác Viễn đại sư, thì ông cao hơn họ hai đời. Tuy nhiên vì ông chưa từng thụ giới đi tu ở chùa Thiếu Lâm, lại cũng không chính thức theo học võ nghệ của một nhà sư chùa Thiếu Lâm nào, nên dùng lễ ngang hàng để chào hỏi. Bọn Tống Viễn Kiều thành ra lại dưới họ một bậc.
    Trương Tam Phong nghênh đón các nhà sư vào đại sảnh, Hà Thái Xung, Tĩnh Huyền sư thái, Quan Năng tiến lên chào, ai nấy đều nói vài câu khách sáo ngưỡng mộ lẫn nhau. Thế nhưng Không Văn đại sư thật là khiêm tốn, dù hàng hậu bối của các môn phái cũng chắp tay niệm Phật hành lễ, thăm đôi lời nên mất một hồi lâu mới cùng tất cả mọi người chào hỏi xong.
    Ba vị cao tăng ngồi uống một tuần trà xong, Không Văn nói:
    - Trương chân nhân, bần tăng nếu cứ theo niên kỷ, vai vế thì là hậu bối của chân nhân. Hôm nay ngoài việc chúc thọ, đáng lẽ không nên nói thêm chuyện gì. Ngặt vì bần tăng cũng còn là chưởng môn của phái Thiếu Lâm, nên có vài lời trần tình với bề trên, mong Trương chân nhân đừng phiền trách.
    Trương Tam Phong là người hào sảng, chuyện gì cũng minh bạch không úp mở, liền nói:
    - Ba vị cao tăng, có phải vì chuyện đệ tử thứ năm của tôi là Trương Thúy Sơn mà quí vị đến chăng?
    Trương Thúy Sơn nghe sư phụ nói đến tên mình, vội vàng đứng đậy. Không Văn nói:
    - Đúng thế. Chúng tôi có hai việc muốn thỉnh giáo Trương ngũ hiệp. Việc thứ nhất, Trương ngũ hiệp giết toàn gia đệ tử phái Thiếu Lâm Long Môn tiêu cục bảy mươi mốt người, lại thêm sáu tăng nhân chùa Thiếu Lâm, tổng cộng bảy mươi bảy tính mạng, bây giờ kết thúc ra sao? Việc thứ hai, tệ sư huynh Không Kiến đại sư, cả đời từ bi đức độ, không tranh cạnh với ai, nhưng bị Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn sát hại, nghe nói Trương ngũ hiệp biết được nơi ở của gã họ Tạ, xin Trương ngũ hiệp ban cho một lời.
    Trương Thúy Sơn lớn tiếng nói:
    - Không Văn đại sư, Long Môn tiêu cục và Thiếu Lâm tăng nhân bảy mươi bảy người, hoàn toàn không phải do vãn bối giết hại. Trương Thúy Sơn này một đời được ân sư đạy dỗ, tuy có ngu dốt tầm thường, nhưng không nói dối. Việc giết bảy mươi bảy người đó là ai, vãn bối quả có biết được, nhưng không muốn nói ra. Đó là việc thứ nhất.
    Về việc thứ hai, Không Kiến đại sư viên tịch tây qui, thiên hạ ai mà không thống hận. Chỉ có điều Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn với vãn bối, cùng nhau tám lạy kết nghĩa anh em. Tạ Tốn nay đang ở đâu, quả không dám dấu, vãn bối cũng biết nữa. Thế nhưng người học võ chúng ta, trọng nhất là chữ Nghĩa. Trương Thúy Sơn đầu có thể đứt, máu có thể rơi, nhưng nơi ở của nghĩa huynh, vãn bối quyết không thể thổ lộ. Việc này không liên quan gì đến ân sư, cũng không liên hệ gì đến các đồng môn khác, chỉ một mình Trương Thúy Sơn đảm đương mà thôi. Các vị nếu như lấy cái chết để ép nhau, muốn giết cứ giết, xin mời hạ thủ. Họ Trương này bình sinh chưa làm điều gì đáng xấu hổ, cũng chưa từng giết oan một người lương thiện nào, hôm nay các vị muốn ép mỗ làm điều bất nghĩa, chỉ còn một cái chết mà thôi.
    Chàng nói mấy câu đó đường đường chính chính, đầy vẻ khí khái. Không Văn niệm một câu: A Di Đà Phật nghĩ thầm: Nghe y nói xem chừng không phải giả dối, biết xử sự làm sao đây?.
    Ngay khi đó, bên ngoài cửa sổ bỗng nhiên có tiếng trẻ con:
    - Cha ơi!
    Trương Thúy Sơn giật mình, tiếng đó chính là của Vô Kỵ, chàng nửa mừng nửa lo, vội kêu lên:
    - Vô Kỵ, con về rồi đấy ư?
    Chàng liền vọt ra. Vu Sơn bang và Thần Quyền môn mỗi bên có một người đang đứng canh cửa, lại tưởng Trương Thúy Sơn toan đào tẩu, cùng giơ tay ngăn lại, kêu lên:
    - Chạy đi đâu?
    Trương Thúy Sơn đang gấp, vai huých một cái, hai người văng ra xa ngoài một trượng. Chàng chạy ra bên ngoài cửa sổ, chỉ thấy trống không, nào có một ai, lớn tiếng gọi:
    - Vô Kỵ, Vô Kỵ.
    Nhưng không nghe tiếng trả lời.
    Trong sảnh hơn một chục người đuổi theo, thấy chàng chưa chạy trốn, không ai dám tiến lên bắt chỉ đứng một chỗ giám thị. Trương Thúy Sơn kêu lên:
    - Vô Kỵ, Vô Kỵ.
    Vẫn không có tiếng trả lời. Ân Tố Tố lúc này đã đỡ nhiều, ở hậu đường nghe thấy trượng phu kêu Vô Kỵ, vội vàng chạy ra, run run hỏi:
    - Vô Kỵ về rồi ư?
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Ta vừa nghe thấy tiếng của nó, chạy ra kiếm thì không thấy đâu cả.
    Ân Tố Tố thật là thất vọng, nói nhỏ:
    - Chắc tại chàng nghĩ đến con nhiều quá, nghe lầm đấy thôi.
    Trương Thúy Sơn thừ người, lắc đầu:
    - Rõ ràng ta nghe tiếng nó mà.
    Chàng sợ vợ mình đi ra, gặp các tân khách sẽ gây thêm rắc rối, vội nói:
    - Em đi vào đi.
    Chàng vào trong đại sảnh, quay sang Không Văn hành lễ nói:
    - Vãn bối nhớ nhung khuyển tử, nên đã thất lễ, xin đại sư lượng thứ cho.
    Không Trí nói:
    - Thiện tai, thiện tai. Trương ngũ hiệp tưởng nhớ ái tử, chẳng khác gì điên dại, không lẽ bao nhiêu người bị Tạ Tốn giết, không có cha mẹ vợ con hay sao?
    Ông ta thân hình gầy gò bé nhỏ, nhưng tiếng nói vang như hồng chung, chấn động đại sảnh khiến mọi người ù cả tai. Trương Thúy Sơn trong lòng bấn loạn, không biết trả lời ra sao.
    Không Văn phương trượng quay sang Trương Tam Phong nói:
    - Trương chân nhân, việc hôm nay phải giải quyết như thế nào, xin Trương chân nhân dạy bảo.
    Trương Tam Phong nói:
    - Đứa tiểu đồ của tôi tuy không có tài cán gì, song không dám coi thường sư phụ, cũng chẳng dám nói láo với ba vị cao tăng của Thiếu Lâm. Long Môn tiêu cục và đệ tử quí phái không phải do y đả thương. Còn chỗ ở của Tạ Tốn thì y không chịu nói.
    Không Trí cười khẩy:
    - Thế nhưng có người chính mắt thấy Trương ngũ hiệp hại môn hạ đệ tử của chúng tôi, không lẽ đệ tử Võ Đương không nói láo, môn nhân Thiếu Lâm lại nói láo hay sao?
    Ông ta giơ tay trái vẫy một cái, từ đằng sau bước ra ba tăng nhân trung niên. Ba người đó đều chột một mắt phải, chính là Viên Tâm, Viên Âm, Viên Nghiệp, ba tăng nhân bị Ân Tố Tố dùng ngân châm ném mù mắt ở bên hồ Tây phủ Lâm An.
    Ba người đó đi theo Không Văn đại sư lên núi Võ Đương, Trương Thúy Sơn đã thấy từ trước, biết là họ sẽ đối chất vụ án bên cạnh Tây Hồ, quả nhiên Không Trí đại sư nói chưa dứt câu, đã gọi họ ra. Trương Thúy Sơn trong lòng thật là khó xử, kẻ hành hung giết người ở cạnh hồ tuy không phải là chàng, nhưng thủ phạm chân thực lại là người cùng chàng đầu gối tay ấp. Hai vợ chồng tình sâu nghĩa nặng, làm sao không che chở cho nhau? Thế nhưng trong hoàn cảnh bây giờ, bênh vực thế nào?
    Trong số ba tăng nhân chữ Viên kia, Viên Nghiệp tính tình nóng nảy nhất. Cứ như tính khí y, một khi gặp Trương Thúy Sơn là lập tức ra tay động thủ thí mạng ngay, nhưng có sư bá, sư thúc ở trước mặt nên y phải dằn cơn giận, lúc này sư phụ gọi y ra, liền lớn tiếng nói:
    - Trương Thúy Sơn, ngươi ở bên Tây Hồ tại Lâm An, dùng độc châm bắn vào mồm Tuệ Phong giết y, chính mắt ta trông thấy, không lẽ còn nói oan cho mi sao? Con mắt bên phải của ba chúng ta bị ngươi dùng độc châm bắn mù, không lẽ ngươi còn chối quanh hay sao?
    Trương Thúy Sơn lúc này chỉ cốt cãi được câu nào hay câu nấy, liền nói:
    - Môn hạ Võ Đương chúng tôi, tuy học nhiều loại ám khí, nhưng đều là cương tiêu, tụ tiễn những loại ám khí lớn. Tong bảy anh em đồng môn, trên giang hồ đi lại đã lâu, đã có ai thấy đệ tử Võ Đương sử dụng ngân châm, kim châm chưa? Còn trên kim có bôi thuốc độc, thì không cần phải nói tới làm gì.
    Võ Đương thất hiệp trước nay ra tay quang minh chính đại, trong võ lâm ai ai cũng biết, nếu nói Trương Thúy Sơn dùng độc châm đả thương người, những người trong võ lâm lên núi hôm nay khó mà tin được. Viên Nghiệp giận dữ nói:
    - Việc đã như thế, ngươi còn già hàm lẻo mép ư? Hôm đó ngươi dùng châm giết Tuệ Phong, ta và Viên Âm sư huynh rõ ràng nhìn thấy. Nếu không phải là ngươi, thì còn là ai nữa?
    Trương Thúy Sơn đáp:
    - Quí phái có người bị hại, lại đến hỏi phái Võ Đương cho biết ai đã đả thương, thiên hạ làm gì có cái chuyện lạ thế?
    Chàng mồm miệng lanh lợi, giỏi ăn nói. Viên Nghiệp trong cơn cuồng nộ, càng nói càng lộn xộn không đâu vào đâu, khiến cho phái Thiếu Lâm từ một chuyện hoàn toàn có lý, biến thành cãi chầy cãi cối. Trương Tùng Khê tiếp lời:
    - Viên Nghiệp sư huynh, việc mấy tăng nhân Thiếu Lâm bị thương vì tay ai, nhất thời không thể nào biện bạch rõ ràng được. Có điều tệ sư huynh Du Đại Nham thì rõ ràng bị phái Thiếu Lâm dùng Kim Cương Chỉ Lực đả thương. Quí vị đến thật đúng lúc, chúng tôi đang muốn hỏi, ai là người dùng Kim Cương Chỉ Lực đánh Du tam ca?
    Viên Nghiệp ấp úng:
    - Không phải bần tăng.
    Trương Tùng Khê cười nhạt:
    - Tại hạ cũng biết không phải là đại sư, vì đại sư chưa chắc đã luyện đến mức công phu đó.
    Chàng ngừng lại một chút, nói tiếp:
    - Nếu như tam sư ca chúng tôi đang khỏe mạnh, cùng cao thủ bên quí phái động thủ, bị Kim Cương Chỉ Lực đả thương, thì cũng chỉ trách anh ấy học nghệ chưa tinh, vì đã động thủ ra chiêu, ắt có chết sống, có gì đáng nói đâu? Không lẽ trước khi giao đấu lại còn phải làm giấy bảo đảm, bảo chứng không đụng tới một cái lông hay sao? Thế nhưng khi đó tam ca chúng tôi đang cơn bệnh nặng, thân thể không cử động được, vị đệ tử Thiếu Lâm đó dùng Kim Cương Chỉ Lực, bẻ tay chân, cốt tra hỏi thanh đao Đồ Long ở đâu.
    Nói tới đây chàng cao giọng:
    - Thiết nghĩ phái Thiếu Lâm võ công đã đứng đầu thiên hạ, ai ai cũng biết là võ lâm chí tôn rồi, sao lại còn không thể không đoạt cho bằng được thanh đao Đồ Long? Huống chi thanh đao đó Du tam ca chúng tôi chỉ thấy có một lần, vậy mà đệ tử quí phái hạ thủ để tra hỏi, thủ đoạn đó xem ra quá ư tàn khốc. Du Đại Nham trên giang hồ cũng đã có chút danh nhỏ, trong đời hành hiệp trượng nghĩa, làm không ít điều hay cho võ lâm, nay bị phái Thiếu Lâm hại thành suốt đời tàn phế, mười năm nay chỉ nằm trên giường không dậy được. Chúng tôi đang muốn hỏi xem ba vị thần tăng giải quyết thế nào.
    Về vụ Du Đại Nham bị thương và vụ Long Môn tiêu cục bị thảm sát, hai phái Võ Đương Thiếu Lâm mười năm qua đã phí không biết bao nhiều lời qua tiếng lại, chỉ vì Trương Thúy Sơn thất tung, cho nên trước sau vẫn chưa giải quyết được. Trương Tùng Khê thấy Không Trí, Viên Nghiệp khí thế bừng bừng liền đưa vụ công án đó ra. Không Văn đại sư nói:
    - Việc này lão nạp đã từng nói rồi, lão nạp đã tra hỏi đệ tử bản phái kỹ càng, không có ai gia hại Du tam hiệp cả.
    Trương Tùng Khê thò tay vào trong bọc, lấy ra một đĩnh vàng, trên đó dấu tay còn rõ ràng hằn vết, lớn tiếng nói:
    - Xin tất cả anh hùng thiên hạ cùng xem, người hại Du tam ca của chúng tôi, là đệ tử Thiếu Lâm đã in dấu trên đĩnh vàng này. Trừ Kim Cương Chỉ Lực của phái Thiếu Lâm ra, có còn nhà nào phái nào để dấu tay được trên khối vàng như thế này?
    Viên Âm, Viên Nghiệp kết tội Trương Thúy Sơn bất quá chỉ dùng lời nói, Trương Tùng Khê lại có vật làm chứng tích đem ra, so với nói không, hiển nhiên thêm xác quyết. Không Văn nói:
    - Thiện tai, thiện tai. Người luyện thành Kim Cương Chỉ Lực trong bản phái, trừ ba sư huynh đệ chúng tôi, chỉ có ba vị tiền bối trưởng lão. Ba vị tiền bối đó đã ba bốn chục năm không ra khỏi cổng chùa Thiếu Lâm, làm sao đả thương Du tam hiệp cho được?
    Mạc Thanh Cốc đột nhiên xen vào:
    - Đại sư không tin lời của ngũ sư ca chúng tôi, nói là nhất diện chi từ, vậy lời đại sư vừa nói, há chẳng phải cũng chỉ một bên nói ra hay sao?
    Không Văn đại sư công phu hàm dưỡng rất cao, tuy nghe chàng nói móc họng, nhưng không nổi nóng, chỉ nói:
    - Mạc thất hiệp nếu như không tin lời lão nạp, thì không còn cách nào hơn.
    Mạc Thanh Cốc nói:
    - Vãn bối nào đám không tin lời của đại sư đâu? Có điều việc đời biến huyễn, thị phi chân ngụy, nhiều khi không ai ngờ nổi. Các vị chỉ nói là mấy vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm bị tệ ngũ sư ca đả thương, chúng tôi lại nói rằng tệ tam sư huynh bị hại vì chỉ lực của cao thủ quí phái, xem ra trong đó có điều bí mật. Theo ý của vãn bối, việc này nên từ từ tính sau, để khỏi tổn thương hòa khí hai phái. Nếu như giải quyết một cách lỗ mãng, mai này chân tướng lộ ra, không khỏi hối hận không kịp.
    Không Văn gật đầu:
    - Mạc thất hiệp nói phải lắm.
    Không Trí cao giọng nói:
    - Chẳng lẽ mối huyết hải oan cừu của Không Kiến sư huynh chúng tôi không nói đến nữa hay sao? Trương ngũ hiệp, chuyện Long Môn tiêu cục chúng tôi tạm không hỏi đến, nhưng chỗ ở của ác tặc Tạ Tốn, hôm nay nếu không nói thì bọn ta sẽ ép cho ngũ hiệp phải nói.
    Du Liên Châu từ trước vẫn ngồi yên, lúc này xem ra cục diện có bề không ổn, lớn tiếng hỏi:
    - Nếu như thanh đao Đồ Long không còn trong tay Tạ Tốn, liệu đại sư có còn nóng lòng tìm chỗ ở của y nữa không?
    Chàng tuy không nói nhiều nhưng hai câu đó thật lợi hại, nói thẳng Không Trí dòm ngó bảo vật, lòng vẫn còn tham. Không Trí giận quá, vỗ lên bàn một cái, chưởng đó quả thực uy lực kinh người, chỉ nghe lách cách, bốn chiếc chân gãy lìa, mặt bàn vỡ tung, nát vụn. Ông ta lớn tiếng nói:
    - Vẫn nghe rằng võ công của Trương chân nhân xuất phát từ chùa Thiếu Lâm, người ta thường nói công phu của Trương chân nhân màu xanh từ màu lam mà ra[9], chúng tôi ngưỡng mộ đã lâu, nhưng không biết chuyện đó nói có quá sự thực không. Hôm nay trước mặt anh hùng thiên hạ, mạo muội xin Trương chân nhân tứ giáo một phen.
    Ông ta nói câu đó xong, quần hào trong đại sảnh ai nấy đều xôn xao. Trương Tam Phong thành danh đã bảy mươi năm, những người từng động thủ với ông đều chết cả rồi, trên đời không còn một ai. Võ công của ông đến mức độ nào, tron võ lâm chỉ lưu truyền những truyện thần kỳ thôi, ngoài bảy người đệ tử đích truyền ra, không ai thấy tận mắt. Thế nhưng anh em Tống Viễn Kiều danh chấn thiên hạ, học trò đã như thế, bản lãnh của thầy không nói cũng biết thế nào. Người ngoài hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương thấy Không Trí công khai khiêu chiến với Trương Tam Phong, ai nấy đều phấn chấn, nghĩ thầm hôm nay được coi những vị cao thủ đệ nhất trên đời hiển thị võ công, quả không uổng một chuyến đi.
    Tất cả mọi người đều chú mục vào Trương Tam Phong, đợi xem ông có nhận lời hay không, chỉ thấy ông mỉm cười không trả lời. Không Trí nói tiếp:
    - Trương chân nhân võ công cái thế, thiên hạ vô địch, Thiếu Lâm tam tăng biết rằng không phải đối thủ của chân nhân đâu. Thế nhưng việc đến nước này, mọi việc dây dưa giữa hai phái, nếu không bằng võ công phân cường nhược, chẳng còn cách nào giải quyết. Sư huynh đệ ba người chúng tôi không tự lượng sức mình, muốn liên thủ xin Trương chân nhân tứ giáo. Trương chân nhân cao hơn chúng tôi hai bậc, nếu như lấy một đấu một, e rằng quá bất kính với bậc tiền bối như Trương chân nhân.
    Mọi người nghĩ thầm: Ông nói nghe hay lắm, nhưng chẳng qua chỉ là lấy ba đánh một. Trương Tam Phong võ công tuy cao, nhưng một cụ già trăm tuổi, tinh lực đã suy, chưa chắc đã đánh lại được Thiếu Lâm tam đại thần tăng liên thủ, hợp lực.
    Du Liên Châu nói:
    - Hôm nay là ngày tiệc thọ bách tuế của gia sư, không lẽ lại cùng khách động thủ quá chiêu Mọi người nghe đến đây, nghĩ thầm: Quả nhiên phái Võ Đương không dám ứng chiến. Nào ngờ Du Liên Châu nói tiếp:
    - Huống chi chính Không Trí đại sư đã có nói, gia sư và ba vị thần tăng vai vế không hợp, nếu như động thủ, không khỏi mang tiếng ỷ lớn hiếp nhỏ. Thế nhưng cao thủ Thiếu Lâm đã đòi ra đấu, Võ Đương thất đệ tử xin được lãnh giáo võ học tinh diệu của mười hai cao tăng chùa Thiếu Lâm.
    Mọi người nghe nói như thế, đều ầm ỹ vang lên, nghị luận xôn xao. Không Văn, Không Trí, Không Tính mỗi người mang theo ba đệ tử lên núi, tổng cộng mười hai nhà sư Thiếu Lâm. Mọi người đều biết Du Đại Nham toàn thân tàn phế, Võ Đương thất hiệp chỉ còn lục hiệp, lấy sáu người chống với mười hai người, thành ra thế một chọi hai. Du Liên Châu sắp trận như thế, có thể nói là coi phái Võ Đương cao hơn phái Thiếu Lâm.
    Lời đề nghị của Du Liên Châu xem ra có phần mạo hiểm, tưởng như bị ép nên bất đắc dĩ phải tính như thế. Chàng biết rằng tam đại thần tăng của chùa Thiếu Lâm công lực rất cao, tuổi tác cũng lớn hơn anh em bên mình, tu tập lâu hơn, nếu như một đánh một, đại sư ca Tống Viễn Kiều có thể ngang tay với một trong ba người, chính mình thì bị thương mới khỏi, chưa chắc đã đấu lại được một vị thần tăng. Còn một vị nữa, dù là Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình hay Mạc Thanh Cốc đều chắc chắn thua. Chàng kêu ra đấu tuy là sáu anh em đấu với mười hai tăng nhân Thiếu Lâm, thực ra chín trong số mười hai người không có gì đáng lo, nói ra tưởng phái Võ Đương lấy nhiều chống ít, thực ra là sáu đệ tử hợp lực chống với Thiếu Lâm tam thần tăng.
    Không Trí lẽ nào không biết cái dụng ý đó, hừm một tiếng, nói:
    - Nếu như Trương chân nhân không chịu tứ giáo, vậy thì ba người sư huynh đệ chúng tôi xin thỉnh giáo ba người trong Võ Đương lục hiệp, ba trận phân thắng bại, trong ba trận bên nào thắng hai bên đó hơn.
    Trương Tùng Khê nói:
    - Không Trí đại sư muốn đơn đả độc đấu, chuyện đó cũng được. Chỉ có điều bảy sư huynh đệ chúng tôi, trừ tam ca Du Đại Nham bị độc thủ của đệ tử Thiếu Lâm không thể nào dậy được, còn lại sáu người chẳng ai chịu nhường ai. Vậy thì mình sáu trận phân thắng bại, sáu đệ tử phái Võ Đương phân biệt nghênh chiến sáu vị cao tăng của chùa Thiếu Lâm, trong sáu trận bên nào thắng bốn thì được.
    Mạc Thanh Cốc tiếp lời:
    - Nếu theo như thế, phái Võ Đương thua thì Trương ngũ sư ca sẽ nói cho phương trượng chùa Thiếu Lâm biết chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn. Còn nếu phái Thiếu Lâm nhường nhịn, xin mời ba vị cao tăng dẫn tất cả những bằng hữu mang danh bái thọ, thực sự là đến gây chuyện, tất cả cùng xuống núi.
    Trương Tùng Khê đưa ra cách sáu người đánh từng đôi như thế, có thể nói là chắc ăn.
    Chàng tính trước đại sư ca, nhị sư ca võ công có thể ngang ngửa với ba đại thần tăng, những nhà sư còn lại ắt sẽ thua cả ba trận. Không Trí lắc đầu:
    - Không ổn, không ổn.
    Thế nhưng không ổn ở chỗ nào nhà sư không nói ra được. Trương Tùng Khê nói:
    - Ba vị đòi đấu với gia sư, muốn ba đối một. Đến khi chúng tôi xin sáu người đấu với mười hai cao tăng của Thiếu Lâm, Không Trí đại sư lại muốn một đánh một. Chúng tôi bằng lòng đơn đả độc đấu, đại sư lại bảo là không ổn. Nếu như thế, để một mình vãn bối đấu với ba vị thần tăng của chùa Thiếu Lâm, vậy có ổn không? Ba vị đánh chết vãn bối, thế là phái Thiếu Lâm thắng, có phải vui vẻ cả làng không?
    Không Trí nghe vậy mặt biến sắc, Không Văn miệng niệm Phật hiệu "A Di Đà Phật". Không Tính từ khi lên núi đến giờ chưa nói câu nào, bây giờ bỗng mở miệng:
    - Hai vị sư ca, vị Trương tiểu hiệp muốn một mình đấu với tam tăng, vậy mình tiến lên đi.
    Ông ta võ công tuy cao, nhưng xuất gia từ nhỏ, không thông hiểu việc đời, nghe không hiểu ý Trương Tùng Khê mỉa mai trong đó. Không Văn nói:
    - Sư đệ không nên nhiều lời.
    Ông quay đầu sang nói với Tống Viễn Kiều:
    - Vậy thì sáu tăng nhân bên chúng tôi xin lãnh giáo cao chiêu của Võ Đương lục hiệp, một trận định hơn thua.
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Không phải Võ Đương lục hiệp, mà là Võ Đương thất hiệp.
    Không Trí giật mình kinh hãi, hỏi lại:
    - Tôn sư Trương chân nhân cũng hạ trường ư?
    Tống Viễn Kiều đáp:
    - Lời đó của đại sư sai rồi. Những người cùng gia sư động thủ quá chiêu, nay đều qui tiên cả rồi. Gia sư lẽ nào lại còn ra tay? Du tam đệ của tôi tuy bị trọng thương, không thể cử động, y cũng chưa có học trò, thế nhưng sư huynh đệ chúng tôi trước nay là một, hôm nay là ngày tử sinh vinh nhục, y đời nào chịu xõng tay không lý đến? Để tôi nói y lâm thời tìm một người nào, dạy cho vài chiêu, coi như thay thế y ra đấu. Võ Đương thất đệ tử đấu với các vị cao tăng Thiếu Lâm, quí vị bảy người ra đấu cũng được, mười hai người ra đấu cũng được, không có gì khác biệt.
    Không Văn trầm ngâm, nghĩ thầm: Phái Võ Đương trừ Trương Tam Phong và bảy đệ tử ra, không nghe nói có cao thủ nào khác. Y tạm thời tìm một người, làm sao giỏi được? Còn nếu mời một cao thủ của phái khác đến giúp, thế đâu có còn là phái Võ Đương hội chiến với phái Thiếu Lâm? Xem ra y chỉ muốn bảo tồn cái tiếng Võ Đương thất hiệp nên nói thế đấy thôi.
    Ông gật đầu:
    - Được rồi, bảy tăng nhân Thiếu Lâm sẽ hội chiến với Võ Đương thất hiệp.
    Du Liên Châu, Trương Tùng Khê lúc này hiểu ngay ý định của Tống Viễn Kiều.
    Nguyên lai Trương Tam Phong có một pho võ công rất đắc ý tên là Chân Võ Thất Tiệt Trận. Trên núi Võ Đương thờ Chân Võ đại đế[10], một hôm Trương Tam Phong nhìn thấy hai pho tượng con rắn và con rùa ở trước thần tượng Chân Võ, nghĩ đến nơi Trường Giang và sông Hán Thủy gặp nhau có Xà Sơn, Qui Sơn, trường xà thì linh động, ô qui thì vững chắc. Chân Võ đại đế hai bên tả hữu một qui một xà, chính là kiêm thu cả hai tính chất của hai con vật chí trọng chí linh. Ông lập tức đang đêm đi xuống Hán Dương, đứng ngắm hai núi Qui Xà, từ cái thế uyển chuyển của Xà Sơn cộng với hình thù trang nghiêm ổn định của Qui Sơn, sáng tạo ra một pho võ công tinh diệu vô song.
    Chỉ có điều thế núi của hại ngọn Qui Xà quá hùng vĩ, các sơn mạch hết sức rộng lớn, bao la, võ công nghĩ ra sức một người không thể nào thi triển cho hết được. Trương Tam Phong đứng bên bờ sông Dương Tử, ba ngày đêm liền không ăn không uống, tiềm tâm suy nghĩ, cũng không sao thông được cái nan đề này. Đến ngày thứ tư khi trời vừa sáng, mặt trời từ phương đông nhô lên, chiếu trên mặt sông thành muôn vạn con rắn vàng, lấp lánh rung động. Ông lập tức vỡ lẽ ra, ngửa mặt lên cười ha hả, bèn quay về núi Võ Đương, gọi bảy người họ trò lại, truyền cho mỗi người một pho võ công.
    Bảy pho võ công đó dùng riêng rẽ, cũng đã tinh vi áo diệu, thế nhưng hai người hợp lực thì sư huynh đệ có thể bổ túc cho nhau, công thủ đều được, uy lực tăng gia rất nhiều. Nếu ba người cùng sử dụng, so với hai người uy lực gia tăng gấp bội. Bốn người tương đương với tám cao thủ, năm người thì bằng mười sáu cao thủ, sáu người thì bằng ba mươi hai cao thủ. Nếu cả bảy người cùng ra tay, thì ngang với sáu mươi tư cao thủ hạng nhất đương thế cùng ra tay. Hiện thời, nếu tính các cao thủ hạng nhất nhiều lắm chỉ khoảng hai, ba chục người, làm gì có cái cơ duyên để tụ hội bấy nhiêu người tại một chỗ? Nếu có tụ hội được, trong các cao thủ có chính có tà, làm sao đồng tâm hiệp lực?
    Pho võ công đó của Trương Tam Phong chính vì nhờ hai tướng Qui Xà của Chân Võ đại đế mà sáng tạo ra, nên đặt tên là Chân Võ Thất Tiệt Trận. Khi ông cố gắng suy nghĩ chính là để giải quyết cái khó khăn làm sao giữ bên đông mà không bị hở bên phía tây, lại bảo vệ được phía nam phía bắc, không để cho địch nhân thừa cơ tấn công. Về sau khi nghĩ ra việc cho cả bảy đệ tử cùng thi triển, lúc ấy mới phá được cái nan đề. Có điều Chân Võ Thất Tiệt Trận không thể một người thi triển, không khỏi thiếu sót. Thế nhưng nếu một người có thể sử được tất cả pho võ công này, chẳng hóa ra một người có thể địch lại sáu mươi tư đệ nhất cao thủ, không khỏi hoang tưởng cuồng vọng ư? Ông nghĩ thế không dằn được phải bật cười.
    Từ khi Võ Đương thất hiệp thành danh đến nay, đi đâu cũng chiếm ưu thế, dù kẻ địch có lợi hại bậc nào, tối đa chỉ cần hai ba người liên thủ là đã có thể thắng được địch, thành thử pho Chân Võ Thất Tiệt Trận chưa dùng tới bao giờ. Lúc này Tống Viễn Kiều thấy đại địch trước mắt, ba vị đại thần tăng của phái Thiếu Lâm công lực thế nào không biết được, nghĩ mình có thể ngang tay với họ, nhưng cũng chỉ là tự mình cho rằng như thế, có khi đụng trận rồi lại thua không chừng, nên chàng nghĩ tới việc đem ra thử pho Chân Võ Thất Tiệt Trận, võ công chí bảo trấn sơn của phái Võ Đương.
    Khi nghe Không Văn bằng lòng lấy bảy tăng nhân của phái Thiếu Lâm hội đấu với Võ Đương thất hiệp, Tống Viễn Kiều liền đáp:
    - - Xin quí vị ngồi đợi một lát, để tại hạ vào nói tam sư đệ tạm thời tìm truyền nhân, để cho đủ số Võ Đương thất hiệp.
    Chàng đưa mắt cho các sư đệ, cả sáu người quay sang Trương Tam Phong khom lưng chào cáo thoái, đi vào nội đường. Mạc Thanh Cốc mở miệng trước tiên:
    - Đại sư ca, chúng ta hôm nay sử dụng Chân Võ Thất Tiệt Trận, để cho các nhà sư chùa Thiếu Lâm biết được bản lãnh của Võ Đương đệ tử. Có điều ai sẽ là người thay thế tam sư ca đây?
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Việc này tất cả anh em mình cùng quyết định, đừng ai nói ra, mỗi người viết một cái tên trong lòng bàn tay, để xem coi là ai.
    Mạc Thanh Cốc nói:
    - Hay lắm.
    Chàng lấy bút ra đưa cho đại sư huynh. Tống Viễn Kiều viết trong bàn tay một cái tên, nắm chặt tay lại, đưa bút cho Du Liên Châu. Tất cả mọi người viết xong, cùng mở bàn tay, thấy Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê ba người trong tay viết Ngũ đệ muội, Trương Thúy Sơn thì viết Chuyết Kinh[11]. Ân Lê Đình nắm chặt bàn tay, mặt đỏ bừng, không chịu mở ra. Mạc Thanh Cốc nói:
    - - Ủa, lạ thật, có cái gì mà không chịu mở tay ra?
    Chàng nắm tay Ân Lê Đình mở ra xem, chỉ thấy lòng bàn tay ba chữ: Kỷ cô nương.
    Trương Thúy Sơn lòng rất cảm kích, nắm lấy tay chàng, kêu lên:
    - Lục đệ.
    Mọi người đều biết Ân Lê Đình ngại Ân Tố Tố bệnh vừa mới khỏi, không nên ra đấu, muốn mời vị hôn thê của mình là Kỷ Hiểu Phù xuất mã. Mạc Thanh Cốc toan cười chế nhạo, Trương Thúy Sơn vội đưa mắt ngăn chàng lại. Tống Viễn Kiều nói:
    - Ngũ đệ, chú đi mời cô ấy ra đây.
    Trương Thúy Sơn quay về phòng ngủ, bảo Ân Tố Tố ra ngoài, nói cho nàng rõ tình hình mọi việc mới xảy ra trong đại sảnh. Ân Tố Tố nói:
    - Tất cả mọi người trong Long Môn tiêu cục, cả những nhà sư Thiếu Lâm đều do em giết, lúc đó chưa quen biết ngũ ca, việc này không để liên lụy cho phái Võ Đương và các vị sư huynh đệ. Để em ra nói với họ đi tìm Thiên Ưng giáo thanh toán với cha em là xong.
    Trương Tùng Khê đáp:
    - Đệ muội, việc đã đến nước này, đâu có còn phân biệt của mình hay của người gì nữa? Huống chi theo ngu huynh thì bọn họ lên núi, việc Long Môn tiêu cục chỉ là việc phụ, đi tìm Tạ Tốn mới là việc chính, mà việc đi tìm Tạ Tốn nói riêng, báo thù cũng chỉ là phụ, cướp lại thanh đao Đồ Long mới thực là chính.
    Mạc Thanh Cốc nói:
    - Lời tứ ca nói không sai chút nào, bọn họ chẳng qua chỉ dòm ngó thanh đao Đồ Long, dù cách nào chăng nữa họ cũng nhất quyết bức bách ngũ tẩu thổ lộ thanh bảo đao đó đang ở đâu.
    Trương Thúy Sơn nói:
    - Năm xưa chính Không Kiến đại sư cũng đã từng nói với nghĩa huynh của đệ là trong thanh đao Đồ Long có dấu một pho võ công thiên hạ vô địch, trấn nhiếp võ lâm. Nếu Không Kiến đã biết, chắc hẳn Không Văn, Không Trí, Không Tính cũng phải biết.
    Ân Tố Tố nói:
    - Nếu như thế, mọi sự toàn do đại sư ca liệu định. Có điều tiểu muội võ công kém cỏi, trong khoảnh khắc, làm sao lãnh ngộ được sự tinh áo của Chân Võ Thất Tiệt Trận?
    Tống Viễn Kiều nói:

  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Thực ra sáu anh em ta liên thủ, đối phó với bảy nhà sư chùa Thiếu Lâm cũng đã chắc thắng rồi. Chẳng qua đệ muội là người truyền nhân của tam đệ lên đấu, tam đệ ắt trong lòng cảm thấy an ủi thôi.
    Võ Đương lục hiệp tâm ý tương đồng, sở dĩ muốn Ân Tố Tố tham gia, chẳng phải để chế địch, mà chỉ vì Du Đại Nham. Nếu lục hiệp liên thủ hợp kích, Chân Võ Thất Tiệt Trận cũng đã có uy lực đánh ngang ngửa với ba mươi hai cao thủ rồi. Ba vị thần tăng của Thiếu Lâm dù có giỏi, và những đệ tử đi theo có cao thủ trong đó thì bảy người cũng không thể nào tương đương được ba mươi hai cao thủ hạng nhất. Thế nhưng pho Chân Võ Thất Tiệt Trận này từ khi được thầy truyền thụ đến nay chưa dùng tới bao giờ, hôm nay nếu đem ra dùng đánh bại được ba vị thần tăng chùa Thiếu Lâm, Du Đại Nham không được chung cái vui đó, trong lòng sẽ không khỏi uất ức. Cả bọn Tống Viễn Kiều muốn Ân Tố Tố học Du Đại Nham vài chiêu, nói là thay mặt cho chàng, để sau này trên giang hồ loan truyền, Du Đại Nham không ra tay mà cũng như ra tay, vẫn đủ Võ Đương thất hiệp.
    Cái khổ tâm đó của các huynh đệ, chỉ một hai lời là Ân Tố Tố hiểu ngay nên nói:
    - Được rồi, vậy để em nói tam ca dạy cho. Có điều công phu của tiểu muội so với các vị cách nhau quá xa, không làm vướng chân vướng tay là được rồi.
    Ân Lê Đình nói:
    - Không sao đâu. Chỉ cần tẩu tẩu nhớ được phương vị bước chân, thế là đủ. Nếu khi đấu có quên, mọi người sẽ nhắc ngay.
    Tất cả bảy người liền đi vào trong ngọa thất của Du Đại Nham. Từ khi Trương Thúy Sơn về núi tới giờ, chàng đã mấy lần nói chuyện với tam sư ca. Ân Tố Tố vì đang bệnh nên đây là lần đầu nàng gặp Du Đại Nham.
    Du Đại Nham thấy nàng mặt mày xinh đẹp, cử chỉ ôn nhã, rất lấy làm mừng cho ngũ đệ, nghe Tống Viễn Kiều nói nàng sẽ thay mình, dùng Chân Võ Thất Tiệt Trận để hội đấu cùng tam đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, trong lòng không khỏi chua xót. Thế nhưng chàng đã tàn phế mười năm rồi, những phẫn hận cũng đã quen, lập tức mỉm cười nói:
    - Ngũ đệ muội, tam ca chẳng có cái gì để làm lễ vật tác kiến, lúc này gấp gáp, chỉ có thể truyền cho cô phương vị bộ pháp của trận thế thôi. Đợi khi đẩy lui được địch rồi, ta sẽ từ từ đem các biến hóa và phương pháp tập luyện võ công của trận pháp này nói cho cô nghe.
    Ân Tố Tố mừng nói:
    - Đa tạ tam ca.
    Du Đại Nham vừa nghe nàng mở miệng bốn tiếng Đa tạ tam ca, lập tức các bắp thịt trên mặt chàng giựt giựt, hai mắt mở trừng trừng, ngưng thần suy nghĩ. Trương Thúy Sơn kinh hãi hỏi:
    - Tam ca, tam ca không khỏe ư?
    Du Đại Nham không trả lời, chỉ đờ đẫn xuất thần, trong ánh mắt tỏ lộ một vẻ khó tả, vừa thống khổ, vừa oán hận, hiển nhiên đang nhớ lại một chuyện hết sức bi thương trong đời.
    Trương Thúy Sơn quay lại nhìn vợ, thấy nàng thần sắc đại biến, nét mặt vừa sợ hãi vừa lo lắng. Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu đều nhìn Du Đại Nham, lại nhìn Ân Tố Tố, không hiểu tại sao hai người bỗng dưng biến sắc như thế nhưng xem ra có chuyện chẳng lành. Nhất thời căn phòng không một tiếng động, tưởng như đến cả tiếng tim đập cũng nghe thấy.
    Du Đại Nham hơi thở mỗi lúc một thêm dồn dập, trên khuôn mặt trắng bệch hiện lên một vẻ hồng, hạ giọng nói:
    - Ngũ đệ muội, xin cô lại gần đây để cho ta nhìn kỹ một tí.
    Ân Tố Tố thân hình run rẩy, không dám tiến tới, giơ tay nắm chặt bàn tay chồng. Một lát sau, Du Đại Nham thở dài, nói:
    - Cô không lại, cũng không sao. Ngày hôm đó ta cũng không thấy mặt cô. Ngũ đệ muội, vậy cô nói vài câu như sau: Thứ nhất, phải đích thân Đô tổng tiêu đầu áp tống. Thứ hai, từ phủ Lâm An đưa đến phủ Tương Dương, Hồ Bắc, ngày đêm không nghỉ, trong mười ngày phải đến. Thứ ba, nếu có nửa phân sai sót chậm trễ, ha ha, không nói gì tính mệnh Đô tổng tiêu đầu mà thôi, đến toàn thể Long Môn tiêu cục gà chó cũng không còn.
    Mọi người nghe chàng rành rọt chậm rãi nói từng chữ, không khỏi toát mồ hôi lạnh. Ân Tố Tố tiến lên một bước nói:
    - Tam ca, quả nhiên tam ca đã nhận ra tiếng của tiểu muội. Hôm đó tại Long Môn tiêu cục ở phủ Lâm An, người ủy thác Đô Đại Cẩm đưa tam ca lên núi Võ Đương, chính là em đó.
    Du Đại Nham nói:
    - Đa tạ đệ muội có lòng tốt.
    Ân Tố Tố nói:
    - Sau đó Long Môn tiêu cục làm việc không chu đáo, khiến cho tam ca phải ra nông nỗi này, nên tiểu muội đã giết sạch toàn thể già trẻ lớn bé.
    Du Đại Nham lạnh lùng hỏi lại:
    - Vì cớ gì cô lại đối xử với ta tốt như thế?
    Ân Tố Tố vẻ mặt ảm đạm, thở dài một tiếng, nói:
    - Tam ca, việc đã đến nước này không còn dấu tam ca được nữa. Thế nhưng phải nói trước là việc này tiểu muội vẫn còn dấu Thúy Sơn, vì sợ sợ rằng một khi biết rồi, anh ấy sẽ không còn không còn yêu thương em nữa.
    Du Đại Nham lạnh lẽo nói:
    - Vậy thì cô cũng không nên nói ra làm gì. Đằng nào thì ta cũng đã thành phế nhân, chuyện cũ không cần truy cứu làm chi, việc gì phải làm cho tình nghĩa phu phụ của ngũ đệ thêm rắc rối? Các người đi ra đi. Võ Đương lục hiệp đấu với các cao tăng Thiếu Lâm cũng đã chắc thắng rồi, hà tất phải để ta có được cái hư danh làm chi.
    Du Đại Nham là người tính tình cứng cỏi, từ khi bị thương không hề rên rỉ oán than. Đúng ra chàng cũng không nói được, nhưng nhờ có Trương Tam Phong chữa trị, đem mấy chục năm nội lực tu tập đổ vào thân thể chàng, nên sau này đã có thể nói năng. Thế nhưng sự việc xảy ra làm sao, chàng không hề đề cập, mãi đến hôm nay mới thốt ra vài câu bi phẫn. Các sư huynh đệ nghe những lời đó, không khỏi bồi hồi chua xót, Ân Lê Đình nhịn không được òa lên khóc.
    Ân Tố Tố nói:
    - Tam ca, thực ra trong lòng anh cũng đã biết rồi, có điều vì nghĩ đến tình nghĩa với Thúy Sơn, nên cố ẩn nhẫn không nói ra thôi. Đúng vậy, hôm đó trên mặt sông Tiền Đường, người ẩn trong khoang thuyền dùng Văn Tu Châm đả thương tam ca, chính là tiểu muội Trương Thúy Sơn quát lên:
    - Tố Tố, có thực là em không? Em em em sao không nói sớm?
    Ân Tố Tố nói:
    - Tội khôi họa thủ đả thương tam sư ca, chính là vợ chàng đó, làm sao thiếp dám nói cho chàng nghe?
    Nàng quay lại nói với Du Đại Nham:
    - Tam ca, về sau người dùng Thất Tinh Đinh làm anh bị thương ở gan bàn tay, đánh lừa để đoạt thanh đao Đồ Long chính là anh ruột em Ân Dã Vương. Thiên Ưng giáo vốn không thù oán gì với phái Võ Đương, được đao Đồ Long rồi, kính trọng tam ca là một hảo hán tử, nên mới bảo Long Môn tiêu cục đưa anh lên núi. Còn việc đường đi có thêm sóng gió, điều đó bên em cũng không dự liệu trước được.
    Trương Thúy Sơn toàn thân run rẩy, mắt như muốn tóe lửa, chỉ tay vào Ân Tố Tố nói:
    - Em em sao lại lừa dối anh đến như thế?
    Du Đại Nham đột nhiên thét lên một tiếng, thân mình từ giường bắn vọt lên, nghe bình một tiếng, rơi phịch xuống, bốn miếng ván giường gãy ra làm đôi, còn chàng cũng ngất lịm đi.
    Ân Tố Tố rút thanh trường kiếm đang đeo, xoay ngược chuôi kiếm đưa cho Trương Thúy Sơn, nói:
    - Ngũ ca, chàng với thiếp mười năm vợ chồng, được chàng yêu thương, tình sâu nghĩa nặng, hôm nay có chết trong lòng cũng không oán giận gì. Chàng hãy một kiếm giết thiếp đi để cho vẹn toàn tình nghĩa Võ Đương thất hiệp.
    Trương Thúy Sơn cầm lấy thanh kiếm, định một kiếm đâm thẳng vào ngực vợ. Thế nhưng chỉ trong chớp mắt, mười năm vợ chồng, nàng thật ôn nhu, tình ý ngọt ngào đầu gối tay ấp, bao nhiêu nguồn ân bể ái hiện ra trong tim, nhát kiếm đó làm sao có thể phóng ra được?
    Chàng bàng hoàng ngơ ngẩn, đột nhiên rống lên, chạy vọt ra khỏi phòng. Ân Tố Tố, Tống Viễn Kiều cả bọn sáu người không hiểu chàng muốn gì, cùng chạy theo. Chỉ thấy Trương Thúy Sơn chạy ra đại sảnh, quì hướng về Trương Tam Phong nói:
    - Ân sư, đệ tử đã làm một chuyện lầm lỡ lớn lao, không cách gì cứu vãn được, chỉ xin sư phụ một điều.
    Trương Tam Phong không hiểu nguyên do, hiền từ đáp:
    - Con có điều gì cứ nói ra, thầy không thể không đáp ứng.
    Trương Thúy Sơn rập đầu ba lần, nói:
    - Đa tạ ân sư. Đệ tử có một độc sinh ái tử, bị rơi vào tay kẻ gian, thỉnh cầu ân sư cứu nó thoát khỏi bọn tà ma, nuôi dưỡng nó khôn lớn thành người.
    Chàng đứng lên tiến tới mấy bước, hướng về phía Không Văn đại sư, Thiết Cầm tiên sinh Hà Thái Xung, Không Động phái Quan Năng, Nga Mi phái Tĩnh Huyền mọi người lớn tiếng nói:
    - Tất cả mọi tội nghiệt đều do Trương Thúy Sơn này làm cả. Đại trượng phu một mình mình làm, một mình mình chịu, hôm nay sẽ để cho các vị được thỏa dạ.
    Nói vừa dứt câu chàng liền đưa thanh kiếm lên cổ mình cắt ngang một nhát, máu tươi vọt ra, ngã phịch xuống. Trương Thúy Sơn nhất định tìm cái chết, biết rằng một khi mình hoành kiếm tự vẫn, sư phụ và anh em đồng môn thể nào cũng ra tay cản trở, nên quay mặt qua phía tân khách, vừa nói xong là hai câu là ra tay ngay.
    Trương Tam Phong, Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Ân Lê Đình bốn người cùng kêu lên kinh hoảng xông tới. Chỉ nghe bình bình bình mấy tiếng liên tiếp, sáu bảy người văng ra ngoài. Thì ra đó là những người khách đứng gần Trương Thúy Sơn, bị sư đồ Trương Tam Phong dùng chưởng đẩy ra nhưng vẫn chậm một bước. Trương Thúy Sơn dùng kiếm cắt đứt cổ họng làm sao có thể cứu được. Tống Viễn Kiều, Mạc Thanh Cốc và Ân Tố Tố ba người ra chậm hơn, còn cách một quãng xa.
    Ngay lúc đó, bên ngoài cửa sổ đại sảnh có tiếng trẻ con kêu lên:
    - Cha ơi, cha ơi!
    Tiếng kêu thứ hai nghe ú ớ, hiển nhiên bị người ta bịt miệng. Trương Tam Phong thân hình lắc nhẹ, đã vọt ra ngoài trường song, thấy một người đàn ông mặc quân trang Mông Cổ tay bồng một đứa trẻ chừng tám chín tuổi. Đứa trẻ mồm bị bịt chặt, đang dãy dụa.
    Trương Tam Phong thương đồ đệ chết thảm, lòng như dao cắt, nhưng ông đã tu luyện gần một trăm năm, tâm thần không loạn, hạ giọng quát:
    - Đi vào.
    Người kia chân trái điểm một cái, ôm đứa trẻ toan nhảy lên mái nhà, bỗng thấy đầu vai chịt lại, thân hình nặng nề dị thường, hai chân không cách nào có thể rời mặt đất. Thì ra Trương Tam Phong đã lướt tới sau lưng y, tay trái nhẹ nhàng để lên đầu vai. Người nọ giật mình kinh hãi, biết rằng Trương Tam Phong chỉ cần nhả nội kình, y không chết cũng bị trọng thương, đành phải nghe lời đi vào đại sảnh.
    Đứa trẻ đó chính là Vô Kỵ, con của Trương Thúy Sơn. Thằng bé bị bịt mồm bên ngoài cửa sổ thấy cha giơ kiếm cứa cổ, kinh hoảng cố vùng vẫy nên kêu lên được một tiếng.
    Ân Tố Tố thấy trượng phu vì mình mà tự sát, đột nhiên lại thấy đứa con lành lặn trở về, sau cái cực buồn lại có cái cực vui, hỏi:
    - Hài nhi, con không nói chỗ ở của nghĩa phụ con đấy chứ?
    Vô Kỵ hiên ngang đáp:
    - Dù y có đánh chết con, con cũng không nói.
    Ân Tố Tố nói:
    - Con của mẹ giỏi lắm, để mẹ bế con nào.
    Trương Tam Phong nói:
    - Đưa thằng bé cho mẹ nó.
    Người kia toàn thân bị chế ngự, đành phải đưa Vô Kỵ cho Ân Tố Tố. Vô Kỵ nằm trong lòng mẹ, khóc nói:
    - Mẹ ơi, sao người ta lại bức tử cha con? Ai bức tử cha con đó?
    Ân Tố Tố nói:
    - Nhiều người lắm, tất cả những người lên núi hôm nay đều ép cha con phải chết.
    Vô Kỵ trừng mắt chầm chậm nhìn từ trái sang phải một vòng. Y tuy tuổi còn nhỏ, nhưng ai ai chạm phải mắt nó trong lòng không khỏi chấn động. Ân Tố Tố nói:
    - Vô Kỵ, con nghe mẹ nói một câu này.
    Vô Kỵ nói:
    - Mẹ nói đi.
    Ân Tố Tố nói:
    - Con không phải nóng lòng báo thù gấp, cứ từ từ mà đợi, nhưng không bỏ qua một người nào.
    Mọi người nghe câu nói lạnh như băng ấy, không khỏi có một làn hàn khí chạy sau lưng. Vô Kỵ kêu lên:
    - Mẹ ơi, con không muốn báo thù, con chỉ muốn cha con sống lại thôi.
    Ân Tố Tố buồn bã nói:
    - Người chết rồi không thể nào sống lại được.
    Thân hình nàng hơi run run, nói:
    - Con ơi, cha con chết rồi, thôi mình đem chỗ ở của nghĩa phụ nói cho mọi người nghe đi.
    Vô Kỵ vội kêu lên:
    - Đừng, đừng nói.
    Ân Tố Tố nói:
    - - Không Văn đại sư, tôi chỉ nói cho một mình đại sư nghe thôi. Xin ông ghé tai lại đây.
    Câu đó quả thực ngoài liệu định của mọi người, ai nấy ngạc nhiên. Không Văn nói:
    - Thiện tai, thiện tai. Nữ thí chủ nếu nói sớm một chút, Trương ngũ hiệp đã không táng mệnh.
    Ông đi đến gần Ân Tố Tố, ghé tai nghe. Ân Tố Tố miệng mấp máy một hồi, nhưng không phát ra một âm thanh nào. Không Văn hỏi:
    - Cái gì?
    Ân Tố Tố đáp:
    - Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn đang ở tại Sau hai chử ở tại, thanh âm thật mơ hồ, không nghe rõ. Không Văn hỏi lại:
    - Cái gì?
    Ân Tố Tố nói:
    - Thì ở chỗ đó, phái Thiếu Lâm các ông đến đó mà kiếm thì gặp.
    Không Văn sốt ruột, nói:
    - Bần tăng không nghe thấy gì cả.
    Nói xong ông đứng thẳng dậy, giơ tay gãi đầu, trên mặt lộ vẻ hoang mang. Ân Tố Tố cười nhạt:
    - Tôi chỉ nói được đến thế thôi, ông cứ đến nơi đó thì sẽ gặp được Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
    Nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, hạ giọng nói:
    - Hài nhi, khi con khôn lớn rồi, phải đề phòng đàn bà lừa dối con. Đàn bà càng đẹp, lừa người càng giỏi.
    Nàng ghé sát mồm vào tai con, nói thật nhỏ:
    - Mẹ không nói cho lão hòa thượng đó biết đâu, mẹ lừa ông ta đó con xem mẹ đó mẹ lừa người ta giỏi lắm.
    Nói xong nàng mỉm một nụ cười thê lương, đột nhiên hai tay lỏng ra, thân hình từ từ đổ xuống, trên ngực đã cắm một thanh chủy thủ[12]. Thì ra khi nàng ôm Vô Kỵ vào lòng, đã ngầm dùng dao găm đâm vào mình, nhưng vì Vô Kỵ ngồi trước mặt nên không ai trông thấy.
    Vô Kỵ chồm tới ôm mẹ, kêu lên:
    - Mẹ ơi, mẹ ơi.
    Thế nhưng Tố Tố tự đâm mình đã lâu cố gượng tới bây giờ thì tắt thở. Vô Kỵ đau lòng nhưng không khóc, trừng mắt nhìn Không Văn đại sư, hỏi:
    - Phải ông giết mẹ tôi không, phải ông không? Tại sao ông lại giết mẹ tôi?
    Không Văn trông thấy thảm biến trước mắt, tuy là chưởng môn của đệ nhất tông phái trong võ học, nhưng cũng không khỏi chấn động, nghe Vô Kỵ hỏi thế, bất giác lùi lại một bước, chối biến:
    - Không, không phải ta. Đó là bà ấy bà ấy tự tận đấy chứ.
    Nước mắt Vô Kỵ chảy ròng ròng, nhưng cố dằn lại, nói:
    - Ta không khóc, ta nhất định không khóc, không để cho bọn ác nhân các người trông thấy ta khóc đâu.
    Không Văn đại sư đằng hắng một cái, nói:
    - Trương chân nhân, biến cố này ôi ôi thật không ai liệu trước được. Trương ngũ hiệp phu phụ đã tự tận rồi, mọi việc không còn gì để truy cứu nữa, vậy chúng tôi xin cáo từ.
    Nói xong chắp hai tay làm lễ. Trương Tam Phong trả lại một lễ lạnh nhạt nói:
    - Tha lỗi không tiễn xa được.
    Tăng chúng Thiếu Lâm lập tức đứng lên, đi ra. Ân Lê Đình giận dữ quát lên:
    - Các người các người bức tử ngũ ca ta Chàng bỗng nghĩ lại: Ngũ ca sở dĩ tự sát, cũng vì có lỗi với tam ca, không can hệ gì tới họ cả. Chàng nói chưa dứt câu, không nói tiếp được nữa, nằm phục xuống bên cạnh thi thể Trương Thúy Sơn, òa lên khóc.
    Mọi người cảm thấy bẽ bàng, đều hướng về Trương Tam Phong cáo từ, nghĩ thầm: Chuyện này kết thúc thật là rắc rối, phái Võ Đương chắc sẽ không để yên, từ nay về sau hậu hoạn không biết đâu mà lường. Chỉ có Tống Viễn Kiều đôi mắt đỏ hoe, tiễn khách ra ngoài cổng. Khi chàng quay lại, nước mắt nhỏ xuống ròng ròng, trong đại sảnh phái Võ Đương ai nấy đều đau lòng khóc nức nở.
    Phái Nga Mi đứng lên cáo từ sau cùng. Kỷ Hiểu Phù thấy Ân Lê Đình khóc thật thương tâm, đôi mắt nàng cũng đỏ hồng, đi đến bên cạnh, nói nhỏ:
    - Lục ca, tiểu muội đi đây, chàng chàng cố gắng tự mình bảo trọng.
    Ân Lê Đình đôi mắt nhòa lệ, ngẩng đầu lên, nghẹn ngào nói:
    - Các người các người phái Nga Mi cũng đến để làm khó dễ ngũ ca ta ư?
    Kỷ Hiểu Phù vội nói:
    - Không phải đâu, gia sư chỉ muốn hỏi Trương sư huynh chỗ ở của Tạ Tốn thôi.
    Nàng dừng lại một lát, răng cắn chặt môi dưới, rồi lại nhả ra, trên môi hằn sâu một vết răng, tưởng như muốn bật máu ra, run run giọng nói:
    - Lục ca, em em đối với chàng thật không phải chút nào, mong chàng hiểu cho. Em em chỉ có kiếp sau mới báo đáp được thôi.
    Ân Lê Đình nghe nàng nói có điều quá đáng, nói:
    - Việc này không can hệ gì đến Kỷ sư muội, chúng tôi không trách gì sư muội đâu.
    Kỷ Hiểu Phù mặt trắng bệch, nói:
    - Không không phải chuyện Nàng không dám nói chuyện tiếp với Ân Lê Đình, quay sang nhìn Vô Kỵ, hỏi:
    - Cháu bé ngoan, chúng ta chúng ta cùng một nhà, sẽ săn sóc cháu chu đáo.
    Nàng tháo trên cổ chiếc vòng vàng, định đeo cho Vô Kỵ, dịu dàng nói:
    - Cái này cô cho cháu Vô Kỵ hất đầu về phía sau, nói:
    - Tôi không lấy.
    Kỷ Hiểu Phù bẽ bàng, tay cầm chiếc vòng 嬠không biết phải làm sao. Nước mắt nàng vẫn đang long lanh, lúc này ròng ròng chảy xuống. Tĩnh Huyền sư thái sa sầm nét mặt, nói:
    - Kỷ sư muội, nói với trẻ con làm gì? Thôi mình đi về.
    Kỷ Hiểu Phù ôm mặt chạy ra. Vô Kỵ nhịn hồi lâu, đợi cho Tĩnh Huyền, Kỷ Hiểu Phù cả bọn ra khỏi cổng rồi, đang toan khóc òa, nào ngờ há mồm nhưng không thở được, nghe phịch một tiếng, ngã lăn ra đất. Du Liên Châu vội bồng thằng nhỏ lên, biết nó trong khi đau buồn cố giữ không khóc, đến nỗi ngất đi, vội gọi:
    - Cháu ơi, cháu khóc đi.
    Chàng xoa mấy cái trên ngực nó, Vô Kỵ vẫn không thở được, toàn thân lạnh ngắt, hơi thở cực kỳ mong manh. Du Liên Châu vận lực thúc đẩy nhưng thằng bé vẫn không tỉnh. Mọi người thấy chỉ trong giây lát thằng nhỏ sẽ chết, không khỏi thất sắc.
    Trương Tam Phong lấy tay đè vào huyện Linh Đài trên lưng Vô Kỵ, một luồng nội lực hùng hậu truyền qua áo trút vào người đứa bé. Với công phu tu luyện của Trương Tam Phong hiện nay, chỉ có người hấp hối mới phải bó tay, ngoài ra dù bị thương nặng cách nào, nội lực của ông đổ vào cũng phải tỉnh lại. Nào ngờ nội lực của ông truyền vào Vô Kỵ rồi, sắc mặt của nó từ trắng chuyển qua xanh, từ xanh thành tím, thân thể giật giật liên tiếp. Trương Tam Phong giơ tay sờ trán đứa trẻ, thấy đầu nó lạnh ngắt, chẳng khác gì sờ vào một khối nước đá, kinh hãi, tay phải vội luồn vào trong áo sờ lưng Vô Kỵ, thấy trên lưng có một vùng bằng chiếc chén nóng hừng hực như lửa, chung quanh thì lạnh thấu xương, nếu không đạt đến trình độ như Trương Tam Phong, e rằng sờ vào không khỏi run rẩy vì lạnh. Ông nói:
    - Viễn Kiều, tên Thát tử bắt thằng bé đâu rồi? Mau đem y vào đây.
    Tống Viễn Kiều vâng lời đi ra, Du Liên Châu từng thụ thương vì đối chưởng với tên Nguyên binh này rồi, biết đại sư ca cũng không phải địch thủ của y, vội nói:
    - Để đệ đi cùng.
    Hai người sóng vai đi ra. Khi Trương Tam Phong dẫn tên quân Mông Cổ vào sảnh, Trương Thúy Sơn đã tự sát chết, tiếp đến Ân Tố Tố lại tuẫn phu, mọi người trong lúc đau buồn, đâu có ai để ý đến tên quân Mông Cổ, chỉ trong chớp mắt y đã đi mất dạng.
    Trương Tam Phong cởi áo Vô Kỵ ra, thấy trên lưng thằng bé, rõ ràng vết một bàn tay năm ngón màu xanh biếc. Trương Tam Phong lại đưa tay xem thử, thấy nơi bàn tay đó nóng lạ thường, chung quanh thì lại lạnh ngắt như băng, sờ vào quả thực khó chịu, Vô Kỵ bị thương như thế, đủ biết khổ sở đến chừng nào.
    Một lát sau, Tống Viễn Kiều và Du Liên Châu hấp tấp quay lại nói:
    - Trên núi không còn ai khác.
    Hai người thấy hình bàn tay kỳ quái trên lưng Vô Kỵ đều giật mình kinh hãi. Trương Tam Phong nhíu mày nói:
    - Ta vẫn tưởng ba mươi năm trước Bách Tổn đạo nhân chết đi rồi, cái môn Huyền Minh thần chưởng âm độc vô tỉ này cũng thất truyền theo, nào ngờ trên đời này vẫn còn có kẻ biết công phu đó.
    Tống Viễn Kiều kinh hãi hỏi:
    - Thằng bé bị Huyền Minh thần chưởng đả thương ư?
    Chàng lớn tuổi hơn hết, đã từng biết đến Huyền Minh thần chưởng, còn Du Liên Châu đổ xuống ngay cái tên cũng chưa nghe tới bao giờ. Trương Tam Phong thở dài không trả lời, trên khuôn mặt già nua hai hàng lệ nhỏ xuống, hai tay ôm Vô Kỵ, nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, nói:
    - Thúy Sơn, Thúy Sơn, con bái ta làm thầy, trước khi chết trọng thác vào ta, nhưng đến giọt máu duy nhất của con ta cũng không giữ được, ta sống đến trăm tuổi để làm gì? Phái Võ Đương danh chấn thiên hạ để làm gì? Giá ta chết đi lại hóa hay hơn.
    Chúng đệ tử ai nấy đều kinh dị. Từ khi theo thầy đến giờ, lúc nào họ cũng thấy thầy tiêu dao tự tại, chưa bao giờ nghe ông nói một câu bi đát, tiêu trầm như thế bao giờ. Ân Lê Đình nói:
    - Sư phụ, thằng bé này thằng bé này không thể cứu được hay sao?
    Trương Tam Phong hai tay ôm chặt Vô Kỵ, đi đi lại lại trong đại sảnh, rồi nói:
    - Trừ phi trừ phi sư phụ ta Giác Viễn đại sư sống lại, đem toàn bộ Cửu Dương Chân Kinh truyền cho ta.
    Các đệ tử ai nấy đều thất vọng, câu nói đó của sư phụ có khác gì nói thương thế của Vô Kỵ vô phương cứu chữa. Mọi người yên lặng một hồi, Du Liên Châu nói:
    - Sư phụ, hôm đó con đối chưởng với y, chưởng lực người đó quả nhiên âm độc ghê gớm trên đời ít thấy, đệ tử bị thương ngay. Thế nhưng bây giờ con đã hoàn toàn bình phục, vận khí dụng kình, không có gì trở ngại cả.
    Trương Tam Phong nói:
    - Đó cũng là nhờ cái phúc của đại danh Võ Đương thất hiệp. Huyền Minh thần chưởng này nếu đem ra đấu với người, nếu đối phương nội lực thắng y, chưởng lực sẽ quay trở lại thân thể, người sử dụng ắt gặp đại họa. Nếu sau này các con có gặp tên này, phải thật cẩn thận.
    Du Liên Châu đáp lời:
    - Vâng.
    Trong lòng rung động, nghĩ thầm: Thì ra tên này qua ư cẩn thận, sợ ta chưởng lực thắng y, cho nên lúc đó không đem toàn lực Huyền Minh thần chưởng ra sử dụng, nếu không giờ này tính mệnh ta chắc không còn. Nếu kỳ sau gặp lại ta, chắc y hạ thủ không dung tình nữa. Lại nghĩ: Ta bị trúng một chưởng mà đã như thế, Vô Kỵ còn bé, e rằng e rằng .
    Tống Viễn Kiều nói:
    - Khi đó trong khoảnh khắc, con chỉ thấy tên này chừng độ năm mươi, mũi cao mắt sâu, tựa hồ người từ Tây Vực.
    Mạc Thanh Cốc tiếp lời:
    - Tên đó đã bắt được Vô Kỵ đi rồi, còn đem nó đến đây làm gì?
    Trương Tùng Khê nói:
    - Tên đó tra hỏi Vô Kỵ không xong, nên dùng Huyền Minh thần chưởng đả thương y, để cho vợ chồng ngũ đệ chính mắt trông thấy Vô Kỵ bị hành hạ, không thể không thổ lộ chỗ ở của Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn.
    Mạc Thanh Cốc tức giận nói:
    - Tên đó quả thực lớn mật, dám lên tận núi Võ Đương để quấy rối.
    Trương Tùng Khê lặng lẽ đáp:
    - Lên núi Võ Đương quấy rối hôm nay đâu phải ít người? Huống chi y lại hiếp chế Vô Kỵ, tin chắc chúng ta ném chuột sợ vỡ đồ, không dám đả thương y.
    Sáu người ở trong đại sảnh thừ người suy nghĩ. Vô Kỵ đột nhiên mở mắt, kêu lên:
    - Cha ơi, cha ơi. Con đau, con đau quá.
    Thằng bé ôm chặt Trương Tam Phong, chúi đầu vào trong lòng ông già. Du Liên Châu nghẹn ngào nói:
    - Vô Kỵ, cha cháu chết rồi, cháu phải cố sống, sau này luyện thành võ công, để trả thù cho cha cháu.
    Vô Kỵ kêu lên:
    - Cháu không muốn báo thù, cháu không muốn báo thù, cháu chỉ muốn cha mẹ cháu sống lại thôi. Nhị bá, mình tha thứ hết cho những kẻ xấu xa đó, chỉ nghĩ việc làm sao cứu sống cha mẹ cháu thôi.
    Trương Tam Phong nghe mấy câu đó, nhịn không nổi nước mắt lại lã chã rơi xuống nói:
    - Tất cả thầy trò mình hết sức mà làm, may ra ông trời từ bi cho nó sống thêm được chút nào hay chút đó.
    Ông nhìn thi thể Trương Thúy Sơn, gạt lệ kêu lên:
    - Thúy Sơn, Thúy Sơn, tội nghiệp cho con quá.
    Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ lên đi vào vân phòng[13] của mình, giơ ngón tay điểm liên tiếp hai mươi tám đại huyệt trên mình thằng bé. Vô Kỵ huyệt đạo bị điểm rồi, lập tức không còn run rẩy nữa, thế nhưng khí xanh trên mặt càng lúc càng đậm. Trương Tam Phong biết rằng một khi sắc xanh biến thành đen thì tức là khí tuyệt không còn đường cứu chữa, lập tức cởi hết quần áo nó ra, chính mình cũng cởi đạo bào, ôm sát lưng Vô Kỵ vào ngực mình.
    Trong khi đó Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình ở bên ngoài lo liệu tang ma cho vợ chồng Trương Thúy Sơn. Du Liên Châu, Trương Tùng Khê, Mạc Thanh Cốc ba người đến vân phòng của sư phụ, biết sư phụ đang dùng Thuần Dương Vô Cực Công hút âm hàn độc khí trong người Vô Kỵ ra. Trương Tam Phong trước nay chưa lấy vợ, tuy đã trăm tuổi nhưng thân thể vẫn là đồng nam, tám mươi năm tu luyện, môn Thuần Dương Vô Cực Công của ông đã đến mức tột đỉnh. Ba người Du Liên Châu đứng bên hầu hạ, qua khoảng chừng nửa giờ, thấy trên mặt Trương Tam Phong lờ mờ một làn lục khí, đầu ngón tay cũng hơi run. Ông mở mắt ra, nói:
    - Liên Châu, còn vào đây thay ta, nếu khi nào chịu không nổi thì giao lại cho Tùng Khê, tuyệt đối không được miễn cưỡng.
    Du Liên Châu đáp lời nói:
    - Vâng.
    Chàng cởi trường bào, đưa tay ôm Vô Kỵ vào lòng, da thịt vừa chạm phải lưng thằng bé lập tức lạnh run, chẳng khác gì ôm một khối nước đá, liền nói:
    - Thất đệ, chú đi ra bảo đem vào vài lò than, càng nóng càng tốt.
    Một lát sau lò đem vào nhưng Du Liên Châu vẫn thấy lạnh chịu không nổi. Trương Tam Phong ngồi một bên, từ từ đem chân khí vận qua tam quan[14], thúc đẩy Nhân Uân Tử Khí[15] hóa giải từng chút từng chút một khí độc đã hút vào cơ thể. Đến khi ông hóa giải hết rồi đứng dậy thấy Mạc Thanh Cốc cũng đang chịu không nổi, liền sai đạo đồng đi gọi Tống Viễn Kiều và Ân Lê Đình vào thay.
    Công việc dùng nội lực trị thương này, công phu sâu nông, lập tức lộ ra ngoài, không thể nào giả tá được. Mạc Thanh Cốc chỉ chịu được độ thời gian uống một chén trà, còn Tống Viễn Kiều chịu được đến tàn hai nén nhang. Ân Lê Đình vừa ôm Vô Kỵ vào lòng, lập tức kêu hoảng lên, toàn thân run bần bật. Trương Tam Phong kinh hoàng kêu lên:
    - Đưa thằng bé cho ta. Con ngồi một bên ngưng thần điều tức, không để trong lòng có lẫn tạp niệm.
    Thì ra Ân Lê Đình trong lòng thương ngũ ca thảm tử nên thần bất thủ xá, mê mê tỉnh tỉnh, phải đến lúc tinh thần định tĩnh mới ôm được Vô Kỵ vào lòng. Cứ như thế sáu người luân phiên, trong suốt ba ngày ba đêm đầu tiên không nề gian khổ, từ từ hóa giải hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, thời gian mỗi người chịu đựng được mỗi lúc một dài thêm. Đến ngày thứ tư, sáu người mới có thể lợi dụng lúc ở không chợp mắt được một chút. Từ ngày thứ tám trở đi, mỗi người chia ra giúp Vô Kỵ liệu thương hai giờ, thì giờ còn lại từ từ tu bổ lại nội lực đã mất mát.
    Lúc đầu Vô Kỵ tiến triển rất nhanh, hàn khí trong cơ thể mỗi ngày một giảm, thần trí mỗi ngày một khôi phục, đã bắt đầu ăn uống được, ai nấy đều hi vọng cái mạng sống nho nhỏ của nó có cơ cứu chữa. Nào ngờ đến ngày thứ ba mươi sáu, Du Liên Châu bỗng nhiên phát giác, dù cho chàng có thúc đẩy nội lực thế nào chăng nữa, vẫn không thể hút bớt được một chút hàn độc nào trong cơ thể của Vô Kỵ. Thế nhưng thân thể thằng bé vẫn lạnh, trên mặt khí xanh vẫn chưa tan. Du Liên Châu tưởng vì công lực của mình sa sút nên vội nói với sư phụ. Trương Tam Phong thử, nhưng cũng không làm sao được. Năm ngày năm đêm liền, sáu người thiên phương bách kế dùng hết tất cả những điều biết về phép vận khí nhưng đều không công hiệu chút nào.
    Vô Kỵ nói:
    - Thái sư phụ, chân tay cháu ấm lại rồi, thế nhưng đỉnh đầu, tâm khẩu, và bụng dưới ba nơi càng lúc càng lạnh[16].
    Trương Tam Phong trong bụng kinh hãi, an ủi nó:
    - Thương thế của cháu bớt nhiều rồi, bây giờ mọi người không còn phải ôm cháu suốt ngày nữa. Thôi cháu lên giường của thái sư phụ ngủ một giấc đi.
    Trương Tam Phong gọi các đồ đệ vào trong đại sảnh, than thở:
    - Hàn độc đã xâm nhập vào trong đính môn, tâm khẩu và đan điền rồi, ngoại lực không sao giải được. Xem ra ba mươi mấy ngày tân khổ của thầy trò mình đổ xuống sông xuống biển hết.
    Ông trầm ngâm hồi lâu, nghĩ thầm: Muốn hóa giải hàn độc trong cơ thể, người ngoài không cách gì giúp đỡ được, chỉ có cách tự nó tu luyện nội công chí cao vô thượng trong Cửu Dương Chân Kinh, để lấy chí dương mà trừ chí âm. Thế nhưng khi tiên sư Giác Viễn truyền thụ kinh văn, sở học của ta chưa đủ, đến nay tuy đã bế quan mấy lần, hết sức nghiên cứu, nhưng cũng chỉ hiểu được ba bốn thành. Trước mắt chỉ còn cách dạy cho nó tự luyện, sống thêm được ngày nào hay ngày đó.
    Nghĩ thế ông bèn đem khẩu quyết và cách thức luyện Cửu Dương thần công dạy cho Vô Kỵ. Môn công phu này biến hóa phức tạp, một lời không thể nói cho hết. Một cách giản dị, sơ bộ công phu là luyện Đại Chu Thiên Bàn Vận, dùng một luồng chân khí ấm áp dẫn từ đan điền đi theo Âm Kiều Khố[17] đổ vào ba mạch Nhâm, Đốc, Xung, chạy xuống Vĩ Lữ Quan[18], sau đó chia thành hai nhánh chạy lên đi qua Lộc Lô Quan ở hai bên đốt xương sống thứ mười bốn, đi tiếp lên sau lưng qua vai, cổ cho đến tận Ngọc Trẩm Quan, đó gọi là Nghịch Vận Chân Khí Thông Tam Quan. Sau đó chân khí đi tiếp lên đến huyệt Bách Hội trên đỉnh đầu, chia làm năm nhánh, rồi tất cả chân khí trong thân thể hội tụ tại huyệt Đàn Trung (ở ngực), sau đó phân ra hai nhánh rồi lại tụ vào Đan Điền, nhập khiếu qui nguyên. Tuần hoàn một vòng như thế, thân thể chẳng khác gì được tưới nước cam lộ, trong đan điền như được đốt hương trầm, tiêu diêu tự tại cho nên gọi là Nhân Uân Tử Khí.

  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhân Uân Tử Khí này khi luyện đã đến mức hỏa hầu tương đương thì có thể hóa giải hàn độc tụ trong đan điền. Đạo lý của các môn phái không khác nhau bao nhiêu, nhưng phương pháp luyện thì lại không giống. Tâm pháp mà Trương Tam Phong dạy cho Vô Kỵ nếu nói về uy lực phải nói là thiên hạ đệ nhất.
    Trương Vô Kỵ cứ theo đó mà luyện, luyện được hơn hai năm, khí Nhân Uân trong đan điền cũng đã tiểu thành, có điều hàn độc đã phân tán đi các mạch kinh lạc nên không cách gì hóa trừ được. Lục khí trên mặt ngày một đậm thêm, mỗi khi hàn độc phát tác, càng lúc càng thêm ghê gớm. Trong hai năm đó, Trương Tam Phong toàn lực chiếu cố đến sự tu tập của Vô Kỵ, còn bọn Tống Viễn Kiều cố gắng đi khắp nơi tìm kiếm tiên đan diệu dược, nào là dã sơn nhân sâm trên trăm năm, thủ ô thành hình, phục linh tuyết sơn các loại trân quí linh vật, cho thằng nhỏ uống không biết bao nhiêu mà kể, nhưng chẳng khác gì dã tràng se cát. Mọi người thấy nó mỗi ngày một tiều tụy, ốm yếu, mặc dầu ai nấy cố vui cười, nhưng trong lòng đều thương xót, nghĩ đến hạt máu sau cùng của Trương Thúy Sơn không còn cách gì bảo tồn.
    Phái Võ Đương vì bận rộn việc cứu thương trị bệnh, đâu còn thì giờ nào nghĩ đến chuyện truy tầm kẻ đã hại Du Đại Nham và kẻ thù của Vô Kỵ. Trong hai năm đó, Thiên Ưng giáo chủ Ân Thiên Chính mấy lần sai người sang thăm cháu ngoại, đưa tặng rất nhiều lễ vật quí giá. Võ Đương chư hiệp trong lòng căm tức Thiên Ưng giáo gián tiếp gây hại cho Du, Trương hai người, lần nào cũng đuổi sứ giả xuống núi, trả lại lễ vật, không lấy cái gì. Một lần Mạc Thanh Cốc còn đánh cho sứ giả một trận, nên từ đó Ân Thiên Chính không sai người lên núi Võ Đương nữa.
    Một hôm nhân tiết Trung Thu, chư hiệp phái Võ Đương cùng sư phụ làm tiệc thưởng trăng. Tiệc chưa dọn ra, Vô Kỵ đột nhiên phát bệnh, mặt xanh lè, run cầm cập không ngừng. Y sợ mọi người mất vui, nên cắn răng cố nhịn, nhưng tình cảnh đó ai mà không biết?
    Ân Lê Đình bế Vô Kỵ vào phòng cho nó ngủ, lấy chăn đắp cho thằng bé, lại gầy một lò lửa lớn bên cạnh. Trương Tam Phong bỗng nói:
    - Ngày mai ta dẫn Vô Kỵ lên Tung Sơn Thiếu Lâm tự một chuyến.
    Mọi người hiểu ngay tâm ý của sư phụ, biết ông không còn cách nào khác hơn, bất dắc dĩ phải cúi đầu trước phái Thiếu Lâm, tự mình lên gặp Không Văn đại sư cầu giáo, hi vọng các cao tăng chùa Thiếu Lâm bổ túc cho chỗ bất toàn trong Cửu Dương thần công, ngõ hầu cứu mạng Vô Kỵ.
    Hai năm trước, sau khi gặp nhau trên núi Võ Đương, hiềm khích hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương càng sâu hơn trước. Trương Tam Phong là tông sư khai sáng ra một môn phái, đã hơn trăm tuổi, phải gác bỏ địa vị tôn quí của mình xuống cầu cạnh phái Thiếu Lâm, quả thực mất hết thân phận. Mọi người nghĩ đến tình nghĩa với Trương Thúy Sơn, biết rằng một khi Trương Tam Phong đã lên Tung Sơn cầu học rồi, từ nay phái Võ Đương mỗi khi nhìn thấy phái Thiếu Lâm không còn sao ngửng đầu lên được nữa, dù chỉ là cái hư danh cũng đành phải bỏ đi.
    Thực ra phái Nga Mi cũng được truyền thụ một phần Cửu Dương Chân Kinh nhưng chưởng môn phái Nga Mi là Diệt Tuyệt sư thái tính tình cực kỳ cổ quái khó chịu, Trương Tam Phong đã mấy lần sai Ân Lê Đình đem thư lên yêu cầu, Diệt Tuyệt sư thái đến bao thư cũng không mở ra xem, chỉ nguyên phong gửi lại. Trước mắt ngoài việc hạ mình trước phái Thiếu Lâm xem ra không còn đường nào khác.
    Nếu như Tống Viễn Kiều và các sư đệ lên chùa Thiếu Lâm cầu giáo, tuy có giữ được phần nào thể diện cho phái Võ Đương, nhưng Không Văn đại sư ắt sẽ không đem chân quyết của Cửu Dương Chân Kinh ra truyền cho. Mọi người nghĩ đến uy danh hiển hách của phái Võ Đương trong hai, ba mươi năm qua từ nay phải chịu đứng sau phái Thiếu Lâm, ai nấy đều u uất không vui. Bữa tiệc khánh hạ thưởng trăng, mỗi người chỉ u sầu uống vài chén rồi chấm dứt.
    Sáng sớm hôm sau, Trương Tam Phong dẫn Vô Kỵ ra đi. Năm người đệ tử ý muốn theo hầu nhưng Trương Tam Phong nói:
    - Nếu mình đi đông không khỏi khiến cho phái Thiếu Lâm khởi nghi, chi bằng để ta một già một trẻ đi thì hơn.
    Hai người cỡi một con lừa đen, đi thẳng về hướng bắc. Võ Đương, Thiếu Lâm hai đại tông phái thực ra rất gần, từ núi Võ Đương ở tỉnh Ngạc phía bắc đến Tung Sơn ở đất Dự phía tây, chỉ vài ngày đã tới. Trương Tam Phong và Vô Kỵ từ Lão Hà Khẩu đi qua sông Hán Thủy, đến Nam Dương, đi về hướng bắc qua Nhữ Châu, lại quẹo qua hướng tây là đến Tung Sơn.
    Hai người đi lên núi Thiếu Thất, đem con lừa buộc vào gốc cây, xuống đi bộ. Trương Tam Phong quay về chốn cũ, nhớ lại hơn tám mươi năm trước, sư phụ Giác Viễn gánh đôi thùng sắt chạy trốn, mang theo Quách Tương và mình xuống núi Thiếu Lâm, lúc này nghĩ lại tưởng như ở một kiếp nào. Ông trong lòng hết sức cảm khái, nắm tay Vô Kỵ chậm rãi lên núi, thấy năm ngọn núi vẫn như xưa, rừng bia đá vẫn chẳng khác, nhưng Giác Viễn, Quách Tương đã ra người thiên cổ tự bao giờ.
    Hai người đến một vi đình[19] nhìn lên chùa Thiếu Lâm, thấy hai nhà sư đang cười cười nói nói đi tới. Trương Tam Phong hỏi thăm nói:
    - Phiền thông báo là Võ Đương Trương Tam Phong cầu kiến phương trượng đại sư.
    Hai nhà sư nọ nghe thấy tên Trương Tam Phong đều giật mình kinh hãi, chăm chú nhìn xem thực hay giả, chỉ thấy ông cao lớn khác thường, râu tóc bạc phơ, mặt mũi hồng nhuận sáng bóng, cười hà hà rất dễ mến, bộ đạo bào xanh trông thật dơ bẩn khó coi. Nên biết Trương Tam Phong tính tình tự tại, không để ý đến bề ngoài, khi còn trẻ, giang hồ sau lưng ông vẫn thường gọi là Liệp Thạp Đạo Nhân[20], có người gọi ông là Trương Liệp Thạp, nhưng sau này võ công càng ngày càng cao, uy danh càng ngày càng lớn nên không ai dám gọi tên đó nữa. Hai nhà sư nghĩ thầm: Trương Tam Phong là đại tông sư của phái Võ Đương, phái này với phái Thiếu Lâm ta vốn bất hòa, không lẽ ông ta đến đây để sinh sự đánh nhau chăng?. Họ thấy ông dắt một đứa trẻ chừng mười một, mười hai tuổi gầy ốm xanh xao, cả hai người đều không lấy gì làm khác thường, không hiểu có gì ghê gớm. Một nhà sư hỏi lại:
    - Có thực ông là Trương Trương chân nhân của phái Võ Đương không?
    Trương Tam Phong cười đáp:
    - Quả thực chính hiệu hàng thật, không phải giả mạo.
    Tăng nhân kia nghe ông nói chuyện không có vẻ gì trang nghiêm khí khái của một tông sư môn phái, lại càng không tin, hỏi thêm:
    - Ông không nói đùa đấy chứ?
    Trương Tam Phong cười:
    - Trương Tam Phong thì có cái gì đâu? Mạo danh ông ta để làm gì?
    Hai nhà sư bán tín bán nghi, vội chạy về chùa thông báo. Một lúc sau, bỗng thấy cửa chùa mở rộng, phương trượng Không Văn đại sư dẫn hai sư đệ Không Trí, Không Tính đi ra. Đằng sau ba người còn thêm mười lão hòa thượng mặc tăng bào màu vàng. Trương Tam Phong biết đây là những trưởng lão trong Đạt Ma viện, vai vế có khi còn cao hơn cả phương trượng, ở trong chùa chỉ tinh nghiên võ học, không hỏi đến việc ngoài, chắc là nghe tin chưởng môn phái Võ Đương đến, hết sức kinh dị, nên cùng phương trượng nghênh tiếp.
    Trương Tam Phong đi ra khỏi đình, khom lưng hành lễ nói:
    - Đâu đáng để phương trượng và chúng vị đại sư nhọc lòng ra ngoài nghênh đón như thế?
    Cả bọn Không Văn đều chắp tay hành lễ. Không Văn nói:
    - Trương chân nhân từ xa đến, quả thực ngoài dự liệu của tiểu tăng, không biết có chuyện gì sai khiến?
    Trương Tam Phong nói:
    - Bần đạo có một chuyện muốn cầu.
    Không Văn nói:
    - Mời ngồi, mời ngồi.
    Trương Tam Phong vào trong đình an vị rồi, lập tức có tăng nhân đem trà tới. Trương Tam Phong bực mình nghĩ thầm: Ta dẫu gì cũng là tông sư một phái, tính ra còn là tiền bối của các ngươi, sao không mời ta vào chùa, để ta ngồi ở giữa lưng chừng núi như thế này? Không nói gì ta, đến một người khách thường, lễ mạo cũng không thể thiếu chu đáo như thế. Thế nhưng tính ông vốn dễ dãi, chỉ nghĩ thoáng như thế nhưng không để tâm.
    Không Văn nói:
    - Trương chân nhân quang giáng tệ sơn, đáng ra phải cung nghinh vào chùa. Thế nhưng khi còn trẻ, Trương chân nhân vốn không từ biệt mà đi khỏi chùa Thiếu Lâm, qui củ của bản phái mấy trăm năm qua, chắc Trương chân nhân cũng đã biết rồi, phàm là khí đồ, bạn đồ của môn phái, chung thân không được đặt chân vào chùa, nếu bước vào sẽ bị chặt chân.
    Trương Tam Phong cười ha hả, nói:
    - Thì ra là thế. Bần đạo khi còn nhỏ, tuy đã từng ở chùa Thiếu Lâm phục thị Giác Viễn đại sư, nhưng chỉ là những việc tạp dịch, quét nhà châm trà, chưa hề xuống tóc, cũng chưa bái sư, không thể nói là đệ tử chùa Thiếu Lâm.
    Không Trí lạnh lùng nói:
    - Thế nhưng Trương chân nhân cũng đã học lén võ công chùa Thiếu Lâm mà đi.
    Trương Tam Phong tức bực dâng lên, nhưng nghĩ lại ngay: Võ công của phái Võ Đương ta, tuy toàn do ta tiềm tâm sáng tác, nhưng suy từ nguồn gốc, nếu không được Giác Viễn đại sư truyền cho Cửu Dương Chân Kinh, Quách nữ hiệp tặng cho một đôi Thiếu Lâm Thiết La Hán, thì những võ công sau này cũng không có chỗ nào làm điểm tựa. Y nói võ công ta từ Thiếu Lâm mà ra, cũng không phải là sai. Nghĩ thế ông tâm bình khí hòa nói:
    - Bần đạo được như ngày nay, quả thực từ đó mà ra.
    Không Văn và Không Trí hai người đưa mắt nhìn nhau, nghĩ thầm: Không biết ông ta tới đây làm gì? Chắc hẳn không phải có ý gì tốt, phần lớn vì chuyện Trương Thúy Sơn mà đến đây gây chuyện. Không Văn liền nói:
    - Xin nói rõ hơn.
    Trương Tam Phong nói:
    - Không Trí đại sư mới vừa nói, võ công của bần đạo từ Thiếu Lâm mà ra, lời đó quả không sai. Bần đạo năm xưa phục thị Giác Viễn đại sư, được may mắn dạy cho Cửu Dương Chân Kinh. Bộ kinh thư đó bác đại tinh thâm, nhưng khi đó bần đạo tuổi còn nhỏ, sở học bất toàn, đến nay vẫn lấy làm tiếc. Sau đó tại nơi hoang sơn, Giác Viễn đại sư tụng kinh chỉ có ba người may mắn được nghe, một vị là sáng phái tổ sư phái Nga Mi Quách nữ hiệp, một vị là Vô Sắc thiền sư của quí phái, còn một người nữa chính là bần đạo. Bần đạo tuổi nhỏ nhất, tư chất lại ngu độn, không có võ học căn cơ, trong ba phái thì sở đắc ít hơn hết.
    Không Trí lạnh lùng nói:
    - Chưa hẳn như thế. Trương chân nhân từ nhỏ phục thị Giác Viễn, không lẽ ông ta không truyền riêng cho cái gì? Hôm nay phái Võ Đương danh dương thiên hạ, cũng đều là công lao của Giác Viễn.
    Bối phận của Giác Viễn so với Không Trí cao hơn ba bậc, nếu đúng ra ông ta phải gọi bằng thái sư thúc tổ, thế nhưng vì Giác Viễn chạy trốn khỏi chùa Thiếu Lâm, bị coi như khí đồ[21], vai vế trong môn phái cũng không còn nữa, thành ra trong ngôn ngữ của Không Trí không phải giữ lễ.
    Trương Tam Phong đứng dậy, cung kính nói:
    - Ân đức của tiên sư, bần đạo không khi nào dám quên.
    Trong bốn đại thần tăng của phái Thiếu Lâm, Không Kiến bụng dạ từ bi, tiếc rằng chết sớm, Không Văn trầm tĩnh kín đáo, vui buồn không lộ ra mặt, Không Tính ngờ nghệch, bẩm tính hồn nhiên, không thông thế sự, Không Trí là người bụng dạ hẹp hòi, thường cho rằng Trương Tam Phong học lén võ công của chùa Thiếu Lâm ra đi, nhưng phái Võ Đương tiếng tăm lại còn lừng lẫy hơn cả Thiếu Lâm, trong lòng lúc nào cũng hậm hực. Y nghĩ rằng lần này Trương Tam Phong đến chùa Thiếu Lâm, chắc là vì vụ Trương Thúy Sơn mà đến báo thù. Huống chi hôm đó trước khi chết, Ân Tố Tố lại giả vờ nói cho Không Văn nghe tung tích của Tạ Tốn, cái kế Di Họa Giang Đông thật là độc ác. Trong hai năm qua, cứ vài ba ngày lại có một nhân sĩ võ lâm đến chùa Thiếu Lâm làm phiền, hoặc công khai tiến vào, hoặc len lén dòm dỏ, khi ngọt ngào cầu khẩn, kẻ hung hăng tra vấn, không lúc nào không có người đến hỏi thăm nơi chốn trú ẩn của Tạ Tốn.
    Không Văn đã thề sống thề chết là quả thực không biết, nhưng hôm đó tại Tử Tiêu Cung trên núi Võ Đương, các môn phái trăm người như một ai ai cũng nhìn thấy Ân Tố Tố nói riêng cho Không Văn nghe, còn giả làm sao được? Dù Không Văn nói năng giải thích thế nào, người ngoài đời nào chịu nghe, cho nên tháng nào cũng có vài lần động võ. Người đến chùa chết hay bị thương cũng nhiều, còn cao thủ của Thiếu Lâm thương tổn cũng không phải là ít. Cứ suy cứu ra, tất cả cũng đều do cái mầm họa mà phái Võ Đương cấy vào.
    Cái căm tức của chùa từ trên xuống dưới trong hai năm qua, hôm nay muốn chiết nhục Trương Tam Phong một phen cho hả. Không Trí liền nói:
    - Trương chân nhân đã tự nhận là học lén võ công từ chùa Thiếu Lâm mà ra, tiếc rằng lời nói đó không có ai ngoài nghe thấy, nếu không truyền ra ngoài cho cả giang hồ mọi người thì hay biết mấy.
    Trương Tam Phong nói:
    - Hoa sen hồng hoa sen trắng, võ học thiên hạ cũng một nhà mà thôi, nhưng hàng nghìn năm qua, lấy sở trường bổ túc sở đoản, còn chân chính nguồn gốc cũng không thể nào phân biệt được. Thiếu Lâm phái đã là lãnh tụ võ lâm rồi, trong mấy trăm năm ai cũng công nhận, bần đạo hôm nay lên núi, chính vì hâm mộ võ công quí phái, biết là không bằng, nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư.
    Cả bọn Không Văn, Không Trí nghe thấy câu nên muốn cầu giáo chúng vị đại sư lại tưởng đây là lời khiêu chiến, không khỏi ai nấy biến sắc, nghĩ thầm lão đạo sĩ này tu luyện đã đến trăm tuổi, võ công cao siêu không biết đâu mà lường, trên đời còn ai là địch thủ của ông ta nữa. Ông ta một mình lên đây, ắt phải có gì ghê gớm lắm nên không sợ hãi, chắc là trong hai năm qua luyện thành một môn võ công vô cùng lợi hại.
    Trong nhất thời, ba nhà sư không ai dám trả lời. Sau cùng Không Tính mới nói:
    - Lão đạo giỏi nhỉ, nếu ông muốn đấu võ với chúng tôi, Không Tính này không có sợ đâu. Trong chùa Thiếu Lâm có cả trăm, ngàn hòa thượng cùng xông lên, chưa chắc ông đã đánh đổ được Thiếu Lâm tự.
    Tuy miệng ông ta nói không sợ nhưng trong lòng quả thật hãi lắm, nên vội lấy cái số đông trăm, ngàn người cùng xông lên để rào trước. Trương Tam Phong vội nói:
    - Các vị đại sư đừng nên hiểu lầm, bần đạo nói đến cầu giáo, là thực lòng muốn xin chỉ điểm. Chỉ vì bần đạo tu tập Cửu Dương Chân Kinh do tiên sư truyền cho, bên trong còn nhiều chỗ nghi nan bất giải, không được đầy đủ. Chúng vị cao tăng chùa Thiếu Lâm tinh thâm võ học, nếu như có bụng chỉ giáo để cho Trương Tam Phong được nghe đạo lớn, thì cảm kích không biết chừng nào.
    Nói xong ông đứng dậy vái một cái thật sâu. Những lới nói đó của Trương Tam Phong, quả thực ra ngoài dự liệu của chư tăng chùa Thiếu Lâm. Ông là người thần công đời nay không ai bì kịp, khai tông sáng phái, tu luyện đã chín mươi năm, trong võ lâm hiện thời, thanh vọng đã lớn, thân phận lại cao, làm sao tưởng nổi việc hôm nay ông lên chùa Thiếu Lâm xin học thêm?
    Không Văn vội vàng hoàn lễ, nói:
    - Trương chân nhân đùa thế, chúng tôi hậu bối, nông cạn, đến việc xem của người, sửa của mình[22] còn chưa xong, lấy đâu ra mà nói chuyện chỉ điểm cho người khác?
    Trương Tam Phong biết rằng việc này nói ra kỳ quái, đối phương không tin lời mình, liền đem chuyện Trương Vô Kỵ bị trúng Huyền Minh thần chưởng ra sao, thân thể hàn độc không cách nào đẩy ra ngoài được, lại nói y là đứa con duy nhất của Trương Thúy Sơn, phải làm mọi cách để bảo tồn mạng sống, trước mắt ngoài việc học Cửu Dương thần công ra, không còn đường nào khác. Cũng vì lợi ích của chính phái Thiếu Lâm, ông cam nguyện đem sở học của bản môn Cửu Dương Chân Kinh toàn bộ nói cho chư tăng biết để hai bên tham ngộ bổ túc.
    Không Văn nghe nói trầm ngâm hồi lâu, nói:
    - Bảy mươi hai tuyệt kỹ của phái Thiếu Lâm, trăm nghìn năm qua chưa một tăng tục đệ tử nào luyện được trên mười hai môn. Sở học của Trương chân nhân quán tuyệt cổ kim, thế nhưng những gì liệt vị tổ sư tệ phái truyền lại quá nhiều, mười phần học một cũng đã khó khăn. Trương chân nhân nay lại đem một môn thần công trao đổi, thịnh tình đó chúng tôi rất cảm kích, nhưng đứng về bản phái mà nói, có được thêm cũng chỉ dư thừa.
    Oạng ngừng lại một chút, nói tiếp::
    - Võ công của phái Võ Đương, nguyên thủy cũng từ Thiếu Lâm, hôm nay nếu hai bên giao hoán võ học, sau này trên giang hồ không hiểu chân tướng, chẳng nghĩ là phái Võ Đương tổ thuật Thiếu Lâm, lại nghĩ phái Thiếu Lâm nhờ Trương chân nhân mới được như thế. Tiểu tăng mang địa vị chưởng môn phái Thiếu Lâm, những lời đồn đãi như thế quả thực không thể chịu nổi.
    Trương Tam Phong trong lòng than thầm: Ngươi thân danh chưởng môn của đệ nhất môn phái trong võ lâm, lại là một trong tứ đại thần tăng, vậy mà bo bo giữ cái tiếng môn hộ, bụng dạ nhỏ nhen như thế. Thế nhưng đang lúc phải cầu người, không thể nói thẳng phải trái, chỉ nói:
    - Ba vị là thần tăng đương thế, lòng dạ từ bi, mạng của đứa trẻ này chỉ trong sớm tối, mong quí vị nghĩ đến lòng từ bi cứu thế cứu nhân của Phật tổ, đáp ứng lời yêu cầu, bần đạo hết sức cảm kích cao nghĩa của quí vị.
    Thế nhưng ông nói đến rát cổ bỏng họng, ba nhà sư chùa Thiếu Lâm một mực từ chối. Sau cùng Không Văn nói:
    - Không thể tuân mệnh được, xin đừng trách cứ.
    Nói xong quay đầu lại nói với tăng nhân đứng kế bên:
    - Ngươi bảo Hương Tích Trù dọn một mâm cỗ chay thượng đẳng, đem lên đây đãi Trương chân nhân.
    Nhà sư vâng lệnh chạy đi. Trương Tam Phong thần sắc buồn rầu, xua tay:
    - Nếu thế, lão đạo phen này thật quả mạo muội. Thịnh yến không dám nhận, xin thứ tội đã đến làm phiền, vậy xin từ biệt.
    Ông đứng lên khom lưng hành lễ, nắm tay Vô Kỵ hai ông cháu lặng lẽ xuống núi.
    [1] Trong cái đẹp có điểm không toàn vẹn [2] nguyên tác ái ốc cập ô (yêu cái nhà yêu luôn cảcon chim quạ trên nhà nữa, ái kỳ nhân giả, kiêm ái ốc thượng chi ô Thuyết Uyển) [3] ngòi bút làm bằng lông chó sói [4] mực dùng để tiến cống đời Đường [5] giấy đất Tuyên Châu làm bằng cây dó [6] nghiên làm bằng đá Đoan Khê (xin đọc thêm nghiên cứu về Bút Nghiên Giấy Mực của dịch giả) [7] xin đọc thêm nghiên cứu về Thư Họa của dịch giả [8] Anh em đồng lòng thì có thể cắt được kim loại [9] thanh xuất ư lam ý nói đời sau giỏi hơn đời trước, trò giỏi hơn thầy (Thanhm thu chi ư lam, nhi thanh ư lam màu xanh từ màu lam ra, nhưng còn xanh hơn cả màu lam Tuân Tử Khuyến Học Thiên) [10] tức Huyền Võ, là thần của phương Bắc [11] Chuyết Kinh là tiếng người chồng nói nhún gọi vợ mình (người vợ vụng về, kém cỏi của tôi). Đàn bà nói nhún gọi chồng mình là Chuyết Phu (người chồng vụng về của tôi).
    [12] Dao ngắn, dao găm.
    [13] Phòng của tăng nhân hay đạo sĩ [14] xin đọc thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả để biết qua về phép dẫn khí của đạo gia [15] khí dung hợp giữa âm và dương, trời và đất (Tử ở đây là màu tím đỏ) [16] Ba nơi này nói về thượng đan điền, trung đan điền, hạ đan điền là ba vị trí trọng yếu nhất trong phép luyện nội công [17] tức huyệt Hội Âm [18] Là đốt xương sống cuối cùng, đạo gia goị là Hạ Thước Kiều (cầu Ô Thước bên dưới, đối với thượng Thước Kiều là cầu bên trên ở miệng). Khi vận khí, hành giả phải đóng hai nơi đứt đoạn tiếp nối Nhâm và Đốc Mạch nên phải uốn lưỡi lên và nhíu hậu môn. (xin xem thêm Chân Khí Vận Hành Pháp của dịch giả) [19] nhà nghỉ lợp tranh [20] đạo nhân nhếch nhác, dơ bẩn (xem thêm Thái Cực Quyền của dịch giả) [21] đệ tử bị đuổi khỏi môn hộ [22] nguyên tác dùng một câu cách ngôn tha sơn chi thạch, khả dĩ công ngọc (lấy hòn đá của núi người về đánh bóng hòn ngọc của mình) ý nói lợi dụng cái hay của người bổ khuyết cho cái khiếm khuyết của mình

  5. #34
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    HỮU NỮ TRƯỜNG THIỆT LỢI NHƯ THƯƠNG

    Đàn bà hồ đã mấy tay, Một lời gươm giáo rung cây gẫy cành.
    Trương Tam Phong dắt Vô Kỵ xuống khỏi núi Thiếu Thất, nghĩ bụng tính mệnh của thằng nhỏ không kéo dài được lâu, cũng không còn cách nào để trị bệnh nên nói chuyện vui cho nó nghe để giải sầu. Hôm đó đến bờ sông Hán Thủy, hai ông cháu thuê thuyền qua sông. Đến giữa giòng, nước sông cuồn cuộn, chiếc đò ngang nhồi lên hụp xuống, trong lòng Trương Tam Phong cũng dao động chẳng khác gì ba đào.
    Trương Vô Kỵ bỗng nói:
    - Thái sư phụ, ông đừng quá lo, cháu chết rồi sẽ gặp lại cha mẹ cháu, như thế cũng thích.
    Trương Tam Phong nói:
    - Cháu đừng nói vậy, dù thế nào chăng nữa, thái sư phụ cũng sẽ tìm cách cứu cháu được.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Cháu vẫn nghĩ rằng nếu như học được Cửu Dương thần công của phái Thiếu Lâm, cháu sẽ nói lại cho tam sư bá nghe, thế thì hay lắm.
    Trương Tam Phong hỏi:
    - Sao lại hay?
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Hi vọng là tam sư bá tu luyện võ công của cả hai phái Thiếu Lâm, Võ Đương có thể trị được chân tay khỏi tàn phế.
    Trương Tam Phong thở dài:
    - Du tam bá của cháu bị gân cốt ngoại thương, nội công có cao cường thế nào cũng không trị lành được.
    Ông nghĩ thầm: “Thằng bé này biết mình không sống được, vậy mà lại không sợ chết, lại nghĩ đến việc trị cho Du Đại Nham khỏi tàn tật, tâm địa như thế thật đúng là bản sắc của kẻ hiệp nghĩa chúng ta”. Đang định khen ngợi nó vài câu, bỗng nghe trên sông một giọng oang oang từ xa truyền đến:
    - Mau dừng thuyền lại, giao đứa trẻ cho ta, phật gia sẽ tha mạng cho, nếu không đừng trách ta vô tình.
    Tiếng nói đó từ sóng truyền đến, lọt vào tai vẫn rõ ràng, hiển nhiên kẻ đó nội lực không phải là yếu. Trương Tam Phong cười thầm trong bụng: “Kẻ nào lớn mật, dám bảo ta để thằng bé lại?” Ngẩng dầu lên ông thấy có hai chiếc thuyền đang chèo như bay từ xa tới, nhìn kỹ thấy trên một chiếc thuyền nhỏ có một đại hán râu xồm, hai tay hai mái chèo thật gấp, trong lòng thuyền còn hai đứa bé một nam một nữ. Đằng sau là một chiếc thuyền khá lớn, trong thuyền có bốn phiên tăng đứng đó, lại thêm bảy tám võ quan Mông Cổ. Bọn võ quan cầm những ván gỗ làm giầm chèo phụ. Gã râu xồm rất khỏe, mỗi lần quạt mái chèo, chiếc thuyền nhỏ vọt lên cả trượng, thế nhưng đằng sau người nhiều thế mạnh, hai chiếc thuyền mỗi lúc một xích lại gần nhau hơn. Chẳng bao lâu, bọn võ quan và phiên tăng lắp tên vào cung hướng về phía đại hán nọ bắn tới, tiếng tên bay nghe vèo vèo.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Thì ra bọn họ bảo gã râu xồm này để đứa bé lại”. Ông bình sinh ghét nhất quan binh Mông Cổ tàn sát người Hán, thấy vậy liền định bụng ra tay cứu giúp. Đại hán nọ tay trái chèo thuyền, tay phải giơ mái giầm gạt những mũi tên bắn tới, thủ pháp thật là nhanh nhẹn. Trương Tam Phong khen thầm: “Người này võ công không phải tầm thường, quả là kẻ anh hùng lâm nạn, làm sao ta có thể ngồi nhìn mà không cứu?”. Ông quay đầu nói với người lái đó:
    - Thuyền gia, chặn họ lại.
    Người chủ thuyền thấy tên bay như mưa, đã sợ mất cả hồn vía, tay chân luống cuống, đang lo chạy không kịp, làm sao lại dám tiến lên ngăn họ. Y run run đáp:
    - Lão … lão đạo gia có nói đùa không đấy?
    Trương Tam Phong thấy tình thế khẩn cấp, cướp lấy sào chống, đẩy mạnh mấy cái xuống nước, chiếc thuyền liền quay ngang, vọt ra chặn hai chiếc thuyền kia. Bỗng nghe “A” một tiếng thảm khốc, đứa con trai trên chiếc thuyền nhỏ bị trúng một mũi tên. Gã râu xồm thất kinh, cúi xuống xem xét, đầu vai và lưng lập tức trúng mấy mũi tên, mái chèo trong tay cầm không vững, rơi tõm xuống sông, chiếc thuyền liền ngừng lại. Thuyền lớn phía sau lập tức vọt lên, bảy tám tên quan quân Mông Cổ và phiên tăng liền nhảy lên trên thuyền nhỏ.
    Gã râu xồm tuy vậy vẫn bất khuất, tay đấm chân đá, hết sức chống cự. Trương Tam Phong kêu lớn:
    - Thát tử dừng tay, chớ có hành hung giết người.
    Ông vội vã chèo thêm vài cái nữa cho thuyền tới gần hơn, nhún mình một cái, hai tay áo phiêu phiêu, từ trên không nhẹ nhàng đáp xuống chiếc thuyền nhỏ. Hai tên quan binh Mông Cổ nhắm vào ông bắn tới Trương Tam Phong vẫy tay áo hất hai mũi tên ra ngoài. Chân ông vừa chạm thuyền, chưởng trái liền đánh ra, lập tức hai tên phiên tăng bị văng ra xa hơn một trượng, bõm bõm hai tiếng, rơi thẳng xuống sông. Bọn võ quan thấy ông như thiên tướng từ trời bay xuống, vừa ra tay đã đánh hai tên phiên tăng cao cường nhất bay đi, không khỏi kinh hãi. Tên võ quan thủ lãnh quát lớn:
    - Lão đạo khùng kia, ngươi làm gì thế?
    Trương Tam Phong mắng lại:
    - Bọn Thát tử chó má, chỉ giỏi hành hung tác ác, tàn hại lương dân, có cút đi không nào?
    Tên võ quan kia đáp:
    - Ngươi biết tên này là ai không? Y là dư đảng của phản tặc ma giáo ở Viên Châu, cả thiên hạ ai ai cũng muốn tróc nã khâm phạm.
    Trương Tam Phong nghe thấy “phản tặc ma giáo ở Viên Châu”, giật mình kinh hãi, nghĩ thầm: “Không lẽ y là thuộc hạ của Chu Tử Vượng?”, quay đầu lại hỏi đại hán râu xồm:
    - Y nói có đúng không?
    Người râu xồm toàn thân máu me, tay trái ôm đứa con trai, hổ nhãn rưng rưng, nói:
    - Tiểu chúa công … tiểu chúa công bị chúng nó bắn chết rồi.
    Câu đó vô hình chung thừa nhận thân phận của mình. Trương Tam Phong trong lòng lại càng kinh khủng hơn, hỏi:
    - Phải chăng đây là lang quân của Chu Tử Vượng?
    Đại hán trả lời:
    - Đúng thế, tiểu nhân phụ lòng ủy thác rồi, cái mạng nhỏ này cũng không muốn sống nữa.
    Y nhẹ nhàng đặt cái xác đứa bé xuống, xông vào viên quan kia. Thế nhưng y vốn đã bị thương, trên vai trên lưng hai mũi tên còn cắm vào, đầu tên lại có tẩm thuốc độc, vừa nhảy lên đã kêu một tiếng "Ối" rồi ngã lăn ra sàn thuyền. Cô bé gái kia thì ôm một xác chết đàn ông ở trong khoang, khóc lớn:
    - Cha ơi, cha ơi.
    Trương Tam Phong nhìn trang phục người đó, hiển nhiên là người chủ thuyền. Ông nghĩ thầm: “Nếu mình biết là nhân vật trong ma giáo, chuyện không đâu này mình đã không nhúng tay vào. Thế nhưng mình đã ra tay thì không thể nửa chừng rồi bỏ được”. Ông quay qua nói với tên võ quan:
    - Đứa trẻ này đã chết, còn người kia đã trúng độc tiễn, trong chốc lát cũng sẽ chết theo, các ngươi đã lập công rồi, thôi đi nơi khác.
    Tên võ quan nói:
    - Không được, phải chặt hai cái thủ cấp đó mới xong.
    Trương Tam Phong nói:
    - Sao ngươi lại quá quắt đến thế?
    Gã võ quan hỏi lại:
    - Lão đạo là ai? Cớ gì lại nhúng tay vào việc này?
    Trương Tam Phong mỉm cười, nói:
    - Ngươi hỏi ta làm gì? Việc thiên hạ thì người trong thiên hạ ai chẳng làm được.
    Tên võ qua đưa mắt, nói:
    - Đạo trưởng đạo hiệu là chi? Xuất gia ở đạo quan nào?
    Trương Tam Phong chưa kịp trả lời, hai tên quan quân Mông Cổ đột nhiên vung trường đao, nhắm vai ông chém xuống. Thế hai lưỡi đao đó xuống thật nhanh, trong chiếc thuyền nhỏ cách nhau lại gần không cách gì có thể tránh được.
    Trương Tam Phong nghiêng người, ông vốn dĩ quay mặt về phía đầu thuyền, ông chỉ xoay nhẹ, mặt quay sang phía trái, hai lưỡi đao liền chém vào khoảng không. Hai chưởng ông vung lên, đẩy luôn vào lưng của hai tên đó, quát:
    - Cút đi.
    Chưởng lực nhả ra, hai tên võ quan bay lên, nghe bình bình hai tiếng, rơi trúng ngay cái thuyền bọn chúng vừa đi. Mấy chục năm nay ông không cùng ai động thủ quá chiêu, lúc này ra tay quả là dùng dao mổ trâu để giết gà nhưng vẫn nhanh nhẹn như thường. Gã võ quan đầu lãnh kia há hốc mồm, lập cập nói:
    - Ngươi … ngươi … ngươi … có phải là … là … Trương Tam Phong tay áo vũ động, quát lớn:
    - Lão đạo trước nay chỉ chuyên giết Thát tử thôi.
    Các võ quan và phiên tăng chỉ thấy gió thổi ập vào mặt, ai nấy đều khó thở. Khi Trương Tam Phong ngừng tay, mọi người mặt trắng bệch, đều cùng la hoảng, tranh nhau chạy về thuyền lớn, cứu mấy phiên tăng rơi dưới nước rồi vội vã chèo đi.
    Trương Tam Phong lấy trong bọc ra đơn được, nhét vào mồm đại hán râu xồm, chèo chiếc thuyền nhỏ đến chiếc đò ngang, định đỡ y qua, nào ngờ đại hán đó tính tình thật cứng cỏi, một tay ôm xác đứa con trai, một tay ôm đứa con gái, nhẹ nhàng nhảy qua thuyền bên kia. Trương Tam Phong thầm gật đầu: “Người này đã bị thương nặng, vậy mà vẫn trung với ấu chúa như thế, quả thực là một hảo hán tử khí khái. Tuy lần này ta lỡ tay cứu y, nhưng người như thế ra tay cứu cũng đáng”. Oạng qua trở lại chiếc đò ngang, giúp đại hán nọ nhổ những mũi tên độc ra, bôi thuốc trị thương. Đứa con gái nhìn xác cha theo chiếc thuyền trôi đi, chỉ còn nước ngồi khóc. Gã râu xồm nói:
    - Bọn cẩu quan thật là tàn ác, vừa lên thuyền là bắn chết ngay thuyền phu, nếu lão đạo gia không cứu kịp, đứa con gái nhà thuyền chài kia chắc cũng bị chúng giết chết.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Hiện thời Vô Kỵ không đi lại được, hán tử này lại là khâm phạm, nếu vào nghỉ trong khách điếm tại Lão Hà Khẩu ta phải chiếu cố cho cả hai người, e chẳng chu toàn được”. Ông lấy ra ba lượng bạc giao cho người lái thuyền, nói:
    - Chú lái đò ơi, phiền chú thuận theo dòng đi về hướng đông, qua Tiên Nhân Độ cho chúng tôi lên Thái Bình điếm nghỉ ngơi.
    Người lái đò thấy ông đánh bọn quan binh Mông Cổ một trận tơi bời hoa lá, vốn đã vạn phần kính sợ, huống chi lại được thưởng nhiều tiền như thế, lập tức luôn mồm vâng dạ, bẻ lái thuyền qua hướng đông.
    Đại hán đó ở tại sàn thuyền khấu đầu nói:
    - Lão đạo gia cứu mạng cho tiểu nhân, Thường Ngộ Xuân này xin rập đầu bái tạ.
    Trương Tam Phong đưa tay đỡ dậy, nói:
    - Thường anh hùng không cần phải dùng đại lễ.
    Vừa nắm tay y, thấy bàn tay lạnh như băng, hơi kinh hoảng, vội hỏi:
    - Phải chăng Thường anh hùng đã bị nội thương?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tiểu nhân từ Tín Dương hộ tống tiểu chủ xuôi Nam, giữa đường bốn lần tiếp chiến với bọn ưng trảo của Thát Đát đuổi theo, trên ngực và sau lưng bị một phiên tăng đánh trúng hai chưởng.
    Trương Tam Phong cầm cổ tay, thấy mạch nhảy rất yếu, vội cởi áo y ra để xem vết thương, lại càng kinh hãi, thấy chỗ trúng chưởng sưng vù lên cả tấc, không phải là nhẹ, giá như người khác chắc không chịu nổi. Người này chạy trốn hàng ngàn dặm, lại còn phải chống trả cường địch, quả là anh hùng. Thấy vậy ông liền khuyên y đừng nói năng nhiều, chỉ ở trong khoang tĩnh dưỡng.
    Cô bé gái tuổi chừng lên mười, quần áo cũ kỹ, hai chân không mang giày dép, tuy con nhà thuyền chài nghèo khổ, nhung mặt mày xinh xắn, thể nào sau này cũng thành một mỹ nhân, chỉ ngồi sụt sùi gạt nước mắt. Trương Tam Phong thấy cô bé đáng thương, hỏi:
    - Cô nương, tên cô là gì?
    Cô gái đáp:
    - Cháu họ Chu, tên là Chu Chỉ Nhược.
    Trương Tam Phong nghĩ thầm: “Con nhà thuyền chài mà sao đặt tên thật hay” nên hỏi tiếp:
    - Thế nhà cháu ở đâu? Trong nhà còn những ai? Để ta gọi đò đưa cháu về.
    Chu Chỉ Nhược gạt lệ đáp:
    - Chỉ có hai cha con cháu sống với nhau trên thuyền thôi … chứ không có ai khác.
    Trương Tam Phong ớ một tiếng, nghĩ thầm: “Cô gái này nhà tan người mất, lại bé bỏng quá, làm thế nào bây giờ đây?” Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo gia võ công cao cường, từ xưa tới nay, tiểu nhân chưa thấy ai như thế bao giờ, xin vô phép hỏi pháp hiệu của ngài là gì?
    Trương Tam Phong cười:
    - Lão là Trương Tam Phong.
    Thường Ngộ Xuân “A!” lên một tiếng, vội nhỏm dậy, lớn tiếng:
    - - Hóa ra lão đạo gia là Trương Chân Nhân của núi Võ Đương, thảo nào thần công cái thế, Thường Ngộ Xuân hôm nay may mắn được gặp tiên trưởng.
    Trương Tam Phong mỉm cười:
    - Lão đạo bất quá sống hơn vài năm, có gì là tiên với lại không tiên. Xin Thường anh hùng mau nằm xuống, đừng làm động đến vết thương.
    Ông thấy Thường Ngộ Xuân khẳng khái hào sảng, ăn nói ào ào, cảm thấy mến y vô cùng, nhưng nghĩ đến y là người trong ma giáo, nên không muốn nói chuyện nhiều, liền nhạt nhẽo:
    - Ngươi bị thương không phải là nhẹ, chớ nên nói nhiều.
    Trương Tam Phong tính tình khoáng đạt, đối với chính tà hai đường, vốn không quá thiên kiến. Trước đây ông đã từng nói với Trương Thúy Sơn:
    - Hai chữ chính tà, thật khó phân biệt. Đệ tử trong chính phái mà có tâm thuật bất chính, thì cũng là tà đồ; còn trong tà phái có người nhất tâm hướng thiện, thì cũng là chính nhân quân tử.
    Lại còn nói giáo chủ Thiên Ưng giáo là Ân Thiên Chính tuy tính tình nóng nảy, hành sự khác người, nhưng cũng là kẻ quang minh lỗi lạc, có thể kết làm bạn được. Thế nhưng từ khi Trương Thúy Sơn tự vẫn mà chết, ông thương đứa học trò yêu, đối với Thiên Ưng giáo hết sức căm giận, tự nhủ đệ tử thứ ba Du Đại Nham cả đời tàn phế, đệ tử thứ năm Trương Thúy Sơn thân tử danh liệt, cũng do Thiên Ưng giáo mà ra. Tuy nén lòng không đi kiếm Ân Thiên Chính hỏi tội phục thù, nhưng dù bụng dạ có rộng rãi đến đâu, hai chữ “tà ma” càng lúc càng thấy ghét bỏ.
    Kẻ tên gọi Chu Tử Vượng kia chính là đại đệ tử của Di Lặc Tông trong Minh giáo, năm trước khởi sự tại Viên Châu đất Giang Tây, tự lập làm đế, lấy quốc hiệu là Chu, chẳng bao lâu bị quân Nguyên tiêu diệt, còn Chu Tử Vượng bị bắt chém đầu. Di Lặc Tông và Thiên Ưng giáo tuy không cùng một phái nhưng đều là chi lưu của Minh giáo, có liên hệ với nhau rất sâu xa. Khi Chu Tử Vượng khởi sự, Ân Thiên Chính có thanh viện[1] tại Triết Giang. Trương Tam Phong hôm nay cứu Thường Ngộ Xuân, chỉ vì nhất thời lòng hiệp nghĩa khích động, và lúc đầu cũng không biết y thuộc Minh giáo, nên không lấy gì hợp với bản nguyện.
    Canh hai đêm đó thuyền đến Thái Bình điếm. Trương Tam Phong bảo thuyền phu rời thị trấn đến một cái bến ở xa. Người lái đò lên chợ mua đồ ăn, nấu cơm, bày trên thuyền nào thịt gà, thịt heo, cá, rau cả thảy đến bốn bát lớn. Trương Tam Phong bảo Thường Ngộ Xuân và Chu Chỉ Nhược ăn trước, còn tự mình đút cho Trương Vô Kỵ ăn. Thường Ngộ Xuân hỏi nguyên do, Trương Tam Phong nói là y bị hàn độc xâm nhập tạng phủ, đã điểm huyệt đạo các nơi, tạm thời chưa nguy đến tính mệnh. Trương Vô Kỵ tủi thân, nghẹn ngào không nuốt nổi miếng cơm xuống họng. Trương Tam Phong lại gặng đút nữa, y lắc đầu, không chịu ăn.
    Chu Chỉ Nhược đón lấy chén cơm trong tay Trương Tam Phong, nói:
    - Đạo trưởng ăn trước đi, để cháu bón cơm cho vị tiểu tướng công này.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Ta no rồi, không muốn ăn nữa.
    Chu Chỉ Nhược nói:
    - Tiểu tướng công, nếu anh không ăn, lão đạo trưởng trong lòng không vui, ăn cơm không nổi, chẳng hóa ra cũng bị đói ư?
    Trương Vô Kỵ nghĩ cô ta nói quả không sai, nên khi Chu Chỉ Nhược đưa cơm tới miệng vội há mồm ăn. Chu Chỉ Nhược gỡ hết xương cá, xương gà, mỗi miếng cơm lại rưới thêm tí nước thịt, Trương Vô Kỵ ăn thấy thật ngon miệng, hết cả một bát lớn.
    Trương Tam Phong trong lòng thấy an ủi, nghĩ thầm: "Vô Kỵ số khổ, từ bé cha mẹ chết sớm, lại bị bệnh nặng. Nếu được người con gái có ý tứ thế này chăm sóc quả thật là hay”.
    Thường Ngộ Xuân không đụng tới thịt cá, chỉ ăn sạch bát rau, tuy đang trọng thương, nhưng cũng ăn hết bốn bát cơm trắng. Trương Tam Phong không kiêng thịt, thấy y ăn uống thật hào sảng, nên khuyên y ăn tí thị gà. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, tiểu nhân thờ Bồ Tát nên không ăn mặn.
    Trương Tam Phong “A” một tiếng:
    - Ồ lão đạo quên.
    Lúc đó mới nhớ là người trong ma giáo qui củ rất nghiêm, không ăn mặn, từ đời Đường tới giờ, đều thế cả. Cuối thời Bắc Tống, đại thủ lãnh của Minh giáo là Phương Lạp khởi sự tại Triết Đông, đương thời quan cũng như dân gọi họ là “đạo ăn chay thờ ma”. Ăn chay và phụng thờ ma vương là hai qui luật lớn của ma giáo, đã truyền từ mấy trăm năm nay. Đời nhà Tống, quan phủ chém giết ma giáo rất ngặt, người trong võ lâm cũng coi họ chẳng ra gì, vì thế giáo đồ hành sự cực kỳ ẩn bí, tuy ăn chay nhưng đối với người ngoài phải giả xưng là thờ Phật, bái Bồ Tát, không dám tiết lộ thân phận của mình.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, ngài có ơn cứu mệnh đối với tôi, lại đã biết rõ lai lịch rồi, nên không dám dấu diếm. Tiểu nhân là người trong Minh giáo, phụng sự Minh tôn. Triều đình quan phủ đối với chúng tôi mười phần căm ghét, người hiệp nghĩa trong các danh môn chính phái cũng coi nhẹ chúng tôi, thậm chí đến bọn đốt nhà cướp của, giết người không gớm tay trong hắc đạo cũng gọi chúng tôi là yêu ma quỉ quái. Lão nhân gia đã biết rõ lai lịch của chúng tôi mà vẫn ra tay tương cứu, cái ân đức đó, quả thực tôi không biết lấy gì báo đáp.
    Trương Tam Phong cũng đã từng nghe qua về lai lịch của ma giáo, biết ma giáo phụng thờ đại ma vương tên là Ma Ni, người trong tôn giáo gọi là Minh Tôn. Tôn giáo này đến trung thổ từ đời Nguyên Hòa, Hiến Tông nhà Đường, khi đó gọi là Ma Ni giáo lại còn gọi là Đại Vân Quang Minh giáo, giáo đồ tự xưng Minh giáo nhưng người ngoài gọi họ là Ma giáo[2]. Ông trầm ngâm giây lát, nói:
    - Thường anh hùng … Thường Ngộ Xuân vội nói:
    - Lão đạo gia, ngài đừng gọi anh hùng, hào kiệt gì, cứ gọi trống không Ngộ Xuân là được rồi.
    Trương Tam Phong nói:
    - Được rồi, Ngộ Xuân, năm nay anh bao nhiêu tuổi?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Cháu vừa đúng hai mươi.
    Trương Tam Phong hỏi như thế vì thấy y tuy mặt đầy râu ria, nhưng ăn nói cử chỉ xem chừng còn trẻ lắm, nghe xong gật đầu:
    - Anh như thế cũng chỉ mới lớn, tuy đầu nhập ma giáo, nhưng sa chân chưa sâu, nếu biết sớm quay đầu lại thì cũng chưa muộn. Ta có một câu muốn khuyên anh, anh nghe cũng đừng giận.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo gia dạy bảo, tiểu nhân làm sao dám giận.
    Trương Tam Phong nói:
    - Tốt lắm, ta khuyên anh hôm nay thay lòng đổi dạ, bỏ tà giáo đi. Nếu anh không hiềm phái Võ Đương bản lĩnh kém cỏi, lão đạo sẽ bảo đại đồ nhi Tống Viễn Kiều thu anh làm đệ tử. Sau này anh hành tẩu giang hồ, hiên ngang oai phong, không ai dám coi thường anh cả.
    Tống Viễn Kiều đứng đầu bảy đệ tử, danh chấn thiên hạ, những người tầm thường trong võ lâm được gặp một lần cũng không phải dễ. Võ Đương chư hiệp đến những năm gần đây mới bắt đầu thu đồ đệ nhưng tuyển chọn thật nghiêm, nếu không phải người có căn cốt tư chất, phẩm hạnh tính tình đều tốt, thì không thể nào được nhận vào làm môn hạ phái Võ Đương. Thường Ngộ Xuân xuất thân ma giáo, người thường nghe tới đã nhíu mày, vậy mà được Trương Tam Phong biệt đãi, muốn y đầu nhập môn hạ Tống Viễn Kiều, cứ như người trong võ học thì thật là một phúc duyên cực kỳ khó gặp trên đời.
    Nào ngờ Thường Ngộ Xuân khẳng khái nói:
    - Tiểu nhân được Trương chân nhân coi trọng, thực cảm kích không để đâu cho hết. Thế nhưng tiểu nhân đã thuộc Minh giáo rồi, suốt đời không thể nào bội giáo được.
    Trương Tam Phong lại khuyên thêm mấy câu nữa, Thường Ngộ Xuân kiên quyết không nghe. Trương Tam Phong thấy y chấp mê không tỉnh ngộ, chỉ còn nước lắc đầu thở dài, nói:
    - Còn tiểu cô nương này … Thường Ngộ Xuân nói:
    - Lão đạo trưởng không lo, cha cô này vì tôi mà chết, tiểu nhân sẽ tìm cách chiếu liệu cho.
    Trương Tam Phong nói:
    - Được rồi, nhưng anh không được để cho nó gia nhập quí giáo đâu nhé.
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Không biết chúng tôi có làm tội ác gì lớn lao mà ai ai đều khinh thị, coi người trong Minh giáo như rắn độc, thú dữ. Vâng, đạo trưởng đã dặn như thế, tiểu nhân xin tuân mệnh.
    Trương Tam Phong ôm Vô Kỵ vào lòng, nói:
    - Nếu thế thì mình từ biệt nhau nơi đây.
    Ông không muốn dây dưa với người trong ma giáo, nên bốn chữ “sau này gặp lại” không nói ra. Thường Ngộ Xuân lại bái tạ một lần nữa. Chu Chỉ Nhược nói với Trương Vô Kỵ:
    - Tiểu tướng công, tướng công mỗi ngày nhớ ăn cho no, để lão đạo gia khỏi lo lắng.
    Trương Vô Kỵ nước mắt tuôn tràn, nghẹn ngào nói:
    - Đa tạ cô có lòng tốt, thế nhưng … thế nhưng ta cũng chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn đâu.
    Trương Tam Phong lòng buồn bã, lấy tay áo, chùi nước mắt trên má Vô Kỵ. Chu Chỉ Nhược kinh hãi hỏi lại:
    - Sao thế? Ngươi … ngươi … Trương Tam Phong nói:
    - Tiểu cô nương, lòng dạ cô thật tốt, chỉ mong sau này cô đi theo con đường chính đáng, nhất quyết đừng rơi vào vòng tà ma.
    Chu Chỉ Nhược đáp:
    - Vâng, thế còn vị tiểu tướng công này nói là chẳng còn bao nhiêu ngày để ăn là sao?
    Trương Tam Phong lặng lẽ không trả lời. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân, lão nhân gia công lực thâm hậu, thần thông quảng đại, vị tiểu gia này trúng độc dĩ nhiên không phải nhẹ, có thể hóa giải được chăng?
    Trương Tam Phong đáp:
    - Được chứ.
    Thế nhưng tay trái ông thõng bên dưới xua xua mấy cái, ý muốn nói là mặc dù bệnh tình y coi như vô phương nhưng không muốn cho Vô Kỵ biết. Thường Ngộ Xuân thấy ông xua tay, giật mình kinh hoảng, nói:
    - Tiểu nhân bị nội thương nặng, đang định đi nhờ một vị thần y chữa cho, sao không cho vị tiểu gia này đi luôn thể?
    Trương Tam Phong lắc đầu đáp:
    - Hàn độc đã chạy khắp tạng phủ, thuốc men tầm thường chữa không khỏi được đâu, chỉ còn … chỉ còn từ từ hóa giải thôi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thế nhưng vị thần y này quả có năng lực cải tử hoàn sinh.
    Trương Tam Phong sững người, chợt nghĩ ra bèn hỏi:
    - Ngươi có phải định nói tới “Điệp Cốc Y Tiên” chăng?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Chính ông ta, thì ra lão đạo trưởng cũng đã nghe tới tên Hồ sư bá của tiểu nhân.
    Trương Tam Phong trù trừ, nghĩ thầm: “Ta đã nghe gã Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu này tuy y đạo cực kỳ cao minh, nhưng lại là người trong ma giáo, xưa nay võ lâm nhân sĩ không ai muốn nói tới. Huống chi tính tình y lại hết sức quái dị, chỉ cần là người trong ma giáo y sẽ tận lực cứu chữa, không lấy một đồng, còn người ngoài cầu y, dù cả vạn lượng vào chồng trước mặt y cũng không đoái hoài đến, thành thử còn một cái ngoại hiệu “Kiến Tử Bất Cứu”. Nếu quả là người đó thì đành để Vô Kỵ hàn độc phát tác mà chết còn hơn để y rơi vào vòng ma giáo”.
    Thường Ngộ Xuân thấy ông nhíu mày suy nghĩ, hiểu rõ tâm ý của Trương Tam Phong liền nói:
    - Trương chân nhân, Hồ sư bá tuy trước nay không chữa bệnh cho người ngoại đạo, nhưng tiểu nhân được lão đạo trưởng cứu, đại ân thâm trọng, Hồ sư bá không thể không phá lệ. Nếu ông ấy không chịu ra tay thì tiểu nhân nhất định không để yên.
    Trương Tam Phong nói:
    - Vị Hồ tiên sinh đó y thuật như thần, ta cũng đã từng nghe tiếng. Có điều hàn độc trong thân thể Vô Kỵ, không phải tầm thường … Thường Ngộ Xuân lớn tiếng nói:
    - Vị tiểu gia này nếu như cùng lắm trị không xong, thì đằng nào cũng chết, còn có gì mà phải lo?
    Y tính tình sảng trực, bụng nghĩ sao liền nói ra không kiêng dè gì cả. Trương Tam Phong nghe nói “thì đằng nào cũng chết”, trong lòng chấn động nghĩ thầm: “Tên này ăn nói lỗ mãng nhưng quả không sai, xem ra Vô Kỵ chỉ còn sống được độ một tháng nữa thôi, thôi thì đành đánh liều cầu may vậy”. Ông trước nay giao thiệp với ai luôn luôn hết lòng hết dạ, coi ai cũng như mình không nghi ngại, Thường Ngộ Xuân này quả là người trọng nghĩa, thế nhưng Vô Kỵ là giọt máu duy nhất của đứa học trò yêu, nay bảo ông giao vào tay một đệ tử ma giáo, tà ác nổi danh, làm sao có thể yên tâm, thành ra nhất thời không sao quyết định được.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Trương chân nhân không muốn đến gặp Hồ sư bá, điều đó cháu cũng hiểu rồi. Trước nay chính tà hai bên không đứng chung, Trương chân nhân là đại tông sư đương thời, lẽ nào đi cầu tà ma ngoại đạo? Hồ sư bá tính tính cổ quái, gặp Trương chân nhân ăn nói vô lễ, hai bên lại gây chuyện không chừng. Vị Trương huynh đệ này tốt hơn do cháu đưa tới, nhưng chắc Trương chân nhân không an lòng. Thôi thì thế này, cháu đưa Trương huynh đệ tới nhờ Hồ sư bá xin ông ấy từ từ cứu chữa, sau đó cháu sẽ lên núi Võ Đương làm con tin. Trương huynh đệ nếu như có gì, Trương chân nhân cứ một chưởng đánh cháu chết là xong.
    Trương Tam Phong không khỏi bật cười, nghĩ thầm nếu như Trương Vô Kỵ có gì sơ sẩy, ta đánh ngươi chết để làm chi? Nếu ngươi không lên núi Võ Đương thì ta biết đi đâu mà tìm? Thế nhưng trước mắt Vô Kỵ hàn độc đã đi vào gan phổi rồi, quả đúng là” đằng nào cũng chết”, ở lúc sinh tử này đành phải quyết định dứt khoát, bèn nói:
    - Thế thì đành gửi anh vậy. Thế nhưng phải nói trước, Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu.
    Ông biết ma giáo hành sự ngụy bí, nếu như dính dấp với họ, họ sẽ luẩn quẩn với mình hoài, không biết hậu hoạn đến chừng nào, Trương Thúy Sơn đã thân bại danh liệt, thật là rành rành ra đấy. Thường Ngộ Xuân ngang nhiên đáp:
    - Trương chân nhân coi Minh giáo chúng tôi chẳng ra gì cả, nhưng thôi cứ theo đúng lời dạy bảo là xong.
    Trương Tam Phong nói:
    - Anh thay ta chăm sóc cho Vô Kỵ, nếu như âm độc trong thân thể trừ được, thì anh dẫn nó lên núi Võ Đương. Còn việc anh lên núi làm con tin, cái đó không cần thiết.
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Tiểu nhân xin hết sức cố gắng.
    Trương Tam Phong nói:
    - Còn tiểu cô nương này, ta dẫn lên núi Võ Đương, sẽ thu xếp lo liệu sau.
    Thường Ngộ Xuân lên bờ dùng tay đào một cái hố dưới một gốc cây to, đem Chu công tử lột hết quần áo rồi mới đem chôn, quì trước phần mộ lạy mấy lạy. Thì ra qui củ của Minh giáo là “khỏa táng”, khi sinh ra không một mảnh vải che thân, thì khi chết đem chôn cũng không mặc quần áo. Trương Tam Phong không hiểu lý do, chỉ nghĩ thầm bọn người này làm gì cũng tà môn thần bí.
    Sáng hôm sau, Trương Tam Phong dắt Chu Chỉ Nhược, chia tay cùng Trương Vô Kỵ và Thường Ngộ Xuân. Trương Vô Kỵ từ khi cha mẹ chết đến giờ, coi Trương Tam Phong như ông nội, bây giờ bất ngờ phải xa, không khỏi nước mắt ròng ròng. Trương Tam Phong ôn tồn nói:
    - Vô Kỵ, khi nào cháu khỏi bệnh rồi, Thường đại ca sẽ đưa cháu về núi Võ Đương. Cháu ngoan, chỉ xa ông vài tháng, không có gì phải buồn.
    Trương Vô Kỵ chân tay không cử động được nhưng nước mắt không ngừng chảy dài trên má. Chu Chỉ Nhược trở lại thuyền, lấy trong bọc ra một cái khăn tay, lau nước mắt cho nó, mỉm cười rồi nhét chiếc khăn vào trong túi Vô Kỵ, sau đó mới lên bờ.
    Trương Vô Kỵ nhìn theo thái sư phụ cùng Chu Chỉ Nhược đi về hướng tây, thấy cô gái không ngớt quay đầu giơ tay vẫy nó, mãi đến khi đi khuất sau một hàng dương liễu mới thôi. Lúc này thằng bé thấy mình thê lương lẻ bóng, đau khổ vô chừng, không nhịn nổi khóc òa lên. Thường Ngộ Xuân nhíu mày hỏi:
    - Trương huynh đệ, năm nay chú bao nhiêu tuổi?
    Trương Vô Kỵ nghẹn ngào đáp:
    - Mười hai tuổi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Hay nhỉ, mười hai tuổi rồi, đâu có còn bé bỏng gì nữa, vậy mà khóc hu hu, không biết xấu. Hồi ta mười hai tuổi, bị đánh không biết mấy trăm lần, nhưng không bao giờ phải chảy nước mắt cả. Nam tử hán đại trượng phu, máu chảy thì được, nước mắt chảy thì không. Nếu chú mày còn thút thít không nín, ta sẽ cho chú mày mấy cái tát.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi không muốn rời xa thái sư phụ nên tôi khóc, còn ai đánh tôi tôi không khóc đâu. Anh muốn đánh tôi cứ việc đánh, hôm nay anh đánh tôi một quyền, ngày sau tôi đánh lại anh mười quyền.
    Thường Ngộ Xuân ngạc nhiên, cười ha hả, nói:
    - Hảo huynh đệ, hảo huynh đệ, thế mới là một nam tử có cốt khí chứ. Chú mày ghê gớm như thế, làm sao ta dám đánh chú mày.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Tôi cử động còn không được, tại sao đại ca không dám đánh tôi?
    Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    Last edited by minhb; 01-27-2011 at 04:21 PM.

  6. #35
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Hôm nay ta đánh chú mày, sau này chú mày theo học thái sư phụ võ công, thần quyền của phái Võ Đương, làm sao ta chịu mổi mười cú đấm.
    Trương Vô Kỵ nghe vậy cũng bật cười, thấy vị Thường đại ca này tuy tướng mạo hung dữ nhưng không phải là người xấu. Thường Ngộ Xuân thuê giang thuyền đi xuống Hán Khẩu, đến Hán Khẩu đổi qua thuyền lớn đi theo Trường giang xuôi về hướng đông. Nơi Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu ẩn cư là Hồ Điệp Cốc[3], ở tại bên cạnh hồ Nữ Sơn, thuộc Hoàn Bắc[4].
    Trường giang từ Hán Khẩu đến Cửu Giang, chảy theo hướng đông nam, qua Cửu Giang rồi mới bẻ theo hướng đông bắc đi vào cảnh giới đất Hoàn. Hai năm trước, Trương Vô Kỵ từng đi thuyền ngược lên hướng bắc, nhưng lúc đó có cha mẹ cùng đi, lại có nhị bá Du Liên Châu đồng hành, đường đi biết bao nhiêu thích thú. Hôm nay cha mẹ đều đã mất cả rồi, còn mình sống dở chết dở theo Thường Ngộ Xuân đi chữa bệnh, sướng khổ hai đằng, thật cách nhau một trời một vực. Thế nhưng y sợ Thường Ngộ Xuân nổi cáu, tuy trong lòng đau buồn nhưng không dám chảy nước mắt. Lúc đó trên thân thể y những huyệt đạo Trương Tam Phong điểm đã tự động giải khai rồi, mỗi khi hàn độc phát tác đau đớn chịu không nổi, y chỉ còn cách nghiến răng cố chịu, đến nỗi môi trên môi dưới đầy vết răng, mà âm hàn xâm nhập mỗi ngày mỗi nặng thêm.
    Khi đến Qua Phụ ở hạ du Tập Khánh, Thường Ngộ Xuân bỏ thuyền lên bờ, mướn một cỗ xe lớn, đi về hướng bắc, vài ngày sau đến Quang Minh ở phía đông của Phượng Dương. Thường Ngộ Xuân biết rằng vị Hồ sư bá này không thích người ngoài biết được chỗ ông ta ẩn cư, khi đến cách hồ Nữ Sơn khoảng hai chục dặm thì bắt xe phải quay đầu, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, băng băng đi tới.
    Y vẫn tưởng hai chục dặm đi một mạch là tới, nào ngờ vì bị trúng hai âm chưởng của phiên tăng, nội thương khá nặng, chỉ đi được một dặm thì gân cốt đã mỏi nhừ, đau nhức, thở hồng hộc bước đi không nổi. Trương Vô Kỵ không nỡ để y đi tiếp nên nói:
    - Thường đại ca, để tiểu đệ đi một mình cũng được, đại ca đừng phí sức.
    Thường Ngộ Xuân tức khí, giận dữ nói:
    - Bình thời ta đi một hơi cả trăm dặm chưa thấy mệt, không lẽ mấy tên tặc hòa thượng đánh có hai chưởng, đã đi không nổi sao?
    Y hiếu thắng càng ra sức đi nhanh hơn. Thế nhưng nội thương vốn đã trầm trọng, lại thêm nóng nảy cố sức, chỉ được vài chục trượng, đã thấy các khớp xương trong người như muốn rời ra, nhưng không chịu nhận mình yếu, cũng không chịu bỏ Vô Kỵ xuống, chỉ còn loạng choạng đi từng bước một.
    Đi như thế thật là chậm, đến lúc trời tối, chưa được một nửa đường, đường núi lại cheo leo, càng vào sâu càng khó đi. Đi đến giữa một khu rừng, Thường Ngộ Xuân bỏ Trương Vô Kỵ xuống đất, nằm thẳng cẳng nghỉ mệt. Y lấy trong bọc ra mấy cái bánh trái chia cho Vô Kỵ một nửa cùng ăn. Thường Ngộ Xuân nghỉ độ nửa giờ, lên đường đi tiếp. Vô Kỵ cực lực khuyên y nên ngủ lại trong rừng một đêm, đợi trời sáng hãy tiếp tục. Thường Ngộ Xuân nghĩ quả thực nếu trời tối thế này mà đi tiếp, nửa đêm nửa hôm đến kinh động Hồ Thanh Ngưu, thể nào cũng làm ông ta nổi giận, đành nghe lời. Hai người ngồi dưới một gốc cây to, dựa vào nhau mà ngủ.
    Ngủ đến nửa đêm, hàn độc trong người Trương Vô Kỵ lại phát tác, run rẩy không ngừng. Y sợ sẽ làm Thường Ngộ Xuân tỉnh dậy nên không dám kêu, chỉ cố chịu đựng. Ngay lúc đó bỗng có tiếng binh khí va chạm nhau từ xa vọng tới, lại có tiếng người:
    - Định chạy đi đâu?
    - Chặn bên phía đông, dồn y vào trong rừng.
    - Kỳ này nhất định không cho thằng trọc chạy thoát.
    Sau đó có tiếng bước chân, có mấy người chạy vào trong rừng. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng tỉnh giấc, tay phải rút đơn đao ra, tay trái ôm Trương Vô Kỵ, định sẽ vừa đánh vừa chạy. Trương Vô Kỵ nói khẽ:
    - Hình như không phải họ đi kiếm bọn mình đâu.
    Thường Ngộ Xuân gật đầu, nép mình sau gốc cây nhìn ra, trong đêm tối thấy có bảy tám người vây đánh một người, người đó tay không, song chưởng bay múa, ép cho địch nhân không thể tới gần được. Đánh nhau một hồi, vòng vây những người kia dần dần thắt lại.
    Một hồi sau, ánh trăng non từ trong đám mây chui ra chiếu xuống, dãi khắp bốn bề, thấy người bị vây kia là một nhà sư cao gầy chừng bốn chục tuổi mặc áo bào trắng. Những người vây đánh y có tăng có đạo, lại có người mặc theo lối tục gia, lại có thêm hai người đàn bà, tổng cộng tám người cả thảy. Hai nhà sư mặc áo màu xám tro một người cầm thiền trượng, một người cầm giới đao, mỗi lần thiền trượng đánh ngang giới đao múa che bên cạnh thì gió bay ra khiến lá cây rụng xuống lả tả. Một đạo nhân tay cầm trường kiếm, thân pháp nhanh nhẹn, dưới ánh trăng múa ra lấp lóe kiếm hoa từng vùng. Một hán tử thấp bé cầm song đao, lăn qua lăn lại dưới đất, dùng Địa Đường đao pháp tấn công hạ bàn của nhà sư áo trắng.
    Hai người đàn bà thân hình mảnh dẻ, đều cầm trường kiếm, kiếm pháp thật là linh động nhẹ nhàng. Đấu được một hồi, một trong hai người quay ngang, nửa mặt chiếu dưới ánh trăng, Trương Vô Kỵ bất giác suýt tí nữa kêu lên: “Kỷ cô nương”. Người đó chính là vị hôn thê của Ân Lê Đình Kỷ Hiểu Phù. Lúc mới xem tám người vây đánh một người, Trương Vô Kỵ thấy họ lấy nhiều chống ít không công bình, lòng mong thầm hòa thượng nọ có thể đột phá vòng vây chạy thoát. Bây giờ nhận ra được Kỷ Hiểu Phù rồi, tin chắc nhà sư nọ là kẻ địch của Kỷ cô nương ắt không phải kẻ tốt, lòng liền xoay qua ủng hộ phe Kỷ Hiểu Phù.
    Năm xưa khi cha mẹ tự tận, Kỷ Hiểu Phù từng ngọt ngào an ủi nó, tuy Vô Kỵ không nhận cái vòng vàng đeo cổ cô ta cho, nhưng sau nghĩ lại cái hảo ý của cô ta thật đáng cảm kích. Vô Kỵ thấy hòa thượng bị vây kia võ công thật cao cường, chưởng pháp lúc nhanh lúc chậm, hư hư thực thực, biến huyễn đa đoan, khi ra tay nhanh thì ngay cả đường đi của bàn tay y cũng không nhìn rõ. Bên Kỷ Hiểu Phù tuy đông người nhưng đánh lâu y vẫn không chịu kém.
    Bỗng nghe một hán tử quát lên:
    - Dùng ám khí tấn công.
    Một hán tử và một đạo nhân liền dạt qua hai bên, sau đó nghe tiếng vèo vèo liên tiếp, thiết đạn và phi đao bắn ào ào vào hòa thượng áo trắng khiến cho nhà sư không chống đỡ nổi. Đạo nhân râu dài cầm kiếm quát lên:
    - Bành hòa thượng, bọn ta không muốn giết ngươi đâu, việc gì ngươi phải đánh đến cùng? Ngươi đem Bạch Qui Thọ đưa ra, chúng ta sẽ cười mà tha liền, có phải hay không?
    Thường Ngộ Xuân giật mình kinh hãi, hạ giọng:
    - Vị đó là Bành hòa thượng?
    Khi trước đi thuyền, Vô Kỵ từng nghe cha mình kể chuyện dương đao lập uy trên Vương Bàn Sơn đảo cho Du nhị bá nghe, biết tại sao các môn phái kết oán thù với Thiên Ưng giáo. Bạch Qui Thọ chính là đàn chủ Huyền Võ đàn còn sống sót, lâu nay các môn phái đánh nhau với Thiên Ưng giáo cũng vì muốn Bạch đàn chủ thổ lộ tung tích của Tạ Tốn. Y nghĩ thầm: “Không lẽ vị Bành hòa thượng này cũng là nhân vật trong giáo phái của mẹ ta?”.
    Chỉ nghe Bành hòa thượng lớn tiếng nói:
    - Bạch đàn chủ đã bị các ngươi đánh trọng thương, không nói gì ta với y có chút uyên nguyên, dù chẳng liên quan gì cũng đâu có thể thấy người chết mà không cứu?
    Đạo nhân râu dài nói:
    - Cái gì mà “kiến tử bất cứu”? Bọn ta có định giết y đâu, chỉ muốn biết tin tức của một người thôi.
    Bành hòa thượng đáp:
    - Các ngươi muốn hỏi chỗ ở của Tạ Tốn, sao không đến tìm phương trượng chùa Thiếu Lâm mà hỏi?
    Một tăng nhân mặc áo xám tro liền kêu lên:
    - Đó là ác kế của yêu nữ Thiên Ưng giáo Ân Tố Tố giá họa cho chùa Thiếu Lâm ta, ai tin cho nổi?
    Nhà sư đó hiển nhiên thuộc phái Thiếu Lâm. Trương Vô Kỵ nghe y nhắc đến tên của mẹ mình, vừa hãnh diện, vừa đau lòng, nghĩ thầm: “Mẹ ta qua đời đã hai năm, nhưng vẫn còn làm cho các ngươi phải đau đầu”. Bỗng nghe đạo nhân đứng bên ngoài vòng kêu lên:
    - Tất cả nằm xuống.
    Sáu người nghe thế, vội vàng hụp xuống, chỉ thấy bạch quang lấp loáng, năm thanh phi đao vù vù phóng ra, nhắm thẳng vào đầu Bành hòa thượng. Đúng ra Bành hòa thượng chỉ cần cúi đầu, khom lưng nhào về phía trước, hay dùng thiết bản kiều ngửa người về sau là phi đao đã bay trượt ra rồi, nhưng khi đó dưới đất sáu người cùng dựng binh khí lên, chặn hết hạ tam lộ của y, làm sao cúi mình né tránh được?
    Trương Vô Kỵ kinh hãi, thấy Bành hòa thượng nhảy vọt lên, năm ngọn phi đao bay dưới chân, tuy y né được nhưng thiền trượng giới đao của hai nhà sư Thiếu Lâm, kiếm của đạo nhân râu dài vẫn đâm tới đùi y. Bành hòa thượng còn đang ở trên không, đành phải mạo hiểm, chưởng trái đánh ra, nghe bịch một tiếng, trúng đầu một tăng nhân, tay phải liền móc một cái, cướp ngay được giới đao của y, thuận thế gạt vào thiền trượng, mượn sức thân hình liền bay ra xa hai trượng.
    Nhà sư Thiếu Lâm bị đánh trúng thiên linh cái chết ngay lập tức. Những người khác liền giận dữ hò hét đuổi theo, còn Bành hòa thượng chân khập khiễng ngã lăn ra đất, bảy người liền bao quanh y. Nhà sư cầm thiền trượng chẳng khác gì con hổ điên, liên tiếp đánh xuống mồm gào:
    - Bành hòa thượng, ngươi giết sư đệ ta, ta quyết thí mạng với ngươi.
    Đạo nhân râu dài kêu lên:
    - Đùi y trúng yết vĩ câu[5] ám khí của ta rồi, chỉ chốc lát chất độc phát tác là chết thôi.
    Quả nhiên chân Bành hòa thượng không đứng vững, lảo đảo không yên. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Y là một đại nhân vật trong Minh giáo ta, không thể không cứu”. Dù y đang bị trọng thương nhưng vẫn định xông ra cứu người, nên hít một hơi dài, chân trái nhảy tới. Nào ngờ y hô hấp quá nhanh, bước lại dài liền động đến vết thương trên ngực, đau quá muốn xỉu. Ngay lúc đó Bành hòa thượng nhảy vọt lên, cũng ngã lăn ra, có lẽ chất độc làm y chết rồi. Thường Ngộ Xuân cố nhịn đau, giương mắt xem động tĩnh, thấy bảy người kia vẫn không dám đến gần Bành hòa thượng.
    Đạo nhân râu dài nói:
    - Hứa sư đệ, ngươi bắn hai ngọn phi đao xem thế nào.
    Đạo nhân nọ liền giơ tay phải lên, nghe cách cách hai tiếng, một ngọn phi đao bắn trúng vai phải, một ngọn phi đao bắn trúng đùi trái của Bành hòa thượng. Bành hòa thượng không động đậy, hiển nhiên không còn sống nữa. Đạo nhân râu dài nói:
    - - Tiếc quá, tiếc quá, y chết mất rồi, không biết y dấu Bạch Qui Thọ ở đâu?
    Bảy người lập tức tiến lên vây quanh xem xét. Bỗng nghe bình bình bình bình bình liên tiếp, năm người bị đánh văng ra ngoài. Bành hòa thượng liền đứng lên, đầu vai và đùi vẫn còn cắm phi đao. Thì ra đùi y trúng ám khí tẩm độc, biết rằng không thể tiếp tục đấu, bèn giả cách chết, dụ địch tới gần, dùng Đại Phong Vân Phi Chưởng thủ pháp nhanh như điện chớp đánh vào ngực năm người đàn ông. Y nằm trên mặt đất đã ám vận chân khí chờ sẵn, nên năm chưởng đó thật là cương mãnh lợi hại.
    Kỷ Hiểu Phù và sư tỉ đồng môn Đinh Mẫn Quân giật mình kinh hãi, vội vàng nhảy ra ngoài, nhìn lại năm người đồng bạn, người nào cũng ứa máu mồm, hai người công lực kém hơn luôn mồm kêu la. Thế nhưng Bành hòa thượng vận kình gấp rút, cũng đứng không vững lảo đảo muốn ngã. Gã đạo nhân râu dài nói:
    - Đinh Kỷ hai vị cô nương, mau dùng kiếm đâm y đi.
    Hai bên chín người thì một tăng nhân Thiếu Lâm đã chết, Bành hòa thượng và năm người khác đều bị trọng thương, chỉ còn Kỷ Hiểu Phù và Đinh Mẫn Quân là chưa sao cả. Đinh Mẫn Quân nghĩ thầm: “Bộ ngươi tưởng ta không biết dùng kiếm hay sao mà ngươi phải chỉ điểm?” Thị liền sử chiêu Hư Thức Phân Kim vung kiếm lên chém xuống cổ Bành hòa thượng. Bành hòa thượng thở dài một tiếng, nhắm mắt chờ chết, bỗng nghe một tiếng leng keng binh khí chạm nhau, mở mắt ra nhìn, thì ra Kỷ Hiểu Phù vung kiếm gạt binh khí của sư tỉ ra. Đinh Mẫn Quân ngạc nhiên hỏi:
    - Sao thế?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Sư tỉ, Bành hòa thượng chưởng hạ lưu tình, mình không nên đuổi tận giết tuyệt.
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Cái gì mà chưởng hạ lưu tình, đó là vì y không còn sức đấy chứ.
    Thị liền gay gắt nói:
    - Bành hòa thượng, sư muội của ta lòng dạ từ bi, cứu mạng cho ngươi, vậy Bạch Qui Thọ đang ở đâu mau nói cho ta nghe.
    Bành hòa thượng ngửa cổ lên cười lớn, nói:
    - Đinh cô nương, cô xem Bành Oánh Ngọc này nhẹ quá. Trương Thúy Sơn Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương đành chịu tự vẫn mà chết, nhưng quyết không nói ra chỗ ở của nghĩa huynh. Bụng dạ của Bành Oánh Ngọc này tuy không can đảm nghĩa liệt được như Trương ngũ hiệp, dù bất tài nhưng cũng cố học cho được như thế.
    Nói tới đây y hộc máu, phải ngồi bệt xuống. Đinh Mẫn Quân bước tới, giơ chân phải đá luôn ba cái vào chỗ mạng sườn để y không còn cách nào bất ngờ tập kích được nữa. Mấy câu đó của Bành hòa thượng khiến nhiệt huyết trong lòng Vô Kỵ dâng lên, đối với y vừa thấy thân cận, lại sinh cảm kích. Cha y Trương Thúy Sơn tự vẫn chết, những người trong danh môn chính phái khi nói tới đều cho rằng: “Một thiếu niên anh hiệp tài tuấn như thế, chỉ vì lụy phải tà giáo yêu nữ, sẩy một bước thành cái hận nghìn thu, đến nỗi thân tử danh liệt, để cả phái Võ Đương đều phải chịu chung cái nhục”.
    Những câu đó tuy Trương Vô Kỵ không nghe thấy nhưng y tại thái sư phụ và các sư thúc bá ngôn ngữ thần sắc, thấy họ ngoài việc thương tâm không khỏi oán trách giận dữ đối với mẫu thân, cho rằng cha y suốt đời việc gì cũng tốt, chỉ vì lấy vợ nhầm mà ra nông nỗi, chưa ai như Bành hòa thượng tỏ lời khâm phục cả.
    Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
    - Trương Thúy Sơn mắt mù nên mới kết hôn cùng tà giáo yêu nữ, cái đó chính là tự hạ mình, có gì đáng phải học? Phái Võ Đương của y … Kỷ Hiểu Phù xen vào:
    - Sư tỉ … Đinh Mẫn Quân nói:
    - Ngươi đừng lo, ta không nói gì tới Ân lục hiệp đâu mà sợ.
    Thị rung kiếm một cái chỉ vào mắt phải của Bành hòa thượng, nói:
    - Nếu ngươi không nói, ta đâm mù mắt phải của ngươi trước, sau đó sẽ đâm mù mắt trái, kế đó đâm thủng tai phải, rồi đâm thủng tai trái, rồi cắt mũi ngươi, nói chung là ta không cho ngươi chết yên chết lành đâu.
    Mũi kiếm của thị sáng quắc chỉ cách mắt Bành hòa thượng chừng nửa tấc, không ngừng rung động. Bành hòa thượng giương to đôi mắt, lạnh lùng nói:
    - Ta thường ngưỡng mộ Diệt Tuyệt sư thái của phái Nga Mi hành sự ác độc, những học trò bà ta cũng chẳng khác bao nhiêu. Bành Oánh Ngọc hôm nay rơi vào tay ngươi, ngươi cứ việc giở những trò kiệt tác của phái Nga Mi xem thử.
    Đinh Mẫn Quân lông mày dựng lên, hằn học nói:
    - Thằng trọc chết toi, ngươi dám làm nhục sư môn của ta ư?
    Trường kiếm liền lập tức phóng tới, đâm mù mắt phải của Bành Oánh Ngọc, rồi đưa qua đụng vào mí mắt bên trái. Bành hòa thượng cười ha hả, mắt phải máu chảy ròng ròng, mắt bên trái vẫn trừng trừng nhìn y thị. Đinh Mẫn Quân bực mình, quát lên:
    - Ngươi không phải là người của Thiên Ưng giáo, việc gì phải vì chết vì Bạch Qui Thọ?
    Bành Oánh Ngọc hiên ngang đáp:
    - Đại trượng phu có đạo lý của mình, dù ta có nói cho ngươi nghe, ngươi cũng chẳng hiểu được đâu.
    Đinh Mẫn Quân thấy y không còn cách gì phản kháng, nhưng thần sắc đối với mình vẫn tỏ vẻ khinh miệt, trong cơn phẫn nộ liền đâm tới cho y mù nốt mắt trái. Kỷ Hiểu Phù vung kiếm nhẹ nhàng gạt ra, nói:
    - Sư tỉ, gã hòa thượng này cứng đầu lắm, làm cách nào y cũng không nói đâu, giết y cũng uổng thôi.
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Y dám chửi sư phụ tâm địa độc ác, để ta cho y coi tâm địa độc ác cỡ nào. Bọn yêu nhân trong ma giáo, để sống trên đời chỉ làm hại người lương thiện, giết được đứa nào là thêm công đức đứa ấy.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tên này xem ra là một hán tử cứng cỏi. Sư tỉ, theo ý tiểu muội mình nên tha cho hắn.
    Đinh Mẫn Quân lớn tiếng nói:
    - Hai vị sư huynh phái Thiếu Lâm một chết một bị thương, hai vị đạo trưởng phái Côn Lôn bị thương nặng, hai vị đại ca phái Hải Sa bị thương cũng không nhẹ, chẳng lẽ y hạ thủ không độc ác hay sao? Để ta đâm mù nốt mắt trái y đi, rồi hãy tra hỏi.
    Tiếng “hỏi” vừa dứt, kiếm liền lóe lên đâm luôn vào mắt trái Bành hòa thượng. Kỷ Hiểu Phù liền vung kiếm, nhẹ nhàng khéo léo gạt kiếm của Đinh Mẫn Quân ra, nói:
    - Sư tỉ, người này dĩ nhiên không còn sức lực chống trả, nếu mình đả thương y, trên giang hồ truyền ra, không khỏi không tốt cho phái Nga Mi chúng ta.
    Đinh Mẫn Quân nhướng lông mày, quát:
    - Đứng tránh ra, đừng xen vào chuyện của ta.
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Vâng.
    Trường kiếm của Đinh Mẫn Quân lại rung động đâm vào mắt trái của Bành hòa thượng, lần này tăng thêm ba phần kình lực. Kỷ Hiểu Phù trong lòng không nỡ, lại đưa kiếm gạt ra. Nàng thấy sư tỉ kiếm thế mạnh mẽ, khi đưa kiếm gạt phải dùng nội lực, hai thanh kiếm chạm nhau, nghe keng một tiếng tóe lửa. Hai người bị chấn động khiến tay tê chồn, phải lùi hai bước. Đinh Mẫn Quân giận quá, quát lên:
    - Ngươi năm lần bảy lượt bảo vệ cho tên yêu tăng ma giáo, chẳng hay có ý gì?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tiểu muội chỉ muốn sư tỉ đừng hành hạ y, muốn y nói nơi chốn của Bạch Qui Thọ cứ từ từ hỏi được rồi.
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Bộ ngươi tưởng ta không biết bụng dạ ngươi hay sao. Ngươi thử hỏi lòng thì biết: “Tại sao Ân lục hiệp của phái Võ Đương mấy lần thúc giục làm đám cưới ngươi cứ việc cớ này cớ nọ, ngay cả cha ngươi hối thúc, ngươi thà bỏ nhà ra đi chứ không nghe?”.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Việc riêng của tiểu muội có liên quan gì đến chuyện này đâu? Tại sao sư tỉ lại giằng hai chuyện làm một?
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Hai đứa mình ai chẳng biết, có điều trước mặt người ngoài không nên vạch áo cho người xem lưng đấy thôi. Ngươi thì thân tại Nga Mi nhưng lòng dạ thì để trong ma giáo.
    Kỷ Hiểu Phù mặt tái nhợt, run run nói:
    - Tiểu muội lúc nào cũng kính trọng sư tỉ, không bao giờ dám đắc tội, sao hôm nay sư tỉ lại làm nhục tiểu muội?
    Đinh Mẫn Quân nói:
    - Được rồi, nếu lòng dạ ngươi không phải hướng về ma giáo, thì ngươi thay ta dùng kiếm đâm mù mắt trái y xem nào.
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Bản môn từ khi Tiểu Đông Tà Quách tổ sư sáng phái tới nay, đồng môn không xuất gia làm ni cô, hay không chịu lấy chồng thật là nhiều, tiểu muội không muốn xuất giá cũng là chuyện thường. Tại sao sư tỉ cứ nhất định phải ép tiểu muội?
    Đinh Mẫn Quân lạnh lùng đáp:
    - Ta không phải muốn nghe ngươi nói chuyện vờ vĩnh. Ngươi không đâm mù mắt y, ta sẽ nói toạc chuyện của ngươi ra cho mọi người biết đó.
    Kỷ Hiểu Phù dịu dàng nói:
    - Sư tỉ, mong sư tỉ niệm tình đồng môn, đừng bức bách tiểu muội.
    Đinh Mẫn Quân cười đáp:
    - Ta có bắt ngươi làm điều gì khó khăn đâu. Sư phụ sai chúng ta đi nghe ngóng tin tức Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn, gã hòa thượng này là đầu mối duy nhất có thể biết được. Y đã không cho biết lại còn sát thương bao nhiêu đồng bạn, ta đâm mù mắt phải của y, ngươi đâm mù mắt trái của y, cái đó cũng phải thôi, vì cớ gì ngươi không chịu xuống tay?
    Kỷ Hiểu Phù hạ giọng:
    - Y đối với chúng ta thủ hạ lưu tình, mình cũng nên nghĩ lại mà không nên đuổi tận giết tuyệt. Tiểu muội lòng dạ mềm yếu, không hạ thủ được.
    Nói rồi nàng tra kiếm vào vỏ. Đinh Mẫn Quân cười nhạt:
    - Ngươi lòng dạ mềm yếu ư? Sư phụ vẫn thường khen ngươi kiếm pháp tàn độc, tính tình cương nghị, rất giống sư phụ, đã có ý truyền y bát cho ngươi, ngươi làm sao lòng dạ mềm yếu được?
    Hai sư tỉ muội đồng môn lời qua tiếng lại, mọi người nghe chẳng hiểu đâu vào đâu, bây giờ nghe nói thế, xem ra Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi rất thương yêu Kỷ Hiểu Phù, đã có ý truyền y bát cho nàng, Đinh Mẫn Quân trong lòng đố kỵ, lần này không biết nắm được cái bí mật gì của sư muội, nên định nói xấu nàng trước mặt mọi người. Trương Vô Kỵ vẫn cảm kích chuyện Kỷ Hiểu Phù đối với mình thân thiết, chăm lo khi trước, nay thấy nàng bị bức bách, chỉ hận không thể nhảy ra cho Đinh Mẫn Quân mấy cái tát tai.
    Lại nghe Đinh Mẫn Quân nói:
    - Kỷ sư muội, để ta hỏi đây. Hôm đó sư phụ triệu tập tất cả đồng môn đệ tử trên núi Nga Mi truyền thụ hai pho Diệt Kiếm và Tuyệt Kiếm chính lão nhân gia sáng tác, tại sao ngươi không đến? Để cho lão nhân gia phải nổi cơn lôi đình?
    Kỷ Hiểu Phù đáp:
    - Tiểu muội ở Cam Châu đột nhiên bị bệnh, không cử động được. Việc đó tiểu muội đã bẩm rõ sư phụ rồi, sao sư tỉ lại tự nhiên hỏi đến?
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Chuyện này ngươi che mắt được sư phụ, nhưng đâu có che mắt được ta. Ta còn một câu hỏi, nếu ngươi chịu đâm mù mắt gã hòa thượng kia thì ta không truy vấn nữa.
    Kỷ Hiểu Phù cúi đầu không trả lời, trong lòng dường như có điều khó nghĩ, nói nhỏ:
    - Sư tỉ không còn nghĩ gì đến tình nghĩa đồng môn đồng học nữa ư?
    Đinh Mẫn Quân hỏi:
    - Ngươi đâm hay không đâm?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Sư tỉ cứ yên tâm, sư phụ nếu muốn truyền y bát cho, tiểu muội cũng nhất định không dám nhận đâu.
    Đinh Mẫn Quân giận dữ nói:
    - Giỏi nhỉ. Ngươi nói như thế, chẳng hóa ra ta vì ghen tức với ngươi sao? Ta có điểm nào không bằng ngươi mà phải vị tình, mà phải để ngươi nhường cho? Ngươi có đâm hay không thì bảo?
    Kỷ Hiểu Phù nói:
    - Tiểu muội có làm gì sai quấy, nếu sư tỉ muốn trách phạt, tiểu muội đâu có dám không tuân theo? Ở đây có các bằng hữu môn phái khác, nếu sư tỉ bức bách … Nói đến đây nàng sụt sùi rơi lệ.
    Đinh Mẫn Quân cười khẩy:
    - Hừ, ngươi đừng giả vờ làm như đáng thương lắm đấy, trong bụng không biết đang rủa thầm ta những gì. Năm đó ngươi ở Cam Châu, không nhớ ba năm hay bốn năm trước nhỉ, ta nhớ không rõ lắm, chỉ có ngươi mới nhớ được thôi. Lúc đó có thực ngươi sinh bệnh không? Sinh thì có sinh, nhưng là sinh con thì có.
    Kỷ Hiểu Phù nghe nói thế, lập tức xoay mình chạy đi. Đinh Mẫn Quân đã đoán trước nàng sẽ đào tẩu, phi thân lên trước, giơ trường kiếm ra cản ngay trước mặt, nói:
    - Ta khuyên ngươi mau đâm mù mắt Bành hòa thượng đi, nếu không ta sẽ hỏi cha của đứa bé đó là ai? Sẽ hỏi tại sao ngươi là đệ tử danh môn chính phái mà lại đi che chở cho yêu tăng của ma giáo?
    Kỷ Hiểu Phù ấp úng nói:
    - Chị … chị để tôi đi.
    Đinh Mẫn Quân chỉ trường kiếm vào ngực nàng, lớn tiếng:
    - Ta hỏi ngươi, ngươi nuôi đứa nhỏ đó ở đâu? Ngươi là vị hôn thê của Ân Lê Đình Ân lục hiệp của phái Võ Đương, sao lại sinh con với người khác?
    Câu nói trắng trợn đó vào tai mọi người ai nấy đều giật mình. Trương Vô Kỵ trong lòng hoang mang: “Kỷ cô nương là người tốt sao lại đối xử không phải với Ân lục thúc như thế?”. Y đối với việc trai gái dĩ nhiên chưa hiểu biết, nhưng Thường Ngộ Xuân, Bành hòa thượng, đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn mọi người, ai ai cũng đều kinh ngạc.
    Kỷ Hiểu Phù mặt nhợt nhạt, chạy lao về phía trước. Đinh Mẫn Quân đột nhiên hạ sát thủ, đâm tới một kiếm lút vào vai bên phải của sư muội tới tận xương. Kỷ Hiểu Phù bị thương không phải nhẹ, cũng không nhịn nữa, tay trái rút kiếm, nói:
    - Sư tỉ, chị đã khăng khăng làm khó, tiểu muội không thể nể nang được nữa.
    Đinh Mẫn Quân biết rằng hôm nay đã làm cho sư muội mất mặt, nói toạc chuyện bí mật của nàng ra rồi, ắt sẽ giết mình để bịt miệng. Võ công y thị không bằng Kỷ Hiểu Phù, thể nào cũng đánh thí mạng, sự việc thật là nguy hiểm, thành thử thừa cơ đâm trước một kiếm vào vai bên phải. Nghe nàng nói thế, Đinh Mẫn Quân lập tức sử chiêu Nguyệt Lạc Tây Sơn, đâm thẳng vào bụng dưới của sư muội. Kỷ Hiểu Phù vai phải đau đớn, thấy sư tỉ sử chiêu thứ hai không chút dung tình, lập tức dùng tay trái trả lại một chiêu.
    Hai chị em đều biết rõ kiếm pháp của nhau, thế công thế thủ tuy rất nghiêm nhặt nhưng cũng rất kịch liệt. Những người khác ai nấy đều bị trọng thương, không cách nào khuyên giải, cũng không giúp bên nào được, chỉ còn cách giương mắt nhìn, trong lòng không khỏi ngầm bội phục: “Phái Nga Mi là một trong bốn đại môn phái hiện nay, kiếm thuật quả nhiên cao minh, danh bất hư truyền”.
    Vết thương trên vai Kỷ Hiểu Phù xuất huyết không ngừng, càng đấu máu chảy càng nhiều, nàng phải luôn luôn sử sát chiêu mong đẩy được Đinh Mẫn Quân giãn ra, để có đường bỏ chạy. Thế nhưng nàng dùng tay trái sử kiếm nên không mấy thành thục, lại thụ thương nên võ công chỉ còn độ ba phần. Thế nhưng Đinh Mẫn Quân vốn dĩ rất ngại người sư muội này, không dám tiến vào thật gần, chỉ cố đánh dây dưa chờ nàng chảy máu nhiều tự nhiên sẽ suy kiệt. Kỷ Hiểu Phù cước bộ chậm dần, kiếm pháp bắt đầu tán loạn, xem ra không còn chịu nổi nữa. Đinh Mẫn Quân lại đâm soẹt soẹt hai cái trúng đầu vai phải của Kỷ Hiểu Phù, khiến cho một nửa người nàng dính đầy máu tươi.
    Bành hòa thượng đột nhiên cao giọng:
    - Kỷ cô nương, cô lại đâm mắt trái tôi đi, Bành hòa thượng này đối với cô cảm kích không cùng.
    Y nghĩ đến Kỷ Hiểu Phù cam chịu hi sinh tính mạng bảo vệ cho mình đã là chuyện khó, huống chi Đinh Mẫn Quân lại còn đem thanh danh trinh bạch ra uy hiếp, đối với đàn bà còn nặng hơn cái chết nhiều. Thế nhưng lúc này dù Kỷ Hiểu Phù có đến đâm mù mắt Bành hòa thượng thì Đinh Mẫn Quân cũng không bỏ qua, y thị biết nếu hôm nay không thừa cơ hạ thủ trừ khử người sư muội này, ngày sau họa hoạn không biết đâu mà lường được.
    Bành hòa thượng thấy Đinh Mẫn Quân kiếm chiêu độc ác, liền lớn tiếng chửi:
    - Đinh Mẫn Quân, ngươi thực là mặt dầy. Thảo nào trên giang hồ gọi ngươi là Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân cũng phải. Ngươi bụng dạ như rắn rết, mặt mày xấu hơn cả Chung Vô Diệm. Nếu trên đời này đàn bà con gái ai ai cũng xấu như ngươi, khiến cho vừa gặp đã buồn mửa, đàn ông con trai chắc đi tu hết. Nếu như Độc Thủ Vô Diệm mà đứng ở trước mặt, Bành hòa thượng này đã đi tu rồi xem ra cũng chưa đủ, nếu mù thêm cả hai mắt mới thật là sướng.
    Thực ra Đinh Mẫn Quân tuy không phải là một mỹ nhân nhưng cũng có đôi chút nhan sắc, mặt mũi dễ nhìn không đến nỗi nào. Bành hòa thượng hiểu rõ tâm lý, biết trên đời này người con gái nào dù xấu hay đẹp đều ghét kẻ chê mình khó coi, nếu bị ai chê thể nào cũng căm giận thấu xương. Y thấy tình thế nguy cấp, liền thuận mồm nói lăng nhăng, ban cho nàng ta cái tên Độc Thủ Vô Diệm, mong y thị nổi cơn tam bành lục tặc lên, quay qua đối phó với mình, Kỷ Hiểu Phù sẽ thừa cơ thoát thân, hay ít nhất cũng tìm cách buộc vết thương lại.
    Thế nhưng Đinh Mẫn Quân đã định sẽ giết cho bằng được Kỷ Hiểu Phù, có còn sợ Bành hòa thượng chạy đi đâu được nữa, nên những lời nhục mạ của y chỉ để ngoài tai.
    Bành hòa thượng lại lớn tiếng nói:
    - Kỷ nữ hiệp băng thanh ngọc khiết, trên chốn giang hồ có ai không nghe, không biết? Thế nhưng con mụ Độc Thủ Vô Diệm Đinh Mẫn Quân kia vốn dĩ lẳng lơ, toan tính mồi chài Ân Lê Đình của phái Võ Đương. Ân Lê Đình đâu thèm ngó ngàng gì tới, mụ mới tính đường gia hại Kỷ nữ hiệp. Hà hà, ngươi gò má cao nghệu, mồm rộng đến mang tai, nước da đen như ma lem, thân hình gầy như que củi, kẻ anh tuấn tiêu sái như Ân lục hiệp đời nào thèm ngó tới. Sao ngươi không soi gương cho thấy cái bản mặt, lại năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình … Đinh Mẫn Quân nghe tới đây giận muốn điên người, nhảy một cái tới trước Bành hòa thượng, giơ kiếm đâm thẳng vào miệng y. Đinh Mẫn Quân quyền cốt quả có hơi cao, miệng thì không phải loại nhỏ như trái anh đào, nước da cũng không trắng nõn, thân thể bẩm sinh cao dong dỏng, vẫn thấy quả mình có đôi điểm không được vừa ý cho lắm. Thế nhưng người ngoài nếu không để ý kỹ cũng chẳng ai nhìn ra. Nào ngờ Bành hòa thượng mục quang sắc bén, không những đã nhận được lại còn thêm dầu thêm mỡ, một nói thành mười, khiến thị không nổi giận sao được?
    Hơn nữa y thị chưa gặp Ân Lê Đình bao giờ, cái chuyện “năm lần bảy lượt liếc mắt tống tình” gì gì đó làm sao có thể? Kiếm của y thị vừa đâm tới, từ trong rừng đột nhiên một người phóng ra, quát lên một tiếng, chặn ngay trước mặt Bành hòa thượng. Người đó thân pháp cực nhanh, Đinh Mẫn Quân không kịp thu chiêu, trường kiếm vẫn còn đâm tới. Người này so với Bành hòa thượng thấp hơn đến nửa cái đầu, thanh kiếm đâm luôn vào trán y.
    Cũng ngay trong giờ khắc như một ánh chớp lòe ấy, người nọ múa chưởng đánh ra, trúng ngay ngực Đinh Mẫn Quân, nghe bình một tiếng, y thị văng xa mấy bước, ngã lăn ra, hộc máu mồm, còn thanh trường kiếm vẫn cắm vào trán người nọ, xem ra y không sống được nữa rồi.
    Đạo nhân râu dài của phái Côn Lôn đi tới mấy bước, kinh hoảng kêu lên:
    - Bạch Qui Thọ! Bạch Qui Thọ!
    Nói xong hai gối y nhũn xuống, ngồi bệt xuống đất. Thì ra người nhảy ra chịu thay cho Bành hòa thượng nhát kiếm đó, chính là Huyền Võ Đàn đàn chủ Bạch Qui Thọ của Thiên Ưng giáo. Y bị trọng thương rồi, nghe tin Bành hòa thượng vì che dấu cho mình nên bị hảo thủ các phái Thiếu Lâm, Côn Lôn, Nga Mi, Hải Sa vây đánh, nên cố hết sức kiếm tới nơi. Y chưởng lực hùng hậu, lúc sắp chết đánh ra khiến Đinh Mẫn Quân bị gãy mấy rẻ xương sườn.
    Kỷ Hiểu Phù kinh hoàng cố gắng trấn định, xé vạt áo buộc vết thương trên vai, đưa tay giải những huyệt đạo bị điểm ở hông Bành Oánh Ngọc, không nói một lời, quay mình đi thẳng. Bành hòa thượng nói:
    - Kỷ cô nương, xin dừng bước để Bành Oánh Ngọc này lạy cô một lạy.
    Nói xong quì xuống hành lễ. Kỷ Hiểu Phù né qua một bên không nhận đại lễ của ông ta. Bành hòa thượng nhặt trường kiếm của đạo sĩ râu dài lên, nói:
    - Mụ Đinh Mẫn Quân này nói năng láo lếu, hủy báng thanh danh của cô nương, không nên để cho y thị sống.
    Nói xong đưa kiếm lên nhắm yết hầu cô ta đâm tới. Kỷ Hiểu Phù tay trái giơ kiếm gạt ra nói:
    - Y là đồng môn sư tỉ của tôi, tuy y thị đối với tôi vô tình, nhưng tôi không thể là kẻ vô nghĩa.
    Bành hòa thượng nói:
    - Sự đã đến thế này, nếu không giết y thị, người đàn bà này về sau sẽ rất bất lợi cho cô.
    Kỷ Hiểu Phù rơi lệ đáp:
    - Tôi là người con gái thật là xui xẻo, thiếu may mắn, nhưng số mệnh sao thì chịu vậy. Bành đại sư, ông đừng giết sư tỉ của tôi.

  7. #36
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Bành hòa thượng đáp:
    - Kỷ nữ hiệp đã bảo như thế, đâu dám không tuân theo.
    Kỷ Hiểu Phù quay qua nói với Đinh Mẫn Quân:
    - Sư tỉ, chị tự bảo trọng lấy thân.
    Nói xong tra kiếm vào vỏ, đi ra khỏi rừng. Bành hòa thượng nói với năm người bị trọng thương nằm dưới đất:
    - Bành hòa thượng ta với các ngươi nguyên không có oán cừu gì ghê gớm, vốn không cần giết các ngươi làm gì. Thế nhưng hôm nay những gì mụ họ Đinh này vu miệt Kỷ nữ hiệp, tất cả đều nghe vào tai, nếu như truyền ra giang hồ, Kỷ nữ hiệp còn sao là người được nữa? Ta bất đắc dĩ không thể để một ai sống sót, bọn ngươi cũng đừng trách ta.
    Nói xong mỗi người một nhát kiếm, giết hai đạo nhân của phái Côn Lôn, nhà sư phái Thiếu Lâm, hai hảo thủ của phái Hải Sa rồi tới rạch một đường vào vai Đinh Mẫn Quân. Đinh Mẫn Quân sợ đến mất cả hồn vía, nhưng bị trọng thương rồi, không còn cách gì kháng cự, chửi:
    - Thằng giặc trọc, ngươi đừng giở trò hành hạ, mau đâm ta một kiếm chết cho xong.
    Bành hòa thượng cười đáp:
    - Đàn bà xấu xa, mồm rộng da vàng như ngươi, ta đâu có dám giết. Chỉ sợ ngươi vào địa ngục rồi, khiến cho hàng nghìn hàng vạn ác quỉ dưới âm sợ quá chạy cả lên trần, Diêm vương phán quan thượng thổ hạ tả, không phải tội nghiệt sao?
    Nói xong cười lên ba tiếng, ném trường kiếm, ôm thi thể Bạch Qui Thọ, lại khóc ba tiếng rồi bỏ đi.
    Trận đấu trong rừng kinh tâm động phách đêm hôm đó, Thường Ngộ Xuân và Trương Vô Kỵ hai người chứng kiến từ đầu đến cuối, nghe rõ từng lời, đến khi Đinh Mẫn Quân đi rồi, hai người mới thở ra. Trương Vô Kỵ nói:
    - Thường đại ca, Kỷ cô nương là vợ chưa cưới của Ân lục thúc tôi, cái bà họ Đinh kia lại nói … nói cô ấy có con với người khác, đại ca nghĩ cái đó thật hay giả?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Con mụ đó nói năng quấy quá, đừng tin làm gì.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Đúng thế, sau này tiểu đệ sẽ nói với Ân lục thúc dạy cho mụ một trận, để cho Kỷ cô nương khỏi bực mình.
    Thường Ngộ Xuân vội đáp:
    - Đừng, đừng, nhất định không nên nói cho Ân lục thúc của ngươi biết chuyện này, hiểu chưa? Ngươi nói ra là hỏng việc hết đấy.
    Trương Vô Kỵ lạ lùng:
    - Sao thế?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thì những ngôn ngữ khó nghe như thế, ngươi chẳng nên nói cho ai cả.
    Trương Vô Kỵ hừ một tiếng, một hồi sau mới hỏi lại:
    - Thường đại ca, có phải đại ca sợ rằng việc này có thật, đúng không?
    Thường Ngộ Xuân thở dài:
    - Quả thật ta cũng không biết nữa.
    Đến khi trời sáng, Thường Ngộ Xuân đứng lên, cõng Trương Vô Kỵ trên lưng, hăng hái đi tiếp. Y nghỉ ngơi đã nửa đêm, tinh thần khôi phục, bước đi nhanh nhẹn hơn nhiều. Đi được vài dặm, chuyển qua một con đường lớn. Thường Ngộ Xuân nghĩ thầm: “Hồ sư bá ẩn cư Hồ Điệp Cốc là nơi thật hoang tịch, sao lại có đường lớn đi tới là sao? Hay mình đi nhầm đường rồi?” Y đang định tìm người dân vùng này hỏi thăm, bỗng nghe tiếng vó ngựa dồn dập, bốn tên lính Mông Cổ tay múa trường đao phi ngựa đến, kêu lớn:
    - Mau lên, mau lên!
    Đi đến sau lưng Thường Ngộ Xuân, giơ đao nhứ nhứ xua y đi về phía trước. Thường Ngộ Xuân kêu khổ thầm” Không ngờ hôm nay thân vào miệng cọp, lại còn chết thêm cái mạng của Trương huynh đệ nữa”.
    Lúc này y võ công mất hết, dù một tên lính tầm thường cũng không đánh nổi, đành lết từng bước đi tới. Chỉ thấy trên đường bách tính lục tục kéo ra, tất cả đều bị quân Nguyên dồn như súc vật. Thường Ngộ Xuân bụng nghĩ thầm “Thì ra Thát tử đang lùa dân chứ không phải định bắt ta may ra mình còn có đường sống”. Y bèn đi theo đoàn người, đến một ngã ba, thấy một tên quân quan Mông Cổ ngồi trên lưng ngựa, chỉ huy sáu bảy chục tên lính, người nào cũng cầm đại đao. Người dân đi ngang qua đầu ngựa, ai ai cũng quì xuống khấu đầu. Một tên người Hán thông dịch hỏi:
    - Họ gì?
    Người đó đáp xong, tên Nguyên binh bên cạnh thuận chân liền đá vào mông một cái, có khi thì một cái bạt tai, người dân liền vội vàng chạy đi. Gặp một người dân nói họ Trương, tên lính Mông Cổ liền giữ lại, bắt y đứng qua một bên. Có người dân khám trong giỏ thấy có một chiếc dao cắt rau mới mua ở chợ, tên Nguyên binh cũng bắt đứng qua một bên.
    Trương Vô Kỵ xem thấy tình thế không ổn, ghé vào tai Thường Ngộ Xuân nói nhỏ:
    - Thường đại ca, đại ca giả vờ vấp ngã lăn qua một bên chui vào đám cỏ cởi bỏ chiếc đao đi.
    Thường Ngộ Xuân vỡ lẽ, lập tức hai chân khụy xuống, lăn luôn vào trong đám cỏ dày, cởi bội đao ra, giả đò suýt soa, khập khiễng đi đến trước tên quan quân. Tên Hán nhân thông dịch chửi:
    - Đồ mọi, không biết qui củ gì hết, thấy quan lớn sao không khấu đầu?
    Thường Ngộ Xuân nghĩ tới toàn gia của cố chủ Chu Tử Vượng bị quân Mông Cổ giết, lúc này thà chết chứ không chịu lạy tên Thát tử. Một tên Nguyên binh thấy chàng cứng đầu, liền quét vào khoeo chân, Thường Ngộ Xuân đứng không vững liền phải quị xuống. Tên thông dịch người Hán quát hỏi:
    - Họ gì?
    Thường Ngộ Xuân chưa kịp hồi đáp, Trương Vô Kỵ nói thay:
    - Họ Tạ, đây là anh tôi.
    Tên lính Nguyên giơ chân đá đít Thường Ngộ Xuân một cái, nói:
    - Cút mau.
    Thường Ngộ Xuân tức giận vô cùng, đứng dậy, ngấm ngầm lập một trọng thệ: “ Trong đời ta nếu không đuổi được bọn Thát tử ra ngoài sa mạc, Thường Ngộ Xuân này không kể là người”. Chàng cõng Trương Vô Kỵ lên, hối hả đi về hướng bắc, chỉ mới được vài chục bước nghe tiếng người kêu la thảm thiết, hai người quay đầu lại, thấy hơn chục người dân bị bắt đứng qua một bên đã đầu một nơi, thân một nẻo nằm chết trên mặt đất.
    Thì ra thời đó chính sách bạo ngược, dân chúng nổi lên thật nhiều, đại thần Mông Cổ có ý giết sạch người Hán, nhưng giết sao cho xuể. Thái sư Ba Diên[6] lại ra một pháp lệnh rất tàn ác, giết tất cả những người Hán nào mang các họ Trương, Vương, Lưu, Lý, Triệu. Người Trung Hoa bốn họ Trương, Vương, Lưu, Lý là đông nhất, còn họ Triệu là hoàng tộc Tống triều. Nếu bốn họ đó giết hết rồi, nguyên khí người Hán ắt tổn thất nặng nề.
    Về sau những người trong các họ đó hàng Nguyên làm quan cũng rất đông, có đại thần Mông Cổ khuyến cáo hoàng đế, mới bãi bỏ cái lệnh đồ sát quái gở đó, nhưng dân đen chết vì lệnh dụ này cũng không biết bao nhiêu mà kể.
    Thường Ngộ Xuân đi nhanh hơn, đến những vùng hoang vắng, biết rằng Hồ Thanh Ngưu ẩn cư chắc ở đâu đó, chỉ cần kiên nhẫn tìm kiếm. Trên đường đi hoa cỏ rực rỡ đủ màu, khắp núi rừng chỗ nào cũng toàn là hoa, nắng xuân nhấp nhô nhưng nghĩ đến thảm trạng vừa qua còn lòng dạ nào mà thưởng ngoạn. Đi qua mấy chỗ quẹo, thấy trước mặt là một vách núi, đường đã hết rồi.
    Chính khi còn đang ngơ ngác chưa biết đâu, bỗng thấy mấy con bướm từ trong những khóm hoa bay ra. Trương Vô Kỵ nói:
    - Nơi đó nếu gọi là Hồ Điệp Cốc thì mình cứ đi theo những con bướm này xem sao.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tốt lắm.
    Y liền đi vào trong khu rừng hoa. Đi khỏi rừng hoa, trước mặt là một con đường mòn. Thường Ngộ Xuân đi thêm một quãng thấy mỗi lúc bướm một nhiều, có con trắng có con vàng, con đen con tím dập dìu. Bướm cũng không sợ, đến gần đậu cả lên đầu, trên vai, trên tay hai người. Hai người biết đã đến Hồ Điệp Cốc nên đều thấy phấn khởi. Trương Vô Kỵ nói:
    - Để tiểu đệ đi chầm chậm được rồi.
    Thường Ngộ Xuân bèn bỏ y xuống đất. Đi đến quá ngọ, thấy có một giòng suối chảy lượn quanh sáu, bảy gian nhà tranh, trước sau mỗi gian nhà đều có vườn, trồng đủ loại hoa cỏ. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Đến rồi, đây hẳn là vườn thuốc của Hồ sư bá.
    Y đến trước những căn nhà tranh, cung kính lớn tiếng gọi:
    - Đệ tử Thường Ngộ Xuân khấu kiến Hồ sư bá.
    Một lúc sau, trong nhà đi ra một tiểu đồng, nói:
    - Mời vào.
    Thường Ngộ Xuân liền dắt tay Trương Vô Kỵ đi vào trong nhà, thấy một người tuổi trạc trung niên, thần thanh cốt tú, chăm chú xem một đồng nhi khác quạt lò đun thuốc, trong nhà đầy mùi dược thảo. Thường Ngộ Xuân quì xuống khấu đầu, nói:
    - Hồ sư bá mạnh khỏe chứ.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm, người này chắc hẳn phải là Điệp Cốc Y Tiên Hồ Thanh Ngưu nên cũng hành lễ chào một câu:
    - Hồ tiên sinh.
    Hồ Thanh Ngưu nhìn Thường Ngộ Xuân gật đầu, nói:
    - Việc của Chu Tử Vượng ta cũng đã có biết. Âu cũng là cái số, bọn Thát tử khí vận chưa tuyệt, bản giáo chưa đến thời kỳ quang đại.
    Ông ta đưa tay cầm mạch trên cổ tay Thường Ngộ Xuân, cởi áo ra nhìn vết thương trên ngực, nói:
    - Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng của phiên tăng, đúng ra thì cũng không sao cả, nhưng vì sau khi trúng chưởng rồi sử lực quá nhiều, hàn độc công tâm, trị cho khỏi cũng mất khá nhiều công phu.
    Chỉ vào Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Còn thằng bé này là ai?
    Thường Ngộ Xuân đáp:
    - Sư bá, y tên là Trương Vô Kỵ, là con trai của Trương ngũ hiệp của phái Võ Đương.
    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, mặt có vẻ giận dữ, nói; - Người của phái Võ Đương ư? Ngươi đem y đến đây làm gì?
    Thường Ngộ Xuân liền đem chuyện y bảo vệ con của Chu Tử Vượng đào tẩu ra sao, bị quan binh Mông Cổ vây bắt, Trương Tam Phong giải cứu thế nào nói cho Hồ Thanh Ngưu nghe, sau cùng kết luận:
    - Đệ tử được thái sư phụ của y cứu mạng, cầu khẩn sư bá phá lệ, cứu y một lần.
    Hồ Thanh Ngưu cười nhạt đáp:
    - Ngươi khẳng khái nhỉ, biết báo đáp ân tình. Hừ, thế nhưng Trương Tam Phong cứu ngươi chứ có phải cứu ta đâu. Ngươi đã thấy ta phá lệ bao giờ chưa?
    Thường Ngộ Xuân quì xuống đất, liên tiếp rập đầu, nói:
    - Sư bá, cha của tiểu huynh đệ này vì không chịu bán rẻ bạn bè, cam nguyện tự vẫn, là một hảo hán tử tiếng tăm lừng lẫy.
    Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
    - Hảo hán tử? Trong thiên hạ biết bao nhiêu là hảo hán tử, ta trị được bao nhiêu người? Y chẳng phải là người của phái Võ Đương ư? Là người danh môn chính phái sao còn kẻ tà giáo ngoại đạo như ta chữa trị?
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Mẫu thân của Trương huynh đệ là con gái của Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, y có một nửa là người của bản giáo.
    Hồ Thanh Ngưu nghe đến đây, lòng thấy dịu lại, gật đầu:
    - Thôi, ngươi đứng dậy. Nếu y là cháu ngoại của Ân Bạch Mi Thiên Ưng giáo thì lại khác.
    Y đến trước mặt Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng nói:
    - Này cháu, ta từ trước đến nay có qui củ, quyết không chữa trị cho người xưng là hiệp nghĩa, danh môn chính phái. Nếu mẹ cháu là người trong bản giáo, trị thương cho cháu không phải là phá lệ. Ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương vốn là một trong tứ đại pháp vương của Minh giáo, sau này y sáng lập Thiên Ưng giáo vì bất hòa với anh em, chứ không phải vỉ phản lại Minh giáo, có thể coi như một chi phái của Minh giáo. Cháu phải đáp ứng một điều, sau khi ta chữa cháu khỏi rồi, cháu phải quay về với ông ngoại cháu Bạch Mi Ưng Vương Ân giáo chủ, từ nay không còn là đệ tử của phái Võ Đương nữa.
    Trương Vô Kỵ chưa kịp trả lời, Thường Ngộ Xuân đã nói:
    - Sư bá, chuyện đó không được. Trương Tam Phong Trương chân nhân đã nói từ trước với đệ tử rằng: “Hồ tiên sinh không được ép Vô Kỵ nhập giáo, dù có chữa nó khỏi bệnh, phái Võ Đương chúng tôi cũng không chịu ơn quí giáo đâu”.
    Hồ Thanh Ngưu lông mày dựng ngược, nổi giận, gay gắt nói:
    - Hừ, Trương Tam Phong là cái gì? Y coi thường chúng ta như thế, tại sao ta phải vì y mà xuất lực? Này cháu, trong lòng cháu quyết định thế nào?
    Trương Vô Kỵ biết rằng âm độc đã lan ra khắp lục phủ ngũ tạng trong cơ thể rồi, dù nội lực thâm hậu như thái sư phụ, cũng đành bó tay, mình có sống được hay không, toàn do vị thần y này chịu hay không chịu chữa. Thế nhưng thái sư phụ lúc chia tay dã từng thiết tha nhắn nhủ, quyết chớ nên hãm thân ma giáo, để rơi vào cảnh vạn kiếp không thoát ra được. Tuy chưa biết ma giáo xấu xa đến chừng nào, vì sao mỗi lần nhắc đến thái sư phụ và các sư bá sư thúc đều ghét cay ghét đắng, nhưng y đối với thái sư phụ sùng kính vô tỉ, tin tưởng chắc chắn là ông nói gì quyết không sai, nghĩ thầm: “Thà rằng để ông ta không chịu chữa, hàn độc phát tác chết đi còn hơn vi bội lời giáo huấn của thái sư phụ”. Y lớn tiếng nói:
    - Hồ tiên sinh, mẹ cháu là đường chủ của Thiên Ưng giáo, cháu tin rằng Thiên Ưng giáo chắc phải tốt đẹp. Thế nhưng thái sư phụ đã từng dặn cháu rằng quyết không thể gia nhập ma giáo, cháu đã bằng lòng, không lẽ nói mà không giữ lời? Nếu tiên sinh không trị thương cho cháu, thì cũng đành vậy. Nếu cháu tham sống sợ chết, miễn cưỡng theo lời của tiên sinh, thì dù có trị lành cho cháu, thì trên đời này cũng chỉ thêm một kẻ bất tín bất nghĩa, có ích lợi gì?
    Hồ Thanh Ngưu trong bụng cười khẩy: “Thằng nhãi này to mồm khoác lác, làm ra vẻ anh hùng hảo hán, để ta không trị cho ngươi, xem ngươi có quì xuống cầu khẩn hay không?”. Quay qua Thường Ngộ Xuân nói:
    - Y đã quyết ý không gia nhập bản giáo, Ngộ Xuân, ngươi bảo y đi ra, trong nhà Hồ Thanh Ngưu đời nào có người chết vì bệnh bao giờ?
    Thường Ngộ Xuân vốn biết vị sư bá này tính tình chấp nê dị thường, nói một là một, ông ta đã không chịu chữa rồi, có cầu cũng vô ích bèn quay qua Trương Vô Kỵ nói:
    - Tiểu huynh đệ, Minh giáo tuy không chung đường lối với các nhân vật hiệp nghĩa trong danh môn chính phái, nhưng từ thời Đại Đường đến nay, đời nào cũng có anh hùng hảo hán. Huống chi ông ngoại ngươi là giáo chủ Thiên Ưng giáo, mẹ ngươi là đường chủ Thiên Ưng giáo, ngươi chịu nghe lời Hồ sư bá, sau này Trương chân nhân có hỏi thì ta chịu hết cho.
    Trương Vô Kỵ đứng thẳng dậy, nói:
    - Thường đại ca, đại ca như vậy là đã hết lòng hết dạ, thái sư phụ của tiểu đệ không trách gì đại ca đâu.
    Nói xong ngang nhiên đi ra cửa. Thường Ngộ Xuân kinh hoảng, vội hỏi:
    - Ngươi đi đâu đó?
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu tôi chết ở Hồ Điệp Cốc, e rằng sẽ làm hỏng mất cái tên “Điệp Cốc Y Tiên”.
    Y nói xong xăm xăm đi ra khỏi căn nhà tranh. Hồ Thanh Ngưu cười nhạt nói:
    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu đã nổi tiếng trong thiên hạ, chết ở bên ngoài cái “Chuồng Bò[7]” trong Hồ Điệp Cốc, đâu phải chỉ một mình thằng bé này.
    Thường Ngộ Xuân chẳng nghe ông ta nói thêm, vội chạy ra đuổi theo Trương Vô Kỵ, bế xốc thằng bé vào, thở hổn hển nói:
    - Hồ sư bá, sư bá nhất định không cứu y, phải không?
    Hồ Thanh Ngưu cười đáp:
    - Ngoại hiệu của ta là Kiến Tử Bất Cứu, bộ ngươi chưa biết hay sao mà còn hỏi.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thế còn vết thương trên người đệ tử, sư bá sẽ chữa phải không?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Đúng vậy.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Được, đệ tử đã nhận lời với Trương chân nhân là sẽ chữa cho chú em này, không thể nào để cho người trong chính phái nói là đệ tử Minh giáo nói không giữ lời. Đệ tử không cầu sư bá trị bệnh, sư bá trị cho vị huynh đệ này đi. Một mạng đổi một mạng, sư bá cũng không phải thiệt thòi.
    Hồ Thanh Ngưu nghiêm mặt đáp:
    - Ngươi trúng phải Tiệt Tâm Chưởng, thương thế không phải nhẹ. Nếu như ta lập tức trị cho ngươi thì có thể khỏi hẳn. Qua bảy ngày thì chỉ mong sống được nhưng võ công từ rày sẽ không bảo toàn. Mười bốn ngày sau nếu không có lương y trị cho, thương thế phát ra thì hết cứu.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Đó là công lao thấy chết không cứu của sư bá, đệ tử chết cũng không oán giận.
    Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ta không cần ông cứu, không cần ông cứu.
    Y quay đầu qua Thường Ngộ Xuân nói:
    - Thường đại ca, bộ đại ca nghĩ Trương Vô Kỵ này là phường tiểu nhân đê hèn hay sao? Đại ca đem tính mạng của mình đánh đổi tính mạng của tiểu đệ, dù tiểu đệ có sống thì đời cũng có gì thú vị nữa đâu.
    Thường Ngộ Xuân không muốn tranh cãi nên cởi thắt lưng, trói chặt thằng nhỏ vào trên ghế. Trương Vô Kỵ vội nói:
    - Đại ca không thả ta ra, ta sẽ chửi cho mà xem.
    Thấy Thường Ngộ Xuân không thèm lý tới, y liền chửi lớn:
    - Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu, thật đúng là ngu như bò, không bằng con vật.
    Hồ Thanh Ngưu thấy y chửi bậy bạ cũng không nổi giận, chỉ lạnh lùng nhìn y. Thường Ngộ Xuân nói:
    - Hồ sư bá, Trương huynh đệ, xin cáo từ. Ta đi tìm thầy chữa thuốc.
    Hồ Thanh Ngưu cười nhạt:
    - Trong tỉnh An Huy này không có thầy lang nào cho ra hồn cả, trong bảy ngày ngươi chưa ra khỏi cảnh giới của tỉnh An Huy.
    Thường Ngộ Xuân ha hả cười:
    - Có sư bá thấy chết không cứu, thì cũng có sư điệt đáng sống không chết.
    Nói xong hùng dũng đi ra cửa. Hồ Thanh Ngưu cười khẩy:
    - Ngươi bảo một mạng đổi một mạng, nhưng ta đã nhận lời đâu? Cả hai ta đều không cứu.
    Tiện tay y nhặt trên bàn một khúc sừng hươu, nghe vù một tiếng, ném ra, trúng ngay huyệt đạo ở khoeo chân Thường Ngộ Xuân. Thường Ngộ Xuân kêu ối một tiếng, ngã lăn ra đất, không đứng dậy được.
    Hồ Thanh Ngưu đến gần cởi dây trói cho Trương Vô Kỵ, nắm hai cổ tay thằng nhỏ, định vứt nó ra ngoài để cho hai người sống chết mặc bay. Trương Vô Kỵ kêu lên:
    - Ngươi làm gì thế?
    Hàn độc xông lên đầu não, lập tức bất tỉnh nhân sự.

    - o O o -

    [1] Lên tiếng ủng hộ [2] Xem thêm Minh giáo, khảo luận của người dịch [3] Thung lũng có nhiều bướm [4] Hoàn là tên đất ngày xưa, nay thuộc tỉnh An Huy, có con sông Dương Tử (Trường giang) chảy qua chia thành mạn bắc (Hoàn Bắc) và mạn nam (Hoàn Nam) [5] ám khí hình đuôi con rết [6] Bayan, thái sư trong khoảng 1328-1340 [7] Thanh Ngưu là con bò đen nên ông ta ví nhà của mình là cái chuồng bò

  8. #37
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHÂM KỲ CAO HỀ DƯỢC KỲ HOANG

    đây nhưng nghiệp chưa tròn, Hoa Đà, Biển Thước cũng còn bó tay.
    Hồ Thanh Ngưu vừa cầm cổ tay Trương Vô Kỵ, thấy mạch của thằng nhỏ đập rất lạ lùng, không khỏi kinh hãi, vội ngưng thần xem xét, nghĩ thầm: “Hàn độc thằng bé này bị trúng thật là cổ quái, không lẽ Huyền Minh thần chưởng chăng? Chưởng pháp này thất truyền đã lâu, trên đời này đâu còn ai biết sử dụng”. Lại nghĩ tiếp: “Nếu không phải là Huyền Minh thần chưởng, thì là cái gì? Âm hàn độc địa thế này, không có môn chưởng lực nào khác cả. Y trúng phải chưởng lực cũng đã lâu, sao vẫn chưa chết, cũng thật lạ kỳ. Đúng rồi, lão đạo Trương Tam Phong dùng nội lực thâm hậu của mình giúp nó sống lây lất, đến bây giờ âm độc đã lan vào khắp lục phủ ngũ tạng, bám sâu ở trong đó, chỉ có thần tiên mới cứu nó sống được thôi”.
    Nghĩ vậy y bỏ Trương Vô Kỵ trở lại trên ghế. Qua một lúc sau, Trương Vô Kỵ từ từ tỉnh lại, thấy Hồ Thanh Ngưu ngồi trước mặt, đăm đăm nhìn ngọn lửa trong lò nấu thuốc, xuất thần suy nghĩ, còn Thường Ngộ Xuân vẫn còn nằm ở bãi cỏ trước nhà. Ba người ba tâm sự khác nhau, chẳng ai nói một câu nào.
    Hồ Thanh Ngưu cả đời mê say nghề thuốc, những chứng bệnh khó khăn tưởng như bó tay đến y đều chữa khỏi, nên mới được cái danh hiệu Y Tiên. Chữa bệnh mà được chữ tiên có nghĩa là kỹ thuật thần kỳ lắm, không phải người thường. Thế nhưng hàn độc của Huyền Minh thần chưởng, y trong đời chưa từng gặp qua, mà trúng rồi lại dây dưa mấy năm không chết đến khi hàn độc lan vào lục phủ ngũ tạng thì lại càng không thể có được. Y đã định không chữa cho Trương Vô Kỵ, nhưng khi gặp được cái chứng quái lạ, cả đời chưa chắc gặp này, có khác gì tửu đồ gặp rượu ngon, kẻ háu ăn ngửi mùi thịt, làm sao bỏ cho nổi?
    Nghĩ ngợi một hồi lâu, sau cùng y nghĩ ra một cách: “Ta cứ chữa cho nó khỏi đã, sau đó sẽ giết nó đi”. Thế nhưng muốn đuổi được hết âm độc trong ngũ tạng lục phủ ra, đâu phải dễ dàng. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ mấy tiếng đồng hồ, lấy ra mười hai miếng đồng nhỏ, vận nội lực cắm vào các huyệt Trung Cực ở dưới đan điền, Thiên Đột ở dưới cổ, Kiên Tỉnh ở trên vai … tổng cộng mười hai chỗ. Huyệt Trung Cực là điểm tụ hội của Túc Tam Âm và Nhâm Mạch. Thiên Đột thì là chổ gặp nhau của Âm Duy và Nhâm Mạch, còn Kiên Tỉnh thì là điểm hội tụ của Thủ Túc Thiếu Dương, Túc Dương Minh, Dương Duy. Mười hai miếng đồng đó cắm xuống rồi, mười hai kinh thường mạch và kỳ kinh bát mạch liền bị phân cách ra.
    Trong cơ thể con người tâm, phế, tì, can, thận là ngũ tạng, thêm tâm bao sáu bộ phận đó thuộc âm; vị, đại trường, tiểu trường, đảm, bàng quang, tam tiêu là lục phủ, sáu bộ phận đó thuộc dương[1]. Ngũ tạng lục phủ cộng thêm tâm bao gọi là thập nhị kinh thường mạch. Nhâm, Đốc, Xung, Đới, Âm Duy, Dương Duy, Âm Kiều, Dương Kiều tám mạch không thuộc các mạch chính kinh âm dương, không phối hợp biểu lý, đi theo những đường riêng, gọi là kỳ kinh bát mạch.
    Sau khi các thường mạch và kỳ kinh trên thân thể Vô Kỵ cách biệt ra rồi, âm độc trong ngũ tạng lục phủ không còn thông được với nhau, Hồ Thanh Ngưu mới dùng ngải hơ[2] hai huyệt Vân Môn, Trung Phủ trên đầu vai, sau đó lại hơ các huyệt Thiên Phủ, Hiệp Bạch, Xích Trạch, Khổng Tối, Liệt Khuyết, Kinh Cừ, Đại Uyên, Ngư Tế, Thiếu Thương từ cánh tay xuống đến ngón tay cái, mười một huyệt đó thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh cốt để tiêu giảm âm độc trong phổi của Vô Kỵ. Cách đó lấy nhiệt công hàn, khổ sở mà Trương Vô Kỵ phải chịu cũng chẳng kém gì lúc âm độc phát tác. Cứu xong Thủ Thái Âm Phế Kinh, tiếp đến Túc Dương Minh Vị Kinh, Thủ Quyết Âm Tâm Bao Kinh … Khi ra tay, Hồ Thanh Ngưu chẳng cần để ý đến Trương Vô Kỵ có đau hay không, ông ta dùng ngải hơ đến nỗi toàn thân thằng bé chỗ nào cũng đen xì. Trương Vô Kỵ không tỏ ra yếu hèn, nghĩ thầm: “Chắc ngươi tưởng ta sẽ rên rỉ kêu la, ta nhất định không thèm xuýt xoa lấy một tiếng”. Y tiếp tục nói chuyện với Hồ Thanh Ngưu về phương vị các huyệt đạo. Tuy y không thông y lý, nhưng nghĩa phụ Tạ Tốn đã từng truyền dạy phép điểm huyệt, giải huyệt, và thuật chuyển dịch huyệt đạo. Thành thử, các vị trí huyệt đạo y cũng rất tỏ tường. So với vị đương thế thần y này, kiến thức của Vô Kỵ về kinh mạch thật là thô thiển, nhưng có liên quan tới y lý chính là ngành mà Hồ Thanh Ngưu rất tâm đắc. Hồ Thanh Ngưu một mặt cứu ngải để rút chất độc trong cơ thể y ra, một mặt giảng giải thao thao bất tuyệt.
    Trương Vô Kỵ nghe vào tai, mười phần thì chín phần chẳng hiểu chi cả, nhưng không dám để lộ là “Phái Võ Đương chúng tôi chẳng biết gì cả”, thỉnh thoảng lại chêm một câu bình phẩm, cùng ông ta biện luận một hồi. Hồ Thanh Ngưu lại càng xiển thuật, đến khi biết ra “thằng nhãi này thực ra có biết gì đâu, chỉ nói năng lăng nhăng” thì cũng đã mất bao nhiêu là nước bọt. Thế nhưng ở chỗ thâm sơn cùng cốc như thế này, trừ vài đứa tiểu đồng nấu cơm, đun thuốc có ai bạn bè đâu, hôm nay có thằng bé này, cùng y nói nọ nói kia về huyệt đạo, kể cũng thích thú.
    Đến khi hơ hết mấy trăm huyệt trên mười hai thường mạch thì trời đã xế chiều. Tiểu đồng dọn cơm lên để trên bàn, lại đem một mâm cơm và rau đưa ra bên ngoài cho Thường Ngộ Xuân ăn. Đêm đó Thường Ngộ Xuân phải ngủ ở bên ngoài. Trương Vô Kỵ cũng không ngỏ lời cầu khẩn Hồ Thanh Ngưu, đến khi đi ngủ y đi ra nằm cạnh Thường Ngộ Xuân, hai người cùng ngủ trên bãi cỏ, để tỏ cái lòng có nạn cùng chịu. Hồ Thanh Ngưu giả như nhìn mà không thấy, chẳng thèm nói đến nhưng trong bụng cũng lấy làm lạ: “Thằng bé này quả thực không giống những trẻ con khác”.
    Sáng sớm hôm sau, Hồ Thanh Ngưu lại dùng hết nửa ngày để hơ các huyệt đạo trên kỳ kinh bát mạch của Vô Kỵ. Mười hai kinh thường mạch cũng tựa như sông cái sông con, luôn luôn chảy không ngừng, kỳ kinh bát mạch cũng tựa như hồ biển, súc tích tàng trữ, thành ra muốn trừ khử âm độc trong kỳ kinh bát mạch, xem ra lại còn khó hơn. Hồ Thanh Ngưu suy nghĩ viết một toa thuốc, khước tà phù chính, bổ hư tả thực, dùng phương pháp gậy ông đập lưng ông “dĩ hàn trị hàn”. Trương Vô Kỵ uống thang thuốc đó rồi, bị lạnh run hết nửa ngày nhưng sau đó tinh thần thêm thư thái hơn trước.
    Sau buổi trưa, Hồ Thanh Ngưu lại châm cứu cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ cố nói khích ông ta để ông ta chữa cho Thường Ngộ Xuân nhưng Hồ Thanh Ngưu không thèm lý đến, chỉ lạnh lùng đáp:
    - Cái ngoại hiệu Điệp Cốc Y Tiên của ta có điểm danh quá kỳ thực. Chữ tiên đâu có thể vọng xưng được đâu? Thế nhưng người ta gọi là Kiến Tử Bất Cứu ta lại thích hơn.
    Khi đó ông ta đang châm tại huyệt Ngũ Khu giữa hông và đùi của Trương Vô Kỵ, huyệt đó là nơi hội tụ của Túc Thiếu Dương và Đới Mạch, bên cạnh thủy đạo một tấc năm phân. Trương Vô Kỵ nói:
    - Trên cơ thể con người thì đới mạch kỳ lạ nhất. Hồ tiên sinh, ông có biết không, có người không có đới mạch đó.
    Hồ Thanh Ngưu ngạc nhiên, nói:
    - Chỉ nói bậy. Làm sao lại không có đới mạch được?
    Trương Vô Kỵ vốn chỉ thuận miệng nói lăng nhăng, liền tiếp:
    - Thiên hạ rộng lớn như thế, chuyện lạ đến đâu cũng có, huống chi đới mạch theo cháu chẳng có lợi ích gì cả.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Đới mạch kỳ lạ thì đúng, nhưng bảo là vô dụng thì sai. Những y sư tầm thường không biết cái tinh áo bên trong, châm kim cắt thuốc không khỏi sai lầm. Ta có viết một cuốn Đới Mạch Luận, ngươi đọc thì biết.
    Ông ta liền đi vào phòng, lấy ra một bộ sách mỏng, giấy đã vàng đem ra đưa cho Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ giở trang đầu, thấy viết:
    Mười hai kinh và kỳ kinh thất mạch, đều lưu chuyển đi lên đi xuống. Riêng đới mạch bắt đầu từ bụng, bên dưới mạng sườn, đi quanh thân mình một vòng ở eo, như cái đai thắt ngang. Xung, nhâm, đốc ba mạch cùng bắt đầu nhưng đi ba hướng khác nhau, một gốc mà ba ngọn, cùng quấn chung quanh đới mạch.
    Sau đó ông bình luận những sai lầm trong y thư xưa nay, Thập Tứ Kinh Phát Huy nói đới mạch có bốn huyệt, Châm Cứu Đại Thành nói đới mạch có sáu huyệt, thực ra có đến mười huyệt, trong đó hai huyệt ẩn hiện vô chừng, khi có khi không, rất khó biện. Trương Vô Kỵ đọc tiếp xuống dưới, tuy không rõ những áo diệu bên trong, nhưng cũng biết cuốn sách này kiến thức không phải tầm thường nên đem những chỗ ông phê bình cổ nhân ra thỉnh giáo.
    Hồ Thanh Ngưu rất vui vẻ, một mặt tiếp tục châm, một mặt giải thích, đến khi mười huyệt của đới mạch đã châm xong, ông ta mới ngồi nghỉ một chút, nói tiếp:
    - Ta còn một bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh ghi tất cả những điều tâm huyết trong đó.
    Ông ta vào trong phòng đem ra một bộ tất cả mười hai quyển y kinh chép tay. Hồ Thanh Ngưu biết thằng bé này không biết gì về y lý, nhưng y ẩn cư nơi hoang cốc đã lâu, cũng cảm thấy tịch mịch. Những người trước đây đến xin chữa bệnh tuy rất đông, nhưng ai ai cũng chỉ khen ông ta y thuật như thần, những lời đó hai mươi năm nay nghe đã chán. Thực ra chuyện ông ta hãnh diện nhất trong đời không phải “y thuật” tinh tường, mà ở tại “y học”, trong đó nhiều điều phát minh sáng kiến mà những người đi trước chưa ai tìm ra. Ông ta biết những thành tựu đó vô cùng to lớn, nhưng chỉ có thể cô phương tự thưởng[3], khiến không khỏi bẽ bàng. Bây giờ thấy thiếu niên này ham thích đọc sách trước tác của mình, ngầm cảm thấy có cái tình tri kỷ, nên đem bộ sách đắc ý cho xem.
    Trương Vô Kỵ giở ra xem, thấy mỗi trang viết kín mít những chữ nhỏ bằng con ruồi theo lối chữ tiểu khải, huyệt đạo bộ vị, thuốc men phân lượng, thời khắc và cách châm nông sâu, không gì không chú thích minh bạch. Y bỗng tâm niệm một điều: “Mình duyệt xem có đoạn nào nói về cách chữa thương cho Thường đại ca hay không?” Giở đến quyển số chín Võ Học Thiên trong đó có phần Chưởng Thương Trị Pháp thấy có Hồng Sa Chưởng, Thiết Sa Chưởng, Độc Sa Chưởng, Miên Chưởng, Khai Sơn Chưởng, Phá Bi Chưởng … các loại chưởng lực, các chứng thương, cách cấp cứu, cách trị liệu, đều có ghi đầy đủ. Đọc hết hơn một trăm tám mươi loại, quả nhiên có Tiệt Tâm Chưởng.
    Trương Vô Kỵ mừng lắm, lập tức chăm chú đọc kỹ một lần, trong đó mô tả kỹ càng, nhưng trị pháp lại thật giản lược, chỉ nói “chữa bằng cách châm bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên, Thiên Trì, theo biến chuyển của âm dương, ngũ hành, xét hàn, thử, táo, thấp, phong[4] năm loại thời tiết, tùy tình trạng hỉ, nộ, ưu, tư, khủng[5] ngũ tình của bệnh nhân mà bốc thuốc”.
    Y đạo Trung quốc biến hóa đa đoan, cùng một chứng bệnh, người thầy thuốc phải quan sát trời nóng hay lạnh, đêm hay ngày, bên ngoài hay bên trong, đầy hay vơi, đầu hay cuối, động hay tĩnh, đàn ông hay đàn bà, người lớn hay trẻ em … tùy từng trường hợp mà đưa ra phương thức chữa, mọi thay đổi đều do y sinh chứ không có qui tắc nhất định. Chính vì thế mà thầy thuốc giỏi với thầy thuốc xoàng cách nhau một trời một vực. Cái áo diệu đó Trương Vô Kỵ không biết, nên đọc phương pháp vài lần cốt chăm chăm nhớ trong đầu. Cuối cùng trong Chưởng Thương Trị Pháp chính là Huyền Minh thần chưởng, có viết các triệu chứng khi bị thương, nhưng tại trị pháp chỉ có ghi một chữ “Không”.
    Trương Vô Kỵ gập bộ sách lại, cung kính đặt trên bàn, nói:
    - Bộ Tí Ngọ Châm Cứu Kinh này của Hồ tiên sinh bác đại tinh thâm, vãn bối đọc mười phần thì chín phần không hiểu gì cả, xin mong được chỉ điểm. “Ngự âm dương ngũ hành chi biến” là thế nào?
    Hồ Thanh Ngưu giải thích mấy câu, chợt tỉnh ngộ, nói:
    - Ngươi định hỏi làm thế nào để trị thương cho Thường Ngộ Xuân, phải không? Ha ha, chuyện khác thì ta nói, chuyện đó ta không nói.
    Vô Kỵ không còn cách nào khác hơn, đành phải tra khảo trong các y thư, Hồ Thanh Ngưu để y muốn đọc gì thì đọc, không cấm đoán. Trương Vô Kỵ chăm chú nghiên cứu suốt ngày đêm, quên ăn quên ngủ, không chỉ đọc hết hơn một chục bộ sách Hồ Thanh Ngưu soạn ra, mà cả Hoàng Đế Nội Kinh, Hoa Đà Nội Chiêu Đồ, Mạch Kinh của Vương Thúc Hòa, Thiên Kim Phương, Thiên Kim Dực của Tôn Tư Mạc, Ngoại Đài Bí Yếu của Vương Đảo … các loại kinh điển trong nghề thuốc, cũng đều đọc cả cốt tìm hiểu ý nghĩa các câu đề cập đến trong phương pháp trị Tiệt Tâm Chưởng, chỗ nào có liên quan là đọc kỹ suy nghĩ. Mỗi ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu cho y hai lần, một lần giờ thìn, một lần giờ thân để trừ âm độc.
    Cứ như thế mấy ngày liền, Trương Vô Kỵ cắm cúi đọc đủ các loại sách, tuy nhớ được một mớ y lý, thang thuốc, nhưng cái tinh diệu trong y học, y tuổi nhỏ học vấn nông cạn, làm sao trong vài ngày mà hiểu được? Bấm ngón tay tính toán, y đến Hồ Điệp Cốc đã sáu ngày. Hồ Thanh Ngưu đã nói thương thế của Thường Ngộ Xuân nếu do ông ta chữa trong vòng bảy ngày có thể khỏi hẳn, ngoài bảy ngày thì dù có trị được võ công cũng mất hết. Thường Ngộ Xuân đã nằm ngoài cỏ sáu ngày sáu đêm, đến hôm nay trời lại đổ mưa. Hồ Thanh Ngưu thấy chỗ y nằm trũng đầy bùn nước, nhưng tuyệt nhiên không lý tới. Trương Vô Kỵ hết sức giận dữ, nghĩ thầm: “Ta đọc trong các sách thuốc, trừ sách do ngươi soạn ra, sách nào cũng viết là phàm người trong y đạo phải có lòng tế thế huệ dân, còn ngươi thân đầy một bụng y thuật, nhưng lại thấy chết không cứu, vậy thì còn gọi là lương y sao được?”.
    Đến chiều, trời mưa lại càng thêm nặng hạt, sấm chớp ầm ầm, hết tiếng rền nọ lại đến tiếng sét kia. Trương Vô Kỵ nghiến răng, nghĩ thầm: “Ngoài việc ta đánh liều chữa cho Thường đại ca, không còn cách nào khác”. Nghĩ vậy y lấy trong tủ thuốc của Hồ Thanh Ngưu ra tám mũi kim vàng, chạy ra ngồi cạnh Thường Ngộ Xuân, nói:
    - Thường đại ca, mấy ngày qua tiểu đệ tận tâm kiệt lực, nghiên cứu đọc Hồ tiên sinh y thư, tuy chưa thông hiểu nhưng thời giờ khẩn cấp, không còn diên trì được nữa rồi. Tiểu đệ chỉ còn cách mạo hiểm hạ châm cho Thường đại ca, nếu chẳng may có chuyện gì, tiểu đệ sẽ không sống một mình đâu.
    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, nói:
    - Tiểu huynh đệ sao lại nói như thế? Ngươi mau mau châm kim chữa bệnh cho ta, nếu may mà trời cho khỏi được, ta sẽ trêu ghẹo Hồ sư bá một phen. Còn nếu mới châm một hai mũi mà ta chết rồi, cũng còn hơn sống mà phải nằm trong vũng bùn này chịu khổ.
    Trương Vô Kỵ hay tay run rẩy, nhìn kỹ mò đúng huyệt đạo của Thường Ngộ Xuân, lập cập cầm một mũi kim châm vào huyệt Quan Nguyên. Y chưa được tập luyện thuật châm cứu, cách đâm kim vào hết sức vụng về, chỉ bắt chước cách Hồ Thanh Ngưu châm cho mình mỗi ngày, theo đó mà làm. Những mũi kim của Hồ Thanh Ngưu lại do vàng ròng đúc thành nên rất mềm, không phải là người có nội lực thâm hậu không thể sử dụng được. Trương Vô Kỵ dùng sức hơi quá nên cái kim bị cong vẹo đi, không tiến sâu hơn được nữa, đành phải rút ra châm lại. Nếu đúng theo châm cứu thuật, rút ra không chảy máu, nhưng vì y lúng túng châm không đúng chỗ, máu từ huyệt Quan Nguyên của Thường Ngộ Xuân chảy vọt ra. Huyệt Quan Nguyên nằm ở bụng dưới là chỗ yếu hại của con người nên chảy máy không cầm được, Trương Vô Kỵ trong bụng càng nôn nóng không còn biết làm gì.
    Bỗng nghe đằng sau có tiếng người cười ha hả, Vô Kỵ quay lại, thấy Hồ Thanh Ngưu tay chắp sau lưng, dáng vẻ tự đắc, cười khà khà nhìn y hay tay đầy máu. Trương Vô Kỵ vội hỏi:
    - Hồ tiên sinh, huyệt Quan Nguyên của Thường đại ca chảy máu không ngừng, phải làm cách nào đây?
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Dĩ nhiên ta biết cách nào cầm máu, nhưng việc gì phải nói cho ngươi nghe?
    Trương Vô Kỵ ngang nhiên nói:
    - - Thôi bây giờ một mạng đổi một mạng, xin ông mau cứu Thường đại ca, tôi lập tức chết ngay trước mặt ông là xong.
    Hồ Thanh Ngưu lạnh lùng đáp:
    - Ta đã nói không chữa là không chữa. Hồ Thanh Ngưu này chỉ thấy chết không cứu chứ đâu phải quỉ vô thường đi đòi mạng, ngươi chết có ích lợi gì cho ta đâu? Dù có chết mười Trương Vô Kỵ cũng không cứu được một Thường Ngộ Xuân.
    Trương Vô Kỵ biết có nói thêm cũng chỉ mất thì giờ, nghĩ thầm kim này mềm quá, không thể dùng được, lúc này không còn cách nào đi kiếm các loại kim khác, đồng châm thiết châm không thấy đâu, suy nghĩ một chút, bèn đi tìm một khúc tre, dùng dao chẻ thành mấy cái tăm, đâm vào bốn huyệt Tử Cung, Trung Đình, Quan Nguyên Thiên Trì trên người Thường Ngộ Xuân.
    Mấy cái tăm tre quả nhiên đâm vào không thấy máu chảy. Một lúc sau, Thường Ngộ Xuân nôn ra mấy ngụm máu bầm. Trương Vô Kỵ không biết mình châm lung tung như thế khiến cho Thường Ngộ Xuân bệnh nặng thêm hay có công hiệu trục được ứ huyết trong cơ thể ra, quay đầu lại nhìn Hồ Thanh Ngưu thấy ông ta tuy trên mặt nụ cười có vẻ chế riễu, nhưng có ẩn vài phần khen ngợi. Trương Vô Kỵ biết mấy mũi trúc châm của mình đâm xuống không hẳn sai lạc, nên chạy vào trong lục lọi y thư, suy nghĩ thật kỹ, viết một cái toa thuốc. Tuy y đọc trong sách biết vị nào chữa bệnh nào nhưng sinh địa, sài hồ hình dạng ra sao, ngưu tất, mật gấu như thế nào, y chưa biết đến, đành phải trơ trẽn đem toa thuốc giao cho thằng nhỏ nấu thuốc, nói:
    - Nhờ anh theo toa này nấu dùm một thang.
    Thằng nhỏ đem toa thuốc trình cho Hồ Thanh Ngưu xem, hỏi ông ta xem có nên nấu không. Hồ Thanh Ngưu nhăn mũi hừ một tiếng nói:
    - Thật nực cười, nực cười.
    Y cười khẩy mấy tiếng, nói:
    - Ngươi cứ theo đó mà nấu. Y uống xong nếu không chết thì trên đời này không còn ai chết nữa.
    Trương Vô Kỵ vội giật lại toa thuốc, giảm phân lượng mỗi thứ một nửa. Tên tiểu đồng cứ theo đó mà cắt đem nấu thành một tô thật đặc.
    Trương Vô Kỵ bưng bát thuốc ra để vào miệng Thường Ngộ Xuân nghẹn ngào nói:
    - Thường đại ca, uống thang thuốc này vào lành hay dữ, tiểu đệ hoàn toàn không biết … Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    - Tốt lắm, tốt lắm, cái này đúng là thằng mù chữa kẻ thong manh.
    Y nhắm mắt, ngửa cổ uống một hơi hết sạch cả cặn. Đêm hôm đó Thường Ngộ Xuân bụng đau như dao cắt, nôn ọe ra máu không ngừng. Trương Vô Kỵ dưới gió mưa sấm chớp hầu hạ y suốt cả đêm. Đến sáng sớm hôm sau, mưa ngừng hạt, Thường Ngộ Xuân cũng bớt thổ huyết, máu nôn ra không còn đen mà đã thành tím, rồi từ tím sang đỏ. Thường Ngộ Xuân mừng nói:
    - Tiểu huynh đệ, thuốc ngươi cắt hóa ra uống không chết, xem ra thương thế lại giảm đi nhiều.
    Trương Vô Kỵ mừng rỡ nói:
    - Thuốc của tiểu đệ uống thấy thế nào?
    Thường Ngộ Xuân cười đáp:
    - Cha ta đã biết trước có ngày như thế này nên đã đặt tên cho ta là “Thường Ngộ Xuân”, nghĩa là thường thường gặp được danh y diệu thủ hồi xuân[6] mà. Có đều chú mày cắt thuốc xem chừng hơi bá đạo, uống vào bụng chẳng khác nào có mấy chục con dao nhỏ đâm chém loạn xạ trong ấy.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Đúng thế, đúng thế. Xem ra liều lượng quả có hơi nặng.
    Thực ra y ra toa nào chỉ có “hơi nặng” mà quả là nặng gấp mấy lần bình thường, lại không có những vị khác để điều hòa phụ giúp, nên công phạt càng mạnh hơn. Tuy y đã đọc trong sách của Hồ Thanh Ngưu về thuốc nào trị bệnh nào nhưng đạo dùng thuốc “quân thần tá sứ” hoàn toàn chẳng thông hiểu, nếu Thường Ngộ Xuân không thể phách cường tráng, khỏe mạnh hơn người thì ắt đã ô hô ai tai rồi.
    Hồ Thanh Ngưu rửa mặt chải đầu xong, khoan thai đi ra, thấy Thường Ngộ Xuân mặt mũi hồng hào, tinh thần sảng khoái, không khỏi giật mình nghĩ thầm: “Một tên thông minh lớn mật, một tên thể phách tráng kiện, thương thế của Tiệt Tâm Chưởng thế mà trị được rồi”.
    Trương Vô Kỵ cũng viết thêm một toa thuốc bổ, nào là nhân sâm, lộc nhung, thủ ô, phục linh bao nhiêu loại bổ dược quí giá viết cả ra. Trong nhà Hồ Thanh Ngưu chứa biết bao nhiêu là thuốc, loại nào cũng đều là loại thật tốt, nên dược lực thật mạnh. Uống thuốc bổ như thế mươi ngày, Thường Ngộ Xuân thấy thần thái sung mãn, võ công hoàn toàn trở lại như xưa, nói với Trương Vô Kỵ:
    - Tiểu huynh đệ, hiện nay thương thế của ta hoàn toàn khỏi hẳn rồi, ngày ngày ngươi ra nằm dầm sương với ta xem ra không hợp lý. Thôi vậy anh em mình từ biệt nhau.
    Trong hơn một tháng qua, Trương Vô Kỵ và y cùng chung hoạn nạn, hai bên xả thân, thành một đôi bạn sinh tử có nhau, nay phải chia tay, thật quyến luyến không muốn rời. Thế nhưng biết rằng Thường Ngộ Xuân không thể ở mãi tại đây, Vô Kỵ đành nuốt lệ chấp nhận.
    Thường Ngộ Xuân nói:
    - Tiểu huynh đệ, ngươi đừng quá khổ sở. Ba tháng nữa, ta sẽ quay lại thăm, nếu lúc đó hàn độc trong thân thể ngươi hết rồi, sẽ dẫn ngươi trở về núi Võ Đương để gặp lại thái sư phụ.
    Y đi vào trong nhà bái biệt Hồ Thanh Ngưu, nói:
    - Đệ tử thương thế nay đã đỡ, tuy là do Trương huynh đệ ra tay chữa trị nhưng toàn là do sách thuốc của sư bá mà theo, lại uống không biết bao nhiêu là dược vật quí giá của sư bá.
    Hồ Thanh Ngưu gật đầu:
    - Thế nhưng cũng chưa xong đâu. Thương thế của ngươi tuy đã đỡ, nhưng tuổi thọ cũng bị giảm mất bốn mươi năm.
    Thường Ngộ Xuân không hiểu, hỏi lại:
    - Sao thế?
    Hồ Thanh Ngưu đáp:
    - Cứ theo thể phách của ngươi mà nói, ít ra ngươi cũng sống đến tám mươi. Thế nhưng thằng bé dùng thuốc sai lầm, lúc hạ châm lại không đúng cách, từ nay trở về sau, mỗi khi trời âm u mưa gió, ngươi sẽ thấy toàn thân đau nhức, nói chung đến khoảng bốn mươi tuổi, sẽ phải đi gặp Diêm Vương thôi.
    Thường Ngộ Xuân cười ha hả, hiên ngang đáp:
    - Đại trượng phu giúp đời trả nợ nước, nếu như lập nên công nghiệp, thì ba mươi tuổi cũng đã đủ, cần gì phải đến bốn mươi? Còn như sống đời tầm thường, dù có sống đến trăm tuổi, cũng chỉ tốn cơm tốn gạo mà thôi.
    Hồ Thanh Ngưu lại gật đầu, nhưng không nói thêm nữa.[7] Trương Vô Kỵ tiễn chân ra đến tận cốc khẩu, Thường Ngộ Xuân giục y trở lại, hai người mới gạt lệ chia tay. Trương Vô Kỵ trong bụng thầm toan tính: “Ta chữa trị, cắt thuốc sai lầm khiến Thường đại ca giảm thọ bốn mươi năm. Thân thể anh ấy vì ta mà tổn hại, không lẽ về sau ta không thể làm gì giúp ích được sao? Ta phải tìm cách nào làm cho anh ấy hoàn toàn khôi phục như trước mới xong”.
    Từ đó ngày ngày Hồ Thanh Ngưu châm cứu, kê toa cắt thuốc cho Trương Vô Kỵ để tiêu trừ âm độc trong thân thể. Trương Vô Kỵ cũng ngày đêm chăm chú đọc sách thuốc, ghi nhớ dược điển, gặp chỗ nào nghi nan không rõ liền hỏi lại Hồ Thanh Ngưu. Chuyện đó Hồ Thanh Ngưu rất thích nên lại càng ra công giải thích chỉ điểm. Có khi Vô Kỵ đưa ra những câu hỏi lạ lùng, suy nghĩ khác thường mà trước đây Hồ Thanh Ngưu chưa hề tưởng đến. Lúc đầu ông ta định bụng chữa khỏi Trương Vô Kỵ rồi sẽ ra tay giết thằng bé, nhưng bây giờ nghĩ nếu nó chết đi sẽ mất một người bạn tâm đầu ý hợp nên không còn nghĩ đến việc khỏi sớm chết sớm nữa.
    Cứ như vậy mấy tháng liền, một hôm Hồ Thanh Ngưu bỗng nhiên phát giác, huyệt Quan Xung ở bên cạnh ngón tay vô danh, huyệt Thanh Lãnh Uyên ở cách khoeo tay hai tấc, huyệt Ti Trúc Không ở chỗ lõm sau lông mày khi châm vào không phản ứng gì cả. Ba huyệt đó đều thuộc Thủ Thiếu Dương Tam Tiêu Kinh. Tam tiêu bao gồm thượng tiêu, trung tiêu, hạ tiêu là một trong lục phủ, từ trước tới nay y thư chép là rất huyền diệu bí áo, khó lòng tìm được.[8] Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm suy nghĩ, dùng đủ mọi loại phương pháp xảo diệu vẫn không trục được âm độc trong tam tiêu của Vô Kỵ. Hơn mười ngày sau, đầu tóc ông ta đã bạc thêm hơn chục sợi mà chưa đến đâu.
    Trương Vô Kỵ thấy ông ta lao thần suy nghĩ, hết sức khổ não, trong lòng không khỏi cảm kích, thấy dạ không an, nói:
    - Hồ tiên sinh, ông đã tận tâm kiệt lực khu độc cho cháu. Trên đời này có ai không chết đâu, âm độc chạy vào tam tiêu của cháu không đuổi ra được, âu cũng là số mệnh phải chịu, tiên sinh không phải quá phí tâm sức, vì chuyện cứu mạng cho cháu mà tổn lao thân thể.
    Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, lạnh lẽo đáp:
    - Ngươi coi Minh giáo, Thiên Ưng giáo không vào đâu, đời nào ta muốn cứu mạng cho mi? Chỉ có điều ta trị bệnh cho ngươi không khỏi, hóa ra cái tên Điệp Cốc Y Tiên là kẻ vô năng hay sao? Ta định bụng sau khi chữa khỏi cho ngươi rồi sẽ giết ngươi chết.
    Trương Vô Kỵ không khỏi lạnh người, nghe ông ta nói một cách thản nhiên tưởng như coi chuyện đó chẳng vào đâu, biết y đã nói ra khỏi miệng rồi quyết không thay đổi, thở dài nói:
    - Cháu xem ra âm độc trong cơ thể không cách nào trừ được, tiên sinh không cần ra tay, cháu cũng phải chết. Thế nhân xem ra chỉ muốn người khác chết sạch thì mới vui lòng. Chúng ta học võ luyện công, chẳng phải là để giết người khác hay sao?
    Hồ Thanh Ngưu nhìn vào khoảng không xa vắng ngoài nhà, xuất thần hồi lâu, buồn bã nói:
    - Khi ta còn trẻ ra sức học thuốc, lập chí tế thế cứu nhân, nhưng rồi ra mới biết mình lầm. Ta cứu người ta rồi, người ta quay lại hại ta thật là tàn nhẫn. Có một chàng trai kia trúng phải Kim Tàm trùng độc ở Miêu Cương Quí Châu, là loại độc chất vô cùng nguy hiểm, người trúng độc này thể nào cũng chết nhưng trước khi chết còn phải chịu thống khổ không chịu nổi. Ta ba ngày ba đêm không ngủ, hao phí tâm sức cứu được y, cùng y nghĩa kết kim lan, tình như ruột thịt, lại hứa gả đứa em gái cho y. Nào ngờ về sau y lại hại em ta đến phải chết. Ngươi có biết y là ai không? Hiện nay y chính là một thủ não danh tiếng vang lừng của một danh môn chính phái đó.
    Trương Vô Kỵ thấy trên mặt y các bắp thịt giựt giựt, thần tình cực kỳ đau khổ, trong lòng không khỏi thương xót, nghĩ thầm: “Thì ra ông ta đã từng gặp nhiều thảm cảnh, vì thế nên mới có cái tính “kiến tử bất cứu”. Bèn hỏi:
    - Tên vong ân phụ nghĩa, lòng lang dạ thú đó là ai thế?
    Hồ Thanh Ngưu nghiến răng nói:
    - Y … y chính là chưởng môn phái Hoa Sơn Tiên Vu Thông.
    Trương Vô Kỵ hỏi:
    - Sao tiên sinh không đi tìm y mà trả thù?
    Hồ Thanh Ngưu thở dài:
    - Trước sau ta đã đi kiếm y ba lần, đều bị thảm bại, lần sau cùng tưởng chết về tay y rồi. Người này võ công cao cường, lại thêm cơ trí tuyệt luân, ngoại hiệu của y là Thần Cơ Tử, ta tài nghệ kém y xa. Huống chi y lại là chưởng môn phái Hoa Sơn, người nhiều thế mạnh. Minh giáo ta mấy năm nay chia năm xẻ bảy, cao thủ trong bản giáo tàn sát lẫn nhau, ai ai cũng nói là mình bận nên không ai giúp đỡ cả. Hơn nữa, ta cũng xấu hổ không đi nhờ cậy ai. Cái oán cừu đó, chỉ e không thể báo thù được. Ôi, đứa em khốn khổ của ta ơi, từ bé ta mồ côi, anh em nương tựa lẫn nhau … Nói đến đây, nước mắt rưng rưng.
    Trương Vô Kỵ nghĩ thầm: “Y thực ra không phải là kẻ vô tình lạnh lùng đâu”. Hồ Thanh Ngưu đột nhiêu gay gắt nói:
    - Chuyện ta nói hôm nay, từ rày không được đề cập đến nữa, nếu tiết lộ cho người khác biết, ta sẽ làm cho người sống không được, chết không xong.
    Trương Vô Kỵ định cãi lại vài câu, nhưng bỗng thấy chạnh lòng, biết người này vì gặp thảm sự nên chẳng chấp nê, liền nói:
    - Cháu không nói đâu.
    Hồ Thanh Ngưu xoa đầu nó, thở dài:
    - Tội nghiệp, tội nghiệp.
    Nói xong quay vào hậu đường.
    Từ khi Hồ Thanh Ngưu nói chuyện với Trương Vô Kỵ, lại thấy hàn độc đã chạy vào tam tiêu không có thể khu trừ được, dù được người tinh thâm y thuật chữa trị, cũng chỉ sống thêm được vài năm, khiến ông ta biến đổi tâm tình. Tuy ông ta không thổ lộ thêm về thân thế, tâm sự, nhưng thấy thằng bé nhạy hiểu lòng người, lại sống nơi núi rừng tịch mịch, có một người bạn như thế rất tốt nên ngày ngày ông ta chỉ điểm cho Vô Kỵ về biến hóa âm dương, ngũ hành trong y học cùng các cách châm kim, kê toa bốc thuốc. Trương Vô Kỵ ra công nghiên cứu, hết sức dụng tâm học tập. Hồ Thanh Ngưu thấy ngộ tâm của y thật cao, đọc các sách y thư như Hoàng Đế Hà Mô Kinh, Tây Phương Tử Minh Đường Cứu Kinh, Thái Bình Thánh Huệ Phương, Châm Cứu Giáp Ất Kinh, Thiên Phương Kinh của Tôn Tư Mạc ... đều rất am tường, không khỏi than thầm: "Cứ như tài trí của thằng bé này, lại được gặp minh sư trăm năm khó gặp như ta chỉ dạy, chưa đến hai mươi tuổi cũng đã ngang ngửa với Hoa Đà, Biển Thước rồi, tiếc rằng ... tiếc rằng ... than ôi!” Ý ông ta muốn nói đến là dù Vô Kỵ y học có giỏi bao nhiêu, nhưng số chẳng sống được lâu, thì việc chăm chỉ cần mẫn kia có ích gì? Thế nhưng Trương Vô Kỵ trong bụng đã có chủ tâm, y quyết ý học thành y thuật cao minh, để khi gặp lại Thường Ngộ Xuân, sẽ chữa cho y được trở lại bình thường, hoặc chữa cho Du Đại Nham không còn cần phải ai nâng dắt, đi đứng một mình được. Đó chính là hai đại tâm nguyện của nó, nếu hoàn thành được thì dù có chết đi cũng không có gì ân hận.
    Sống trong thung lũng an tĩnh vô sự, ngày tháng trôi qua, chẳng mấy chốc đã hơn hai năm, Trương Vô Kỵ nay đã mười bốn tuổi. Trong hai năm đó, Thường Ngộ Xuân có đến thăm y mấy lần, nói Trương Tam Phong nghe tin bệnh tình của Vô Kỵ có chiều thuyên giảm, mười phần hoan hỉ, dặn cứ ở lại Hồ Điệp Cốc thêm, bao giờ khỏi hẳn thi thôi. Trương Tam Phong và sáu người đệ tử cũng gửi cho nó quần áo, đồ dùng, tất cả ai cũng nhớ nhung, nhưng vì môn phái khác biệt, không tiện đến thăm.
    Trương Vô Kỵ đối với thái sư phụ và các sư thúc, sư bá càng thương nhớ nhiều, hận không thể về núi Võ Đương ngay để gặp lại. Thường Ngộ Xuân cũng cho hay tin tức bên ngoài, mấy năm nay người Mông Cổ đối với Hán nhân càng thêm bạo ngược, trăm họ không đủ ăn, trộm cướp nổi lên như rươi, xem chừng thiên hạ sắp sửa đại loạn. Ngoài ra, các danh môn chính phái trên giang hồ tranh chấp với ma giáo, tà phái mỗi ngày thêm kịch liệt, hai bên chết chóc cũng nhiều, oán cừu ngày càng thêm sâu.
    Mỗi lần Thường Ngộ Xuân đến Hồ Điệp Cốc đều ở lại vài ngày, dường như công việc trong Minh giáo ngày càng thêm bận rộn.
    Một buổi tối, Trương Vô Kỵ đang đọc cuốn “Thử Sự Nan Tri[9]” của Vương Hảo Cổ, bỗng thấy thấy mệt mỏi, đầu óc mơ mơ màng màng, lập tức lên giường ngủ. Hôm sau tỉnh dậy thấy nhức đầu khôn cùng, đang định đi kiếm mấy loại thuốc trị phong hàn, khi vào trong sảnh thì mặt trời đã ngả về phương tây, hóa ra đã quá trưa. Y giật mình kinh hãi: “Sao mình ngủ giấc này lâu thế, xem ra mình bị bệnh mất rồi”. Vội vàng tự bắt mạch nhưng không thấy gì khác lạ, lòng thầm kinh hãi: “Không lẽ âm độc trong người mình phát tác, đến ngày tận số rồi chăng?”.
    Vô Kỵ đến ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu thấy cửa đóng chặt, ho khẽ một tiếng. Hồ Thanh Ngưu ở bên trong nói ra:
    - Vô Kỵ, hôm nay trong người ta không được khỏe, cổ họng đau, ngươi tự mình học đi nhé.
    Trương Vô Kỵ đáp:
    - Vâng.
    Y quan tâm đến bệnh tình của Hồ Thanh Ngưu nên hỏi tiếp:
    - Tiên sinh, để cho cháu xem thử cổ họng tiên sinh xem thế nào, được không?
    Hồ Thanh Ngưu giọng khàn khàn đáp:
    - Không cần đâu, ta soi gương xem thử, thấy không có gì nặng lắm, đã uống Ngưu Hoàng Tê Giác Tán rồi.
    Đến chiều hôm đó, khi tiểu đồng mang cơm vào phòng, Trương Vô Kỵ cũng đi theo, thấy Hồ Thanh Ngưu mặt mày tiều tụy, nằm trên giường. Hồ Thanh Ngưu xua tay:
    - Ra ngoài đi, cậu có biết ta bị bệnh gì không? Đậu mùa đấy.
    Trương Vô Kỵ nhìn trên mặt, trên tay ông ta, quả nhiên đầy những chấm đỏ, nghĩ thầm bệnh đậu mùa phát ra rất độc địa, nếu chữa không khéo, nặng ắt chết, nhẹ cũng rỗ mặt. Hồ Thanh Ngưu y đạo tinh thâm, dù có nhiễm bệnh cũng tự chữa lấy được nhưng Vô Kỵ vẫn không khỏi lo lắng. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Cậu không được vào phòng ta, đũa bát chén đĩa cho ta, đều phải dùng nước nóng tráng qua, cậu và các tiểu đồng không được dùng chung.
    Ngẫm nghĩ một lát, ông ta nói tiếp:
    - Vô Kỵ, cậu nên ra khỏi Hồ Điệp Cốc tìm nơi tá túc một thời gian độ nửa tháng, để khỏi lây bệnh đậu mùa của ta .
    Trương Vô Kỵ vội nói:
    - Không cần. Tiên sinh bị bệnh, cháu lại đi khỏi, ai lo lắng cho ông? Dẫu gì cháu cũng hiểu y lý hơn những tiểu đồng này.
    Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Nhưng cậu tránh đi vẫn hơn.
    Thế nhưng dù ông ta nói sao, Vô Kỵ nhất định không chịu. Mấy năm qua, hai người sớm tối có nhau, Hồ Thanh Ngưu tuy tính tình quái dị, hai thầy trò dẫu sao cũng vẫn có tình, huống chi lúc hoạn nạn lại đi khỏi, thật là không hợp bản tính của Trương Vô Kỵ chút nào. Hồ Thanh Ngưu nói:
    - Thôi được. Thế nhưng cậu tuyệt đối không được bước chân vào trong phòng của tôi.
    Cứ như thế ba ngày liền, sớm tối Vô Kỵ lại trước cửa phòng hỏi thăm, thấy Hồ Thanh Ngưu tuy bị khản tiếng, tinh thần vẫn đầy đủ, cơm nước xem ra còn ăn nhiều hơn lúc thường, chắc không có gì đáng ngại. Hồ Thanh Ngưu mỗi ngày đọc các vị thuốc cùng liều lượng, tiểu đồng theo đó mà sắc đem vào phòng cho ông ta. Đến chiều hôm thứ tư, Trương Vô Kỵ ngồi trong thảo đường đọc Hoàng Đế Nội Kinh đến thiên Tứ Khí Điều Thần Đại Luận tới câu:
    Cho nên thánh nhân không trị bệnh đã phát ra rồi mà trị bệnh từ khi chưa phát, không trị khi đã loạn rồi mà trị từ khi chưa loạn, chính là vì thế. Đại bệnh có rồi mới cho thuốc, loạn đã có rồi mới cứu chữa, có khác nào khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau rồi mới đúc chùy, chẳng đã trễ ư?
    (Thị cố thánh nhân bất trị dĩ bệnh, trị vị bệnh, bất trị dĩ loạn, trị vị loạn, thử chi vị dã. Đại bệnh dĩ thành nhi hậu dược chi, loạn dĩ thành nhi hậu trị chi, thí do khát nhi xuyên tỉnh, đấu nhi chú trùy, bất diệc vãn hồ?) Không khỏi gật đầu khen hay, nghĩ thầm: “Mấy câu này quả thật là hay, khát nước mới đi đào giếng, đánh nhau mới đi đúc binh khí làm sao cho kịp. Quốc gia loạn rồi trở lại thanh bình, dù có an định nhưng nguyên khí không khỏi thương tổn rất nhiều. Trị bệnh thì phải trị từ khi chưa có bệnh mới là hay. Thế nhưng bệnh đậu mùa của Hồ tiên sinh là do bên ngoài nhiễm vào, có muốn trị từ trước cũng không được”. Lại nghĩ đến Âm Dương Ứng Tượng Đại Luận trong Nội Kinh có mấy câu:
    Người giỏi chữa bệnh chữa khi bệnh còn ngoài da, thứ đến là người chữa khi bệnh ở máu thịt, thứ nữa là chữa khi bệnh ở gân mạch, sau nữa mới đến bệnh trong lục phủ, sau nữa mới đến bệnh vào trong ngũ tạng. Trị ngũ tạng thì đã nửa phần sống, nửa phần chết.
    (Thiện trị giả trị bì mao, kỳ thứ trị cơ phu, kỳ thứ trị cân mạch, kỳ thứ trị lục phủ, kỳ thứ trị ngũ tạng. Trị ngũ tạng giả, bán tử bán sinh dã) Vô Kỵ nghĩ thầm: “Lương y thấy bệnh mới chớm là đã trị. Bệnh đã vào đến lục phủ ngũ tạng mới chữa trị, chỉ còn có một nửa phần hi vọng thôi. Như ta âm độc đã tan vào lục phủ ngũ tạng, đâu phải chỉ nửa sống nửa chết mà là chín chết một sống rồi”.
    Y còn đang tấm tắc khen kiến thức trác tuyệt của người xưa, lại nghĩ đến thương thế của mình, bỗng nghe có tiếng vó ngựa từ ngoài cửa thung lũng vọng tới, chẳng bao lâu đã đến ngay bên ngoài căn nhà tranh rồi một người lớn tiếng nói:
    - Võ lâm đồng đạo, xin được gặp Y Tiên Hồ tiên sinh, để nhờ lão nhân gia trị bệnh.
    Trương Vô Kỵ đi ra ngoài cửa, thấy một người mặt mũi đen sì đứng bên ngoài, tay dắt ba con ngựa, trên hai con ngựa nằm phục hai người, quần áo loang lổ đầy vết máu, rõ ràng thân bị trọng thương. Hán tử đó đầu băng một mảnh vải trắng, trên cũng thấm đầy máu tươi, tay phải cũng có băng treo lủng lẳng trên cổ, xem ra bị thương cũng không phải nhẹ.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Các vị đến thật không đúng lúc, chính Hồ tiên sinh cũng đang bị bệnh, nằm trên giường không dậy được, không thể nào trị bệnh cho quí vị được, xin đi kiếm thầy lang khác.
    Hán tử đó nói:
    - Chúng tôi chạy mấy trăm dặm đến đây, sống chết chỉ trong sớm tối, chỉ còn trông chờ Y Tiên cứu mạng thôi.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Hồ tiên sinh đang bị bệnh đậu mùa, bệnh thế thật là ghê gớm, đó là chúng tôi nói thực, không dám man trá đâu.
    Người kia nói:
    - Ba người chúng tôi lần này bị trọng thương nếu như không được Y Tiên cứu, thì chỉ có nước chết thôi. Xin phiền tiểu huynh đệ bẩm lại một lời, để xem Hồ tiên sinh dạy bảo thế nào.
    Trương Vô Kỵ nói:
    - Nếu đã như thế, xin quí vị cho biết tôn tính đại danh.

  9. #38
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hán tử trả lời:



    - Ba người chúng tôi tiện danh không đáng nói, chỉ nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.



    Nói đến đây, thân hình y lảo đảo muốn ngã, xem ra không chịu nổi nữa rồi, há mồm ọe ra một ngụm máu tươi. Trương Vô Kỵ giật mình, nghĩ thầm Tiên Vu Thông của phái Hoa Sơn là kẻ đại thù của Hồ tiên sinh, không biết ông ta xử trí thế nào, đi đến trước phòng của Hồ Thanh Ngưu nói:



    - Tiên sinh, ngoài cửa có ba người bị thương nặng đến xin chữa bệnh, nói là đệ tử của Tiên Vu chưởng môn phái Hoa Sơn.



    Hồ Thanh Ngưu hừ một tiếng, gắt:



    - – Không chữa, không chữa, bảo chúng nó cút đi.



    Trương Vô Kỵ đáp:



    - Vâng.



    Y trở lại thảo đường nói với người kia:



    - – Hồ tiên sinh bệnh tình trầm trọng lắm, không thể nào tiếp khách được, kin tha lỗi cho.



    Gã kia nhíu mày, đang định năn nỉ thêm nữa thì một gã gầy gò đang nằm phục trên lưng ngựa bổng ngửng đầu lên, giơ tay búng ra, một ánh vàng lấp lánh, nghe cạch một tiếng, một ám khí nho nhỏ rơi ngay trên bàn trong nhà. Gã hán tử gầy gò nói:



    - Ngươi đem mũi Kim Hoa này cho Kiến Tử Bất Cứu xem, nói ba người bọn ta đều bị chủ nhân của bông hoa vàng này đả thương. Người đó nay mai sẽ đến tìm y để rửa hận, nếu Kiến Tử Bất Cứu trị khỏi cho bọn ta, ba người sẽ ở lại đây, giúp ông ta ngự địch. Dù võ công bọn ta chẳng ra gì, nhưng dù sao cũng có thêm ba tay giúp sức.



    Trương Vô Kỵ thấy tên này ăn nói xấc láo, không phải như hán tử nọ có vẻ lễ độ, đi đến bên cạnh bàn, thấy ám khí nọ là một bông hoa mai đúc bằng vàng, cũng to y hệt một bông mai thật, bạch kim làm nhụy hoa, trông thật là tinh xảo. Y đưa tay cầm lấy, nào ngờ cái búng của gã gầy gò nọ rất mạnh, bông hoa khảm chặt xuống bàn, đành phải lấy ra kẹp dùng để gắp thuốc, nạy mấy cái mới lấy ra được. Y nghĩ thầm: “Võ công của tên gầy gò này không phải dở, nhưng bị chủ nhân bông hoa vàng này đánh cho bị thương nặng như thế, y nói người đó đến tầm cừu, mình cũng nên cho tiên sinh biết”.



    Y cầm bông hoa đến bên ngoài phòng của Hồ Thanh Ngưu chuyển thuật lời của gã gầy gò. Hồ Thanh Ngưu nói:



    - Đem vào cho ta xem.



    Trương Vô Kỵ nhẹ nhàng mở cửa phòng, vén tấm màn ra, thấy trong phòng tối như mực, biết rằng người bị đậu mùa sợ gió sợ ánh sáng, cửa sổ đều dùng mền che kín. Hồ Thanh Ngưu trên mặt che một miếng vải xanh, chỉ để lộ đôi mắt. Trương Vô Kỵ cảm thấy sợ hãi: “Không biết dưới miếng vải kia, các nốt đậu trên mặt ông ta mọc như thế nào? Sau khi khỏi rồi, liệu có bị rỗ không?”.



    Hồ Thanh Ngưu nói:



    - – Để bông hoa vàng trên bàn cho ta, rồi đi ra cho mau.



    Trương Vô Kỵ y lời để bông hoa xuống bàn, vén màn đi ra, chưa kịp đóng cửa đã nghe Hồ Thanh Ngưu nói:



    - Ba tên đó chết sống ra sao, họ Hồ này không can hệ gì. Hồ Thanh Ngưu chết hay sống, cũng chẳng cần ba tên đó phải để tâm đến.



    Nghe vèo một tiếng, bông hoa vàng đó xuyên qua màn cửa, bay vụt ra ngoài, nghe keng một tiếng rơi trên mặt đất. Trương Vô Kỵ đã ở chung với ông ta hơn hai năm rồi, không từng thấy ông ta luyện võ công, không ngờ vị thần y trông vẻ thư sinh này lại là một cao thủ, tuy đang bị bệnh nhưng không võ công không mất.



    Trương Vô Kỵ nhặt bông kim hoa lên, đem trả lại cho gã gầy gò, lắc đầu:



    - Hồ tiên sinh quả thật bệnh nặng …



    Bỗng nghe tiếng chân ngựa cộp cộp, tiếng xe rầm rập, một chiếc xe ngựa chạy vào trong thung lũng. Trương Vô Kỵ đi ra khỏi cửa, thấy con ngựa chạy rất nhanh, chỉ chớp mắt đã tới trước cửa, ngừng ngay lại. Trên xe đi xuống một thanh niên nước da vàng vọt, ôm ra một lão già đầu hói, hỏi:



    - Điệp Cốc Y Tiên Hồ tiên sinh có nhà không? Môn hạ phái Không Động là Thánh Thủ Già Lam[10] Giản Tiệp từ xa đến chữa bệnh …



    Nói chưa hết câu, y đã lảo đảo, cùng ông già đầu hói hai người đều ngã lăn xuống đất. Cũng thật lạ, hai con ngựa kéo xe đồng thời kiệt sức, miệng sùi bọt mép, gục luôn xuống. Xem thần tình của hai người, không hỏi cũng biết là từ xa bôn ba đến đây, đi đường không nghỉ, nên cả người lẫn ngựa mới mỏi mệt đến thế. Trương Vô Kỵ nghe nói bốn chữ “môn hạ Không Động”, nghĩ đến trên núi Võ Đương bức tử cha mẹ mình có các trưởng lão của phái này, tuy gã đầu hói này hôm đó không thấy lên núi, nhưng chắc cũng chẳng phải kẻ tốt lành gì, đang định cự tuyệt, lại thấy sơn đạo thấp thoáng, thêm bốn năm người chạy đến, kẻ thì chống gậy khập khiễng, kẻ thì người nọ đỡ người kia, người nào cũng bị thương cả.



    Trương Vô Kỵ nhíu mày, không đợi bọn đó đến gần, lớn tiếng nói:



    - Hồ tiên sinh bị bệnh đậu mùa, chính ông ta cũng không biết sẽ ra sao, không thể nào trị thương cho các vị được. Xin các vị sớm đi tìm danh y, để khỏi lỡ dịp chữa thương.



    Đến khi bọn đó tới gần hơn, nhìn rõ tất cả năm người, người nào mặt cũng tái mét nhưng trên người không có dấu máu, xem ra đều bị nội thương. Người đi đầu vừa cao vừa mập, nhìn gã đầu hói Giản Tiệp và gã gầy gò gật đầu, ba người nhìn nhau cười gượng, hóa ra họ đều biết nhau. Trương Vô Kỵ hiếu kỳ, hỏi:



    - Các ông cũng đều bị chủ nhân bông hoa vàng đả thương phải không?



    Gã mập đáp:



    - Chính thế.



    Hán tử đến đầu tiên mới bị hộc máu hỏi lại:



    - Tiểu huynh đệ họ gì? Bà con với Hồ tiên sinh ra sao?



    Trương Vô Kỵ đáp:



    - Tôi là bệnh nhân của Hồ tiên sinh, Hồ tiên sinh nói không chữa là nhất định không chữa đâu, các ông có nán lại đây cũng vô ích.



    Hai bên đang nói chuyện lại có thêm bốn người nữa tới, có kẻ đi xe, có kẻ cưỡi ngựa, cả bọn ai ai cũng muốn gặp Hồ Thanh Ngưu. Trương Vô Kỵ thấy lạ lùng: “Hồ Điệp Cốc là nơi hoang vắng, ngoại trừ người trong ma giáo ra, trên giang hồ rất ít người biết đến. Những người này không phải Không Động thì cũng Hoa Sơn, đều không phải người đồng đạo, sao lại không hẹn mà cùng bị thương, lại không hẹn mà cùng đến đây xin chữa bệnh?” Lại nghĩ thầm: “Chủ nhân của bông kim hoa này tài nghệ ghê gớm đến thế, muốn giết những người này nào có khó khăn gì, sao lại chỉ đánh cho họ trọng thương thôi?”.



    Mười bốn người đó, có người lên tiếng khẩn cầu, có người một lời không nói, nhưng không ai chịu đi, nhìn ra trời đã sắp tối, mười bốn người ngồi chật cả căn nhà lá. Đứa tiểu đồng nấu ăn đem cơm cho Trương Vô Kỵ, y không nể nang khách sáo gì, ngồi ăn tự nhiên, đốt một ngọn đèn dầu giở sách thuốc ra ngồi đọc, đối với bọn người kia làm như không thấy, nghĩ thầm: “Ta học y thuật của Hồ tiên sinh nhưng cũng phải học luôn cả cái công phu Kiến Tử Bất Cứu của ông ta nữa”.



    Đêm vắng lặng, trong căn nhà tranh ngoài tiếng sột soạt của Trương Vô Kỵ giở sách, và tiếng thở nặng nề của bọn người bị thương, không còn âm thanh gì khác. Bỗng dưng từ con đường mòn ở bên ngoài có tiếng bước chân nhẹ nhàng của hai người, chậm chạp đi về hướng căn nhà tranh. Một lúc sau, giọng thánh thót của một đứa con gái nhỏ cất lên:



    - Mẹ, trong nhà có ánh đèn, mình đến nơi rồi.



    Cứ theo giọng đó thì đứa trẻ còn nhỏ lắm. Có tiếng một người đàn bà nói:



    - Con có mệt không?



    Đứa bé nói:



    - Con không mệt. Mẹ ơi, thầy lang trị bệnh cho mẹ mẹ sẽ hết đau.



    Người đàn bà đáp:



    - Ừ, nhưng không biết thầy lang có chịu chữa cho mẹ không nữa.



    Trương Vô Kỵ trong lòng chấn động: “Người đàn bà này giọng nói nghe quen lắm, hình như Kỷ Hiểu Phù cô cô thì phải”. Lại nghe cô bé con nói:



    - Thể nào thầy thuốc cũng chữa cho mẹ mà. Mẹ đừng sợ, mẹ đã đỡ đau chưa?



    Người đàn bà nói:



    - Mẹ bớt đau rồi. Ôi, tội nghiệp cho con.



    Trương Vô Kỵ nghe đến đây, không còn hoài nghi gì nữa, chạy ra ngoài cửa, kêu lên:



    - Kỷ cô nương, có phải cô không? Cô bị thương đấy ư?



    Dưới ánh trăng thấy một người đàn bà mặc áo xanh, tay dắt một đứa bé gái, chính là nữ hiệp phái Nga Mi Kỷ Hiểu Phù. Khi nàng gặp Trương Vô Kỵ trên núi Võ Đương, lúc đó nó chưa đầy mười tuổi, lúc này cách nhau gần năm năm, Trương Vô Kỵ từ một đứa bé đã thành một thiếu niên, trong đêm tối đột nhiên gặp lại, làm sao còn nhận cho ra, ngạc nhiên chỉ lắp bắp:



    - Cậu … cậu …



    Trương Vô Kỵ nói:



    - Kỷ cô nương, cô không nhận ra cháu sao? Cháu là Trương Vô Kỵ. Lúc ở trên núi Võ Đương hôm cha mẹ cháu qua đời, có gặp cô một lần.



    Kỷ Hiểu Phù kinh hoảng “A” một tiếng, không ngờ lại gặp y ở nơi này, nghĩ đến mình là thân con gái chưa chồng, nay tay lại dắt một đứa con. Trương Vô Kỵ lại là sư điệt của người chồng chưa cưới Ân Lê Đình, tuy tuổi còn nhỏ, nhưng cũng không thể nào giải thích cho xuôi, không khỏi vừa thẹn vừa quẫn mặt đỏ bừng. Nàng bị thương vốn không phải nhẹ, kinh hoảng rồi, thân hình lảo đảo dường như muốn ngã.



    Đứa con gái chỉ chừng tám chín tuổi, thấy mẹ loạng choạng, vội hai tay đưa ra đỡ ï. Tuy nhiên nó bé bỏng yếu sức làm sao đỡ nổi xem ra hai người cùng ngã. Trương Vô Kỵ vội chạy đến đỡ vai Kỷ Hiểu Phù, nói:



    - Kỷ cô nương, mời cô vào đây nghỉ một chốc.



    Y dìu nàng vào trong thảo đường, dưới ánh đèn thấy vai và cánh tay bên trái bị đao kiếm chém cực kỳ trầm trọng, lớp vải băng không ngừng rỉ máu tươi, lại thấy cô ta ho liên tục, không sao ngăn được. Y thuật của Trương Vô Kỵ lúc này đã hơn xa những bậc “danh y” bình thường, thấy tiếng ho của nàng có vẻ khác lạ, biết là lá phổi đã bị chấn thương nặng, liền nói:



    - Kỷ cô nương, cô dùng tay phải đối chưởng với người ta đã bị thương ở phế mạch thái âm.



    Nói rồi lấy ra bảy mũi kim châm, xuyên qua áo châm vào hiệt Vân Môn ở đầu vai, huyệt Hoa Cái ở trên ngực, huyệt Xích Trạch ở cùi chỏ … tổng cộng bảy chỗ. Lúc này thuật châm cứu của y so với lúc trị thương cho Thường Ngộ Xuân quả là một trời một vực. Trong hơn hai năm qua, y theo Hồ Thanh Ngưu tiềm tâm khổ học, cả chẩn đoán bệnh tình, cách biến hóa dùng thuốc đã hiểu biết rất nhiều, tuy so với Hồ Thanh Ngưu còn kém xa, nhưng riêng châm cứu thì đã học được bảy, tám thành bản lãnh của Y Tiên.



    Lúc đầu Kỷ Hiểu Phù thấy y lấy kim ra chưa biết dụng ý, nào ngờ Vô Kỵ thủ pháp cực nhanh nhẹn, chỉ trong nháy mắt, bảy mũi kim đã đâm vào các huyệt đạo. Bảy huyệt đó đều thuộc Thủ Thái Âm Phế Kinh, kim vừa châm xong, tình trạng tức ngực liền giảm ngay. Nàng vừa mừng vừa sợ, nói:



    - Hảo hài tử, đâu có ngờ cháu ở đây, lại học được bản lãnh thần kỳ như thế.



    Hôm ở trên núi Võ Đương, Kỷ Hiểu Phù thấy Trương Thúy Sơn, Ân Tố Tố tự sát, thương xót Trương Vô Kỵ cô đơn khổ sở, từng dịu giọng an ủi, lại lấy cái vòng vàng đeo cổ ra cho nó. Thế nhưng lúc đó Trương Vô Kỵ trong lòng phẫn khích, buồn đau coi ai lên núi cũng đều là kẻ thù bức tử cha mẹ nó, thành thử đã hục hặc cả với Kỷ Hiểu Phù, khiến nàng không biết phải ăn nói ra sao. Về sau khi Trương Vô Kỵ đã lớn lên, nghe hôm đó cha nó và các sư bá, sư thúc đã toan cùng các nữ hiệp phái Nga Mi liên thủ, cùng chống cường địch, mới hay phái Nga Mi là bạn chứ không phải thù, cho nên tấm lòng của Kỷ Hiểu Phù đối với nó, mỗi khi nghĩ lại không khỏi cảm kích.



    Đêm nọ ở trong rừng hai năm trước, Vô Kỵ cùng Thường Ngộ Xuân đã thấy Kỷ Hiểu Phù ra sức cứu Bành hòa thượng, biết là vị Kỷ cô nương này đối với người rất tốt, còn việc nàng chưa chồng mà đã có con, vì đâu mà đối đãi không phải với Ân thúc thúc, tuổi còn nhỏ, chuyện nam nữ y chưa để ý tới, nghe qua rồi không để vào tai, cũng không nhớ tới. Còn Kỷ Hiểu Phù trong lòng hổ thẹn, bất ngờ gặp một người quen của Ân Lê Đình nên không khỏi quẫn bách, tưởng như không có cách nào tránh mặt, đâu biết việc này hai năm trước Vô Kỵ đã nghe Đinh Mẫn Quân nói tới. Tuy nhiên y cho rằng Đinh Mẫn Quân là kẻ xấu xa, thành thử những gì cô ta nói ra chưa hẳn đã xấu.



    Vô Kỵ thấy đứa con gái của Kỷ Hiểu Phù đứng bên cạnh mẹ, mặt đẹp như tranh vẽ, đôi mắt to đen láy chăm chăm nhìn mình một cách hiếu kỳ. Cô bé ghé tai mẹ nói nhỏ:



    - Mẹ, cậu bé này là thầy lang đấy ư? Mẹ có còn đau không?



    Kỷ Hiểu Phù nghe đứa bé gọi mẹ, mặt lại đỏ bừng, đến nước này không còn có thể dấu được nữa, lộ vẻ sượng sùng, nói:



    - Đây là Trương gia ca ca, cha anh ấy là bạn của mẹ.

    Last edited by giavui; 02-15-2014 at 06:25 PM.

  10. #39
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Quay sang Trương Vô Kỵ nói:



    - Nó … nó tên là Bất Hối.



    Ngừng lại một lát, nói tiếp:



    - Họ Dương, tên là Dương Bất Hối.



    Trương Vô Kỵ cười đáp:



    - Hay nhỉ, tên tiểu muội muội cũng na ná như tên anh, anh là Trương Vô Kỵ, cô em là Dương Bất Hối.



    Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ thần sắc bình thường, không có vẻ gì trách cứ, lòng thấy yên tâm, quay sang con nói:



    - Bản lãnh của Vô Kỵ ca ca giỏi lắm, mẹ không còn đau nhiều nữa.



    Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối chuyển qua mấy vòng, đột nhiên chạy tới ôm lấy Vô Kỵ, hôn trên má y một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa từng gặp người ngoài, lần này mẫu thân bị trọng thương, trong cơn hoạn nạn được Trương Vô Kỵ làm cho mẹ bớt đau, trong lòng hết sức cảm kích. Trước nay mỗi khi thương mẹ, cô bé thường sà vào lòng ôm mẹ hôn lên má, nên lúc này cũng làm thế với Trương Vô Kỵ.



    Kỷ Hiểu Phù mỉm cười nói:



    - Bất nhi, đừng làm vậy, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.



    Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi lại Trương Vô Kỵ:



    - Anh không thích ư? Sao anh lại không thích em thương anh?



    Trương Vô Kỵ cười đáp:



    - Anh thích lắm chứ, anh cũng thương em nữa.



    Y nhẹ nhàng hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô bé. Dương Bất Hối vỗ tay cười:



    - Thầy lang nhỏ ơi, anh mau mau trị cho mẹ em hết bệnh, em sẽ hôn anh lần nữa.



    Trương Vô Kỵ thấy cô em nhỏ này thơ ngây lanh lợi, thật là dễ thương. Y từ hơn mười năm nay, những người quen biết đều là sư bá, sư thúc lớn tuổi hơn nhiều, Thường Ngộ Xuân tuy gọi nhau huynh đệ, nhưng cũng lớn hơn tám tuổi. Hôm ở trên thuyền gặp Chu Chỉ Nhược, hai đứa cũng chỉ ở với nhau một ngày, rồi lại chia tay, ngoài ra chưa hề có một người bạn nhỏ nào, lúc này không khỏi nghĩ thầm: “Giá như có được đứa em gái dễ thương như thế này, mình sẽ thường thường dẫn nó đi chơi”.



    Y chỉ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ đã nhiều gian truân, chẳng được mấy lúc vui đùa. Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp cũng bị thương nặng, rõ ràng chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn được ưu tiên nên nói:



    - Các vị này đến đây trước cô, cháu xem cho họ đã. Bây giờ cô thấy đỡ nhiều lắm rồi.



    Trương Vô Kỵ nói:



    - Bọn họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị đâu ngờ chính tiên sinh cũng đang bị bệnh nặng, không chữa cho ai được. Thế nhưng mấy người này không chịu đi. Kỷ cô cô, cô không phải nhờ đến Hồ tiên sinh chữa bệnh, cháu ở đây cũng đã lâu, biết chút đỉnh y đạo, nếu cô bằng lòng, để tiểu điệt xem thương thế ra sao.



    Kỷ Hiểu Phù cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, sau khi bị thương được người ta chỉ đến Hồ Điệp Cốc cầu Hồ Thanh Ngưu, thấy tình trạng của bọn người kia, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Khi Trương Vô Kỵ châm kim các yếu huyệt nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra tuy tuổi y còn nhỏ, y đạo cũng đã rất cao minh, nay nghe nói thế liền đáp:



    - Vậy thì cám ơn cháu. Đại quốc thủ không chịu chữa, nay được tiểu quốc thủ chữa nào có khác gì.



    Trương Vô Kỵ liền mời nàng vào trong phòng, cắt bỏ khúc áo nơi vết thương, thấy trên vai nào có tới ba vết đao chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy như thế, nếu ở bên ngoài việc tiếp cốt thật là khó khăn nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại không có gì gay go, y bèn nối xương rắc thuốc cho nàng, lại kê thêm một toa thuốc nói tiểu đồng theo đó mà đun. Đây là lần đầu y nối xương gãy, thủ pháp không được nhanh nhẹn, nhưng cũng chỉ một giờ sau mọi việc đều xong, nói:



    - Kỷ cô cô, cô nên nằm ngủ một giấc, khi thuốc mê tan hết rồi, vết thương sẽ đau lắm đấy.



    Kỷ Hiểu Phù nói:



    - Cám ơn cháu.



    Trương Vô Kỵ lại đi đến phòng thuốc, lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, nào ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi cho nó, quay trở lại thảo đường.



    Tên đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy y vội đứng dậy, chắp tay vái một cái thật sâu, nói:



    - Tiểu tiên sinh, nếu Hồ tiên sinh bị nhiễm bệnh, chắc phải phiền thầy chữa bệnh cho chúng tôi, cả bọn ai ai cũng cảm kích đại đức.



    Trương Vô Kỵ từ khi học ngành thuốc tới nay, ngoại trừ Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa hề dùng đến, nay thấy mười bốn người này, kẻ thì nội tạng chấn thương, kẻ thì chân tay gãy, mỗi người một loại thương thế chẳng giống nhau. Người đời thường nói rằng học phải được dùng, nên y cũng muốn thử, ngặt nỗi Hồ Thanh Ngưu đã nói không chữa, nên đáp:



    - Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tiểu khả cũng chỉ là bệnh nhân thôi, đâu dám tự tiện như thế.



    Gã hán tử nọ trông mặt đặt tên, thấy y từ chối không có vẻ quyết liệt, lại chắp tay nịnh thêm một câu:



    - Xưa nay danh y người nào cũng phải già cả năm, sáu mươi tuổi, ai ngờ thầy tuổi còn trẻ quá mà đã có được bản lãnh như thế, quả thực trên đời ít thấy, xin thầy ra tay chữa cho.



    Gã mập trông như nhà buôn nói:



    - Bọn chúng tôi mười bốn người trên giang hồ cũng có chút danh tiếng, nếu được tiểu tiên sinh cứu chữa, cả bọn ra ngoài tuyên dương, ai ai cũng nghe đến đại danh y thuật như thần của thầy, chỉ trong sớm tối, tên thầy đã truyền khắp thiên hạ rồi.



    Trương Vô Kỵ tuổi còn nhỏ, không biết tình đời, nghe hai người nịnh mấy câu, không khỏi hoan hỉ, nói:



    - Dang vang thiên hạ đâu có để làm gì? Hồ tiên sinh nếu không chữa, tôi cũng không làm sao được. Thế nhưng các ông bị thương nặng cả, thôi để tôi cắt cho các ông thuốc giảm đau thì được.



    Nói rồi y lấy ra kim sang ra bôi cho họ cầm máu, bớt nhức.



    Khi Vô Kỵ coi kỹ vết thương mỗi người, càng coi càng cảm thấy lạ lùng kinh dị. Thì ra mỗi người một loại thương thế, mà cách đả thương cũng khác nhau, toàn là những loại mà từ trước đến nay Hồ Thanh Ngưu chưa từng dạy qua bao giờ. Có người thị bị ép uống mấy chục mũi cương châm, trên kim lại có tẩm thuốc độc. Có người thì bị nội lực đánh dập can tạng nhưng các huyệt Hành Gian, Trung Phong, Âm Bao, Ngũ Lý là các yếu huyệt để trị gan lại bị dao đâm nát, hiển nhiên người hạ thủ cũng tinh thông y lý, cốt để thầy thuốc không có cách chữa. Có người thì hai lá phổi bị cắm hai cái đinh sắt, không ngừng ho ra máu. Có người gân cốt hai bên bị đánh đứt nhưng tim phổi lại không sao. Có người hai tay bị cắt đứt, nhưng tay phải nối qua tay trái, tay trái nối qua tay phải, máu me bê bết, trông không ra hình thù gì. Lại một người khác cả người bầm tím, nói là bị rết, bò cạp, ong vàng hai mươi loại độc trùng cùng cắn.



    Trương Vô Kỵ chỉ mới coi sáu bảy người đã phải nhíu mày, nghĩ thầm: “Những người này thương thế cổ quái như thế, đến một loại ta còn trị chưa xong. Hung thủ ra tay đánh người, sao lại hành hạ người ta ác độc ghê gớm đến vậy?”



    Bỗng y chợt nghĩ ra: “Vết thương trên vai và cánh tay Kỷ cô cô xem ra bình thường, hay là cô bị nội thương nào đặc biệt, không lẽ một mình cô không giống người khác?”. Y vội quay vào phòng trong, nắm tay bắt mạch Kỷ Hiểu Phù, lập tức giật mình, thấy mạch cô ta lúc mạnh lúc yếu, lúc sáp, lúc hoạt[11], hiển nhiên nội tạng có gì khác thường, nhưng tại sao lại ra như thế, quả thật khó biết.



    Mười bốn người kia thương thế khác lạ, Vô Kỵ chẳng để tâm, còn thầm nghĩ bọn người phái Không Động có liên quan đến việc bức tử cha mẹ mình, lúc này bị chứng quái dị, có chết cũng đáng. Thế nhưng thương thế của Kỷ Hiểu Phù thì không thể không chữa, nên y bèn đi tới trước phòng của Hồ Thanh Ngưu, hạ giọng hỏi:



    - Tiên sinh, ông đã ngủ chưa?



    Nghe Hồ Thanh Ngưu nói:



    - Chuyện gì thế? Dù có là ai ta cũng không chữa.



    Trương Vô Kỵ đáp:



    - Vâng. Có điều những người này bị thương, sao thật là kỳ quái.



    Y đem tất cả bệnh trạng mỗi người nhất nhất kể lại cho Hồ Thanh Ngưu nghe. Hồ Thanh Ngưu ở cách chiếc mền che chăm chú nghe, chỗ nào không rõ ràng, bảo Trương Vô Kỵ đi ra coi lại rồi cho hay. Trương Vô Kỵ tốn mất cả nửa giờ mới kể hết các chứng của mười lăm người kia. Hồ Thanh Ngưu miệng không ngớt ừ hử, rõ ràng đang suy nghĩ, một lúc lâu sau mới nói:



    - Hừ, những quái thương này, ngoài ta ra không ai …



    Đằng sau Trương Vô Kỵ bỗng có người tiếp lời:



    - Hồ tiên sinh, vị chủ nhân của bông hoa vàng bảo tôi nhắn lại với ông là “Ngươi uổng xưng Y Tiên, trong mười lăm loại kỳ thương quái độc này, không thể chữa nổi một loại nào cả”. Ha ha, quả nhiên ông chỉ trốn ở trong nhà, giả vờ bị bệnh.


  11. #40
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Quay sang Trương Vô Kỵ nói:



    - Nó … nó tên là Bất Hối.



    Ngừng lại một lát, nói tiếp:



    - Họ Dương, tên là Dương Bất Hối.



    Trương Vô Kỵ cười đáp:



    - Hay nhỉ, tên tiểu muội muội cũng na ná như tên anh, anh là Trương Vô Kỵ, cô em là Dương Bất Hối.



    Kỷ Hiểu Phù thấy Vô Kỵ thần sắc bình thường, không có vẻ gì trách cứ, lòng thấy yên tâm, quay sang con nói:



    - Bản lãnh của Vô Kỵ ca ca giỏi lắm, mẹ không còn đau nhiều nữa.



    Đôi mắt linh hoạt của Dương Bất Hối chuyển qua mấy vòng, đột nhiên chạy tới ôm lấy Vô Kỵ, hôn trên má y một cái. Ngoài mẹ ra, cô bé chưa từng gặp người ngoài, lần này mẫu thân bị trọng thương, trong cơn hoạn nạn được Trương Vô Kỵ làm cho mẹ bớt đau, trong lòng hết sức cảm kích. Trước nay mỗi khi thương mẹ, cô bé thường sà vào lòng ôm mẹ hôn lên má, nên lúc này cũng làm thế với Trương Vô Kỵ.



    Kỷ Hiểu Phù mỉm cười nói:



    - Bất nhi, đừng làm vậy, Vô Kỵ ca ca không thích đâu.



    Dương Bất Hối mở to đôi mắt, không hiểu nguyên do, hỏi lại Trương Vô Kỵ:



    - Anh không thích ư? Sao anh lại không thích em thương anh?



    Trương Vô Kỵ cười đáp:



    - Anh thích lắm chứ, anh cũng thương em nữa.



    Y nhẹ nhàng hôn lên đôi má bầu bĩnh của cô bé. Dương Bất Hối vỗ tay cười:



    - Thầy lang nhỏ ơi, anh mau mau trị cho mẹ em hết bệnh, em sẽ hôn anh lần nữa.



    Trương Vô Kỵ thấy cô em nhỏ này thơ ngây lanh lợi, thật là dễ thương. Y từ hơn mười năm nay, những người quen biết đều là sư bá, sư thúc lớn tuổi hơn nhiều, Thường Ngộ Xuân tuy gọi nhau huynh đệ, nhưng cũng lớn hơn tám tuổi. Hôm ở trên thuyền gặp Chu Chỉ Nhược, hai đứa cũng chỉ ở với nhau một ngày, rồi lại chia tay, ngoài ra chưa hề có một người bạn nhỏ nào, lúc này không khỏi nghĩ thầm: “Giá như có được đứa em gái dễ thương như thế này, mình sẽ thường thường dẫn nó đi chơi”.



    Y chỉ mới mười bốn tuổi, còn nhiều tính trẻ con, nhưng tuổi thơ đã nhiều gian truân, chẳng được mấy lúc vui đùa. Kỷ Hiểu Phù thấy bọn Thánh Thủ Già Lam Giản Tiệp cũng bị thương nặng, rõ ràng chưa được chữa trị gì cả, nàng không muốn được ưu tiên nên nói:



    - Các vị này đến đây trước cô, cháu xem cho họ đã. Bây giờ cô thấy đỡ nhiều lắm rồi.



    Trương Vô Kỵ nói:



    - Bọn họ đến nhờ Hồ tiên sinh chữa trị đâu ngờ chính tiên sinh cũng đang bị bệnh nặng, không chữa cho ai được. Thế nhưng mấy người này không chịu đi. Kỷ cô cô, cô không phải nhờ đến Hồ tiên sinh chữa bệnh, cháu ở đây cũng đã lâu, biết chút đỉnh y đạo, nếu cô bằng lòng, để tiểu điệt xem thương thế ra sao.



    Kỷ Hiểu Phù cũng chẳng khác gì bọn Giản Tiệp, sau khi bị thương được người ta chỉ đến Hồ Điệp Cốc cầu Hồ Thanh Ngưu, thấy tình trạng của bọn người kia, rõ ràng Kiến Tử Bất Cứu Hồ Thanh Ngưu không chịu chữa. Khi Trương Vô Kỵ châm kim các yếu huyệt nàng thấy lập tức kiến hiệu, xem ra tuy tuổi y còn nhỏ, y đạo cũng đã rất cao minh, nay nghe nói thế liền đáp:



    - Vậy thì cám ơn cháu. Đại quốc thủ không chịu chữa, nay được tiểu quốc thủ chữa nào có khác gì.



    Trương Vô Kỵ liền mời nàng vào trong phòng, cắt bỏ khúc áo nơi vết thương, thấy trên vai nào có tới ba vết đao chém, xương cánh tay cũng bị gãy, một chỗ bị nát vụn. Xương gãy như thế, nếu ở bên ngoài việc tiếp cốt thật là khó khăn nhưng đối với đệ tử của Điệp Cốc Y Tiên lại không có gì gay go, y bèn nối xương rắc thuốc cho nàng, lại kê thêm một toa thuốc nói tiểu đồng theo đó mà đun. Đây là lần đầu y nối xương gãy, thủ pháp không được nhanh nhẹn, nhưng cũng chỉ một giờ sau mọi việc đều xong, nói:



    - Kỷ cô cô, cô nên nằm ngủ một giấc, khi thuốc mê tan hết rồi, vết thương sẽ đau lắm đấy.



    Kỷ Hiểu Phù nói:



    - Cám ơn cháu.



    Trương Vô Kỵ lại đi đến phòng thuốc, lấy một vốc táo tàu, mận khô đem cho Dương Bất Hối, nào ngờ đêm qua thức khuya, lúc này cô bé đã rúc vào lòng mẹ ngủ say sưa. Trương Vô Kỵ bỏ táo, mận vào túi cho nó, quay trở lại thảo đường.



    Tên đệ tử phái Hoa Sơn bị thổ huyết thấy y vội đứng dậy, chắp tay vái một cái thật sâu, nói:



    - Tiểu tiên sinh, nếu Hồ tiên sinh bị nhiễm bệnh, chắc phải phiền thầy chữa bệnh cho chúng tôi, cả bọn ai ai cũng cảm kích đại đức.



    Trương Vô Kỵ từ khi học ngành thuốc tới nay, ngoại trừ Thường Ngộ Xuân và Kỷ Hiểu Phù, chưa hề dùng đến, nay thấy mười bốn người này, kẻ thì nội tạng chấn thương, kẻ thì chân tay gãy, mỗi người một loại thương thế chẳng giống nhau. Người đời thường nói rằng học phải được dùng, nên y cũng muốn thử, ngặt nỗi Hồ Thanh Ngưu đã nói không chữa, nên đáp:



    - Đây là nhà của Hồ tiên sinh, tiểu khả cũng chỉ là bệnh nhân thôi, đâu dám tự tiện như thế.



    Gã hán tử nọ trông mặt đặt tên, thấy y từ chối không có vẻ quyết liệt, lại chắp tay nịnh thêm một câu:



    - Xưa nay danh y người nào cũng phải già cả năm, sáu mươi tuổi, ai ngờ thầy tuổi còn trẻ quá mà đã có được bản lãnh như thế, quả thực trên đời ít thấy, xin thầy ra tay chữa cho.



    Gã mập trông như nhà buôn nói:






Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234

Chủ Đề Tương Tự

  1. Album Where’s My Love – Tong Li
    By giavui in forum Nhạc Trung Hoa
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-07-2016, 07:17 PM
  2. Tân Ỷ Thiên Đồ Long Ký 2010 - 16/40
    By Duy_Khang in forum Phim Bộ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-12-2011, 08:26 AM
  3. Tân Ỷ Thiên Đồ Long Ký ra mắt khán giả VN
    By giavui in forum Tin Tức Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-09-2010, 12:26 AM
  4. Thăng Long lược phong thủy ký
    By anbinh in forum Phong Thủy & Tướng Số
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-06-2010, 02:51 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •