Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Khi hai kẻ yêu nhau lúc xa nhau còn nói đến chuyện xa nhau là họ còn nhớ tới nhau.
Léon Tolstooi
Trang 1 / 6 123 ... Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 54

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Hắc Bạch Hương Hồ Ký


    Hắc Bạch Hương Hồ Ký



    Tác giả :Ưu Đàm Hoa






    MỤC LỤC [−]

    1. Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại
    2. Xuất Đạo Tầm Hung Phùng Lưỡng Xú
    3. Lộ Bán Phùng Mai Phục
    4. Đại Lượng Đắc Minh Sư
    5. Khuất Gia Vô Quí Tế
    6. Đồng Quan Lâu Thượng Nhan Như Ngọc
    7. Trùng Dương Bán Vạn Nhân Hoan Tiếu
    8. Tây Khứ Hồi Cố Thổ
    9. Lâm Biên Phóng Hương Hồ
    10. Kinh Sư Truy Án Long Ân Tứ
    11. Lư Lăng Sát Đại Cừu
    12. Quật Cốc Tầm Thi Nhan Mãn Lệ
    13. Thượng Sơn Diệt Ma Nữ
    14. Tạng Tăng Nhất Xuất Nhân Gian Tiếu
    15. Nhạc Dương Hảo Hán Tru Gian Tế
    16. Giả nứ Giá Vong Phu
    17. Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế
    18. Hiếu Tử Tầm Di Cốt







    Hồi 1

    Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại,
    Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long





    Chương 1 - Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại, Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long


    Xuân về mang lại mầu xanh tươi, đầy sức sống cho mọi ngọn núi Cửu Tuấn ở phía Bắc thành Hàm Dương. Những cánh rừng bạt ngàn, dầy đặc trên sườn núi đang đâm chồi nảy lộc rũ bỏ lớp tuyết trắng lạnh lùng của mùa đông. Tuy nhiên, tiết trời vẫn còn giá rét khiến khách lữ hành phải khép kín vạt áo cừu.
    Ngay cả bọn nam nhân nát rượu đang ngồi nhâm nhi trong tửu điếm vệ đường kia cũng co ro, cúm rúm, nốc từng bát lớn để ngự hàn. Thế mà, trên con đường mòn dẫn đến cánh rừng chân núi ra quan đạo có một người tiều phu chỉ ăn mặc phong phanh áo vải mỏng, quẩy một gánh củi thật to, thoăn thoắt bước về phía quán rượu ở ngã ba đường.
    Cảnh tượng này đập vào mắt một lữ khách là lão đạo sĩ tuổi ngũ tuần áo xanh, râu tóc đen nhánh, gương mặt tuấn tú nhưng thân hình nhỏ nhắn, không được cao lớn cho lắm. Lão ta trợn mắt, há hốc miệng khi nhận ra cái người đang gánh củi kia là một nữ nhân vóc dáng khôi vĩ.
    Nàng ta không hề to béo, thân thể đầy đủ ba vòng khêu gợi. Chẳng qua, ở nàng cái gì cũng to gấp rưỡi, gấp đôi một nữ nhân bình thường. Riêng về chiều cao thì tiều nương kia hơn cả một gã đàn ông trung bình, nghĩa là lão đạo sĩ áo xanh chỉ đứng đến cằm của nàng.
    Nhưng sự chênh lệch thước tấc ấy chẳng hề khiến bậc chân nhân giảm sút sự ngưỡng mộ trước bộ ngực và đôi mông đồ sộ đang đong đứa nhún nhảy theo nhịp chân và tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn gánh bằng tre già. Thanh ý đạo sĩ nuốt nước miếng lẩm bẩm:
    - Mẹ kiếp! Thế mới đáng gọi là đàn bà. Xem ra ý nguyện cải tạo giòng giống họ Tư Đồ của ta đã đến ngày thành tựu rồi.
    Thì ra vị đạo sĩ nhỏ bé này mang họ Tư Đồ. Lão ta hớn hở đi về phía tửu quán, nơi cô ả gánh củi hấp dẫn nọ dừng chân. Có lẽ nàng ta đem củi đến bán.
    Tư Đồ bước vào quán, nhận ra đối tượng đang đứng trước quầy quỹ chuyện với lão điếm chủ, ông liền xăm xăm tiến đến chiếc bàn trống gần đấy để dễ bề quan sát.
    Tiều nương đã lột chiếc nón tre cũ kỹ, để lộ gương mặt trái xoan thanh thoát với ngũ quan đoan chính, mắt to, mũi thẳng. Nhưng hỡi ôi, những nét đẹp ấy bị che mờ bởi một vết thẹo dài, y như vuốt mèo cào vậy.
    Lão đạo sĩ hơi thất vọng song mắt chợt sáng rực niềm hân hoan khi nghe giọng nói trong trẻo thánh thót êm ái của cô ả mặt thẹo. Không ai có thể ngờ rằng những âm thanh du dương, ngọt ngào ấy lại phát ra từ đôi môi của một người con gái to lớn quá khổ. Nàng nói với chú quán:
    - Lý Tứ thúc! Ngày kia là đám giỗ của tiên phụ, mong Tứ thúc chớ quên.
    Lão chủ quán họ Lý cười khà khà đáp:
    - Hoa nhi, an tâm! Làm sao lão phu có thể quên ngày giỗ của vị nghĩa huynh thân thiết nhất trên đời.
    Cô nàng tên Hoa nhi tươi cười cáo biệt Lý chưởng quỹ, nhận tiễn bán củi rồi rời tửu quán. Nụ cười của nàng làm rạng rỡ gương mặt xấu điêu tàn, càng khiến Tư Đồ đạo sĩ đắm say.
    Trong phép xem tướng của người Trung Hoa thì giọng nói có một vai trò rất quan trọng. Nữ lang này mang tướng đàn ông nhưng lại có được một nét son rất quý là giọng nói trong như ngọc. Vả lại tuy thân thể khôi vĩ, to lớn dềnh dàng, song ngũ quan của nàng ta lạị chẳng hề thô kệch. Nếu không có những vết thẹo ấy thì Hoa nhi sẽ rất xinh đẹp.
    Vị đạo sĩ họ Tư Đồ ngồi nhấm nháp chén rượu, suy nghĩ rất lung rồi khéo léo hỏi thăm gã tiểu nhị về lai!ịch của cô ả to đùng kia.
    Ông ta hài lòng khi biết nàng chưa chồng dù tuổi đã gần ba chục, tên gọi là Võ Xuân Hoa. Võ cô nương là con gái của một cặp vợ chồng tiều phu, ở bên cánh rừng phía nam chân núi Cửu Tuấn.
    Xuân Hoa sức mạnh như thần, mười bẩy tuổi đã thay cha vào rừng đốn củi. Một hôm, nàng xui xẻo chạm trán con cọp vằn hung dữ, liền vác búa đương cự. Nàng chém vỡ sọ con ác thú nhưng cũng bị nó cào nát mặt.
    Xuân Hoa hiện đã mồ côi cả song thân, sống một mình nơi nhà cũ. Nàng rất hiền lành nhưng vì quá to xác và mặt đầy thẹo nên ế chồng.
    Tư Đồ đạo sĩ nghe xong, quyết định cưới Võ Xuân Hoa làm vợ, ông là người văn võ toàn tài, dung mạo anh tuấn nhưng cơ thể thiếu thước tấc, y như mấy đời họ Tư Đồ, nên lòng rất uất ức. Ông thề se lấy cho được một nữ nhân cao to để con cháu phổng phao hơn tổ tiên.
    Tuy nhiên, đàn bà mà to xác thì thường mang nét phá cách ở ngũ quan và giọng nói thi ồ ồ như vịt đực. Tướng ấy chẳng thể nào vượng phu ích tử được. Do vậy, sau hơn chục năm tìm kiếm mỏi mòn, vị đạo sĩ nhỏ con tên Tư Đồ Quát kia mới gặp được một nàng hộ pháp mang quý tướng là Võ Xuân Hoa.
    Sau khi nắm rõ gia cảnh ý trung nhân, Tư Đồ Quát hỏi thăm đường đi nước bước rồi tìm đến nhà Võ cô nương.
    Xuân Hoa đã tắm táp, thay y phục khác, đang ngồi chải tóc trước cửa căn nhà tranh mộc mạc.
    Tư Đồ Quát cố ý đi nhẹ nhàng, nấp sau một thân cây phía ngoài hàng dậu tre để quan sát cảnh vật.
    Tuy chỉ là nhà tranh vách đất đơn sơ nhưng cơ ngơi của Võ cô nương gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ. Mảnh sântrước nhà được tô điểm bằng những luống hoa rực rỡ, còn bên hông và phía sau là vườn cây ăn trái đang nặng trĩu quả.
    Tất cả những điều ấy chứng tỏ rằng Xuân Hoa là người siêng năng chăm chỉ chứ chẳng phải kẻ lười chảy thây. Tư Đồ Quát nghe lòng ấm áp vững dạ bước qua cổng rào.
    Xuân Hoa nhận ra lão đạo sĩ đã có mặt trong tửu điếm lúc nãy. Nàng đứng lên, hòa nhã nghiêng mình chào hỏi:
    - Chẳng hay đạo trưởng tìm tiểu nữ vì việc gì?
    Tư Đồ Quát lúng túng, ấp a ấp úng mãi mới nói ra được mục đích của đời mình và ngỏ lời cầu hôn.
    Võ Xuân Hoa tủm tỉm đáp:
    - Tiện nữ vô cùng cảm kích trước sự chiếu cố của đạo trưởng. Tuy nhiên, đũa lệch khó so, đạo trưởng ốm yếu thế kia chỉ e không thọ nổi.
    Tư Đốt Quát đỏ mặt cười nhạt:
    - Bần đạo luyện võ từ năm bốn tuổi, sức cử ngàn cân. Nàng dù lớn xác cũng chẳng thể hơn được ta!
    Dứt lời, Tư Đồ Quát chứng minh ngay bằng cách lướt đến, xuống tấn, ôm đùi Xuân Hoa mà nhấc bổng lên dễ dàng. Và lão bất ngờ tung mạnh tấm thân ngà ngọc nặng hơn trăm rưỡi cân của nàng lên không trung, rồi hứng lấy rất nhẹ nhàng.
    Xuân Hoa phục sát đất, thẹn thùng trách móc:
    - Sao đạo trưởng lại dám sỗ sàng với tiện nữ?
    Song ánh mắt nàng lại đầy vẻ tình tứ nồng nàn; khiến Tư Đố Quát ngất ngây.
    Lão khoan khoái bồng nàng chạy xộc vào nhà, tiến hành ngay việc cải tạo nòi giống. Nhưng Võ Xuân Hoa chẳng phải hạng gái lẳng lơ, dịu dàng trấn áp lửa tình của họ Tư Đồ, bàn bạc cụ thể việc sống chung.
    Sau đám giỗ lão tiều phu họ Võ, một bữa tiệc nhỏ được bày ra để mừng cho mối lương duyên. Khách mời chỉ gồm Lý chưởng quỹ và vài người thân quen.
    Tư Đồ Quát đã trút bỏ áo đạo sĩ, cạo sạch râu ria nên khá trẻ đẹp. Trông lão rất giống em hay là con trai Võ Xuân Hoa.
    Đêm hợp cẩn, cảnh thằn lằn ôm cột đình ái ân say đắm, nồng thắm đến mức không bút mực nào tả xiết.
    Nhưng dẫu sao khi nằm thì sự chênh lệch về chiều cao không đáng kể. Gia dĩ, thân thể Tư Dỗ Quát cuồn cuộn những bắp thịt rắn như thép, kết quả của mấy chục năm chuyên cần luyện võ. Xuân Hoa cũng chẳng kém, da thịt săn chắc nhờ lao động cật lực, chẳng chút mỡ thừa, đẹp tựa một pho tượng mỹ nhân hơi quá khổ.
    Kích thước trường thương và độ bền bỉ của nam nhân không phụ thuộc vào chiêu cao của cơ thể. Do đó, Tư Đồ Quát thừa kiêu dũng để làm hài lòng người vợ khôi vĩ của mình. Đến sáng thì Xuân Hoa hoàn toàn tâm phục khẩu phục và hết lòng tôn kính, yêu thương lão chống già.
    Tư Đồ Quát rời quê hương Phúc Châu với trăm lượng vàng trong tay nải nên giờ đây có thể cho vợ tạm nghỉ nghề đốn củi, chuyên tâm vào việc sản xuất một thế hệ Tư Đồ tốt giống.
    Xuân Hoa có lần lo ngại thỏ thẻ:
    - Tướng công? Lỡ như con của chúng ta vẫn nhỏ bé như chàng thì sao?
    Tư Đồ Quát bực bội đáp:
    - Làm gì có việc ấy? Muối pha với đường dù không được ngọt hẳn thì cũng lờ lợ chớ làm sao lại mặn chát được? Nàng cứ yên tâm!
    Té ra lão cũng có lý! Mùa xuân năm sau Võ Xuân Hoa sinh hạ một nam hài bụ bẫm khoe mạnh, nặng đến sáu cân và dài gần ba gang tay.
    Tư Đồ Quát mừng đến phát cuống, cười ha hả bảo:
    - Mẹ kiếp! Họ Tư Đồ nhà ta trước đây chỉ đẻ ra toàn những hài nhi ngắn dưới hai gang tay, lớn lên thua thiệt mọi điều. Nay mới thòi ra được một đứa bé đáng mặt đàn ông.
    Lão đặt tên cho con trai là Tư Đồ Sảng. “Sảng” đây có nghĩa là trong sáng, rõ ràng, lấy chữ trong câu “Sảng Nhược Nhật Tinh” (sáng rõ tựa mặt trời và tinh tú) ý chỉ phong thái quang minh của bậc quân tử.
    Sảng nhi bú rất khỏe, ngày nào cũng vắt kiệt hai bầu vú to như cặp dưa hấu của mẹ nên lớn nhanh như thổi. Năm bốn tuổi nó đã cao to bằng một đứa lên sáu.
    Tư Đồ Quát rất cao hứng vì đứa con kháu khỉnh và khỏe mạnh, quyết định dạy võ cho Sảng nhi.
    Thừa kế nòi thần lực cũng như tính siêng năng, cần mẫn nên Sảng nhi học võ rất tốt, và dường như nó có căn cơ của một người võ sĩ.
    Nhưng hai năm sau, khi được cha dạy chữ thì Sảng nhi bộc lộ khuyết điểm của mình. Cậu ta khá vất vả khi phải ngồi một chỗ vật lộn với chữ nghĩa. Tuy nhiên, nhờ bản tính chăm chỉ kiên trì nên kết quả cũng không quá tệ.
    Tư Đỗ Quát hiểu rằng con mình hợp võ hơn văn, chẳng thể trở thành trạng nguyên hay bảng nhãn được. Do đó, ông quyết tâm tài bối ái tử trở thành bậc anh hùng cái thế, dương danh bằng võ nghiệp.
    Tư Đồ Quát vốn là đệ tử chân truyền của Du Long Chân Nhân Bộc Trung Tiêu ở núi Cổ Sơn, nghĩa là núi Trống, vì trên núi có một tảng đá rất lớn hình dạng như cái trống.
    Tư Đồ gia trang nằm gần chân núi Cổ Sơn nên năm lên sáu tuổi Tư Đồ Quát đã được Bộc Chân Nhân dạy võ. Bộc Trung Tiêu là bằng hữu chí thân của Tư Đồ lão trang chủ.
    Nhờ nhập môn từ thuở ấu thơ nên năm hai mươi lăm tuổi Tư Đỗ Quát đã được học hết nghề của sư phụ. Lão tinh thông cả ba pho tuyệt học kiếm pháp, quyền pháp và khinh công.
    Giờ đây, Tư Đỗ Quát vét túi truyền hết lại cho con trai. Sảng nhi tuy không hợp với việc sách đèn, thi phú, song cũng là đứa bé thông minh đĩnh ngộ chứ chẳng phải phường đần độn.
    Nhân sinh nhược đại mộng, sống chết khó lường nên Tư Đồ Quát vượt lẽ thường, không tuần tự từng bậc mà bắt con mình học thuộc lòng tất cả. Sau này, nếu lão có lỡ đoản mệnh thì Sảng nhi cũng có thể tự rèn luyện được.
    Kết quả là đến năm mười hai tuổi thì Sảng nhi đã học hết nghề của cha, thuộc lòng khẩu quyết và lộ số, chỉ kém phần tinh túy.
    Tám năm rèn luyện pho tâm pháp đạo gia là Ngọc Thanh Chân Khí đã phát huy thêm thần lực bẩm sinh trong cơ thể Sảng nhi. Cậu ta khỏe đến mức có thể múa tít cây búa đốn củi nặng hơn hai chục cân một cách nhẹ nhàng.
    Lúc này, Võ nương mới nhu mì, thỏ thẻ cùng chồng:
    - Tướng công! Tiện thiếp xin phép được đem sở học tổ truyền của giòng họ Võ truyền thụ cho Sảng nhi.
    Tư Đồ Quát ra vẻ độ lượng:
    - Sao nàng lại đa lễ như thế. Tất nhiên Sảng nhi phải kế thừa cả tuyệt học bên ngoại. Vả lại, lão phu còn gì để dạy cho nó nữa đâu.
    Tuy không nói ra song trong thâm tâm Tư Đồ Quát cho rằng phép đánh búa của bên vợ chẳng đáng một xu. Tự cổ chí kim có bậc anh hùng nào dùng búa mà thành danh vô địch bao giờ đâu, kể cả hai lão Trình Giảo Kim và HắcToàn Phong Lý Quỳ.
    Với tâm lý khinh bạc ấy, Tư Đồ Quát mỉm cười nói bỡn:
    - Sau này Sảng nhi xuất đạo hành hiệp mà vác theo cây búa đốn củi thì quả là một giai thoại.
    Võ Xuân Hoa là người đàn bà rất mực hiền thục, ôn nhu, dẫu biết trượng phu xỏ xiên cũng không hề nổi nóng. Bà dịu dàng nói:
    - Tướng công chớ lo! Vũ khí tổ truyền bốn đời của họ Võ là cây Giáng Ma Thần phủ bằng thép rất tốt và có hình dáng rất đẹp, ai thấy cũng phải trầm trồ khen ngợi.
    Tư Đồ Quát ngượng ngùng cau mày:
    - Thế ư? Sao mười mấy năm nay nàng không cho lão phu xem?
    Võ nương nghiêm nghị đáp:
    - Thần phủ là một vật linh thiêng, được cất giấu trên sườn núi Cửu Tuấn, chỉ truyền cho nam chứ không truyền cho nữ. May mà Sảng nhi là nam tử nên thiếp mới dám trao.
    Tư Đồ Quát bực bội nghĩ thầm:
    - “Mẹ kiếp! Trong vòng trăm năm qua võ lâm đâu có gã cao thủ chết tiệt nào cầm búa mà nổi tiếng? Xem ra bên vợ ta chỉ bày trò thần bí chứ thắng ra đám ôn gì cả!”
    Tư Đồ Quát nhếch mép cười đểu, hờ hững nói:
    - Này nương tử! Lệnh tiên phụ có được Thần Phủ sao không dương danh thiên hạ mà lại ẩn dật ở xó rừng này?
    Võ nương buồn bã đáp:
    - Khôg phải chỉ mình tiên phụ mà cả các cụ tổ cũng vì cảnh nhà khốn khó đành phế bỏ mộng giang hố, lo cơm áo cho vợ con.
    Tư Đố Quát gật gù thông cảm:
    - Nàng nói phải! Người nghèo dù giỏi võ cũng chẳng thể thành danh, chẳng lẽ bỏ vợ con nheo nhóc mà đi lo chuyện bá vơ để tìm chút hư danh?...
    Song lão nghi hoặc nói tiếp:
    - Vậy thì chẳng lẽ họ Võ nhà nàng không có ai từng nổi danh thiên hạ?
    Xuân Hoa cười rạng rỡ, gật đầu:
    - Có chứ, cao tằng tổ của thiếp chính là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Khách Võ Hồng, đại cao thủ cuối thời Nam Tống.
    - Nàng nói nhăng gì thế? Lão ấy sử dụng kiếm cơ mà?
    Xuân Hoa thản nhiên gật đầu rồi giải thích:
    - Đúng vậy! Gia tổ theo Tể tướng Lục Tú Phu phò tá vị vua cuối cùng của nhà Tống chạy ra đảo Nhai Sơn Quảng Đông. Khi quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn, vua quan nhà Tống đều tự tử chết sạch, gia tổ thì thọ thương. Người vì tông mạch nhà họ Võ nên cố phá vây, tìm đến núi Cửu Tuấn này ẩn cư.
    Tư Đố Quát chẳng thấy nói gì về cây Giáng Ma Thần Phủ liền nóng nẩy gắt:
    - Việc ấy thì lão phu đã nghe truyền tụng. Tuy nhiên, vì cớ gì mà lại lòi ra cây búa Giáng Ma?
    Suốt mười mấy năm làm vợ, Xuân Hoa chưa bao giờ cau mặt với chồng. Bà luôn tươi cười, dịu giọng, ngay cả những lúc Tư Đồ Quát gắt gỏng. Thỉnh thoảng lão rơi vào tâm trạng xấu vì những kỷ niệm trong dĩ vãng. Còn thường thì Tư Đồ Quát rất ân cần, hòa nhã.
    Hôm nay cũng thế, Võ nương nhỏ nhẹ nói:
    - Thiếp kém phần chữ nghĩa nên không thể nói năng minh bạch được. Trưa nay chúng ta sẽ lên núi lấy Thần Phủ và chân kinh, tướng công xem trong ấy sẽ rõ nguồn cơn.
    Lời nói khiêm tốn và ánh mắt nhu thuận của bà đã khiến Tư Đồ Quát chạnh lòng hổ thẹn. Lão biết mình đã cư xử không đúng với vợ hiền, liến gượng cười phân bua:
    - Trời chớm lạnh, những vết thương cũ hành hạ khiến lão phu trở nên cáu bẳn, mong nương tử lượng thứ.
    O0o
    Sau bữa cơm trưa, Võ nương đưa chồng con lên núi Cửu Tuấn. Trên một bình đài cao mười trượng là nghĩa trang của giòng họ Võ. Mộ của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng cũng ở đây nhưng trên bia không ghi danh hiệu nên Tư Đố Quát từng đến tảo mộ mà không biết, cứ tưỏng kẻ vô danh.
    Sẵn dịp thượng sơn, Võ nương thắp hương cho những người đã khuất. Sau đó bà dẫn chồng con đi tiếp lên cao.
    Con đường ruột dê này đã lâu không người qua lại nên cỏ dại mọc đầy, phải rất quen thuộc mới nhận ra lối cũ.
    Vài khắc sau, ba người dừng chân trước một vách đá dựng đứng ở lưng chừng núi. Võ nương bảo Sảng nhi dùng kiếm phá mớ dây leo chằng chịt trên vách, để lộ một thạch môn hình chữ nhật phủ đầy rêu. Rồi bà xuống tấn đẩy mạnh cánh cửa đá dầy để khai động. Thấy thế, cha con Sảng nhi cũng vội phụ một tay.
    Thạch môn đóng chặt đã hai mươi năm, kể từ ngày ông ngoại Sảng nhi qua đời. Giờ đây, cánh cửa nặng nghìn cân kia cáu kỉnh phát ra những âm thanh ken két ồn ào rỗi mới chịu mở toang.Tư Đồ Quát đốt hương rồi đứng cạnh bệ thờ tượng Võ Hồng, chứng kiến cảnh con trai lạy lục thọ nhận Thần Phủ và chân kinh. Lão tò mò quan sát pho tượng đá và nhận ra rằng dung mạo của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm rất oai vũ, uy nghiêm. Bất giác, Tư Đỗ Quát sinh lòng kính cẩn đối với cụ tổ bên vợ.
    Thạch môn tuy nhỏ nhưng lòng động vô cùng rộng rãi, sáng sủa. Trần hang cao vút và trên vách trước có hàng chục khe thông sáng, thông gió nên không gian thoáng đãng, chẳng hề hôi hám.
    Đây vốn là một hang đá vôi nên thạch nhũ buông rèm, có chỗ nước nhỏ xuống đọng thanh vũng. Tuy nhiên, hơn nửa nền động còn lại rất khô ráo, tiện lợi cho việc cư trú và luyện võ.
    Lúc này Xuân Hoa đã đỡ Sảng nhi đứng dậy và bà tháo lớp vải sơn, lấy thanh Giáng Ma Thần Phủ ra trao cho ái tử.
    Tư Đồ Quát choáng váng trước hình dáng tân kỳ, cũng như nước thép đen bóng của của cây búa cổ kính.
    Chữ Phủ có nghĩa là cây rìu, một loại búa lớn, cán dài, chuyên dùng để chặt cây, đốn gỗ. Dịch là rìu thì chính xác hơn song lại hơi khó nghe và kém phần hoa mỹ. Cao thủ võ lâm mà vác rìu thì còn ra thể thống gì nữa. Do vậy, chúng ta sẽ dùng chữ “Búa” cho thêm phần oai vũ.
    Vả lại, thanh Giáng Ma Thần Phủ này cũng chẳng giống rìu cho lắm vì nó có đến hai lưỡi và đoạn thép dài nhọn hoắt ở đầu. Nghĩa là, ngoài tác dụng chém, Thần Phủ còn có thể sát địch bằng những thức đâm.
    Lưỡi búa có hình nửa bầu dục, mép lưỡi là một cung dài độ hơn gang. Cán búa cũng được làm bằng cùng một thứ thép với lưỡi, cộng với mũi nhọn ở chót thì Thần phủ dài độ ba xích rưỡi, hơn trường kiếm nửa xích.
    Tư Đồ Quát không dằn được óc hiếu kỳ liền bảo con trai:
    - Sảng nhi! Con đưa Thần phủ cho ta xem thử!
    Cậu bé vâng lời và vui vẻ nói:
    - Cha à! Cây búa này nặng khủng khiếp, hài nhi đến gẫy tay mất.
    Tư Đồ Quát nhận lấy, giật mình vì trọng lượng của Giáng Ma Thần Phủ mặc dù cán búa là ống thép rỗng mà Thần Phủ vẫn nặng đến hai chục cân.
    Lão chăm chú quan sát những hoa văn kỳ lạ khắc chìm trên thân búa, nhận ra hàng ngàn chữ Phạn nhỏ li ti ẩn trong những hình rồng phượng. Lão thầm đoán cổ vật này xuất xứ từ Thiên Trúc hoặc Tây Tạng chứ chẳng phải của Trung Hoa.
    Tư Đồ Quát còn phát hiện việc cán búa là ba đoạn ống thép lồng mối vào nhau. Nghĩa là cán búa có thể rút ngắn lại chỉ còn độ hơn gang. Cả đoạn mũi thép nhọn cũng thụt được vào trong lòng cán rỗng. Lão vô cùng thán phục bàn tay tài hoa của người đã chế tạo nên Thần Phủ và mỉm cười khi nghĩ đến cảnh Sảng nhi giắt khối thép hai chục cân này vào giải thắt lưng. Nụ cười tắt lịm ngay khi lão nghe giọng nói ngọt ngào trong trẻo của vợ âu yếm cất lên:
    - Tướng công hãy thử dùng Giáng Ma Thần Phủ thi triển pho Du Long kiếm pháp xem nào.
    Sau này, khi xen xong đoạ cuối của quyển “Giáng Ma Chân Kinh”, Tư Đồ Quát mới hiểu rằng Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng muốn khắc chế Đao Vương Bạch Hán Từ nên đã sang Tây Tạng, vào Bố Đà La Tự trộm cây Thần Phủ. Võ Hồng thua Đao Vương ở trận Nhài Sơn biết kiếm không địch lại thanh đao quý nên nghĩ ra việc dùng Giáng Ma Thần Phủ mà thi triển kiếm thuật, tất nhiên, lão ta phải thay đổi sở học để tạo ra pho phủ pháp kỳ lạ. Cuối cùng, Võ Hồng đã nhờ Thần Phủ mà giết được Đao Vương.
    O0o
    Kể từ hôm ấy, Sảng nhi bắt đầu khổ luyện tuyệt học của giòng họ Võ. Lần này, sư phụ cưa cậu là người mẹ thân yêu.
    Được Xuân Hoa cưng chiều nên Sảng nhi rất nhõng nhẽo với mẹ. Tròn ba tuổi mới dứt sữa và đến tuổi lên tám cậu bé vẫn còn thói quen sờ vú mẹ. Tư Đồ Quát bị cạnh tranh liền nóng mũi mắng con:
    - Ngươi thực không biết xấu hổ, đã cao bằng ta mà cứ làm như con nít lên ba.
    Chủ quán Lý Tứ cũng có mặt, đang đối ẩm với cháu rể, liền lên tiếng phủ dụ Sảng nhi:
    - Phụ thân cháu nói đúng đấy! Nay Sảng nhi đã đến tuổi điều niên không được sờ vú mẹ nữa!
    (Theo cách tính tuổi của người Trung Hoà thì bé gái bảy tuổi và bé trai tám tuổi được gọi là tuổi điều niên).
    Sảng nhi nghe cha và ông răn đe, ngăn cấm như thế liền buồn rười rượi. Đối với cậu đôi bầu vú mẹ là tạo vật xinh đẹp và thân yêu nhất. Thỉnh thoảng, cậu cảm thấy nhớ chúng vô hạn, phải chạy đi tìm mẹ.
    Thực ra, tật xấu này có ở hầu hết những đứa trẻ được nuông chiều, nhất là khi chúng không có em kế tiếp.
    Vả lại cuộc sống cô quạnh nơi cánh rừng vắng này thiếu thốn niềm vui cho một đứa bé, vì vậy, Sảng nhi luôn bám lấy mẹ.
    Giờ đây, sắp bị tước đoạt phúc hiếm hoi ấy, cậu bé ứa nước mắt, ấp úng biện minh với Lý Tứ. Cậu hi vọng Lý lão sẽ bênh vực mình:
    - Thúc công? Tiểu tôn tuy đã tám tuổi nhưng vẫn nhỏ hơn gia phụ. Nay gia phụ đã gần sáu mươi mà còn sờ được thì tại sao lại cấm tiểu tôn?
    Thì ra Tư Đố Quát âu yếm vợ hiền bị con trai nhìn thấy.
    Lý lão ôm bụng cười lăn cười lóc, còn vợ chồng Xuân Hoa thì đỏ mặt tía tai, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
    Tư Đồ Quát thẹn quá hóa giận, trợn mắt quát:
    - Tiểu quỷ kia! Ngươi nói nhăng gì thế?
    Sảng nhi sợ khiếp vía, chạy đến núp sau lưng mẹ. Tuy nhiên, sau lần ấy cậu bé cũng bỏ được tật xấu, tìm niềm vui trong việc học võ.
    Đấy là chút kỷ niệm vui ngày cũ, giờ thì Sảng nhi đã mười hai, đang phải cố công khổ luyện tám mươi mốt chiêu Giáng Ma phủ pháp, thoát thai từ pho Giáng Ma kiếm pháp.
    Tư Đồ Quát hiểu rằng pho Du Long kiếm pháp của mình không lợi hại bằng sở học nhà vợ. Song ông không buồn vì Du Long Quyền mới là sở trường của núi Cổ Sơn.
    Hình dáng của Giáng Ma Phủ hoàn toàn khác với trường kiếm, chi giống ở chức năng là có thể đâm và chém. Điểm phức tạp nhất chính là việc trọng lượng dồn vế phần lưỡi búa cho nên cánh tay người võ sĩ phải rất khoẻ mạnh mới điểu khiển nổi. Ngược lại, cũng vì điểm đặc biệt ấy mà những đòn chém của Thần Phủ sẽ cực kỳ mãnh hệt hơn cả cương đao.
    Trong pho bí kíp còn có cả nguyên bản của Giáng Ma kiếm pháp nên Tư Đồ Quát đã tham khảo và đay lại cho con trai.
    Song song với việc luyện võ, Tư Đồ Sảng còn được phụ thân dậy cho một nghề để mưu sinh: Thuở xưa, cái nghề đốn củi là mạt hạng và mạt rệp, không giống như các ngài “Lâm tặc” giầu nứt đố đổ vách ngày nay. Chính vì thế Tư Đồ Quát không để con trai nối nghiệp họ Võ mà dạy cho Sảng nhi cái nghề gia truyền của họ Tư Đồ. Đấy là nghề điêu khắc tượng.
    Ở một xứ sở mà bách tính thờ phụng đủ loại thần thánh như Trung Hoa thì nghề khắc tượng luôn phát đạt. Tượng Phật, tượng Tam Thanh, tượng các vị thần trong đạo giáo, hay thậm chí là cả những nhân vật trong tiểu thuyết như Quan Công, Tễ Thiên...May thay, Sảng nhi vốn là một cậu bé thông minh và khéo tay nên đã không phụ lòng kỳ vọng của cha già, hấp thụ hết tinh hoa của nghệ thuật ấy.
    O0o
    Tư Đồ Quát chẳng bao giờ đưa vợ con về thăm quê hương phúc Châu của lão cả. Lý do là vì Tư Đồ Quát bị chính bào đệ của mình truy sát.
    Tư Đồ Xán kém anh trai năm tuổi song võ nghệ lại cao cường hơn. Tính tình lão ta lại ác độc phi thường nên Tư Đố Quát đành phải trốn đi để tránh cảnh nồi da xáo thịt. Thực ra, nếu có ở lại thì Tư Đố Quát cũng khó sống vì lão đã từng bị em trai đánh trọng thương.
    Tư Đố Quát sợ mẹ già vỡ tim mà chết nên đã giậu kín việc huynh đệ tương tàn, lẳng lặng bỏ nhà đi phiêu bạt, chịu tiếng bất hiếu nhi.
    Do vậy. Tư Đồ Xán chẳng hề bị tai tiếng và còn trở thành Minh chủ võ lâm.
    Tư Đồ Quát có được gia đình ấm cúng nên đã quên mối hận cũ, chi kể sơ cho vợ con biết mà thôi.
    Năm Sảng nhi mười bẩy tuổi Tư Đồ Quát quyết định bỏ hẳn nghề tiều phu, xoay qua nghề khắc tượng. Rừng Cửu Tuấn có rất nhiều loại cây long não, nguyên liệu tốt nhất để chế tác tượng Phật. Lũ mối mọt chẳng bao giờ dám xúc phạm đến những vị thần thánh có mùi thơm the the của long não.
    Hữu xạ tự nhiên hương. Với tài nghệ của cha con Tư Đồ Quát thì những pho tượng do họ làm ra đã sớm nổi tiếng đất Hàm Dương. Không những thế, chúng còn được du khách phương xa mến chuộng.
    Khổ thay, chính những pho tượng ấy đã tố cáo tung tích của Tư Đỗ Quát và tai họa ập đến.
    Một ngày mùa thu năm Quý Sửu, Tư Đồ Sảng vào rừng đốn cây long não, lúc trở về thi thấy song thân bị giết chết rất thê thảm. Mẹ chàng thần lực kinh nhân nên đối phương phải đâm đến bẩy nhát mới giết được. Cha chàng thì bị rơi đầu, mắt vẫn mở trừng trừng vì oán hận.
    Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết, chôn cất xong huyện đường là xách búa đi tầm thù.
    Ngoài sự nghi ngờ dành cho minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán, manh mối duy nhất là chữ “Quỷ” viết bằng máu. Trước khi từ trần, Võ nương vẫn còn đủ sức cáo giác với con trai mình.
    Tư Đồ Sảng đã tròn nhị thập và tài sản nhà chàng cũng đã tăng lên kha khá được chủ quán Lý Tứ quản lý. Chàng cũng là người thừa kế duy nhất của Lý chưởng quỹ vì lão cũng chẳng có con cháu nào cả.
    Thuở còn trai trẻ, Lý Tứ từng là tay đạo tặc lão luyện giang hồ nên giờ đây hết lời khuyên nhủ, dặn dò cháu trai. Lão dạy chàng phải ẩn nhẫn và thận trọng vì lực lượng kẻ thù quá hùng mạnh.
    Tư Đỗ Sảng nhất nhất tuân lời thúc công bí mật rời ngay Hàm Dương.


    Last edited by giavui; 05-19-2020 at 03:25 PM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Có chứ, cao tằng tổ của thiếp chính là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Khách Võ Hồng, đại cao thủ cuối thời Nam Tống.
    - Nàng nói nhăng gì thế? Lão ấy sử dụng kiếm cơ mà?
    Xuân Hoa thản nhiên gật đầu rồi giải thích:
    - Đúng vậy ! Gia tổ theo Tể tướng Lục Tú Phu phò tá vị vua cuối cùng của nhà Tống chạy ra đảo Nhai Sơn Quảng Đông. Khi quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn, vua quan nhà Tống đều tự tử chết sạch, gia tổ thì thọ thương. Người vì tông mạch nhà họ Võ nên cố phá vây, tìm đến núi Cửu Tuấn này ẩn cư.
    Tư Đố Quát chẳng thấy nói gì về cây Giáng Ma Thần Phủ liền nóng nẩy gắt:
    - Việc ấy thì lão phu đã nghe truyền tụng. Tuy nhiên, vì cớ gì mà lại lòi ra cây búa Giáng Ma?
    Suốt mười mấy năm làm vợ, Xuân Hoa chưa bao giờ cau mặt với chồng. Bà luôn tươi cười, dịu giọng, ngay cả những lúc Tư Đồ Quát gắt gỏng. Thỉnh thoảng lão rơi vào tâm trạng xấu vì những kỷ niệm trong dĩ vãng. Còn thường thì Tư Đồ Quát rất ân cần, hòa nhã.
    Hôm nay cũng thế, Võ nương nhỏ nhẹ nói:
    - Thiếp kém phần chữ nghĩa nên không thể nói năng minh bạch được. Trưa nay chúng ta sẽ lên núi lấy Thần Phủ và chân kinh, tướng công xem trong ấy sẽ rõ nguồn cơn.
    Lời nói khiêm tốn và ánh mắt nhu thuận của bà đã khiến Tư Đồ Quát chạnh lòng hổ thẹn. Lão biết mình đã cư xử không đúng với vợ hiền, liến gượng cười phân bua:
    - Trời chớm lạnh, những vết thương cũ hành hạ khiến lão phu trở nên cáu bẳn, mong nương tử lượng thứ.
    O0o
    Sau bữa cơm trưa, Võ nương đưa chồng con lên núi Cửu Tuấn. Trên một bình đài cao mười trượng là nghĩa trang của giòng họ Võ. Mộ của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng cũng ở đây nhưng trên bia không ghi danh hiệu nên Tư Đố Quát từng đến tảo mộ mà không biết, cứ tưỏng kẻ vô danh.
    Sẵn dịp thượng sơn, Võ nương thắp hương cho những người đã khuất. Sau đó bà dẫn chồng con đi tiếp lên cao.
    Con đường ruột dê này đã lâu không người qua lại nên cỏ dại mọc đầy, phải rất quen thuộc mới nhận ra lối cũ.
    Vài khắc sau, ba người dừng chân trước một vách đá dựng đứng ở lưng chừng núi. Võ nương bảo Sảng nhi dùng kiếm phá mớ dây leo chằng chịt trên vách, để lộ một thạch môn hình chữ nhật phủ đầy rêu. Rồi bà xuống tấn đẩy mạnh cánh cửa đá dầy để khai động. Thấy thế, cha con Sảng nhi cũng vội phụ một tay.
    Thạch môn đóng chặt đã hai mươi năm, kể từ ngày ông ngoại Sảng nhi qua đời. Giờ đây, cánh cửa nặng nghìn cân kia cáu kỉnh phát ra những âm thanh ken két ồn ào rỗi mới chịu mở toang.Tư Đồ Quát đốt hương rồi đứng cạnh bệ thờ tượng Võ Hồng, chứng kiến cảnh con trai lạy lục thọ nhận Thần Phủ và chân kinh. Lão tò mò quan sát pho tượng đá và nhận ra rằng dung mạo của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm rất oai vũ, uy nghiêm. Bất giác, Tư Đỗ Quát sinh lòng kính cẩn đối với cụ tổ bên vợ.
    Thạch môn tuy nhỏ nhưng lòng động vô cùng rộng rãi, sáng sủa. Trần hang cao vút và trên vách trước có hàng chục khe thông sáng, thông gió nên không gian thoáng đãng, chẳng hề hôi hám.
    Đây vốn là một hang đá vôi nên thạch nhũ buông rèm, có chỗ nước nhỏ xuống đọng thanh vũng. Tuy nhiên, hơn nửa nền động còn lại rất khô ráo, tiện lợi cho việc cư trú và luyện võ.
    Lúc này Xuân Hoa đã đỡ Sảng nhi đứng dậy và bà tháo lớp vải sơn, lấy thanh Giáng Ma Thần Phủ ra trao cho ái tử.
    Tư Đồ Quát choáng váng trước hình dáng tân kỳ, cũng như nước thép đen bóng của của cây búa cổ kính.
    Chữ Phủ có nghĩa là cây rìu, một loại búa lớn, cán dài, chuyên dùng để chặt cây, đốn gỗ. Dịch là rìu thì chính xác hơn song lại hơi khó nghe và kém phần hoa mỹ. Cao thủ võ lâm mà vác rìu thì còn ra thể thống gì nữa. Do vậy, chúng ta sẽ dùng chữ “Búa” cho thêm phần oai vũ.
    Vả lại, thanh Giáng Ma Thần Phủ này cũng chẳng giống rìu cho lắm vì nó có đến hai lưỡi và đoạn thép dài nhọn hoắt ở đầu. Nghĩa là, ngoài tác dụng chém, Thần Phủ còn có thể sát địch bằng những thức đâm.
    Lưỡi búa có hình nửa bầu dục, mép lưỡi là một cung dài độ hơn gang. Cán búa cũng được làm bằng cùng một thứ thép với lưỡi, cộng với mũi nhọn ở chót thì Thần phủ dài độ ba xích rưỡi, hơn trường kiếm nửa xích.
    Tư Đồ Quát không dằn được óc hiếu kỳ liền bảo con trai:
    - Sảng nhi ! Con đưa Thần phủ cho ta xem thử!
    Cậu bé vâng lời và vui vẻ nói:
    - Cha à! Cây búa này nặng khủng khiếp, hài nhi đến gẫy tay mất.
    Tư Đồ Quát nhận lấy, giật mình vì trọng lượng của Giáng Ma Thần Phủ mặc dù cán búa là ống thép rỗng mà Thần Phủ vẫn nặng đến hai chục cân.
    Lão chăm chú quan sát những hoa văn kỳ lạ khắc chìm trên thân búa, nhận ra hàng ngàn chữ Phạn nhỏ li ti ẩn trong những hình rồng phượng. Lão thầm đoán cổ vật này xuất xứ từ Thiên Trúc hoặc Tây Tạng chứ chẳng phải của Trung Hoa.
    Tư Đồ Quát còn phát hiện việc cán búa là ba đoạn ống thép lồng mối vào nhau. Nghĩa là cán búa có thể rút ngắn lại chỉ còn độ hơn gang. Cả đoạn mũi thép nhọn cũng thụt được vào trong lòng cán rỗng. Lão vô cùng thán phục bàn tay tài hoa của người đã chế tạo nên Thần Phủ và mỉm cười khi nghĩ đến cảnh Sảng nhi giắt khối thép hai chục cân này vào giải thắt lưng. Nụ cười tắt lịm ngay khi lão nghe giọng nói ngọt ngào trong trẻo của vợ âu yếm cất lên:
    - Tướng công hãy thử dùng Giáng Ma Thần Phủ thi triển pho Du Long kiếm pháp xem nào.
    Sau này, khi xen xong đoạ cuối của quyển “Giáng Ma Chân Kinh”, Tư Đồ Quát mới hiểu rằng Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng muốn khắc chế Đao Vương Bạch Hán Từ nên đã sang Tây Tạng, vào Bố Đà La Tự trộm cây Thần Phủ. Võ Hồng thua Đao Vương ở trận Nhài Sơn biết kiếm không địch lại thanh đao quý nên nghĩ ra việc dùng Giáng Ma Thần Phủ mà thi triển kiếm thuật, tất nhiên, lão ta phải thay đổi sở học để tạo ra pho phủ pháp kỳ lạ. Cuối cùng, Võ Hồng đã nhờ Thần Phủ mà giết được Đao Vương.
    O0o
    Kể từ hôm ấy, Sảng nhi bắt đầu khổ luyện tuyệt học của giòng họ Võ. Lần này, sư phụ cưa cậu là người mẹ thân yêu.
    Được Xuân Hoa cưng chiều nên Sảng nhi rất nhõng nhẽo với mẹ. Tròn ba tuổi mới dứt sữa và đến tuổi lên tám cậu bé vẫn còn thói quen sờ vú mẹ. Tư Đồ Quát bị cạnh tranh liền nóng mũi mắng con:
    - Ngươi thực không biết xấu hổ, đã cao bằng ta mà cứ làm như con nít lên ba.
    Chủ quán Lý Tứ cũng có mặt, đang đối ẩm với cháu rể, liền lên tiếng phủ dụ Sảng nhi:
    - Phụ thân cháu nói đúng đấy! Nay Sảng nhi đã đến tuổi điều niên không được sờ vú mẹ nữa!
    (Theo cách tính tuổi của người Trung Hoà thì bé gái bảy tuổi và bé trai tám tuổi được gọi là tuổi điều niên).
    Sảng nhi nghe cha và ông răn đe, ngăn cấm như thế liền buồn rười rượi. Đối với cậu đôi bầu vú mẹ là tạo vật xinh đẹp và thân yêu nhất. Thỉnh thoảng, cậu cảm thấy nhớ chúng vô hạn, phải chạy đi tìm mẹ.
    Thực ra, tật xấu này có ở hầu hết những đứa trẻ được nuông chiều, nhất là khi chúng không có em kế tiếp.
    Vả lại cuộc sống cô quạnh nơi cánh rừng vắng này thiếu thốn niềm vui cho một đứa bé, vì vậy, Sảng nhi luôn bám lấy mẹ.
    Giờ đây, sắp bị tước đoạt phúc hiếm hoi ấy, cậu bé ứa nước mắt, ấp úng biện minh với Lý Tứ. Cậu hi vọng Lý lão sẽ bênh vực mình:
    - Thúc công? Tiểu tôn tuy đã tám tuổi nhưng vẫn nhỏ hơn gia phụ. Nay gia phụ đã gần sáu mươi mà còn sờ được thì tại sao lại cấm tiểu tôn?
    Thì ra Tư Đố Quát âu yếm vợ hiền bị con trai nhìn thấy.
    Lý lão ôm bụng cười lăn cười lóc, còn vợ chồng Xuân Hoa thì đỏ mặt tía tai, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
    Tư Đồ Quát thẹn quá hóa giận, trợn mắt quát:
    - Tiểu quỷ kia! Ngươi nói nhăng gì thế?
    Sảng nhi sợ khiếp vía, chạy đến núp sau lưng mẹ. Tuy nhiên, sau lần ấy cậu bé cũng bỏ được tật xấu, tìm niềm vui trong việc học võ.
    Đấy là chút kỷ niệm vui ngày cũ, giờ thì Sảng nhi đã mười hai, đang phải cố công khổ luyện tám mươi mốt chiêu Giáng Ma phủ pháp, thoát thai từ pho Giáng Ma kiếm pháp.
    Tư Đồ Quát hiểu rằng pho Du Long kiếm pháp của mình không lợi hại bằng sở học nhà vợ. Song ông không buồn vì Du Long Quyền mới là sở trường của núi Cổ Sơn.
    Hình dáng của Giáng Ma Phủ hoàn toàn khác với trường kiếm, chi giống ở chức năng là có thể đâm và chém. Điểm phức tạp nhất chính là việc trọng lượng dồn vế phần lưỡi búa cho nên cánh tay người võ sĩ phải rất khoẻ mạnh mới điểu khiển nổi. Ngược lại, cũng vì điểm đặc biệt ấy mà những đòn chém của Thần Phủ sẽ cực kỳ mãnh hệt hơn cả cương đao.
    Trong pho bí kíp còn có cả nguyên bản của Giáng Ma kiếm pháp nên Tư Đồ Quát đã tham khảo và đay lại cho con trai.
    Song song với việc luyện võ, Tư Đồ Sảng còn được phụ thân dậy cho một nghề để mưu sinh: Thuở xưa, cái nghề đốn củi là mạt hạng và mạt rệp, không giống như các ngài “Lâm tặc” giầu nứt đố đổ vách ngày nay. Chính vì thế Tư Đồ Quát không để con trai nối nghiệp họ Võ mà dạy cho Sảng nhi cái nghề gia truyền của họ Tư Đồ. Đấy là nghề điêu khắc tượng.
    Ở một xứ sở mà bách tính thờ phụng đủ loại thần thánh như Trung Hoa thì nghề khắc tượng luôn phát đạt. Tượng Phật, tượng Tam Thanh, tượng các vị thần trong đạo giáo, hay thậm chí là cả những nhân vật trong tiểu thuyết như Quan Công, Tễ Thiên...May thay, Sảng nhi vốn là một cậu bé thông minh và khéo tay nên đã không phụ lòng kỳ vọng của cha già, hấp thụ hết tinh hoa của nghệ thuật ấy.
    O0o
    Tư Đồ Quát chẳng bao giờ đưa vợ con về thăm quê hương phúc Châu của lão cả. Lý do là vì Tư Đồ Quát bị chính bào đệ của mình truy sát.
    Tư Đồ Xán kém anh trai năm tuổi song võ nghệ lại cao cường hơn. Tính tình lão ta lại ác độc phi thường nên Tư Đố Quát đành phải trốn đi để tránh cảnh nồi da xáo thịt. Thực ra, nếu có ở lại thì Tư Đố Quát cũng khó sống vì lão đã từng bị em trai đánh trọng thương.
    Tư Đố Quát sợ mẹ già vỡ tim mà chết nên đã giậu kín việc huynh đệ tương tàn, lẳng lặng bỏ nhà đi phiêu bạt, chịu tiếng bất hiếu nhi.
    Do vậy. Tư Đồ Xán chẳng hề bị tai tiếng và còn trở thành Minh chủ võ lâm.
    Tư Đồ Quát có được gia đình ấm cúng nên đã quên mối hận cũ, chi kể sơ cho vợ con biết mà thôi.
    Năm Sảng nhi mười bẩy tuổi Tư Đồ Quát quyết định bỏ hẳn nghề tiều phu, xoay qua nghề khắc tượng. Rừng Cửu Tuấn có rất nhiều loại cây long não, nguyên liệu tốt nhất để chế tác tượng Phật. Lũ mối mọt chẳng bao giờ dám xúc phạm đến những vị thần thánh có mùi thơm the the của long não.
    Hữu xạ tự nhiên hương. Với tài nghệ của cha con Tư Đồ Quát thì những pho tượng do họ làm ra đã sớm nổi tiếng đất Hàm Dương. Không những thế, chúng còn được du khách phương xa mến chuộng.
    Khổ thay, chính những pho tượng ấy đã tố cáo tung tích của Tư Đỗ Quát và tai họa ập đến.
    Một ngày mùa thu năm Quý Sửu, Tư Đồ Sảng vào rừng đốn cây long não, lúc trở về thi thấy song thân bị giết chết rất thê thảm. Mẹ chàng thần lực kinh nhân nên đối phương phải đâm đến bẩy nhát mới giết được. Cha chàng thì bị rơi đầu, mắt vẫn mở trừng trừng vì oán hận.
    Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết, chôn cất xong huyện đường là xách búa đi tầm thù.
    Ngoài sự nghi ngờ dành cho minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán, manh mối duy nhất là chữ “Quỷ” viết bằng máu. Trước khi từ trần, Võ nương vẫn còn đủ sức cáo giác với con trai mình.
    Tư Đồ Sảng đã tròn nhị thập và tài sản nhà chàng cũng đã tăng lên kha khá được chủ quán Lý Tứ quản lý. Chàng cũng là người thừa kế duy nhất của Lý chưởng quỹ vì lão cũng chẳng có con cháu nào cả.
    Thuở còn trai trẻ, Lý Tứ từng là tay đạo tặc lão luyện giang hồ nên giờ đây hết lời khuyên nhủ, dặn dò cháu trai. Lão dạy chàng phải ẩn nhẫn và thận trọng vì lực lượng kẻ thù quá hùng mạnh.
    Tư Đỗ Sảng nhất nhất tuân lời thúc công bí mật rời ngay Hàm Dương.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 2

    Xuất Đạo Tầm Hung Phùng Lưỡng Xú,
    Hương Sơn Thần Phủ Tảo Tà ma
    Giữa tháng mười năm ấy, trong thành Lạc Dương xuất hiện lột chàng kỵ sĩ võ phục gấm xanh diêm dúa, ngoài khoác áo khinh cừu dài đến gối. Chàng trai này có thân hình cao lớn, tay dài quá gối, trồng rất oai vệ. Trên gương mặt anh tuấn điềm tĩnh kia có hàng ria mép phong nhã, được tỉa tót cẩn thận.
    Do Tư Đỗ Sâng chỉ quanh quẩn trong cánh rừng Cửu Tuấn để luyện võ nên rất ít người nhẵn mặt. Vì vậy, chắc chắn là kẻ thù cũng không thể biết được. Về mặt vũ khí và võ công thì cũng không đáng ngại vì những thứ ấy chưa hề xuất hiện trên giang hồ.
    Giờ thì chúng ta hãy cùng chàng trai tội nghiệp kia thưởng thức rượu thịt của tòa tửu quán số một đất Lạc Dương.
    Mùa thu Hoa Bắc se lạnh nên mới đầu giờ Tỵ mà số người uống rượu đã khá đông. Đa số khách giang hồ là vua nhậu. Rượu được tôn là thánh thủy của trời đất, chỉ trừ các nhà sư ra, kỳ dư đều không kiêng kỵ, kể cả giới đạo sĩ.
    Tư Đồ Sảng cũng biết uống rượu vì mùa đông dưới chân núi Cửu Tuấn rất khắc nghiệt. Từ năm mười bốn tuổi chàng đã đủ sức thay cha mẹ vào rừng đốn củi. Trước khi đi, chàng thường được mẫu thân rót cho một chung lớn để ngự hàn.
    Lần đầu xuất đạo, chàng trai sơn dã, quê mùa vô cùng bỡ ngỡ, hoang mang. Những chỉ dẫn gấp gáp của Lý Tứ chẳng thể biến chàng thành kẻ lịch duyệt ngay được. Cách đối phó với đời hữu hiệu nhất là ít nói và chịu khó quan sát. Do vậy, Tư Đồ Sảng lặng lẽ ăn uống và lắng nghe.
    Thế chàng ta đến Lạc Dương để làm gì? Xin thưa rằng tổng đàn võ lâm tọa lạc ở chốn này, tất nhiên là ở ngoại thành, trên sườn núi Hương Sơn, cạnh bờ sông Y Thủy.
    Thành Lạc Dương nằm trong bồn địa, giữa sông y Thủy và Lạc Thủy, từng là kinh đô của chín triều đại Trung Hoa, được ca ngợi là “Cửu Triều Danh Đô”. Những triều đại ấy gồm: Đông Chu, Đông Hán, Tào Ngụy, Tây Tấn, Bắc Ngụy, Tùy (đời Tùy Dạng Đế), Đường (đời võ Tắc Thiên), Hậu Lương, Hậu Đường. Các triều đại khác khi đóng đô ở Trường An thì luôn luôn chọn:Lạc Dường là kinh đô phụ.
    Lạc Dương có rất nhiều di tích danh thắng nổi tiếng, song lẫy lừng nhất chính là quần thể Long Môn Phật Đôpngj trên núi Long Môn ở bờ bên kia sông Y Thủy, đối diện với Hương Sơn.
    Công trình điêu khắc vĩ đại này khởi đầu từ thời Bắc Ngụy kéo dài bốn trăm năm, kiến tạo liên tục.
    Núi Long Môn có nhiều hang đá tự nhiên, rất thuận lợi cho việc tạc tượng, lớn nhất là các động Cổ Dương, Tân Dượng, Liên Hoa. Tổng cộng trên núi Long Môn có đến hơn hai ngàn một trăm Khám Phật, mười vạn bức tượng Phật lớn nhỏ và hơn ba ngàn bia ký. Tróng đó có bức tượng phật cao to nhất được tạo vào thời Võ Tắc Thiên nhà Đường, gọi là Đại Cô Xá Phật tượng. Tượng này cao gần năm trượng hai xích (mười bẩy phẩy mười bốn mét) riêng đầu tượng đã cao đến hơn một trượng hai xích.
    Nhưng liệu quần thể Long Môn Phật Động có liên quan gì đến câu chuyện của chúng ta hay không? Thưa rằng có! Nơi ấy chứa đựng một bí mật trọng đại của võ lâm. Hơn trăm năm nay vẫn lưu truyền lời đồn đại rằng núi Long Môn cất giấu tuyệt học của Vạn Tùy lão nhân.
    Vạn Tùy lão nhân là một bậc cao tăng phái Thiền Tông của thời Kim và Nguyên, ông có pháp hiệu là Hành Tú, vốn quê ở Hà Nội Giải, phía nam Lạc Dương. Chính vì thế mà võ lâm Trung Nguyên cho rằng vị cao thủ số một kia giấu tuyệt học trên núi Long Môn.
    Sau khi tồ sư phái Toàn Chân Vương Trùng Dương tọa hoá thì Vạn Tùy lão nhân là thiên hạ đệ nhất cao thủ. Chính Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán, chú ruột của Tư Đồ Sảng, cũng vì việc ấy mà dựng Tổng đàn võ lâm trên núi Hương Sơn.
    Thế tại sao lão ta không chiếm quách núi Long Môn cho tiện? Bởi thực ra những động Phật kia có cả ở núi Hương Sơn. Nghĩa là phần lớn các động ấy được đục trên vách đá của núi Long Môn và Hương Sơn, dọc theo hai bờ sông Y Hà.
    Lý do thứ hai là vì núi Long Môn là thánh địa Phật giáo, được quần triều đình canh gác, chăm sóc, làm sao Tư Đồ Xán lên đấy dựng nhà được?
    Hương Sơn vắng vẻ, hoang vu hơn nên chẳng ai chú ý đến trừ những người tìm kiếm di học của cổ nhân. Năm năm qua, trong cương vị Minh chủ, Tư Đồ Xán đã xây dựng tổng đàn thành một cơ ngời khang trang, rộng rãi. Tất nhiên tiền bạc là do các phái trong thiên hạ đóng góp lại.
    Hương Sơn ở phía Nam thành Lạc Dương, cách độ hơn hai chục dặm, và Lạc Dương chính là cửa ngõ của Tổng đàn võ lâm. Tư Đồ Xán chiếm Hương Sơn để độc quyền điều tra khu Long Môn Phật Động, chứ thực ra mọi sinh hoạt của lão đều ở trong thành Lạc Dương.
    Ngoài tòa gia trang đồ sộ Tư Đồ Xán còn sở hữu một võ trường rất lớn tên gọi Võ Lâm Học Hiệu. Cả hai cơ ngơi ấy đều nằm trên phế Vĩnh Ninh. Phố này mang tên như thế vì có chùa Vĩnh Ninh, một kiến trúc cổ kính thời Bắc Ngụy.
    Trước đây, Thiếu Lâm Tự là lò võ lớn nhất Trung Nguyên, mỗi năm đào tạo hàng trăm cao thủ tục gia. Nhưng từ khi Phúc Châu Thần Kiếm khai trương Võ Lâm Học Hiệu thì chùa Thiếu Lâm bị ế ẩm, chẳng mấy người theo học. Lý do rất đơn giản là vì Tư Đồ Xán đã từng đả bại cao thủ số một của Thiếu Lâm tự mà giành lấy ngôi Minh chủ. Tung Sơn đại hiệp Bàng Nam Sách, đệ tử tục gia đời thứ nhất, sư đệ của phương trượng chưởng môn Giám Tuệ đã bị Tư Đồ Xán đâm thủng ngực phải nhưng không chết.
    Lệ phí của Võ Lâm Học Hiệu rất cao nên chỉ có bọn con cái nhà giầu là vào được. Nhưng Võ Lâm Học Hiệu lúc nào cũng đông nghịt học sinh vì tính hiệu quả của sự giảng dạy. Ai cũng khen rằng học ở đây một năm võ nghệ sẽ tăng tiến bằng học hai năm trên núi Thiếu Thất!
    Vậy phải chăng Tư Đồ Sáng đến Lạc Dương để do thám Tư Đồ gia trang hoặc trà trộn vào Võ Lâm Học Hiệu? Xin thưa rằng hai việc ấy đều không cần thiết vì sẽ chẳng mang lại kết quả gì? Chàng trai mồ côi của chúng ta đến đây tìm một nhân vật có tên là Tích Dịch Quỷ (Ma Thằn Lằn) Tây Môn Giới. Lão ta tuổi độ lục thập, vốn là bào đệ của chưởng quữ Lý Tứ.
    Tây Môn Giới lừng danh trong làng đạo tặc Trung Nguyên với công phu Bích Hổ Du Tường có một không hai. Cái mỹ danh Tích Dịch Quỷ chính là sự ca ngợi của anh em trọm cướp.
    Song Tây Môn Giới không chỉ giỏi nghề trèo tường mà còn là kẻ đa mưu túc trí, xảo quyệt tuyệt luân. Lý Tứ biết rằng chỉ có gã bào đệ quỷ sứ này là đủ tài giúp đỡ Tư Đổ Sảng. Tích Dịch Quỷ có thói quen ăn nhậu ở Lạc Thành Đại tửu điếm nên Lý lão đã bảo cháu mình đến đấy tìm.
    Tây Môn Giới có tài biến hóa vô song, lúc nào cũng cải trang, vì vậy, dẫu Tư Đồ Sảng có nhìn thấy cũng chẳng thể nhận ra. Nghĩa là chàng phải chờ lão tự động tìm đến khi nhìn thấy chiếc trâm bạc trên búi tóc chàng.
    Chiếc ngân trâm này có đuôi khắc hình thằn lằn, vốn là tín vật của Tây Môn Giới tặng cho Lý Tứ. Bọn đàn em của Tích Dịch Quỷ nhìn thấy ngân trâm ất sẽ thông báo ngay cho chủ tướng.
    Lạc Dương chính là sào huyệt của Tích Dịch Quỷ. Quả nhiên, Tư Đồ Sảng vừa ăn xong bữa thì có gã hán tử áo gấm đen sang trọng đi ngang bàn và nói mau:
    - Trước cổng chùa Bạch Mã!
    Nói xong, gã rời tửu điếm ngay và không hề ngoái lại. Tư Đồ Sảng mừng rỡ gọi tiểu nhị tính tiền. Hai khắc sau, chàng đến chỗ hẹn, gặp lại hán tử áo đen và được nghe chỉ thị thứ hai:
    - Công tử hãy vào trọ trong toà Xuân Phong lữ điếm bên kia đường và chờ ở đấy, không được ra ngoài.
    Tư Đồ Sảng ngoan ngoãn vâng lời đối phương. Chàng tắm gội xong lên giường nằm suy nghĩ, tưởng nhớ đến song thân mà lệ thảm tuôn ướt gối.
    Quá ngọ mới có người gõ cửa phòng Tư Đồ Sảng nhưng không phải gã áo đen lúc trước. Người khách này có vóc dáng mảnh khảnh, tuổi độ bốn mươi, mặc áo xanh học trò, đầu đội nho cân mầu đen.
    Ông ta thản nhiên ngồi xuống chiếc ghế đẩu cạnh bàn rồi lạnh lùng hỏi:
    - Vì sao ngươi có được cây Tích Dịch ngân trâm kia?
    Tự Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng, cháu củaTứ Xuyên Đại Đạo Lý Khởi Tập.
    Thì ra chưởng quỷ Lý Tứ lại chính là cao thủ khét tiếng vùng Tây Thục.
    Nghe xong, ánh mắt của khách sáng lên niềm vui nhưng gã vẫn hỏi lại:
    - Thế ngươi có biết cách nhận dạng Tích Dịch Quỷ hay không?
    Tư Đố Sảng gật đầu:
    - Có! Gia thúc công bảo rằng phía dưới rốn của Tích Dịch Quỷ có một nốt ruồi son lối lớn bằng hạt đậu.
    Gương mặt của vị khách giãn ra, ã cười rất tươi:
    - Chính ta là Tây Môn Giới đây! Chẳng hay Lý đại ca có gửi thư cho ta không?
    Tư Đố Sảng hoan hỉ đáp:
    - Bẩm có !
    Sau khi đọc xong thư của Lý Tứ, Tây Môn Giới hỏi han Tư Đồ Sảng rất kỹ. Lão cau mày suy nghĩ rồi nói:
    - Lão phu cũng đồng ý với Lý đại ca rằng hung thủ không phải là Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Hiện nay uy quyền của lão ta bao trùm võ lâm, không hề sợ lời tố cáo của lệnh tôn. Vả lại, chuyện ấy đã quá xa xưa rồi. Do đó, lão phu thiên về giả thuyết rằng phe đối phương là người hay một tổ chức mang chữ “Quỷ” hoặc đeo mặt nạ ma quái cho nên lệnh đường mới di ngôn lại như thế.
    Tích Dịch Quỷ nhấp hớp trà rồi nói tiếp:
    - Lão phu còn đoán rằng trước đây lệnh tôn từng va chạm hoặc gia nhập tổ chức ma quỷ ấy. Vậy thì, có lẽ rằng khi ly khai họ lệnh tôn đã mang theo một bí mật kinh người nào đó nên đã hơn hai mươi năm mà vẫn không thoát khỏi sự truy tầm.
    Trước giờ, Tư Đồ Sảng cứ đinh ninh kẻ thù là chú ruột mình. Giờ nghe Tây Môn Giới phân tích, chàng rất hoang mang, bối rối, liền thở dài bảo:
    - Tây Môn đại thúc! Thế thì tiểu điệt phải tìm hung thủ ở đâu?
    Tây Môn Giới nghiêm giọng:
    - Hiện nay trong võ lâm có đến mấy chục cao thủ mang chiêu bài chữ “Quỷ” Còn bang hội thì có những nơi như Quỷ Cung ở Giang Tây, Quỷ Cốc ở Tứ Xuyên, Quỷ Bang ở Sơn Đông. Tuy nhiên, khả nghi nhất là một tổ chức khủng bố thần bí mang tên “Quỷ Ảnh Hội”. Ba chục năm nay, “Quỷ Ảnh Hội” đã giết chết hàng ngàn người, cướp đi mấy trăm vạn lượng vàng. Khổ thay, hành tung của họ cực kỳ bí mật nên không ai biết được chút lai lịch nào. Hiện nay, Tổng đàn võ lâm đã treo giải thưởng năm trăm lượng vàng cho bất cứ ai cung cấp tin tục về sào huyệt của “Quỷ Ảnh Hội”!
    Tư Đồ Sảng càng thêm thất vọng, đau đớn nói:
    - Nếu hung thủ đúng là “Quỷ Ảnh Hội” thì mối thù này lại càng vô phương báo phục! Chúng ẩn hiện như ma quỷ làm sao tiểu diệt tìm ra được?
    Chàng bỗng ngẩn người vì kinh ngạc khi nghe Tích Dịch Quỷ nói:
    - Lão phu có cách giúp ngươi tìm ra “Quỷ Ảnh Hội”!
    Tư Đồ Sảng mừng đến ứa nước mắt, chắp tay vái dài:
    - Nếu được vậy thì tiểu điệt nguyện suốt đời ghi tâm khắc cốt ơn trọng của đại thúc.
    Tây Môn Giới xua tay cười nhạt:
    - Võ nghệ của ngươi được bao nhiêu mà dám tìm “Quỷ Ảnh Hội” đòi nợ máu? Bản lãnh của mỗi tên sát thủ ấy đều tương đương với một cao thủ nhất lưu trong võ lâm, chưa kể đến bọn thủ lĩnh.
    Tư Đồ Sảng chỉnh sắc đáp:
    - Đại thúc cứ yên tâm! Tiểu điệt thừa kế nòi thần lực của gia mẫu, sức cử ngàn cân, lại tinh thông quyền chưởng, kiếm thuật và cả phủ pháp của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng. Tiểu điệt từng bị gia phụ và Lý thúc công vây đánh mà vẫn chiếm thượng phong.
    Tư Đồ Sảng cố tạo niềm tin cho đối phương chứ chẳng phải có ý khoe khoang, mặt chàng buồn rười rượi.
    Nhưng Tích Dịch Quỷ thì chấn động vì hiểu rõ bản lãnh của Tứ Xuyên Đại Đạo cũng như của Tư Đồ Quát. Trước khi bị em ruột đuổi chạy khỏi Phúc Châu, Tư Đồ Quát từng nổi danh là Du Long Thần Quyền.
    Tây Môn Giới gật gù:
    - Tốt lắm? Nếu đúng là võ nghệ của ngươi cao siêu như thế thì lão phu rất an lòng. Bí mật của quỷ ảnh Hội là trên mặt của các hội viên đều có đúng ba nốt ruồi. Mặt giả hay thực thì cũng vậy. Bí mật thứ hai là Quỷ Ảnh Hội có thói quen tiếp cận những người trẻ tuổi, anh hùng để dụ dỗ thu phục. Do đó, hiền điệt cứ việc dương oai diễu võ rong chơi khắp chốn đô hội, tất có ngày sẽ chộp được một tên tò mò? Sau đó ngươi dùng cực hình tra tấn thì sẽ tìm ra sào huyệt “Quỷ Ảnh Hội”. Hoặc giả, chính gã đó sẽ dẫn ngươi về tổ quỷ.
    Đúng là chuyện mò kim đáy biển song Tư Đồ Sảng không còn cách nào khác, đành phải làm theo kế hoạch của Tây Môn Giới. Lạc Dương có Tổng đàn võ lâm nên chắc là Quỷ Ảnh Hội không dám bén máng đến. Do đó, Tư Đỗ Sảng quyết định sáng mai rời Lạc Dương đi đến Hứa Xương.
    Nhưng ngay tối hôm ấy, Tây Môn Giới đã quay lại, đưa chàng về nhà của lão trong một trang viện cổ kính, tao nhã gần cửa đông thành.
    Trong vòng một tháng, Tích Dịch Quỷ dạy cho Tư Đồ Sảng công phu Bích Hổ Du Tường và những mánh khóe trong nghề đạo thích. Dù không muốn chàng vẫn phải học để lão vui lòng.
    Giữa tháng mười một, khi những bông tuyết đầu tiên rơi xuống thì Tư Đồ Sảng đã rời xa Lạc Dương được vài dặm. Chàng bỗng nẩy ra ý nghĩ đến thăm Tổng đàn võ lâm để biết mặt chú ruột. Cha chàng đừng kể rằng hai người khá giống nhau, chỉ khác ở chỗ Tư Đồ Xán mang chiếc mũi ưng gồ cong xấu xí.
    Hơn nữa, cách thành danh dễ dàng, mau lẹ nhất là giật những giải thưởng mà võ lâm treo giá thủ cấp những tên cùng hung cực ác.
    Tuy Minh chủ có dưới trướng hai trăm thủ hạ thân tín và còn có quyền huy động cao thủ các phái song cũng không thể nào tiêu diệt được hết bọn ác nhân trong thiên hạ. Chúng chẳng dại gì ở yên một chỗ chờ Minh chủ đến hỏi tội.
    Bởi thế cho nên một phần ngân sách của võ lâm được dùng đế khuyến khích các bậc hiệp sĩ ra sức trừ gian diệt bạo. Chỉ cần họ mang được thủ cấp và vũ khí của kẻ bị truy nã về đến núi Hương Sơn là có ngay số tiền thưởng. Tùy theo võ nghệ của tên ác ôn mà giải thưởng cao hay thấp.
    Từ đó mà trên giang hồ sinh ra một nghề lạ lùng, nghề săn người. Nghề này lạ ở chỗ là những kẻ chuyên nghiệp không bao giờ vỗ ngực xưng. Họ âm thầm theo dõi, hạ thủ con mồi rồi lặng lẽ đem về lãnh thưởng. Tư Đồ Sảng không muốn trở thành kẻ săn người chuyên nghiệp mà chỉ muốn dương danh để dẫn dụ kẻ thù.
    Tây Môn Giới đã chọn cho chàng một cái biệt hiệu rất kêu để lòe thiên hạ: “Thần Phủ Lang Quân”.
    Tư Đồ Sảng là người trung hậu nên rất ngượng miệng khi phải tự xưng, tự phong.
    Tích Dịch Quỷ bèn an ủi chàng rằng người võ sĩ nào cũng phải làm như thế, tuy không được khiêm tốn xong lại tránh được cảnh bị đặt cho những danh hiệu oái oăm như : “Miêu Quyền”, “Phục Cẩu Thần Kiếm”, “Kê Chuỷ Lang Quân”... lúc ấy thì dở khóc dở cười, nạn thận không còn chút hùng tâm tráng chí nào nữa cả.
    Xế trưa, Tư Đồ Sảng đi ngang cánh rừng đào, cách sông Y Thủy ba bốn dặm. Con đường này tương đối vắng vẻ vì gần đến núi Hương Sơn, nơi là Phật Động chỉ có ở phần sườn núi dọc bờ sông, phần còn lại không có quái gì, ngoài Tổng đàn võ lâm. Thông thường, du khách lên núi Long Môn sau đó dùng thuyến đi dọc sông Y Thủy để tham quan.
    Đường vắng thì rừng cũng vắng và vì thế mà xảy ra huyết án, một việc không thể ngờ được bởi rừng đào rất gần thánh địa võ lâm.
    Thực ra thi bọn ác ôn kia hành sự rất kín đáo, tít sâu trong rừng chẳng hề lộ liễu. Xui cho chúng là nhĩ lực của Tư Đồ Sảng rất thính nhậy, nghe được tiếng sắt thép va chạm và tiếng rú thất thanh, lảnh lót của nữ nhân.
    Tư Đồ Sảng rung động tâm hồn, tưởng như mẹ hiền đang kêu cứu. Chàng dừng phắt lại nghe ngóng rối rẽ ngựa vào lối mòn xuyên rừng. Tán đào không cao nên cản trở người kỵ sĩ. Tư Đồ Sảng liền bỏ ngựa khoác bọc hành lý phi thân đi tiếp. Thanh Giáng Ma Thần Phủ lúc nào cũng nằm gọn ở hông được áo choàng lông che kín.
    Đấu trường chỉ cách bìa rừng hơn dặm. Đấy là một tòa đạo am nhỏ nhưng thanh nhã, trước cứa am là sân cỏ rộng rãi, bằng phẳng. Nhưng giờ đây cỏ xanh lấm tấm phủ tuyết và bị dầy xéo bởi những bàn chân thô bạo. Có tám gã áo xanh bịt mặt, sử dụng loan đạo đang vây chặt hai nữ nhân tóc dài buông xõa.
    Hai nữ lang này có thân pháp cực kỳ nhanh nhẹn, chập chờn tựa bóng u linh. Trường kiếm trên tay họ lợi hại phi thường, đánh ra toàn những đòn hiểm ác, nhờ vậy mà họ vẫn còn đứng vững trước sự vây đánh của tám cao thủ. Tuy nhiên, hai nàng đã bị thương, thỉnh thoảng rú lên vì đau đớn và giận dữ.
    Tư Đồ Sảng tuy nhân hậu song lại là người cương liệt, ghét ác như kẻ thù. Cái chết thê thảm của song thân đã khiến chàng càng bội phần nóng nẩy. Nay chứng kiến cảnh ỷ chúng hiếp cô, lửa giận bốc lên tâm trí chàng trai trẻ. Tư Đồ Sảng rút Giáng Ma Phủ, bấm nút cơ quan cho mũi thép ló ra và kéo dài cán búa.
    Rồi chàng lướt đến tấn công bọn thanh y. Có hai tên lập tức quay lại chống cự với màn nhấc quang dày đặc đang ào ào ập đến.
    Lần đầu xuất thủ, Tư Đổ Sảng không lượng được sức mình, chỉ sợ không đủ, nên đã dồn toàn lực vào Chiêu “Thần Phủ Khai Lâm”. Thần lực kinh hồn của chàng đã làm cho lưỡi búa thép nặng hai chục cân bay với tốc độ của trường kiếm nên đòn đánh nặng tựa ngàn cân. Hai lưỡi đao bị đánh bạt và mũi thép nhọn ở đầu Thần Phủ trổ ngay vài lỗ trên người nạn nhân.
    Tiếng rú thảm khốc của họ đã khiến sáu gã thanh y còn lại phải giật mình. Bốn gã bỏ hai nữ lang, nhẩy đến vây đánh tiểu tử cầm búa đáng ghét kia.
    Kết quả mỹ mãn của chiêu búa đầu tiên đã khiến Tư Đồ Sảng rất tự tin vào bản lãnh, bình thản đối phó với bốn thanh đao cuồng nộ. Chàng vũ lộng thanh Giáng Ma Thần Phủ tạo thành giải lụa đen mờ quanh thân dũng mãnh ngăn chặn, giải phá những đường đao độc ác của phe đối phương.
    Đao nặng gần gấp đôi kiếm nhưng Giáng Ma Thần Phủ lại nặng gấp đôi thanh đao của bọn Thanh y. Bởi vậy, khi va chạm, Tư Đỗ Sảng luôn có lợi thế. Hổ khẩu của các đao thủ rách toạc, rỉ máu tươi và họ vô cùng kinh ngạc, tự hỏi chàng trai trẻ kia lấy đầu ra sức lực mà điều khiển cây búa cổ quái nặng nề nhanh hơn đao của họ ?
    Chính bản thân Tư Đồ Sảng cũng không biết vì sao sức lực của mình lại đáng sợ như vậy. Đây là một bí mật, một món quà kỳ diệu mà mẫu thân chàng đã di tặng cho con trai ngay trong những ngày còn trứng nước và ba năm bú mớm.
    Giờ đây, Tư Đồ Sảng kiêu dũng như sở Bá Vương, biến thanh Giáng Mạ Phủ thành lưỡi búa sấm sét của thiên lôi. Chàng lại là người cương liệt vô úy nên công nhiều hơn thủ, dũng khí ngút trời khiến kẻ thù phải khiếp đảm.
    Càng đánh càng quen tay, Tư Đồ Sảng hứng chí thi triển pho Du Long thân pháp, giả như tấn công mé tả song lại đảo người sang hữu, lưỡi búa phủ kín một gã bạc mệnh, loan đao của gã gầy rời và thân hình thì đứt đoạn bởi lưỡi búa sắc như dao cạo. Giáng Ma Phủ là thần vật trấn sơn của chùa Bố Đà La nên có nước thép rất tốt.
    Xong xuôi, Tư Đồ Sảng lập tức đề khí bốc cao, lộn người tấn công gã thứ hai. Chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh này mãnh liệt như núi đổ, Thần Phủ hóa thành đám mây thép đen mờ sa thẳng xuống đầu đối thủ.
    Lối đánh cương mãnh, vũ bão của Tư Đồ Sảng đã hoàn toàn khắc chế được bọn đao thủ áo xanh. Nạn nhân bị rơi vũ khí và vỡ sọ.
    Bên kia, hai nữ lang áo trắng cũng đã giết được kẻ địch. Và họ ập đến chặn đứt sinh lộ của hai gã cuối cùng, đang đối diện Tư Đồ Sảng. Một nàng liến láu nói:
    - Không được để chúng thoát thân.
    Nhưng Tư Đồ Sảng cũng không có ý định đó. Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới cũng như Tứ Xuyên Đại Đạo Lý Tứ đã bắt chàng phải thuộc lòng câu: “Nhổ cỏ nhổ tận gốc”. Chỉ cần một tên chạy thoát là chàng sẽ trở thành mục tiêu săn đuổi của phe đối phương. Do vậy, Tư Đố Sảng nghiến răng xuất chiều “Toàn Phong Nhất Nộ”, Phủ ảnh cuồn cuộn, xoay tít như con trốt, cuốn lấy cả hai mục tiêu. Hai gã này đang sát cánh để đối phó với chàng nên rơi gọn vào lưỡi búa. Chúng rú lên thê lương, thân hình rách toang, máu hồng văng tung tóe.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hai ả áo trắng cũng phải rùng mình trước thảm cảnh ấy. Một ả le lưỡi tỏ vẻ sợ hãi và nói:
    - Chiêu búa này tàn bạo thực!
    Ngược lại, ả kia thì hớn hở khen:
    - Thế mới đúng là sở học của bậc anh hùng!
    Té ra, hai nàng này có tính cách khác nhau, chỉ giống ở chỗ xấu như ma lem , trán và má loang lổ chỗ đen chỗ trắng. Trên những bớt đen ấy còn có cả những sợi lông kỳ dị.
    Loại dị tật này được xem là dấu hiệu của sự luân hối. Kiếp trước bệnh nhân là súc vật, kiếp này thành người xong lột da chưa hết.
    Tuy nhiên, hai ả mặt lông dê này đôi mắt rất tinh anh, sống động, biểu lộ một tính cách ranh mãnh nghịch ngợm.
    Có lẽ họ là hai chị em ruột vì mũi cũng thẳng dọc dừa, môi anh đào đỏ tựa thoa son.
    Giờ đây, dù trên vai và đùi đang có những vết thương rỉ máu mà hai ả cứ nhoẻn miệng cười đắc ý thì thầm với nhau.
    Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng mở khăn bịt mặt của bọn áo xanh, xem chúng có mang ba nốt ruồi của Quỷ Ảnh Hội hay không? Chẳng thấy gì, chàng đứng lên ngượng ngùng nói:
    - Dám hỏi nhị vị cô nương vì sao lại va chạm với bọn đao thủ này, và thực rà họ thuộc bang phái nào?
    Chàng có thói quen nhìn thẳng khi đối thoại nên hai nữ lang cổ quái kia nhận ra ánh mắt chàng không hề có chút ghê sợ họ.
    Một ả tủm tỉm cười hỏi lại:
    - Dường như dung mạo xấu xí như quỷ của bọn ta không làm cho công tử ghế sợ.
    Tư Đồ Sảng thực thà đáp:
    - Tiên mẫu có gương mặt bị thú dữ cào nát một bên mà tại hạ vẫn không thấy xấu.
    Hai ả thích thú nháy nhó nhau rồi bất ngờ lướt đế như tia chớp, mỗi người một bên giữ chặt cánh tay của Tư Đồ Sảng, họ nũng nịu xin chàng nhận mình làm nô tỳ. Họ còn sa cả lệ kể lể rằng mẹ ruột mới lìa trần, cha lấy kế mẫu và đuổi họ ra khỏi nhà, chầng biết nương tựa vào ai!
    Tư Đồ Sảng không dám vùng vẫy vì sợ đụng chạm da thịt nõn nà của hai con quỷ cái. Chàng càng bối rối đến mụ cả người khi hai ả chẳng chút ý tứ cứ dán sát đôi bồng đảo vào người chàng.
    Mặt khác, vì nghĩ đến mẫu thân nên Tư Đồ Sảng cám cảnh, bất nhẫn cho hai ma lem. Chàng bấm bụng gật đầu chấp thuận để sớm thoát khỏi sự kiềm giữ khó coi này.
    Hai ả mừng rỡ nghiêng mình thi lễ:
    - Tỷ muội nô tài là Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng xin ra mắt công tử!
    Tư Đồ Sảng rầu rĩ đáp:
    - Ta là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê ở Hàm Dương. Nhưng xin hai cô nương hãy giấu kỹ điều ấy.
    Lăng Phi Tuyết là chị và cũng là cô ả dữ dằn. Nàng ta thích thú tròn mắt hỏi:
    - Nhưng vì sao công tử lại phải che giấu lai lịch?
    Tư Đồ Sảng ngao ngán đáp:
    - Chuyện rất dài dòng, nhị vị hãy chăm sóc thương tích xong rồi tại hạ sẽ kể cho nghe.
    Hai ả gật đầu, quay bước lủi ngay vào toà đạo am, thân pháp nhanh như điện.
    Tư Đồ Sảng thầm khen ngợi và tự an ủi rằng đã tìm được hai trợ thủ đắc lực võ nghệ cao cường. Tuy nhiên, chàng vẫn rầu thúi ruột khi nghĩ đến cảnh mình được hộ tống bởi hai nữ nhân cổ quái. Với chàng thì họ không xấu nhưng tất nhiên là khác thường.
    Tư Đồ Sảng rú lên gọi tuấn mã. Lát sau, con vật thông linh tìm đến cọ chiếc mõm ướt vào ngực chàng mà hí lên nhè nhẹ. Nó có tên là Bạch nhi, món quà mà cha chàng đã tặng khi chàng tròn mười lăm tuổi. Năm năm gần gần gũi đủ để khiến cho người với vật hiểu ý nhau và rất thân thiết.
    Cơn giận trôi qua, lòng nhân trỗi dậy, Tư Đồ Sảng bùi ngùi nhìn tám cái xác áo xanh. Kiếp giang hố quả là phi lý khi người ta chém giết nhau, dù chẳng hận thù. Họ với chàng hoàn toàn xa lạ và có lẽ rằng những kẻ đã vây đánh cha mẹ chàng cũng chỉ làm theo mệnh lệnh mà thôi.
    Tư Đố Sảng thở dài thườn thượt, bước đến bên rào trúc mé hữu nhặt cây mai đào đất. Chàng quyết định chôn cất tám nạn nhân xấu số kia.
    Tư Đồ Sảng hì hục kéo lê những xác chết vào rừng đào bên trái đạo am rồi chuẩn bị đào lỗ: Nhưng Lăng Phi Tuyết đã như cơn gió ập đến, cười toe toét:
    - Công tử bất tất phải nhọc công! Tiểu tỳ đã có cách phi tang rất hữu hiệu.
    Nói xong ả mở nút trái bầu khô, trút phấn trắng bên trong vào từng xác chết. Tư Đồ Sảng nghe lông tóc dựng ngược khi nhìn thấy khói bốc nghi ngút và xương thịt bọn Thanh y tan thành nước vàng. Chàng biết đây là loại bột Hủ Thi Tán mà giới độc môn vẫn thường sử dụng.
    Xong việc, Lăng Phi Tuyết hớn hở kéo tay chủ nhân:
    - Mời cồng tử vào tắm rửa rồi dùng bữa trưa. Gia muội nấu nướng sắp xong rồi.
    Hàm răng răng như ngọc của Phi Tuyết nhờ một chiếc khểnh mà mà nụ cười thêm duyên dáng. Đấy cũng là điểm để Tư Đồ Sảng nhận ra nàng. Răng của Phi Hồng đều như bắp.
    Tư Đồ Sảng vừa ngượng ngập gật đầu thì Phi Tuyết đã lướt đi trước để chuẩn bị bồn tắm.
    Chàng bật cười lẩm bẩm:
    - Lạ thực ? Sao hai ả này lúc nào cũng nhẩy nhót như nai, không đi chậm bao giờ cả?
    Phía sau đạo am có giếng nước và nhà tắm riêng. Gần đấy chính là nhà bếp có Lăng Phi Hống đang tất bật nấu nướng. Phi Tuyết mở cửa nhà tắm lôi xệch Tư Đồ Sảng vào trong và nhanh tay cởi giải thắt lưng của chàng.
    Tư Đỗ Sảng ngượng chín người, ấp úng nói:
    - Ta đã lớn có thể tự tắm được! Cô nương ra ngoài đi! _
    Phi Tuyết cười khanh khách:
    - Bổn phận của nô tỳ là hầu hạ chủ nhân, xin công tử chớ ngại!
    Tư Đỗ Sảng cười buồn:
    - Ta là con nhà tiều phu, không quen để người khác hầu hạ !
    Lăng Phi Tuyết sững người, mắt chớp nhanh rồi thỏ thẻ:
    - Tướng mạo của chàng trân quý như rồng phượng, tuy xuất thân thanh bạch nhưng sau này vinh hiển tột bậc. Vả lại, bậc quân tử tuỳ ngộ nhi an, sao lại vì chút tiểu tiết mà khiến cho nô tỳ lỗi đạo?
    Tư Đồ Sảng giật mình, không ngờ cô ả này lại đầy bụng kinh luân, nói năng như bậc nho gia lão thành. Chàng cười mát:
    - Nàng nói hay lắm nhưng sao không nghĩ câu nam nữ hữu biệt, đưa ta vào cảnh thất lễ?
    Phi Tuyết thản nhiên cười khì:
    - Chẳng lẽ nô tỳ xấu như quỷ thế này mà cũng có thể khiến cho công tử nổi tà tâm, đưa đến thất lễ được sao?
    Tư Đổ Sảng cứng họng vì đuối lý, nhưng không hề giận. Chàng vốn là một đứa trẻ bị ép buộc phải trưởng thành vì cái chết của song thân. Cách đây không lâu chàng vẫn còn lẩn quẩn bên váy mẹ , chỉ ngủ ngon khi nghe tiếng mẹ ru. Mẫu thân chàng thương con bằng tấm lòng như trời biển, cùng con nô đùa chẳng kể gì tuổi tác. Do vậy, dù cô độc nơi cánh rừng hoang vắng mà tuổi thơ của Tư Đồ Sảng luôn đầy ắp tiếng cười và những trò tinh nghịch.
    Giờ đây, gặp phải cô ả ranh mãnh, Tư Đồ Sảng chẳng chịu thua, tìm cách phản đòn. Chàng nhếch mép cười đầy ẩn ý rồi để mặc cho Phi Tuyết hành động.
    Lát sau, thân hình cường tráng đầy nam tính của chàng hiện ra khiến ngón tay Phi Tuyết run rẩy và ánh mắt nàng lộ vẻ ngượng ngùng. Những mảnh da trắng trên gương mặt nàng cũng đỏ rực lên.
    Tư Đồ Sảng hiểu ngay cô ả này chỉ giỏi nghề chọc ghẹo chứ bản chất thì nhút nhát. Chàng khoái chí trầm giọng ra lệnh:
    - Phiền nàng kỳ cọ cho ta vậy!
    Rỗi chàng bước vào bồn gỗ đầy nước nóng và nhìn nàng với vẻ chờ đợi.
    Phi Tuyết lỡ phóng lao phải theo lao, lóng ngóng dùng khăn vải thô cọ lưng và vai chủ nhân. Tư Đỗ Sảng bỗng khịt mũi chê bai:
    - Nàng hôi quá ! Sao không vào tắm chung với ta cho vui.
    Phi Tuyết choáng váng, chưa kịp phản ứng gì thì đã bị Tư Đồ Sảng vươn tay nhấc bổng đặt vào bồn gỗ. Rồi chàng giả vờ cởi áo đối phương, Phi Tuyết hồn vía lên mây, lắp bắp van lạy:
    - Xin công tử đừng làm thế!
    Tư Đố Sảng phì cười:
    - Té ra nàng chi là cọng giấy !
    Phi Tuyết hồ thẹn đấm thùm thụp vào lồng ngực vạm vỡ của chàng. Nàng phụng phịu đứng lên rời bồn tắm, bỏ chạy ra ngoài.
    O0o
    Sau bữa cơm trưa, cơm tối thì hai ả họ Lăng đã hiểu rõ gia thế và mối huyết thù của Tư Đồ Sảng. Họ khẳng khái đòi đi theo để giúp chàng dương danh thiên hạ cũng như báo hận.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn bảo:
    - Ta định gửi hai nàng về Lạc Dương nương tựa Lý thúc công, cũng là để nhang khói cho cha mẹ ta. Chốn giang hồ sắt máu này vốn chẳng phải là chỗ của nữ nhi.
    Lăng phi Hồng cười ngất:
    - Công tử sai rồi. Chính một kẻ không chút kinh nghiệm giang hồ như chàng mới không nên dấn bước. Còn chị em bọn nô tỳ là kẻ lão luyện, xảo quyệt, sẽ giúp chàng đạt được mục tiêu.
    Tư Đồ Sảng đỏ mặt công nhận nàng nói đúng. Chàng chỉ là một chú cừu non giữa thảo nguyên đầy lang sói.
    Lăng phi Tuyết ỏn ẻn phân trần:
    - Bọn nô tỳ tuy võ nghệ không bằng công tử nhưng thủ đoạn có thừa để đối phó với tà ma. Nô tỳ giỏi nghề thuốc, thiện dụng độc, còn nhị muội thì đa mưu túc trí, tinh thông thuật kỳ môn trận thế. Bấy nhiêu tài mọn sẽ giúp ích được công tử.
    Phi giồng chúm chím cười và nói thêm vào:
    - Nô tỳ còn có tài nấu ăn thượng hạng, biết hàng ngàn món ăn lạ trong thiên hạ.
    Tuy dung mạo xấu xí nhưng giọng nói của hai ả họ Lăng rất thanh tao, trong trẻo và ngọt lịm, gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến từ mẫu. Chàng bồi hồi xúc động, nhìn họ trìu mến và nói:
    - Nhị vị đã có lòng như thế, Sảng tôi xin cung kính tuân mệnh. Từ nay sinh tử có nhau.
    Sáng hôm sau, trong đại sảnh của Tổng đàn võ lâm xuất hiện một bộ ba vô cùng cổ quái. Nam thì anh tuấn, oai phong, xứng danh là Thần Phủ Lang Quân, còn hai nữ tỳ thì xấu cỡ Chung Vô Diệm.
    Tuy chưa biết bản lãnh Thần Phủ Lang Quân Lý Thu cao cường đến đâu nhưng mấy chục hào kiệt đều phải e dè trước thân pháp nhanh như điện của hai ả lọ lem. Cứ như con nít lên năm, hai ả chạy lung tung, miệng cười toe toét. Có người cho rằng hai ả bị điên.
    Lúc đầu, mọi người cảm thấy bực bội nhưng khi Lý Thu ra lệnh cho bọn tỳ nữ ngồi im thi quần hào lại thấy tiêng tiếc, thực ra thân hình thon thả nõn nà của hai con bé kia quả là đáng để ngắm nhìn. Ngoài trời tuyết rơi song trong sảnh có lò sưởi nên hai nàng đã cởi áo cừu để lộ bộ võ phục lụa vàng được cắt khéo, tôn vinh những đường cong cơ thể.
    Nghe gọi, Phi Tuyết và Phi Hồng lướt đến ngồi hai bên chủ nhân, trố mắt nhìn viên quản sự của tổng đàn.
    Lý Thu là cao thủ mới xuất hiện nên Hồ quản sự đích thân đón tiếp. Hồ lão tài trí tuyệt luân, nổi danh thiên hạ với mỹ hiệu Trại Tôn Tử.
    Tuy danh nghĩa chỉ là quản sự nhưng Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ chính thực vị quân sư của võ lâm. Trải qua ba đời Minh chủ, Hồ lão vẫn chưa được nghỉ ngơi dù tuổi đã bảy mươi hai. Tư Đồ Xán đã khẩn khoản mời Trại Tôn Tử ở lại Tổng đàn giúp mình.
    Tóm lại, Hồ quản sự đã giải quyết toàn bộ những cuộc tranh chấp trên giang hồ, thông qua miệng của minh chủ. Ông mớm ý cho những bậc anh hùng tứ chi phát triển, đầu óc còn non.
    Hôm nay, Trại Tôn Tử vô cùng thích thú trước chàng trai họ Lý. Bằng vào tài trí siêu việt của mình ông đã phát hiện ra đóa kỳ hoa của võ lâm. Hồ lão tò mò gạn hỏi nhưng Lý Thu chỉ phúc đáp rất hạn chế.
    Lăng Phi Hồng đã bịa ra một thiên cố sự đơn giản và rất đáng tin cậy. Tư Đỗ Sảng đã trình bày với Hồ lão như sau:
    - Bẩm Hồ lão tiền bối! Vãn sinh học nghệ trên núi Đại Thê Sởn từ nhỏ, bốn tháng trước về thăm nhà thì mới biết song thân bị cường đạo thảm sát. Các bộ đầu ở Hán Trung cho biết rằng đấy có thể là hành vi của Quý Ảnh Hội vì thế, vãn sinh đến đây xin được chỉ giáo đôi điều để có thế tìm ra kẻ thù.
    Lúc nói, chàng tưởng nhớ đến tử trạng của cha mẹ nên lòng đau như xé, nước mắt ứa ra, tạo niềm tin cho Trại Tôn Tử. Thế là Hồ Sĩ Tuệ vô cùng cảm động, bảo chàng rằng:
    - Lão phu đã âm thầm huy động nhân lực điều tra suốt mười mấy năm nên dã tìm ra chút manh mối. Nhưng lão phu phải được sự đồng ý của Minh Chủ thì mới có thề tiết lộ cho Lý công tử biết. Vì vậy, cuối giờ Thìn sáng mai, công tử hãy quay lại đây để nghe phúc đáp.
    Tư Đồ Sảng hoan hỉ vái dài, rời Hương Sơn quay về tòa đạo am trong rừng đào. Lăng Phi Hồng là đầu bếp lão luyện, chỉ cần hai khắc đã nấu xong bữa trưa, gồm ba món. Tư Đồ Sảng thầm khen ả nấu vừa miệng mình ăn. Chàng chợt thắc mắc:
    - Hồng muội! Làm thế nào mà ngươi vừa học võ vừa học được nghề bếp núc?
    Tư Đồ Sảng giống mẹ nên giọng nói ấm áp ngọt ngào và rất truyền cảm. Dù chàng nói năng tự nhiên, không hề kiểu cách song từng câu như mật rót vào tai người nghe. Trái tim nữ nhân lại dễ bị rung động trước âm thanh hơn là thị giác nên họ luôn say đắm những chàng trai ăn nói có duyên. Nghĩa là tuy Tư Đồ Sảng không cố ý tán tỉnh mà hai ả họ Lăng vẫn tái tê khi nghe gọi đến tên mình.
    Phi Hồng nhũn cả người nhoẻn miệng cười tươi như hoa nở. Hàm răng trắng đều và đôi môi đỏ mọng đã làm rạng rỡ gương mặt quái dị của nàng:
    - Bẩm công tử ! Gia sư là Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, nổi tiếng giang hồ về hai nghề nấu bếp và binh pháp. Bởi vậy nô tỳ học được cả hai tuyệt học dù chỉ có một thầy.
    Mắt Tư Đồ Sảng lóe lên những tia nghi hoặc. Chàng quay sang hỏi Phi Tuyết:
    - Còn Tuyết muội học nghệ của ai ?
    Phi Tuyết sung sướng đáp ngay:
    - Bẩm công tử! Gia sư chính là Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa.
    Tư Đồ Sảng thoáng giật mình cau mày nói:
    - Phải chăng hai ngươi xuất thân từ Hạo Thiên Cung?
    Hai ả họ Lãng run bắn, kinh ngạc đến tròn mắt, không ngờ chàng trai ngốc nghếch, thiếu kinh nghiệm này lại đoán ra lai lịch bí mật của mình.
    Tư Đồ Sảng thấy vậy thì hiểu ngay rằng hôm qua đối phương đã nói dối khi kể là họ xuất thân từ một nhà đại phú đất Tứ Xuyên. Chàng là người cương trực và chất phác, không quen với việ ủy khúc, nên có cảm giác bị xúc phạm. Chàng cười nhạt bảo:
    - Đã không thực lòng với nhau thì bất tất phái đồng hành. Tại hạ xin cáo từ!
    Hai ả hồn phi phách tán chồm đến níu chặt tay chàng, mếu máo van xin. Phi Hồng khóc nói:
    - Chị em bọn nô tỳ quả đúng là tỳ nữ trong Hạo Thiên Cung, phạm lỗi đánh vỡ chén ngọc, sợ chết nên trốn ra ngoài. Nếu công tử không thương tình thu nạp thì hai kẻ xấu xí đáng thương này biết nương tựa vào ai? Hay là công tử giết quách bọn nô tài cho xong. Hai ả đồng thanh khóc rống lên thảm thiết khiến Tư Đồ Sảng mềm lòng, dịu giọng:
    - Thôi được! Ta bỏ qua việc ấy nhưng sau này hai nàng tuyệt đối không được lừa dối ta nữa.
    Chị em họ Lăng mừng rỡ gật đầu lia lịa, miệng cười mà nước mắt nhòe nhoẹt gương mặt cổ quái. Phi Tuyết nhìn Tư Đồ Sảng với ánh mắt khâm phục, ỏn ẻn hỏi:
    - Vì sao công tử lại phát hiện ra xuất xứ của bọn nô tài?
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
    - Nhị vị lệnh sư vốn là bằng hữu của gia sư tổ Du Long Chân Nhân. Hơn hai mươi năm trước, khi họ chuẩn bị đến Hạo Thiên Cung dự hội bàn đào thì có ghé từ biệt gia sư tổ. Chính vì thể ta mới biết hai ngươi là ai.
    Mắt chàng buồn vời vợi vì nhớ đến cha già, người đã kể cho chàng nghe cố sự ấy.
    Hạo Thiên Cung là một tổ chức thần bí, tồn tại đã gần trăm năm nhưng không ai biết đích xác địa điểm. Võ lâm chỉ nghe đốn đại rằng nó nằm đâu đó trong vùng núi rừng bạt ngàn hiểm trở của đất Tứ Xuyên.
    Cứ mỗi ba năm một lần, nhằm các năm Dần, Thân, Tỵ, Hợi, Hạo Thiên Cung cho sứ giả mang thiếp đi mời vài đại nhân vật trong võ lâm dự hội bàn đào. Có người ở lại Hạo Thiên Cung và có người trở về. Nhưng tất cả những kẻ quay lại cố hương đều câm lặng, dẫu chết cũng không mở miệng tiết lộ điều gì. Tuy nhiên bản lãnh của những người ấy đột ngột tăng tiến, dường như đã học được thêm vài ngón nghề ở Hạo Thiên Cung.
    Cái tên Hạo Thiên Cung xuất phát từ đạo giáo, ám chỉ nơi cư trú của Hạo Thiên Kim Khuyết Ngọc hoàng Đại Đế. Nhưng thực ra, cái mụ Tây Vương Mẫu trần gian này lại goá chồng, một mình cai quản Hạo Thiên Cung. Vấn đề trở nên khó hiểu là làm thế nào mà mụ ta lại đẻ ra được người kế nghiệp, tức vị cung chủ đương nhiệm?
    Bí mật này cũng như phần còn lại nằm trong đầu chị em họ Lăng song hai ả chưa sẵn sàng tiết lộ. Tư Đồ Sảng tuy tò mò nhưng chẳng tiện dò hỏi. Chàng là kẻ vô úy nên không hề nghĩ đến hậu quả khi giết hại tám gã cao thủ Hạo Thiên Cung và bảo bọc hai ả trọng phạm.
    O0o
    Giữa giờ Thìn hôm sau, Tư Đồ Sảng và hai ả tỳ nữ đã có mặt ở Hương Sơn. Cả ba vô cùng ngạc nhiên khi thấy quần hào tụ tập khá đông tại sân gạch rộng phía trước Tổng đàn võ lâm.
    Họ chia làm hai phe đứng đối diện nhau ra vẻ thù địch. Và giọng ai gay gắt vang lên:
    - Nhai Sơn tuy là hải đảo song cũng thuộc lãnh thổ của triều đình. Lão phu là Minh chủ có sắc phong, cớ sao Hải Hoa Bang các ngươi lại dám không tuân phục?
    Bọn Tư Đồ Sảng đã lên đến tận nơi và chàng nhận ra ngay người vừa nói là chú của mình, Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán. Lòng chàng bỗng se lại vì dung mạo của lão ta quả rất giống cha chàng.
    Trong phe khách có người cười ha hả đáp:
    - Tất nhiên Nhai Sơn là đất của Đại Minh nhưng lão phu cho rằng võ công của túc hạ không xứng với chức Minh chủ. Bởi vậy, nếu hôm nay túc hạ mà thủ hòa với lão phu thì Hải Hoa Bang xin khấu đầu quy phục.
    Lão đạo sĩ áo xanh này có râu tóc trắng như bông, ngũ quan thanh tú, mắt sáng như sao, trông khá tiên phong đạo cốt. Vài nếp nhăn trên trán và khoe mắt khó giúp người ngoài đoán được lão bao nhiêu tuổi. Nhưng vị quân sư lão thành của võ lâm Trung Nguyên là Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ thì không lạ gì lai lịch đối phương. Hồ lão cười nhạt mỉa mai:
    - Tôn giá tuổi đã tám mươi tư, thuộc hàng bô lão của võ lâm sao lại ăn nói hồ đồ như vậy? Tư Đồ Minh chủ tuổi chưa tới thất tuần tất không thể so với Nam Hải Tiên Ông, hậu duệ của Đao Vương. Vả lại, tôn giá chỉ là Thái Thượng chứ dâu phải bang chủ Hải Hoa Bang?
    Quần hào Trung Nguyên nhiệt liệt tán thành luận cứ của Hố Sĩ Tuệ. Nhưng Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc đã nhếch mép cười gian xảo:
    - Hay lắm! Thế thì phiền Tư Đồ Minh chủ đấu với đồ đệ của lão phu vậy.
    Thì ra, dụng ý của lão ta là ép Tư Đồ Xán giao đấu cho được dù với ai cũng tốt. Trại Tôn Tử chẳng hề mắc mưu, thản nhiên đáp:
    - Giáp Vô Yên thành lập Hải Hoa Bang trước khi đại hội Minh chủ cử hành mà không tham dự nên giờ đây không có tư cách khiêu chiến với Tư Đồ Minh chủ.
    Đấy là quy chủ võ lâm nên ai nấy đều tán thành, không thể chê trách Tư Đồ Xán khiếp nhược.
    Nam Hải Tiên Ông vẫn không hề bối rối, ngạo nghễ nói:
    - Năm ấy, Vô Yên chưa luyện xong Thần Công nên không thể đứng ra tranh cchức Minh chủ, lòng rất nuối tiếc. Nếu vì thế mà không còn cơ hội so tài thì chỉ xin ấn chứng hai chiêu. Tư Đồ minh chủ chỉ cần hơi được một thức là xem như đại thắng!
    Khẩu khí ngông cuồng này đã khiến mọi người nổi giận và đưa Tư Đồ Xán vào thế bí, lão mà từ chối thì thanh danh bị tổn hại, không còn uy tín để lãnh đạo võ lâm.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tư Đồ Xán vẫn tự hào mình là đệ nhất cao thủ trong lớp tuổi dưới thất thập, chỉ e dè mấy lão bất tử như Nam Hải Tiên Ông mà thôi. Chính vì thế, Tư Đồ Xán cho rằng Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên không đủ bản lãnh thắng mình, ông cười nhạt, dõng dạc đáp:
    - Được! Nể lời Tiên Ông, tại hạ đồng ý tiếp hai chiêu.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đánh hơi được độc kế, định ngăn cản Tư Đỗ Xán song không còn kịp nữa. Minh chủ đã nói thì không thể tùy tiện sửa lời. Hồ lão thở dài, ghé tai thượng cấp dặn dò:
    - Minh chủ phải hết sức thận trọng khi đối phó với chiêu đao đầu tiên. Lão phu tin rằng thắng bại là ở đấy, đối phương được quyền xuất thủ trước tất sẽ tận dụng ưu thế.
    Tư Đồ Xán nghe giọng nghiêm trọng lòng cũng hơi lo nhưng ngoài mặt, vẫn thản nhiên, trấn an vị quân sư già:
    - Hồ lão yên tâm! Với chiêu “Loạn Điểm Đào Khê”, công thủ vẹn toàn, thì ta không thể thua được!
    Trại Tôn Tử yên lòng vì biết Tư Đổ Xán từng dùng chiêu này đả bại cao thủ Thiếu Lâm tự là Tung Sơn đại hiệp Bàng Nam Sách. Trong số quần hùng quan chiến có hai nhân vật quan trọng, đó là một nhà sư già râu ba chòm bạc phếch và một lão ăn mày đen nhẻm. Thiếu Lâm tự và Cái Bang đều thuộc địa phận phủ Lạc Dương nên hai vị chưởng môn đã được Tư Đồ Xán mời đến hỗ trợ. Phương trượng chùa Thiếu Lâm là Giám Tuệ thiền sư, còn chúa ăn mày là Hắc Bì Cái Từ Long Chính.
    Nãy giờ, hai vị long đầu lặng lẽ quan sát diễn biến và thì thầm bàn bạc. Họ cũng đã phát hiện mối hiểm nguy đang đe doạ Tư Đồ Xán, thì thầm lo cho lão ta và cục diện võ lâm.
    Nam Hải Tiên Ông tuổi đã tám tư. nhiều năm không vào Trung Thổ, nay đột nhiên đưa Hải Hoa Bang đến đây chắc cũng vì miếng mồi quyền lực.
    Nghĩa là, sau trận này Tư Đồ Xán phải chết hoặc đại bại, từ bỏ ngôi Minh chủ. Và khi võ lâm tổ chức đại hội thì Giáp Vô Yên sẽ đăng quang. Nhưng đấy chỉ là những suy luận không chắc chắn nên Giám Tuệ thiền sư bối rối bảo Hắc Bì Cái:
    - A di đà phật ! Lão nạp quả không thể hiểu nổi vì sao Nam Hải Tiên Ông lại muốn bang chủ Hải Hoa Bang trở thành Minh chủ võ lâm. Thực ra thì uy quyền của Minh chủ không lớn lắm, lợi lộc cũng chẳng nhiều, đâu bằng việc làm bá chủ biển Nam và các phủ vùng duyên hải?
    Hắc Bì Cái nghe chí lý nên lúng ta lúng túng, lắc đầu đáp:
    - Ừ nhỉ! Làm Minh chủ thì được quái gì?
    Lúc này, Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán và Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên đã đứng tối diện nhau, cách xa hai trượng, chuẩn bị trao đổi chiêu đầu.
    Họ Giáp là khách và nhỏ tuổi hơn nên đương nhiên có quyền xuất thủ trước, còn Tư Đồ Xán sẽ có lợi ở chiêu sau. Tuy nhiên, chắc gì Tư Đồ Xán còn sống hoặc còn đủ sức lực để đánh chiêu thứ hai.
    Sánh nay trời rất đẹp nhưng giờ đây tuyết bất ngờ rơi lất phất đọng trên tóc và vai của hai đấu sĩ. Họ đã cởi bỏ áo choàng lông để không bị vướng víu khi giao tranh. Thân hình nhỏ nhắn thâm thấp của chú ruột làm cho Tư Đồ Sảng nhớ cha vô hạn.Nhưng lão ta là kẻ từng truy sát cha chàng đế giành gia sản nên tình ruột thịt không còn nữa.
    Tư Đồ Sảng được Lăng Phi Hồng thỏ thẻ phân.....tích cục diện trước mặt nên cũng hiểu được dã tâm của Hải Hoa Bang. Chàng thầm nghĩ:
    - Bọn này đáng ghét thật! Nếu nhị thúc thất thủ ta sẽ xin được đánh một trận.
    Giáng Ma Phủ pháp là khắc tinh của pho Cửu Huyền đao pháp nên Tư Đồ Sảng chẳng hề úy kỵ. Ngay cả Nam Hải Tiên Ông cũng không biết việc sư tổ của lão là Đao Vương Bạch Hán Từ đã bị Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng hạ sát. Lão cứ đinh ninh rằng Đao Vương đã tìm nơi núi sâu mà tu tiên. Ngày ấy, Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm đã bất ngờ xuất hiện, rủ Đao Vương tái chiến trong cánh rừng vắng trên đảo Nhai Sơn, không người chứng kiến. Họ đã hứa với nhau rằng dẫu ai thắng cũng không được tiết lộ ra ngoài. Rốt cuộc xác của Đao Vương được vùi sâu nơi chiến địa hoang vu, không mộ chí.
    Chính vì thế mà Nam Hải Tiên Ông cũng như Giáp Vô Yên hoàn toàn tin rằng Cửu Huyền đao pháp là vô địch. Giờ đây, bang chủ Hải Hoa Bang đắc ý dồn hết công lực vào chiêu Mông Lung Ám Bích, quyết lấy máu Tư Đồ Xán.
    Cũng giống như Nam Hải Tiên Ông, Giáp Vô Yên có dung mạo khá anh tuấn, mặt trắng mày dài, mũi huyền đảm, môi mỏng, cằm vuông. Đôi mắt họ Giáp hơi nhỏ, lấp loáng hàn quang dưới cáp mày chữ nhất xanh đen. Tuy tuổi đã sáu mươi mà mái tóc và bộ râu ba chòm của Giáp Vô Yên vẫn chưa hề điểm bạc.
    Đao khá nặng nên các đao thủ phải là người cao to thì mới phát huy được thế mạnh. Giáp Vô Yên cao gần bằng Tư Đồ Sảng, nghĩa là hơn Tư Đồ Xán cả một cái đầu. Tuy nhiên, dù nhỏ con nhưng thần thái của vị Minh chủ võ lâm cũng rất oai phong, trường kiếm dựng xéo trước mặt, tỏa đầy sát khí.
    Giáp Vô Yên đã động thủ, hóa thành đạo hào quang xanh biếc, lao vút về phía đối phương. Chỉ chậm hơn một cái chớp mắt, Tư Đồ Xán cũng đã vung kiếm dệt nên màn lưới thép lấm tấm sắc hồng. Lão ta nương theo kiếm quang mà bay đi và gặp đối thủ ở giữa đường.
    Tư Đồ Xán vốn ỷ vào công lực thâm hậu vì lớn hơn họ Giáp năm tuổi, nhưng khi hai thanh thép chạm nhau lão mới biết mình lầm to, không hiểu Giáp Vô Yên ăn được kỳ trân gì mà tu vi lại cao hơn tuổi tác và hơn cả Tư Đồ Xán? Luồng chân nguyên hùng hậu ấy đã biến thanh bảo đao thành cơn bão cuồng mãnh, nuốt chửng lấy trường kiếm của đối phương.
    Tư Đồ Xán kiên cường đánh trọn chiêu thức, mũi kiếm công phá tựa mưa rào vào lưới đao, cố tìm sơ hở mà hạ địch. Khổ thay, đao của họ Giáp tuy chậm hơn kiếm song lại cương mãnh phi thường, mỗi lần va chạm đều đẩy bạt mũi kiếm đi khiến đường gươm lỗi nhịp. mất cả uy lực. Và rồi lưỡi đao ấy hung hãn áp đảo trường kiếm, liếm vào người Tư Đồ Xán.
    Vị Minh chủ nhỏ bé kia chỉ còn cách đào bộ lùi mau để bảo toàn tính mạng. Bộ pháp kỳ ảo ấy đã có hiệu quả nên Tư Đồ Xán thoát chết, chỉ bị một vết đao vắt ngang thân trước. Lão rú lên thảm khốc vì vài nhánh xương lồng ngực và xương sườn đứt rời.
    Hai vị chưởng môn nhân vội lướt đến đỡ lấy Tư Đồ Xán, đặt xuống đất và tiến hành việc trị thương, quần hào gồm cả tám cận vệ Tổng đàn trợn mắt nhìn Giáp Vô Yên và Nam Hải Tiên Ông với ánh mắt căm hờn song không dám vọng động.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ lạnh lùng bảo:
    - Này Ninh lão quỷ! Lão đừng tưởng rằng Giáp Vô Yên thắng nổi Tư Đồ lão đệ thì sẽ trở thành Minh chủ trong đại hội kỳ tới. Nhân tài Trung Nguyên nhiều như lá mùa thu, không để cho thầy trò lão sính cường đâu.
    Bị Hồ lão khinh thị, Nam Hải Tiên Ông bực bội cười dài và cuồng ngạo nói:
    - Trừ phi trưởng lão các phái xuất quan, không cao thủ nào ở Trung Thổ có thể thắng được Giáp Vô Yên.
    Lần này đi theo Giám Tuệ thiền sư còn có thủ tòa Đạt Ma Viện và La Hán Đường khổ thay, Võ nghệ của họ không bằng Tư Đồ Xán nên chẳng thể đwngs ra rửa nhục cho võ lâm Trung Nguyên. Mặt mũi quần hào xám ngoét lại vì nhục nhã, miệng đắng như ngậm Hoàng liên.
    Nhưng bất ngờ có hai bóng xanh từ ngoài bay vào trận địa, quần hùng ồ nên vì nhận ra hai con bé mặt lông dê, tỳ nữ của Thần Phủ Lang Quân. Chỉ chúng mới có cái lối đi lại tất bật, vội vã như thế, dường như chỉ biết chạy nhẩy chứ chẳng biết đi. Một ả nhoẻn miệng cười, thản nhiên bảo Nam Hải Tiên Ông:
    - Này Nam Hải lão nhi! Nếu có người tiếp nổi chiêu đao lúc nãy của Giáp Vô Yên thì lão tính sao?
    Nghe giọng hỗn xược, Tiên Ông giận tái mặt, song lão là kẻ thâm trầm nên không phát tác, thận trọng hỏi lại:
    - Thế kẻ ấy là ai, niên kỷ bao nhiêu?
    Ả lọ lem thứ hai chính là Lăng Phi Tuyết. Cô nàng cướp lời em mà đắc ý đáp:
    - Vị anh hùng ấy chính thị Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, tuổi mới tròn nhị thập!
    Khách quan chiến nhất tề ồ lên vì kinh ngạc hoặc nực cười. Lẽ nào có kẻ háo danh đến mức đâm đầu vào lửa đỏ?
    Nhưng có một người lại suy nghĩ khác, đó là Trại Tôn Tử, ông mừng rỡ thì thầm với hai vị chưởng môn:
    - Nhị vị hãy thử quan sát chàng thanh niên mặc võ phục trắng, áo lông cừu đen ở mé bên kia xem. Hắn ta chính là Thần Phủ Lang Quân đấy. Lão phu đã tận dụng phép Ma Y Thần Tướng nhận ra hắn là bậc anh hùng cái thế, sau này danh lưu muôn thuở.
    Hắc Bì Cái cười mát:
    - Nếu hắn có thành đạt thì cũng phải nhiều năm nữa. Nay hắn liều lĩnh đấu với Giáp Vô Yên thì chỉ chết oan thôi.
    Lúc này, Nam Hải Tiên Ông cũng đã biết mặt Lý Thụ, lão cười khanh khách bảo:
    - Nếu đúng là gã tiểu tử họ Lý ấy thì Hải Hoa Bang xin tặng ngàn lượng bạc để mai táng.
    Lăng Phi Hồng lắc đầu nguây nguẩy:
    Bọn ta không cần vàng bạc mà chỉ muốn lấy chiếc hồ lô ngọc đỏ mà lão đang đeo trên ngực. Tất nhiên là gồm cả những viên Luân Hối Thần Đan ở trong đấy.
    Nam Hải Tiên Ông biến sắc hỏi:
    - Tiểu a đầu kia! Vì sao ngươi lại biết được bần đạo sở hữu Luân Hồi Thần Đan?
    Quần hào xôn xao bàn tán, nhìn vào chiếc hồ lô nhỏ cỡ quả quít, bằng ngọc đỏ, trên ngực Tiên Ông. Tương truyền rằng Luân Hồi Thần Đan của Vạn Thực Y Vương có thế cứu được người sắp chết, nối xương liền thịt cực kỳ thầ n diệu Người võ 1âm mà được linh đan ấy để phòng thân thì xem như có thêm vài mạng sống.
    Lâng Phi Tuyết cười tươi. Khoe chiếc răng khểnh duyên dáng:
    - Bọn ta là tiên giáng trần nên chuyện gì cũng biết. lão chẳng cần thắc mắc. Nếu lão sợ thua thì cứ tạ lỗi với võ lâm Trung Nguyên rồi trở về Nhai Sơn mà giải tán Hải Hoa Bang.
    Nghe nàng tự xưng mình là tiên giáng trần, vài gã trẻ tuổi bật cười hô hố và chế giễu:
    - Mẹ kiếp! Tiên mà xấu đến thế thì ta thà chết xuống địa ngục còn hơn được lên trời.
    Nhưng cũng có người không để ý đến việc xấu đẹp, đồng thanh ủng hộ ý kiến của Phi Tuyết, quát lên:
    - Cút về Nhai Sơn!
    Nam Hải Tiên Ông bực tức nghĩ thầm:
    - Hai con bé này có lẽ tình cờ biết được bí mật của ta, lên tiếng hù dọa thế thôi, chứ cái gã tiểu tử kia làm sao hơn được Tư Đồ Xán.
    Và lão gằn giọng hậm hực:
    - Được! Lão phu đồng ý với điều kiện của bọn ngươi.
    Hai ả họ Lăng mừng rỡ lao vút về phía chủ nhân, vòng tay vui vẻ nói:
    - Thỉnh công tử xuất trận. Bọn nô tài đã thương lượng xong!
    Thân pháp nhanh như gió của hai ả đã khiến Tiên Ông chột dạ, tự hỏi bọn cổ quái này xuất thân từ cửa nào?
    Giám Tuệ thiến sư cũng cau đôi mày bạc hỏi Trại Tôn Tử:
    - Hồ thí chủ có biết lai lịch của bọn họ không?
    Hồ Sĩ Tuệ ngượng ngùng đáp:
    - Thú thực là lão phu cũng mù tịt. Hằng trăm năm nay chưa có cao thủ nào sử dụng búa mà nổi tiếng cả.
    Họ ngưng bàn luận vì Thần Phủ Lang Quân Lý Thu đã trao áo choàng lông cho tỳ nữ, đủng đỉnh tiến vào đấu trường. Mọi người chú mục vào cây búa hai lưỡi đen bóng, tinh xảo và đẹp mắt, trên tay Lý Thu. Họ tự hỏi lúc nãy nó nằm ở đâu mà họ không thấy.
    Rỗi họ quan sát đến dung mạo và phong thái của chàng dũng sĩ vô danh. Gương mặt anh tuấn của Lý Thu toát ra vẻ thuần hậu, điềm đạm dễ thân cận, ánh mắt chàng trong vắt không chút sợ hãi và cũng không sát khí.
    Giáp Vô Yên đã rút bảo đao đứng thủ thế, mặt lạnh như tiền. Song trong lòng dàn dụa sát cơ. Lão quyết không tha cho tiểu tử ngông cuồng kia.
    Lý Thu cầm búa bằng chỉ một tay, dựng đứng trước mặt tay kia bắt kiếm ấn. Tư thể này vốn là của người cầm kiếm.
    Trại Tôn Tử đã bước ra làm trọng tài ông nghiêm nghị nói:
    - Giáp bang chủ có quyến xuất thủ trước nhưng bắt buộc phải sử dụng chiêu đao lúc nãy . Dứt một chiêu là song phương đình thủ để phân thăng bại. Nếu Lý công tử còn đứng vững được thì xem là thắng trận.
    Không ai phản đối nên Hồ lão lui xa trận địa địa để cuộc chiến bắt đầu.
    Giáp Vô Yên không tấn công ngay mà đứng im nhìn đối thủ như mèo nhìn chuột. Lão tin rằng chỉ nửa khắc sau gã oắt con kia sẽ toát mô hôi, tay run rẩy vì cây búa nặng nề.
    Thủ đoạn này không qua được mắt bậc lão thành. Giám Tuệ thiên sư liền lên tiếng:
    - A di đà phật! Việc thi thố định lực chỉ thực hiện khi song phương cùng có quyền ra tay trước. Nay Giáp thí chủ làm như thế e không phải đạo.
    Thiền sư vừa dứt lời thì Giáp Vô Yên động thân ngay, thi triển chiêu “Mông Lung Ám Bích” (cây cỏ rậm xanh) đao quang xanh màu thép, đao ảnh trùng điệp tựa cành lá sum suê, bao phủ đấu trường.
    Tư Đồ Sảng tức Lý Thu cũng lao đi bốc chếch lên cao rồi phủ lưỡi búa xuống trái cầu đao ảnh. Chàng đã sử dụng chiêu “Lâm Thượng Liêm Chiêu” (Rèm lầu phe phẩy gọi mời) vì tin rằng nó khắc chế được chiêu đao của họ Giáp. Đây là chỗ sở cậy duy nhất bởi công lực chàng thua xa đối phương.
    Lăng Phi Hồng đã nhận xét rằng Giáp Vô Yên phải sở hữu đến năm mươi năm chân khí, trong khi Tư Đồ Sảng dù có thần lực thiên sinh cũng không đủ bốn mươi năm tu vi.
    Quả đúng như thế, khi hai màn lưới thép chạm nhau. Tư Đồ Sảng biết ngay mình kém sức. Thanh Giáng Ma Phủ chấn động mạnh khiến hổ khẩu chàng đau rát. Hai thanh thép nặng tạo nên những âm thanh chát chúa vang rền nhưng không kéo dài vì chiêu thức đánh ra với tốc độ kinh hồn. Và Thần Phủ đã phát huy diệu dụng, do sức nặng dồn cả về phía đầu búa, nên lực đạo mãnh liệt tựa chẻ núi, không bị Cửu Huyền Đao đánh bạt đi. Điều này đã khiến Giáp Vô Yên phải kinh hãi vì mất đi ưu thế.
    Cửu Huyền Đao Pháp chủ ở lực đao cương mãnh và tốc độ, khai thác những sơ hở của đối phương lộ ra khi vũ khí chạm nhau.
    Song đâu chỉ có thế, đường đao Cửu Huyễn còn biến hóa tuyệt luân, hiểm ác phi thường, khống chế một lúc nhiều tử huyệt. Nhưng lạ thay, Giáng Ma Thần Phủ lại gồm nhiều thức đâm như chớp giật, trái hẳn lẽ thường tình. Giáp Vô Yên có cảm giác rằng đối phương đang cầm kiếm chứ không phải cầm búa...
    Đáng sợ ở chỗ là mũi thép nhọn hoắt của đầu búa luôn nhắm vào những sơ hở nhỏ bé của lưỡi đao. Diễn tả thì lâu xong sự việc xảy ra rất nhanh, song phương đổi đòn rồi văng ngược trở lại và máu bỗng tung tóe không gian. Có kẻ đã rú lên đau đớn nhưng không rõ là ai.
    Cuối cùng thì quần hùng cũng nhận ra kẻ chiến bại là Giáp Vô Yên. Lão lảo đảo rồi ngã quỵ vì bụng và hai đùi thọ thương rất nặng. Thân trước cuat Thần Phủ Lang Quân cũng đẫm máu, võ phục rách toang vì hai nhát đao vắt chéo từ vại đến hông. Tuy nhiên Lý thu vẫn hiên ngang đứng vững, mắt sáng ngời niềm vui chiến thắng.
    Toán cận vệ Tổng đàn nhẩy cẫng lên reo hò nhiệt liệt, cả hai vị chưởng môn cũng không giấu được vẻ vui mừng. Thần Phủ Lang Quấn đã oanh liệt rửa hận cho võ làm Trung Thổ.
    Trại Tôn Tử tinh mắt nhận ra Lý Thu thọ thương không nhẹ, ông vội lên tiếng:
    - Giáp Vô Yên đã thua! Phiền Tiên Ông trao hồ lô thuốc cho người thắng trận.
    Nam Hải Tiên Ông chết điếng cả người, không ngờ sự thể lại tệ hại đến thế. Lão lắng lặng tháo dây đeo ngọc Hồ Lô, ném cho Hồ Sĩ Tuệ, rồi bước đến xem xét thương thế học trò. Lão cay đắng hiểu rằng Giáp Vô Yên rất cần một viên Luân Hồi Thần Đan nhưng không thể muối mặt mở miệng xin lại được.
    Bên kia, hai ả họ Lăng tíu tít trị thương cho chủ nhân. Phi Tuyết cởi ngay áo Lý Thu, điểm huyệt chỉ huyết, lau sạch máu rồi băng bó bằng vải sạch và thuốc kim sang. Phi Hồng thì nhận ngọc Hồ Lô từ tay Hồ lão, mở nút trút ra ba viên dược hoàn đỏ rực, nhỏ cỡ lạt lạc, nàng ta định cho Lý Thu uống thì Phi Tuyệt cản lại:
    - Không cần lãng phí thần đan, thương tích của công tử ngu tỷ có thể lo liệu được.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 3

    Lộ Bán Phùng Mai Phục,
    Tuyết Hạ Thu Lưỡng Thê
    Chẳng bao lâu sau, uy danh của Thần Phủ Lang quân đã vang dậy Hoa Bắc. Chàng ta được tôn xưng là võ lâm đệ nhất cao thủ vì đả thương được Bang Chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên, kẻ đã đánh bại Minh chủ võ lâm.
    Giới giang hồ còn kháo nhau việc Phúc Châu Thần Kiếm Tư Đồ Xán đã từ nhiệm và đại hội bầu tân Minh chủ sẽ được tổ chức vào tiết Trùng Cửu sang năm. Ai cũng cho rằng Thần Phủ Lang Quân là kẻ đăng quang vì những cao thủ quá bẳy mươi không được thượng đài.
    Nhưng Thần Phủ Lang Quân thì hiểu rằng mình không phải là địch thủ của Giáp Vô Yên. Lần này Tư Đồ Sảng chiếm ưu thế là nhờ biết trước chiêu thức của đối phương. Lần sau gặp lại chàng không còn ưu thế ấy thì sẽ thảm bại vì công lực của họ giáp quá thâm hậu. Hôm ở Lương Sơn hổ khẩu chàng đã rách toạc. chỉ va chạm thêm vài lần nữa là rơi búa.
    Tư Đồ Sảng không buồn, không mặc cảm vì biết đấy là quy luật tất yếu trong nghề võ. Kẻ dày công tu luyện bao giờ cũng mạnh hơn. Chàng đạt thành tựu thế này cũng là nhờ vào khí chất bẩm sinh, thừa hưởng của mẫu thân, nếu không cũng chỉ thuộc hàng nhị lưu.
    Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Huệ đã tiết lộ rằng sào huyệt Quỷ Ảnh Hội có thể ở vùng Hồ Nam, vì vây chàng cùng hai tỳ nữ lên đường xuôi Nam.
    Tư Đồ Sảng rất muốn trở về quê để tế mộ song thân nhưng không dám. Chưởng quỹ Lý Tứ đã cấm chàng để lộ việc mình là người họ Tư Đồ. Có thể phe hung thủ đang ráo riết truy tìm đứa con trai củc Du Long Thần Quyền Tư Đố Quát. May là chúng không biết mặt chàng và cũng không biết việc họ Võ sở hữu nghề đánh búa. Hôm bị hại, Võ Xuân Hoa mẹ chàng đã sử dụng trường kiếm vì Giáng Ma Phủ đã được chàng mang theo.
    Đông này trời rét đậm, tuyết phủ đầy Hoa Bắc, nhưng càng về Nam tuyết lại nhẹ hơn. Đường thiên lý lạnh lùng gian khổ đã làm cho ba lữ khách gần gũi thân thiết nhau. Cô đơn từ nhỏ, không anh em, Tư Đồ sảng rất vui khi được kề cận hai cô gái tinh ranh, vui vẻ. Tuy danh phận chủ tớ nhưng chàng thương yêu họ như em gái vậy.
    Thực ra, hai cô ả ma lem chẳng hề lão luyện giang hồ như đã tự xưng, nhưng kiến văn của họ rất uyên bác, cơ trí tinh minh, khôn ngoan như chồn nên rất lợi hại.
    Đấy là vì trong Hạo Thiên Cung có hàng trăm đại cao thủ từ bốn phương quy tụ lại là kho báu về kiến thức và kinh nghiệm để chị em họ Lăng học hỏi.
    Tư Đồ Sảng không bao giờ mở miệng điều tra bí mật của Hạo Thiên Cung vì tôn trọng hai nàng và cũng vì tâm hồn chàng đầy ắp nỗi thống khổ, nhớ thương cha mẹ, chẳng còn chỗ cho những việc khác.
    Tư Đố Quát, cha chàng, vì trốn tránh kẻ thù nên cùng vợ con ở rịt nơi bìa rừng vắng, không dám cư trú chốn đô hội. Do vậy, cả quãng đời thanh thiếu của Tư Đồ Sảng chỉ có song thân là bạn. Thỉnh thoảng chưởng quỹ Lý Tứ mới vào thăm họ. Nay đột nhiên mất đi tất cả bảo sao chàng trai chất phác kia không đau khổ.
    Chị em họ Lăng hiểu được tâm tình của Tư Đồ Sảng nên tìm đủ mọi cách để an ủi chàng. Những tràng cười trong như ngọc và giọng nói thanh tao, thánh thoát của họ quả thực đã giúp được Tư Đồ Sảng. Nếu không có họ, chàng sẽ vùi đầu trong men rượu, hoặc trở thành hung hãn như quỷ dữ.
    Một trưa nọ, ba người dừng chân nơi bìa rừng cạnh quan đạo, dùng bữa bằng lương khô. Dọc dường thiên lý, nhiều khi hàng trăm dặm không có quán ăn, cho nên, người lữ khách luôn phải thủ sẵn thực phẩm. Cơm nếp và thịt hun khói để được khá lâu, đã trở thành bạn đồng hành của người lữ thứ, kèm theo một túi da đựng nước hoặc rượu ngon.
    Ăn xong, thấy trảng cỏ phía trong lác đác vài cây mai dại nở hoa sớm, hai nàng mừng rỡ chạy lăng xăng để ngắm nghía. Họ bẻ một nhánh chạy về khoe với Tư Đồ Sảng. Nhìn hai ả tung tăng như trẻ nhỏ hiếu động chàng tò mò hỏi:
    - Vì sao hai người lại không đi bình thường mà luôn phải thi triển khinh công như thế?
    Phi Tuyết cười khì và đáp:
    - Đây chính là pho tuyệt học Truy Tinh thân pháp thất truyền đã lâu, phải khổ luyện liên tục ba năm mới thành thục. Bọn nô tỳ đã quen chân nên sau này không đi chậm được nữa.
    Tư Đồ Sảng bật cười:
    - Chẳng lẽ đến già mà các nàng cứ nhẩy nhót mãi như vậy hay sao?
    Phi Hồng đỡ lời chị, tủm tỉm đáp:
    - Giờ còn trẻ trung, lòng đầy nỗi hân hoan thì không phải giữ gìn, nhưng khi đã có chồng con rồi tất nhiên phải đi đứng cho dịu dàng, khoan thai.
    Tư Đỗ Sảng cười thầm, tự hỏi ai là người đủ can đảm để lấy họ? Và chàng chợt sững người nhớ đến việc tôn tự họ Tư Đồ, ý nguyện tâm huyết của cha chàng. Nếu chàng chết trong cuộc chiến với Quỷ Ảnh Hội thì liệu Tư Đỗ Quát có vui chăng khi tông mạch tuyệt đường? Nho gia rất chú trọng đến việc thừa tự nên Tư Đồ Sảng không khỏi băn khoăn.
    Phi Tuyết bỗng nói:
    - Hay là công tử hãy học pho Truy Tinh thân pháp này để tăng cường bản lãnh? Chàng có sẵn nguồn chân nguyên thâm hậu và thần lực bẩm sinh tất sẽ không phải khổ sở như bọn nô tỳ.
    Quả thực như vậy, Tư Đồ Sảng vốn là người chăm chỉ kiên trì và hiếu võ, nhiều năm luyện tập khinh công trên núi Cửu Tuấn, ngày ngày cõng đá lên xuống vài trăm trượng. Giờ đây hai chân chàng đầy những bắp thịt rắn như thép, có thể chạy đua với tuấn mã hàng trăm dặm mà không thua sút. Vậy thì, nếu chàng luyện pho Truy Tinh thân pháp tất sẽ chẳng mất bao công sức. Pho khinh công này hơn hẳn Du Long thân pháp của cha chàng về độ biến ảo trong bộ pháp cũng như tốc độ khi hoán vị.
    Phi Hồng nũng nịu van nài:
    - Công tử hãy vì mối huyết thù mà bỏ quá tiểu tiết, tiếp thu chút nghề mọn của bọn nô tỳ.
    Ánh mắt thiết tha của hai ả đã khiến Tư Đồ sảng rất xúc động. Chàng gượng cười:
    - Cung kính bất như tuân mệnh! Ta xin cảm tạ hảo ý của hai nàng. Nhưng liệu ta có phải suốt ngày chạy nhẩy tất bật hay không?
    Hai ả che miệng cười rũ rượi. Phi Tuyết lắc đầu:
    - Làm gì có việc ấy? Chẳng qua bọn nô tỳ tính tình hiếu động, nghịch ngợm nên mới chạy lăng xăng thế thôi.
    Thế là bắt đầu từ hôm ấy, Tư Đồ Sảng rèn luyện pho Truy Tinh thân pháp. Chàng chỉ chú trọng đến phần di hình hoán vị nên học rất nhanh. Mỗi lần dừng cương nơi hoang vắng là Tư Đồ Sảng thực hành hàng canh giờ không nghỉ ngơi. Kết quả rất khả quan vì chàng có sẵn sức lực cũng như căn cơ võ học sáng láng.
    O0o
    Giữa tháng chạp, bọn Tư Đồ Sảng vượt ải Vũ Thắng Quan và còn cách thành Tín Dương chục dặm. Tuy đã vào địa phận vùng Hoa Trung, phía Nam sông Hoài, nhưng trời đột nhiên rét đậm, tuyết rơi nặng hạt. Đường quan đạo cực kỳ vắng vẻ vì cái lạnh cắt da khiến ít người dám bôn ba. Ngay cả sắc hồng của cánh rừng đào cạnh đường cũng nhạt đi bởi mầu trắng của những bông tuyết.
    Mặt đường cùng đóng một lớp tuyết loang lổ dầy cỡ lóng tay nên trơn trượt làm chậm vó câu. Bất ngờ, từ bìa rừng hai bên ùa ra hàng trăm gã đao thủ áo mũ lông trắng toát. Chúng chẳng nói chăng rằng lướt đến tấn cồng ba kỵ sĩ đơn độc. Trước tiên, bọn Bạch y đánh phủ đầu bằng một trận mưa phi đao. Lăng Phi Hồng cơ trí tuyệt luân lập tức quát to:
    - Nhẩy lên cao!
    Ba người nhất tề ấn vâo yên ngựa, bốc cao hơn trượng thoát khỏi lưới ám khí. Tư Đồ Sảng đã kịp rút Giáng Ma Thần Phủ, kéo dài cán búa và bấm nút cho mũi kiếm thép đầu búa ló ra.
    Chàng phẫn nộ trước hành vi ám muội, đê tiện của bọn phục binh nên quát vang như sấm rồi sa xuống hàng ngũ đối phương mà chém giết. Chàng lại đinh ninh rằng bọn này có thể là lực lượng của kẻ đại thù theo truy sát mình nên lửa hận bấc cao ngùn ngụt, phủ mở lòng nhân hậu.
    Sau khi giết mấy gã thanh y để cứu chị em họ Lăng, Tự Đồ Sảng đã mất ngủ nhiều đêm vì bất nhẫn. Cảm giác của kẻ nhúng tày vào máu đồng loại quả chẳng dễ chịu chút nào. Nhưng giờ đây, khi lâm trận, tử trạng thảm khốc của song thân lại hiện ra khiên máu chàng sôi lên. Thanh Giáng Ma Thần Phủ là khắc tinh của đao vì nó nặng hơn và nhanh hơn đao. Kiếm luôn nhanh hơn đao nhưng lại nhẹ và mỏng manh nên hai bên ở thế tương trì thắng bại phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa. Song Giáng Ma Phủ lại không có những khuyết điểm của trường kiếm.
    Với thần lực kinh hồn, Tư Đố Sảng vũ lộng cây Thần Phủ nặng hại chục cân, ra những đòn sấm sét đánh bạt những thanh đao và làm hổ khẩu kẻ thù rách toạc. Nếu lưỡi búa không thừa thế chẻ vụn xtrơng cốt thì mũi đoản kiếm ở đầu bùa cũng trổ một lỗ sâu hoắm trên ngực nạn nhân.
    Pho Giáng Ma Phủ Pháp lại ảo diệu phi thường, công thủ vẹn toàn, biến hoá tuyệt luân, vì xuất xứ từ pho Giáng Ma kiếm pháp, tuyệt học đã khiến Võ Hồng được tôn là Trung Nguyên Đệ nhất kiếm khách.
    Thế cho nên màn phủ ảnh giăng mắc quanh thân, Tư Đồ Sảng đánh bật mọi ngoại lực, tiêu diệt tất cả những gì nó chạm đến.
    Tiếng thép vang rền, tiếng thét lìa đời cất lên không ngớt và xác bọn bạch y phơi đầy trên lớp bùn nhầy nhụa. Máu nhuộm hồng những chiếc áo cừu trắng muốt và cả những nắm tuyết trinh nguyên, chưa bị chân người dẫm đạp.
    Trong nửa khắc đã có hơn hai chục gx bạch y táng mạng, thành quả này có sự góp sức của hai ả lọ lem. Họ luôn bám sát để bảo vệ phía sau Tư Đồ Sảng. Với thân pháp Truy Tinh nhanh như điện, hai ả thay phiên xuất kích vì lúc nào cũng phải có một người che chắn hậu tâm chủ nhân. Thu hoạch của họ không nhiều nhưng nhờ thế mà Tư Đồ Sảng yên tâm phá vây. Chàng lo lắng cho hai ả nữ tỳ nên không ham chiến, chỉ mong an toàn thoát khỏi trận địa mai phục này.Tư Đồ Sảng thần dũng như Hạng Võ đánh thốc về hướng Nam mà mở đường máu, thây người liên tục ngã xuống. Bọn bạch y thấy đồng đảng chết rất chóng vánh liền sinh lòng sợ hãi, mất cả nhuệ khí. Nhưng tên đầu lĩnh, một lão người râu đen dài đến ngực, đã quát tháo:
    - Không được để bọn chúng đào tẩu! Thập Nhị Kim Cương sắp đến rồi?
    Té ra bọn chúng còn một toán viện binh nữa và cái tên Thập Nhị Kim Cương nghe cũng đáng sợ.
    Bọn bạch y vững dạ lao vào, cả lão râu đen cũng thế. Với độ tuổi lục tuần, công lực của lão ta trên dưới bốn mươi nằm tu vi, đao kình rất mãnh hệt. Và dĩ nhiên đao pháp của lão lợi hại hơn hẳn đám thủ hạ nên bước tiến của Tư Đồ Sảng bị chặn đứng.
    Chàng phẫn nộ và lo sợ vì biết hai ả họ Lăng đang phải cật lực chống đỡ, chủ yếu là đánh bạt những mũi phi đao đang nhắm vào thân sau của chàng. Tư Đồ Sảng cố bình tâm đối phó với cường địch, song nhất thời không sao đẩy lùi được lão râu đen.
    Chợt cô tiếng Lăng phi Hồng rú khẽ vì đau đớn, có lẽ nàng đã trúng một mũi phi đao. Tư Đồ Sảng nghe lòng nhói lên, biết không thể kéo dài được nữa. Chàng giận dữ xuất chiêu “Lực Phách Nga Mi”, thức đầu tiên là nhát chém xéo vào màn đao ảnh của đối phương. Nhát búa này nhanh như điện và nặng như núi đổ nên lập tức đánh bạt thanh đao quý của đối phương, đẩy lùi lão ta vài bước. Rồi chàng thi triển Truy Tinh thân pháp ập đến điểm, chém liền ba mươi sáu thức.
    Đặc điểm của chiêu này là chỉ có công mà không có thủ. Thế thức ít nhưng đòn nào cũng thực và trí mạng. Tất nhiên vì vậy mà chiêu “Lực phách Nga Mi” nhiều sơ hở để đối phương khai thác, song vấn đề ở chỗ vũ khí của ai phạm mục tiêu trước. Và đấy cũng là điểm ảo diệu của chiêu này vì Giáng Ma Phủ dài hơn cả đao lẫn kiếm.
    Lão râu đen phát hiện ngực bụng đối phương lộ ra đến ba chỗ sơ hở, liền thọc đao vào để giải phá. Lão tin rằng khi tử huyệt bị uy hiếp thì Thần Phủ Lang Quân sẽ phải thoái bộ, không dám đánh trọn chiêu.
    Lão chưa kịp mừng vì mũi đao của mình đánh trúng da thịt Lý Thu thì nghe ngực trái nhói đau khủng khiếp. Cái đau đột ngột ấy đã khiến lão phải rú lên thảm thiết, mắt trợn trừng vì ngạc nhiên.
    Tư Đồ Sảng bị thương nhẹ ở ba chỗ nhưng mũi đoản kiếm nơi đầu Giáng Ma Phủ đã kịp vươn đến trái tim kẻ địch.
    Chàng lập tức rút búa về, quay phắt lại chụp lấy thân hình đang lảo đảo của Lăng Phi Hồng. Chàng đưa lưng cõng nàng và quát bảo Phi Tuyết:
    - Đi thôi!
    Vài gã bạch y chờn vờn phía trước nhưng sớm dạt ra chứ không dám liều mạng. Chúng chỉ hung hăng tống tiễn hai người bằng những mũi phi đạo còn sót lại. Nhưng Lăng Phi Tuyết và Tư Đồ Sảng đánh bạt hết và lao vút đi.
    Bỗng có tiếng vó ngựa rầm rập đuổi theo. Đấy chính thị là mười hai gã to như hộ pháp, tay cầm đoản côn khí thế rất oai vũ. Tư Đồ Sảng nói mau:
    - Nàng hãy cõng Hồng muội chạy về Tín Dương, ta ở lại chặn bước bọn Kim Cương.
    Phi Tuyết lắc đầu, mắt lộ hung quang rồi móc ra một trái cầu mầu đỏ, lớn cỡ quá quít. Nàng vận công ném về phía đoàn người ngựa đang còn cách chừng năm trượng.
    Trái cầu ổ ngay trước mặt phe địch, tiếng không lớn nhưng khói bốc mù mịt. Bọn Kim Cương lỡ trớn lao thẳng vào luồng khói rú lên kinh hãi, ngã lăn khỏi mình ngựa.
    Tư Đỗ Sảng mừng rỡ bảo:
    - Nàng giỏi thực! Thế sao lúc nãy không sử dụng bửu bối ấy?
    Vừa chạy, Phi Tuyết vừa trả lời:
    - Đoạt Phách Yên Cầu là vật quý hiếm, lúc nguy cấp nô tỳ mới dám dùng đến.
    Tư Đồ Sảng nắm lấy tay nàng để trợ lực rồi chạy như vó câu. Trên đường trừơng thì Du Long thân pháp linh diệu hơn Truy Tinh vì phối hợp với tâm pháp nội công Ngọc Thanh chân khí. Nếu Tư Đồ Sảng rảnh rang một mình thì không vó ngựa nào đuổi kịp. Khi tuấn mã sùi bọt mép thì chàng vẫn ung dung chạy thêm được vài chục dặm.
    Là đạo sĩ nên Tư Đò Quát sở đắc câu: “Tiên Bảo Kỳ Thân”, chú tâm dạy con trai nghề khinh công để đào thoát khỏi hiểm nguy.
    Được vài dặm, biết không còn bị truy đuổi chàng dừng chân ghé vào tòa Trường Đình cạnh đường để xem xét thương thế Phi Hồng:
    Ngày xửa, dọc theo đường quan đạo chính, triều đình cho xây dựng nơi nghỉ chân cho lữ khách, năm dặm một cái gọi là Đoản Đình còn mười dặm là Trường đình. Công trình này rất đơn sơ, chỉ gồm mái ngói và cột gỗ chứ không có tường, vây quanh bởi hàng lan can gỗ thâm thấp thay cho ghế ngồi, nền bằng đất nện hoặc lót đá phiến.
    Chất độc ở đầu mũi phi đao đã làm vết thương nơi ngực phải Phi Hồng sưng vù, tím đen và nạn nhân mê man bất tỉnh: Nhưng Phi Tuyết là đệ tử của Y Độc Thần Quân Tạ Đắc Hòa nên mau chóng cứu mạng em gái bằng ba viên giải dược. Rồi nàng vạch áo Phi Hồng, dùng mũi kiếm rạch thêm vào vết thương nặn máu độc ra.
    Tư Đồ Sảng cau mày, nói:
    - Năm xưa ta từng bị độc xà cắn phải, được gia phụ dùng miệng hút hết chất độc. Người bảo rằng có như thế mới mau hồi tỉnh. Sao nàng không làm vậy?
    Phi Tuyết rùng mình ngượng ngùng đáp:
    - Nô tỳ cũng biết thế nhưng không dám làm, đành phải nặn từ từ vậy. Hay là phiền công tử giúp cho!
    Thương tích nằm ở phía trên vú một lóng tay cũng là cấm địa của nữ nhân, nhìn thì được chứ đặt miệng vào đấy là không xong. Thế mà chẳng hiểu sao Phi Tuyết lại dám yêu cầu Tư Đồ Sảng thực hiện?
    Như đã nói ở phần đầu, Tư Đồ Sảng được cha dạy cho phần tinh túy của Khổng Mạnh chứ không dạy những lễ nghi vụn vặt, ông luôn đề cao nhân nghĩa đức Trung Dung như nền tảng cho mọi hành vi nên Tư Đồ Sảng suy nghĩ khoáng đạt. Chàng yêu thương Phi Hồng như em gái, nhất là sau lần vào sinh ra tử này, lên chỉ thoáng băn khoăn một chút và gật đầu nhận lời.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đôi mắt đẹp của Phi Tuyết thoáng hiện những ánh vui mừng và tinh quái.
    Khi Tư Đồ Sảng ngồi xuống chuẩn bị hút máu độc thì nàng kéo hẳn vạt áo Phi Hồng xuống đê lộ cả bầu vú thanh tân, mơn mởn như quả tuyết lê.
    Tư Đồ Sảng choáng váng bối rối đến sững sờ vì hiểu rằng Phi Tuyết đang trêu chọc mình. Chàng có thể kéo vạt áo che kín quả đồi nhỏ kia trở lại như cũ song đã không làm. Chàng nhớ mẹ vô cùng và khát khao được chạm vào cái tạo vật kỳ diệu ấy.
    Tư Đồ Sảng đặt miệng vào vết thượng, hút mạnh dòng máu đen tanh tưởi cảm nhận được mùi thơm cũng như sự mềm mại tuyệt vời của da thịt Phi Hồng. Và bỗng nhiên nước mắt chàng tràn ra, rơi xuống từng giọt đau thương.
    Phi Tuyết ngớ người, chẳng hiểu vì sao trò đùa tai quái của mình lại khiến chàng trai thực thà này sa lệ.
    Đến lần thứ chín thì hết máu đen, vết thương cũng xẹp xuống. Tư Đồ Sảng thôi không hút nữa. phi Tuyết ngậm ngùi đưa khăn tay lau những giọt nước mắt trên mặt chàng và hỏi nhỏ:
    - Vì sao công tử khóc?
    Tư Đồ Sảng cười buồn:
    - Ta nhớ tiên mẫu!
    o0o
    Tĩnh dưỡng ở Tín Dương vài ngày ba người mới lên đường. Vết thương không sâu nên Phi Hồng đã bình phục hoàn toàn. Nàng đã nghe bào tỷ kể lại cuộc trị thương nên rất xấu hổ ngượng đến nỗi chẳng dám nhìn thẳng vào mắt Tư Đồ Sảng. Nàng ta trở nên e ấp, thẹn thùng như gái mới về nhà chồng, đi đường khoan thai chứ không nhảy nhót nữa.
    Phi Hồng đã thế thì Phi Tuyết tung tăng với ai, cũng đành học thói đoan trang, ả không có cái tâm tình như em gái nên cảm thấy rất cuồng cẳng, bực bội.
    Phần Tư Đỗ Sảng cũng đã qua cơn xúc cảm, thầm hổ thẹn khi nhớ lại cảnh ôn nhu ấy. Do vậy, chàng cũng nhìn Phi Hồng với ánh mắt khác xưa.
    Khổ thay, phi Tuyết lại tưởng rằng chàng bắt đầu phát sinh tình ý với Phi Hồng, yêu nàng ta hơn mình. Nỗi ghen tuông làm héo những nụ cười của cô ả răng khểnh.
    Gần giữa tháng chạp, ba người chỉ còn cách thành Vũ Xương vài dặm thi bị chặn lại, lúc dừng chân nơi bìa rừng. Đoàn ky sĩ ấy gồm tám người áo tía, toàn những kẻ già nua, râu tóc bạc phơ. Tư Đồ Sảng đang định rút búa thì nghe hai ả họ Lăng đồng thanh gọi vang:
    - Sư phụ!
    Thì ra họ là lực lượng củs Hạo Thiên Cung và có cả Y Độc Thần Quân lẫn Táo Gia Cát.
    Táo Gia Cát Bùi Thế Trực, đúng như danh hiệu, có nước da đen nhẻm, tương phản với râu và tóc. Ông giận dữ quát lên:
    - Hai con a đầu kia hãy mau quỳ xuống chịu tội! Hai ngươi trốn đi khiến bọn lão phu bị Cung chủ trách mắng thậm tệ, bắt phải xuất cung đi tìm suốt mấy tháng nay.
    Phi Hồng đã kịp nói nhỏ với Tư Đồ Sảng:
    - Công tử! Tám người này là Bát Đại Thiên Long của Hạo Thiên Cung, mong chàng cố nhẫn nại, đừng xúc phạm họ mà nguy đến tính mạng.
    Hai ả nhảy xuống đất, chạy đến trước mặt bọn trưởng bối nghiêng mình thi lễ. Phi Hồng níu chân Táo Gia Cát run rẩy van nài nho nhỏ:
    - Sư phụ ! Chị em đồ nhi chỉ muốn thưởng lãm các danh thắng trong thiên hạ nên mới rời cung, định sẽ về trước tháng tám sang năm. Xin sư phụ và chư vị Thiên Long bẩm với Cung chủ như thế.
    Khẩu khí này không hề giống những kẻ bị truy nã mà cứ như con cưng luôn được nuông chiều, biết mẹ cha sẽ không nỡ nặng tay vậy.
    Táo Gia Cát lạnh lùng lắc đầu:
    - Không được! Tám người chúng ta sẽ rơi đầu nếu không đưa được hai ngươi về.
    Và ông giận dữ chỉ Tư Đồ Sảng:
    - Phải chăng hai ngươi bị gã mặt trắng kia dụ dỗ nên quên cả đường về? Để lão phu giết gã đi là xong.
    Thật là tức cười khi lão cho rằng chàng xinh đẹp như thế lại dụ dỗ hai ả Chung Vô Diệm.
    Phi Hồng biến sắc, hớt hải nói:
    - Xin sư phụ chớ hiểu lầm! Lý công tử chính là người ơn của đồ nhi và đại tỷ. Chàng đã giết sáu gã Vô Thường sứ giả của Thập Điện Diêm Cung để cứu bọn đồ nhi.
    Tư Đồ Sảng cau mày, thức ngộ rằng hai ả này đã nói láo mình về lai lịch của bọn Thanh y. Nhưng do tình cảm song phương đã sâu đậm hơn trước rất nhiều nên chàng không nổi giận mà chi thắc mắc. Vả lại, chàng đang lo sợ họ bị bắt vế Hạo Thiên Cung để chịu phạt.
    Cả Bát Đại Thiên Long đều ngạc nhiên, nhìn Tư Đồ Sảng chăm chú. Họ không tin rằng chàng trai tuổi đôi mươi kia lại có bản lãnh cao siêu đến thế. Một người lên tiếng hoài nghi:
    - Tuyết nhi! Có thực là tiểu tử họ Lý kia võ nghệ khá dường ấy chăng?
    Nghe xưng hô thân mật, Tư Đồ Sảng đoán lão già đầu bóng ấy là Y Độc Thần Quân, sư phụ của Lăng Phi Tuyết. Quả đúng vậy khi Phi Tuyết nũng nịu đáp:
    - Bẩm sư phụ! Lý công tử đây là bậc anh hùng cái thế, dang lừng danh Hoa Bắc với biệt hiệu Thần Phủ Lang Quân. Chàng đã đả bại Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên, kẻ đã truất phế Minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán.
    Dường như Bát Đại Thiên Long có nghe giang hồ đồn đại nên đều giật mình và cười ranh mãnh.
    Y Độc Thần Quân cười khà khà:
    - Thì ra thế! Thảo nào hai con nha đầu này chẳng chịu về!
    Rồi ông chỉ mặt Tư Đồ Sảng và bảo:
    - Nể ngươi là người ơn của hai con bé này nên bọn lão phu tha cho. Hãy đi đi!
    Tư Đồ Sảng băn khoăn hỏi lại:
    - Bẩm tiền bối! Hai nàng này bị bắt về Hạo Thiên Cung thì sẽ phải chịu hình phạt gì?
    Thần Quân đảo mắt, xảo quyệt đáp bằng giọng nghiêm trang:
    - Tất nhiên là chúng sẽ bị phế võ công, giam trong ngục thất mười năm.
    Tư Đỗ Sảng chết điếng, nghe lòng quặn đau vì thướng xót. Chàng phẫn nộ nói:
    - Quý cung thực là tàn nhẫn! Chén ngọc dù quý giá đến đâu cũng không bằng tuổi xuân của con người! Sao chư vị lại có thể nhẫn tâm như thế được?
    Tám lão Thiên Long ngẩn người, không ngờ gã tiểu tử đẹp trai này lại chí tình với hai ả xấu như quỷ thế kia. Thần Quân cố nín cười, lạnh lùng đáp:
    - Đấy là việc riêng của bổn Cung, chẳng can gì đến người ngoài.
    Rồi lão vuốt chồm râu cằm, ỡm ờ nói tiếp:
    - Nhưng nếu người thực tình quan tâm đến họ thì lão phu cũng có cách giúp đỡ...
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ vòng tay:
    - Xin tiền bối chỉ giáo!
    Thần Quần tủm tỉm bảo:
    - Ngươi hãy lấy hai con a đầu này làm vợ. Cung chủ có được rể quý tất sẽ rộng lượng bỏ qua lỗi lầm của họ.
    Hai ả thẹn đến đỏ mặt tía tai, cúi gầm xuống nhưng vẫn liếc xem phản ứng của Tư Đồ Sảng thế nào.
    Chàng trai trung hậu suy nghĩ một lúc rồi đáp:
    - Vãn bối vinh hạnh được kết duyên với họ nhưng xin hẹn ba năm sau mới đến dâng sính lễ. Vãn bối mang nặng mối huyết thù, chưa thể thành hôn được.
    Cả tám lão trừng mắt kinh ngạc, khẽ ồ lên. Y Độc Thần Quân gật gù khen:
    - Giỏi lắm! Ngươi quả là bậc kỳ nam tử hiếm có. Nhưng bọn lão phu chỉ tạm nhận lời cầu hôn vì còn phải thỉnh ý Cung chủ. Ngươi hãy quỳ lạy chín lạy để ra mắt trưởng bối bên vợ, thay cho lời giao ước.
    Tư Đồ Sảng đã xuống ngựa từ trước vì thủ lễ, giờ bước đến và hành lễ, ngay trên mặt cỏ phủ tuyết.
    Nhận lễ xong, Táo Gia Cát cười dài bảo:
    - Hai con a đầu kia sao không đến nhận lang quân?
    Phi Hồng , Phi Tuyết ngượng chín người, bẽn lẽn chấp tay, nghiêng mình mà ấp úng gọi:
    - Tướng công!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái nhưng quay sang thưa với Bát Đại Thiên Long:
    - Bẩm chư vị tiền bối! Tiểu tế vốn tên thực là Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi, quê đất Hàm Dương, vì muốn che mắt kẻ thù nên phải đổi tên.
    Táo Gia Cát cau mày hỏi ngay:
    - Ngươi có quan hệ gì với Du Long Thần Quyền Tư Đồ Quát hay không?
    Chàng cung kính đáp:
    - Người ấy chính là tiên phụ! Năm xưa, tiên phụ từng kể cho tiểu tế biết vế mối giao tình giữa nhị vị tiền bối và gia sư tổ Du Long Chân Nhân.
    Táo Gia Cát kinh hãi hỏi:
    - Chẳng lẽ Tư Đồ Quát đã bị hại rồi sao? Hung thủ là kẻ nào?
    Tư Đồ Sảng rầu rĩ kể lại khúc nôi, cả mối nghi ngờ ma chàng dành cho Quỷ Ảnh Hội.
    Táo Gia Cát trầm ngâm một lúc rồi hỏi:
    - Ngươi có nhớ vị trí, hình dạng những vết thương trên người của cha mẹ ngươi không?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, nghẹn ngào:
    - Bẩm có! Gia phụ chết bởi đao, ngực bụng rách ba đường, xéo thành hình chữ Xuyên và cổ bị cắt đứt. Gia mẫu bị giết bằng kiếm, bẩy vết thương. Năm vết nằm dọc từ cổ họng đến rốn, hai vết kia đúng vào đôi huyệt Ốc, Ế trên ngực trái phải, tựa như chữ thập.
    Y Độc Thần Quân thảng thốt nói:
    - Lạ thực ! Sao hai phe này lại hợp tác vớ nhau nhỉ?
    Tư Đồ Sảng phấn khởi hỏi ngay:
    - Xin tiền bối chỉ giáo lai lịch hung thủ !
    Thần Quân nghiêm giọng giới thích:
    - Ba mươi năm trước, trong giới hắc đạo võ lâm xuất hiện hai đại cao thủ là Thập Tự Thần Kiếm Phan Tửu Mỹ và Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý. Nếu họ còn sống thì tuổi đã gần bảy mươi! Hai kẻ trung niên tài ba này đều ái mộ một tuyệt đại hồng nhan tà phái là Lê Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu. Do vậy, họ thù ghét nhau, tỉ thí mấy chục trận để giành người đẹp mà đều bất phân thắng bại. Trong trận cuối cùng, cả hai rơi xuống vực thẳm cạnh núi Vu Sơn mà vong mạng. Lê Sơn Ma Nữ cũng đồng thời biến mất. Tuy nhiên, sau này bổn cung đã điều tra ra được rằng Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý không chết mà trở thành thủ lĩnh của Thập Đại Diêm Cung. Còn Thập Tự Thần Kiếm chẳng rõ hạ lạc ra sao. Nhưng giờ đây, qua vụ án song thân ngươi, lão phu phát hiện sở học của cả hai người ấy.
    Tư Đồ Sảng nghiến răng kèn kẹt:
    - Vãn bối sẽ tìm đến Thập Điện Diêm Cung rồi tính sau!
    Táo Gia Cát cườm khổ:
    - Hiện giờ, chính bọn lão phu cũng không biết sào huyệt của Tần Cốc Lý ở nơi nào. Mười năm trước, lão phát hiện ra nội gián của bổn Cung liền sát hại và lập tức rút vào bí mật.
    Thần Quân thấy Tư Đồ Sảng lộ vẻ thất vọng liền an ủi:
    - Có thể Quỷ Ảnh Hội chính là vây cánh của Diêm Cung. Ngươi cứ tiến hành theo kế hoạch cũ, trong lúc ấy, bổn Cung sẽ dốc sức truy tầm, có tin tức mới sẽ thông báo cho ngươi biết.
    Tư Đỗ Sảng chỉ còn cách cảm tạ và tuân mệnh. Táo Gia Cát cùng Y Độc Thần Quân vì mối thâm giao với Du Long Chân Nhân mà sinh lòng yêu mến Tư Đồ Sảng, hết lời dặn chàng cẩn trọng.
    Cuối cùng Táo Gia Cát nói:
    - Đúng ra, lão phu để cho hai con bé này theo giúp đỡ ngươi. Nhưng vì Cung chủ đang lâm bệnh nên chúng phải sớm có mặt mà chăm sóc, hầu hạ. Sáng rằm tháng tám sang năm ngươi hãy đến chân núi Chung Nam, sẽ có người đưa ngươi vào cung ra mắt Cung chủ. Lúc ấy ngươi sẽ biết mình có trở thành rể Hạo Thiên Cung hay không!
    Chị em họ Lăng nghe biến sắc nói ngay:
    - Gia...Cung chủ bệnh tình thế nào?
    Táo Gia Cát nạt họ:
    - Cũng bởi hai ngươi mà Cung chủ ăn ngủ không yên, bệnh cũ tái phát. Phen này nếu không nhờ lấy được Tư Đố Sảng thì hai ngươi ăn đòn nát mông!
    Táo có nghĩa là nóng nẩy. Cho nên thật khó hiểu vì sao kẻ nóng tính lại là kẻ đa mưu túc kế được? Có lẽ lão ta chỉ giả vờ quát tháo mà thôi chứ lòng thâm trầm như biển cả. Nếu không thế thì Bùi lão chằng thể trở thành quân sư của Hạo Thiện Cung.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 4

    Đại Lượng Đắc Minh Sư,
    Trường Sa Đả Quỷ Ảnh
    Còn lại một mình, Tư Đồ Sảng lững thững thúc ngựa đi vào thành Vũ Xương. Cảm giác trống vắng, cô đơn choáng ngợp hồn chàng khi không còn nghe được tiếng nói tiếng cười của hai ả tỳ nữ. Và gương mặt tật nguyền. xấu xí của họ bỗng trở nên thân thiết lạ kỳ. Nghĩ đến hôn ước và cái hẹn rằm tháng tám sang năm chàng thoáng mỉm cười, tự nhủ rằng mình đã có vợ.
    Đã quen với dung mạo tàn phá của mẹ hiền nên chàng không hề cho rằng mình bị thiệt thòi, mặc dầu trên đường phiêu bạt, chàng đã nhìn thấy rất nhiều mỹ nữ.
    Đêm ấy, Tư Đồ Sảng nghỉ trọ trong Thái Bình khách điếm. Sáng hôm sau, chàng ra bến đò, vượt sông Trường Giang để đi Trường Sa. Tư Đồ Sảng đến nơi vào đúng ngày hai mươi ba tháng chạp, ngày mà các vị Táo Quân về thiên đình.
    Nhà nhà trong thành cúng kiếng mùi nhang thơm, mùi giấy tiền khét lẹt thoang thoảng khắp nơi khiến người lữ thứ nhớ nhà vô hạn. Nhất là khi ngoài trời tuyết bay lất phất, điểm trắng cả cây, nhà cửa và làm lạnh cóng cả người lẫn ngựa.
    Đi ngang Tương Giang Đệ Nhất tửu điếm, Tư Đồ Sảng lập tức bị hai gã tiểu nhị mặc áo bông chặn đường mời mọc. Quán rượu khá vắng vì bách tính bận rộn đưa tiễn Táo Quân rồi cùng vợ con đánh chén, chẳng đến đây làm gì. Do đó, toà tửu điếm khang trang, lộng lẫy này chỉ được vài bàn khách khứa. Có lẽ họ cũng là lữ khách như Tư Đồ Sảng...
    Chàng trai của chúng ta cũng đang đói bụng và thèm vài chén để dìm chết nỗi sầu lữ thứ trong lòng. Vì vậy, chàng xuống ngựa.
    Nhận ra tửu khách toàn là hào kiệt võ lâm, Tư Đồ Sảng không đến quá gần mà tìm một bàn xa xa trong góc. Dù vậy, với thính lực linh mẫn, chàng vẫn có thể nghe được hết những lời đàm thoại của họ.
    Cơm rượu mau chóng được mang đến, Tư Đồ Sảng vừa ăn uống vừa lắng nghe. Thì ra, bọn hào khách ấy đang bàn bạc một việc sống còn là có nên đến Khuất Gia Trang ở Tây thành, để hỗ trợ Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ hay không? Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết khi biết kẻ thù của Khuất Kỳ chính thị Quỷ Ảnh Hội. Tổ chức khủng bố này đã gửi thư đòi Khuất Trang chủ dâng nạp viên Ty Hoả Châu, bảo vật trị giá liên thành. Đại hiệp là người cương trực nên không chịu khuất phục, kêu gọi sự hỗ trợ của đồng đạo.
    Đàm Châu là tên của Trường Sa đời nhà Đường nên Khuất Kỳ lấy danh hiệu như thế. Còn lai lịch của lão thì cũng rất xa xưa và danh giá. Lão ta chính là hậu duệ của bậc danh sĩ Khuất Nguyên, người đã trầm mình xuống sông Mệnh Hà, một phụ lưu của sông Tương. Người Trung Hoa tiếc thương Khuất Nguyên nên cứ đúng ngày mùng năm tháng năm là cúng tế. Trong lịch thì gọi ngày ấy là Tiết Đoan Ngọ.
    Tư Đồ Sảng không ngờ mình lại may mắn đến thế, vừa đến nơi đã có được đầu mối để điều tra hạ lạc của kẻ thù. Chàng định bụng sẽ đi theo đám hào khách đến Khuất Gia Trang, thừa cơ bắt sống một gã sát thủ Quỷ Ảnh Hội mà khai thác tin tức. Chàng nóng ruột ăn thật nhanh, thế mà mười mấy gã giang hồ kia cứ bàn bạc, cân nhắc mãi, chưa quyết định đánh hay chuồn.
    Trong lúc ấy, tửu quán có thêm thực khách. Tiếng vó ngựa dừng trước cửa đã khiến Tư Đồ Sâng nhìn ra. Thấy khách là hai nữ nhân chàng vội quay đi.
    Hai vị nữ khách cũng tránh đám đông nên chọn bàn gần với Tư Đồ Sảng. Gọi là gần chứ cứng cách bốn năm chiếc bàn trống.
    Lát sau, tiếng ho rũ rượi của một nàng đã làm cho Tư Đồ Sảng giật mình, liếc sang. Người vừa ho là nữ lang cao gầy mặc áo cừu dầy sụ. Nàng bệnh hoạn nên vào đến trong quán rồi mà vẫn không lột mũ lông. Gương mặt nàng ta xanh xao, vàng vọt, dường như không còn chút thịt nào nên đôi mắt nhung huyền lồ lộ tựa mắt trâu. Môi nàng tái nhợt nhưng chiếc mũi dọc dừa vẫn còn giữ được nét kiêu xa.
    Ngồi cạnh cô gái ho lao sắp chết ấy là một ả tuổi độ mười bẩy, mười tám, tóc thắt bím, mặt mũi xinh xắn. Ả này đang ra sức đấm lưng người bệnh, miệng thì rầu rĩ nói:
    - Tiểu thư đừng uống rượu nữa! Mỗi lần tiểu thư ho, nô tỳ đau xé ruột gan.
    Nữ lang cười buồn:
    - Ta chẳng còn sống được bao lâu nữa, ngươi chiều ta một chút không được sao?
    Ả tỳ nữ ứa nước mắt mếu máo nói:
    - Vậy thì chủ tớ chúng ta sẽ cùng uống! Sau này tiểu thư cưỡi hạc, nô tỳ cũng xin theo hầu!
    Tư Đồ Sảng rùng mình bất nhẫn, hiểu rằng ả tỳ nữ sẽ tự sát chết theo chủ, ánh mắt kiên quyết của ả đã biểu hiện điều ấy.
    Nhưng nữ lang kia đã lắc đầu phản đối. Giọng nàng tuy yếu nhưng vẫn chứa đựng vẻ uy nghiêm kỳ lạ:
    - Tiểu Thu! Ta bỏ nhà phiêu bạt giang hồ sáu năm, chịu tiếng bất hiếu nhi. Nay ta sắp chết nên đưa ngươi về Giả Gia Trang, thay ta hầu hạ nhị vị lão nhân gia. Tâm nguyện ấy của ta lẽ nào ngươi không hiểu mà còn đòi chết theo...
    Tiểu Thu gật đầu tuân mệnh mà nước mắt tuôn như suối.
    Nghe đén đây Tư Đồ Sảng đoán rằng nữ lang bệnh hoạn kia mang họ Giả, nhà ở thành Trường Sa này. Hai bọc hành lý nhỏ chứng tỏ họ chưa về đến Giả Gia Trang. Nhưng vì sao vậy?
    Giả tiểu thư đã lên tiếng giúp Tư Đồ Sảng hiểu ra:
    - Thu nhi! Gia mẫu vốn mang tâm bệnh, nếu nhìn thấy hình dung ta thế này tất sẽ rất thương tâm. Và cái chết của ta không chừng sẽ khiến bà chết theo. Vì vậy, ngươi sẽ một mình mang thư đến Giả Gia Trang rồi ở lại đấy. Còn ta sẽ mướn một phòng trong khách điếm nằm chờ chết. Được chết ở nơi chôn nhau cắt rốn là ta vui rồi.
    Âm hưởng thê lương cũng như nội dung của câu nói đã làm cho Tư Đồ Sảng mủi lòng. Chàng chợt tưởng tượng ra cảnh đôi vợ chồng họ Giả tựa cửa mong con, trong khi nữ lang này chờ chết ở một nơi chỉ cách nhà mấy bước. Chàng tự hỏi rằng liệu Luân Hồi Thần Đan có giúp gì được cho người con gái đáng thương kia không?
    Nền y học của Trung Hoa ngày xưa bó tay trước bốn loại bệnh, gọi là tứ chứng nan y. Chúng gồm: Phong, Lao, Lở, Lại (Điên, ho lao, mù, cùi). Nếu vị Giả cô nương kia bị ho lao thì Thần đan không có tác dụng.
    Muốn biết rõ, Tư Đồ Sảng liền đứng lên bước đến trước bàn của Giả tiểu thư và nữ tỳ. Hai người này lộ vẻ kinh ngạc và nghi kỵ, dù gương mặt anh tuấn, rắn rỏi của chàng trai áo cừu đen kia đầy vẻ thuần hậu, nhân từ.
    Tư Đồ Sảng vòng tay thi lễ và nói:
    - Tại hạ là Lý Thu, mạo muội xin được hầu chuyện nhị vị.
    Ả tỳ nữ Tiểu Thu thấy đối phương cùng tên với mình nên ánh mắt hiền lại, bàn tay nắm chuôi thanh kiếm cũng lỏng duỗi ra. Giả tiểu thư thì ra hiệu mời khách ngồi.
    Tư Đồ Sảng an tọa, hạ giọng bảo:
    - Dám hỏi Giả tiểu thư ho nhiều vì chứng bệnh gì?
    Giả cô nương cau đôi mày liễu, hiểu rằng đối phương đã nghe lén câu chuyện của mình với tỳ nữ. Nàng thầm phục họ Lý vì gã phải có công lực rất thâm hậu mới nghe được từ khoảng cách xa như thế.
    Nhưng là một kẻ sắp chết nên Giả tiểu thư chẳng hơi đâu mà nổi giận. Nàng hoà nhã đáp:
    - Tiện thiếp là Giả Đan Quỳnh, đa tạ công tử đã quan hoài. Tiện thiếp không bị lao mà bị trúng chưởng của kẻ thù, phổi trái bị dập, dịch phổi tràn ra ngoài.
    Tư Đồ Sảng băn khoăn hỏi lại:
    - Tại hạ có vài viên Luân Hồi Thần Đan, không hiểu có giúp gì cho bệnh của cô nương hay không ?
    - Ánh mắt ảm đạm của Đan Quỳnh chợt lóe sáng nỗi hân hoan, còn tỳ nữ Tiểu Thu thì đưa tay bịt miệng để cố ngăn tiếng rú vui mừng.
    Đan Quỳnh bàng hoàng hỏi:
    - Phải chăng công tử là Thần Phủ Lang Quân?
    Tư Đồ Sảng gật đầu xác nhận và móc ra chiếc hồ lô bằng ngọc đỏ. Giả đan Quỳnh từ phương Bắc xuống nên đã nghe kể rất chi tiết về cuộc chiến ở Lương Sơn. Nàng nhận ra Hồng Ngọc hồ lô liền thở phào, biết rằng mạng mình đã được cứu vãn.
    Giả Đan Quynh vốn chính thực là Đồng Diện Tiên Cơ, võ công thuộc hàng nhất lưu, lừng danh võ lâm đã năm sáu năm nhưng hành tung thần bí, chẳng ai biết mặt thực. Nữ nhi mà giỏi võ thì tính nết thường kiêu kỳ, nhất là một kẻ chưa từng gặp đối thủ ngang tài. Do vậy, cà cuống chết đến đít còn cay, Đan Quỳnh dẫu mừng hết lớn vẫn thận trọng hỏi:
    - Vì sao Lý công tử lại dễ dàng ban bảo vật cho người xa lạ như thế?
    Tư Đồ Sảng thản nhiên đáp:
    - Thần Đan chỉ quý giá khi cứu được mạng người. Vả lại, nó vốn chẳng phải là của tại hạ. Nói xong, chàng mở nút ngọc hồ lô trút ra một viên Luân Hồi Thần Đan. Chàng đặt viên thuốc đỏ rực ấy vào chiếc đĩa sứ trống trước mặt Giả Đan Quỳnh rồi nói:
    - Vật này do tại hạ đoạt của người khác mà có, vì vậy, cô nương bất tất phải cảm tạ.
    Chàng đứng lên vòng tay cáo từ rồi trở về bàn, gọi tiểu nhị tính tiền để kịp bám theo bọn hào khách đến Khuất Gia Trang.
    Mọi người đi cả rồi tỳ nữ Tiểu Thu mới khấp khởi hỏi chủ nhân:
    - Tiểu thư! Liệu đây có phải Luân Hồi Thần Đan không? Lẽ nào trên đời này lại có một nam nhân tốt bụng đến thế?
    Giả Đan Quỳnh cầm viên linh đan lên ngửi và nếm thử. Chợt nàng sa lệ bảo:
    - Đúng là ta đã đem dạ tiểu nhân đo lòng người quân tử, thật đáng thẹn!
    Tiểu Thu hoan hỉ đốc thúc:
    - Tiểu thư uống ngay đi! Chỉ cần còn sống là sau này thiếu gì dịp đáp đền ơn tái tạo của họ Lý.
    Và bỗng cười khúc khích:
    - Nô tỳ cho rằng tiểu thư lấy quách gã cho xong. Thần Phủ Lang Quân vừa giỏi võ, vừa anh tuấn vừa đức độ, trên đời còn ai hơn được nữa?
    Giả Đan Quynh hổ thẹn quắc mắt đe doạ thủ hạ, song trong lòng nàng ta nghĩ gì thì chẳng rõ.
    o0o
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng rời Tương Giang Đệ Nhất tửu điếm, đi theo bọn hào khách. Họ rời thành Trường Sa bằng cửa Tây, đi thêm vài dặm nữa thì đến bờ sông Tương Giang. thuở xưa, thành Trường Sa nằm ở bờ sông Tương. Và cái tên Trường Sa vốn xuất xứ từ việc ở giữa dòng sông có một doi cát rộng độ ba chục trượng và dài chừng mười dặm. Cát sông chứa đầy phù sa phì nhiêu nên người ta đã trồng trên ấy một rừng quít, trái lớn và ngon ngọt phi thường.
    Khuất Gia Trang tọa lạc ngay cạnh bờ sông, hướng Tây là mặt nước còn cổng chính ở hướng Đông Nam.
    Dòng họ Khuất định cư ở Hồ Nam hơn nghìn năm, cha của Đàm Châu đại hiệp là Khuất Vy dựng nhà ở đây cũng đã bẩy chục năm. Do vậy, cây cối trong trang đều già nua, cao lớn, đa số là loài thông Đồng tiền.
    Tam Lư đại phu Khuất Nguyên là văn nhân, thi hào nhưng cháu chắt mấy chục đời của ông lại nổi danh nhờ võ nghệ. Khuất Kỳ không biết làm thơ, chi giỏi nghề múa kiếm. Trong việc kinh doanh, Khuất Kỳ cũng là tay cự phách, sở hữu đến bẩy tòa lữ điếm, tửu lâu đồ sộ và một tòa tiền trang lớn nhất thành Trường Sa. Lão được xem là người giầu thứ hai của phủ Hồ Nam, chỉ thua có nhà họ Giả mà thôi.
    Tấu xảo thay, Giả Thiên Minh cũng là cháu nhiều đời của một danh nhân thời Hán. Giả Nghị là một nhà văn, nhà chính tri đại tài, bị vua Hán Văn Đế bãi chức, đày đến Trường Sa. Do đó, hậu thế đã gọi Trường Sa là “Khuất Giả chi hương” (Quê hương của Khuất Nguyên và Giả Nghị). Tất nhiên, Giả Nghị không được lê thứ Trung Hoa ái mộ bằng Khuất Nguyên. Có điều, hậu duệ của họ Giả lại giỏi buôn bán hơn họ Khuất. Giả Gia Trang ở trong cửa Đông thành giầu nhờ nghề khai thác mỏ vàng và mỏ đá quí
    Không giống như Vương Khải - Thạch Sùng, hai nhà Khuất - Giả chẳng tranh hơn thua mà còn có giao tình khá thâm hậu. Thế cho nên, khi Tư Đồ Sảng đến cổng Khuất Gia Trang thì chứng kiến cảnh viên tổng quản nhà họ Khuất hoan hỉ đón chào người vừa bước xuống kiệu:
    - Giả nhị công tử giá lâm là đại hạnh cho bổn trang!
    Vị thượng khách này là một chàng trai tuổi độ hai mươi lăm, hai mươi sáu, dung mạo cực kỳ anh tuấn và lịch lãm. Gã ăn mặc kiểu thế gia, trường bào gấm xanh-tay hẹp, ngoài khoác áo cừu trắng mỏng. Nhưng hông gã lại lủng lẳng thanh trường kiếm có vỏ bằng bạc, nạm đầy ngọc quý.
    Thấy mặt gã quen quen, Tư Đồ Sảng chợt thức ngộ rằng gã chính là bào đệ của Giả Đan Quỳnh.
    Lúc này, vị Giả công tử kiêu sa ấy nở nụ cười hoà ái:
    - Tề tổng quản chớ quá lời! Hai nhà tình thân như ruột thịt, nay Khuất Gia Trang gặp nạn lẽ nào Giả thị lại làm ngơ?
    Gã ta, cùng tên hộ vệ đường bệ đi vào dưới sự đưa rước của một ả nữ tỳ Khuất Gia Trang. Tư Đồ Sảng có cảm giác rằng mặt gã họ Giả sáng rực lên và dán chặt vào gương mặt xinh xắn của cô gái, ánh mắt nóng bỏng của Giả nhị công tử đã khiến cho ả nữ tỳ hổ thẹn và lúng túng. Dù ít kinh nghiệm Tư Đồ Sảng cũng nhận ra gã họ Giả là người hiếu sắc.
    Tư Đồ Sảng nối gót bọn hào khách Hồ Nam nên Tề tổng quản tưởng chàng chung đám, không hỏi han danh tính làm gì cả.
    Khuôn viên Khuất Gia Trang rất lớn. Tư Đổ Sảng ước lượng chiều ngang của nó phải rộng đến ba chục trượng. Còn chiều dài thì chàng không rõ vì nhà cửa, cây cối dầy đặc, chẳng thể nhìn thấu đến đằng sau.
    Phần phía trước của Khuất Gia Trang là sân gạch rộng mênh mông, ngự trị bởi một tòa khách sảnh và mấy chục gốc thông già. Đây là loài thông đồng tiền, loại cây đặc hữu của Trung Hoa, sống ở phía Nam sông Trường Giang. Thông đồng tiền là loài cây gỗ lớn rụng lá, thuộc họ thông thân cây thẳng, cao từ sáu bẩy trượng đến mười hai trượng (hai mươi mét đến bốn mươi mét) cành thông mọc vòng nằm ngang, có phân biệt loài cành dài, cành ngắn. Loài cành dài lá mọc lá theo hình xoắn ốc. Loài cành ngắn lá mọc chùm và tỏa bốn phía tựa chòm sao, có dạng tròn như đồng tiền cổ. Cuối mùa thu lá trở màu vàng tươi, được gọi là thông đồng tiền hoặc thông vàng.
    Nhưng giờ đang là mùa đông nên lá rụng nhiều, trơ những cành đọng tuyết trông rất ảm đạm. Thỉnh thoảng, những nắm tuyết ấy bị gió Bắc xô ngã khỏi cành, rơi xuống đầu người đi ngay bên dưới. Cây cối thì tiêu điều như thế song căn khách sảnh thì vẫn không mất đi vẻ diễm lệ, sang cao.
    Kiến trúc này chỉ có một tầng, mái lợp ngói lưu ly vàng. Nền sảnh cao hơn mặt sân vài gang, chung quanh đều có bậc tam cấp. Vành đầu tiên là lan can gỗ thấp nối liền những cây cột tròn sơn son. Hàng cột bằng gỗ quý này đỡ lấy mái hiên của dãy hành lang rộng hơn nửa trượng. Nền hành lang lát đá Đại Lý vân vàng.
    Tường vây của khách sảnh có cửa vào ở cả bốn mặt, song cửa hướng Nam rộng nhất. Còn cửa sổ thì rất nhiều, mỗi cái cách nhau chỉ một sải tay. Đặc biệt là các cánh cứa đều bằng kính pha lê Hà Lan nên trong sảnh rất sáng sủa.
    Tuyết rơi nhưng gió bấc không mạnh nên cửa nẻo hai hướng Nam và Tây được mở toang để nội sảnh được thông thoáng. Khí than rất độc nên dù đã có ống đồng dẫn khói lò sưởi ra ngoài, người ta cũng cảm thấy ngột ngạt khi đóng hết các cửa. Nhất là khi giờ đây trong khách sảnh có đến vài trăm khách.
    Khuất Kỳ giầu có và rộng rãi nên bằng hữu rất nhiều. Thói đời là thế, kẻ phú quý như cây cổ thụ tàn lá rậm rạp được nhiều người đến nương nhờ bóng mát. Chỉ có bậc chính nhân quân tử mới tự lực tự cường, an bần lạc đạo, không mong chờ gì ở người khác.
    Khuất Kỳ lại từng ngang dọc võ lâm hai chục năm, người quen chốn giang hồ chẳng thiếu. Lão có giao tình với các phái lớn, thỉnh thoảng biếu xén, cúng dường vài trăm lượng nên giờ đây hòa thượng, đạo sĩ có mặt đông đủ. Chí ít họ cũng có thể tụng kinh siêu độ cho khổ chủ vì nạn nhân của Quỷ Ảnh Hội thường chết rất thê thảm khi chống cự.
    Trong sảnh ấm áp nên khách đều lột nón tre hoặc mũ lông. Không ai nhận ra Thần Phủ Lang Quân vì tin tức về trận đánh ở Hương Sơn có bay đến đây thì cũng không mang theo nhân dạng của ngôi sao mới tỏa sáng. Kẻ mau nổi tiếng nhất chính là những gã cường đạo bị triều đình truy nã. Dung mạo của họ được dán đầy các cổng thành trong nước.
    khách sảnh này là nơi con cháu họ Khuất tụ tập mỗi hồi cúng giỗ nên rộng đến mức có thể chứa được vài trăm người. Hiện tại, một nửa số của ba mươi chiết bàn bát tiên đã có người ngồi.
    Bữa cơm trưa đã qua nên giờ đây trên bàn chỉ bày trà rượu và đĩa lạc rang nhỏ, hoặc một đĩa thịt khô nướng.
    Cuối sảnh, tức phần nền hướng Bắc dành cho phe chủ nhà và những vị khách danh giá nhất. Người võ lâm rất biết quy củ nên tùy theo vai vế, thân phận mà tìm lấy chỗ ngồi thích hợp. Tư Đố Sảng lặng lẽ bắt chước bọn hào khách Trường Sa, chọn một bàn ở vòng ngoài, nghĩa là giữa sảnh. Những người đến sau sẽ lần lượt rải dài tới cửa sảnh.
    Có lẽ khi dòng họ họp mặt cũng phân chia chỗ ngồi theo bối phận nên nền nhà cuối sảnh được tôn cao hơn mặt bằng chung hai gang. Việc này giúp cho việc con cháu phía dưới dễ dàng nhìn thấy dung mạo bậc trưởng thượng lắng nghe lời giáo huấn. Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ là trưởng tộc và ông luôn tận dụng những lần giỗ chạp để cao giọng dạy dỗ bọn hậu sinh dòng họ Khuất. Khi ông nói, bọn trẻ phải luôn nhìn thẳng vào mặt ông, thành kính như uống lấy từng lời thanh nghị. Cụ tổ Khuất Nguyên lưu danh hậu thế cũng là vì thích nói, thích dạy bảo vua nước Sở. Và cũng chính vì thế mà ông bị lưu đày cuối cùng phẫn chí mà gieo mình xuống sông Mịch La.
    Nho gia tán dương Khuất Nguyên là người trung liệt, một lòng một dạ vì xã tắc. Song đạo gia thì chê họ Khuất ngoan cố, hủ lậu, không biết lẽ sáng, tối của đạo trời nên chết oan. Hơn nữa, người trí giả can vua chẳng cần nặng lời chỉ dùng ẩn dụ hoặc ngụ ngôn, cũng đủ thành công. Bằng như lão hôn quân kia mê muội không nghe thì bậc chân nhân cười xòa bỏ đi, chẳng lý đến nữa. Khổng Gia có câu “Giáo đa thành oán” (khuyên bảo người ta quá nhiều, không có kết quả mà còn mang oán). Trang Tử thì nói “Cố gắng làm việc thiện thì gần như khoe khoang”.
    Lúc này Khuất Kỳ không đóng vai trưởng tộc, đang nhũn nhặn đàm đạo với trưởng lão phái Võ Đương, Đàm Vân Tử. Và phương trượng chùa Kỳ Viên Tự, Giám Hải thiền sư. Chùa Kỳ Viên là chi nhánh của Thiếu Lâm tự ở Trường Sa, còn Giám Hải chính thực là sư đệ của chưởng môn phái Thiếu Lâm.
    Núi Võ Đang ở ngay Hồ Bắc nên Đàm Vân Tử sớm có mặt, ông mang theo bẩy tay kiếm trẻ, lừng danh thiên hạ với mỹ hiệu Võ Đang Thất Tinh. Họ là đệ tử đời thứ ba, tuổi tác độ trên dưới ba mươi, võ nghệ cao siêu, nhất là khi bày Thất Tinh Bắc Đẩu kiếm trận. Bảy gã đạo sĩ trẻ tuổi ngồi ngay hàng đầu của dãy bàn thấp sát với khu dành cho trưởng bối.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Thế cho nên họ hơi bất mãn khi thấy Khuất trang chủ hân hoan bước xuống đón chào Giả nhị công tử và đưa lên ngồi chung. Gã ta là cái quái gì mà được trọng vọng như thế?
    Khuất Kỳ hồ hởi giới thiệu chàng công tử họ Giả với hai lão nhân:
    - Bẩm phương trượng và trưởng lão! Người này chính là Hồ Nam Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ, nam tử của Giả Tài Thần.
    Hai vị cao nhân vui vẻ mỉm cười thân thiện. Đàm Vân Tử xua tay:
    - Khuất thí chủ khỏi giới thiệu. Bần đạo nào có lạ gì y. Năm ngoái chính y đã mang năm trăm lượng vàng lên núi Võ Đang cúng dường, để bổn phái trùng tu Thuần Dương Cung.
    Khuất Kỳ hơi ê mặt, không ngờ cánh tay nhà họ Giả lại vươn dài đến thế và rộng rãi hơn mình nhiều. Lão chưa bao giờ dám biếu phái Võ Đang số vàng lớn như vậy.
    Phương trượng Kỳ Viên Tự tiếp lời:
    - Mời Giả thí chủ cùng ngồi cho vui. Lão cũng đang định đến quý trang để cảm tạ về số vàng mà lệnh tôn đã cúng dường tam bảo.
    Mùi vàng bốc lên ngậm ngụt khiến Khuất Kỳ chóng mặt, cả Võ Đương Thất Tinh và toàn bộ thực khách cũng vậy.
    Đàm Châu đại hiệp gượng cười nói giả lả:
    - Đã là chỗ quen biết, mời Giả hiền diệt an tọa. Vả lại, ngươi đại diện cho Giả lão ca cũng xứng ngồi chung với trưởng bối.
    Giả Bạch Hổ thản nhiên ngồi xuống, nghiêm nghị hỏi chủ nhà:
    - Khuất đại thúc! Phải chăng Quỷ Ảnh Hội sẽ đến đây đoạt bảo vào đêm nay?
    Khuất Kỳ rầu rĩ gật đầu:
    - Đúng vậy! Nửa tháng trước Quỷ Ảnh Hội gửi thư, đòi lão phu giao nộp Tỵ Hỏa Châu, hạn chót là trước giờ Tý, giữa giờ Hợi, lão phu phải mang bảo vật đặt giữa vườn hoa lớn sau trang để bọn Câu Hồn sứ giả đến lấy. Tuy nhiên, việc Khuất Gia huy động bằng hữu giang hồ chắc đã lọt vào tai đối phương nên không tránh khỏi việc giao tranh.
    Giả Bạch Hổ gật gù bảo:
    - Theo tiểu điện được biết thì Quỷ Ảnh Hội có quy củ rằng khổ chủ được quyền cho người bảo vệ bảo vật nhưng số người không được quá năm, vì bọn Câu Hồn sứ giả cũng chỉ từng ấy. Chúng ta mà cầm cự được đến hết giờ Tý là thắng lợi.
    Khuất lão cười khổ:
    - Lão phu cũng biết điều này nhưng võ công bọn sứ giả Câu Hồn kia rất lợi hại. Chúng có thân pháp nhanh như điện, đao thuật cao siêu, thủ đoạn phóng ám khí lại hiểm ác phi thường. Năm ngoái, Hồ Viên Ngoại ở Giang Tây đã mời đến cả Lư Sơn Ngũ Hiệp mà còn thất bại. Năm vị đại cao thủ ấy tuổi đều trên sáu mươi, công lực thâm hậu, kiếm pháp điêu luyện, thế mà bị chết sạch. Trận ấy, Hồ Viên Ngoại bị mất bức tượng Ngọc Di Đà và còn phải nộp thêm ngàn lượng vàng nữa.
    Thì ra Quỷ Ảnh Hội có máu cờ bạc, cho phép nạn nhân tự bảo vệ. Song nếu thua thì phải mất tiền cược là ngàn lượng hoàng kim.
    Nhận ra ánh mắt chế giễu của Giả Bạch Hổ, Khuất lão vội chữa thẹn:
    - Lão phu không tiếc ngàn lượng vàng mà chỉ sợ chẳng tìm ra đủ năm cao thủ. Tạm thời chúng ta mới chỉ có ba người là lão phu, Đàm Vân Tử trưởng lão và Giám Hải thiền sư đây thôi.
    Giả Bạch Hổ cười mát:
    - Tiểu diệt xin được phép tham gia, đại thúc chỉ cần tìm thêm một người nữa là đủ.
    Khuất Kỳ không mừng mà thoái thác:
    - Lão phu xin tâm lĩnh hảo ý của hiền diệt song không thể vì chút vật ngoại thân mà làm hại đến ngươi. Họ Giả chỉ có mình hiền diệt người thừa tự, nếu ngươi có mệnh hệ gì thì lão phu ăn nói sao với Giả lão ca?
    Biết lão xem thường bản lãnh của mình, Giả Bạch Hổ nhếch mép cười ngạo nghễ, hờ hững nói:
    - Tuy tiểu diệt chưa hề xuất thủ nhưng tự tin rằng võ nghệ không thua bất cứ ai ở đất Hồ Nam này!
    Khuất Kỳ biến sắc vì câu nói bao gồm cả lão lẫn phương trượng Kỳ Viên Tự. Dù giao tình giữa hai nhà có thâm hậu cách mấy thì cũng không thể ngăn ngọn lửa giận của lão võ sĩ già họ Khuất. Đàm Châu đại hiệp hừ nhẹ và gằn giọng:
    - Này Giả hiền điệt! Ngươi hơi ngoa ngôn rồi đấy!
    Cử tọa đều là con nhà võ nên tai mắt linh mẫn, nãy giờ nghe không sót câu chuyện của chủ nhà. Thấy có gay cấn họ vội ngậm miệng, chú mục quan sát còn tai thì vểnh ngược tên nghe ngóng.
    Giả Bạch Hổ chẳng bề sợ hãi mà còn hơi cao giọng:
    - Tiểu diệt chẳng hề đại ngôn mà chỉ nói lên sự thực. Nếu Khuất đại thúc không tin thì chúng ta cứ việc đầu cược.
    Khuất Kỳ nóng mũi hỏi:
    - Cược thế nào?
    Giả Bạch Hổ cười khẩy:
    - Đêm nay tiểu diệt sẽ đả thương một tên Câu Hồn sứ giả trong vòng mười chiêu, sau đó giúp chư vị đánh đuổi kẻ thù. Nếu được đúng như vậy, mong đại thúc gả Thúy Lan hiền muội cho tiểu điệt. Bằng như Hổ này sai lời, xin được dâng vạn lượng vàng để bồi tội.
    Cứ tọa xôn xao hẳn lên bất bình trước thái độ ngông cuồng, khoác lác của Giả Bạch Hổ. Và họ đoán rằng Khuất trang chủ sẽ nhận lời vì mối lợi quá lớn. Dẫu cho có mất Ty Hỏa Châu và ngàn lượng vàng thì lão vẫn thu về được vạn lượng. Hơn nữa, còn vị thông gia nào xứng đáng hơn Hồ Nam Đại Tài Thần Giả Thiên Minh nữa.
    Nhưng có một người nghĩ khác đi và lên tiếng nói bâng quơ:
    - Khéo thực! Chỉ vài năm nữa là gia sản của họ Giả sẽ tăng gấp đôi.
    Lão ta rất có lý vì Khuất Kỳ không có con trai và lại chỉ được mình Khuất Thúy Lan. Ai lấy nàng thì sẽ thừa kế gia tài đồ sộ này.
    Người vừa phát biểu ngồi chung bàn với Tư Đồ Sảng nên chúng ta sẽ quay lại tìm hiểu xem lão là ai.
    Đấy là một đạo sĩ già, thân hình gầy ốm, nhỏ nhắn, râu tóc đen như mun nhưng da mặt nhăn nheo tựa vỏ quả táo tầu phơi khô nên khó mà biết lão bao nhiêu tuổi. Tấm đạo bào của lão trước đây có lẽ là mầu vàng đất song giờ thì bạc thếch và lem luốc, chẳng thể dùng lời diễn tả được. Không những thế, nó còn sờn chỉ, sắp rách ở hai đầu vai, mép vạt te tua, lởm chởm những sợi vải.
    Ngay cá thanh kiếm dắt ở thắt lưng cũng cũ sì, vỏ thì móp méo. Gương mặt của lão chẳng chút tiên phong đạo cốt vì mắt thì híp mà mũi thì to và đỏ ửng. Vớ bộ dạng này, không hiểu sao lão ta lại được Tề tổng quản và bọn gia nhân cho vào!
    Lão chậm hơn Tư Đồ Sảng một chút và khi nhập sảnh thì đảo mắt quan sát như muốn tìm người quen. Lão nhanh chóng phát hiện ra Tư Đồ Sảng, bèn đến xin ngồi chung.
    Lão đạo sĩ mạt rệp khi rót rượn uống liền ba chung lớn, tay bốc lia lịa những miếng khô nai thơm phức còn mắt thì ngắm nghía kẻ đồng bàn. Lát sau, lão khề khà gợi chuyện:
    - Bần đạo là Tiên Liêu Chân Nhân, dám hỏi tính danh của thí chủ?
    Tiên Liêu là một loài chim nhỏ, rất khéo làm tổ nên còn được người Trung Hoa gọi là xảo phụ. Cái tên này quả là hợp với thân hình loắt choắt của lão ta.
    Ánh mắt của Tiên Liêu Chân Nhân có vẻ tinh anh, xảo quyệt, bộ dạng thì tàn tạ, tất sẽ không được thiên hạ kính trọng. Nhưng Tư Đồ Sảng lại có cảm tình với chân nhân vì ông ta cũng thấp, nhỏ như cha chàng. Vì thế, Tư Đồ Sảng kính cẩn vòng tay đáp:
    - Bẩm đạo trưởng! Vãn bối tên gọi Tư Đồ Sảng, hai mươi tuổi. Chàng chợt sực nhớ ra rằng mình nên khai tên giả thay vì nói thực, song chàng quá trung hậu nên đã quên béng mất. Bởi nhớ cha già mà chàng kính trọng đối phương, và đã kính thì không thể dối gian.
    Sợ kế hoạch tiềm nhập Quỷ Ảnh Hội bị vỡ, chàng khổ sở hạ giọng van nài:
    Mong đạo trưởng giữ kín giùm lai lịch vãn bối, cứ gọi kẻ hèn này là Lý Thu.
    Tiên Liêu Chân Nhân hiểu ngay mình đã vớ phải một gã tiểu tử mới xuất đạo tính tình thực thà hiếm có, ông mỉm cười thích thú và trấn an:
    - Tất nhiên là bần đạo sẽ không lắm mồm mà làm hại thí chủ. Tự nhiên, bần đạo muốn biết ẩn tình trong việc cải danh này!
    Lỡ đưa gáy cho lão nắm, Tư Đồ Sảng đành kể sơ qua về mối huyết cừu. Tiên Liêu Chân Nhân lắng nghe và gật gù nhưng không có ý kiến gì, sau đó bắt Tư Đồ Sảng cùng uống rượu.
    Đến khi Giả Bạch Hổ lớn tiếng đánh cược với Khuất trang chủ thì lão ta buột miệng phang một câu chói tai như đã kể ở trên.
    Hậu quả là Hồ Nam Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ giận tím mặt đứng lên quát:
    - Thân hộ vệ hãy trừng trị cái kẻ thối mồm ấy cho ta!
    Gã hộ vệ của Giả Bạch Hổ đang ngồi ở bàn dưới, khuất sau cột nhà bằng danh mộc. Gã liền đứng lên, chậm rãi bước về phía ngoài, nơi phát ra tiếng nói. Gã biết vị trì bàn người đã phát ngôn.
    Thân hộ vệ là một hán tử trung niên tuổi độ quá bốn chục, mặc võ phục xanh, ngoài khoác áo choàng lông cừu trắng. Thân thể gá khá cao lớn và tráng kiện, mặt chữ điền lạnh như tiền và có mầu xanh tái. Chỉ trừ đôi môi mỏng lét, mặt mũi gã cũng bình thường song không hiểu sao lại khiến người ngoài khiếp sợ. Có lẽ do tia nhìn oán độc đầy sát khí, tựa những mũi tên thép đang bắn ra tua tủa.
    Họ Thân rút vũ khí giấu trong áo choàng ra. Đó là một cây Nhị Tiết Côn thân lớn cỡ cổ tay trẻ con, mỗi đoạn dài hai gang, còn sợi xích nối thì dài một gang. Thứ vũ khí này rất thông dụng nhưng nó lại được họ Thân sơn đỏ tựa nhuộm máu tươi để tăng tính khủng bố. Cũng nhờ thế mà quần hào nhận ra lai lịch của gã và có kẻ thảng thốt kêu lên:
    - Huyết Báo Thân Vô Cửu!
    Có không ít người rùng mình vì ác danh của Huyết Báo vang dội khắp võ lâm. Thân Vô Cửu háo sát thành tật, đã rút côn là phải có người chết. Công lực gã cực kỳ thâm hậu, múa cây Nhị Tiết Côn nặng mười sáu cân nhẹ như bằng gỗ vậy. Huyết Báo biệt tăm đã năm sáu năm nay, không ngờ lại trở thành hộ vệ cho Tiểu Tài Thần Giả Bạch Hổ,
    Thân Vô Cửu xiết chặt chuôi côn, gằn giọng hỏi bằng những tiếng chói tai:
    - Ai trong hai ngươi là kẻ đã xuất ngôn?
    Ác danh của Huyết Báo đã dọa khiếp Tiên Liêu Chân Nhân. Lão run lên và mắt thì lấm lét, đầy vẻ sợ hãi. Và lão gượng cười nói giả lả:
    - Sao túc hạ lại hỏi bọn bần đạo?
    Cái giọng ồm ồm khàn đục này hoàn toàn khác với giọng lúc nãy. Do vậy Huyết Báo đinh ninh thủ phạm là gã tiểu tử hôi sữa kia.
    Gã cười lạnh chỉ mặt Tư Đồ Sảng và bảo:
    - Dù thương ngươi trẻ người non dạ nhưng Thân mỗ cũng không thể nhẹ tay được!
    Tư Đồ Sảng chẳng thể mở miệng tố cáo Tiên Liêu Chân Nhân vì biết rằng cái thân già còm cõi kia chẳng chịu nổi một côn của gã sát thủ lừng danh. Cha chàng, Tư Đồ Quát phiêu bạt mấy chục năm nên kiến văn rất rộng, đã kể cho con nghe lai lịch rất nhiều cao thủ trong thiên hạ. Chàng đã nghe ông nhắc đến gã hung thần đất Hoa Nam này.
    Tư Đồ Sảng điềm tĩnh nói:
    - Giao đấu ở đây không tiện, mời túc hạ ra sân.
    Nói xong, chàng thản nhiên đứng lên, quay gót bước đi, chẳng hề sợ đối phương tập hậu.
    Khí phách ấy đã khiến quần hùng phục lăn, cả Huyết Báo cũng thầm khen.
    Tiên Liêu Chân Nhân lót tót chạy theo Tư Đồ Sảng, ấp úng nói:
    - Bần đạo hại ngươi rồi!
    Tư Đồ Sảng không hề giận, mỉm cười đôn hậu:
    - Đạo trưởng chớ nên áy náy, vãn bối không chết được đâu!
    Thực khách ùn ùn kéo cả ra sân trước để quan chiến và chẳng bỏ lỡ dịp hay để đánh cược xem ai thắng.
    Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ giận tái người khi thấy Giả Bạch Hổ ra lệnh giết khách của mình. Lão định lên tiếng ngăn cản ngay từ đầu nhưng đã có Đàm Vân Tử nháy nhó ra hiệu.
    Tuy không hiểu nhưng Khuất lão vẫn cố nhịn không phát tác. Lúc đi ra, lão chậm chân, sánh vai Đàm Vân Tử và hỏi nhỏ:
    - Vì sao trưởng lão lại không cho lão phu ngăn chặn trận đánh? Chàng trai trẻ tuổi kia nào có tội tình gì mà phải chết dưới tay huyết Báo? Gã tiểu tử họ Giả thực là xấc xược, dám sai thủ hạ giết người trong nhà của lão phu.
    Đàm Vân Tử mỉm cười bí ẩn:
    - Bần đạo xin cam đoan rằng chàng trai ấy không thể thua được. Nếu Khuất thí chủ muốn kiếm vài vạn lượng thì cứ việc đánh cược với Giả Bạch Hổ.
    Khuất lão trố mắt vì kinh ngạc:
    - Lẽ nào một người tuổi đôi mươi lại có võ công cao dường ấy?
    Đàm Vân Tử cười khà khà:
    - Thiện cơ bất khả lậu! Thí chủ cứ nghe lời bần đạo là vớ được món bở.
    Khuất Kỳ gượng cười:
    - Lão phu chẳng ưa gì Giả Bạch Hổ nhưng không thể lấy vàng của hắn được.
    Hơn hai trăm hào kiệt đã vây thành vòng tròn trên sân gạch đế xem tỷ võ.
    Tiên Liêu Chân Nhân bảo Tư Đồ Sảng:
    - Thí chủ hãy đưa tay nải cho bần đạo giữ giùm!
    Chàng trai họ Tư Đồ ngoan ngoãn vâng lời.
    Khuất Kỳ ngắm gương mặt anh tuấn, trung hậu của chàng trai lạ mặt mà bất nhẫn, ông không tin tưởng lắm vào lời nói của Đàm Vân Tử. Nếu để chàng ta chết tại đây thì thanh danh của lão cũng tổn hại không nhỏ.
    Khuất lão liền cao giọng hỏi:
    - Thiếu hiệp danh tính là chi? Xuất thân từ cửa nào?
    Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
    - Vãn bối tên Lý Thu. Học võ của song thân nên không thuộc phái nào cả.
    Chàng rất ngượng miệng khi phải xưng tên giả. Chàng thực thà y hệt người mẹ chốn sơn dã của mình.
    Khuất Kỳ cau mày bảo:
    - Thân hộ vệ là cao thủ nhất lưu của vùng Hoa Nam, chưa hề gặp ai ngang sức. Lão phu đề nghị Lý thiếu hiệp tạ lỗi với Giả công tử để tránh can qua.
    Giả Bạch Hổ ứng tiếng ngay. Gã lạnh lùng bảo:
    - Nếu Lý Thu chịu quỳ lạy ba lạy để tạ lỗi thì tiểu điệt sẽ bỏ qua.
    Khuất Kỳ tức đến nghẹn họng, chưa kịp biểu lộ thì đã có người cướp lời. Chính lão đạo sĩ bé tiêu, áo quần xơ xác đã nhẩy đông đổng lên mà mắng:
    - Này gã họ Giả ngông cuồng kia, ngươi đừng ép người thái quá nghe chưa. Đã thế thì bần đạo sẽ không bãi chiến mà sẽ cùng ngươi đánh cược một phen. Và lão quay sang hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Lý sư đệ! Chẳng hay trong tay nải này ngươi có bao nhiêu vàng vậy? Bần đạo sử dụng hết nhé?
    Tư Đồ Sảng khẽ mỉm cười, không ngờ mình mau chóng trở thành sư đệ của lão ta và chàng vui vẻ ưng thuận.
    Tiên Liêu Chân Nhân mừng rỡ ngồi xuống, tháo nút tay nải và lục lọi, ngoài vài thỏi vàng bạc, lão còn tìm thấy một túi lụa xanh thêu hoa và nức mùi son phấn, trong chứa gần ba trăm viên Hồng Bảo Ngọc. Vài người sành sỏi ồ lên thèm khát vì biết Hồng Bảo Ngọc là đặc sản của Miến Điện, Xiêm La, Tích Lan, giá đắt kinh khủng, giầu cỡ nhà họ Giả cũng chỉ có vài chục viên.
    Đây lại là ngọc của Miến Điện, màu đỏ tươi như máu, nếu có nắng thì càng rực rỡ, sáng chói tựa ánh bình minh hoặc ráng chiều. Hồng Ngọc của Xiêm La và Tích Lan có chất lượng xấu hơn ngọc Miến. Trong tiếng Phạn, Hồng Bảo Ngọc có nghĩa là “Đứng đầu đá quý” Tiên Liêu Chân Nhân đắc ý nói:
    - Này Giả tiểu thí chủ, Giả Gia Trang chuyên khai thác và kinh doanh vàng ngọc, liệu có định giá nổi Hồng Ngọc này của bần đạo hay không? Tổng cộng một trăm chín mươi lăm viên đấy.
    Tư Đồ Sảng ngớ người, chẳng hiểu lão đếm từ lúc nào mà lại biết đúng số lượng?
    Giả Bạch Hổ không ngờ gã tiểu tử đáng ghét kia lại mang theo người một số châu báu trị giá liên thành như thế. Chắc nhà họ Lý còn giầu có hơn nhà họ Giả? Nỗi đố ky, ganh ghét dâng trào và gã quyết định chiếm lấy số Hồng Bảo Ngọc kia.
    Giả Bạch Hổ ra vẻ thản nhiên, hờ hững đáp:
    - Tùy theo chất lượng, mỗi viên trị giá trên dưới ba trăm lượng vàng, vị chi khoảng sáu vạn lượng.
    Quần hùng chấn động trước số vàng quá lớn và họ bắt đầu nhìn Lý Thu bằng cặp mắt tôn kính.
    Tiên Liêu Chân Nhân hách dịch hỏi lại:
    Vậy chẳng hay Giả nhị công tử có mang đủ sáu vạn lượng hoàng kim đấy không?
    Thấy lão quá tự tin, Giả Bạch Hổ bỗng đâm ra chột dạ. Gã lựa lời đáp:
    - Tại hạ không sẵn đủ số song sau đó có thể về nhà lấy. Hiện nay tại hạ chỉ mang theo vạn lượng ngân phiếu.
    Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ biến sắc hiểu rằng Giả Bạch Hổ đã tính toán trước khi đặt điều kiện với ông.
    Thường thì chẳng ai mang nhiều vàng theo khi hai nhà chỉ cách nhau vài dặm.
    Tiên Liêu Chân Nhân phá lên cười:
    - Thôi thôi! Một vạn lượng cũng đủ rồi! Bần đạo chẳng phải là kẻ thả mồi bắt bóng! Giả Thiên Minh keo kiệt nổi tiếng, dễ gì để cho ngươi vác đi năm vạn lượng nữa.
    Khách quan chiến ồ lên cười khiến Giả Bạch Hổ tái mặt. Bỗng có một người len vào và nhẩy tót đến trước mặt Tiên Liêu Chân Nhân, níu áo lão mà van nài:
    - Tiểu nữ nghe bọn nô tỳ báo rằng đạo trưởng có rất nhiều Hồng Bảo Ngọc. Tiểu nữ chưa hề thấy bao giờ nên rất khát khao, phiền đạo trưởng cho tiểu nữ xem thử.
    Cô ả này là một thiếu nữ thon thả, tuổi độ mười lăm, mười sáu, mặc võ phục hồng, chẳng khoác áo cừu có lẽ vì tuyết đã ngừng rơi. Cơ thể nàng chưa nẩy nở đúng mực nhưng dung nhan kia sau này chắc chắn sẽ khiến nam nhân trong thiên hạ phải lao đao.
    Chợt có tiếng Khuất Kỳ nạt khẽ:
    - Thúy Lan! Con định làm mất mặt ta đấy ư?
    Thì ra ả Tố Nga này chính thị vị thiên kim tiểu thư nhà họ Khuất.
    Thúy Lan cứ tảng lờ, giả điếc, tiếp tục năn nỉ Tiên Liêu Chân Nhân. Lão ta bối rối nói:
    - Ngọc này vốn là của gã họ Lý kia, bần đạo không thể tùy tiện được.
    Lão vừa dứt lời là Thúy Lan đã nhẩy bổ đến nắm áo của Tư Đồ Sảng. Chàng trai trẻ ngượng chín người nên nói ngay:
    - Tiểu thư cần mấy viên tại hạ xin dâng tặng!
    Thúy Lan mừng rỡ cười khúc khích:
    - Lý đại ca quả là người hào phóng! Tiểu muội có mười ngón tay và hai lỗ tai nên chỉ xin mười hai hạt mà thôi.
    Tư Đồ Sảng sốt sắng gật đầu quay sang bảo Tiên Liêu Chân Nhân:
    - Đạo trưởng tặng cho Khuất tiểu thư đây mười hai viên hồng ngọc.
    Chẳng phải của mình mà tiếc nên lão đạo sĩ cổ quái kia vui vẻ cho ngay. Nhưng lão ta lại hạ giọng bỏ nhỏ một câu:
    - Này tiểu nha đầu! Ngươi mà lấy ngọc này thì xem như nhận sính lễ đấy!
    Thúy Lan tinh quái lườm lão rồi cười vang, phá vây chạy mất.
    Khuất Ky ngượng ngùng vòng tay cáo lỗi:
    - Lão phu đến tuổi già mới có được một mụn con nên rất cưng chiều, Lan nhi vì thế mà bướng bỉnh, ngang ngược, tinh nghịch như quỷ sứ. Số ngọc kia lão phu sẽ hoàn lại cho thiếu hiệp ba ngàn sáu trăm lượng vàng.
    Tư Đồ Sảng đang định từ chối thì Tiên Liêu Chân Nhân đã hớn hở nói trước:
    - Phải phải! Khuất thí chủ xử sự như thế là phải đạo.
    Rồi lão trách chàng:
    - Chẳng ai gánh củi về rừng! Nhà họ Khuất giầu bỏ mẹ, tội quái gì ngươi phải biếu không hơn ba ngàn lượng vàng? Trên đời còn hằng hà sa số những người nghèo khổ để ngươi bố thí.
    Chợt lão quắc mắt:
    - Hay là ngươi thấy gái đẹp là mê tít, không biết tiếc của là gì?
    Tư Đồ Sảng giật mình, chối đây đẩy:
    - Làm gì có việc ấy! Thúy Lan chỉ là một cô bé....
    Lúc này, các tay cá cược ở bên ngoài bắt đầu nóng ruột. Họ la ó:
    - Có đánh thì đánh cha nó đi, sao lại cù cưa mãi thế?
    Tư Đồ Sảng mượn cớ này rút Giáng Ma Phủ ra và xăm xăm bước đến trước mặt Huyết Báo Thân Vô Cửu.
    Thanh danh của chàng chưa bay đến đây nên không ai nhận ra Thần Phủ Lang Quân mà chỉ trầm trồ khen cây Giáng Ma Phủ.
    Tư Đồ Sảng vòng tay thi lễ rồi nói:
    - Tại hạ xin được bồi tiếp Thân túc hạ vài chiêu.
    Họ Thân khẽ gật đầu, sát khí đã giảm đi nhiều. Tư Đồ Sảng được quyền xuất thủ trước vì niên kỷ nhỏ hơn. Song phương không thù oán nên chàng hòa hoãn đánh chiêu “Xuân Phong Phiêu Phiêu”, đường búa nhẹ nhàng tựa gió xuân hây hẩy nhưng phủ ảnh thì trùng điệp.
    Huyết Báo vung côn chống đỡ nghe cánh tay mình tê chồn thì lòng vô cùng kinh ngạc. Gã dồn thêm chân khí, tấn công mãnh liệt, chiêu sau nặng hơn chiêu trước.
    Thân Vô Cửu tuy hiếu sát nhưng lại là nhân tài trong võ đạo, hiếu võ thành tật nên siêng năng, cần mẫn hơn người. Thuở nhỏ, gã được dị nhân trên núi Cấm Sơn dạy võ, chân truyền pho Nhị Tiết Hàng Long Côn ảo diệu vô song. Khổ luyện không ngơi nghỉ từ năm sáu tuổi nên họ Thân sở hữu đến hơn ba mươi năm tu vi, dù tuổi mới bốn hai.
    Trước khi nhập trận, gã tin mình sẽ thắng được tên tiểu tử non nớt kia, chí ít thì cũng đánh văng vũ khí đối phương. Nhưng càng đánh gã càng thức ngộ được rằng sữc lực họ Lý chẳng kém mình.
    Tự ái nổi lên, Thân Vô Cửu dồn công lực vào cây Nhị Tiết Côn nặng nề, đánh những đòn vũ bão. Hai thanh thép tốt chạm nhau dữ dội, phát ra những âm thanh chát chúa ghê người. Hai luồng hồng quang và hắc quang xoắn lấy nhau, song phương đảo lộn di chuyển nhanh như gió.
    Quần hào ngất ngây theo dõi trận đấu hấp dẫn, mê mẩn há hốc miệng và reo hò nhiệt liệt trước những chiêu tinh kỳ, đẹp mắt hay nguy hiểm. Họ suýt xoa khen ngợi Lý Thu, hỏi nhau về lai lịch của cao thủ trẻ trung ấy.
    Tư Đồ Sảng cũng rất phấn khởi vì được so tài với Huyết Báo. Trước giờ, chàng chỉ chém giết với tấm lòng hận thù chứ chưa hề được tỷ võ một cách đích thực, cùng kẻ địch xứng tay.
    Tư Đồ Sảng hào hứng thi triển pho Giáng Ma Phủ pháp giải phá những chiêu côn thần tốc, quỷ dị của Huyết Báo, ánh mắt rực rỡ niềm vui.
    Đã hơn trăm chiêu trôi qua, Tư Đồ Sảng cảm nhận rằng tay búa của mình ngày càng điêu luyện. Học phải có hành thì mới trọn vẹn. Chàng hoàn toàn làm chủ được trận đánh, có thể thắng đối phương bất cứ lúc nào. Song chàng đã không nặng tay mà cứ say mê đánh mãi.
    Thân Vô Cửu cũng hiểu như thế vì biết rằng Lý Thu đã bỏ qua nhiễu cơ hội tốt. Gã cay đắng nhận ra mình kém tài nhưng chẳng thể mở miệng chịu thua.
    Bên ngoài, ba đại nhân vật là Khuất trang chủ, Đàm Vân Tử và Giám Hải thiền sư cũng trầm trỗ tán thưởng tài đánh búa của Lý Thu. Họ vắt óc cố tìm ra lai lịch của chàng trai, cũng như cây búa kỳ lạ mà không thành công.
    Giả Bạch Hổ thì bị nhấn chìm trong lửa ghen hờn cao ngất. Gã không ngờ tiểu tử họ Lý kia lại giỏi võ đến thế. Lời tán dương của khách quan chiến như những mũi kim đâm vào lòng chàng công tử kiêu ngạo.
    Giả Bạch Hổ tính tình tàn nhẫn, dẫu biết thủ hạ kém sức, có đánh nữa chỉ thiệt thân, mà vẫn lạnh lùng ra lệnh:
    - Thân hộ vệ! Ta muốn thấy máu của gã họ Lý!
    Gã biết Thân Vô Cửu còn một chiêu tối hậu lợi hại, dùng để đổi mạng với kẻ thù. Khi họ Thân xuất chiêu “A Tỳ Vô Lộ” thì cả gã lẫn đối thủ đều khó sống.
    Huyết Báo không ngờ chủ nhân bắt mình thí mạng, lòng đau như cắt nhưng vẫn thi hành. Gã dồn hết công lực vũ lộng thanh Nhị Tiết Côn, dệt nên hàng ngàn côn ảnh cuồng loạn, kinh lực chấn động không gian, phát ra những tiếng như lụa xé, rối lao vào kẻ địch.
    Giám Hải thiền sư nhận ra ngay chiêu “Đồng Quy Ư Tận”, kinh hãi thết lên:
    - Coi chừng!
    Tư Đồ Sảng cũng sớm đánh hơi được tử thần, bình tĩnh xuất chiêu “Dương Hoa Điểm Điểm” (Hoa Liễu lấm tấm). Giáng Ma Phủ vẽ nên tấm lưới đầy những vệt mỏng manh như tơ và ẩn hiện những đốm nhỏ.
    Tuy mang cái tên rất thi vị song chiêu này lại cực kỳ lợi hại, gồm đến mấy trăm thế thức, lưới tơ để phòng thủ còn sát cơ nằm trong những bông hoa, tức mũi của đoản kiếm ở đầu Phủ.
    Lúc va chạm Thân Vô Cửu có cảm giác như mình đang công phá một bức tường thép kín mít, không khe hở, và hơi lạnh từ những chấm đen nho nhỏ kia uy hiếp chín đại huyệt từ mặt đến bụng của gã.
    Thân Vô Cửu đánh hết chiêu “A Ty Vô Lộ” mà vẫn không phá thủng được lưới búa, lòng vô cùng kinh hãi. Và gã tuyệt vọng chờ chết khi nhận ra mũi thép ở đầu cây búa đen trùi trũi ấy sắp chạrn vào huyệt Ngọc Đường trên ngực.
    Nào ngờ, mũi đoản kiếm bất ngờ chuyển hướng, lướt ngang sang mé hữu, chỉ có hơi thép làm lạnh da mặt họ Thân. Và gã Lý Thu nhẩy lùi vòng tay nói:
    - Tại hạ may mắn ngang sức với các hạ, đánh nhau đến tối cũng chưa phân thắng bại. Chúng ta hãy đình chiến để tại hạ tạ lỗi với Giả công tử!

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Đại Lượng Đắc Minh Sư,
    Trường Sa Đả Quỷ Ảnh
    Thân Vô Cửu trở về từ cửa Quỷ Môn Quan, lại được cứu vãn thanh danh nên vô cùng cảm kích. Gã giết người vì cho rằng ai cũng muốn giết mình, không ngờ có kẻ lại cư xử khác hẳn, đầy nhân hậu và tế nhị. Trừ các bậc cao nhân, không ai nhận ra ẩn tình. Bọn hào khách thở dài tiếc nuối trước kết quả hòa của trận đấu.
    Khuất Kỳ cười ha hả:
    - Không đổ máu là tốt rồi ! Mời chư vị vào sảnh để chuẩn bị dùng cơm chiều!
    Mọi người đang định làm theo lời lão thì khựng lại vì thấy Huyết Báo Thân Vô Cửu vòng tay nói với Giả Bạch Hổ:
    - Giả công tử! Thân mỗ bất tài không hoàn thành nhiệm vụ, chẳng dám theo phò công tử nữa. Từ nay, chúng ta trở thành người xa lạ.
    Giả Bạch Hổ bối rối cau mày:
    - Sao Thân hộ vệ lại nói thế? Các hạ đã tận lực nên không có lỗi.
    Huyết Báo ngửa cổ cười dài:
    - Tại hạ đã vì công tứ mà đánh chiêu “A Tỳ Vô Lộ”, xem như trả ơn nhà họ Giả! Xin cáo biệt!
    Y gã ngầm trách Giả Bạch Hổ nhẫn tâm thí mạng thủ hạ. Dứt lời, Thân Vô Cửu lặng lẽ quay gót.
    Không ngờ Lý Thu cũng cáo thoái. Chàng ôm quyền nói với chủ nhà:
    - Trang chủ ! Vãn bối bận việc nên không thể lưu lại! Cảm tạ trang chủ đã chiêu đãi.
    Khuất Kỳ chưng hửng vì thất vọng. Lão đinh ninh Lý Thu sẽ tham gia đội ngũ năm người để bảo vệ Tỵ Hoả Châu, và với bản lãnh siêu quần bạt tụy của chàng thì lão chẳng còn phải sợ bọn Câu Hồn sứ giả.
    Khuất Kỳ vừa định mở miệng lưu khách thì bị Đàm Vân Tử lén kéo áo ngăn cản. Vị trưởng lão bẩy mươi lăm tuổi của núi Võ Đang nháy mắt với Khuất Kỳ và bảo:
    - Giữ y lại cũng vô ích, Khuất thí chủ hãy trả vàng để y đi.
    Khuất Kỳ chợt nhớ đến việc con gái mình xin họ Lý mười hai viên Hồng Bảo Ngọc, lúng túng nói:
    - Chết thực! Suýt nữa thì lão phu quên béng cả việc ấy. Phiền công tử chờ một chút.
    Ông liền bảo Tề tổng quản vào hậu viện lấy vàng.
    Tiên Liêu Chân Nhân hí hửng dặn dò:
    - Bọn lão phu lấy ngân phiếu, chứ không lấy vàng nén hay tiền giấy đâu đấy nhé!
    Vàng thì nặng, tiền giấy Đại Minh Thông Hành Bảo Sao thì mất giá trị, hiệu buôn, quán xá nào cũng chê. (Có độc giả thắc mắc vì sao tác giả chỉ chọn bối cảnh đời Minh mà không là những triều đại khác. Xin thưa rằng trước nhà Tống thì quá xa, sử liệu không đầy đủ. Trong thời Tống thì miền Bắc Trung Hoa lọt vào tay quân Kim, lãnh thổ chật hẹp, không đủ đất cho các cao thủ vẫy vùng.
    Còn như đời nhà Nguyên thì võ lâm không hề tồn tại. Sau khi chiếm được Trung Hoa, bọn Mông Cổ ra sức đàn áp người Hán bằng những chính sách gắt gao. Thời ấy, quân Mông cấm người Hán ở phương Bắc không được giữ vũ khí và ngựa, những thứ ấy bị tịch thu hết. Ở Hoa Nam còn gắt hơn, năm nhà mới có một còn dạo cắt thịt để dùng chung. Bởi vậy làm sao có những chàng hiệp khách vác gươm, cưỡi ngựa trừ gian diệt bạo được.
    Triều Thanh thì khá hơn triều Nguyên một chút vì họ khôn ngoan và biết coi trọng văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, nhà Thanh cũng có rất nhiều chính sách tàn nhẫn để đàn áp người Hán. Cũng như Mông Cổ, quân Mãn Châu cấm hai dân tộc Hán – Mãn thành hôn với nhau. Họ bắt người Hán phải cạo đầu thắt bím và mặc y phục rợ Mãn. Ai không tuân thì bị chặt đầu.
    Ngoài ra còn có lệnh cấm lập xã (đoàn thể), lập hội. Nghĩa là chằng còn một bang phái nào tồi tại cả. Trừ những hội kín phản Thanh như Thiên Địa Hội chẳng hạn. Chính vì thế mà nền võ thuật Trung Hoa sa sút trầm trọng, nhiều môn tuyệt học bị thất truyền. Tóm lại, chỉ có trong thời nhà Minh thì người hiệp khách mới thỏa chí tang bồng. Thuở ấy lãnh thố Trung Hoa vươn đến tận Liêu Đông, Tây Vực ở phương Bắc. Còn phương Nam giáp với Giao Châu, Miến Điện. Nước nhà lại độc lập chẳng ai cấm việc cưỡi ngựa, mang gươm).
    Vài giòng tâm sự cho vui, giờ thì chúng ta trở lại Khuất Gia Trang để xem cảnh Tiên Liêu Chân Nhân đếm những tờ ngân phiếu.
    Mỗi tờ năm chục lượng, tương đương giá trị một đỉnh vàng lớn, vị chi bẩy mươi hai tờ ngân phiếu. Lão đạo sĩ nghèo kia đếm rất nhanh rồi lôi Tư Đồ Sảng đi ngay.
    Tiên Liêu Chân Nhân nghèo đến mức giầy vải rách mũi ngón chân thò cả ra ngoài, thì làm gì cộ tiền mua ngựa? Do vậy lão nhẩy tót lên ngồi sau lưng Tư Đồ Sảng.
    Lão ta cẩn thận vòng tay ôm eo Tư Đồ Sảng như trẻ nhỏ nương tựa vào, anh cả vậy. Và lão nói:
    - Này Tư Đồ thí chủ! Bần đạo già nua, cô độc lại nghèo túng, nên muốn đi theo ngươi. Việc ấy ngươi nghĩ sao?
    Tư Đồ Sảng bất nhẫn đáp:
    - Vãn bối mang nặng thù nhà trên vai, đang cố tiềm nhập hổ huyệt, sống chết chưa rõ làm sao cưu mang đạo trưởng được? Vãn bối xin tặng đạo trưởng số vàng ấy để dưỡng già vậy.
    Chàng tưởng lão ta sẽ hài lòng trước sự hào phóng của mình. Song không ngờ Chân Nhân cười nhạt đáp:
    - Ngươi lầm rồi! Người già chỉ sợ cô đơn chứ không sợ nghèo túng. Hơn nữa, bần đạo thương ngươi là kẻ trung hậu, thực thà, muốn giúp một tay. Ngốc như ngươi thì sớm muộn gì cũng chết oan dưới tay Quỷ Ảnh Hội.
    Lão dừng lại một lúc rồi bỗng nói tiếp:
    - Thực ra, bần đạo có quen cái gã Tư Đồ Quát, cha của ngươi.
    Tự Đồ Sảng mừng rỡ thốt:
    - Thực thế ư? Nhưng sao vãn bối không nghe tiên phụ nhắc đến chân nhân?
    Vị đạo sĩ cười khánh khách:
    - Có nhắc đấy? Chỉ tại ngươi không nhớ thôi! Bần đạo quen thân Tư Đồ Quát đến mức biết rằng y có một vết sẹo dưới vai phải, hậu quả của nhát kiếm mà Tư Đồ Xán đã đâm.Tư Đồ Sảng thấy lão nói trúng phóc bí mật, hiểu rằng Tiên Liêu Chân Nhân quả đúng là cố hữu của cha mình.
    Chàng trai mồ côi, cô độc nghe lòng ấm áp tình thương. Chàng yêu cha mình nên yêu cả những người thân của ông.
    Tư Đồ Sảng hớn hở nói:
    - May quá ! Không ngờ vãn bối lại còn có bậc trưởng thượng để xin chỉ giáo. Nhưng chằng hay vãn bối phải xưng hô như thế nào đây?
    Chàng không rõ Chân Nhân lớn hay nhỏ hơn cha mình. Lão đạo sĩ cười khà khà:
    - Chú hay bác cũng đều sai ! Tốt nhất ngươi gọi ta là sư phụ vậy. Bần đạo chưa có đệ tử vừa ý, đang sợ tuyệt học bị thất truyền.
    Dù không tin rằng đối phương có gì hay để dạy mình song chµng vẫn vui vẻ nhận lời, cốt để lão vui. “Nhất tự vi sư bán tự vi sư”, dẫu lão chỉ khuyên chàng cách xử thế thì cũng đáng gọi là thầy rồi.
    Về đến thành Trường Sa, hai người ghé trọ trong Hồ Nam Đại Lữ điếm. Tư Đồ Sảng định đặt hai phòng thì Tiên Liêu Chân Nhân gạt đi, chỉ lấy một:
    - Thầy trò thì phải ở chung để bần đạo dạy dỗ ngươi chứ!
    Chàng cười và nhờ chưởng quỹ sai gã tiểu nhị đi mua giùm vài bộ đạo bào cùng giầy vớ, áo cừu cho sư phụ.
    Họ lên phòng, tắm gội xong thì y phục mới đã về đến. Chân nhân khoan khoái mặc vào, gật gù khen:
    - Mặc áo bằng lụa tốt quả là dễ chịu!
    Rồi lão khệnh khạng ngồi xuống chiếc ghế dựa trong phòng và trầm giọng:
    - Sảng nhi! Ta tuy là người đạt đạo xem thường tiểu tiết, nhưng chín lạy bái sư thì chẳng thể bỏ qua. Có vậy ta mới được quyền dạy võ cho con.
    Giọng lão hòa ái nhưng uy nghiêm đáo để. Tư Đồ Sảng vội vén áo quỳ xuống khấu đầu lạy đủ chín lạy.
    Vừa xong thì có tiếng gõ cửa và tiểu nhị bưng mâm cơm rượu vào. Mùi rượu Thiệu Hưng thượng hạng bay ngào gạt khi được rót ra làm cho chiếc mũi lân đỏ ửng của Chân Nhân phổng lên.
    Thức ăn cũng toàn những món đặc sản lừng danh Hồ Nam, giá đắt cắt cổ.
    Tửu lượng của học trò khiến vị sư phụ hài lòng. Chân Nhân cao hứng cùng Tư Đồ Sảng uống cạn một vò năm cân. Khi đã no say, lão bắt Tư Đồ Sảng kể lại thật chi tiết những gì đã xảy ra trong đời, luôn cả võ học.
    Đến hoàng hôn thì câu chuyện thương tâm của Tư Đồ Sảng mới chấm dứt. Tiên Liêu Chân Nhân trầm ngâm bảo:
    - Không phải ngẫu nhiên mà kiếm trở thành vua của mọi loại vũ khí. Chính Võ Hồng cũng nổi danh nhờ kiếm, sau vì thua thanh bảo đao sắc bén của Đao Vương nên mới nghĩ đến việc dùng búa. Khuyết điểm của Giáng Ma Phủ là quá nặng, không thể nào đạt đến tốc độ như khi ngươi dùng kiếm. Do đó nếu gặp phải những kiếm thủ thượng thặng, công lực thâm hậu, thì ngươi sẽ thua sau ba trăm chiêu. Dù ngươi thần lực hơn người thì lúc ấy tay cũng mỏi, đường lui chậm lại.
    Tư Đồ Sảng thầm công nhận lão nhận xét không sai. Chiều nay, dù chỉ mới hơn hai trăm chiêu mà chàng đã có dấu hiệu bải hoải nơi cánh tay hữu.
    Chàng phiền muộn hỏi:
    - Sư phụ! Chẳng lẽ đổ nhi phải bỏ búa mà học kiếm!
    Tiên Liêu Chân Nhân gật đầu rồi lại lắc đầu:
    - Không hẳn như thế! Ngươi đã có căn bản về Giáng Ma kiếm pháp cứ tiếp tục khổ luyện để đối phó với những địch thủ giỏi kiếm. Còn với những loại vũ khí khác thì Giáng Ma Phủ hoàn toàn chiếm ưu thế. Bần đạo sẽ giúp ngươi thấu hiểu những yếu quyết thượng thừa của kiếm đạo.
    Phòng thượng hạng nên rất rộng, gồm hai phần để tiếp khách và ngủ, được ngăn bởi một bình phong gỗ tám cánh, khắc nổi hình Tiêu Tương Bát Cảnh.
    Tư Đồ Sảng liền xếp tấm bình phong để dựa vào vách phòng, dẹp bàn ghế tạo ra khoảng trống mà luyện kiếm.
    Tiên Liêu Chân Nhân đã bước đến giường lấy kiếm rút ra, nghiêm nghị bảo:
    - Kiếm không phải là một thanh thép vô tri, lạnh lẽo mà là một vật tương thông với tâm linh của người kiếm thủ. Do vậy, kiếm có thể nhanh bằng ý nghĩ, tâm vừa máy động thì kiếm đã đến mục tiêu.
    Nhận ra vẻ nghi ngờ trong mắt học trò, Chân Nhân cười bảo:
    - Ngươi không tin ư? Vậy thì ngươi cứ dùng Giáng Ma Phủ mà phòng thủ mũi kiếm của bần đạo.
    Tư Đồ Sảng bẽn lẽn đi lấy búa, thủ thế rất nghiêm mật, đứng cách sư phụ gần trượng.
    Tiên Liêu Chân Nhân lướt đến, trường kiếm chỉ thẳng ra phía trước. Tư Đồ Sảng vội múa tít Thần Phủ, tạo nên màn lưới thép kín như bưng. Chàng nhìn thấy mũi kiếm chập chờn trước mặt rồi liến tiếp xuyên qua phủ anh, đâm vào áo mình. Những nhát kiếm này nhanh đến mức đụng mục tiêu và rút về mà không hề chạm lấy Giáng Ma Phủ.
    Tư Đồ Sảng phục lão sát đất, dừng búa vòng tay nói:
    - Sư phụ quả là bậc kiếm tiên! Đồ nhi đã sáng mắt ra rối!
    Chân Nhân cười khanh khách, nheo mắt bảo:
    - Trước giờ ngươi cứ nghĩ rằng bần đạo là kẻ bịp bợm chứ gì?
    Tư Đồ Sảng thẹn thùng đáp:
    - Đồ nhi nào dám có ý ấy!
    Và chàng ấm ức hỏi:
    - Vì sao lúc ở Khuất Gia Trang sư phụ lại chọc ghẹo Giả Bạch Hổ rồi giá họa cho đồ nhi?
    Chân Nhân đắc ý đáp:
    - Bần đạo chỉ thứ thách ngươi đấy thôi! Ngươi mà nổi giận thì chẳng thể trở thành đồ đệ của ta được. Kẻ bất nhân và thiếu độ lượng thì không học nổi kiếm đạo thượng thừa.
    Và lão gắt chàng:
    - Đừng mất thì giờ nữa? Ngươi hãy tập trung ôn luyện kiếm pháp để đêm nay đến Khuất Gia Trang đối phó với bọn Câu Hồn sứ giả.
    Tư Đồ Sảng ngơ ngác:
    - Đồ nhi cũng muốn giúp họ. Nhưng nếu chường mặt ra thì sau này làm sao tiếp cận bọn Quỷ Ảnh Hội?
    Chân Nhân nghiêm giọng:
    - Quỷ Ảnh Hội ái tài như mạng, dẫu ngươi có lỡ giết vài tên Cầu Hồn sứ giả thì họ cũng bỏ qua, cố gắng thu phục. Bần đạo hiểu chúng hơn ngươi mà.
    Tư Đồ Sảng khen phải, bắt tay vào việc ôn luyện. Chân Nhân bảo chàng thi triển pho Giáng Ma kiếm pháp bằng tốc độ nhanh nhất cho đến lúc không còn ngượng ngập.
    Một canh giờ sau, mồ hôi Tư Đồ Sảng toát ra như tắm, mang theo mùi rượu thơm nồng. Thế mà Chân Nhân chưa hài lòng:
    - Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm thần lực hơn người nên ỷ vào sức mà xem nhẹ yếu quyết khinh khoái. Do vậy mà pho Giáng Ma kiếm pháp vẫn còn ở trong giới hạn kiếm thuật chứ không bước được qua ngưỡng cửa kiếm đạo. Võ Hồng xem trọng chữ lực nên không ngại va chạm vũ khí, còn coi đó là cách bắt đối thủ lộ sơ hở. Nhưng nếu kiếm tiếp xúc nhiều thì tốc độ không thế nhanh được, Hơn nữa, khi gặp phải kẻ địch có công lực thâm hậu hơn, vũ khí nặng hơn, tỷ như Đao Vương chẳng hạn, thì họ Võ sẽ bị thiệt thòi.
    Nói xong, ông giảng giải những tinh túy trong nghề đánh kiếm, sửa đổi từng chiêu trong pho Giáng Ma kiếm pháp. Tư Đồ Sáng dù có căn cơ thượng phẩm cũng chỉ hoàn thiện được ba chiêu là đến giữa canh một.
    Tiên Liêu Chân Nhân đốc thúc chàng tắm rửa để đến Khuất Gia Trang.
    O0o
    Giờ chúng ta se quay lại nhà Đàm Châu đại hiệp để xem những gì xảy ra sau khi thầy trò Tư Đồ Sảng đi khỏi.
    Té ra, Khuất lão tức tối như người bị bưng mắt, ăn cơm chiều xong, lôi xệch Đàm Vân Tử vào hậu sảnh mà hỏi han:
    - Này Đàm Vân Tử! Ông bảo rằng không hề biết lai lịch của Lý Thu sao lại dám cam đoan rằng chàng ta sẽ trở lại hỗ trợ lão phu?
    Đàm Vân Tử cười khì:
    - Quả đúng là bần đạo chẳng rõ về họ Lý, song lại biết chắc rằng vạn sự sẽ chu toàn khi có mặt lão đạo sĩ già rách như xơ mướp kia. Lão ta chính là bậc phong trần dị nhân, tuổi đã trăm lẻ đắc đạo đã bốn mươi năm, mấy lần xuất hiện tiêu diệt ác ma mà không hề để người đời biết tiếng.
    Khuất Kỳ kinh hãi:
    - Phải chăng trưởng lão đang nhắc đến Ly Giang Tiên Ông ở đất Quế Lâm tỉnh Quảng Tây?
    Đàm Vân Tử đắc ý gật đầu:
    - Đúng đấy, Tiên Ông là bằng hữu của gia sư, hai mươi năm trước có ghé qua Võ Đang sơn. Nay gặp lại, bần đạo nhận ra ngay vì lão ta chẳng già một chút nào cả.
    Khuất Kỳ hoan hỉ nói:
    - Có Ly Giang Tiên Ông giá lâm là điều đại phúc! Lão phu không còn phải sợ Quỷ Ảnh Hội nữa rồi!
    Đàm Vân Tử gật đầu tán thành song lại lộ vẻ ưu tư:
    Việc ở đây không đáng ngại nữa, nhưng e rằng võ lâm lại sắp nổi phong ba cho nên Tiên Ông mới hạ sơn.
    Khuất Kỳ cười bảo:
    - Giang hố lúc nào chẳng có sóng gió! Chúng ta ra ngoài kẻo thất lễ với khách.
    Hai người trở về bàn, Khuất trang chủ liền bị Giả Bạch Hổ hỏi dồn:
    - Khuất đại thúc! Vậy chẳng hay đại thúc có cho phép tiểu điệt tham chiến không?
    Chẳng phải do lời cảnh tỉnh của Tiên Liêu Chân Nhân mà chính bản thân Khuất Kỳ đã nghĩ như thế từ lâu rồi. Hồi giữa năm, Giả Gia Trang đã nhờ người đánh tiếng, dạm hỏi Thúy Lan cho Bạch Hổ, nhưng Khuất lão từ chối khéo.
    “Bất Hiếu hữu tam, vô hậu vi đại”, trong ba tội bất hiếu thì không có con nối dõi là lớn nhất. Do vậy, Khuất lão vô cùng thất vọng khi không sinh được con trai. Ông lại là chỗ dựa cho dòng họ Khuất ở Hồ Nam, nếu để gia sản lọt vào tay người ngoài tộc thì cháu chắt Tam Lư đại phu có nhiều người khốn khổ.
    Khuất Kỳ đã quyết định gả Thúy Lan cho một trong những cháu ruột của mình. Có như thế thì mới bảo toàn được sự thịnh vượng của tông môn. Khổ thay, lũ con của hai em trai Khuất Kỳ đều là hạng lục lục thường tài, văn dốt võ nát, buôn bán thì từ lỗ đến sạch vốn. Hơn nữa, bọn chúng đều ích kỷ, keo kiệt, sau này chắc chỉ bo bo giữ của, chẳng nghĩ gì đến họ hàng xa gần. Nhưng dẫu sao thì cũng còn hơn có rể là người ngoài.
    Tuy không biểu lộ ra song trong sâu thẳm đáy lòng Khuất Kỳ vẫn tiềm tàng sự đố kỵ đối với nhà họ Giả. Đó là thói thường tình của con người, chẳng ai tránh khỏi. Ngoài việc hơn thua của bản thân, Khuất Kỳ còn nặng tự ái khi con cháu Giả Nghị giầu sang hơn con cháu Khuất Nguyên. Lão họ Giả chết tiệt kia đâu thể sánh với cụ Tổ Tam Lư đại phu Khuất Nguyên, người đã được cả nước Trung Hoa tưởng nhớ bằng ngày tết Đoan Ngọ?
    Vì những lý do kể trên mà giờ đây Đàm Châu đại hiệp từ chối Giả Bạch Hổ một cách khôn khéo:
    - Hiền điệt đã quyết chí thì lão phu đành phải chiều lòng ngươi, song việc hôn sự thì lão phu không dám hứa. Lan nhi tính tình ngang bướng, chẳng bao giờ nghe theo sự xếp đặt của lão phu. Do vậy, hiền diệt cứ việc trổ tài chinh phục, nếu Thúy Lan ưng thuận làm đâu họ Giả thì lão phu sẽ tác thành.
    Giả Bạch Hổ đẹp trai nhất phủ Hồ Nam, gia thế cự vạn, nên tự tin ràng sẽ chiếm được trái tim của Thúy Lan sau vài lần thăm viếng đàm đạo. Gã hoan hỉ nhận lời:
    - Cảm tạ đại thúc đã chỉ giáo con đường sáng! Tiểu điệt sẽ cố gắng để được lọt vào mắt xanh của Lan muội!
    o0o
    Lác đác có thêm khách ở xa đến muộn. Trong số đó có một đại nhân vật, vừa là bạn vừa là anh rể của Khuất trang chủ. Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ đến nơi lúc xẩm tối. Hồ lão thất nghiệp từ lúc Tư Đồ Xán thọ thương, tuyên bố từ chức.
    Cơ trí của Hồ Sĩ Tuệ lừng danh thiên hạ, ngang tài với Táo Gia Cát Bùi Thế Trực dù tuổi có nhỏ hơn. Bởi thế, sự hiện diện của ông khiến Khuất Kỳ rất phấn khởi.
    Trại Tôn Tử là quân sư của võ lâm nên rất nhiều người biết mặt. Cử tọa lục tục đứng lên thi lễ với lão. Hồ Sĩ Tuệ tươi cười đáp lễ và đảo mắt nhìn khắp lượt tìm ai đó.
    Lên đến bàn chủ vị, lão chào hỏi Giám Hải thiền sư và Đàm Vân Tử xong là thớ dài tỏ ra vô cùng thất vọng.
    Lúc này Giả Bạch Hổ đã về Giả Gia Trang tắm gội, hẹn cuối canh hai sẽ quay lại.
    Đàm Vân Tử thắc mắc:
    - Hồ thí chủ vì sao lại thở dài? Dường như lúc nãy ông tìm ai thì phải?
    Trại Tôn Tử gật đầu:
    - Đúng vậy! Lão phu đang tìm một gã tiều phu trẻ tuổi! Không có gã thì cục diện đêm nay khó vãn hồi!
    Đàm Vân Tử hiểu ý, cười khà khà bảo:
    - Lão thí chủ cứ yên tâm! Cái gã cầm rìu ấy đã đi khỏi nhưng chắc chắn lát nữa sẽ có mặt.
    Hồ lão thở phào nhẹ nhõm:
    - May thực! May thực ! Lão phu tưởng cái nghề bói Dịch của mình vô dụng rồi chứ!
    Khuất lão hiếu kỳ hỏi:
    - Hỗ lão ca! Thế chẳng hay lại lịch chàng trai ấy thế nào? Và vì sao đêm nay không có y không được?
    Trại Tôn Tử liền kể lại việc Tư Đồ Xán bị bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên đánh trọng thươmg, phải từ chức rồi sau đó Thần Phủ Lang Quân đả bại họ Giáp.
    Đoạn này ông không hạ giọng nên cử tọa đều nghe rõ, vô cùng thán phục Lý Thu.
    Hồ lão nói tiếp, chỉ thì thầm đủ cho ba người cùng bàn tiếp thu:
    - Sau khi bàn giao xong Tổng đàn võ lâm cho Thiếu Lâm tự trông coi, lão phu vừa nghĩ đến việc xuôi Nam thăm Khuất Gia Trang thì nghe lòng máy động, bồi hồi một cách kỳ lạ! Lão phu liền bói thử một quẻ và biết rằng Khuất Gia Trang đang lâm đại họa. Đêm đến, lão phu chiêm nghiệm thiên văn, phát hiện hung tinh kiếp sát và chính tinh thiên phủ cùng ở hướng Nam. Chợt nhớ đến Lý Thu, lão phu khá yên tâm song vẫn hồi hộp, vẫn hồi hộp. Vội kiêm trình ngày đêm để đến đây, nửa đường thì nghe đồn đại về việc Quỷ Ảnh Hội muốn cướp Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất.
    Lão dừng lời, nhấp hớp trà rồi tiếp nối:
    - Lão phu bèn bói thêm một quẻ để xem hung kiết thì thấy tượng quẻ hôn ám, khó hiểu, đầy máu và quỷ khí. Nghĩa là đêm nay Quỷ Ảnh Hội sẽ đưa đến đây những tay cao thủ hạng nhất, bằng mọi giá cướp cho được Tỵ Hoả Châu.
    Kể xong, Hồ Sĩ Tuệ tưởng ba người kia sẽ lo âu, ngờ đâu họ vẫn thản nhiên. Và Đàm Vân Tử ỉm cười:
    - Hồ lão thí chủ cứ an lòng, nơi nào có mặt Ly Giang Tiên Ông thì tà ma chẳng thể lộng hành được.
    Trại Tôn Tử mừng rỡ:
    - Té ra lão già bất tử ấy cũng đã đến đây ư? Thế thì lão phu chẳng phải lo nữa rồi!
    Khuất Kỳ nói trước:
    - Đúng vậy! Giờ thì lão ca cứ an lòng vào hậu sảnh tắm gội, dùng cơm. Tiện nội và Lan nhi sẽ rất mừng khi được gặp lão ca.
    Trại Tôn Tử cười hỏi lại:
    - À! Con bé Thúy Lan giờ thế nào, có còn gầy đét như ba năm trước không?
    Khuất Kỳ nhăn mặt đáp:
    - Lan nhi đã trở thành một thiếu nữ xinh đẹp, song tính tình ngang ngược, tinh nghịch đến mức tiểu đệ nhức cả đầu. Nhân dịp này mong lão ca dạy dỗ ả vài lời, Thúy Lan chỉ phục mình đại cửu phụ mà thôi.
    Hồ Sĩ Tuệ cười khanh khách bỏ vào trong. Ba khắc sau, lão đã quay lại, sắc mặt rất trầm trọng và nói ngay:

  11. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Album Ngày Nào Em Đi Lấy Chồng








    Ngày nào em đi lấy chồng

    Bước tình Hồng

    Em lễ chùa nầy

    Xuân vui ca

    Em đã thấy mùa xuân chưa

    Mộng ban đầu

    Mừng Xuân

    Như giọt sầu rơi

    Tiễn bước sang ngang

    Gọi anh mùa Xuân



    Last edited by giavui; 05-13-2020 at 05:10 PM.

Trang 1 / 6 123 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •