Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những luyến tiếc về tình yêu vẫn còn tạo nên hạnh phúc.
Lermontov
Trang 2 / 6 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 54

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký

  1. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Lan nhi vừa kể cho lão phu nghe việc Giả Bạch Hổ xin tham chiến và đòi cưới nó. Điếu này ứng với giấc mộng đêm qua của lão phu. Trong mơ, lão phu thấy một con cáo trắng ngậm viên Tỵ Hỏa Châu đứng giữa cảnh điêu tàn đổ nát của Khuất Gia Trang. Hắn ta đâu rồi?
    Khuất Kỳ cau này thở dài:
    - Cuối canh hai sẽ hiện diện. Lúc đó phiền lão ca quan sát tướng mạo, tìm hiểu xem tâm địa gã thế nào? Tuy hai nhà Giả - Khuất khá thân thiết song tiểu đệ không có cảm tình với gã.
    Giám Hải thiền sư bỗng hỏi:
    - Hỗ lão thí chủ có biết vì sao Quỷ Ảnh Hội lại quyết tâm chiếm đoạt Tỵ Hỏa Châu hay không ?
    Trại Tôn Tử trầm ngâm đáp:
    - Tỵ Hỏa Châu tuy hiếm có trên đời song cũng chỉ là vật vô dụng vi chẳng ai dại gì đâm đầu vào lửa đỏ. Nghĩ mãi không ra, lão phu bèn tra lại cổ thư và phát hiện một điều là Ty Hỏa Châu, vật chí âm của trời đất, có thể giúp người ta luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng thần công. Vậy phải chăng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã tìm được bí kíp của tuyệt học thất truyền kia nên mới cần Tỵ Hỏa Châu?
    Trụ trì chùa Kỳ Viên nghiêm giọng:
    - Chỉ mong chẳng phải như thế, nếu không thì thiên hạ đại loạn. Bẩy mươi năm trước Huyền Băng Thần Quân Lương Túc Thoại đã từng dùng thứ Quỷ chưởng ấy mà giết chóc, khống chế các phái Trung Nguyên. May thay, cuối cùng thì một vị kỳ nhân ẩn danh đã nuốt Tỵ Hàn Châu mà giết được họ Thương.
    Đàm Vân Tử thắc mắc:
    - Vậy chẳng lẽ Tỵ Hỏa Châu có đến hai viên?
    Trại Tôn Tử gật đầu:
    - Đúng thế! Viên thứ nhất đã bị Huyền Băng Thần Quân dung hoá thành chân khí, viên thứ hai này do Tổ phụ nhà họ Khuất tình cờ mua được đã bốn đời.
    Đàm Vân Tử thản nhiên bảo:
    - Nếu đúng vậy thì chúng ta cứ hủy hoại Tỵ Hỏa Châu để tránh tai họa cho võ lâm.
    Khuất Kỳ khổ sở đáp:
    - Không được! Thứ nhất là vì chúng ta không biết rõ có đúng là Quỷ Ảnh Hội chủ cần nó vì mục đích gì. Thứ hai là năm trước tiên mẫu ăn nhầm một con cá lạ, thân thể nóng ran, chân hỏa bốc lên phong bế tâm mạch, nên lúc nào cũng .phải đeo Tỵ Hỏa Châu, rời xa một ngày là mất mạng.
    Đàm Vân Tử bối rối nói:
    - Bần đạo không biết nội tình nên đã nói càn, mong Khuất lão thí chủ lượng thứ cho.
    Trại Tôn Tử xua tay:
    - Đấy chỉ là chuyện nhỏ, chuyện đáng nói là sau trận này Quỷ Ảnh Hội có chịu từ bỏ dã tâm hay không? Chẳng lẽ nhà họ Khuất phải dọn vào phủ đường mà ở?
    Ba người kia giật mình, biết lão nói không sai. Với lực lượng của Quỷ Ảnh Hội thì Khuất Gia Trang chẳng thể nào chống cự được nữa.
    Khuất Kỳ buồn bã nói:
    - Thực ra dù có được quân triều đình bảo vệ cũng không ngăn được nổi những cao thủ có thân pháp quỷ mị của phe đối phương. Mong Hồ lão ca bàn cho một diệu kế để Khuất Gia Trang khỏi tai ương này.
    Hồ Sĩ Tuệ gật gù:
    - Kế thì có nhưng lão phu muốn hỏi rằng ngoài hiền đệ và vợ con ra thì còn ai biết việc lão thái mang Tỵ Hỏa Châu trong người để trị bệnh không?
    Khuất Kỳ lắc đầu:
    - Bẩm không! Tiện nội đích thân chăm sóc gia mẫu nên bọn nô tỳ thân tín cũng chẳng rõ việc này. Vị đại phu chữa bệnh cho gia mẫu cũng đã từ trần hồi năm ngoái.
    Hồ Sĩ Tuệ hoan hỉ bàn:
    - Thế thì hay lắm! Cái kế giá họa Giang Đông của lão phu đã có chỗ dùng rồi!
    Lão bèn trình bày kế hoạch của mình. Nghe xong, Khuất Kỳ ngơ ngác:
    - Nhưng ai là người đủ tài phá vòng vây của Quỷ Ảnh Hội mà đào thoát chứ? Hơn nữa biết đâu y chẳng mang ngọc mà chuồn thẳng?
    Trại Tôn Tử mỉm cười:
    - Người ấy chính là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu. Với bản lãnh của y thì chẳng ai có thể giữ chân hay đuổi kịp! Còn việc có đáng tin hay không thì hiền đệ cứ gả Thúy Lan cho y là xong. Lẽ nào con rể lại cướp ngọc của cha vợ? Vả lại lão phu nghe kể rằng y là người hào phóng, rộng lượng, dám tặng cho Lan nhi mười hai viên Hồng Bảo Ngọc trị giá ngàn vàng. Người như thế thì tham Tỵ Hỏa Châu làm quái gì?
    Khuất Kỳ băn khoăn:
    - Nhưng liệu Thúy Lan có chịu lấy Lý Thu hay không? Nó được Gia mẫu cưng chiều nên chẳng bao giờ nghe lời tiểu đệ.
    Hồ lão tủm tỉm cười:
    - Hiền đệ cứ yên tâm! Gã họ Lý đà lọt vào mắt xanh củia Thúc Lan rồi!
    Khuất Kỳ bâng khuâng:
    - Con bé này nông nổi thực! Chúng ta nào biết lai lịch, nhân phẩm của Lý Thu thế nào đâu?
    Đàm Vân Tử ngắt lời lão:
    - Việc ấy không đáng lo. Một kẻ đã được Ly Giang Tiên Ông chấm thì không thể tầm thường được. Bần đạo chỉ sợ một điều là sau này chàng rể nhà họ Khuất sẽ trở thành mục tiêu của Quỷ Ảnh Hội và không thể thoát chết. Cây búa đặc biệt của y đâu thể giấu ai được?
    Trại Tôn Tử tư lự:
    - Lão phu đã nghĩ đến điều ấy! Nhưng lão phu đã chứng kiến trận đấu giữa họ Lý với bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên và nhận ra rằng phủ pháp của y dường như thoát thai từ một pho kiếm pháp. Nghĩa là Lý Thu có thể sử dụng kiếm. Nếu đúng vậy thì họ Lý chỉ cần bịt mặt, cầm kiếm là không sợ bị nhận ra lai lịch.
    Đàm Vân Tử nghi hoặc:
    - Để biết chắc, bần đạo sẽ ra ngoài chờ đợi rồi đưa Ly Giang Tiên Ông và Lý Thu vào cửa hông, đến thẳng thư phòng ở hậu viện. Tam vị hãy xuống đấy chờ đợi và không được để ai biết chuyện này.
    Hố lão tán thành:
    - Đạo trưởng quả là cao kiến, bọn ta xin tuân lệnh.
    Khuất Kỳ hiểu ý, giả vờ cao giọng mời ba vị thượng khách vào vấn an Khuất lão thái.
    Quần hào ở dưới chẳng hề hay biết, kể cả nội gián của Quỷ Ảnh Hội, nếu có, và thực ra chắc chắn là có, vì đối phương chẳng dại gì mà không cài người vào dò xét động tĩnh Khuất Gia Trang. Thủ đoạn ấy luôn được bọn tà ma sử dụng.
    Đàm Vân Tử lén đi lối cửa hông ở mé tường hướng Đông, luồn ra phía trước gia trang mà chờ đợi. Quả nhiên, khoảng gần cuối canh hai thì gặp thầy trò Tư Đồ Sảng đi đến.
    Đàm Vận Từ nhảy ra chặn đường cung kính nói:
    - Tiểu điệt Đàm Vân Tử xin bái kiến sư thúc!
    Tiên Liêu Chân Nhân cười bảo:
    - Té ra là ngươi vẫn chưa quên bần đạo. Sư phụ ngươi có khỏe không?
    Đàm Vân Tử buồn rầu đáp:
    - Gia sư đã thăng thiên hồi giữa năm ngoái.
    Tiên Liêu Chân Nhân không nói lời chia buồn mà cười khánh khách:
    - Không ngờ Thanh Liên Tử lại nóng ruột thành tiên hơn bần đạo. Cũng mừng cho lão ta, à! Ngươi đón bần đạo vì việc gì?
    Đàm Vân Tử vội nói:
    - Chuyện rất dài dòng, không thể nói ở đây được. Mời sư thúc và Lý thí chủ đi theo lối cửa hông, vào hậu viện để thương lượng. Chỉ lát sau, ba người đã có mặt tại thư phòng ở giữa vườn hoa nhỏ, sau dãy phòng ngủ cửa gia đình chủ nhân.
    Ngoài Khuất Kỳ, Trại Tôn Tử và Giám Hải thiền sư còn có Khuất phu nhân và Thúy Lan cô nương. Khuất phu nhân muốn biết mặt rể quý nên mò đến. Phần Thúy Lan thì không rõ ý định của cha và cậu nên thản nhiên đi theo mẹ.
    Sau nghi lễ chào hỏi, Trại Tôn Tử trình bày tỏ tường mọi việc, từ cục diện hiểm nghèo đến cái kế gia họa Giang Đông của mình.
    Tiên Liêu Chân Nhân cười mát:
    - Chẳng lẽ Khuất thí chủ không sợ đồ đệ của lão phu cuỗm của quí chạy mất hay sao? Bần đạo mới thu nhận được vài canh giờ nên không thể bảo đảm rằng y tốt hay xấu được.
    Đàm Vân Tử hân hoan nói với Lý Thu:
    - Bần đạo xin chức mừng Lý thí chủ! Ngươi được trở thành học trò của Ly Giang Tiên Ông là một diễm phúc mà cả thiên hạ khát khao. Theo bối phận, ngươi phải gọi ta là sư huynh. Tiên Ông và gia sư vốn là bằng hữu chí thân.
    Tư Đồ Sảng sững người không ngờ Tiên Liêu Chân Nhân lại chính thị bậc dị nhân mà võ lâm vẫn truyền tụng. Ly Giang Tiên Ông thâm giao với sư tổ chàng là Du Long Chân Nhân. Cha chàng từng kể rằng Tiên Ông nhiều lần đến chơi núi Cổ Sơn, cùng Du Long Chân Nhân đánh cờ và bàn về đạo lớn.
    May mà Tư Đồ Quát đã qua đời, nếu không thì sẽ gọi con trai mình bằng sư huynh.
    Nhắc lại, Khuất Kỳ bèn lẽn trả lời Tiên Ông:
    - Vãn bối chẳng dám nghĩ vậy.
    Trại Tôn Tử cười khà khà hởi Tư Đồ Sảng:
    - Này Lý công tử! Lão phu muốn đứng ra làm mai con bé Thúy Lan này cho ngươi, chẳng hay bậc anh hùng nghĩ sao?
    Cả Tư Đồ Sảng lẫn Khuất Thúy Lan đều thẹn đỏ mặt, lúng ta lúng túng chẳng nói nên lời. Cuối cùng, Thúy Lan phụng phịu trách móc:
    - Đại cửu phụ kỳ quá! Diệt nữ không lấy chồng đâu!
    Rồi nàng bỏ chạy khỏi thư phòng, hấp tấp như bị ma đuổi.
    Ly Giang Tiên Ông cau mặt báo:
    - Cuộc đời của đồ đệ bần đạo rất sóng gió, gặp nhiều kiếp nạn, sinh tử khó lường. Vì vậy, việc hôn sự khoan hãy bàn đến. Ba năm sau, nếu y còn sống mà Khuất Gia Trang vẫn không đổi ý thì lương duyên sẽ vẹn toàn.
    Vợ chồng họ Khuất và Trại Tôn Tử nghe thế cũng nản, chẳng tha thiết gả con cho Lý Thu nữa.
    Vả lại Lý Thu đã là đệ tử của thiên hạ đệ nhất kỳ nhân là Ly Giang Tiên Ông thì hoàn toàn có thể tin tưởng được, chẳng phái sợ gã cướp Tỵ Hỏa Châu chuồn thẳng.
    Trại Tôn Tử ấp úng hỏi:
    - Bẩm Tiên Ông! Chẳng hay lệnh đồ có sử dụng kiếm được không?
    Tiên Liêu Chân Nhân cười xòa :
    - Được chứ! Bần đạo mới dạy y ba chiêu, dư sức để dùng!
    Kế hoạch được triển khai, Tư Đồ Sảng trùm kín đầu bằng túi vải trắng, chỉ chừa hai lỗ mắt mà thôi.
    Đang chịu tang song thân nên Tư Đồ Sảng tránh những mầu sặc sỡ, chỉ mặc hai thứ y phục trắng hoặc đen. Giờ đây chàng như bóng ma trắng toát, dễ dàng hòa lẫn với cây cối trong một đêm Đông đầy tuyết.
    Khuất trang chủ đưa Tư Đồ Sảng ra vườn hoa lớn, bảo chàng nhẩy lên một cây bách cao cành lá um tùm. Bách là loài cây thân gỗ lớn thường xanh nên trong lúc lũ thông đồng tiền trơ trụi thì nó vẫn còn rậm rạp. Cây bách già nua này cao đến chín mười trượng. Tư Đồ Sảng liến chọn một cành cách mặt đất bốn trượng. Cành ấy lớn cỡ bằng bắp đùi, thừa sức chịu đựng trọng lượng cơ thể của chàng.
    Ngày còn nhỏ dại, bắt đầu luyện khinh công, Tư Đồ Sảng từng ngây thơ hỏi cha:
    - Phụ thân à! Hài nhi nghe mẫu thân kể rằng những đại cao thủ trong nghề võ có thể đứng trên ngọn trúc nhỏ mà không thể làm cho nó gẫy được! Phụ thân có đạt đến mức ấy không?
    Tư Đồ Quát đã phì cười:
    - Mẹ ngươi kể chuyện thần tiên chứ chẳng phải chuyện võ công đâu! Con người luôn gắn liền với mặt đất, nhờ khổ luyện nhiều năm, đôi chân ngày càng rắn chắc, mạnh mẽ nên mới có thể nhẩy cao hoặc chạy nhanh như vó ngựa.Tuy nhiên, khinh công chẳng thể làm giảm trọng lượng của thân xác nên lúc nào cũng cần một lực nâng tương xứng. Kẻ đứng được trên cành trúc nhỏ chỉ có thể là ma hoặc thần tiên.
    Tư Đồ Sảng nhớ lại cố sự ấy, một thoáng điểm nụ cười. Song mắt lại nhuốm bi thương. Chàng đã mãi mãi mắt đi người cha thân yêu và cũng là người thầy tận tụy. Ông luôn sẵn sàng giải đáp thắc mắc của con trai, dù là điều ngớ ngẩn nhất.
    Hai khắc sau, Đàm Vận Tử chạy ra, nhẩy lên cây và dặn dò:
    - Lý sư đệ! Giả Bạnh Hồ vừa dẫn đến một lão già áo cừu đen, sử dụng loan đao, để bổ sung cho nhóm năm người sẽ xuất trận. Sư phụ ngươi, Ly Giang Tiên Ông đã nhận ra lão ta là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên, ác nhân khét tiếng đất Vân Nam. Tiên Ông bảo rằng sư đệ có thể nhân dịp này giết hoặc đả thương lão ta, trước là trừ hại cho bách tính, sau là tạo sự tin tưởng cho Quỷ Ảnh Hội. Nếu ngươi cướp ngọc mà không lấy máu người của Khuất Gia Trang thì đối phương sẽ nghi ngờ...
    Tư Đồ Sảng liền hứa sẽ tuân mệnh, tùy nghi sẽ xử trí. Đàm Vân Tử đi rồi, chàng bâng khuâng suy nghĩ:
    - “Lạ thực! Gã Giả Bạch Hổ này là con nhà đại phú, vì sao lại chiêu mộ toàn những ác nhân như thế nhỉ?”.
    Gío Bắc rít lên từng hồi khua động cành lá và làm rét mướt kẻ đang phơi mình trong làn mưa tuyết. Ban đêm, mặt trời đi ngủ nên độ ẩm cao, tuyết rơi dầy hơn ban ngày. Tư Đồ Sảng khép kín vạt áo lông cừu trắng, chợt nhớ đến hai gương mặt ma chê quỷ hờn của Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng. Chàng biết họ xấu hơn Thúy Lan trăm lần nhưng không hiểu sao ánh mắt, nụ cười ấy lại quyến rũ lạ lùng!
    Có mẽ đã gần cuối giờ Hợi nên tiếng chân người rộn rã và ánh đèn đuốc rực sáng vườn hoa. Khuất Kỳ cùng một số hào kiệt đã kéo ra nghênh chiến. Số còn lại cùng với bọn gia nhân của Khuất Gia phòng thủ chặt chẽ những nơi quan trọng, đề phòng kẻ địch không giữ quy củ mà lấy thịt đè người. Tuy bao năm nay Quỷ Ảnh Hội vẫn thực thi việc so tài đoạt bảo, song biết đâu lần này họ giở quẻ?
    Hoặc giả họ giả vờ đòi Tỵ Hoả Châu song lại nhắm vào kho vàng bạc của Khuất Gia Trang?
    Số người hiện diện ở vườn hoa vào khoảng bốn mươi, toàn là những tay kiệt xuất nhưng không có Tiên Liêu Chân nhân tức Ly Giang Tiên Ông.
    Tư Đồ Sảng chú ý đến người mặc áo cừu đen đứng cạnh Giả Bạch Hổ đoán rằng đấy là Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên.(Lan Thương Giang là tên của đoạn sông Mê Công chảy trên đất Trung Hoa).
    Dưới ánh đuốc chập chờn vì ngọn đông phong, gương mặt của họ Lưu hiền hòa, đẹp lão, chẳng hề có một nét gì là người gian ác.
    Nhưng Tư Đồ Sảng đã được cha kể sơ về ác tích của Lưu Xuyên, một kẻ mặt người lòng thú, chẳng tội ác nào không dám làm. Chàng quyết định trừng trị lão, hoàn thành tâm nguyện của phụ thân.
    Tư Đồ Quát đã nung đúc trong tâm hồn con trai hình tượng chàng hiệp khách tài ba, nhân hậu, luôn xả thân trừ gian diệt bạo. Và khi ông nhắc đến kẻ hung ác nào trong võ lâm thì cùng đều biếu lộ sự căm ghét! Muốn hắn biến mất khỏi thế gian, để lương dân đỡ lầm than. Tư Đồ Quát thừa lòng hào hiệp nhưng bản lãnh có hạn nên đã phải làm ngơ trước sự hoành hành của lũ hung cuồng. Biết con trai thần lực hơn người, pho Giáng Ma Phủ Pháp lại là tuyệt học hiếm có, Tư Đồ Quát bèn nuôi mộng rằng con mình sẽ trở thành bậc đại hiệp danh lưu muôn thuở, thực hiện được những điều mà ông bất lực.
    Dòng hồi tưởng của Tư Đổ Sảng bị cắt đứt vì ánh mắt chàng chạm phải luồng hào quang xanh biếc của viên Tỵ Hỏa Châu.
    Khuất trang chủ đã mở hộp nhỏ chứa ngọc và đặt lên mặt chiếc bàn đá giữa hoa viên, nơi ông thường cùng vợ con thưởng nguyệt những đêm xuân.Cạnh hộp ngọc là rương gỗ đựng hai chục đĩnh vàng, mỗi đĩnh năm chục lượng.
    Xung quanh bàn là tám chiếc đôn bằng đá vân thạch đại lý, chân được chôn cố định xuống nền đất.
    Tư Đồ Sảng hài lòng vì biết mình đủ sức nhẩy xuống vị trí ấy dễ dàng. Chàng nheo mắt ngắm nghía viên ngọc xanh to bằng hạt nhãn đang tỏa sáng dưới ánh đuốc, tự hỏi rằng có đúng là nó thần điệu đến mức giúp người ta bước đi trong lửa đỏ hay không?
    Theo đúng kế hoạch, Đàm Vân Tử đã cắm hàng chục cây đuốc dầu mỏ có cán dài quanh bàn. Chúng sẽ làm vướng chân người ở ngoài xông vào chứ không ngăn cản kẻ từ trên cao nhẩy xuống. Điều này sẽ tạo thuận lợi cho Tư Đồ Sảng, bảo đảm rằng chàng có thể chụp được hộp gỗ trước khi có người lao đến, dù ở phe nào cũng vậy.
    Chiếc bàn đã nằm ở hướng Đông gốc bách và Tư Đồ Sảng sẽ thoát đi bằng hướng ấy nên Đàm Vân Tử đã bố trí Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên đứng chặn. Lưu Xuyên sẽ phải đền tội và làm vật hy sinh cho kế Giá Họa Giang Đông.
    Kế này của bọn mưu sĩ thời Đông Chu, vốn có tên là Di Thi Giá Họa. Sau này, đến thời Tam Quốc, Lữ Mông của Đông Ngô giết Quan Vân Trường xong bèn gửi xác nạn nhân cho Tào Tháo để đổi hướng cơn giận dữ của Lưu Bị Từ đó, kế Di Thi Giá Họa thường được gọi là Giá Họa Giang Đông.
    Nhắc lại, năm cao thủ của Khuất Gia Trang vừa bố trí xung quanh chiếc bàn đá xong thì phe đối phương xuất hiện. Bọn Quỷ Ảnh Hội vượt tường vây vào đến nơi mà không hề bị ai cản trở cả. Tuy họ chỉ có tám người song nhắc chắn ngoài kia có cả một lực lượng hùng hậu để đề phòng chủ nhà chơi trò ỷ chúng hiếp cô.
    Tám người này toàn thân hắc y, đầu trùm kín bằng túi vải, áo cừu cũng đen mun. Họ đứng thành hình cánh cung, tay nắm chặt chuôi đao.
    Người ở giữa có thân hình cao gầy, có lẽ là đầu lĩnh của cả bọn nên lên tiếng:
    - Khuất trang chủ! Lần này bổn Hội cử đi toàn những cao thủ hạng nhất, hơn hẳn những người đã từng giết Lư Sơn Ngũ Hiệp ở Giang Tây. Vì vậy, tốt nhất là ông nên dâng nạp ngay Tỵ Hỏa Châu để khỏi bị chết oan.
    Nghe vậy, Khuất Kỳ thực sự bị chấn động song cho rằng cuộc chiến sẽ không kéo dài nên chẳng sợ hãi. Ông nghiêm nghị đáp:
    - Cảm tạ túc hạ đã cảnh báo! Nhưng Khuất mỗ cũng có chút thanh danh trên giang hồ, chẳng thể ngoan ngoãn để mất bảo vật tổ truyền mà không chống cự. Túc hạ cứ việc cử ra, năm người của mình đúng như quy củ.
    Người kia bật cười ghê rợn:
    Bổn tọa đã mở ra sinh lộ nào ngờ ngươi lại ngu muội, cố chấp liều chết bởi chút hư danh . Giờ thì ngươi có chết cũng là đáng lắm!
    Nghe cách xưng hô, Khuất Kỳ hiểu ngáy rằng hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã đích thân xuất trận. Có lẽ viên Ty Hỏa Châu cực kỳ quan trọng nên lão ta đã không thể yên tâm giao cho thủ hạ hành động.
    Hội chủ Quỷ Ảnh Hội đã cùng bốn gã hắc y nữa lướt đến, chia nhau tấn công phòng tuyến quanh bàn đá. Tất nhiên lão ta chọn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ làm đối thủ.
    Thanh đao của lão ta rạng ngời ánh thép xanh lè, chứng tỏ là của quý. Tư Đồ Sảng sững sờ nhận ra rằng đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ còn nhanh hơn Giáng Ma Phủ. Đao ảnh nối nhau thành một dải lụa xanh sáng, bay lượn cuồng loạn song chiêu thc cực kỳ hiểm ác, phong tỏa hoàn toàn trường liếm của Khuất Kỳ.
    Tuy nhiên, Đàm Châu đại hiệp là kẻ có thực tài, bản lãnh đứng đầu phủ Hồ Nam, nên không dễ bị thua ngay. Ông nghiến răng chống cự rất kiên cường, đường gươm kín đáo, thận mật, thỉnh thoảng mới công một đòn chớp nhoáng.
    Ỷ vào Tư Đồ Sảng nên Khuất Kỳ không cần phải để dành sức lực cho cuộc chiến lâu dài. Ông dồn toàn lực ngay những phút đầu tiên, cố bảo toàn tính mạng cho đến lúc kỳ tích xuất hiện. Ông cũng như chú rùa yếu đuối rút vào lớp mai cứng rắn, khiến hổ báo khó mà giết ngay được.
    Mặt trận của bốn người kia cũng thế nhưng họ không phải vất vả như Khuất Kỳ. Võ nghệ của bọn thủ hạ tất nhiên phải kém chủ tướng vài bậc.
    Giám Hải thiền sư là bậc cao tăng, vì tình nghĩa với họ Khuất mà tham chiến chứ không hề muốn giết người. Nay đã có kế Di Thi Giá Họa, thiền sư chỉ mong thủ hòa, giữ vững phòng tuyến mà thôi. Phép đánh thiền trượng của Thiếu Lâm Tự lừng danh thiên hạ nên khi Giám Hải đã cố thủ thì đối phương chỉ còn cách chờn vờn ở ngoài tầm trượng, lão hắc y kia nhiều lần thi triển thân pháp ập vào song đều phải dội ra.
    Đàm Vân Tử thì nhanh hơn đối thủ của mình một chút, ung dung đối phó bằng đấu pháp Dĩ Tịnh Chế Động, không rời khỏi vị trí. Chẳng còn cá cược với ai nên Giả Bạch Hổ không phái thực hiện việc đả thương kẻ địch trong vòng mười chiêu. Gã điềm nhiên cự địch bằng một loại kiếm pháp rất ảo diệu và nhanh nhẹn. Bốn hắc y nhân, thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ, chắc chắn đều là hạng lão thành, có công lực thâm hậu, thế mà, Bạch Hổ vẫn ngang nhiên va chạm vũ khí thì chân nguyên của gã không thể kém.
    Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao Lưu Xuyên cũng bình thủ với lão hắc y thứ tư biểu hiện một bản lãnh khá cao siêu.
    Thẹo kế hoạch thì Tư Đồ Sảng phải chờ trận đấu diễn ra chừng nửa khắc rồi mới nhẩy xuống, nhưng không ngờ Quỷ Ảnh Hội chủ lại đích thân đấu với Khuất trang chủ. Lão ta nổi giận vì không giết được Khuất Kỳ, ngay trong năm chục chiêu đầu, nên đã ra đòn thủ mạng.
    Thanh bảo đao của lão rít lên như xé lụa, đao kình thổi vù vù mang theo hơi thép lạnh rợn người. Và luồng đao quang xanh sáng ấy hung hãn công phá, làm cho trường kiếm của Khuất Kỳ rung lên bần bật. Không những thế, Đàm Châu đại hiệp còn bị rách hổ khẩu và bị đẩy lùi về phía sau. Nhận ra rằng Khuất lão sắp lâm nguy, Tư Đồ Sảng vội tung mình đáp xuống bàn đá, thò tả thủ chụp lấy hộp ngọc, nhét cả vào ngực áo. Ba gã Quỷ Ảnh Hội đang đứng quan chiến vì rảnh rang nên sớm quát tháo:
    - Có kẻ cướp ngọc!
    Và họ bước đến để ngăn chặn.
    Theo đúng kế hoạch thì Tư Đồ Sảng đâm vào lưng Lan Thương Tuyệt Mệnh Đao rồi tung mình qua đầu đối thủ của Lưu Xuyên mà đào tẩu. Nhưng lúc này chàng lại không thể làm như thế vì Khuất Kỳ đã trúng một đao, nhẩy ngược về phía sau đến tận chỗ cây đuốc dài, thân hình lảo đảo gục ngã. Và bang chủ Quỷ Ảnh Hội thì đang xấn đến định lấy mạng họ Khuất.
    Tư Đồ Sảng kinh hãi vung cước hất nương vàng vào mặt Quỷ Ảnh Hội chủ, đồng thời chàng vọt theo, dồn toàn lực vào chiêu “Hắc Vân Áp Đỉnh”. Các chiêu trong hai pho Giáng Ma kiếm pháp và Phủ pháp đều trùng tên, chỉ khác ở thế thức.
    Trường kiếm của Tư Đồ Sảng giăng mắc muôn ngàn kiếm ảnh tựa đám mây u ám chụp xuống đầu kẻ địch. Là kiếm pháp nên chiêu kiếm gồm nhiều thức đâm và tốc độ nhanh hơn búa bội phần.
    Có thể chiêu kiếm này không dọa khiếp nổi một đại cao thủ như Quỷ Ảnh ội chủ nhưng Tư Đồ Sảng đã có rương vàng hỗ trợ.
    Một ngàn lượng vị chi là hơn sáu mươi hai cân, một trọng lượng đáng kể đủ để làm chậm đường đao của Quỷ Ảnh Hội chủ.
    Đuốc quanh bàn đã bị gió bấc và kình phong của cuộc chiến chung quanh thổi tắt gần hết, tuyết lại rơi mù mịt khiến không gian nhá nhem và làm cho Quỷ Ảnh Hội chủ không nhìn rõ cái vật đang bay đến. Lão chỉ còn cách dùng đao ngăn chặn, chém nát chiếc rương.
    Lão tưởng gã bạch y kia lấy được của báu rồi thì sẽ chuồn ngay bằng hướng khác, chẳng dại gì chạm trán với lão ta cũng như ba vị hộ pháp đang chạy đến. Nào ngờ, bạch y nhân lại liều lĩnh nhẩy xuống tấn công, không chịu lấy thảm cảnh của Đàm Châu đại hiệp mà làm gương.
    Quỷ Ảnh Hội chủ thần tốc biến chiêu, đao quang rực rỡ, tạo thành chiếc lọng thép để đón chào kẻ địch. Dĩ nhiên lão không thể tập trung đầy đủ công lực như lúc đối phó với rương vàng.
    Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng có được chút ưu thế. Đao kiếm chạm nhau, Quỷ Ảnh Hội chủ chợt phát hiện chiêu kiếm của đối phượng cực kỳ ảo diệu, mãnh liệt và chứa đầy sát cơ trong những nhát điểm nhanh tựa mưa rào. Lão vừa đảo bộ thoái lui thì bị một mũi kiếm như tia chớp xuyên qua lưới đao, đâm vào ngực phải. Quỷ Ảnh Hội chủ vội vung tả thủ vỗ vào bản của thanh trường kiếm để đánh bạt đi. Do đó, mũi kiếm chỉ có thể đâm sâu độ hai lóng tay, và rạch đứt một đường dài khoảng gần gang trên ngực cũng như bắp tay phải của lão ta.
    Diệu dụng của bàn tay tả là như vậy cho nên, các võ sĩ thường bắt kiếm ấn để phòng thủ ngực bụng chứ không cần vỏ đao hay vỏ kiếm.
    Các loại bao của vũ khí đều được làm bằng đồng mỏng, không thể nào chống đỡ với những nhát chém mãnh liệt của những thanh đao, hoặc kiếm bằng thép tốt. Vả lại, vỏ bao vốn trống rỗng nên yếu đuối, dù bằng thép cũng vô dụng.
    Các thức đâm của đao hoặc kiếm đều ở tư thế xoay dọc lưỡi nên bàn tay thịt có thể chạm vào mà không sợ tổn thương. Nhất là khi nó được dồn đầy chân khí.
    Nhắc lại, Tư Đồ Sảng đả thương Quỷ Ảnh Hội chủ, đẩy lão lùi xa Khuất trang chủ xong, liền. lao vút về hướng Đông mà đào tẩu. Sinh mạng cua Khuất lão chẳng còn đáng ngại vì Pháp Hải thiền sư và Đàm Vân Tử đã đánh văng kẻ địch của họ, nhảy đến che chắn cho ông ta!
    Hơn nữa, Quỷ Ảnh Hội chủ không còn chú ý đến Đàm Châu đại hiệp mà điên cuồng đuổi theo chàng! Bảy kẻ thủ hạ của Quỷ Ảnh Hội chủ cũng vậy!
    Đàm Vân Tử thì quát vang:
    - Chặn gã Bạch y lại!
    Giả Bạch Hổ và Lưu Xuyên vội lao đi vì họ hoàn toàn không biết gì về kế giá họa Giang Đông.
    Từ chỗ bàn đá đến chân tường vây hướng Đông chỉ có bọn hào khách của Khuất gia trang nhưng không nhiều. Họ xông vào chặn đường Tư Đồ Sảng nhưng đều bị văng ra khi chạm phải luồng kiếm quang kiên cố quanh người chàng !
    Khi đến gần tường vây, Tư Đồ Sảng chạm mặt Tổng Quản Khuất gia trang là Tề Thái Thông. Tề lão vốn là bái đệ của Khuất Kỳ, trước đây từng phò tá họ Khuất xây dựng cơ nghiệp.
    Lão không có danh tiếng gì song thực ra kiếm pháp chỉ kém Khuất Kỳ một bậc.
    Tề Thái Thông quát mắng từ xa:
    - Cẩu tặc đừng mong trốn thoát! Rồi lão hung hăng xông đến, tấn công kẻ cướp ngọc bằng một chiêu vô cùng mãnh liệt. Than ôi! Chỉ sau vài tiếng thép va chạm, Tề lão đã rú lên đau đớn vì ngực phải bắn máu hồng.
    Bạch y nhân chẳng hề bị chậm bước, nhảy tót lên đầu tường vây, rơi xuống bên ngoài và ung dung lướt nhanh vào màn đêm mù mịt tuyết sương!
    Gã không bị ai chặn lại vì tám tên Quỷ Ảnh Hội canh gác mé này đều bị mê man bởi một loại mê dược đáng sợ nào đó.
    Khinh công của gã Bạch y quả là đáng khâm phục, chỉ thoáng cái đã biệt tăm. Quỷ Ảnh Hội chủ bị thương nên không tiện truy đuổi đến cùng, hậm hực bỏ đi!

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 5

    Khuất Gia Vô Quí Tế
    Thiên Sư Hữu kỳ Hoa
    Trưa hôm sau thầy trò Tư Đồ Sảng rời một căn nông xá cách Khuất gia trang sáu dặm. Họ không trở vào thành Trường Sa mà đi đường nhỏ để xuôi Nam. Ly Giang Tiên Ông đưa đồ đệ đến một tòa đạo am của người quen ở chân núi Hành Sơn. Tại nơi này, Tiên Ông tận tâm dạy dỗ Tư Đồ Sảng, đưa chàng vào cảnh giới của kiếm đạo. Đến cuối tháng tư năm sau. thì Tư Đồ Sảng tiếp thu trọn vẹn tinh túy của nghề đánh kiếm. Đấy là nhờ chàng có sẵn công lực thâm hậu và căn cơ võ học bẩm sinh, kiếm đạo cần cả sự giác ngộ chứ không phải chỉ thời gian! Có những kẻ luyện kiếm năm mươi năm mà vẫn không sao đạt đến cảnh giới kiếm đạo.
    Phủ pháp của Tư Đồ Sảng cũng tăng tiến hơn xưa, có thể tùy nghi biến hóa từ bất cứ chiêu kiếm nào. Chàng còn học được thêm pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, tâm huyết một đời của Ly Giang Tiên Ông!
    Vài ngày sau, Tiên Ông nhập định rồi tọa hóa, trên môi còn nở nụ cười mãn nguyện! Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết khi lại phải mất đi người thân duy nhất.
    Tuy thời gian gần gũi chỉ bốn tháng nhưng chàng đặc biệt kính yêu vị sư phụ có cốt cách thần tiên này!
    Pháp thể của ông được đặt tạm vào một động nhỏ trên núi Hành Sơn, cách đạo am không xa. Trụ trì của am là Vô Lự Chân Nhân, bằng hữu của Tiên Ông, đã tiến hành mai táng theo nghi lễ của Đạo Giáo! Chân Nhân và Tiên Ông đều là người của Thiên Sư Giáo!
    Tư Đồ Sảng mặc hiếu phục, một lần nữa vấn khăn tang! Lòng chàng buồn vời vợi, khóc thầy và khóc cả cho cha mẹ!
    Sáng mùng sáu tháng năm, Tư Đồ Sảng rời núi Hành Sơn trở lại Trường Sa! Được vài dặm, chàng ngoái đầu nhìn lại, ngắm dãy núi bảy mươi hai ngọn của rặng Nam Nhạc hùng vĩ, thầm hẹn sang năm sẽ trở lại đưa pháp thể của sư phụ về Quế Lâm.
    Theo lời dặn dò của Tiên Ông, Tư Đồ Sảng tìm đến Khuất gia trang! Bọn gia nhân chẳng niềm nở vì cho rằng Thần Phủ Lang Quân là gã chết nhát, bỏ mặc Khuất gia trang trong cơn hoạn nạn!
    Nghe bẩm báo, Khuất Trang chủ vô cùng mừng rỡ, lật đật ra đón khách. Lão cười ha hả, ôm chầm lấy Lý Thu trước sừ ngỡ ngàng của bọn gác cổng:
    - Hảo hiền diệt! Mấy tháng nay ngươi đi đâu mất biệt khiển lão phu trông đứng trông ngồi? Cả con bé Thúy Lan cứ nhắc ngươi mãi! À ! Sao Tiên Ông không cùng đi?
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
    - Gia sư đã thăng thiên rồi! Nhưng xin Trang Chủ giữ kín việc này! Tà ma mà biết Ly Giang Tiên Ông tọa hóa tất sẽ lộng hành!
    Khuất Kỳ ngậm ngùi nói lời phân ưu và hứa sẽ thủ khẩu như bình!
    Chủ khách uống trà, đàm đạo nơi thư phòng. Lát sau, Tề Tổng Quản, Khuất phu nhân và tiểu thư Thúy Lan cũng có mặt!
    Không hiểu sao hôm nay cô ả tinh nghịch, ngang như cua lúa lại bẽn lẽn, khép nép, mặt hoa đỏ bừng.
    Ánh mắt Thúy Lan long lanh, lộ vẻ hân hoan song pha chút giận hờn!
    Tề Tổng Quản thì cười khanh khách:
    - Nhờ Lý thiếu hiệp đâm cho một kiếm mà lão phu được nghỉ ngơi cả tháng, chẳng phải làm gì cả!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười, phục lão giỏi thi hành khổ nhục kế! Tề lão đã giấu một bọc máu dê ở ngực, giả vờ thọ trọng thương để che mắt Quỷ Ảnh Hội!
    Trang Chủ phu nhân tuổi độ sáu mươi, tóc đã hoa râm nhưng gương mặt vẫn còn lưu giữ được vài nét đẹp thuở thanh xuân. Bà là em gái của Trại Tôn Tử Hồ Sĩ Tuệ nên cũng thông minh xuất chúng, mưu mẹo có thừa! Chính cơ trí của bà đã giúp chồng thành công trong việc kinh doanh, gầy dựng nên cơ nghiệp đồ sộ này!
    Phu nhân tủm tỉm bảo:
    - Đêm ấy, nếu công tử không ra tay tế độ thì chuyết phu đã bỏ mạng dưới lưỡi đao của Hội Chủ Quỷ Ảnh Hội ! Ơn trọng này nhà họ Khuất xin ghi lòng tạc dạ! Lão thân ngưỡng mong công tử lưu lại đây một thời gian để Khuất thị có dịp đáp đền.
    Khuất Kỳ gật gù, đỡ lời vợ:
    - Phu nhận bàn chí phải! Lão phu còn sống là nhờ công tử, quyết chẳng để người ân ra đi dễ dàng! Hơn nữa, Hồ lão bảo rằng công tử đến Trường sa để điều tra sào huyệt Quỷ Ảnh Hội, sao không ở lại đây cho tiện!
    Tư Đồ Sảng kính cẩn đáp:
    - Bẩm Trang chủ ! Gia sư bảo rằng Quỷ Ảnh Hội không hề có sào huyệt cố định, thủ hạ phân tán khắp nơi. Khi cần thiết mới tập trung lại. Gia sư đã từng bắt được một tên để tra hỏi nhưng hắn hiểu biết rất hạn chế, không thể từ đó lần ngược lên! Ngay cái kẻ đã tự xưng Hội Chủ cũng chỉ là một hóa thân mà thôi!
    Khuất Kỳ cau mày:
    - Thế thì công tử làm sao báo phục thù nhà?
    Tư Đồ Sảng lắc đầu:
    - Gia sư nghe tại hạ kể về sự xuất hiện của Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc và Hải Hoa Bang liền kết luận: “Ninh lão quỉ tinh thông tiên văn, đoán trúng bần đạo sắp tận số trời nên mới vào Trung thổ! Ta chết rồi lão sẽ công khai khuynh đảo võ lâm. Nhưng lão ta không biết rằng còn vài lực lượng tà ma nữa cũng trỗi dậy, mưu đồ nghiệp lớn. Quỷ Ảnh Hội cũng ở trong số ấy và chúng sẽ lộ diện dưới một chiêu bài khác! Do đó, ngươi chẳng cần tìm Quỷ Ảnh Hội nữa, cứ chờ rồi sẽ gặp!”.
    Thúy Lan nghe vậy hậm hực hỏi:
    - Vậy phải chăng công tử ghé qua đây lấy lại túi Hồng Bảo Ngọc rồi đi ngay?
    Tư Đồ Sảng đã gởi hết tài sản của mình cho Khuất Kỳ vào cái đêm Quỷ Ảnh Hội đến cướp Tỵ Hỏa Châu !
    Chàng ngượng ngùng trả lời nàng:
    - Tại hạ có việc phải đến Giang Tây, chỉ lưu lại được vài hôm! Còn số Hồng Bảo Ngọc kia tại hạ xin gởi lại Khuất gia trang, khi nào bách tính bị thiên tai, nhờ chư vị bán đi, mua lương thực chẩn tế tai dân!
    Cả nhà kinh ngạc trước tấm lòng rộng rãi, nhân hậu của Lý Thu. Họ không biết Tự Đồ Sảng tức Lý Thu đã tình cờ tìm ra số châu báu ấy trong động thờ Trung Nguyên Nhất Kiếm Võ Hồng! Cùng với chúng còn có di thư rằng con cháu họ Võ phải dùng ngọc vào việc thiện, mua lấy ân đức cho Tông tộc! Con Võ Hồng là cụ Tổ Võ Chí đột tử vì tẩu hỗa nhập ma nên đã không kịp trối trăng lại khiến tâm nguyện ấy không được thực hiện! Mãi đến khi Tư Đồ Sảng đánh vỡ bát nhang hai đáy trên bàn thờ thì mới tìm ra! Việc này xảy ra sau khi song thân chàng bị giết!
    Khuất Kỳ xúc động tán dương:
    - Lành thay tấm lòng của bậc đại nhân! Lão phu hứa sẽ thực thi ý nguyện của công tử!
    o0o
    Tư Đồ Sảng phải ở lại Khuất gia trang đến mười ngày vì bị chủ nhà giữ rịt lấy, Thúy Lan luôn quấn quít bên chàng, bắt phải dạy kiếm pháp. Tư Đồ Sảng mến nàng như em gái nên vui vẻ chỉ hảo tận tình.
    Vợ chồng Khuất Kỳ không có con trai nên rất yêu quí Lý Thu. Càng gần gũi họ cảng hiểu rõ nhân phẩm của chàng, ước ao sao có được họ Lý làm rể đông sàng! Với bản chất nhân hậu, độ lượng, chắc chắn sau này Lý Thu sẽ chăm lo cho tông tộc Khuất thị chứ không đoạt tài sản này làm của riêng!
    Ngày thứ mười, Khuất phu nhân bàn với chồng:
    - Tướng công ! Tiện thiếp e rằng chúng ta chẳng thể tìm đâu ra chàng rể nào tốt hơn Lý Thu! Tuy Ly Giang Tiên Ông bảo rằng đời y sẽ gặp nhiều nạn lớn, sống chết khó lường, nhưng thiếp không tin. Một kẻ giầu lòng từ tâm, tướng mạo phúc hậu như y làm sao có thể yểu mệnh được! Ý thiếp là vậy chẳng hay tướng công nghĩ sao?
    Khuất Kỳ hồ hởi tán thành:
    - Bà nói quả đúng ý lão phu! Để vuột mất chàng rể anh hùng cái thế, nhân phẩm xuất chúng như y thi chún ta sẽ hôi tiếc suốt đời! Bà mau cho gọi Lan nhi lên hỏi ý nó xem sao?
    Khuất phu nhãn liền bước ra cửa thư phòng, vẫy ả nữ tỳ đến, bảo thị đi tìm Thúy Lan! Lát sau ả Tố Nga mười bẩy tuổi mơn mởn đào tơ ấy hộc tốc chạy đến. Võ phục đẫm ướt mồ hôi!
    Nàng đang luyện kiếm với Lý Thu ở vườn hoa lớn!
    Khuất Kỳ cười khà khà nói ngay:
    - Lan nhi! Con có phịu lấy Lý Thu hay không?
    Thúy Lan đỏ mặt tía tai vùng vằng nói:
    - Nhưng Lý đại ca đâu để ý gì đến hài nhi! Chẳng lẽ đàng gái lại đi mở lời trước?
    Khuất phu nhân cười bảo:
    - Lan nhi ngốc thật! Y đang chịu tang song thân và sư phụ làm sao dám nghĩ đến việc hôn nhân?
    Thúy Lan cười buồn:
    - Lỡ chàng mượn cớ ấy mà thoái thác hôn sự thì sao?
    Khuất phu nhân đắc ý đáp:
    - Năm ngoái, sư phụ Lý Thu là Ly Giang Tiên Ông có nói đến thời hạn ba năm! Nay ta sẽ vin vào đấy mà giao ước! Lý Thu là người chí hiếu tất không dám làm trái di ngôn của ân sư!
    Khuất Kỳ toét miệng cười, tán dương bà vợ:
    - Bà quả là đa mưu túc kế, lão phu xin bội phục!
    Lão liền bảo Thúy Lan nấp vào sau giá sách, nơi có trường kỷ để nằm đọc sách, rối sai tỳ nữ đi mời Lý Thu.
    Chờ chàng rể tương lai nhấp xong hớp trà, Khuất lão mở lời:
    - Lý công tử! Cuối năm ngoái, khi Hồ lão ca làm mai Lan nhi cho công tử thi lệnh sư có hẹn ba năm. Vợ chồng lão phu tuân theo di ý ấy mà tiến hành việc đính hôn trước. Chờ công tử mãn tang song thân và sư phụ mới tiến hành hôn lễ!
    Khuất Kỳ rào đón, bao vây mọi ngả, không chừa cho con mồi một cửa nào để thoát ra cả! Lão khát khao có được rể quí nên vận dụng tâm cơ trong lời nói, cưỡng lý đoạt tình mà không hề áy náy!
    Tư Đồ Sảng bối rối, thừ người một lúc rồi nói:
    - Vãn bối vô cùng cảm kích trước sự ưu ái của nhị vị! Vãn bối cũng yêu mến Lan muội song khổ nỗi là đã có hôn ước với hai nữ nhân rối!
    Khuất Kỳ choáng váng vì thất vọng nên giọng nói hơi mỉa mai:
    - Lạ thực! Công tử mới xuất đạo vài tháng, lại đang cự tang, sao sớm vướng lưới phấn son như thế nhỉ?
    Tư Đồ Sảng thẹn đến chín người, ngượng ngùng kể lại cuộc tao ngộ với chị em họ Lăng.
    Nghe nói Phi Tuyết, Phi Hồng đều xấu như quỉ và chàng lấy họ vì lòng nhân nên Khuất Kỳ bớt tức tối:
    - Té ra là thế! Lão phu đã quá lời.
    Lão lưỡng lự nhìn bà vợ khôn ngoan hỏi ý. Khuất phu nhân liền nói:
    - Trai anh hùng năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình! Lão thân cho rằng Thúy Lan có thể chung thuyền với hai người ấy. Nhưng do họ mang thân phận nô tỳ nên mong rằng công tử sẽ để Thúy Lan đứng ngôi chính thất.
    Tư Đồ Sảng xuất thân bần hàn, có cảm tình với những người ở giai cấp thấp, bèn nghe lòng gợi lên cảm giác chua xót. Chàng buồn rầu nói:
    - Vãn bối là con nhà tiều phu nghèo khó, chắc không xứng với một vị tiểu thư mà chỉ xứng với nô tỳ! Hảo ý của nhị vị vãn bối xin tâm lãnh mà chẳng đám vâng lời!
    Mở sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng lặng lẽ rời Khuất gia trang để đi Giang Tây. Theo di mệnh của Ly Giang Tiên Ông, chàng phải có mặt ở Tổng đàn Thiên Sư Giáo, trên núi Long Hổ Sơn thuộc huyện Quí Khê, để trao cho Trương Giáo Chủ một phong thư! Về bối phận, Tư Đồ Sảng phải gọi Trương Hàn Vũ là sư huynh!
    Thiên Sư Giáo xuất xứ từ Long Hổ Sơn phái, do Trương Thịnh Di, cháu bốn đời của Trương Đạo Lăng sáng lập thời Tây Tấn, tại núi Long Hổ! Thịnh Di tôn Đạo Lăng làm Chưởng Giáo, thánh hiệu là “Chính Nhất Thiên Sư”. Từ sau thời Đường Tống, Long Hổ Sơn phái hợp lại cùng các phái Nam - Bắc Thiên Sư Đạo và Thượng Thanh, Linh Bảo, Tịnh Minh. Đến đời Nguyên Thành Tông, một hậu duệ khác của Trương Đáo Lăng là Trương Dự Tài được phong hàm Chính Nhất Giáo Chủ, tổng lĩnh cả các phái Mao Sơn, Cáp Tạo Sơn, Long Hổ Sơn. Vì vậy, các đạo phái này cũng đồng loạt được gọi là “Chính Nhất Đạo”.
    Tóm lại, ảnh hưởng của Thiên Sư Giáo lan tràn khắp Trung Hoa, thịnh vượng hơn cả phái Toàn Chân của Vương Trùng Dương!
    Nặng về mặt tôn giáo nên Thiên Sư Giáo không nổi tiếng lắm vế mặt võ học, bao đời nay mới sản sinh được một nhân tài kiệt xuất là Ly Giang Tiên Ông! Tuy nhiên, với số lượng đệ tử đông hàng trăm vạn, thế lực của Thiên Sư Giáo cực kỳ hùng mạnh.
    Nhắc lại, vì Khuất gia trang nằm ngoài cửa Tây thành Trường Sa nên Tư Đồ Sảng phải vào thành rồi mới đi về Đông được. Chàng khởi hành lúc cuối canh tư, trời còn tờ mờ chưa rõ mặt người. Đường trục Đông Tây của thành Trường Sa vẫn còn vắng vẻ, thưa người qua lại. Giả gia trang vốn nằm trên đại lộ này.
    Khi chàng còn cách cơ ngơi nhà họ Giả vài chục trượng thì nhìn thấy một toán kỵ sĩ, gồm năm người, rời khỏi cổng. Họ cũng đi về hướng đông như chàng và việc này chẳng khiến Tư Đồ Sảng quan tâm đến. Chàng cứ thong thả đi sau, rời khỏi thành vài dặm thì bị bỏ rơi xa lắc, chẳng còn nhìn thấy họ đâu nữa.
    Lúc bình minh rạng rỡ trước mặt thì Tư Đồ Sảng đã đi được bốn chục dặm, đến một vùng hoang sơ, hai bên đường là cánh rừng thưa.
    Chàng phi ngang qua lối mòn xuyên rừng mé hữu, vô tình liếc vào và phát hiện có năm con ngựa đang gặm cỏ. Mầu lông của chúng rất quen thuộc vì bầy ngựa này chính là của năm người đã rời khỏi Giả gia trang lúc mờ sáng!
    Lòng hiếu kỳ đã khiến Tư Đồ Sảng ghì cương đứng lại, vận công nghe ngóng. Chàng nhận ra tiếng thép chạm nhau liền rẽ vào, bỏ ngựa lại và lướt đi như gió.
    Việc Giả Bạch Hố thu nạp toàn những đệ tử Hắc Đạo đã khiến Tư Đồ Sảng hoài nghi nhân cách của gã. Và thái độ gã xem thường Quỷ Ảnh Hội cũng khá lạ lùng vì chẳng ai dại gì vuốt râu hùm. Nhất là khi họ Giả có cả một gia sản đồ sộ, dễ trở thành mục tiêu sau này cửa Quỷ Ảnh Hội!
    Do những nghi ngờ ấy mà hôm nay Tư Đồ Sảng quyết tìm hiểu xem Giả Bạch Hố sai thủ hạ đi giết ai.
    Khi đến nơi, chàng kinh ngạc nhận ra Huyết Báo Thân Vô Cửu đang tuyệt vọng tả xung hữu đột trong vòng vây của năm người áo xanh bịt mặt, sử dụng đao. Họ Thân đã bị thương ở vai và lưng, máu loang ướt áo. Bản lãnh của bọn thanh y cực kỳ lợi hại, và dường như năm tên tạo thành một đao trận liên hoàn kiên cố, khiến Huyết Báo chẳng tài nao thoát ra nổi.
    Tư Đồ Sảng còn phát giác ra rằng đao pháp của họ có những nét tương đồng với sở học của bọn sát thủ Thập Điện Diêm Cung, kẻ đã từng vây đánh chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng! Phải chăng Giả gia trang chính là vây cánh của Diêm Cung?
    Nhưng chàng chẳng còn thời gian để suy nghĩ thêm vì Thân Vô Cửu lại trúng thêm một vết thương nhẹ ở bắp tay phải. Tư Đồ Sảng đã rớm rút búa cầm sẵn nên giờ đây có thể tham chiến ngay lập tức.
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã dạy chàng rằng:
    - “Qui củ võ lâm chỉ áp dụng trong trường hợp đối phương là kẻ đáng được trân trọng. Còn như với bọn ác nhân bại hoại thì cứ tiên hạ thủ vi cường!”.
    Nhớ lời lão, Tư Đồ Sảng lặng lẽ áp sát đấu trường và bất ngờ ập đến bằng một cú nhẩy xa đến hơn hai trượng. Chàng đã không làm như các hiệp sĩ trong tuồng cổ là quát lên để khỏi mang tiếng đánh lén:
    - “Bớ bọn cuồng đồ! Bổn thiếu hiệp là Thần Phủ Lang Quân đã đến đây!”
    Tây Môn Giới hoàn toàn có lý vì sự bất ngờ là yếu tố quan trong nhất trong binh pháp. Tất nhiên là Tư Đồ Sảng bị những tên đang quay mặt về hướng chàng phát hiện. Một gã báo động cho đồng đảng:
    - Coi chừng đánh lén!
    Hai con mồi đang phơi lưng làm mục tiêu cho Giáng Ma Phủ vội đảo bộ quay lại chống đỡ bằng một đòn liên thủ. Hai thanh đao phối hợp với nhau, tạo thành bức tường thép vững chắc. Nhưng dẫu sao thì họ cũng đã bị chậm một nhịp, lộ nhiều sơ hở.
    Tư Đồ Sảng đã thi triển chiêu “Cuồng Phong Đoạn Mộc” bằng cả sức mình nên đường búa mãnh liệt như bão tố Giáng Ma Phủ hung hãn đánh bạt hai thanh đao và liếm vào ngực cặp xấu số kia. Chàng là người cao lớn, tay cũng dài thượt, thành ra tầm sát thương của Giáng Ma Phủ khá rộng.
    Tiếng thép vang rền hòa với tiếng rú thảm khốc của nạn nhân đã làm chấn động cả một khu rừng tĩnh mịch, lũ chim đang ríu rít đón bình minh cũng bị dọa khiếp mà im bặt.
    Tư Đồ Sảng thừa thắng xông lên, tấn công lão áo xanh thứ ba. Gọi là lão vì chòm râu cằm điểm bạc của đối phương khá dài, lú ra khối tấm khăn bịt mặt, và tóc trên đầu chẳng còn xanh.
    Lão ta tuổi tác không dưới sáu mươi, công lực thâm hậu và đao pháp cũng điêu luyện hơn đồng đảng. Thanh đao trong tay lão lồng lộn tựa rồng thiêng, đao kình vun vút xé không gian, chặn đứng được đường búa của Tư Đồ Sảng.
    Biết tính mạng của Thân Vô Cửu không còn nguy ngập, khi chỉ phái đối phó với hai gã Thanh yêu, Tư Đồ Sảng bình tâm chiến đấu, chẳng vội vã làm gì. Với một cao thủ như lão râu dài này mà chàng nóng vội thì chỉ thiệt thân.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tuy đã nhủ lòng như thế song lối đánh của chàng vẫn bội phần cương mãnh, xuất phát từ bản tánh con người và từ chính bản chất của pho Giáng Ma Phủ Pháp. Đứng như Ly Giang Tiên Ông đã nhận xét, cụ tổ Võ Hồng ỷ vào thần lực kinh nhân nên đường búa nặng như núi, không hề tiếc sức!
    Tư Đồ Sảng đã hiểu ngộ được kiếm đạo, nhờ thế mà nâng cao trình độ phủ pháp lên một bậc. Chàng ra đòn mãnh liệt song lại tránh va chạm nhiều, chủ yếu khai thác ưu thế của những thức đâm như chớp giật. Bề ngoài đường búa của chàng có vẻ hoàn toàn mang tính chất dương cương nhưng bên trong ẩn chứa yếu tố âm nhu ảo diệu và hiểm ác!
    Lão nhân râu dài càng đánh càng hăng, dường như cao hứng khi gặp được đối thủ xứng tay. Lão ta múa tít loan đao, giải phá những chiêu búa thần tốc của chàng trai lạ mặt! Lão đoán chàng là Thần Phủ Lang Quân Lý Thu, ngôi sao mới tỏa sáng. Hơn bốn tháng trôi qua, tin tức về trận đấu ở Tổng đàn võ lâm đã bay đi khá xa, kể cả việc Lý Thu thủ hoả với Huyết Báo! Lão áo xanh vô cùng thắc mắc, Không hiểu sao Thần Phủ Lang Quân lại xuất hiện chốn này và ra tay cứu mạng Thân Vô Cửu?
    Song phương giao đấu đã gần khắc mà không phân thắng bại, lão râu dài nóng ruột dồn chân khí đánh liền tám chiêu liên hoàn sấm sét. Nhưng Tư Đồ Sảng đột ngột thi triển một loại bộ pháp kỳ lạ, hoán vị cực kỳ mau lẹ, thân hình nhấp nhô mờ ảo. Nhờ vậy mà chàng tránh né được nhuệ khí của đối thủ, từ vị trí mới phản kích lại với thế chủ động.
    Trong võ học, ngoài việc tấn công hoặc phòng thủ, người võ sĩ còn phải biết né tránh. Khi bản lãnh đôi bên không chênh lệch lắm thì khả năng lưỡng bại câu thương rất lớn! Tư Đồ Sảng hiện đang rơi vào tình trạng ấy và tám chiêu kia như một nước cờ ảo diệu dồn chàng vào thế phải đổi mạng! Có thể là vào phút chót chàng nhanh tay hơn, đâm trúng đối phương trước, nhưng bản thân cũng rơi vào hiểm cảnh, khó vẹn toàn! Bằng như lão thanh y kia có bảo y hộ thân thì Tư Đồ Sảng chết là cái chắc!
    Chàng trai sơn dã, non nớt của chúng ta đã may mắn được Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới dạy cho kinh nghiệm ấy. Bởi vậy, vừa tiếp xong ba chiêu là chàng ngờ ngợ hiếu ra độc kế, mau chóng dùng Truy Tinh thân pháp mà thoát khỏi thế cờ!
    Tây Môn Giới đã nói:
    - Giang hồ hiểm ác khôn lường, việc lén mang giáp bảo vệ thân trên là chuyện bình thường, nhất là giới Hắc Đạo! Giáp đan bằng khoen thép có bán khắp nơi, giá chỉ độ năm chục lượng bạc, ai cũng có thể mua được!
    Tư Đồ Sảng biết đã đến lúc kết liễu trận đánh, liền bỏ dở việc tìm hiểu đao pháp Thập Điện Diệm Cung, xuất chiêu “Minh Tri Cố Muội!”.
    Chiêu này vốn dùng trong trường hợp đối phương mặc giáp, mình biết rõ mà làm như không biết! Tư Đồ Sảng vũ lộng thanh Giáng Ma Phú công phá lưới đao, mũi thép nhọn ở đầu búa uy hiếp bốn đại huyệt trên ngực và bụng của kẻ địch.
    Quả nhiên lão râu dài không hề khiếp sợ, thọc ngay bảo đao vào tâm thất chàng, như kẻ liều mạng đang muốn Đồng Qui Ư Tận, dù thiệt thòi đôi chút cũng cam tâm! Rõ ràng là búa sẽ chạm vào mục tiêu trước vì dài hơn đao của lão!
    Nhưng không ngờ gã tiểu tử non choẹt kia chẳng hề mắc bẫy, trong chớp mắt đã chuyển mục tiêu, đâm vào mặt lão. Nếu không có chủ ý thì chẳng bao giờ Thần Phủ Lang Quân làm được như thế!
    Đoạn thép ngắn, sắc cả hai bề và nhọn hoắt, đã đâm thủng mắt trái và hủy hoại não bộ lão thanh y! Tiếng rú lìa đời thê lương của lão đã khiến hai gã còn lại rụng rời tay chân! Tâm hoang mang thì đường đao lộ sơ hở, một gã lập tức bị trúng đòn của Huyết Báo vỡ sọ mà lìa đời. Tên thứ hai vừa tung mình đào tẩu thì rơi vào lưới búa của Tư Đồ Sảng, chết không kịp ngáp!
    O0o
    Xế trưa ngày cuội tháng năm có hai kỵ sĩ dừng cương trước cổng Tam Quan dưới chân núi Long Hổ Sơn. Người áo trắng chính thị Tư Đồ Sảng, người thứ hai là một hán tử tứ tuần tóc đen, râu rậm che kín nửa mặt. Dẫu là người quen cũng phải nhìn thật kỹ mới nhận ra Huyết Báo Thân Vô Cửu vì trước đây gã luôn cạo râu nhẵn nhụi.
    Ngay cả vũ khí thành danh của gã là cây Nhị Tiết Côn sơn đỏ cũng trơ ra màu thép xanh ngời! Người võ sĩ thành dành, được nhận biết nhờ vũ khí nhiều hơn dung mạo, cho nên giờ đây chẳng ai dám chắc gã có phải Huyết Báo hay không? Nhất là khi gã lại xưng tên Liễu Mộ Hào!
    Đấy mới chính là tên thực của Huyết Báo! Hơn hai mươi năm trước, Liễu Mộ Hào giết Tri huyện Tửu Tuyền đất Cam Châu để báo thù cho cha. Gã bị triều đình truy nã gắt gao nên bỏ xứ phiêu bạt vào Trung Nguyên lấy tên là Thân Vô Cửu.
    Huyết Báo chính là tay săn người chuyên nghiệp, năm nào cũng lãnh vài giải thưởng của Tổng Đàn võ lâm hoặc quan nha! Đấy là kế sinh nhai của gã! Mộ Hào thừa kế cây Nhị Tiết Côn sơn đỏ của sư phụ là Huyết Côn Tôn Giả, lại có thủ đoạn tàn nhẫn phi thường nên mới nổi danh là Huyết Báo!
    Nhưng sau lần thoát chết ở Trường Sa, gã quyết định khai tử nhân vật Huyết Báo, trở vế với thân phận thực mà phò tá ân nhân là Tư Đồ Sảng. Thế lực của Thập Điện Diêm Cung rất hùng mạnh, nếu họ biết chàng cứu mạng gã thì không có lợi!
    Nhắc lại Huyết Báo xuống ngựa, đĩnh đạc nói với toán đạo sĩ gác Đại Môn của thánh địa Thiên Sư Giáo:
    - Chủ nhân của tại hạ là Lý công tử có việc quan trọng muốn cầu kiến Trương Giáo Chủ, phiến chư vị cho phép thượng sơn! Công tử đến đây để trao thư của Ly Giang Tiên Ông!
    Gã đạo sĩ râu ngắn ngờ vực hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Chẳng hay công tử có mang tín vật gì để làm tin hay không?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, giơ tay rút cây trâm cài tóc đen sì. Chàng dồn chân hỏa vào trâm, làm cho nó tỏa ra ánh hào quang tím ngắt!
    Cây Tử Ngọc Thần Trâm này là vật tùy thân gần trăm năm nay của Ly Giang Tiên Ông nên bọn đệ tử Thiên Sư Giáo chẳng lạ gì!
    Gã đạo sĩ trung niên vội cung kính mời khách lên núi. Gã sai người dẫn ngựa vào chuồng, còn mình thì đích thân đưa khách thượng sơn. Trên đường đi, gã mở lời dò hỏi:
    - Bần đạo là Linh Quan Tử, tam đồ đệ của Giáo Chủ! Dám hỏi Lý công tử quan hệ thế nào với Gia sư Thúc Tổ?
    Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ là đồ đệ của Tiên Ông!
    Linh Quan Tử choáng váng, dừng bước chắp tay nói:
    - Tiểu điệt xin bái kiến sư thúc! Xin người lượng thứ tội vô tri!
    Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
    - Không biết thì không có tội, sự điệt chớ bận tâm!
    Tuy bối rối song trong lòng chàng dâng lên cảm giác đắc ý của trẻ con khi được là trưởng bối của một kẻ tuổi gần gấp đôi mình!
    Đường lên Thượng Thanh Cung, trên sườn núi Long Hổ Sơn, gồm hai ngàn bậc đá rộng gần trượng, quanh co xuyên qua rừng tùng già nua, râm mát. Hai bên đường là hàng trăm tảng đá lớn đủ mọi hình thù lạ mắt.
    Những bậc thang bằng đá đã mòn vẹt đi bởi dấu chân người vì Thượng Thanh Cung được xây dựng từ thời Tây Tấn, cách đời Tư Đồ Sảng hơn một ngàn hai trăm năm!
    Thượng Thanh Cung là nơi ở của nhiều đời cháu chắt Trương Đạo Lăng, người sáng lập ra đạo Thiên Sư (Ngũ Đấu Mễ Đạo) vào thời Đông Hán. Đây là nơi Thiên Sư tụng kinh, tu đạo, cúng tế thần tiên! Cung Thượng Thanh vốn có tên là “Truyền Lục Đàn” vế sau đổi thành “Am Chân Tiên”, đến đời Tống mới gọi là “Thượng Thanh Cung!”.
    Hai bên và phía sau của tòa điện thờ cổ kính, đồ sộ Thượng Thanh là hàng trăm biệt xá lớn nhỏ, kiến trúc dạng đền miếu, góc mái ngói cong vút, dùng làm nơi cư trú cho gia đình Giáo Chủ và các chức sắc.
    Thiên Sư Giáo không cấm lấy vợ nên đa số các đạo sĩ đều có gia đình! Chức vụ Giáo Chủ như ngôi hoàng đế, chỉ truyền cho con cháu Trương Đạo Lăng!
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo được Linh Quan Tử đưa vào nơi ở của Giáo Chủ Trương Hàn Vũ, ngay phía sau Thượng Thanh Cung! Đấy là cả một cơ ngơi gồm nhiều phòng, được xây cất kiểu Tứ Hợp Viện, bốn phía đều có nhà vây lấy sân gạch lớn ở giữa!
    Đi qua cửa chính góc Đông Nam, khách vào đến sân ngoài có bề ngang rộng, bề sâu hẹp. Bên ngoài thông với sân trong bằng một cửa chính Nam gọi là cửa Thùy Hoa. Cửa này được tạo dáng rất đẹp và thanh thoát. Trên có mái ngói, bốn góc buông bốn trụ lửng, đỉnh trụ chạm trổ và sơn mầu. Sân chính bên trong vuông vắn và rộng thoáng, đặt vài chậu kiểng, được che mát bởi những cây Khổng Tước Đậu già lão, cao hàng chục trượng! Loại cây quí hiếm này ra hoa kết trái không theo qui luật nhất định! Có cây vài chục năm mới ra hoa một lần và chưa chắc đã đậu quả!
    Phòng khách của Trương Giáo Chủ nằm ở dãy nhà hướng Bắc, cửa đóng chặt, có hai đạo sĩ trung niên mang kiếm đứng gác!
    Tư Đồ Sảng nhận ra nét mặt của tất cả những người mà chàng gặp ở đây đều nặng nề, chẳng một nụ cười! Ngay cả Linh Quan Tử và hai gã gác cửa này cũng vậy!
    Linh Quan Tử lên tiếng, bảo hai người kia:
    - Này nhị vị sư đệ! Đây là Lý sư thúc, đồ đệ của Nhị sư thúc Tổ, hai ngươi mau bái kiến!
    Hai vị đạo sĩ vội thi lễ một người nói:
    - Bọn tiểu điệt là Linh Phong Tử và Linh Hư Tử ra mắt sư thúc!
    Linh Quan giới thiệu thêm:
    - Bẩm sư thúc! Linh Phong và Linh Hư là học trò thứ năm và thứ sáu của gia sư!
    Tư Đồ Sảng gật đầu chào lại hai gã vãn bối rỗi đứng chờ Linh Quan Tử vào bẩm báo trước.
    Lát sau, cửa chính mở toang đón khách. Đi qua phòng ngoài, Tư Đồ Sảng vào đến một phòng khá lớn có bày năm cỗ đại ỷ bằng gỗ Hoàng Đào chạm trổ cầu kỳ!
    Giờ đây, các ghế đều có người ngồi, toàn những đạo sĩ già nua râu tóc hoa râm hoặc bạc trắng!
    Năm người này đứng lên nhìn khách với ánh mắt xoi mói. Lão đạo áo vàng, búi tóc cài Ngọc Quan, râu năm chòm suôn đuột, mặt phương phi hồng hào, ngồi ở ghế chủ vị hướng Bắc, chính là Trương Giáo Chủ! Lão cố nở nụ cười với khách:
    - Lão phu là Trương Hàn Vũ còn bốn vị này đều là Hộ Pháp của bổn giáo! Theo bối phận thì Lý sư đệ phải gọi chúng ta là sư huynh!
    Tư Đồ Sảng vòng tay thủ lễ, xưng tên thực rồi lấy thư của ân sư đưa cho Trương Giáo Chủ!
    Trương Hàn Vũ mời mọi người an tọa vì Linh Quan Tử đã mang ra thêm hai chiếc đôn gỗ cho khách!
    Đọc xong, Trương Giáo Chủ buồn rầu bảo bốn người kia:
    - Này chư vị Hộ Pháp! Sư thúc đã thăng thiên hôm mùng ba tháng năm !
    Bốn lão đạo già xúc động nhất tề chắp một tay lên ngực nói:
    - Thiện tai ! Thiện tai !
    Đệ tử Đạo Giáo xem cuộc đời là sinh ký tử qui nên mừng cho người thân về với đạo lớn, hoặc thành tiên, chứ không khóc thương. Bề ngoài là thế song họ là người nên trong lòng vẫn dấy lên nỗi bi ai, thương tiếc!
    Trương Giáo Chủ nói tiếp:
    - Trong di thư! Sư thúc còn nói rằng Bổn giáo đến thời kỳ mạt pháp, sẽ gặp nhiều tai kiếp! Người dạy chúng ta phải chay tịnh, sửa mình, bỏ thói kiêu căng, tham lợi thì mới mong thoát khỏi đại họa! Tư Đồ sư đệ là bậc thiếu niên anh hùng, võ công xuất chúng, sẽ giúp bổn giáo đương cự với tà ma!
    Tuy hiểu rõ bản lãnh thông thần của Lư Giang Tiên Ông nhưng chư vi hộ pháp đều nghi hoặc vì Tư Đồ Sảng còn quá trẻ! Tứ Hộ Pháp là Vu Hồ Chân Nhân, tuổi mới sáu mươi, tính tình còn nóng nẩy, tự phụ nêncó ý xem thường Tư Đồ Sảng. Lão cười khẩy nói:
    - Sư thúc đã di ngôn như thế thì sao Giáo Chủ không giao cho Tư Đồ sư đệ giải quyết vụ Lư Sơn?
    Trương Giáo Chủ bối rối đáp:
    - Không được! Đây là chuyện riêng cửa gia đình lão phu chứ không phải việc của bổn Giáo!
    Tư Đồ Sảng đoán rằng gia sự họ Trương rối ren, phát sinh tai họa. Chàng từng nghe Lư Giang Tiên Ông kể rằng Trương Thiên Sư có một thứ nam tính tình phóng đãng, vừa háo sắc vừa có máu đỏ đen, nhiều phen làm khổ mẹ cha! Nhưng chẳng lẽ ngồi yên làm ngơ, Tư Đồ Sảng liến nói:
    - Bẩm Giáo Chủ sư huynh ! Việc của gia đình Thiên Sư cũng chính là việc của Bổn Giáo! Nếu tiểu đệ làm được gì quyết không tiếc sức!
    Trương Hàn Vũ cười khổ, kể lể:
    - Lão phu kém đức nên sinh ra một gã bất trị, tủi hổ cho tông môn! Trương Trạm là con trai thứ, năm nay tuổi dã tam thập mà tính tình nông nổi, hoang đàng, chẳng chịu tu hành mà chỉ lo ăn chơi đàng điếm! Nửa tháng trước, gã cậy tủ lấy trộm một vạn lượng vàng trong ngân quĩ của bổn giáo rồi trốn đến Nam Xương đánh bạc ! Không những gã cháy túi mà còn mắc nợ người ta bảy ngàn lượng nữa!
    Trạm nhi cho rằng đối phương chơi bạc bịp nên cãi cọ rồi đi đến xô xát đánh gã kia trọng thương!
    Khổ thay, cái gã Lâm Viễn Toại ấy lại là đồ đệ cưng của Tiên Nhân Động Chủ, một đại cao thủ tuổi tám mươi, ẩn cử ở núi Lư Sơn đã ba mươi năm! Tiên Nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ cũng có mặt ở gần đổ trường nên đã bắt Trạm nhi mang về Tiên Nhân Động và gởi thư đòi lão phu phải mang vàng đến chuộc! Ngoài số nợ bẩy ngàn lượng, lão phu còn phải bồi thường thương tích cho Lâm Viễn Toại thêm ba ngàn lượng nữa! Lão thở dài, rầu rĩ nói tiếp:
    Dẫu sạt nghiệp thì lão phu cũng phải chuộc con mình về để bảo toàn thanh danh cho Thiên Sư Giáo! Nhưng ác nỗi Động chủ lại còn kèm thêm một điều kiện là phải có người đỡ nổi lão ba chiêu kiếm! Bổn giáo có thể lần lượt cử ai đi cũng được, song mỗi khi đại biểu bị thua thì mất ba ngàn lượng! Lão ta nổi tiếng máu mê cờ bạc nên mới bày ra trò này! Lão phu đã gởi thư đến Quế Lâm để mời sư thúc hỗ trợ song khổng ngờ người đã rời Quảng Tây và tọa hóa ở Hành Sơn.
    Trương Giáo Chủ nghẹn ngào một lúc bỗng nghiến răng lộ vẻ kiên quyết:
    - Lão phu sẽ bỏ mặc tên nghịch tử ấy rồi đóng cửa sám hối ba năm để tạ tội với tổ tiên và trăm vạn giáo chúng trong thiên hạ!
    Bốn vị hộ pháp có vẻ hài lòng trước quyết định ấy nên không ngăn cản Giáo Chủ! Nếu cố bám theo vụ này thì Thiên Sư Giáo sẽ nghèo rớt mồng tơi!
    Tư Đồ Sảng từ tốn nói:
    - Xin Giáo Chủ sư huynh bớt lo âu! Tiểu đệ tự tin có thể đưa được Trương Trạm trở về!
    Trương Giáo Chủ đang tuyệt vọng nên bám lấy tia hy vọng này, song vẫn còn nghi ngại! Riêng Vu Hồ Chân Nhân thì buột miệng nói ngay:
    - Sư đệ suy nghĩ cho kỹ rồi hãy hành động! Ngươi mà thua thì bổn giáo lại mất toi ba ngàn lượng đấy!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
    - Tiểu đệ sẽ tự thanh toán nếu không đỡ nổi ba chiêu của Tiên Nhân Động Chủ!
    Ai nấy kinh ngạc vì không ngờ chàng lại giàu đến thế !
    Tư Đồ Sảng quay sang bảo gã đạo sĩ hầu trà:
    - Phiền sư điệt ra ngoài cửa Thùy Hoa, bảo thủ hạ của ta mang hành lý vào đây!
    Gã này tuổi mới đôi mươi, đạo danh Linh Tiếu Tử, học trò nhỏ nhất của Giáo Chủ! Lúc nào trông gã cũng như đang cười nên mới được đặt tên ấy!
    Nghe chàng sai bảo, gã lập tức nhoẻn miệng cười rất tươi, để lộ hàm răng không đều, có hai răng chiếc nanh nhọn. Trong tướng pháp, người có hàm răng như thế thường hoạt bát, vui vẻ và tinh quái!
    Gã rảo bước đi ra ngoái, lát sau dẫn Huyết Báo vào đến!
    Tư Đồ Sảng đứng lên giới thiệu song phương. Cái tên Liễu Mộ Hào rất xa lạ và không nổi tiếng nên chẳng khiến ai chú ý!
    Tư Đồ Sáng mở tay nải của mình, lấy túi lụa đựng Hồng Bảo Ngọc, đổ ra mặt bàn. Ánh Hồng rực rỡ chớp ngời làm loà mắt năm kẻ tu hành.
    Thì ra Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ giận dỗi vì thái độ ương bướng của chàng nên đã trả lại Hồng Bảo Ngọc, kể cả những viên mà Thúy Lan đã xin! Ông tự hào mình là con cháu bậc danh nhân lịch sử nên không thể chấp nhận cho con gái ngang hàng với hạng nô tỳ!
    Khuất phu nhân khoáng đạt hơn song không thề cãi chồng!
    Tư Đồ Sảng hòa nhã nói:
    - Bẩm Giáo Chủ! Số Hồng Bảo Ngọc này trị giá khoảng sáu vạn lượng vàng. Tiểu đệ xin dâng nạp vào ngân quĩ của bổn Giáo để hoằng dương đạo pháp và chẩn tế tai dân khi có dịp! Ngưỡng mong Giáo Chủ thể tất tấm lòng thành của tiểu đệ mà thu nạp!
    o0o
    Sáng mùng mười tháng sáu. Thiên Sư Giáo Chủ thống lãnh nhân mã gồm ba chục người, hiện diện ở mạn Tây Bắc núi Lư Sơn! Tiên Nhân Động nằm tại đây.
    Đang là mùa hạ nên cảnh vật Lư Sơn lộ ra, sương mù chỉ bãng lãng trên cao chứ không mờ mịt che phủ tất cả như những mùa khác! Tuy nhiên, chỉ cần một cơn mưa hè trút xuống là núi Lư Sơn lại chìm vào trong lớp áo khói sương !
    Thi hào Tô Đông Pha thời Tống đã có bài thơ vịnh cảnh Lư Sơn rất nổi tiếng:
    “Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều
    Vị đáo bình sinh hận bất tiêu
    Đáo đắc hoàn lai vô biệt sự
    Lư Sơn yên tỏa Chiết Giang Triều!”
    Bài thơ này mang một ý nghĩa triết lý rất thâm thúy, bàng bạc tư tưởng Vô Sở Đắc của cả Đạo Giáo lẫn Phật Môn!
    Nơi ẩn cư của Tất Linh Kỳ là một động đá thiên nhiên có từ ngàn xưa. Tất lão đã chiếm lấy nó, khắc lên cửa hang ba chữ “Tiên Nhân Động” và tự xưng Tiên Nhân Động Chủ ! Ngày còn ngang dọc giang hồ lão có biệt danh là Truy Nguyên Quỉ Đổ! Hơn ba mươi năm trước, Tất Linh Kỳ bị Đổ Bác Thần Hà Dương vét sạch cơ nghiệp trên chiếu bạc ôm hận đến núi Lư Sơn tu tiên. Không ngờ lão chẳng thành tiên mà còn cùng đệ tử tái xuất ở đổ trường lớn nhất Nam Xướng để rồi chạm trán Trương Trạm!
    Tất lão đã bày Trúc trận trước cửa động nên khách không vào được. Trương Thiên Sư liền cao giọng gọi:
    - Tất tôn giá! Lão phu y ước mang vàng đến chuộc con, mong tôn giá mở cửa trận!
    Từ trong đám tre trúc mờ mịt khói sương kia vọng ra tiếng già nua:
    - Nơi này chật hẹp chẳng tiện thiếp khách, phiền Giáo Chủ đưa quân đến chân vách đá Long Thủ chờ lão phu!
    Trương Hàn Vũ chỉ còn cách tuân theo sự bố trí của đối phương. Đoàn người lặng lẽ đi ngược về hướng Tây, trước tiên là gặp Ngự Bi Đình, một trong những thắng tích của Lư Sơn.
    Ngự Bi Đình cũng gọi là Bạch Lộc Thăng Tiên Đài, do Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương cho xây dựng. Trong đình có bia đá rất lớn, cao khoảng một trượng hai xích hai thốn (bốn mét). Đi thêm nữa là những danh lam thắng cảnh khác nằm rải rác như tháp Thiên Trù, Đài Thiên Tân, Đầm Long Ngư, Đài Văn Thù, Đầm Đại Thiên...
    Và cách Đại Thiên Đàm không xa là vách đá Long Thủ lừng danh. Vách này có hình dáng giống như hai khối đá lớn ghép lại, một khối đứng thẳng không nhìn thấy chân, khối kia nằm ngang. Trên mặt đá tùng mọc xanh rì. Đứng ở đỉnh vách Long Thủ người ta có thể nhìn thấy một vùng sông suối, núi rừng, phong cảnh tuyệt đẹp.
    Long Thủ Bích ở trên cao trăm trượng và phía dưới nó là những thắng cảnh khác như vách đá sư tử. Phương Ấn Thạch(Tảng đá hình ấn vuông), Bách Trượng Thê (Thang dài trăm trượng).
    Lần đầu được chiêm ngưỡng những kỳ quan của núi Lư Sơn, Tư Đồ Sảng ngất ngây, say đắm, tự nhủ sẽ có ngày quay lại đây để thưởng thức cho trọn vẹn!
    Đoàn người đến khoảnh đất trống dưới chân vách Long Thủ thì đã gặp ngay một lão nhân mặc trường bào hồng tay hẹp, râu tóc bạc phơ, da mặt chỉ hơi nhăn nheo và nhãn thần thì sáng quắc!
    Lão ta ngồi trên một tảng đá nhỏ, sau lưng có hai gã tiểu đồng đứng hầu, một mang kiếm, một ôm đàn tỳ bà!
    Hồng y lão nhân đứng lên tự giới thiệu:
    - Lão phu là Tất Linh Kỳ!
    Trương Thiên Sư không thấy mặt con trai liền nóng nẩy nói:
    - Lão phu là Trương Hàn Vũ! Dám hỏi vì sao Tất tôn giá không mang Trạm nhi đến đây?
    Là tay cờ bạc lừng danh nên nét mặt Trung Nguyên Quỷ Đổ lúc nào cũng lạnh như tiền, buồn vui không để lộ! Lão thản nhiên đáp:
    Hắn đang ờ trong Tiên Nhân Động! Khi nào chư vị đáp ứng đủ các điều kiện sẽ có người cung kính đưa y đến! Và lão hỏi lại:
    - Phải chăng người tiếp ba chiêu của lão phu chính là Giáo Chủ?
    Trương Hàn Vũ cười nhạt:
    - Bổn tọa thân phận cao cả, đâu thể tùy tiện xuất thủ! Người tham chiến sẽ là Ngũ sư đệ của lão phu, đạo danh Kỳ Hoa Chân Nhân!
    Lão nói thế cho oai chứ thực ra võ công không cao, Thiên Sư Giáo nặng về tôn giáo hơn là võ thuật, Giáo Chủ cùng các Hộ pháp chỉ chuyên tâm vào kinh tạng, bùa chú và thuật luyện đan!
    Từ sau lưng Trương Giáo Chủ bước ra một đạo sĩ áo trắng, tuổi đôi mươi, mày kiếm, mắt sao, mũi Thông Thiên Đình tôn quí, trán cao, miệng rộng! Sắc diện của Kỳ Hoa Chân Nhân hiền hòa, nhân hậu, song ẩn chứa vẻ uy nghiêm, cương nghị!
    Kỳ Hoa Chân Nhân chính thị Tư Đồ Sảng của chúng ta ! Trương Giáo Chủ đã sắc phong chàng làm Đệ ngũ Hộ pháp của Thiên Sư Giáo và ban cho đạo hiệu Kỳ Hoa.
    Tiên Nhân Động chủ Tất Linh Kỳ thừa thông minh để hiểu rằng gã đạo sĩ trẻ tuổi kia phải có bản lãnh rất cao cường nên mới được đề cử làm đại biểu xuất trận! Lão nghĩ ngày đến cao thủ số một của Thiên Sư Giáo, hờ hững hỏi:
    - Phải chăng Kỳ Hoa Chân Nhân là đệ tử của Ly Giang Tiên Ông?
    Trương Thiên Sư cười ruồi:
    - Đúng vậy! Y nghe nói kiếm pháp của tôn giá trước đây từng lừng danh vũ nội nên hiếu kỳ muốn học hỏi!
    Dù bị khích bác, mỉa mai mà Tất Linh Kỳ vẫn không động nộ, nhếch mép cười nham hiểm:

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Lão phu rất vinh hạnh! Sau ba chiêu, nếu y không gục ngã thì lão phu nhận bại!
    Tư Đồ Sảng có cảm giác rằng khi cầm kiếm thép trong tay thì tâm hồn thanh thản, và hoàn toàn vô úy. tâm lý khác hẳn lúc cầm búa! Dường như thanh kiếm đã mang đến thêm sức mạnh và dũng khí vây! Đúng là tâm trạng của kẻ đã bước vào cảnh giới kiếm đạo. Chàng rất tự tin nên điềm nhiên hỏi lại:
    - Nhưng nếu bần đạo đả thương được tôn giá thì sao?
    Đối với một võ sĩ già thì đây là sự xúc phạm lớn lao, da mặt Tất Linh Kỳ hơi tái đi và lão cười nhạt:
    - Hay lắm! Nếu ngươi tự tin như thế thì chúng ta đánh cược! Sau ba chiêu, lão phu mà chảy một giọt máu thì sẽ giao trả cả Trương Trạm lẫn một vạn lượng vàng, cũng như không đòi bẩy ngàn lượng kia! Bằng như ngươi không làm được điều ấy, dù vẫn còn đứng vững thì Thiên Sư Giáo phải mất thêm vạn lượng nữa!
    Té ra cái máu cờ bạc đã thắng được cơn giận dữ của Tất Linh Kỳ. Trương Giáo Chủ đã biết Tư Đồ Sảng là Thần Phủ Lang Quân, người từng đả thương Hải Hoa Bang Chủ và Quỷ Ảnh Hội chủ, nên rất tin tưởng. Ông hăng hái giao kết:
    - Bổn tọa tán thành! Song tôn giá phải mang Trạm nhi và số vàng ấy đến đây!
    Ông ngừng lại một chút rồi nhẹ nhàng mỉa mai:
    - Lòng người đen bạc khó lường nên bổn tọa phải cẩn thận!
    Biết Trương Hàn Vũ muốn khích động, làm rối loạn tâm của mình, Tiên Nhân Động Chủ cứ thản nhiên như điếc và gật gù chấp thuận.
    Lão ngửa cổ hú vang, tiếng hú ấy được dồn nguồn công lực hơn hoa giáp nên cực kỳ hùng mạnh, khiến màng nhĩ phe đối phương đau nhói.
    Tất Linh Kỳ chỉ thị uy vì lát sau đã có bốn hán tử võ phục đen áp giải một chàng trai áo gấm xanh đi đến nơi! Nghĩa là họ ở rất gần đây!
    Chắc vì không được hậu đãi nên mặt Trương Trạm hốc hác, tái xanh, râu ria lởm chởm, y phục bèo nhèo, dơ bẩn. Nhìn thấy Trương Thiên Sư, gã nghẹn ngào cầu cứu:
    - Xin phụ thân cứu lấy hài nhi! Bị cầm tù thêm vài ngày nữa thì hài nhi chết mất!
    Trương Trạm hư đốn cũng bởi sự cưng chiều quá độ của vợ chồng Trương Giáo Chủ! Thuở nhỏ, Trương Trạm thông minh lanh lợi, biết cạch nịnh hót nên được cha mẹ yêu thương như bảo bối! Lớn lên gã hư hỏng là chuyện tất nhiên!
    Nhưng lần này Trương Thiên Sư không thể bỏ qua tội lỗi tày đình này của quí tử. Lão trừng mắt nạt:
    - Nghịch tử khốn kiếp kia! Đương nhiên lão phu phải cố đem ngươi về Long Hổ Sơn để chịu sự trừng phạt của Giới Đường chứ! Lúc ấy thì còn khổ hơn trong Tiên Nhân Động!
    Trương Trạm ỷ vào sự yêu thương che chở của mẹ là Giáo Chủ phu nhân nên chẳng ngán, nhưng ngoài mặt vẫn tỏ ra sợ hãi và hối hận, sụt sùi khóc lớn!...
    Tiên Nhân Động Chủ rút trong áo ra một xấp ngân phiếu, đưa cho Trương Thiên Sư và nhẹ nhàng trả đũa:
    - Lão phu không có thói quen lấy dạ tiểu nhân để đo lòng quân tử ! Ông sợ thì cứ giữ lấy cho yên tâm!
    Trương Giáo Chủ chưa kịp đối đáp thì Linh Tiếu Tử ở bên cạnh đã vọt miệng nói leo ... Gã cười khì bảo:
    - Trong đổ trường làm gì có quân tử! Lúc cháy túi thì nhà cửa ruộng vườn và cả vợ con cũng dám bán đi để gỡ gạc! Năm xưa tôn giá đã chẳng từng làm thế đấy sao?
    Việc tủi nhục này là một bí mật tày trời của Tất Linh Kỳ, chỉ có lão và Đổ Bác Thần biết được. Ngày ấy, Đổ Bác Thần đã hứa không tiết lộ việc lão mang người vợ trẻ đẹp ra đánh bạc và thua mất. Vậy mà không hiểu sao giờ đây gã tiểu tử chết tiệt kia lại khai ra vanh vách như thế?
    Lão không ngờ rằng Ly Giang Tiên Ông là bạn vong niên của Đổ Bác Thần nên nắm rõ sự việc. Và trong một lần ghé thăm Long Hổ Sơn, Tiên Ông đã vui miệng kể cho Linh Tiếu Tử nghe!
    Tiên Nhân Động Chủ giận điên ngươi song không thể thú nhận, liền quát mắng:
    - Tiểu bối chớ nói càn! Làm gì có việc ấy?
    Và lão quay sang trách Trương Thiên Sư:
    - Vì sao Giáo Chủ lại để cho đệ tử mình hỗn láo với lão phu như thế? Phải chăng đấy là kỷ cương của Thiên Sư Giáo?
    Trương Giáo Chủ biết đối phương đã động nộ, tâm tình rối loạn, có lợi cho Tư Đồ Sảng. Ông rất cao hứng nhưng vẫn giả vờ khiển trách đồ đệ:
    - Linh Tiếu Tử! Ngươi nói năng bừa bãi làm tổn hại đến thanh danh bổn giáo, khi về sẽ phải chịu hình phạt của Giới Đường!
    Linh Tiếu Tử tinh ranh như chồn giả vờ khiếp sợ run rẩy đáp:
    - Đồ nhi đã biết tội!
    Lúc này, Tư Đồ Sảng đã rút kiếm, trao vỏ bao cho Huyết Báo, tiến đến trước mặt Tất Linh Kỳ. Chàng ôm kiếm chào rồi thủ thế, chờ đợi sự tấn công của đối phương.
    Bàn tay hữu chàng nắm đốc kiếm, hạ xuống vị trí dưới thắt lưng, lưỡi kiếm dựng xéo trước mặt, còn bàn tay tả thì bắt kiếm ấn, đặt hờ trước ngực trái. Tư thế này chẳng có gì đặc biệt, không kín cũng không hở, song lại khiến Tất Linh Kỳ lưỡng lự. Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân chẳng hề có chút sát khí nào, một dấu hiệu của bậc kiếm thủ thượng thừa!
    Điều đáng ngại thứ hai là chút ánh sáng mờ mờ màu tím nhạt tỏa ra từ cây trâm cài búi tóc trên đầu đối thủ! Lão nhận ra rằng Kỳ Hoa Chân Nhân phái có tu vi trên ba mươi năm và đạt được hai thành hỏa hầu công phu cương khí hộ thân, thì cây Tử Ngọc Thần trâm kia mới phát quang! Năm xưa, mỗi lần Ly Giang Tiên Ông giao đấu với ai, cây trâm ấy tỏa sáng rực rỡ!
    Sau khi đánh giá xong thực lực của kẻ địch Tiên Nhân Động Chủ cẩn trọng xuất chiêu “Lôi Vũ Khai Nguyên”, kiêm ảnh mờ mịt tựa vũ trụ thuở còn hỗn độn, và lấp loáng những vệt sáng dài, những chấm nhỏ li ti, tượng trưng cho sấm sét, mưa gió, tức lửa và nước, hai yếu tố khởi nguồn cho sự sống!
    Tất Linh Kỳ là học trò của Hỗn Nguyên Chân Quân, trước đây do mải mê đen đỏ mà không sao luyện thành những chiêu cuối của pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Nhưng sau ba mươi năm tĩnh tâm tu luyện ở Tiên Nhân Động lão đã đạt đến mức đạt thành!
    Lão xem trọng đối phương nên đã thi triển một trong những chiêu lợi hại nhất và tin chắc sẽ đại thắng. Lão vẫn nghĩ rằng giờ đây mình là một trong những kiếm thủ hàng đầu trong võ lâm!
    Nhưng Lão Ô Bách Tuế chẳng bằng Phượng Hoàng sơ sinh, Tất Linh Kỳ căn cơ thấp kém, mang bản chất của một kẻ cờ bạc bẩm sinh, lòng tham dục rất vượng thì làm sao hiểu ngộ được yếu quyết cao siêu của kiếm đạo? Do vậy, dù khổ luyện cách mấy thì lão vẫn chỉ dừng lại ở trình độ kiếm thuật!
    Tuy nói như thế song bản lãnh của Tất lão vẫn cao hơn Tư Đồ Sảng vài bậc, nhờ công lực thâm hậu. Lão ta là con trâu già lực lưỡng, hung hăng, còn chàng như chú cọp non, móng vuốt chưa đu dài! Nhưng Tư Đồ Sảng lại sở đắc kiếm đạo, chẳng thể thua trong vòng vài chiêu được! Hơn nữa, tri thức của con người hoàn thiện dần theo thời gian, người đời sau hiểu rõ vũ trụ và thiên nhiên nhiều hơn cổ nhân. Nghĩa là không phải bất cứ môn võ nào có lịch sử lâu đời đều lợi hại hơn tuyệt kỹ đương đại.
    Trong trường hợp này cũng thế, tuy Hỗn Nguyên Chân Quân hơn Ly Giang Tiên Ông đến năm mươi tuổi song trình độ kiếm pháp lại chẳng bằng! Chân Quân tạ thế ớ tuổi bẩy mươi, đâu có thời gian để hoàn thiện pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp. Trong khi đó, Ly Giang Tiên Ông thọ đến hơn trăm, thừa điều kiện biến pho Huyền Nguyên1 kiếm Pháp thành tận thiện, tận mĩ!
    Giờ đây, Tư Đồ Sảng có dịp để biểu lộ ưu thế này. Chàng vung kiếm chém điểm liên tục ba trăm sáu mươi thế thức với tốc độ nhanh đến mức trường kiếm như hóa thành năm bẩy bóng!
    Sau nhiều năm quen sử dụng thanh Giáng Ma Phủ nặng hai chục cân, lực đạo ở cánh tay và cổ tay Tư Đồ Sảng cũng mạnh mẽ phi thường. Nhờ vậy mà khi múa kiếm chàng thấy nhẹ như bấc, dễ dàng đạt đến vận tốc cực đại. Chính Ly Giang Tiên Ông cũng phải thán phục thành tựu ấy của học trò!
    Chiêu “Tảo Vân Tầm Nguyệt” mà Tư Đồ Sảng đang sử dụng thuộc về pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nó gồm nhiều thức điểm hơn là thế chém. Mũi kiếm của chàng phong tỏa hoàn toàn thân trên đối phương, liên miên bất tuyệt đâm vào những vị trí mờ tối trên màn kiếm quang đang ập đến. Khi thép chạm nhau, Tư Đồ Sảng phải vừa lùi vừa đánh vì đối phương mạnh hơn và đang thuận đà lao đến! Nhờ vậy mà lực phản chấn chẳng nhiều, không cản trở đường kiếm của chàng!
    Tiếng thép tinh tang cất lên không ngớt và cuối cùng thì Tư Đồ Sảng đã tìm ra sơ hở chết người của đối phương. Chàng thọc kiếm vào sườn phải Tiên Nhân Động Chủ bằng một nhát cực kỳ thần tốc. Nhưng khi mũi kiếm vừa đâm thủng da thịt họ Tất thì chàng lập tức thi triển Túy Tinh bộ pháp, bay vèo sang mé hữu, cách vị trí cũ hai trượng!
    Nếu Tư Đồ Sảng thọc kiếm sâu hơn thì cũng được nhưng phải chịu một vết thương nơi vai tả. Chàng và Tất Linh Kỳ không thù oán, chẳng cần phải thí mạng làm chi!
    Phe Thiên Sư Giáo reo hò vang dội khi máu từ vết thương làm sậm màu tấm áo hồng của Tiên Nhân Động Chủ!
    Tất Linh Kỳ bàng hoàng đưa tay tả bịt vết thương, không tin đấy là sự thật! Lão đang dồn cho đối thủ lui dài, sao lại có thể trúng đòn được? Nhưng cám giác đau đớn ở sườn non đã thức tỉnh lão. Tất Linh Kỳ kiểm tra thương thế, biết chỉ là ngoài da nên vần còn sính cường. Lão điểm huyệt chỉ huyết rồi lạnh lùng nói:
    - Đu ba chiêu mới phân thắng thua! Nếu Kỳ Hoa Chân không gục ngã thì lão phu nhận bại!
    Đúng là song phương đã giao ước như thế nên Trương Thiên Sư phải chấp nhận để Tư Đồ Sảng đánh tiếp. Lòng ông thầm lo lắng cho vị sư đệ trẻ tuổi vì hiểu rằng Tất Linh Kỳ sẽ thí mạng! Để thua một tiểu tử miệng còn hôi sữa thì thanh danh tiêu tán, thà chết còn hơn !
    Trương Hàn Vũ liền vẫy Tư Đồ Sảng đến dặn nhỏ:
    - Sư đệ hãy cẩn thận! Lão Quỉ họ Tất định đổi mạng đấy!
    Tư Đồ Sảng bình thản mỉm cười:
    - Giáo Chủ cứ yên tâm! Tiểu đệ biết mình phải làm gì !
    Chàng trở lại đấu trường, đứng đối diện với Tiên Nhân Động chủ, thủ thế y như lúc nãy, sắc mặt an hòa, chẳng hề lộ nét kiêu căng tự đắc vì thắng lợi.
    Tất Linh Kỳ chột dạ, thầm hiểu rằng cái tâm của gã đạo sĩ trẻ kia đã đồng nhất với kiếm, không hề bị thất tình lục dục làm nhiễu loạn! Nhưng lão đặt trọn niềm tin vào hai chiêu kiếm cuối cùng trong pho Hỗn Nguyên Kiếm Pháp nên bình tâm xuất chiêu “Thiên Địa Sinh Dương”!
    Tiên Nhân Động Chủ lướt đi, thân ảnh biến mất trong màn kiếm quang sáng bạc, loang loáng dưới ánh nắng hè chói lọi tựa vầng dương lúc vừa được trời đất sinh ra!
    Lần này Tư Đồ Sảng không đứng im chờ đợi mà chủ động lao đến ngay khi đối phương vừa xuất thủ. Chàng chỉ chậm hơn một cái chớp mắt và nhờ tốc độ thần kỳ của pho Truy Tinh Bồ Pháp nên lại trở thành kẻ tấn công.
    Lúc này, chiêu kiếm của đối phương chưa đạt đến độ nhanh tối đa, không phát huy được hết uy lực! Hành động này của chàng còn khiến cho Tiên Nhân Động Chủ bị bất ngờ, và rơi vào thế bị động!
    Tư Đồ Sảng đánh chiêu Thượng Thiên Nhược Thủy đường kiếm liền lạc âm nhu tạo nên những cơn sóng kiếm kình mềm mại, liên tục vỗ vào màn kiếm quang sáng rực, hung hãn của Tất Linh Kỳ!
    Tên của chiêu này hàm ý rằng bậc Đại Thiện Nhân thì giống như nước vậy! Nước giúp ích vạn vật, không tranh chỗ cao ráo, ở vào chỗ thấp kém nên rất gần với Đạo! Nước còn có một đức tính nữa là không thể bị chặt đứt và có thể len qua những khe hở dù rất hẹp!
    Đây là chiêu thức kỳ diệu nhất trong pho Huyền Nguyên Kiếm Pháp, có thể thủ thắng trước bất cứ kẻ địch nào! Tiếc rằng, công lực của Tư Đồ Sảng chưa đủ thâm hậu nên không thành công trọn vẹn! Sóng kiếm của chàng đã len qua sơ hở, chạm sườn trái đối phương, nhưng ngược lại, mũi kiếm của Tất Linh Kỳ cũng đang bám lấy huyệt Đản Trung ở giữa ngực chàng!
    Nếu Tư Đồ Sảng có đủ hoa giáp chân lực thì sóng kiếm đã làm cho vũ khí của Tất lão chậm lại hơn nhiều và không thể đả thương được chàng?
    Tư Đồ Sảng là một kiếm thủ bẩm sinh khi giao đấu tâm tình lặng và trong sáng như gương. Nhờ vậy, các giác quan của chàng rất minh mẫn, cảm nhận được hết những mối hiểm nguy đang đe dọa cơ thể!
    Và nếu chàng bỏ dở đường gươm cố thoát khỏi cái thế lưỡng bại câu thương này thì sẽ lâm nguy bởi những thức kiếm tiếp theo. Tư Đồ Sảng biết rõ họ Tất chứa thi triển hết trọn chiêu kiếm!
    Diễn tả thì dài dòng, lâu lắc song sự việc xảy ra chỉ trong chớp mắt. Tư Đồ Sảng đã thản nhiên thọc kiếm vào huyệt Phúc Ai. thuộc linh túc Thái âm Tỳ của đối thủ. Đống thời, một kiếm của Tất Linh Kỳ cũng chạm lớp vải áo ở phía ngoài huyệt Đản trung!
    Xem ra Tư Đồ Sảng sẽ rất thiệt thòi, huyệt Đản Trung thuộc mạch Nhâm, là một tử huyệt, còn huyệt Phúc Ai thì không!
    Phe Thiên Sư Giáo sợ đến xám mặt, lo cho Tư Đồ Sảng, khi họ thấy thấy chàng văng ngược vế phía sau, máu loang đẫm ngực phải. Chàng mặc áo đạo sĩ trắng tinh nên.màu máu hiện ra rất rõ!
    Trương Giáo Chủ và hai vị hộ pháp vội lướt đến để chăm sóc Ngũ đệ.
    Họ thở phào khi thấy Tư Đồ Sảng cười bảo:
    - Tiểu đệ chỉ bị thương nhẹ xin Giáo Chủ và nhị vị sư huynh chớ quá lo!
    Lúc này Tiên Nhân Động Chủ đã chỉ huyết vết thương nơi huyệt Phúc Ai và nuốt vài viên linh đan xong. Lão căm hận rít lên:
    - Tiểu quỷ chết toi kia! Sao ngươi dám lén lót thép lá vào ngực mà giao đấu?
    Tư Đồ Sảng lặng lẽ phanh ngực để lộ Hồng Ngọc hồ lô. Chính cái vật nhỏ bé này đã che chở huyệt Đản Trung của chàng và đẩy lệch mũi kiếm của Tất Lão sang một bên! Chàng hòa nhã nói:
    - Tại hạ chỉ gặp may chứ không hề gian dối!
    Tiên Nhân Động Chủ chết điếng người hối tiếc rằng vì sao lúc nãy không đưa kiếm lên hoặc xuống dưới huyệt Đản Trung một vài thốn! Trong canh bạc này lão đã cháy túi vì xui tận mạng!
    Thật ra, Tư Đồ Sảng chẳng hề cầu may vì biết rõ vị trí của Hồng Ngọc hồ lô lúc ấy! Trái bầu Ngọc đỏ này không tròn lẳn mà hơi dẹp, phần dưới có đường kính rộng độ bai lóng tay, thừa sức che kín huyệt Đản Trung! Và nó rất cứng rắn, chẳng thể nào bị mũi kiếm đâm vỡ được! Tất nhiên, điều này còn đòi hỏi một dũng khí hơn người!

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 6

    Đồng Quan Lâu Thượng Nhan Như Ngọc
    Bích Hổ Thần Công Náo Hạo Thiên!
    Đầu tháng tám, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã vào đến địa phận tỉnh Thiểm Tây, dừng cương ở Đồng Quan, cách Tường An cỡ bốn năm ngày đường!
    Ải Đồng Quan và Ải Hàm Cốc là hai cửa ngõ duy nhất để vào đất Thục từ hướng Đông. Chính vì thế mà thành Đồng Quan khá lớn, dân cư sầm uất, kinh tế thịnh vượng.
    Xế trưa, hai người ghé vào Túy Đào đại tửu lâu để dùng cơm. Trời thu trong vắt, tửu khách ở tầng ba có thể vừa nhâm nhi vừa ngắm rặng núi Hoa Sơn lừng danh ở hướng Tây. Còn nhìn về hướng Đông họ sẽ thấy một rừng đào mênh mông bát ngát.
    Tư Đồ Sảng chưa đến thăm Hoa Sơn bao giờ nên chọn một bàn cạnh cửa sổ hướng Tây, dõi mắt ngắm nhìn những đám mây trắng nhỏ đang vờn quanh năm đỉnh núi xa mờ!
    Chàng rút Giáng Ma Phủ đặt trong lòng để ngồi cho thoải mái. Huyết Báo đỡ khổ hơn vì Nhị Tiết Côn đã nằm trong tay nải, gã chỉ phải tháo thanh trường kiếm trên vai, đặt lên mặt bàn. Gã mang kiếm khiến thiên hạ càng không thể nhận ra thân phận cũ!
    Nhưng cây trường kiếm này lại là của Tư Đồ Sảng chứ chẳng phải của gã!
    Giáo Chủ Thiên Sư Giáo đã tặng nó cho vị Ngũ sư đệ đáng yêu, kẻ đã cứu vãn cả cơ nghiệp lẫn thanh danh của lão. Tuy chẳng sắc bén như những bảo vật thời Xuân Thu nhưng nó cũng rất tốt vì Giáo Chủ thì không thể sử dụng loại vũ khí tầm thường được.
    Xong bữa, hai người ngồi đối ẩm, thưởng thức rượu Túy Đào, thứ đặc sản đã làm nên tên tuổi của tửu lâu! Giờ đây, ánh mắt của Huyết Báo chẳng còn lạnh lẽo, đầy sát khí như lúc trước. Gã nhìn Tư Đồ Sảng bằng những tia nhìn trìu mến, miệng nở nụ cười ấm áp hàm răng chắc khỏe và trắng nhởn kia tương phản với bộ râu rậm đen mun!
    Liễu Mộ Hào đã trở về với bản chất thực của mình, không còn phải đóng vai một hung thần khét tiếng nữa. Gã vui vẻ hỏi chủ nhân:
    - Công tử ! Có khi nào công tử nghĩ đến việc hai nàng họ Lăng kia hóa trang hay không? Người đời thường có thói xem trọng hình thức bên ngoài, lẽ nào Cung chủ Hạo Thiên Cung lại thu nhận hai ả nữ tỳ quá xấu xí như vậy?
    Tư Đồ Sảng ngượng ngập đáp:
    - Liễu túc hạ luận việc cũng có lý. Tiếc rằng tại hạ nhãn quang kém cỏi nên không thể nhìn ra hư thực!
    Nụ cười, ánh mắt của cố nhân khiến lòng chàng xao xuyến. Và sau đó là gò ngọc nhũ thanh tân, mơn mởn của Phi Hồng cũng hiện ra khiến chàng đỏ mặt.
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn nói lảng sang chuyện khác:
    - Trước lúc qui tiên, gia sư đã dặn dò tại hạ phải đề phòng Hạo Thiên Cung! Bao năm qua tổ chức này cư xử như một chính phái, nhưng có thể chỉ vì nể sợ gia sư! Khi biết người đã tạ thế, e rằng họ sẽ bộc lộ dã tâm!
    Liễu Mộ Hào gật gù:
    - Công tử nói phải! Hạo Thiên Cung đã mời hàng ngàn cao thủ trong thiên hạ đến dự hội Bàn Đào, dụ dỗ họ trao đổi sở học, hoặc gia nhập dưới trướng! Hiện nay, họ đã gồm thâu võ nghệ trăm nhà và qui tụ toàn những tay kiệt xuất, lão thành, thế lực hùng mạnh đến mức có thể khuynh đảo võ lâm một cách dễ dàng!
    Gã nói đến đây thì dừng lời vì ánh mắt bắt gặp dung mạo của vị khách vừa bước lên khỏi cầu thang. Sắc diện của Liễu Mộ Hào rất quái dị, có vẻ như vừa mừng vừa sợ!
    Tư Đồ Sảng đang chăm chú nhìn gã nên nhận ra sự khác thường liền quay về hướng có tiếng chân người, chàng chỉ thấy một nữ lang tuổi đôi mươi, mặc váy áo mầu xanh bằng vải thô, tóc thắt thành hai bím, buông dài đến quá bụng. Trên tay nàng là một chiếc đàn tỳ bà cũ kỹ màu đen mờ. Tuy nghèo nàn, giản dị như thế nhưng dung mạo của nàng ta cực kỳ diễm lệ, lập tức khiến lòng Tư Đồ Sảng ngất ngây!
    Chẳng thể trách chàng được vì ả ca kỹ ấy có nước da trắng hồng, ngũ quan thanh tú, cân đối, chẳng hề có một khuyết điểm gì!
    Ngay cả tấm áo bằng vải xấu kia cũng được cắt may rất khéo, ôm sát thân trên và làm nổi bật đôi ngực nở nang và vòng eo thon nhỏ.
    Nàng ca kỹ đứng yên một lúc, đảo mắt quan sát để tìm đối tượng. Nhìn thấy gương mặt anh tuấn, cương nghị và ánh mắt ái mộ của Tư Đồ Sảng, nàng khẽ cau mày. Suy nghĩ một lúc rồi đi về phía bàn của chàng!
    Trong lúc ấy, Tư Đồ Sảng đã tỉnh táo lại! Mối huyết thù cùng với ân tình của chị em họ Lăng đã khiến chàng hổ thẹn, tự trách mmh là kẻ hời hợt!
    Chàng bình tâm quay lại hỏi Huyết Báo:
    - Liễu túc hạ! Nàng ta là ai vậy? Dường như túc hạ có biết nàng?
    Liễu Mộ Hào gượng cười:
    - Tại hạ thấy đẹp thì nhìn chứ nào có quen!
    Tư Đồ Săng không tin lắm, chỉ đoán rằng gã đang rất khổ tâm khi phải giấu giếm chàng!
    Ả ca kỹ đã đến bên bàn, không có vẻ gì nhận ra Huyết Báo. Nàng ta vẫn thản nhiên nở nụ cười đổ quán xiêu đình, thỏ thẻ với Tư Đồ Sảng:
    - Tiện nữ là Mạc Chiêu Hương, do gia cảnh bần hàn nên phải đem tiếng đàn điệu hát đồi lấy chén cơm. Mong công tử thương tình hạ cố thưởng thức chút tài mọn của kẻ bạc mệnh này!
    Giọng nàng thánh thót, ai oán và đôi mắt nhung huyền sâu thẳm kia tràn ngập nỗi thiết tha, khiến lòng người xúc động, không sao từ chối được!
    Lòng háo sắc đã nguội lạnh, Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Tại hạ tên Lý Thu là kẻ võ biền không sành âm luật! Nhưng nay cô nương đã có nhã hứng thì tại hạ xin rửa tai lắng nghe! Mời cô nương an tọa!
    Đàn tỳ bà là loại nhạc cụ không thể đứng mà đánh được! Mạc Chiêu Hương liền nhún mình cảm tạ rồi khép nép ngồi xuống chiếc ghế đôn ở mé bàn hướng Bắc! Nàng ta so dây và nói:
    - Tiện nữ xin được hát bài Từ Lâm Giang Tiên của Yến Kỷ Đạo thời Tống!
    Tư Đồ Quát văn võ toàn tài nên cũng rất sính thi ca. Mỗi lần ngà ngà say ông thường ê a hát cho vợ con nghe. Nhờ vậy, Tư Đồ Sảng biết Yến Kỷ Đạo, Tự Thúc Nguyên là một đại Từ Gia thời nhà Tống, nhưng cha của Yến Kỷ Đạo là Yến Thù lại càng nổi danh hơn nữa!
    Yến Thù, tự là Đồng Thúc, người đất Lạm Xuyên, Giang Tây, mới bẩy tuổi đã biết sáng tác văn, thơ, mười lăm tuổi đậu tiến sĩ. Những danh sĩ đương thời như Phạm Trọng Yêm, Âu Dương Tu, Khổng Đạo Phủ, Vương An Thạch đều ở dưới trướng của Yến Thù! Từ của ông đẹp và trong sáng, thể hiện rõ trong tác phẩm “Ngọc Châu Tập”.
    Mạc Chiêu Hương đã so dây xong, dựng đàn trước ngực trái, tay tiên mười ngón nắn nót đường tơ, môi anh đào nhả từng lời thơ tuyệt diệu:
    Mộng hậu lâu đài cao toả
    Tửu tinh Liêm Mộ đê thùy
    Khứ niên xuân hậu khước lai thì
    Lạc hoa nhân độc lập.
    Vi vũ yến song phi.
    Ký đắc Tiếu Tần sơ kiến
    Lưỡng trùng tâm tự la y
    Tỳ bà huyền thượng thuyết tương tư.
    Đương thời Minh Nguyệt tại
    Tằng chiếu thái vân qui.
    Dịch thơ:
    Mộng dứt lâu đài buông khóa
    Rượu tan rèm trướng buông rơi
    Xuẩn năm qua hoa bạn với người
    Hoa rụng người cô độc
    Mưa nhỏ én bay đôi
    Nhớ buổi gái tơ mới gặp
    Chữ tâm hai cánh áo thêu
    Ôm tỳ bà gẩy khúc tương tư
    Đương thời trăng rạng chiếu
    Đường về đám mây đưa.
    Bài từ này đã gợi cho Tư Đồ Sảng nhớ đến song thân nên mắt chàng lộ rõ nỗi buồn man mác. Mạc Chiêu Hương rất hài lòng vì gặp được khách tri âm, biết thưởng thức tài nghệ của mình. Nàng nhìn chàng đầy ngưỡng mộ và tán dương:
    - Công tử quả là bậc tao nhân nhã sĩ khác hẳn bọn phàm phu tục tử! Tiện nữ xin vì công tử mà phụng hầu thêm một khúc hát nữa!
    Tư Đồ Sảng đang bồi hồi vì ký ức nên buột miệng đáp:
    - Phiền Mạc cô nương cho tại hạ nghe bài “Hoán Sa Khê” của Đồng Thúc tiên sinh!
    Mạc Chiêu Hương thích thú nói:
    - Té ra công tử cũng ái mộ cha con nhà họ Yến giống như tiện nữ!
    Nàng hào hứng đàn hát bài ấy cho Tư Đồ Sảng nghe, mắt dán vào những đường nét thanh thoát trên gương mặt nhìn nghiêng của chàng. Tư Đồ Sảng ngắm núi Hoa Sơn mà nghe hát chứ không nhìn ngắm nàng như bao người khác. Chưa ai có thể hững hờ trước gương mặt đẹp mê hồn của nàng cả.
    Chút tự ái nữ nhân đã khiến nàng hờn giận, hát xong là cáo từ:
    - Tiện nữ biết mình là hạng gái phong trần, chẳng dám quấy nhiễu bậc quí nhân thêm nữa, xin công tử ban cho một ít bạc vụn!
    Một ý niệm ngộ nghĩnh chợt loé lên trong đầu Tư Đồ Sảng. Chàng đã nhận ra nãy giờ Huyết Báo khốn khổ như kẻ đang ngồi trên ổ kiến, bứt rứt không yên và chẳng dám nhìn Mạc Chiêu Hương. Chàng cho rằng gã ái mộ ả ca kỹ này mà chẳng dám thố lộ. Vậy thì chàng sẽ giúp gã một tay!
    Tư Đồ Sảng hỏi gã:
    - Theo ý Liễu túc hạ thì chúng ta nên thưởng cho Mạc cô nương đây bao nhiêu ngân lượng?
    Liễu Mộ Hào càng bội phần bối rối, ấp úng đáp:
    - Sao công tử lại hỏi ta?
    Tư Đồ Sảng tủm tỉm cười:
    - Nếu túc hạ không có cao kiến gì thì hãy cho ta mượn một nén vàng!
    Liễu Mộ Hào lóng ngóng mở tay nải lấy ra nén vàng mười lượng đặt trước mặt Mạc Chiêu Hương mà chẳng nói gì cả!
    Vàng là thừ kim loai có mầu sắc rực rỡ, có ái lực mãnh liệt đối với mắt người, vì vậy, rất nhiều tửu khách chung quanh nhìn thấy. Ngay cả những kẻ đã say cũng phải ồ lên xuýt xoa, ganh ty với vận may của ả ca kỹ, bởi họ nhìn một hóa thành hai!
    Nào ngờ Mạc Chiêu Hương lại chẳng hài lòng, cười nhạt bảo:
    - Đối với khách tri âm như công tử thì dù chỉ vài phân bạc tiện nữ cũng vui lòng nhận. Còn Liễu đại ca đây nghe nhạc như nghe sấm thì phải đủ trăm lượng hoàng kim mới xứng!
    Tư Đồ Sảng gật gù khen:
    - Mạc cô nương quả là cao luận!
    Rồi chàng thản nhiên bảo họ Liễu:
    - Mĩ nhân đã hạ cố nhận sao túc hạ không mau dâng tặng?
    Liễu Mộ Hào biết chàng vì hiểu lầm mà cố vun vén cho gã với Chiêu Hương, trong lòng rất khổ sở, tức tối, song vẫn lặng câm móc ra thêm chín nén vàng nữa!
    Mạc Chiêu Hương cũng nhìn thấy tâm can chàng công tử, tự ái bị tổn thương chua chát rủa thầm gã ngốc Lý thu không biết thưởng thức nhan sắc của nàng, lại còn đẩy đưa sang cho họ Liễu!
    Nàng giận đến xanh mặt, chưa kịp có chủ ý thì từ một bàn ở hướng Đông vọng lại tiếng người lạnh lẽo:
    - Này ả họ Mạc kia! Nàng hãy sang đây phục vụ cho bổn thiếu gia!
    Nghe cách xưng hô thô lỗ, ngạo mạn, Tư Đồ Sảng bất bình nhìn về hướng ấy, thấy một hán tử tuổi độ tam tuần, y phục sang trọng. Gã mặc trường bào mầu nguyệt bạch, ngoài khoác thêm áo ngắn mầu nâu, tất cả đều bằng gấm thượng hạng. Trên mũ của gã đính một viên lục Bảo ngọc lớn bằng hạt bắp, lấp lánh ánh sao rực rỡ, làm tôn vẻ quí phái của gương mặt điển trai! Sau lưng gã còn có hai tên vệ sĩ áo xanh, tuổi đôi mươi, mặt lầm lì lạnh lẽo!
    Tư Đồ Sảng chẳng thể phát tác vì Chiêu Hương là ca kỹ, ai cũng có quyền gọi đến!
    Huyết Báo phản ứng rất quái dị, gã lén nhếch mép cười, ánh mắt dầy vẻ thích thú! Dường như gã chỉ muốn Mạc Chiêu Hương đi cho khuất mắt!
    Song nàng ta lại chẳng chịu kiếm thêm tiền, cao giọng trả lời vị khách sang cả kia:
    - Cảm tạ công tử đã chiếu cố song hôm nay tiện nữ được quí nhân hậu thưởng, chẳng cần phải làm thêm nữa. Hẹn công tử lần khác vậy!
    Thái độ của nàng đã khiến kẻ cao ngạo kia động nộ. Gã liền bảo hai cận vệ:
    - Các ngươi sang bên đó đưa con ả mạt hạng ấy về đây!
    Hai kiểm thủ áo xanh vòng tay nhận lệnh rồi lừng lững tiến vế phía bàn của Tư Đồ Sảng.
    Mạc Chiêu Hương sợ hãi đứng lên, chạy đến sau lưng Tư Đồ Sảng run rẩy nói:
    - Tiện nữ sợ lắm! Mong Lý công tử chở che cho!
    Chàng mỉm cười trấn an:
    - Cô nương yên tâm! Liễu túc hạ đây võ công cái thế, chẳng để ai hà hiếp cô nương đâu!
    Ý chàng muốn Huyết Báo có dịp trổ tài lập công với nữ nhân hòng tranh thủ tình cảm! Quả thực là Liễu Mộ Hào đã đứng lên nghênh chiến! Cây Nhị Tiết Côn không còn nước sơn đỏ nên chẳng dọa được ai. Gã lạnh lùng nói với phe đối phương:
    - Nàng ta không muốn hát thì thôi, sao chư vị lại bức bách?
    Gã áo xanh râu ngắn gằn giọng đe dọa:
    - Chủ nhân của bọn ta có lai lịch rất lớn. Các hạ chớ dây vào mà mang họa!
    Bọn tiểu nhị và các thực khách ở những bàn gần đấy đã mau mắn dọn dẹp bàn ghế để tránh tổn thất bát đĩa. Nhờ thế mà sau lưng hai gã thanh y hiện ra một khoảng trống rộng rãi, tạm đủ làm đấu trường!
    Tính hiếu sát của Huyết Báo đã nổi lên, gã lập tức xuất thủ ngay, dũng mãnh tấn công bằng một chiêu vũ bão. Hai gã thanh y chẳng chịu kém, cử kiếm chống đỡ và lùi về phía sau cho rộng rãi!
    Huyết Báo bám theo, vung lên đánh những đòn trời giáng khiến hai thanh kiếm mỏng manh kia rung động mãnh liệt và phải chịu thế hạ phong.
    Tiếng thép chạm nhau rợn người, và dù rằng hai gã áo xanh đã tận lực chiến đấu cũng không thể địch lại Huyết Báo. Họ bị đẩy lui dồn đến tận bàn của chủ nhân!
    Chàng công tử kia mất mặt, giận dữ quát vang:
    - Dừng tay!
    Tiếng quát của gã hùng mạnh như tiếng sấm nổ khiến cử tọa lùng bùng lỗ tai và ngói trên mái tửu lâu phải rung rinh!
    Huyết Báo đình thủ lùi nhanh. Hai gã áo xanh thở phào, đứng cúi gầm mặt để nghe lời khiển trách của chủ:
    - Thật là đáng xấu hổ! Khi về đến nhà ta sẽ phạt nặng hai ngươi!
    Rồi gã chậm rãi bước đến trước mặt Huyết Báo, quắc mắt bảo:
    - Số ngươi đã tận nên mới dám xúc phạm bổn Thiếu gia!
    Nói xong gã thò tay rút thanh kiếm đeo lủng lẳng bên hông với một động tác nhanh như điện.
    Ngay từ đầu, gã công tử kiêu sa ấy đã ra đòn sát thủ để gỡ thể diện. Trường kiếm trong tay gã hóa thành đạo hào quang sáng bạc, bay lượn với tốc độ kinh người, dệt nên tấm lưới thép đầy sát cơ.
    Huyết Báo là kẻ dạn dày trận mạc thức ngộ được ngay rằng chiêu kiếm của đối phương rất nguy hiểm!
    Và cả tiếng kiếm kình rít lên xé không gian kia cũng biểu lộ một công lực vô cùng thâm hậu! Gã không hề kinh ngạc trước tu vi kẻ địch cao hơn tuổi tác vì Tư Đồ sảng cũng thế.
    Huyết Báo cắn răng dồn toàn lực vào cây côn hai khúc, công phá màn kiếm ảnh lạnh lẽo và dầy đặc đang ập đến !
    Thép chạm thép vang rền mà đường kiếm không hề bị ngăn cản, vẫn cứ phăng phăng tìm đến lồng ngực của Huyết Báo. Chiêu kiếm ấy quả là thần sầu quỉ khốc, ảo diệu khôn lường!
    Huyết Báo rợn tóc gáy, hiểu rằng mạng mình sắp đứt! Nhưng trong lúc ngàn cân treo sợi tóc ấy, có một bàn tay đã nắm áo gã lôi ngược về phía sau, thoát khỏi mũi gươm oan nghiệt. Và người ấy vung kiếm điểm liền chín thức thần tốc, khiến đối thủ của Mộ Hào phải thoái bộ!
    Người ấy chính là Tư Đồ Sảng, với nhãn quan của một kẻ đã vươn tới cảnh giới kiếm đạo, chàng trực giác nhận ra sự lợi hại của chiêu kiếm hãn thế kia, vội can thiệp ngay để cứu mạng thủ hạ. Nhờ thế mà huyết Báo chỉ bị một vết thương nhỏ nơi vú trái, chưa chạm đến xương cốt.
    Tất nhiên, chàng công tử áo trắng không hài lòng, giận dữ tấn công kẻ phá đám. Gã vung kiếm uy hiếp mặt và ngực Tư Đồ Sảng bằng một chiêu đơn giản nhưng nhanh và độc. Song phương giáp mặt, nằm trong tầm kiếm của nhau nên trận chiến vô cùng khốc liệt, đòn đổi đòn với tốc độ sao băng, tiếng thép ngân dài chứ không đứt đoạn.
    Trên lầu này có khá nhiều khách giang hồ. Họ phấn khởi quan sát cuộc so tài của hai kiếm thủ thượng thặng, thỉnh thoảng lại ồ lên trầm trồ để chứng tỏ mình đủ bản lãnh thưởng thức những đường gươm hay lạ!
    Qua va chạm vũ khí, Tư Đồ Sảng hiểu rằng công lực đối phương cao hơn mình, song điều ấy không đáng ngại bằng pho kiếm pháp mà gã ta đang sử dụng. Chẳng phải vì nó lợi hại hơn Huyền Nguyên Kiếm Pháp của chàng, mà bởi nó có những sơ hở chứng tỏ rằng gã tốt mã này mặc bảo y!
    Nếu chàng dại dột thọc gươm vào ngực, bụng của gã thì sẽ sa bẫy, bằng như không biết được thì cũng chịu thiệt thòi vì mục tiêu còn lại bị hạn chế quá nhiều! Chàng chỉ có thể tấn công vào mặt, cổ, tứ chi và hạ thể của gã mà thôi!
    Tư Đồ Sảng đã nhắm vào những vị trí ấy liền bị đối phương giải phá dễ dàng. Chàng có cảm giác rằng chiêu kiếm của kẻ địch là khắc tinh của Huyền Nguyên Kiếm Pháp vậy!
    Phải chăng gã công tử này xuất thân từ môn hộ thù địch với Ly Giang Tiên Ông? Vì vậy, họ đã dụng tâm nghiên cứu cách đối phó với Huyền Nguyên Kiếm Pháp!
    Nhưng muốn làm được điều ấy, họ phải nhiều lần được chứng kiến Tiên Ông xuất thủ. Việc này khá hiếm hoi nên thời gian sẽ kéo dài vài chục năm!
    Thực ra, dù đối phương có khổ công đến đâu đi nữa thì cũng vô vọng, vì sư phụ chàng đã đạt đến trình độ vô chiêu, đường kiếm của ông nhanh hơn cả ý nghĩ nên không thể nào giải phá được!
    Tư Đồ Sảng không thể sánh với Tiên Ông nhưng chàng lại tinh thông đến mấy pho Kiếm Pháp là Du Long, Giáng Ma, Huyền Nguyên! Chưa tới mức vô chiêu song chàng tùy nghi thi triển bất cứ chiêu nào trong ba pho kiếm ấy, kể cả một số chiêu thích hợp trong Giáng Ma Phủ Pháp!
    Với sở học rộng rãi như thế, Tư Đồ Sảng ung dung đọ sức, thi triển phép khoái kiếm đến độ chót, đánh những chiêu tân kỳ, lạ mắt, dồn kẻ địch vào thế thủ.
    Là kẻ cao ngạo, mục hạ vô nhân, gã công tử áo trắng không chịu nổi nỗi nhục hạ phong, nghiến răng đánh đòn tối hậu. Gã có bảo y hộ thể nên chiếm ưu thế khi đổi mạng! Trừ yết hầu và hai mắt, các tử huyệt đều nằm trên ngực bụng.
    Gã cắn đầu lười và bất thình lình vận khí phun làn sương máu hòa nước bọt vào mặt đối thủ rồi ập đến.
    Tư Đồ Sảng thiếu kinh nghiệm giang hồ nên hoàn toàn không phòng bị thủ đoạn hạ lưu này, hai mắt trúng đòn. Bản năng sinh tồn đã giúp chàng phản xạ một cách thần tốc, đảo bộ sang tả nửa trượng để tránh đường gươm ác liệt của kẻ thù và điểm như mưa rào vào mé hữu cái bóng mờ mờ ấy!
    Truy Tinh Thần Bộ ảo diệu vô song đã cứu đước Tư Đồ Sảng. Đối phương bất ngờ bị mất mục tiêu, lòng hoang mang kinh ngạc nên đã xoay trở không kịp đành đổi mạng, song chỉ chặn được một nửa số thế thức của chiêu “Thiên Tiên Nữ Điểm Tinh”. Gã đau đớn rú lên và văng ngược về phía sau vì trán và đùi phải bị đâm trúng!
    Phần Tư Đồ Sảng bởi thị lực nên đã trúng một kiếm ngay bụng dưới! May mà vết thương không nặng vì ngay lúc dó chàng đâm trúng góc trán kẻ địch, khiến gã bật ngửa, bỏ dở đường gươm!...
    Nhưng trong máu của đối phương có độc! Tư Đồ Sảng bị phun vào mặt nên giờ đây cũng gục ngã, mê man bất tỉnh!
    O0o

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chiều đã buông, hoàng hôn mùa Thu giăng tím trời tây, chim rừng hối hả bay về tổ, vậy mà có một cỗ xe song mã cứ thong thả chạy trên con đường quan đạo dẫn đến Tường An.
    Gã xà ích rậm râu cẩn thận tránh né những ổ gà trên mặt đường như cố giữ cho xe chạy thật êm để hai người đang ngủ trong thùng xe được yên giấc.
    Gã đánh xe là Liễu Mộ Hào thì hai người ấy phải là Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương!
    Ghế trong xe đã được gỡ sạch để trải nệm cho bệnh nhân nằm. Tư Đồ Sảng đã ba ngày chưa hồi tỉnh, vẫn mê trầm vì chất độc. Huyết Báo đã cho chàng uống cả hai viên Luân Hồi Thần Đan mà không giải trừ nổi chất kỳ độc. Tuy nhiên, dược lực thần đan đã bảo vệ được nguyên khí của Tư Đồ Sảng, giúp chàng chống chọi lại cái chết.
    Mạc Chiêu Hương đã thức trắng ba đêm, giờ mệt mỏi nằm cạnh Tư Đồ Sảng mà thiếp đi. Nàng chẳng còn gì để úy kỵ vì đã tự tay chăm sóc vết thương nơi bụng dưới của chàng!
    Sau trận đánh ấy, Chiêu Hương đã bảo Huyết Báo bồng Tư Đồ Sảng đào tẩu ngay để tránh sự vây đánh của phe đối phương. Nàng hiểu gã công tử áo trắng kia là kẻ có lai lịch và có thể thú hạ của gã ở thành Đồng Quan này khá đông đảo!
    Rời khỏi cửa Tây thành Đồng Quan vài dặm, hai người rẽ ngựa vào rừng đào để chăm sóc cho Tư Đồ Sảng. Chiêu Hương thuộc địa hình vùng này, biết vị trí của một con suối nhỏ.
    Họ dừng cương cạnh suối trong rừng, Huyết Báo xuống ngựa, đặt chủ nhân lên tảng đá bằng phẳng gần bờ và thản nhiên nói:
    - Sư muội đã gây ra tai họa này thì phải phịu trách nhiệm. Ta sẽ đi tìm một cỗ xe!
    Thì ra Mạc Chiêu Hương là sư muội của Huyết Báo! Nhưng tại sao gã lại sợ nàng như sợ cọp vậy?
    Mạc Chiêu Hương đỏ mắt ấp úng:
    - Y là nam nhân, tiểu muội chăm sóc sao tiện?
    Huyết Báo cười nhạt, hậm hực nói:
    - Sư muội ỷ mình là ái nữ của sư phụ, sư nương, lại nắm giữ Huyết Côn lệnh phù, tha hồ tác quái, nhiều lần hại ta sống dở, chết dở! Vả lại, ngươi vẫn xem đàn ông trong thiên hạ đều là tượng gỗ thì có gì phải xấu hổ. Nói xong, gã nhẩy lên ngựa đi ngay!
    Mạc Chiêu Hương giận dữ gọi với theo với giọng hăm dọa:
    - Sư huynh mà bỏ đi thì tiểu muội giết gã họ Lý này đấy.
    Huyết Báo ngoái đầu lại cười lớn:
    - Sư muội cứ việc giết quách gã ấy đi! Ta đang giữ mấy ngàn lượng vàng của Lý Thu, chỉ có lợi mà thôi!
    Gã quất ngựa phi mau nhưng chỉ một đoạn đã dừng vó câu, xuống ngựa lén quay lại để xem tình hình. Biết đâu cô ả ác độc này giết Tư Đồ Sảng thực thì sao?
    Huyết Báo hài lòng khi thấy Chiêu Hương đang cởi bộ y phục đẫm máu của chàng! Gã yên tâm trở về chỗ cột ngựa, đi ra đường quan đạo!
    Ở đây, Mạc Chiêu Hương đỏ mặt tía tai, miệng lầm bầm chửi rủa Liễu Mộ Hào, tay thì lóng ngóng cởi quần áo bệnh nhân!
    Lúc chỉ còn chiếc quần ngắn đẫm ướt máu đào, Chiêu Hương bẽn lẽn liếc quanh, dù không thấy ai song vẫn do dự bất quyết. Cuối cùng, nàng thở dài tự nhủ thành lời:
    - Mộ Hào nói đúng! Ta đã gây ra hoạ thì phải nhận lãnh trách nhiệm, duyên nợ có thành hay không cũng mặc!
    Nàng cắn răng dùng kiếm cắt rời chiếc quần ngắn, rồi rửa ráy tấm thân cường tráng, vạm vỡ của Tư Đồ Sảng, cố không để nước suối dính vào vết thương!
    Lúc Huyết Báo mang xe ngựa về đến thì Tư Đồ Sảng đã chỉnh tề trong y phục mới, thương tích được băng bó cẩn thận.
    Đưa chàng lên xe xong, Huyết Báo tủm tỉm hỏi:
    - Sư muội thấy bức tượng gỗ kia mùi vi thế nào?
    Chiêu Hương ngượng đến chín cả người, liếc gã bằng ánh mắt giận hờn và tá hỏa tam tinh khi nghe Huyết Báo nói tiếp:
    - Tiếc rằng sư muội tuổi đã gần tam thập, hơn công tử đến chín mười tuổi chỉ sợ y chê già mà không chịu cưới!
    Chiêu Hương tức điên người trước vẻ mặt đắc ý của Mộ Hào song không phát tác nổi vì đang hoang mang vấn đề duyên nợ! Nàng chợt hối hận những hành vi quái ác ngày xưa mà nạn nhân chính là họ Liễu!
    Hàng năm, Mộ Hào đều phải về Mạc gia trang ở Tường An dự đám giỗ Huyết Côn Tôn Giả. Mẹ con nàng đã rời Cam Châu vào Trung Nguyên cư trú từ sau cái chết của Tôn Giả! Lần nào Chiêu Hương cũng bày trò chơi ác sư huynh, lúc thì hạ độc khiến gã tiêu chảy đến xanh mặt, lúc thì nàng xông mê hương rối cắt phăng búi tóc của Mộ Hào! Tai hại nhất là lần nàng gài bẫy khiến gã rơi xuống hố phân suýt chết.
    Nhớ lại chuyện cũ, Chiêu Hương vô cùng áy náy, nghẹn ngào nói:
    - Tiểu muội tính tình xấu xa, nhiều phen làm hại sư huynh, giờ nghĩ lại ma lòng hổ thẹn. Mong sư huynh vì anh linh của tiên phụ mà tha thứ cho tiểu muội!
    Huyết Báo gật gù:
    - Thôi được! Ta hứa sẽ giấu cái tính nết nanh nọc, độc ác của sư muội. Còn việc sư muội làm thế nào để chiếm được trái tim của Tư Đồ Sảng thì tùy!
    Chiêu Hương ngơ ngác:
    - Lý công tử tên thật là Tư Đồ Sảng ư?
    Huyết Báo gật đầu, lặng lẽ tháo yên cương con ngựa của Tư Đồ Sảng rồi ghép vào cỗ xe song mã cho đủ cặp.
    May thay, phe địch không hề truy đuổi và bệnh nhân được Luân Hồi Thần Đạn hộ mạng, nên Huyết Báo có thể chậm rãi đánh xe đến Trường An. Sư nương của gã chính là một bậc thần y có tài diệu thủ hồi xuân!
    Dọc đường, Mạc Chiêu Hương tận tâm lo lắng cho Tư Đồ Sảng và rất cung kính với Mộ Hào!
    Còn chàng trai của chúng ta thì sao? Tư Đồ Sảng đã hồi phục được vài phần, tứ chi có thề cử động được song tâm trí vẫn còn mê muội!
    Chất kỳ độc kia đã gây ra những cơn sốt nhẹ liên tục khiến chàng không lai tỉnh lại được. Và trong trạng thái ấy chàng đã có một giấc mộng rất đẹp.
    Chàng mơ thấy mình còn thơ dại mới chừng tám chín tuổi và đang nằm cành mẹ hiền. Chàng rụt rè đưa tay mân mê đầu vú từ mẫu, nghe lòng cực kỳ khoan khoái: Mẹ chàng kiêm thông nội ngoại công nên cơ thể săn chắc, dầu cho con bú ba năm mà ngực vẫn không hề bị nhão hay chảy xệ, chỉ có đầu vú là lớn ra.
    Đang tận hưởng niềm hạnh phúc trẻ thơ, bỗng Tư Đồ Sảng bị Võ Xuân Hoa gạt tay ra. Chàng liền van nài:
    - Má à ! Phụ thân đã sang Lý Thúc Công uống rượu, không thể thấy mà la rầy hài nhi được! Má cho hài nhi sờ thêm một lúc nữa nhé!
    Và chàng lại luồn tay vào áo mẹ và sờ soạng. Chàng không ngờ rằng Mạc Chiêu Hương đang dở khóc dở cười, cắn răng để cho chàng mơn man đôi ngực trinh nguyên, đầy đặn. Nỗi hổ thẹn dần dần qua đi và cảm giác hoan lạc của thịt da đã khiến nàng run rẩy!
    Người đàn bà đã thức giấc trong nàng sau nhiều năm ngủ quên!
    O0o
    Gần giữa tháng tám, Tư Đồ Sảng hoàn toàn bình phục và mờ sáng ngày mười bốn cùng Huyết Báo rời Mạc gia trang, trong thành Tường An, để đi đến núi Chung Nam.
    Chung Nam là ngọn núi nổi tiếng của Đạo Giáo Trung Hoa. Tương truyền, vị thần y nổi tiếng đời nhà Đường là đạo sĩ Tôn Tử Mạc đã đến đây ẩn cư một thời gian dài để tu tiên. Ông hái thuốc trong núi chữa bệnh cho dân chúng, được bách tính quanh vùng tôn kính, nhớ ơn. Cả Lã Động Tân, một người trong Bát Tiên, cũng từng tu luyện tại núi Chung Nam. Sau đó là Vương Trùng Dương, Tổ sư phái Toàn Chân. Chính vì thế mà trên núi có rất nhiễu danh lam thắng cảnh, đền đài miếu mạo! Và nơi đây cũng chính là trọng địa của phái Toàn Chân!...
    Núi Chung Nam nằm ở phía Nam thành Tường An, hơi chếch về phía tây một chút, cách cố đô độ mười dặm. Án ngữ mặt Bắc Chung Nam là hai đỉnh núi nhỏ mang tên Thiên Địa Sơn và Hoàng Hoa Sơn. Cả ba núi này đều nằm phía Tây đường quan đạo dẫn đến Tường An.
    Lúc đi ngang vùng chân núi Hoàng Hoa, Huyết Báo Liễu Mộ Hào bỗng hỏi chủ nhân:
    - Công tử! Nếu Cung Chủ Hạo Thiên Cung từ chối hôn ước không chịu nhận công tử làm rể thì sao?
    Tư Đồ Sảng khẽ giật mình, suy nghĩ một chút rồi nói:
    - Để đề phòng trường hợp ấy, phiền Liễu túc hạ ẩn thân cho kín, chờ xem kết quả, rồi bí mật bám theo sứ giả Hạo Thiên Cung đế tìm sào huyệt của họ!
    Huyết Báo tán thành, chỉ về phía trước dặn dò:
    - Công tử cứ thản nhiên giả như quay về Tường An và ghé vào trấn Tây Khẩu ấy mà dùng cơm, chờ tại hạ!
    Tây Khẩu trấn nằm mé Đông đường quan đạo, đối diện với Hoàng Hoa Sơn!
    Tư Đồ Sảng gật đầu đồng ý, ra roi phóng ngựa đi trước. Hai khắc sau chàng rẽ phải để đến cánh rừng liễu dưới chân núi phía Bắc núi Chung Nam.
    Lúc này mới là đầu giờ Thìn, phe Hạo Thiên Cung chưa có mặt, Tư Đồ Sảng xuống ngựa, đi thơ thẩn quanh bìa rừng liễu ngắm cảnh núi Chung Nam.
    Bình minh chưa xua tan hết sương trên sườn núi nên mái ngói của những tòa đền miếu ẩn hiện mông lung trong mây khói trông vô cùng diễm lệ và huyền ảo!
    Gương mặt những người thân hiện ra trong tâm thức, mang đến những cảm giác buồn vui. Chàng thoáng thẹn thùng khi nghĩ đến Mạc Chiêu Hương, người con gái xinh như mộng đã chăm sóc chàng suốt thời gian qua. Chàng thẹn vì đinh ninh rằng Liễu Mộ Hào đã thầm yêu cô sư muội nhan sắc mặn mà! Vậy thì nàng phải là của gã!
    Không ai tiết lộ những trò đùa tai ác năm xưa của Mạc Chiêu Hương để Tư Đồ Sảng hiểu được thái độ kỳ quái của Huyết Báo khi gặp nàng!
    Chàng cũng nhớ đến Khuất Thúy Lan, người đẹp đất Trường Sa, lòng thoáng bâng khuâng, song tự nhủ rằng mình đã hành động rất đúng khi dứt áo ra đi ! Tuy trong tay nải luôn có gần ngàn lượng vàng nhưng Tư Đố Sảngvẫn là chàng trai nghèo khó của núi rừng Cửu Tuấn và chàng yêu mến điều ấy!
    Chợt có tiếng vó ngựa khua, Tư Đồ Sảng quay lại thì nhìn thấy một đoàn người gồm khoảng hai mươi thớt ngựa và một cỗ xe song mã rất đẹp. Phải chăng Cung Chủ Hạo Thiên Cung đã đích thân giá lâm? Chàng hơi ngạc nhiên vì không thấy hai người quen là Táo Gia Cát và Y Độc Thần Quân?
    Các kỵ sĩ hạ mã và cửa thùng xe cũng được mở ra để nhân vật quyền thế kia bước xuống.
    Tư Đồ Sảng và người ấy nhìn thấy nhau thì cùng giật mình vì chẳng hề xa lạ. Trên trán của chàng trai áo gấm vàng; búi tóc gắn Ngân Quan kia vẫn còn hằn sâu một vết sẹo đỏ hỏn. Hắn chính là gã công tử áo trắng, kẻ đã cùng chàng tử đấu ở Đồng Quan!
    Và gã quát vang:
    - Vây chặt tiểu tử ấy cho ta!
    Tuy không hiểu gì song hai chục cao thủ Hạo Thiên Cung vẫn rút kiếm bao vây Tư Đồ Sảng.
    Chàng rể hụt của Hạo Thiên Cung chua xót nghĩ thầm:
    - Chết thực! Gã này có thể chính là Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung? Phen này duyên nợ của ta và chị em họ Lăng khó mà thành rồi!
    Chàng càng bội phần thất vọng và kinh ngạc khi nghe đối phương quát mắng:
    - Tư Đồ Sảng! Ngươi vì một á ca kỹ mà xúc phạm đến bổn Thiếu Cung chủ, sao còn dám vác mặt đến đây cầu hôn nữa sao? Ta có giết ngươi thì hai đứa em gái ngu muội của ta cũng không thể trách được!
    Tư Đồ Sảng không ngờ Lăng Phi Tuyết và Lăng Phi Hồng lại là ái nữ của Cung chủ Hạo Thiên Cung và là bào muội của gã Lăng Khải Trạch này! Ân sư chàng đã từng nói qua về tính cách của vị Thiếu Cung chủ Hạo Thiên Cung!
    Lăng Khải Trạch tính tình tàn nhẫn, háo sắc, háo danh. Chính là kẻ có thể biến Hạo Thiên Cung thành tai họa cho bõ lâm!
    Tư Đồ Sảng thở dài vòng tay đáp:
    - Kẻ không biết thì không có tội, mong Thiếu Cung chủ bỏ quá cho tại hạ !
    Lăng Khai Trạch trợn mắt nạt, tay đưa lên sờ vết thẹo nơi trán:
    - Ngươi đã hủy hoại dung mạo của ta, tội ấy chẳng thể tha được! Hơn nữa, gia mẫu không hề có ý định gả hai đứa con gái đẹp như tiên của mình cho một gã khố rách áo ôm! Ngươi cứ yên tâm mà chết!
    Tư Đồ Sảng cau mày ngơ ngác:
    - Chẳng lẽ hai nàng ấy hóa trang?
    Lăng Khải Trạch mỉa mai:
    - Tiểu tử ngươi quả là xảo trá! Nếu ngươi không biết họ xinh đẹp thì lẽ nào chịu lấy?
    Dứt lời, gã phất tay ra lệnh:
    - Giết!
    Hai mươi kiếm thủ áo xanh lập tức ập vào thi nhau đâm chém con mồi để lập công với chủ! Bọn này tuổi tác xấp xỉ bốn mươi, công lực và kiếm pháp đều lợi hại như hai gã cận vệ cũ của Lăng Khải Trạch.
    Sợ di hại cho Phi Tuyết và Phi Hồng, Tư Đồ Sảng không muốn sát hại người của Hạo Thiên Cung, chỉ mong phá vòng vây đào tẩu. Chàng liền múa tít thanh Giáng Ma Phủ chống đỡ, chờ cơ hội thoát thân. Bọn thanh y chẳng phải bậc kiếm thủ thượng thừa nên cây búa nặng của chàng chiếm được ưu thế. Những lưỡi gươm mỏng manh của họ bị Giáng Ma Phủ đánh bạt ra dễ dàng.
    Lăng Khải Trạch càng thêm tức tối khi thấy Tư Đồ Sảng tinh thông cả nghề đánh búa, bản lãnh lợi hại chẳng kém chi cầm kiếm. Gã giận dừ nạt lớn:
    - Kiếm trận!
    Thế là hai chục gã áo xanh vội chạy vào phương vị. Phối hợp tấn công chứ không đánh loạn xạ nữa. Đấu. pháp này đã làm cho Tư Đồ Sảng rơi vào thế bị động, luôn phải đối phó với bốn thanh gươm cùng một lúc. Chàng lại bất lợi ở chỗ không dám giết người của bên vợ, chỉ thủ mà không công. Nếu kéo dài tình trạng này chàng sẽ đuối sức mà lâm nguy.
    Biết không còn có thể nương tay, Tư Đồ Sảng bất ngờ thi triển Truy Tinh thân pháp, hoán vị nhanh đến mức kiếm trận xoay chuyển theo không kịp. Đồng thời, lưỡi búa của chàng ra những đòn mãnh liệt, đánh văng hai thanh trường kiếm và chủ của nó, tạo khoảng trống mà thoát thân.
    Chưa kịp mừng rỡ, Tư Đồ Sảng đã phải đối phó với một đạo kiếm quang lạnh lẽo và hiểm ác. Người chặn đường chàng chính là lão nhân trường bào đen, nãy giờ vẫn đứng cạnh Lăng Khải Trạch.
    Đường gươm nhanh như điện ấy đã chứng tỏ đối phương là bậc thầy trong kiếm thuật. Lão ta lại tấn công bất ngờ nên Tư Đồ Sảng mất tiên cơ, chỉ còn cách thủ thân. Chàng liền xuất chiêu “Phủ Chức La Y” (búa dệt lụa là) tạo thành tấm màn thép bảo vệ thân trên.
    Mũi kiếm của Hắc Y lão nhân chạm phải Giáng Ma Phủ ngân lên không ngớt, tưởng chừng như đã bị chặn đường hoàn toàn. Nhưng thực ra, trong hàng trăm thức đâm ấy có một thức đã xuyên qua màn phủ ảnh, chạm vào ngực phải Tư Đồ Sảng. Vết thương không sâu những cũng đủ khiến chàng đau thấu xương!
    Gương mặt lưỡi cày thâm hiểm và thủ đoạn đê tiện của đối phương đã khiến Tư Đồ Sảng vô cùng chán ghét và căm giận. Chàng không thèm để ý đến thương tích mà hung hãn xuất chiêu “Chuyên Chư Tể Ngưu” (Chuyên Chư giết bò).
    Chuyên Chư là một dũng sĩ thời Chiến Quốc, xuất thân là một kẻ mài dao giết heo mướn ở chợ. Chính chàng trai nghèo khó này đã dùng thanh Ngư Trường Kiếm giấu trong bụng con cá nướng rồi đâm chết Vương Liên giành lại ngôi vua nước Ngô cho Hạp Lư.
    Thuở ấy, Vương Liên mặc ba lần áo giáp mà còn bị giết, nên giờ đây chiếc búa của Tư Đồ Sảng cũng mãnh liệt phi thường, chỉ công mà không thủ! Thanh Thần Phủ bay vun vút, giáng những nhát ngàn cân khiến thanh trường kiếm của Hắc Y lão nhân phải rên rỉ. Dũng khí của Tư Đồ Sảng đã dọa khiếp đối thủ, buộc lão phải thoái bộ chứ không dám khai thác những sơ hở của đường búa. Kẻ gian ác, xảo quyệt thường đa nghi và sợ chết.
    Tư Đồ Sảng còn rất trẻ, cơ thể đầy sức sống nên dẫu có trúng một gươm vào chỗ ít nguy hại thì cũng còn thừa sức đế chẻ xương lão ra. Với trọng lượng cây búa thép thì thương tích mà nó gây ra sẽ trầm trọng hơn kiếm rất nhiều. Vả lại, lão ta đã già rồi, xương cốt dễ gẫy và rất khó hồi phục.
    Diệu dụng của chiêu Chuyên Chư Tể Ngưu chính là ở chỗ cướp tinh thần kẻ địch, lấy lại thế chủ động và thừa lúc đối phương bối rối mà hạ thủ ! Thanh Giáng Ma Phủ bất ngờ rời tay Tư Đồ Sảng bay về phía lão áo đen với tốc độ của mũi tên rời dây cung!
    Lão ta kinh hoàng vung gươm cố đánh bạt khối thép nặng hai chục cân ấy mà không thành công. Lưỡi búa chỉ bị lệch đôi chút và cắm thẳng vào sườn phải, phá nát gan ruột của nạn nhân.
    Cảm giác đau đớn khủng khiếp đã khiến lão Hắc y rú lên ảo não, buông rơi thanh trường kiếm rồi ngã ngửa vì lực đạo quá mạnh.
    Tư Đồ Sảng đã lao theo, thu hồi vũ khí, phi thân vào rừng liễu mất dạng.
    Lăng Khải Trạch và bọn thủ hạ ngớ người trước diễn biến quá mau chóng này, song phương chỉ trao đổi hai chiêu là đã kết thúc. Họ Lăng bình tâm lại định quát tháo thuộc cấp đuổi theo song biết chỉ hoài công!
    Phần Tư Đồ Sảng chạy như giông gió trong rừng liễu, lúc gần đến đường quan đạo thì nghe tiếng người gọi ở phía sau:
    - Công tử! Là Liễu mỗ đây! Hạo Thiên Cung không dám đuổi theo, rút về hướng Tây cả rồi!
    Tư Đồ Sảng dừng bước nói mau:
    - Ta không sao? Phiền túc hạ bám theo Lăng Khải Trạch xem sào huyệt Hạo Thiên Cưng ở địa phận nào?
    Huyết Báo mỉm cười, lắc đầu:
    - Chẳng cần phải điều tra nữa! Tại hạ ẩn mình trên ngọn cây gần đấu trường, lúc nãy may mắn nghe họ Lăng ra lệnh cho thủ hạ mang xác lão áo đen quay về Thái Bạch Sơn! Núi ấy ở hướng Tây, cách núi Chung Nam này chỉ vài chục dặm!
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ cười bảo:
    - Tuyệt diệu thực ? Đêm nay chúng ta sẽ đến thăm họ!
    Huyết Báo nhăn mặt:
    - Nhưng công tử đang thọ thương mà?
    Và gã bước đến chăm sóc thương thế cho chàng! Khi cởi áo, nhận ra vết thương xám đen, tỏa mùi hôi hám, mang triệu chứng trúng độc, gã kinh hãi nói:
    - Mũi kiếm của lão Hắc y có tẩm độc, chó má thực!
    Tư Đồ Sảng nghe giọng lo âu vội trấn an Huyết Báo:
    - Túc hạ chớ lo! Kinh mạch của ta vẫn thông suốt, không có hiện tượng gì khác thường! Có lẽ giải dược của lệnh sư nương ban cho hôm trước vẫn còn tác dụng!
    o0o
    Huyết Báo tuy nổi danh hung thần song lại có giao tình với phái Toàn Chân. Số là, em gái của Toàn Chân Trưởng Giáo bị gã Hoàng Y Hồ Điệp Bùi Trường Bích dâm sát và chính Huyết Báo là người đã tìm ra họ Bùi, mang đầu gã về Tổng Đàn võ lâm. Tuy Liễu Mộ Hào hành sự vì giải thưởng song vẫn được phái Toàn Chân tri ân.
    Trưởng Giáo Hạo Dương Chân Quân đã hết lời cảm tạ Huyết Báo, mấy lần mời mọc Mộ Hào ghé chơi!
    Giờ đây, Huyết Báo đã có điều kiện đáp ứng thịnh tình ấy, đưa Tư Đồ Sảng lên Tam Thanh Cung, trước là thăm thú, sau là tĩnh dưỡng.
    Ngoài núi Chung Nam, phái Toàn Chân còn một thánh địa rất quan trọng nữa là Trùng Dương Vạn Thọ Cung.
    Cung Trùng Dương là nơi đặt lăng mộ của Tổ Sư Vương Trùng Dương, người sáng lập ra phái Toàn Chân.Cung này nằm ở phía Bắc trị trấn Tổ Am, phía tây huyện Hộ Tĩnh Thiểm Tây. Lúc đầu, Vương Xứ Nhất, một trong bẩy đệ tử của Tổ sư, đã gọi nơi này là “Linh Hư Am” về sau đổi thành “Trùng Dương Cung”. Năm Chí Nguyên thứ hai (1265), Nguyên Thế Tổ ban cho cái tên “Vạn Thọ Trùng Dương Cung”.
    Kiến trúc của Cung Trùng Dương vô cùng hùng vĩ, cung điện và đạo xá có đến hàng nghìn gian. Số lượng đạo sĩ ở đây nhiễu khi đông đến tám chín vạn người!
    Tuy nhiên, núi Chung Nam vẫn là nơi phát tích của phái Toàn Chân. Vì vậy bao năm nay Tổng Đàn của họ vẫn đặt ở đây!

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tam Thanh Cung trên núi Chung Nam được xây dựng từ lúc Vương Tổ Sư còn tại thế, kiến trúc đơn giản, mộc mạc, thấm nhuần tinh thần đạm bạc của tư tưởng Lão Trang. Sau này, các đời đệ tử có tu bổ thêm song vẫn giữ nguyên kết cấu cũ.
    Nghe đệ tử báo rằng có khách quí thượng sơn, Toàn Chân Trưởng Giáo đã thân ra tận cổng Tam quan đón chào.
    Hao Dương Chân Quân tuổi đã thất thập, thân hình mảnh khảnh, dung mạo thanh tú, hiền hòa, râu năm chòm oai vệ. Cũng nhờ bộ râu đẹp ấy mà người ta có thể phân biệt ông với các đệ tử Chân Quân mặc đạo bào xanh bằng vải thô, y như những người khác.
    Hạo Dương vui vẻ nói:
    - Sáng nay chim khách kêu trước cửa, bần đạo đoán rằng có quí nhân giá lâm song không ngờ lại là Thân thí chủ. Sự bất ngờ này khiến bần đạo muôn phần sung sướng!
    Huyết Báo mỉm cười vòng tay đáp:
    - Trưởng Giáo chớ vội mừng! Tại hạ vì cạn túi nên đến đây để ăn chực vài năm, dẫu bị đuổi cũng không đi!
    Câu nói đua này và sắc diện thư thái của Huyết Báo đã khiến Hạo Dương Chân Quân thầm kinh ngạc, trước đây Thân Vô Cửu là một gã mặt lạnh như tiến, chẳng bao giờ biết mỉm cười!
    Chân Quân cười khà khà:
    - Bần đạo chỉ có cơm chay và rượu nhạt, liệu thí chủ chịu đựng được mấy hôm ?
    Huyết Báo không đùa nữa, quay sang giới thiệu bạn đồng hành:
    - Bẩm Trưởng giáo! Vị công tử này danh tính Tư Đồ Sảng, chủ nhân của tại hạ!
    Tư Đồ Sảng bước lên một bước, vòng tay chào:
    - Tại hạ xin bái kiến Trưởng giáo!
    Hạo Dương Chân Quân biết Huyết Báo là một hảo hán ngang tàng, đỉnh thiên lập địa, khả sát bất khả nhục thế mà giờ đây gã lại chịu khuất thân làm nô lệ cho Tư Đồ Sảng thì quả là chuyện lạ. Vậy thì chàng trai trẻ tuấn tú này phải có điểm hơn người, ít nhất là về mặt võ công!
    Nhưng Tư Đồ sảng tuổi chỉ độ đôi mươi, làm sao có bản lãnh cao hơn Huyết Báo được? Hao Dương Chân Quân hiếu kỳ dò hỏi:
    - Tư Đồ thí chủ cốt cách như rồng phượng khiến bần đạo phải mến mộ ngay lần sơ kiến! Dám hỏi thí chủ là học trò của bậc cao nhân nào vậy?
    Tư Đồ Sảng biết sư phụ mình có mối giao tình thâm hậu với phái Toàn Chân nên không giấu giếm làm gì. Chàng điềm đạm đáp:
    - Bẩm Đạo trưởng! Tại hạ là đồ đệ của Ly Giang Tiên Ông!
    Hạo Dương Chân Quân thoáng giật mình vì kinh ngạc rồi hớn hở nói :
    - Té ra là thế ! Hèn chi bần đạo thấy cây trâm cài tóc của thí chủ rất quen thuộc!
    Chợt lão biến sắc vì một ý niệm bất thường, thận trọng hỏi :
    - Chẳng hay pháp thể của Tiên Ông có được an khang không vậy?
    Tư Đồ Sảng bùi ngùi đáp:
    Gia sư đã tọa hoá ở núi Hành Sơn hôm mùng ba tháng năm vừa rồi!
    Hạo Dương Chân Quân chấn động buồn bã than:
    - Không ngờ Tiên Ông lại thăng thiên vào đúng lúc ma chướng hoành hành khiến bần đạo thêm lo cho chính khí võ lâm!
    Lúc này ba người đã vào đến khách xá ở mé tả Tam Thanh Cung.
    Chân Quân mời khách an tọa dùng trà rồi đàm đạo. Khi biết thầy trò Tư Đồ Sảng định xâm nhập Hạo Thiên Cung, Chân Quân nghiêm nghị bảo:
    - “Bần đạo thừa lệnh Tiên Ông giám sát Hạo Thiên Cung đã nhiều năm, lại được Táo Gia Cát ở bên trong hỗ trợ nên đã thu thập được nhiều tin tức. Bùi lão thí chủ cho biết rằng mấy năm gần đây Cung Chủ Hạo Thiên Cung bị bệnh nan y, song nhãn ngày càng mờ đi. Do đó, quyền hành tập trung cả trong tay Thiếu Cung chủ Lăng Khải Trạch. Gã này là kẻ háo danh, nuôi dã tâm thống trị võ lâm song chỉ vì e ngại Ly Giang Tiên Ông mà không dám hành động! Lăng Khải Trạch đã qui tụ những kiếm thủ thượng thặng, từng giao đấu với Tiên Ông, để nghiên cứu cách giải phá Huyền Nguyên Kiếm Pháp. Nay Tiên Ông đã cỡi hạc chắc chắn Khải Trạch sẽ công khai tiến hành chinh phục vô lâm! Hiện giờ, nội bộ Hao Thiên Cung đang chia làm hai phe và bần đạo đoán rằng những người chống đối Khải Trạch đã lâm nguy vì hai tháng nay Táo Gia Cát không gởi tin đến núi Chung Nam! Này nhị vị quyệt định vào Hạo Thiên Cung do thám thì xin hãy thử tìm hiểu tình hình, và nếu có thể thì cứu cho được Bùi lão thí chủ Và Y Độc Thần Quân. Nếu để Lăng Khải Trạch bức bách được hai bậc kỳ tài này phục vụ cho gã thì võ lâm nguy mất!”.
    Nghe xong, Tư Đồ Sảng bâng khuâng tưởng nhớ đến ân sư ? Té ra Tiên Ông hiểu khá rõ nội tình Hạo Thiên Cung và biết chắc rằng Lăng Khải Trạch sẽ lộng hành. Tuy ông không giao cho chàng trách nhiệm đối phó với ma chướng, song chàng tự nhủ sẽ vì chính khí giang hồ mà bạt kiếm, kế thừa sự nghiệp của ân sư.
    Tư Đồ Sảng liền khẳng khái đáp:
    - Trưởng Giáo yên tâm! Tại hạ hứa sẽ cứu hai người ấy nếu họ còn sống!
    Hao Dương Chân Quân nhìn chàng với ánh mắt mến mộ và dịu giọng dặn dò:
    - Tuy bần đạo đã có sơ đồ chi tiết đường đi nước bước trong Hạo Thiên Cưng nhưng cũng mong Tư Đồ thí chủ hãy thận trọng!
    Huyết Báo hồ hởi nói:
    - Hay lắm ! Nếu đã có sơ đồ chỉ rõ lối ra vào thì xem như thành công một nửa. Nhưng để đề phòng trường hợp cả hai cô ả họ Lăng cũng đòi theo, phiền Đạo trưởng chuẩn bị giùm thêm hai con ngựa nữa!
    Hạo Dương Chân Quân gật đầu tán thành và tư lự bảo:
    - Bần đạo sẽ mang theo năm chục đệ tử, phục dưới chân núi Thái Bạch, khi cần sẽ ngăn chặn truy binh Hạo Thiên Cung để nhị vị đào thoát!
    Hiểu rằng cuộc chiến trước mắt rất cam go, Tư Đồ Sảng đồng ý ở lại núi Chung Nam tĩnh dưỡng thêm vài ngày nữa để vết thương trên ngực kéo da non. Thuốc Kim sang của phái Toàn Chân quả là thần diệu, đã giúp chàng mau chóng lành lặn trở lại. Trong thời gian rảnh rang này, Tư Đồ Sảng hồi ức lại trận tỷ đấu ở Đồng Quan, nghiên cứu lộ số pho kiếm của Lăng Khải Trạch đã thi triển, chàng chợt thức ngộ ra rằng tuyệt học ấy uyên bác phi thường và vô cùng hiểm ác. Nếu họ Lăng có công lực thâm hậu thêm hai bậc thì chàng không thể địch lại gã. Đó là chưa kể hết công phu phun máu độc bất ngờ rất khó đề phòng!
    Nghĩ tới ân sư, Tư Đồ Sảng thoáng mỉm cười. Tiên Ông đã nói dối chàng rằng chẳng hề biết vị trí của Hạo Thiên Cung! Rốt cuộc thì một bậc Chân Nhân đạt đạo cũng bị ràng buộc bởi lời hứa “Thủ khẩu như bình” khi rời cung điện của Tây Vương Mẫu.
    O0o
    Đêm mười chín tháng tám, vầng trăng thu méo mó treo hờ hững trên đỉnh Thái Bạch Sơn. Ánh trăng mờ mờ bởi sương đêm, không soi rõ bóng dáng của hai khách dạ hành đang thận trọng tiến vào khu rừng Bách vây quanh chân núi hướng Nam.
    Thái Bạch Kim Tinh là danh hiệu khác của Thái Thượng Lão Quân, một vị thần trong Đạo giáo. Thần tiên thường gắn liền với núi non nên người Trung Hoa đã dùng tiên hiệu của Lão Quân để đặt tên cho vài ngọn núi. Riêng đất Thiểm Tây đã có đến hai ngọn Thái Bạch Sơn. Ngọn thứ nhất là ở đây, phía nam Tường An. Còn ngọn kia ở phía Bắc, khu vực giáp ranh với tỉnh Cam Túc. Hay là Thái Bạch Kim Tinh thuở xưa có hai vợ, mỗi bà một nơi, kẻ Bắc người Nam xa xôi để khỏi đánh nhau vì ghen tuông?
    Hai khách dạ hành ấy chính là Tư Đồ Sảng và Huyết Báo Liễu Mộ Hào. Nhờ có bản vẽ rất chi tiết của Táo Gia Cát nên họ ung dung vượt qua khu rừng đầy cạm bảy, vào đến Thạch trận phong ba cửa sơn cốc. Hạo Thiên Cung vốn nằm trong khe núi ấy. Trong trận kỳ môn này không có cây cối, chi có hàng trăm tảng quái thạch ẩn hiện dưới sương mù và ánh trăng nhàn nhạt. Trông chúng thật lạnh lùng đáng sợ.
    Tuy nhiên, trận pháp này do chính Táo Gia Cát lập ra và cũng chính lão đã chỉ cho Toàn Chân Trưởng Giáo cách xuất nhập. Do đó, Tư Đồ Sảng cứng Liễu Mộ Hào chẳng gặp khó khăn gì khi xâm nhập.
    Thói thường, Cửa nẻo càng kiên cố thì chủ nhà thương ngủ say. Thế cho nên Hạo Thiên Cung không hề cắt cử người canh gác đường vào sơn cốc. Có lẽ họ chẳng hề biết mối quan hệ giữa Táo Gia Cát và Hạo Dương Chân Quân.
    Trong ngũ thường của Khổng Giáo thì chữ tín đứng cuối cùng. Nghĩa là bậc quân tử có thể vì nhân, nghĩa mà bất tín! Riêng lão giáo thì lại càng xem nhẹ chữ tín, cho rằng đây là đức của kẻ tiểu nhân. Tất nhiên là tùy trường hợp chứ chẳng phải cứ việc hứa suông rồi nuốt lời! Ví dụ cái chàng trai tội nghiệp đã nổi tiếng trong truyền thuyết Trung Hoa nhờ thủ tín đến mức ôm chân cầu mà chết đuối, khi người yêu không đến! Cái chết ấy nào có hay ho gì khi để cho cha mẹ đau lòng và cuối cùng thì người yêu cũng sang ngang? Xem ra gã ấy hẹp hòi và ngoan cố đến mức điên khùng! Khiến phụ mẫu thương tâm, không người phụng dưỡng là bất nhân, bất hiếu. Bỏ người yêu lại bơ vơ với niềm hối hận là bất nghĩa!
    Tóm lại, những lý do trên biểu hiện rằng thực ra địa chỉ của Hạo Thiên Cung chẳng phải là điều bí mật như người ta vẫn nghĩ. Những kẻ đến đấy quay vế đã âm thầm tiết lộ cho người thân biết. Dĩ nhiên, chẳng ai muốn mang tiếng bất tín nên bề ngoài cứ làm ra vẻ mình kín miệng.
    Theo Hạo Dương Chân Quân kể thì các phái lớn trong võ lâm như Võ Đang, Thiếu Lâm Tự, Hoa Sơn, Nga My... đều biết việc Hạo Thiên Cung toạ lạc tại Thái Bạch Sơn. Nhưng mấy chục năm qua, Hạo Thiên Cung có vẻ vô hại nên các phái chẳng để tâm đến làm gì!
    Chỉ mình Ly Giang Tiên Ông nhìn rõ bản chất của Tây Vương Mẫu nên đã chỉ thị cho phái Toàn Chân cảnh giới, mọi động tĩnh của Hạo Thiên Cung! Chính Táo Gia Cát Bùi Thế Trực cũng nhận lệnh của Tiên Ông, tiềm nhập vào ổ quỉ đế làm nội gián!
    Sau khi khái quát tình hình như thế, chúng ta quay lại với bọn Tư Đồ Sảng. Lúc này, chàng và Huyết Báo đã đi hết đoạn độc đạo dài mười trượng, rộng hơn trượng, hai bên là vách đá dựng đứng, vào đến cửa ngõ của Hạo Thiên Cung! Trước mặt họ là một bức tường cao hơn bốn trượng, tô nhẵn nhụi, nối liền hai vách đá của khe núi. Chân tường trổ cổng rất lớn, đủ để hai cỗ xe qua lọt. Tuy nhiên, giờ đây lối ra vào duy nhất ấy bị bít chặt bởi hai cánh bằng gỗ dày và khóa thì ở bên trong!
    Phía trên cổng đắp nổi ba chữ Hạo Thiên Cung, theo lối Đại Triện thời Tiên Tần, sơn đen sì nên tương phản với mầu vôi trắng toát của bức tường!
    Đầu tường không hề trang trí vài tầng ngói lưu ly như các kiến trúc thông thường, mà lại được đắp vồng lên thành một cung tròn để vô hiệu hóa những sợi dây thừng gắn móc thép. Nghĩa là bọn đạo chích vô phương vào Hạo Thiên Cung để kiếm ăn! Đây cũng là nguyên nhân vì sao đường vào không hễ có người canh gác!
    Huyết Báo sờ thử mặt tường vôi, ngao ngán hỏi nhỏ:
    - Công tử có chắc là sẽ leo qua được bức vách quỷ quái này không? Nó nhẵn đến mức khỉ vượn cũng chịu thua!
    Tư Đồ Sảng cười đáp:
    - Ta học công phu Bích Hổ Du Tường này đã lâu nhưng chưa hề trèo cao lần nào nên không thể biết thành hay bại!
    Nói xong, chàng bước đến kiểm tra vùng vách núi tiếp giáp với tường gạch. Té ra, chỗ ấy cũng được đục đẽo, tô vữa rất nhẵn nhụi, chẳng có điểm lồi lõm nào để bám víu cả!
    Tư Đồ Sảng không nản chí, lấy cuộn dây chão từ tay Huyết Báo, đeo vào vai mình. Chàng cởi giầy vải giắt vào thắt lưng rồi lẩm nhẩm khẩu quyết, lưu chuyển chân khí theo đường lối mà Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới đã truyền dạy. Tâm pháp thần bí này đi ngược với mọi loại nội công trong thiên hạ, tạo ra lực hút mạnh mẽ ở hai bàn tay, hai bàn chân và vùng bụng.
    Tư Đồ Sảng vươn cao hữu thủ áp vào tường, cảm thấy lòng bàn tay hút chặt lấy lớp vữa. Chàng đu người lên rồi vươn tay tả. Mặt dưới của mười ngón chân cũng như nam châm bám chặt lấy mặt đường, trợ lực cho đôi tay. Bụng dán sát vách, Tư Đồ Sảng vặn người trèo lên thoăn thoắt, trông chẳng khác gì một chú thằn lằn khổng lồ.
    Huyết Báo tròn mắt vì kinh ngạc, thầm tán dương đây là công phu kỳ diệu nhất võ lâm. Quả đúng như thế, nhờ Bích Hổ Công mà con người đã đoạt quyến tạo hóa, có được khả năng đặc thù của loài động vật khác.
    Con người muốn bay được như chim, nhẩy xa như báo nên đã sáng tạo ra phép khinh công nhưng kết quả chẳng khả quan lắm. Nhẩy xa thì được nhưng bay bổng thì không, dẫu bốc cao một hai trượng thì cũng rơi về với đất! Chỉ riêng việc bò lên tường nhẵn thín như thằn lằn thì đáng gọi là hoàn mĩ vậy!
    Tất nhiên là Tư Đồ Sảng rất hao tốn sức lực vì trọng lượng khá nặng. May mà chàng có đôi cánh tay mạnh mẽ, lực cử ngàn cân, và nguồn chân khi hùng hậu, nên đủ sức vượt quãng đường hơn bốn trượng, lên đến đỉnh tường.
    Tư Đồ Sảng ló đầu quan sát bên trong, nhận ra một tòa nhà hai tầng đồ sộ mái lợp ngói lưu ly óng ánh dưới trăng vàng. Các góc mái uốn cong vút, kiểu dáng thường thấy của kiến trúc đền đài, cung điện.
    Chung quanh toà nhà sừng sững ấy là những công trình nhỏ hơn, thấp thoáng ánh đèn leo lét trong đám cây cối và bụi hoa, không thấy lực lượng tuần tra, Tư Đồ Sảng vững dạ trèo lên ngồi trên đầu bức tường dầy ba gang, thả dây chão xuống!
    Huyết Báo đã sớm thăm dò khu vực chân tường, tìm ra chỗ gài chặt chốt móc thép. Gã chụp lấy đầu dây, buộc vào móc rồi nương theo đấy mà lên.
    Đến nơi, Huyết Báo cùng Tư Đồ Sảng thả đoạn dây còn lại vào phía trong tường rồi tuột xuống. Họ lại cố định đầu bên này, tạo thành chiếc thang đơn giản khả dĩ giúp họ dễ dàng thoát ra. Sợi dây rất gần vách núi mé hữu, cách xa cổng chính, nên sẽ khó bị phát hiện. Đề phòng trường hợp bị lộ phải cõng người đào tẩu, Tư Đồ Sảng và Huyết Báo tháo thanh gỗ chặn cổng chính, mở he hé cánh ra để khi cần thiết có thể mau chóng thoát thân.
    Xong xuôi, hai người lướt nhanh trên con đường rải sỏi, nằm dọc vách mé hữu sơn cốc, tiến vào khu hậu viện. Họ bỏ qua tòa thạch cung hai tầng vì biết đấy chỉ là nơi hội họp và thờ phụng lịch đại Tổ sư Hạo Thiên Cung.
    Cách bố trí nhà cửa nơi đây cũng na ná như Tổng đàn Thiên Sư Giáo ở Long Hổ Sơn. Nghĩa là, phía sau cung điện có một vườn hòa lớn và trên ấy tọa lạc một tổ hợp phòng ốc theo kiểu Tứ Hợp Viện, Tây Vương Mẫu cùng gia quyến cư ngụ ở chốn này! Là trọng địa nên vòng ngoài khu hậu viện có những toán tuần tra qua lại liên tục.
    Theo bản đồ của Táo Gia Cát thì hai chị em Lăng Phi Tuyết, Lăng Phi Hồng có khuê phòng đặt tại dãy Tây Sương, ngay góc Tây Bắc.
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo vượt bức tường thấp của khu hậu viện, nhẩy vào ngay phía sau mục tiêu, trước khi bọn tuần phòng đi đến. Diện tích sơn cốc rất rộng, đất đai lại chẳng mất tiền mua, nên các dãy phòng không dựa vách tường vây như kiến trúc chốn thị thành mà ngăn cách bởi một khoảng vườn trồng hoa sâu độ bốn trượng.
    Có hoa tất phải có lối ra để thưởng lãm nên các phòng đểu trổ cửa sổ và cửa sau. Hai người áp tai vào khe cửa nghe ngóng và hiểu rằng chẳng có ma nào trong ấy cả! Trong đêm thanh vắng, dẫu hai ả lọ lem kia không ngáy vang thì Tư Đồ Sảng vẫn nghe được hơi thở của họ.
    Liễu Mộ Hào thông cảm tâm trạng bối rối của Tư Đồ Sảng nên thì thầm:
    - Có thể là hai cô nương ấy theo sư phụ chống lại Lăng Khải Trạch nên cũng đã bị tống giam. Chúng ta cứ xuống ngục thất kiểm tra sẽ rõ!
    Tư Đồ Sảng gật đầu và nói:
    - Thực ra, việc gặp hai nàng ấy không quan trọng. Nếu họ thực sự yêu thương ta tất sẽ trốn khỏi Hạo Thiên Cung để tìm! Mục đích chính của ta là cứu cho được hai đại cao thủ lão thành kia!
    Sau khi biết hai ả họ Lăng xinh đẹp như tiên chứ không hề xấu xí thì Tư Đồ Sảng có chút hoang mang, ngần ngại. Chàng yêu thương và nhớ nhung hai gương mặt quái dị, thì dung nhan kiếu mị kia phỏng có ích gì?
    Hai người rời khu hậu viện đi về phía tòa thạch lao ở cuối sơn cốc. Dọc đường, họ phải nhiều lần ẩn mình trong những bụi cây để tránh bọn tuần tra và bầy chó săn.
    Y phục của Tư Đồ Sảng và Huyết Báo đã được nhúng vào một thứ dung dịch đặc biệt, tỏa mùi ngai ngái của cỏ mục, khả dĩ đánh lừa được khứu giác tinh nhạy của loài chó.
    Mẹo vặt này do Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giời truyền thụ cho Tư Đồ Sảng, cùng với những ngón nghề khác của giới đạo chích. Chàng đã miễn cưỡng tiếp thu nhưng không ngờ những kiến thức ấy vô cùng hữu dụng trong kiếp giang hồ.
    Gần cuối canh tư, hai người đến chân ngọn tháp đế vuông cao năm trượng, xây bằng đá núi và được đục đẽo khá nhẵn nhụi. Đây chính là nơi giam giữ tù nhân của Hạo Thiên Cung.
    Đáy của Thạch tháp có cạnh rộng độ ba trượng, gồm năm tầng nhưng chẳng tầng nào có lan can cả. Người ngoài chỉ đoán được số tầng nhờ bốn hàng khung cửa sổ ở trên và cửa chính ở tầng trệt.
    Các tầng thông với nhau bằng cầu thang gỗ ở giữa tháp. Phòng giam thì xây quanh thang và có một cửa ra vào duy nhất bằng gỗ dầy, đai sắt rất kiên cố.
    Nhưng tại sao nhà lao này lại có lối kiến trúc kỳ dị như thế? Theo lời tiết lộ của Táo Gia Cát thì căn cứ hiện nay của Hạo Thiên Cung, trước đây trăm năm, thuộc về một giáo phái có tên Ngũ Hành Giáo. Và tòa thạch tháp nărn tầng kia chính là nơi luyện công của năm vị Trưởng Giáo: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.
    Có lẽ do tranh giành quyền lực mà họ tương sát rồi cùng chết khiến Ngũ Hành Giáo bị diệt vong! Cung chủ đời trước của Hạo Thiên Cung bèn chiếm lấy sơn cốc và xây dựng nên Hạo Thiên Cung. Bà là nữ nhân thích sự tiện nghi nên chẳng thèm ở trong tháp đá, biến nó thành nơi giam giữ những đệ tử phạm lỗi hoặc tù binh.
    Giờ đây, thạch tháp đứng sừng sững dưới ánh trăng thu, ngạo nghễ thách thức khách dạ hành vì chẳng có con đường nào để lên cả! Cửa chính tầng trệt được khóa bên trong, có cả một toán ngục tốt canh giữ. Cứa sổ các tầng trên đều có chấn song bằng thép rèn, to cỡ cổ tay trẻ sơ sinh.
    Người ngoài không lối vào và tù nhân cũng chẳng thể đào vong vì họ đều bị xiêng xích hoặc phong tỏa võ công.
    Tư Đồ Sảng nhận ra ánh đèn tờ mờ từ một khung cửa sổ ở tầng chót, trong khi các tầng khác đều tối om. liền bàn với Huyết Báo:
    - Này Liễu tức hạ! Ta cho rằng Táo Gia Cát đang bị giam trên ấy. Túc hạ cứ chờ dưới này để ta lên xem thử!
    Huyết Báo cau mày ái ngại:
    - Công tử hãy lượng sức vì tháp này cao đến năm trượng chứ không ít, nếu rơi xuống e khó toàn mạng! Vùng chân tháp được lót đá phiến, không chỗ nào là đất mềm cả!
    Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:
    - Túc hạ hãy yên tâm! Ta tự tin đủ sức vượt độ cao ấy!
    Nói xong, chàng lấy cuộn dây chão trên vai họ Liễu. Do biết trước mục tiêu nên Tư Đồ Sâng đã nhờ Hạo Dương Chân Quân chuẩn bị cho mình đến hai sợi dây thừng chắc chắn.
    Ánh đèn hắt ra từ cưa sổ hướng Bắc nên Tư Đồ Sảng cũng lên theo đường này.
    Trăng khuya đã chếch về mạn Tây Nam nên mặt Bắc hơi tối, chẳng tên tuần tra nào có thể nhận ra một bóng đen to đùng đang bò trên góc Bắc cửa Thạch Tháp.
    Lần này Tư Đồ Sảng có lợi thế hơn lúc vượt bức tường ngoài cứa cốc. Chàng vươn tứ chi ôm lấy góc vuông nên tạo ra được một lực kẹp để hỗ trợ cho lực hút. Hơn nữa, vách tháp xây bằng những viên đá, liên kết bằng vữa, và gió mưa đã xói mòn mạch vữa làm điểm bấu víu cho những đầu ngón tay, ngón chân của chàng. Tuy thế, nếu Tư Đồ Sảng không sở đắc công phu “Bích Hổ Du Tường” thần kỳ thì chẳng thể nào trèo lên được.
    Chậm chạp nhưng chắc chắn, cuối cùng thì Tư Đồ Sảng chỉ còn cách khung cửa sổ tầng năm hơn trượng. Clàng bèn rời góc tháp, bò chếch lên mặt phẳng mà tiến đến mục tiêu.
    Ở dưới đất, Huyết Báo căng mắt quan sát chiếc bóng mờ, lòng bàn tay ướt đẫm mồ hôi và tim đập liên hồi như trống trận. Lúc này mà Tư Đồ Sang sẩy tay hoặc đuối sức thì nguy to. Dẫu chàng không chết ngay thì cùng bị trọng thương và đánh động phe đối phương.
    Liễu Mộ Hào lo sợ cho Tư Đồ Sảng đến mức lẩm bẩm khấn:
    - Xin hoàng thiên bảo hựu cho y ! Liễu mỗ xin cúng tạ một con heo!
    Đây là lần đầu tiên trong đời Huyết Báo cầu viện đến lão trời già. Gã vốn là kẻ ngang tàng, đội trời đạp đất, chẳng biết sợ quỉ thần.
    May thay, Tư Đồ Sảng đã bò đến nơi, vươn tay tả nắm chặt một song sắt và dùng tay hữu tháo cuộn dây chão, cột vào hai song khác.
    Sau đó chàng quấn chặt dây vào người, treo mình để nghỉ ngơi. Tuy thành công nhưng lúc này tứ chi Tư Đồ Sảng như tê dại, sức lực mỏi mòn.
    Khi chân khí đã hồi phục, chàng dồn hết thần lực kéo banh hai thanh chấn song. Chân không điểm tựa, chỉ nhờ lực đạo khủng khiếp của đôi cánh tay, Tư Đồ Sẳng đã làm chúng cong lại và rút chân khỏi vách đá nơi thành cửa sổ.
    Người ở dưới chẳng thể nghe thấy gì nhưng tù nhân bên trong tháp đã phát hiện những âm thanh ken két của song sắt miết vào đá khi rời lỗ. Và có tiếng chân người chậm chạp vọng đến từ mé tây. Chắc tù nhân đã ngủ ở hướng ấy để hứng ngọn gió thu!
    Người này cầm theo đĩa đèn dầu và nhờ vậy mà nhìn rõ dung mạo của Tư Đồ Sảng. Lão ta mừng rỡ reo lên:
    -.Sảng nhi?
    Tư Đồ Sảng mỉm cười, chui hẳn vào trong tháp và hỏi ngay.
    - Bùi tiền bối! Chẳng hay Tạ Thần Quân và hai vị cô nương họ Lăng có ở đây không?
    Táo Gia Cát buồn bã lắc đầu.
    - Không! Tạ lão đã bị sát hại, còn hai con bé kia thì lão phu nghe nói đã trốn khỏi cốc, đang bị truy nã gắt gao, chẳng rõ có thoát nối hay không?
    Tư Đồ Sảng cố nén ưu tư bảo:
    - Tội nghiệp cho Thân Quân! Chúng ta đi thôi!
    Bùi lão gật đầu nhưng không dằn nổi nỗi thắc mắc:
    - Nhưng làm sao ngươi lên được tận đây? Lão phu không sao tưởng tượng ra nổi các phương thức mà ngươi đã sử dụng.
    Tư Đồ Sảng thành thực đáp:
    - Vãn bối trèo lên bằng công phu “Bích Hổ Du Tường” của Tích Dịch Quỉ!
    Táo Gia Cát trợn mắt:
    - Không ngờ tuyệt kỹ ấy lại thần diệu đến thế! Trước đây lão phu cứ nghĩ rằng Tây Môn Giới phải cần thêm sự hỗ trợ của những dụng cụ tinh xảo khác!
    Bỗng lão nhíu mày tư lự:
    - Này Sảng nhi! lão phu còn sống sót là nhờ chút tài mọn về mưu kế và thuật kỳ môn trận pháp, rất cần thiết cho bá nghiệp của Hạo Thiên Cung. Thế cho nên, Lăng. Cung chủ đã giam hãm lão phu ở đây, uy hiếp bằng cách giảm dần khẩu phần ăn, hy vọng lão phu sẽ khuất phục vì cái đói. Nhưng cũng nhờ vậy mà lão phu lại tình cờ phát hiện ra tuyệt học thất truyền của Ngũ Hành Giáo trên vách phòng giam. Khẩu quyết được viết rải rác trên nhữngviên gạch, nét nhỏ tựa đầu kim. Lão phu bị Cung chủ hạ độc, chân khí thất tán nên chỉ đọc được những chữ ở vị trí thấp. Từ hơn trăm chữ này, lão phu đoán rằng đấy là Khô Mộc Thần Công, tuyệt kỹ hãn thế thời nhà Tống. Người luyện được thần công này sẽ có được một cơ thể rắn chắc tựa loại thiết mộc, không sợ chưởng kình hay đao kiếm, kể cả Ngưng Huyết Huyền Băng thần chưởng hay Lô Hỏa Thần Chỉ!
    Nay Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Cung chủ Hạo Thiên Cung lại đang khổ luyện hai tà công ấy nên Sảng nhi phải học cho được Khô Mộc Thần công mà đối phó! Vì vậy, ngươi hãy lưu lại đây vài ngày, thu thập toàn pho khẩu quyết rồi hãy thoát ra sau!
    Lão phu sẽ đi trước một bước, về núi Chung Nam bày binh bố trận và bảo vệ phái Toàn Chân! Đầu tháng chín tới Hạo Thiên Cung sẽ chinh phạt Chung Nam Sơn để khởi nghiệp!
    Tư Đồ Sảng ngơ ngác hỏi lại:
    - Sao vãn bối nghe nói Lăng Cung chủ bị bệnh mắt! Lăng Khải Trạch mới là tai hoạ?
    Bùi Thế Trực thở dài ngượng ngùng:
    - Mụ Lăng Song Tường này quả là lợi hại, đã lừa được cả lão phu và Tạ Thần quân! Mụ ta giả mù, người lúc nào cũng hâm hấp sốt. Song thực ra là đang âm thầm rèn luyện công phu Lô Hoả Chỉ Pháp! Nay mụ ta biết tin Ly Giang Tiên Ông tạ thế nên mới bộc lộ rõ dã tâm!
    Tư Đồ Sảng chợt băn khoăn:
    - Bùi tiền bối! Tại sao Phi Tuyết, Phi Hồng lại bỏ cốc trốn đi?
    Bùi lâo mỉm cười:
    - May cho ngươi là hai con bé ấy chẳng phải con ruột của Cung chủ! Chúng trốn đi để tìm ngươi và cũng vì chán ngán dã tâm của mẹ nuôi ! Sau này ngươi cứ thẳng tay đối phó với Hạo Thiên Cung, không cần phải kiêng nể nữa!
    Tư Đồ Sảng thở phào nhẹ nhõm, vui vẻ nói:
    - Vãn bối sẽ đưa tiền bối xuống dưới. Huyết Báo Liễu Mộ Hào đang chờ nơi chân tháp, còn Hạo Dương Chân Quân thì phục ở bìa rừng!
    Táo Gia Cát dặn dò chàng thật kỹ lưỡng rồi mới chịu rời chốn lao lung. Tư Đồ Sảng thu dây chão lên, cột vào bụng Bùi Thế Trực mà thả xuống!
    Táo Gia Cát chạm đất, nhanh miệng nói sơ kế hoạch cho Huyết Báo rõ. Gã thầm lo cho chủ nhân song vẫn phải bấm bụng cõng Bùi lão đào vong!
    Ơ đây Tư Đồ Sảng rút dây lên, tháo nút buộc và nắn lại hai thanh song sắt đặt hờ vào chỗ cũ. Sáng ra, bọn tuần tra có nhìn lên cũng không thể phát hiện quái sự.
    Chàng bưng đĩa đèn đi đến chiếc chõng tre ở góc Tây Nam của phòng giam, nơi mà gã gác tù không thể nhìn thấy được, trừ phi mở cửa ra. Nhưng gã sẽ chẳng bao giờ làm thế, chỉ ngày hai bữa đưa cơm nước qua lỗ vuông nơi cửa nhà tù. Lỗ này nằm gần sát sàn lầu nên gã cứ việc đặt chén đũa xuống, không cần tù nhân đón lấy. Chừng một canh giờ sau gã quay lại thu dọn, mang xuống bếp nơi tầng trệt.
    Tóm lại, Tư Đồ Sảng chẳng hề bị quấy rầy, ung dung ngủ nghỉ để ban ngày tìm kiếm những chữ nhỏ li ti trên vách. Bùi lão đã bắt chàng học thuộc hơn trăm chữ mà lão đọc được và chỉ cho chàng ví trí nối tiếp.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Với công phu Bích Hổ Du Tường kỳ tuyệt thiên hạ, Tư Đồ Sảng chẳng cần phái nhẩy nhót mà bò hẳn trên tường. Chàng phủi sạch bụi bặm, học thuộc từng chữ rât nhanh chóng. Thỉnh thoảng chàng lại dúng Tử Ngọc ThầnTrâm xóa bỏ vài chữ để tuyệt kỹ không rơi vào tay kẻ ác. Sau khi chàng thoát đi, chắc chắn Hạo Thiên Cung sẽ điều tra kỹ lưỡng và phát hiện khẩu quyết.
    Hơn ngàn chữ nhỏ xíu kia đã bị bụi bặm mấy chục năm che phủ giấu giếm! Nơi này lại là nhà tù nên chẳng ai quét dọn làm gì! Và lại, trước Táo Gia Cát không có ai bị giam giữ ở đây, trừ lũ dơi hôi hám!
    May thay, Táo Gia Cát là người ưa sạch sẽ nên đã dùng tay áo phủ lớp bũi đất nơi khoảng vách cạnh chõng tre. Và trưa hôm sau, trong lúc nhìn đốm nắng dọi lên tường, ông đã phát hiện chữ đầu tiên!
    Chỉ sau hai ngày, Tư Đồ Sảng đã thu thập trọn vẹn khẩu quyết của pho Khô Mộc Thần Công. Chàng dự định đêm hôm ấy sẽ thoát đi. Khẩu phần ăn quá ít ỏi khiến chàng đói meo, và người nhớp nhúa vì không được tắm rửa. Phòng giảm này có hố xí thông xuống đất song thiếu nước dội nên cũng rất hôi thối!
    Sau bữa cơm đạm bạc chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng ngồi tĩnh tọa, chờ đêm xuống sẽ theo dây chão mà rời thạch tháp. Song lúc đầu giờ Tuất chàng bỗng nghe tiếng bước chân dậm bình bịch trên cầu thang gỗ tầng dưới và cả tiếng chửi rủa của nữ nhân:
    - Mả cha cái gã Khải Trạch đáng ghét, sao lại nỡ đày đoạ ta ở chốn hôi hám này! Có ngày bổn cô nương sẽ hạ độc cho gã phải sống dở chết dở!
    Tư Đồ Sảng vừa mừng vừa lo khi nhận ra giọng nói chanh chua của Lăng Phi Tuyết. Thì ra họ đã bị lực lượng truy binh của Hạo Thiên Cung bắt được!
    Chàng đang thắc mắc về an nguy của Phi Hồng thì đã nghe nàng nói với bọn ngục tốt:
    - Chắc các ngươi cũng biết lý do vì sao chị em ta bị giam cầm! Bởi thế, hãy khôn hồn đối xử với bọn ta cho tử tế kẻo bọn ta đổi ý, nhận lời lấy Khải Trạch và bảo gã chặt đầu các ngươi ra đấy!
    Lời hăm dọa ấy đã có hiệu lực, khiến một gã ngục tốt phải xuống nước, cười nịnh:
    - Tam tiểu thư yên tâm! Bọn nô tài nhất định sẽ hết lòng hầu hạ! Nhị vị cần gì xin cứ ra lệnh!
    Tư Đồ Sảng nghe xong hiệu ngay rằng Lăng Khải Trạch say mê hai cô em nuôi, quyết lấy cho bằng được. Nghĩa là dẫu chàng không hề đả thương gã ở Đồng Quan thì cũng không thành rể của Hạo Thiên Cung!
    Lúc này Lăng Phi Tuyết lại lên tiếng:
    - Các ngươi biết thân phận như thế là tốt! Giờ thì hãy vào phòng quét dọn sạch sẽ rồi cho người đến hậu viện mang chăn nệm cùng y phục của bọn ta lên đây! Và nhớ đổ đầy nước trong lu, không lúc nào được vơi!
    Gã ngục tốt già kia cười hì hì:
    - Nhị tiều thư cứ vào sẽ thấy phòng giam rất sạch sẽ và nước thì tràn trề! Bọn nô tài biết ý nhị vị nên đã sớm lo toan chu đáo cả rồi. Còn y phục và chăn nệm thì chỉ nửa khắc nữa là có ngay!
    Chắc gã nói không sai nên hai ả thiên kim mới ngoan ngoãn vào phòng giam. Lát sau, tiếng mở khóa cửa lại vang lên, tức thì vật dụng của hai nàng được mang đến. Và rồi tiếng nước xối vọng vào vành tai áp sát sàn phòng của Tư Đồ Sảng. Chàng thoáng đỏ mặt, nghe người ngứa ngáy vì thèm được tắm.
    Thạch tháp này xưa kia là chỗ cư ngụ của các thủ lãnh Ngũ Hành Giáo nên đầy đủ tiện nghi, quanh mỗi tầng đều có cứa cái thông với lan can gỗ bên ngoài. Trên lan can là mái hiên lợp ngói lưu ly xanh. Nhưng sau vài chục năm bị bỏ phế, những bộ phận ấy bị gió mưa làm hư hại cả! Hạo Thiên Cung liền bỏ quách cả lan can lẫn mái hiên, bít chặt cửa lớn, chỉ chừa lại cửa sổ. Và may thay, phòng vệ sinh vẫn còn nguyên vẹn, chỉ thiếu vách che.
    Kết cấu của tòa tháp chủ yếu là gạch đá và gỗ cho nên sàn lầu cũng bằng ván dầy ghép lại. Riêng phần nền phòng vệ sinh là một tấm đồng lá liền lạc bốn cạnh được gò cao lên hơn gang, có lỗ hố xí. Nhờ vậy, người ta có thể tắm táp thoải mái mà không sợ ướt sàn lầu. Nước sẽ chảy qua lỗ hố xí, theo ống đất nung đi xuống hầm phân gần chân tháp.
    Mỗi tầng lầu có bốn phòng giam song thật ra chỉ có phòng hướng Bắc là dùng để nhốt tù vì Hạo Thiên Cung chẳng có nhiều tù binh hay tội phạm. Bốn phòng này được chọn vì chúng có sẵn chỗ ị! Dẫu là nhốt tù thì cũng phải có nơi bài tiết, không thôi cả sơn cốc sẽ thối um lên chứ chẳng chơi!
    Nhắc lại hai ả họ Lăng tắm gội, ăn tối xong thì đã giữa giờ Hợi. Tư Đồ Sảng biết rõ rằng lúc này bọn ngục tốt chẳng bao giờ bén mảng đến phòng giam làm gì cả. Do đó, chàng tháo song sắt cửa sổ phòng mình, tuột xuống tầng dưới bằng sợi dây chão.
    Phòng vệ sinh ở mạn Đông nên tù nhân đã trải nệm cạnh tường Tây cho mũi đỡ khổ và cũng để tránh cặp mắt rình mò qua khe cửa cái! Cửa này nằm lệch về phía Đông chứ khóng ở giữa phòng!
    Tư Đồ Sảng đong đưa ngoài song cửa, ghé miệng gọi nhỏ:
    - Tuyết muội! Hồng muội! Ta là Tư Đồ Sảng đây!
    Hai ả chưa ngủ nên nghe tiếng ngồi bật dậy nhìn nhau nghi hoặc tưởng như nằm mơ. Tư Đồ Sảng phải gọi một lần nữa họ mới tin vào tai mình và tất tả chạy đến. Tuy gấp gáp mà bước chân vẫn không nhanh như thường lệ, chứng tỏ họ đều bị phong toả võ công!
    Phi Hồng có bưng theo giá nến nên song phương đủ ánh sáng mà nhìn mặt nhau. Hai ả vui mừng khôn xiết khẽ rú lên:
    - Tướng công !
    Phần Tư Đồ Sảng ngẩn ngơ nhìn hai gương mặt trắng trẻo, kiều diễm kia mà nghe lòng hụt hẫng, xótxa!
    Phi Hồng thông tuệ tuyệt luân, qua ánh mắt tình lang mà hiểu được tâm tư. Nàng run run nói:
    - Bọn thiếp vì nội qui nghiêm khắc cúa Hạo Thiên Cung mà phải dối gạt chang! mong tướng công lượng giải cho! Bằng như tướng công không tha thứ, chị em thiếp nguyện cào nát mặt để giữ được lòng yêu mến của chàng!
    Nói xong nàng đưa bàn tay thon thả, có năm móng sắc nhọn lên má. Phi Tuyết cũng làm theo và sụt sùi khóc. Tư Đồ Sảng nhìn những giọt lệ long lanh và hai cặp mắt huyền tha thiết kia mà nghe lòng ngập tràn cảm xúc. Chàng thức ngộ rằng dẫu cho dung nhan xấu đẹp thế nào thì họ vẫn chính là người mà chàng yêu thương , tin tưởng. Tư Đồ Sảng mỉm cười hòa ái:
    - Sao hai nàng lại nỡ bắt ta cứ treo lơ lửng mãi thế này?
    Hai ả mừng rỡ nhoẻn miệng cười và Phi Tuyết chợt sững người bảo:
    - Nhưng làm sao chàng vào được?
    Tư Đồ Sảng không đáp, dồn toàn lực kéo bật hai thanh sắt rồi chui vào trước ánh mắt thán phục của hai cô vợ đẹp!
    Họ giúp Tư Đồ Sảng cởi dây chão rối ôm lấy. Bỗng Phi Tuyết khịt mũi và chê:
    - Tướng công hôi quá!
    Tư Đồ Sảng xấu hổ biện bạch:
    - Ta bị giam ở phòng trên, chẳng có giọt nước tắm thì làm sao không hôi cho được!
    Phi Hồng tò mò hỏi ngay:
    - Tướng công bị Hạo Thiên Cung bắt hồi nào vậy?
    Tư Đồ Sảng đang định giải thích thì bị Phi Tuyết bịt miệng. Nàng nói như ra lệnh:
    - Chàng phải tắm trước đã! Chúng ta còn cả đêm để tâm sự!
    Và cô ả nóng tính dữ dằn này lôi tuột tình lang vào phòng vệ sinh. Phi Hồng hơi mắc cỡ nhưng cũng cắn răng phụ trợ với bào tỷ.
    Thấy Tư Đồ Sảng lúng túng thẹn thùng, Phi Tuyết cất giọng ôn nhu:
    - Tướng công! Đây chính là dịp để chị em thiếp bày tỏ chút lòng chung thủy, xin chàng cứ an nhiên mặc cho bọn thiếp phụng hầu!
    Tuy mạnh miệng như thế song da mặt nàng đỏ rực vì xấu hổ và đôi môi anh đào nhẹ run lên. Tư Đồ Sảng cảm nhận được hết trái tim nồng nàn kiên quyết của mĩ nhân, lòng vô cùng cảm kích, bất giác cúi xuống hôn lên môi Phi Tuyết!
    Trong lúc Phi Tuyết đê mê vì nụ hôn đầu, Phi Hồng che miệng cười chế giễu:
    Từ nay tỷ tỷ còn ganh tỵ rằng tướng công yêu tiểu muội nhiễu hơn không? Sao lại đờ người như tượng gỗ thế kia?
    Phi Tuyết bẽn lẽn không đáp, lóng ngóng cởi áo Tư Đồ Sảng. Hai nàng ra sức kỳ cọ cho phu tướng, nhăn mặt vì những tảng ghét dầy cộm!
    Tắm xong, Tư Đồ Sảng cùng hai mĩ nhân tâm sự đến tận cuối canh ba. Chàng không thể đưa họ đào thoát trong đêm nay như đã tính toán vì giờ đây Hao Thiên Cung phòng bị sum nghiêm và đầy dẫy cao thủ. Họ đang ráo riết chuẩn bị cho cuộc tấn công phái Toàn Chân vào đầu tháng chín. Do đó, vợ chồng Tư Đồ Sảng chỉ có thể thoát thân khi đạo quân Hạo Thiên Cung rời khỏi sơn cốc.
    Có lẽ vì bận rộn bởi cuộc chinh phạt sắp tới nên các tù nhân bị quên lãng, chỉ có bọn ngục tốt đến đưa cơm như thường lệ. Ngày hai lần, Tư Đồ Sảng phải trở về phòng giam của mình để ăn uống, nếu không, việc đào tẩu của Táo Gia Cát sẽ bại lộ!
    Tất nhiên, chàng phải ăn thêm trong khẩu phần ăn của hai nữ nhân mới đủ no. Phi Tuyết đã bắt bọn ngục tốt tăng lượng cơm canh, rượu, thịt, khiến chúng ngơ ngác, chằng hiểu vì sao! Chúng đoán mò rằng hai nàng muốn từ hôn Lăng Khải Trạch bằng cách ăn thật nhiều để biến thành heo nái!
    Tuy thường ôm ấp, hôn hít hai nàng song ban đêm Tư Đồ Sảng vẫn ngủ riêng một góc. Chàng cố chiến thắng những cơn rạo rực, giữ gìn tiết hạnh cho người yêu. Dẫu chỉ là một nhà nho nứa mùa, cha chàng vẫn dạy con tiết dục! Hơn nữa, chàng đang cư tang song thân và sư phụ! Để trấn áp lửa dục, Tư Đồ Sảng tham luyện pho Khô Mộc Thần Công!
    Ba người đã thân cận nhau như vợ chồng thực thụ! Hai nàng đỏ mặt song vẫn thản nhiên thay y phục trước mặt Tư Đồ Sảng. Hằng đêm, họ háo hức mơn trớn da thịt của nhau nhưng không ân ái!
    Phải chăng vì nỗi khát khao thân xác không được đong đầy nên tình yêu trở nên nồng thắm, mãnh liệt hơn?
    Hai nàng bị Cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường dùng thủ pháp độc môn phong tỏa chân khí nên yếu ớt như chưa hề luyện võ! Tư Đồ Sảng vận dụng hết võ học mà không sao giúp được họ, lòng vô cùng hổ thẹn! Chàng đã được Ly Giang Tiên Ông truyền cho bí pháp Linh Khu Thần Giải, có thể giải phá tất cả những công phu điểm huyệt trong võ lâm! Nay có dịp áp dụng mà lại thất bại khiến chàng rất hoang mang!
    Lằng Phi Tuyết là học trò cưng của Y Độc Thần Quân, rất giỏi về y lý nên đã cùng Tư Đồ Sảng bàn bạc cách chữa trị. Nàng cũng bị hạ thủ nên biết rằng mạch Đốc của mình bị bế tắc ngay huyệt Yên Du. Huyệt này nằm trên chỗ lõm dưới mõm gai đốt sống cùng thứ tư.
    Hai người đã thử những cách giải huyệt khác nhau trên tấm thân trắng trẻo, nuột nà và gợi cảm của Phi Hồng. Bệnh nhân thẹn đến chín người, luôn miệng cự nự bắt bào tỷ phải thay phiên. Kết quả là Tư Đồ Sảng đỏ mặt tía tai, tim đập liên hồi, chẳng còn suy nghĩ được gì nữa cả!
    Vài ngày sau, khoảng đầu canh một đêm hai mươi bẩy, Lăng Khải Trạch đột ngột đến gõ cửa phòng giam tầng bốn và ngạo nghễ nói:
    - Ta quên chưa thông tri cho hai ngươi biết rằng phép điểm huyệt của gia mẫu cực kỳ độc ác, đúng ngày trăng tròn sẽ phát tác. Lúc ấy, chân khí phá nát kinh mạch, đau đớn khôn lường, dẫu Đại La Thiên Tiên giáng trần cũng không cứu nổi! Các ngươi muốn sống thì hãy ngoan ngoãn nhận lời làm vợ ta, sau tiết Trùng Cửu sẽ cử hành hôn lễ!
    Nói xong, gã bỏ đi ngay, Tư Đồ Sảng cũng có mặt trong phòng, nghe vậymà lòng lo lắng cho thê thiếp. Chàng bối rối hỏi hai nàng:
    - Chúng ta tính sao bây giờ?
    Phi Tuyết nở nụ cười thê lương:
    - Bọn thiếp thà chết chứ không bỏ tướng công mà làm vợ hắn!
    Và nàng ôm lấy phu tướng mà khóc vùi. Tư Đồ Sảng vỗ về tấm lưng ong của người yêu, đau lòng đến nỗi chẳng nói nên lời.
    Bỗng Phi Hồng gạt lệ bảo:
    - Có lẽ sự tình không đến nỗi tuyệt vọng. Thiếp từng nghe gia sư đề cập đến một đại cao thủ trong nghề giải huyệt! Lão ta tên gọi Tư Không Chất, tuổi độ bẩy mươi lăm, ẩn Cư ở núi Thúc Phong, cách Lạc Dương độ vài dặm về hướng Tây Nam nên tự xưng là Thúy Phong Cốc chủ! Tư Không tiền bối có quen biết với gia sư tất sẽ giúp đỡ chúng ta!
    Vẻ lạc quan của nàng đã trấn an được Tư Đồ Sảng và Lăng Phi Tuyết. Cả ba bình tâm lại, kiên nhẫn chờ ngày thoát ly Hạo Thiên Cung!
    O0o
    Đúng như lời Táo Gia Cát đã nói, xẩm tối ngày cuối tháng tám, Cung chủ Hạo Thiên Cung thống lĩnh tám trăm đệ tử kiêu dũng rời sơn cốc tiến về phía núi Chung Nam. Trận đánh này có tầm quan trọng bậc nhất nên Lăng Cung chủ đã huy động hầu hết nhân thủ dưới trướng, chỉ để lại vài chục người yếu kém giữ nhà, đa số là bọn nô tỳ.
    Nhưng tại sao sắp tới ngày Đại hội võ lâm, dịp tốt để tranh ngôi Minh Chủ mà Hạo Thiên Cung lại phải tấn công phái Toàn Chân? Phải chăng Lăng Song Tường không tự tin vào bản lãnh võ công của mình?
    Xin thưa rằng đấy là một trong hai động cơ mà thôi! Lăng Song Tường khổ luyện Lô Hỏa Thần Chỉ đã hơn hai chục năm, đạt được tám thành hỏa hầu, thừa sức ngạo thị võ lâm. Nhưng mới đây, mụ nhận được tin mật báo rằng Cung chủ Thập Điện Diêm Cung tức Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, đã lấy được viên Tỵ Hỏa Châu của nhà họ Khuất đất Trường Sa, luyện thành pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng. Do vậy, Lăng Song Tường sinh lòng e ngại, quyết định cướp đoạt viên Nhất Dương Thần Châu của phái Toàn Chân. Viên ngọc này vốn là di vật của Vương Trùng Dương, tổ sư phái Toàn Chân. Nếu Lăng Song Tường nuốt vật chí dương này thì sẽ lập tức thông qua lớp chót của Lô Hỏa Tâm Pháp, chỉ kình xanh biếc và nóng tựa lửa lò rèn, thiên hạ không đối thủ!
    Nguyên nhân thứ hai là tấm bản đồ kho báu dẫn đến nơi cất giấu tài sản khổng lồ của dòng họ Đoàn đất Đại Lý. Nhiều năm sau khi nước Đại Lý bị quân Mông Cổ tiêu diệt thì có lời đồn đại ràng: Vị vua cuối cùng của Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đã kịp cất giấu những của cải quí giá nhất vào một nơi bí mật, rồi giao tàng bảo đồ cho cháu trai mang đến núi Chung Nam nương tựa phái Toàn Chân! Đoàn Hoàng Gia và Vương Trùng Dương có mối giao tình rất thâm hậu!
    Lời đồn chết tiệt ấy đã làm khổ phái Toàn Chân suốt mấy chục năm! Tiền nhiệm Trưởng Giáo, sư phụ của Hạo Dương Chân Quân, phải ra trước đại hội võ lâm, thắp hương thế thốt mới giải tỏa được mối nghi ngờ! Ông công nhận rằng năm xưa quả thật là con cháu của Đoàn Hoàng Gia có đến núi Chung Nam tỵ nạn song chẳng hề nhưng theo bản đồ kho báu nào cả. Và chàng trai bất hạnh đó cũng qua đời vài tháng sau đó vì một chứng bệnh nan y!
    Nhưng Cung chủ Hạo Thiên Cung không tin lời cải chính ấy, cho thủ hạ thân tín tiềm nhập phái Toàn Chân làm nội gián. Sau nhiều năm rình mò, vài tháng trước, tên gián điệp này đã mật báo về rằng có thấy Hạo Dương Chân Quân nửa đêm xem xét, nghiên cứu một tấm da dê cũ kỹ và so sánh với bản đồ địa thế của tỉnh Vân Nam!
    Lăng Song Tường càng khẳng định niềm tin, quyết bắt cho được Hạo Dương Chân Quân mà tra khảo cho ra Nhất Dương Thần Châu và Tàng bảo đồ. Mụ sẵn sàng giết sạch đệ tử Toàn Chân, không chừa bất cứ ai làm nhân chứng, ảnh hưởng đến sự nghiệp bá vương của Hạo Thiên Cung sau này!
    Hạo Thiên Cưng đã mang theo hàng trăm cân Hủ Cốt Tán để tiêu hủy tử thi! Không nhân chứng, không xác chết thì quan nha và võ lâm chẳng thể truy cứu được!
    Dù tin vào lực lượng và chiến thuật “xuất kỳ vô ý, công kỳ vô bị”, nghĩa là đánh lén, Hạo Thiên Cung cũng phải phòng xa, bắt mọi người chụp túi vải đen lên đầu, chỉ chừa hai lỗ mắt. Y phục của họ cũng toàn một mầu đen hắc ám, trông như đội quân của chốn âm ty vậy!
    Đoàn viễn chinh vừa đi khỏi độ hơn hai canh giờ thì Tư Đồ Sảng đưa hai nữ nhân rời thạch tháp. Do không sợ người ngoài xâm nhập vào nên bọn đệ tử ở lại chẳng thèm canh gác, thản nhiên đánh một giấc miệt mài sau bữa nhậu thả dàn!
    Nhận ra rằng chẳng có ma nào tỉnh táo tuần tra, trừ lũ chó Ngao, Lăng Phi Tuyết liền bàn:
    - Tướng công! Hạo Thiên Cung chính là tai họa của võ lâm, trước sau gì cũng là kẻ địch của chàng. Sao chúng ta không nhân cơ hội này vét sạch tài sản của họ, cũng là góp phần vào sự nghiệp giáng ma vệ đạo! Phòng quỹ nằm dưới sàn của tòa Thạch điện!
    Nàng oán hận Lăng Cung chủ giết hại Y Độc Thần Quân nên nghĩ đến chuyện trả đũa.
    Tư Đồ Sảng đang phân vân, sợ mang tiếng trộm cắp, thì Phi Hồng thở dài:
    - Tướng công chớ ngại vì việc này mà đánh mất khí tiết của bậc quân tử, tài sản kia vốn thuộc vế chị em thiếp! Khi gia phụ, gia mẫu đồng thời thất lộc, anh em không có, Lăng Cung chủ đã dùng quyền Biểu cô, đem chị em thiếp về nuôi và tiếp quản toàn bộ của cải nhà họ Lăng. Nay chúng ta lấy lại cũng là hợp đạo lý! Chẳng lẽ chị em thiếp vế làm dâu họ Tư Đồ mà không có được chút của hồi môn nào hay sao?
    Tư Đồ Sảng là người cương trực, công chính nên chán ghét sự bất công. Chàng vui vẻ nói:
    - Nếu đúng thế thì chúng ta có quyến thu hồi lại cho đúng đạo công bằng. Nhưng chỉ sợ sau này hai nàng trở nên giầu có mà chê ta nghèo đấy thôi!
    Hai ả phì cười, đấm yếu vào lưng chàng. Phi Tuyết nhanh nhẩu dẫn hai người kia đi đến cửa sau tầng dưới của toà Đại điện Hạo Thiên Cung.
    Có đến bẩy tám con chó lẩn quẩn chốn này. Song chúng quá quen hơi Phi Tuyết, Phi Hồng nên chẳng hề sủa, vẫy đuôi mừng rỡ.
    Tất nhiên, cửa nẻo rất kiên cố và được khóa bởi một ổ khóa loại tốt. Tư Đồ Sảng ngượng ngùng hỏi mượn Phi Hồng hai chiếc kẹp tóc bằng đồng. Chàng hí hoáy một lúc thì thành công. Nghề mở khóa này chàng cũng học từ Tích Dịch Quỷ Tây Môn Giới.
    Phi Hồng nhận lại kẹp, tủm tỉm nói đùa:
    - Té ra tướng công là cao thủ trong làng đạo chích! Với tài nghệ này bọn thiếp không lo đói nữa rồi !
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn không đá, lẳng lặng mở cửa tiến vào. Phi Tuyết bật hoả tập, bước đến cạnh chiếc ngai gỗ chạm trổ cầu kỳ của Cung chủ và nói:
    - Tướng công! Con kỳ lân mé tả, phía trước này được đẽo từ đá vân thạch, nặng ước hai ngàn bốn trăm cân, song thiếp tin rằng chàng đủ sức. Chàng chỉ cần xô nó xoay ngang theo hướng phải là lộ ra cửa mật thất!
    Tư Đồ Sảng hơi ngao ngán nhưng không thể mất mặt với nơi đẹp nên xuống tấn, ôm đầu con vật nặng nề, lạnh toát mà đẩy mạnh. Những bắp thịt trên cơ thể chàng nổi lên cuồn cuộn, xương cốt kêu răng rắc; và khối vân thạch lì lợm kia bất đầu chuyển động. Có lẽ Thạch Lân được đặt trên một bàn xoay nên nó không bị xô lệch đi mà cứ từ từ quay ngang, đế lộ một lỗ trống mà lúc nãy bị phần thân sau che khuất.
    Phi Tuyết, Phi Hống nhanh nhẹn bước xuống những bậc thang gỗ, để Tư Đồ Sảng ở lại cảnh giới. Nửa khắc sau hai ả trở lên với hai túi vải nặng.
    Sau khi con kỳ lân trở về vị trí cũ, ba người mang ngân quĩ của Hạo Thiên Cung đi ra cửa sơn cốc!
    Lần này Tư Đồ Sảng chẳng phải nhọc công thi triển công phu Bích Hổ. Chàng tháo thanh dóng ngang, mở cửa mà ra. Khi ba người thoát khỏi trận kỳ môn nơi cửa sơn cốc thì nghe tiếng người gọi mừng rỡ:
    - Công tử ? Liễu mỗ chờ đợi nơi đây đã ba đêm rồi!

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 7

    Trùng Dương Bán Vạn Nhân Hoan Tiếu
    Tam Ma Đồng Xuất Lưỡng Câu Thương
    Sáng ngày Trùng Cửu, mùng chín tháng chín năm Giáp Dần, nhằm năm Gia Vĩnh thứ ba mươi ba, nửa vạn hào kiệt Trung Nguyên tụ hội ở núi Thiếu Thất để tham dự đại hội võ lâm.
    Trong số ấy có cả Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và thủ hạ Huyết Báo Thân Vô Cửu. Bên cạnh họ không có mặt hai nữ nhân họ Lăng vì Phi Tuyết và Phi Hồng đang tĩnh dưỡng tại Thúy Phong Cốc, chờ được chữa trị. Bọn Tư Đồ Sảng đã đến núi Thúy Phong từ trưa hôm qua. Song không gặp được Cốc chủ. Lão ta đã đi Tung Sơn tham dự thịnh hội tranh ngôi Minh Chủ. Tuy nhiên, phu nhân của Cốc chủ là Dịch Trúc Lan đã vui vẻ tiếp đón và hứa sẽ thay chồng điều trị cho bệnh nhân. Bằng như bà thất bại thì sau đại hội Cốc chủ sẽ quay về! Đấy quả là một giải pháp lưỡng toàn vì hai ả họ Lăng không nên xuất hiện hoặc đi chung với Tư Đồ Sảng.
    Giờ này có lẽ Hạo Thiên Cung đã biết việc ba tù nhân vượt ngục và tài sản bị cuỗm sạch! Tất nhiên Lăng Song Tường sẽ nổi điên, ra sức truy nã Táo Gia Cát và hai con gái nuôi!
    Mụ ta càng điên hơn bởi đã thất bại cay đắng trong cuộc hành quân tấn công phái Toàn Chân. Giờ Tý ngày đầu tháng chín, lực lượng Hạo Thiên Cung tràn lên núi Chung Nam thì sa vào trận địa hố chông và hỏa dược. Kết quả là thương vong gần nửa quân số! Lăng Cung chủ vẫn ngoan cố xua quân tiến lên nhưng Tổng Đàn phái Toàn Chân không một bóng người, dù đèn vẫn sáng! Tam Thanh Cung và các đạo xá hoàn toàn trống rỗng! Nghĩa là, Hào Dương Chân Quân đã biết trước kế hoạch của Hạo Thiên Cung, âm thầm di tản người và của về Vạn Thọ Trùng Dương Cung trên đất Tổ Am. Còn Chung Nam Sơn thì biến thành một cái bẫy chết người!
    Linh cảm rằng Táo Gia Cát đã tẩu thoát, về đây tố giác và bày binh bố trận, Lăng Song Tường lập tức kéo quân trở lại núi Thái Bạch để kiểm tra. Hỡi ơi! Thì ra của cải lẫn tù nhân đều biến mất !
    Sau một hồi chửi rủa, quát tháo, Lăng Cung chủ bình tâm lại, cùng các Thiên Long bàn bạc, điều tra sự việc. Xét địa thế sơn cốc, họ kết luận rằng Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới là người duy nhất có thể vượt tường vào được Hạo Thiên Cung!
    Do đó, Lăng Song Tường phát lệnh truy nã Táo Gia Cát! Hai ả họ Lăng và cả Tây Môn Giới nữa ! Toàn bộ đệ tử Hạo Thiên Cung đều xuất cốc, theo Cung chủ đi dự đại hội võ lâm, nhân dịp này truy bắt tội phạm!
    Lăng Song Tường tinh rằng sẽ tìm thấy Táo Gia Cát trong thịnh hội, bên cạnh Hạo Dương Chân Quân. Sau khi đại hội bế mạc! Bất kể kết quả thế nào thì Hạo Thiên Cung cũng dốc sức bắt Bùi lão!
    Tóm lại, người của Hạo Thiên Cung có mặt khắp nơi, trà trộn trong hàng ngũ quần hào. Nhưng họ không ngờ rằng hung thủ lại chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng, chàng rể hụt của Lăng Cung chủ, và chàng đang ung dung nện gót trên những bậc thang bằng đất dẫn lên bình đài đỉnh núi.
    Con đường này không đưa khách đến Thiếu Lâm Tự vì cửa thiền không phải là nơi để tranh danh đoạt lợi và chém giết lẫn nhau! Địa điểm tổ chức Đại hội nằm trên một ngọn núi thấp, cũng thuộc núi Thiếu Thất sơn. Trước iư chúng ta quen với khái niệm là chùa Thiếu Lâm gắn liền với núi Thiếu Thất, thực ra, nếu chi tiết hơn thì phải hiểu rằng Thiếu Lâm Tự tọa lạc ở ngọn Ngũ Nhũ, một đỉnh phía Bắc núi Thiếu Thất. Nghĩa là “Trong núi có núi” trong Tung Sơn có Thiếu Thất và trong Thiếu Thất có Ngũ Nhũ!
    Rặng Tung Sơn có đến bẩy mươi hai ngọn núi lớn và nhiều núi nhỏ nên người ta chẳng thể đặt tên cho xuể. Do vậy ngọn núi thấp nằm cạnh Ngũ Nhũ vẫn vô danh, y như nô tỳ đi cạnh chủ nhân vậy! Nó vô danh vì chẳng có kiến trúc nào cả và phong cảnh cũng không đẹp. Nhưng được cái đỉnh núi khá bằng phẳng, rộng rãi, đủ điều kiện để trở thành nơi tụ họp hàng vạn người.
    Núi cao gần trăm trượng nên việc thượng sơn biến thành một cuộc leo núi vất vả. Nhưng Tiết Trùng Cửu lại chính là ngày để leo núi.
    Tục lệ mừng Tiết Trùng Cứu có từ thời nào không rõ song người ta đã xem thời Tam Quốc là cái mốc xuất phát. Thuở ấy, Ngụy Văn Đế từng viết:
    “Tế vãng Nguyệt Lai.
    Hốt Hạ Cửu Nguyệt, Cửu Nhật!”
    Tạm dịch:
    “Năm qua tháng tới.
    Mới đó mà mùa hạ đã hết, ngày chín tháng chín đến rồi!”.
    Tiết Trùng Cửu còn gọi là Tiết Trùng Dương vì người Trug Hoa xem số lẻ thuộc về Dương và số chẵn thuộc về âm. Cho nên, mùng chín tháng chín có hai số dương, gọi là Trùng Dương!
    Tổ sư phái Toàn Chân cũng sinh vào ngày này nên lấy Đạo hiệu là Vương Trùng Dương!
    Thế nhưng “Cửu Vi Lão Dương, Dương Cực Tất Biến”, chín là Dương già, lên đến Cực dương ắt phải biến!
    Do vậy, trong quẻ bói dịch thì số chín là số xui xẻo báo điềm thịnh chuyển thành suy! Như trong bài khóc Dương Khuê, cụ Tam Nguyên đã có câu “Buổi Dương Cửu cùng nhau hoạn nạn!”. Và Trùng Cửu, hai con chín lại càng tệ hại. Ngày này chẳng nên làm ăn, buôn bán, cưới hỏi, cứ đi chơi cho khỏe! Tốt nhất là leo núi để luyện tập thân thể! Nhân tiện ngắm cảnh vì ngày Trùng Cửu trời thường trong xanh, đẹp đẽ!
    Quả đúng thế, sáng nay tiết trời rất đẹp, nắng thu nhàn nhạt, gió thu chỉ se lạnh, không làm khổ những kẻ đã khổ công lặn lội lên đây. Và lũ hoa cúc dại nở đầy trên thảm cỏ chỉ vừa kịp đón ánh bình minh Trùng Cửu thì đã bị chân người dày xéo!
    Tư Đồ Sảng và Huyết Báo lên núi khá sớm để có thể chiếm một vị trí gần lôi đài. Tuy không hóa trang song với gương mặt rám nắng, đầy râu và chiếc nón rộng vành, họ không sợ bị kẻ thù nhận ra trong đám người đông lúc nhúc này! Phần lớn hào kiệt tứ hải đã bôn ba mấy nghìn dặm đến đây nên trông ai cũng phong trần như ai! Vả lại, để râu rậm rạp là sở thích của đám nam nhân vì như thế sẽ oai phong hơn! Tục ngữ có câu “Nam tu nữ nhũ”, đàn ông không râu thường bị chê là “Phường mặt trắng!”.
    Hai người ngồi xuống thảm cỏ còn đẫm sương thu, mở bọc lá sen đựng bánh hấp, bánh bao, dùng bữa điểm tâm. Chung quanh họ cũng có nhiều người làm như thế, chỉ khác ở chỗ có thêm túi da đựng rượu! Xem tỷ võ phải có hơi men mới hứng thú! Và rượu vào lời ra nên lát sau đám tửu khách bắt đầu oang oang bàn chuyện giang hồ.
    Nhờ vậy mà Tư Đồ Sảng biết rằng Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý đã xuất đầu lộ diện, thành lập Kỳ Lân Bang ở Trường Sa! Oái oăm thay, căn cứ của họ lại chính là Khuất gia trang, còn Đàm Châu đại hiệp Khuất Kỳ thi trở thành Phó Bang Chủ!
    Tần Cốc Lý lại có cả sự hậu thuẫn của Giả gia trang vì Giả Bạch Hổ là Tổng Hộ Pháp Kỳ Lân Bang. Bọn hào kiệt Hồ Nam còn kể thêm việc Khuất Thúy Lan, con gái Khuất Kỳ đã về làm dầu nhà họ Giả!
    Hình bóng Thúy Lan chưa bao giờ đậm nét trong tâm hồn Tư Đồ Sảng nên chàng nghe tin ấy mà không buồn.Chàng chỉ thắc mắc rằng Khuất lão thái sẽ ra sao khi bị Mân Xuyên Bá Đao đoạt mất Tỵ Hoả Châu? Dung nhan của cô gái bệnh hoạn Giả Đan Quỳnh cũng thoáng hiện ra nhưng chỉ trong phút chốc!
    Tin quan trọng thứ hai là của đám hào kiệt vùng Duyên Hải Đông Nam. Họ nói về sự bành trướng mau lẹ của Hải Hoa Bang ở các tỉnh ven biển như: Quảng Đông, Phúc Kiến, Chiết Giang, Giang Tô! Những Bang hội nhỏ Giang Đông đã lần lượt qui phục Hiải Hoa Bang vì khiếp sợ bản lãnh thần sầu quỉ khốc của Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc. Trước đầy, họ chỉ phải dâng nạp lễ vật hàng tháng mà vẫn giữ được sự độc lập và quyền bảo kê, nhưng giờ thì mất tất cả!
    Hai nhóm hào khách Hồ Nam và Chiết Giang cũng hăng hái cá cược xem ai sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, Tần Cốc Lý hay Giáp Vô Yên? Chính họ Giáp lên tranh cử chứ chẳng phải Nam Hải Tiên Ông vì giới hạn tuổi là bảy mươi! Tuy Bang Chủ Hải Hoa bang đã bị Thần Phủ Lang Quân đả thượng nhưng Mân Xuyên Bá Đao cũng không được đánh giá cao lắm, do mất tích đã lâu!
    Tất nhiên, bọn hào kiệt ấy cũng nhắc đến Thần Phủ Lang Quân Lý Thu và hy vọng chàng trai trẻ tuổi tài cao kia sẽ tranh giành ngôi Minh Chủ!
    Họ không biết rằng chàng ta đang ngồi gần đấy với tư cách một khán giả. Chàng đến đây để xem mặt Tần Cốc Lý, kẻ có thể là chủ hung trong vụ án sát hại song thân mình!
    Chàng không hề thiết tha đến chức Minh Chủ và cũng tự lượng mình chẳng phải địch thủ của Tần Cốc Lý hay Cung chủ Hạo Thiên Cung! Cứu cánh của Tư Đồ Sảng là pho Khô Mộc Thần Công nhưng chàng chỉ mới tham luyện được hơn nửa tháng! Chàng thầm lo lắng, sợ rằng Mân Xuyên Bá Đao sẽ trở thành Minh Chủ võ lâm, có đặc quyền từ chối mọi cuộc thách đấu! Và lúc ấy, chàng chỉ còn cách ám toán lão ta mà thôi!
    Đang suy nghĩ bâng quơ, Tư Đồ Sảng khẽ giật mình cảnh giác khi có người đến ngồi xuống bên cạnh. Dung mạo của gã Đạo sĩ trung niên này rất tầm thường, chẳng có điểm gì khiến người ngoài phái lưu tâm, dù gặp gỡ vài lần cũng không sao nhớ nối, nhưng đối với Tư Đồ Sảng thì nó vô cùng quen thuộc và thân thiết. Chàng mừng rỡ nắm tay gã và hạ giọng:
    - Tây Môn Đại thúc! Tiểu điệt định sau đại hội sẽ đến vấn an người!
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới trừng mắt bảo:
    - Tiểu quỉ chết tiệt kia! Người giấu mặt đại náo Hạo Thiên Cung báo hại lão phu lãnh hậu quả, bị truy nã gắt gao đến mức chẳng còn chỗ nương thân! Ngươi cứu người thì đã đành, sao còn cuỗm sạch tài sản của mụ họ Lăng làm gì?
    Tư Đồ Sảng thẹn chín người, đang định biện bạch thì Tích Dịch Quỉ đổi thái độ, nghiêm nghị nói tiếp:
    - Lão phu chỉ nói đùa thế thôi chứ trong lòng thì rất hãnh hiện khi có được học trò giỏi. Giờ hãy bình tâm nghe lão phu nói đến một việc cực kỳ quan trọng!
    Và lão kề tai chàng thì thầm:
    - Lão phu đã về Hàm Dương, cùng Lý đại ca điều tra suốt mấy tháng trời, dò hỏi hàng trăm người. Nhờ vậy mà đã tìm ra hung thủ sát hại cha mẹ ngươi!
    Tư Đồ Sảng rúng động tâm can, nỗi vui mừng và lửa hận cùng bốc cao khiến người chàng run bắn lên. Chàng cố bình tâm hỏi nhỏ:
    - Bẩm đại thúc ! Hắn ta là ai vậy?
    Tây Môn Giới cau mày đáp:
    - Theo lời mô tả của các nhân chứng, nhất là bọn tiểu nhị của An Hương lữ điếm thì hung thủ gồm hai người, tuổi độ lục tuần lão mang đao có một nốt ruồi son trên cánh mũi trái, đúng là đặc điểm của Mân Xuyên Bá Đao, người thứ hai mang kiếm, dung mạo anh tuấn nhưng nhãn thần lờ đờ, trông như kẻ si ngốc vậy! May thay, một gã tiểu nhị có tài họa đạo đã vẽ lại chân dung của hai kẻ đáng nghi ấy, giúp lão phu nhận ra Tần Cốc Lý và Thập Tự Thần Kiếm Phan Tử Mỹ. Lý đại ca đã phỏng đoán rằng năm xưa hai lão Tần, Phan rơi xuống vực thẳm Vu Sơn mà không chết. Nhưng ThậpTự Thần Kiếm thọ thương vào đầu, mất lý trí, bị Mân Xuyên Bá Đao khống chế! Còn lý do vì sao họ cố giết cho bằng được cha ngươi thì không rõ!
    Tư ĐồSảng nghe xong,ứa nước mắt nói:
    - Nay họ Tần đã luyện thành Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, có khả năng sẽ đoạt được ngôi Minh Chủ, tiểu điệt chỉ còn cách liều mình thượng đài, tìm cơ hội báo thù mà thôi!
    Tây Môn Giới giận dữ hừ nhẹ:
    - Phế ngôn! Quân tử báo thù ba năm chẳng muộn, sao ngươi lại nghĩ đến chuyện thí mạng? Hơn nữa, Táo Gia Cát đã khẳng định trong đại hội lần này sẽ lắm bất ngờ và Tần Cốc Lý không thể đăng quang một cách dễ dàng. Bùi lão đã đem hết tài Gia Cát ra bói một quẻ, biết rằng ngoài Hạo Thiên Cung Chủ sẽ còn có một nhân vật cực kỳ lợi hại nữa ứng cử.
    Tư Đồ Sảng đăm chiêu nói:
    - Nếu Bùi tiền bối đã quả quyết như thế thì tiểu điệt sẽ cố nhẫn nại, chờ luyện xong Khô Mộc Thần Công mới khiêu chiến với họ Tần!
    Và chàng lộ sắc buồn rầu, than:
    - Tiểu điệt chỉ sợ ba năm cũng chẳng đủ hỏa hầu để thắng Tần Cốc Lý!
    Tây Môn Giới vỗ vai chàng an ủi:
    - Sảng nhi chớ lo! Ngươi là kẻ có gân cốt thượng thặng, lại được lệnh mẫu tài bồi bằng bí pháp Mẫu Tử Tiên Thiên Đạo Khí nên thần lực kinh nhân, học công phu nào cũng tiến bộ nhanh gấp mấy lần kẻ khác. Sau đại hội, lão phu sẽ đi Bắc Kinh tìm cho ngươi một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô hay vài viên Vạn Niên Tuyết Sâm Hoàn. Khi có được những thứ ấy, Sảng nhi sẽ dễ dàng hoàn thành Khô Mộc Thần Công chỉ trong một hai năm!
    Tư Đồ Sảng lặng người vì cảm kích. Chàng biết Tích Dịch Quỉ sẽ phải đột nhập Hoàng Cung bởi chỉ nơi ấy mới có loại kỳ trân hãn thế nọ. Mà Tử Cấm Thành lại là chốn được phòng bị nghiêm mật nhất thiên hạ, có vào chẳng có ra! Chàng nhìn Tích Dịch Quỉ với ánh rất thiết tha và nói:
    - Đại thúc bất tất vì tiểu điệt mà mạo hiểm thân già! Cùng lắm thì tiểu điệt tìm cách ám toán kẻ thù là xong! Đại thúc chẳng từng dặn tiểu điệt rằng cách đánh lén luôn có hiệu quả đấy sao?
    Tây Môn Giới hiểu lòng chàng, cười bảo:
    - Đúng là như thế song lão phu lại muốn học trò của mình chiến thắng một cách oanh liệt và quang minh chính đại!
    Dù không có danh phận sự đồ nhưng Tích Dịch Quỷ luôn tự xem Tư Đồ Sảng là truyền nhân của mình. Và hơn thế nữa, lão yêu thương chàng trai trẻ anh hùng này như con! Trong tiềm thức của vị tổ sư đạo chích, vẫn ẩn kín nỗi khát khao có được một nam tử tài ba xuất chúng. Tư Đồ Sảng đã đáp ứng được mỏng ước ấy!
    Tây Môn Giới vô tình xiết chặt lưng Tư Đồ Sảng và khoan khoái hưởng thụ thứ giác ấm cúng của tình thương.
    Huyết Báo nhân cơ hội này mở miệng chào:
    - Tại hạ là Liễu Mộ Hào, thuộc hạ của Tư Đồ công tử, xin bái kiến đại thúc!
    Tây Môn Giới cười nhạt:
    - Nếu lão phu không biết ngươi là ai, quan hệ thế nào với Sảng nhi, thì đã chẳng nói năng tự nhiên như vầy!
    Huyết Báo không dám giận dữ chỉ tủm tỉm cười.
    Lúc này tiếng trống khai mạc Đại hội đã trỗi lên khiến quần hùng chú mục cả về hướng lôi đài. Đấy là một toà mộc đài cao đúng trượng, vuông vức mỗi bề bốn trượng, không có mái che. Bàn của Ban giám khảo đặt ở bìa phía Bắc của lôi đài!
    Sàn lôi đài lót ván dầy và chung quanh chân cũng bít kín đế đảm bảo không ai có thể ẩn nấp ở dưới mà ám toán các ứng viên!
    Sau lưng Ban giám khảo có căng một tấm trướng lụa trắng cực lớn, trên viết bốn chữ Tiểu Triện, nét to hàng gang tay: “Võ Lâm Đại Hội” . Và ở hai cột gỗ các gốc Tây Bắc, Đông Bắc treo cặp liễn đối:
    “Nghĩa Bạc Vân thiên hiệp giả. Bạt đao phù chính khí.
    Nhân Mãn càn khôn, dũng sĩ quát kiếm tảo tà ma”.
    Khác với nét bút tròn đều và ngay ngắn của lối viết Tiểu Triện, những chữ trên đôi liễn được viết theo lối Cuồng Thảo đời nhà Đường nên nét bút rất phóng khoáng, nối nhau tựa rồng rắn, tượng trưng cho sự trường tồn miên viễn của võ lâm!
    Chữ Cuồng Thảo là hình thức mới của Thảo thư, do Trương Húc và Thích Hoài Tố khai sáng! Thế cho nên, trong nửa vạn kẻ vai u thịt bắp hiện diện chốn này chẳng phải ai cũng đọc được câu liễn kia. Không đọc được thì tức anh ách nên có người lên tiếng chửi oang oang:
    - Con bà nó! Chẳng hiểu cái thằng dốt nào đã viết hai câu đối kia thế nhỉ? Chữ nghĩa gì mà nhằng nhịt rối mắt khiến lão gia không sao đọc được dù đã học đến tám vị thầy đồ!
    Cử tọa nghe vậy liền bật cười hô hố, chế giễu bậc anh hùng ít học kia! Nạn nhân là một hán tử tuổi độ Tam thập, có chiều cao khiêm tốn nhưng thân hình vô cùng lực lưỡng, vai rộng gấp rưỡi người thường, thành ra hơi giống loài khỉ dã nhân.
    Gã dốt là phải vì nghèo đến mức đi dự Đại hội võ lâm mà mặc một bộ y phục cũ mèm, chật ních, bó chặt những cơ bắp cuồn cuộn và có chỗ bung cả chỉ! Tuy nhiên, gương mặt của gã khá đẹp, chỉ đậm nét quê mùa, mộc mạc chứ không hề xấu xí.
    Bị quần hùng cười nhạo, chàng trai nghèo mạt rệp kia tức tối quát:
    - Cười cái đếch gì! Các ngươi có giỏi thì đọc thử ta nghe!
    Lập tức có giọng già nua cất lên, đầy vẻ nghiêm trang:
    - Đây là lối chữ Cuồng Thảo, lại được viết bởi bàn tay tài hoa, phóng túng của Bút Thánh nên hơi rối mắt, khiến bậc ạnh hùng trẻ tuổi gặp khó khăn. Lão phu sẽ đọc lại để các hạ tường tri ! À ! Chẳng hay các hạ danh tính ra sao và xuất thân từ cửa nào vậy?
    Được bậc trưởng bối khen mình là anh hùng trẻ tuổi, gã to ngang kia vô cùng khoan khoái, toét miệng cười đáp:
    - Bẩm tiền bối! Tại hạ có quí tính đại danh là Triển Phi Hoan, quê quán đất Lô Châu Tứ Xuyên, tuổi gần Tam thập nhưng chưa thành gia thất.Tại hạ có được bản lãnh siêu phàm là nhờ sự giáo huấn của từ mẫu!
    Câu tự giới thiệu ngây ngô, dài dòng và đầy vẻ khoe khoang của gã đã khiến người chung quanh lại được một phen cười nôn ruột, nhưng lão già râu dài kìa đã khoa tay ra hiệu cho họ nín cười và ông tằng hắng chuẩn bị ngâm hai câu đối...
    Gã Triển Phi Hoan cũng đứng thẳng người vểnh tai, ra vẻ biết thưởng thức.
    Lão râu đài, vận công ngâm thật lớn, âm thanh trầm bổng vang dội khắp bình đài đỉnh nủi, khiến ai cũng nghe thấy:
    “Y bạc xiêm sơ...lưỡng đảo...nhất khê...giai khả biến.
    Mao thanh ... nhục bạch ... anh hùng chi kiếm ... hốt ... Kình thiên.”
    Tạm dịch :
    “Áo mỏng váy thưa, hai đảo một khe đầu thấy được.
    Lông xanh, thịt trắng, kiếm của bậc anh hùng bỗng chống trời!”
    Giong ngâm và sắc diện trang trọng, văn nhã của lão càng làm tăng sự hoạt kê của hai câu thơ hàm ý thô tục khiến cho quần hùng phá lên cười như điên dại. Thậm chí có kẻ còn ôm bụng khuy xuống mà cười cho thỏa!
    Thì ra gã quê mùa Triển Phi Hoan đã bị lão râu dài chơi khăm! Tuy dốt nát nhưng họ Triển cũng hiểu được những chữ đơn giản kia, biết đối phương biến gã thành trò cười của cả đại hội. Gương mặt chất phác của Phi Hoan tái nhợt đi vì hổ thẹn, và ánh mắt gã chất chứa nỗi đắng cay chua xót! Gã mồ côi cha từ thuở lọt lòng, mẹ lại thường xuyên bệnh tật, nhà luôn thiếu ăn, thì tiền đâu mà đi học? Vậy tại sao thiên hạ lại chế nhạo nỗi bất hạnh của gã?
    Nghĩ đến đây, lửa giận bùng lên, Triển Phi Hoan nghiến răng kèn kẹt, mắt trợn trừng, tay hữu xiết chặt chuôi của thanh đao bên hông, định xông đến giết lão già râu dài chết tiệt kia.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhưng có ai đó đã đưa tay cản lại và cất giọng hòa ái:
    - Triển huynh hãy bớt giận! Lão già ấy là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, quen thói diễu cợt thiên hạ, chẳng chừa một ai, kể cả phương trượng chùa Thiếu Lâm. Nhưng Cổ lão lại là người tốt, mỗi năm bố thí cho người nghèo hàng vạn lượng bạc.
    Triển Phi Hoan nghe lời dịu ngọt ấy mà nguôi giận, tự nhủ rằng cái nhục của mình không lớn lắm. Gã ngước lên nhìn cái kẻ đã can gián rất lọt tai, nhận ra một chàng trai râu rậm nhưng mặt còn non. Gã lặng nghe lòng xao xuyến trước sống mũi Thông Thiên Đình của đối phương và bất giác sờ lên mũi của mình.
    Người ấy chính là Tư Đồ Sảng và nãy giờ chàng cũng bồi hồi trước dung mạo của Triển Phi Hoan. Mặt gã và chàng khá giống nhau! Tuy đã nghe rõ tính danh và quê quán của họ Triển song lòng Tư Đồ Sảng vẫn phát sinh một mối hảo cảm, không rõ nguyên do đối với gã!
    Trong sách tướng pháp của người Trung Hoa, tướng mũi Thông Thiên Đình rất quí và hiếm hoi, chỉ loại sống mùi cao, thẳng, sơn căn đầy bằng với trán (sơn căn là chỗ tiếp giáp giữa sống mũi và trán. Đại đa số người Hán đều có sơn căn lõm xuống).
    Và tướng mũi này của Tư Đồ Sảng đã thừa hưởng của cha là Tư Đồ Quát! Mà Phi Hoan mang họ Triển tất chẳng dính dáng gì với họ Tư Đồ!
    Nhắc lại, chàng trai già có thân hình to ngang, thô kệch của đất Tứ Xuyên, cũng bất giác thấy mến kẻ có cái sống mũi giống mình. Gã vui vẻ nói:
    - Này Tiểu huynh đệ! Phải chăng chúng ta có họ hàng nên lỗ mũi giống nhau? Nhưng ngươi nói năng nghe rất êm tai còn ta thì ngược lại!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười đáp:
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng, hai mươi mốt tuổi, quê đất Hàm Dương! Mời Triển huynh sang đây ngồi chung để cùng xem tỷ võ cho vui!
    Triền phi Hoan hớn hở gật đầu, đi theo Tư Đồ Sảng đến chỗ của chàng.
    Tây Môn Giới đã mất dạng chỉ còn lại Huyết Báo Liệu Mộ Hào. Song phương tự giới thiệu và làm quen xong thì nghe tiếng Giám đài nói lời khai mạc và yêu cầu các thí sinh đăng ký thượng đài !
    Triển Phi Hoan nhấp nhỏm đứnglên, miệng thì nói:
    - Tại hạ phải lên ghi danh mới được! Lát nữa chúng ta sẽ gặp lại!
    Tư Đồ Sảng giật mình, sợ gã khó thoát chết, liền giữ lại và nói:
    - Đại hội lần này thực chất là một cuộc tỷ đấu của những đại cao thủ số một võ lâm. Họ đều sở hữu những pho tà công cực kỳ ác độc như Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng, Lô Hoả Thần Chỉ... Do vậy, Triển huynh dù võ nghệ cao cường cũng không nên thượng đài!
    Triển Phi Hoan cụt hứng, mặt lộ sắc buồn:
    - Nếu đúng là hai loại võ công ma quỉ ấy thì ta đành bó tay vì tiên mẫu đã từng nhắc đến! Nhưng nếu không trở thành Minh Chủ thì ta làm gì để sống bây giờ? Chẳng lẽ Hoan này luyện võ gần ba chục năm mà phải làm thợ săn mãi hay sao?
    Huyết Báo phì cười:
    - Con bà nó ! Minh Chủ thì làm gì có lương tháng, ngươi cần tiền chứ đâu cần ngôi vị ấy!
    Liễu Mộ Hào lớn hơn Triển Phi Hoan mười mấy tuổi nên có thể xưng hô như thế. Họ Triển không giận, ngơ ngác hỏi lại:
    - Thực thế sao? Ta tưởng người đứng đầu võ lâm phải được trả lương cao lắm chứ?
    Huyết Báo cố nín cười, tủm tỉm bảo:
    - Ta định giới thiệu cho ngươi một việc làm tốt, no ấm suốt đời. Nhưng chỉ sợ ngươi chê lương thấp nên chẳng dám nói ra!
    Phi Hoan mừng rỡ khẩn cầu:
    - Xin Liễu huynh thương tình chỉ giáo cho! Tiểu đệ chỉ cần no bụng và mỗi tháng có được vài lượng mà uống rượu là đủ rồi! Tiểu đệ tuy ngốc nghếch nhưng bản tính trung thực, sức cử ngàn cân, lại siêng năng cần mẫn, quyết chẳng phụ lòng chủ nhân!
    Huyết Báo liếc Tư Đồ Sảng, thấy chàng gật đầu, liến nghiêm nghị nói với họ Triển:
    - Chẳng phải việc cày sâu cuốc bẫm hay nặng nhọc gì cả! Nếu ngươi không sợ chết thì theo ta làm thủ hạ của Tư Đồ công tử đây! Chúng ta sẽ cùng nhau tung hoành thiên hạ, lưu danh sử sách, thỏa chí nam nhi. Ngoài lương tháng năm chục lượng bạc, ngươi sẽ được tặng thêm năm lượng vàng để cưới vợ!
    Triển Phi Hoan như chuột sa hũ ếp, ngẩn ngươi một lúc rồi ấp úng hỏi lại:
    - Chẳng hay nhị vi là cường đạo ở vùng nào vậy?
    Huyết Báo vừa tức cười vừa giận, đấm cho Phi Hoan một quyền chửi:
    - Cường đạo cái con khỉ! Tư Đồ công tử đây chính thị ThầnPhủ Lang Quân, danh vang tứ hải. Chàng ta thương ngươi khốn khó nên muốn bảo bọc đấy thôi!
    Chắc Triển Phi Hoan có nghe qua chiến tích lẫy lừng của Thần Phủ Lang Quân nên hiểu ra, cười hề hề:
    - Té ra là thế! Triển mỗ xin cúi mình phục vụ bậc anh hùng !
    Tư Đồ Sảng tươi cười đưa tay hữu ra để Phi Hoan xiết lấy, tượng trưng cho lời cam kết cùng nhau sát cánh.
    Giờ chúng ta sẽ quay lại với lôi đài để nghe Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, đọc danh sách những ứng cử viên đủ tư cách thượng đài. Tổng cộng ba mươi hai người, đứng đầu là Hạo Thiên Cung Chủ Lăng Song Tường, Bang chủ Kỳ Lân Bang Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý, Bang chủ Hải Hoa Bang Giáp Vô Yên. Hai mươi chín người còn lại là cao nhân thành danh khắp thiên hạ. Tuổi tác của ba mươi hai người ấy đều từ bẩy chục trở xuống, theo đúng qui củ võ lâm.
    Sau khi đọc danh sách, Đàm Vân Tử cao giọng nói tiếp:
    - Trong lúc ban giám khảo sắp xếp các cặp đấu thủ, hai ứng viên Lăng Song Tường và Tần Cốc Lý sẽ đánh trận khai mạc. Xin mời nhị vị thượng đài!
    Quần hùng hoan hô nhiệt liệt vì biết hai người ấy là cặp gà số một của Đại hội. Và cuộc tranh tài của hai đại cao thủ này chắc chắn sẽ vô cùng hấp dẫn.
    Mặt trước lôi đài có hai cầu thang gỗ cách nhau hơn trượng để các ứng viên đi lên. Kẻ tả người hữu, song phương cùng nhau thượng đài, đứng gần mép sàn gỗ mà vái chào cử tọa.
    Tần Cốc Lý có thân hình tráng kiện, cao ráo, râu tóc đen nhánh, mặt đẹp cương nghị, phong thái ung dung đáng mặt tôn sư. Nhưng lão là nam nhân nên chẳng có gì hấp dẫn cả. Ngược lại, quần hùng suýt xoa tán dương vóc dáng yểu điệu, thon thả và gợi cảm của Lăng Song Tường, người đàn bà thần bí nhất võ lâm. Tuy đã sắp sáu mươi mà Cung chủ Hạo Thiên Cung trẻ như mới gần tứ thập, nhan sắc bội phần mặn mà, kiều diễm. Nụ cười trên môi bà ta đầy sức mê hoặc, song ánh mắt lại lạnh tựa sương khuya!
    Mân Xuyên Bá Đao cũng chăm chú ngắm nhìn đối thủ chẳng rời, lão buông lời bỡn cợt:
    - Phải chăng Cung chủ định dùng mĩ nhấn kế để thắng lão phu nên mặc võ phục bó sát người, lồ lộ những nét gợi tình?
    Quần hùng khoái chí tán thành, hùa nhau cười đểu cáng. Và có kẻ còn rống lên:
    - Này Tần Bang chủ!Ông mà để lưỡi đao chạm vào hai ngón đồi ấy thì ta sẽ lôi mười tám đời tổ tông nhà họ Tần ra mà nguyền rủa đấy!
    Lăng Song Tường đỏ mặt vì những lời thô tục nhưng không phát tác với quần hùng mà trút giận lên đầu Tần Cốc Lý. Bà bất ngờ rút kiếm xông đến tấn công họ Tần bằng một chiêu cực kỳ hung hãn và lợi hại.
    Có thể là bà ta quá xảo quyệt nên đã mượn cớ bị sỉ nhục mà đoạt lấy tiên cơ! Nhưng hành động này của Lăng Song Tường không hề bị kết án vì Tần Cốc Lý đã nham hiểm dùng lời khích động trước.
    Và lão hồ ly kia cũng thừa cơ cảnh để đoán trước phản ứng của đối phương. Mân Xuyến Bá Đao bình thản cử đao chống đỡ và lập tức giở ngay tuyệt học Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng, xạ liền một đạo kình phong trắng đục và lạnh giá.
    Tần Cốc Lý là người tàn nhẫn và quyết đoán nên nặng tay từ chiêu đầu tiên, nhờ vậy mà đối phó với độc thủ của kẻ địch.
    “Tối Độc phụ nhân tâm” lời người xưa vốn chẳng sai. Lăng Song Tường đã sớm phóng ra một đạo chỉ kình phớt hồng xoèn xoẹt xé không gian, nhắm vào bụng dưới họ Tần. Bà ta đã thực hiện câu “Tiên hạ thủ vi cường”, chẳng hề nấn ná, kéo dài cuộc chiến.
    Rốt cuộc kẻ cắp bà già gặp nhau, đao kiếm chưa chạm mà chưởng chỉ đã tương phùng, phát ta tiếng nổ lép bép như pháo chuột. Song phương ngang tài nên hai tà công triệt tiêu lẫn nhau, không phân thắng bại. Phản lực khiến họ khựng lại một lúc và rồi cùng lao đến, ánh thép loang loáng dưới nắng thu và tiếng thép ngân dài.
    Chẳng phải vô cớ mà Mân Xuyên Bá Đao mặc bộ vô phục bằng gấm trắng và cả lưỡi đao cũng sơn mạ một mầu trắng đục. Điều này sẽ khiến cho đối phương hoa mắt, khó phát hiện những đạo chưởng phong Ngưng Huyết Huyền Băng.
    Bên kia, Hạo Thiên Cung chủ cũng tính toán như thế nên xiêm y mầu hồng phấn, lưỡi kiếm được đánh bóng như gương, phản chiếu mầu áo và che giấu Lô Hoả Thần Chỉ.
    Do vậy, giờ đây song phương hoá thành hai chiếc bóng, một trắng, một hồng, quấn quít lấy nhau mà đổi đòn.
    Đao pháp của Tần Cốc Lý trầm ổn mà hùng mạnh, ngược lại, đường kiếm của Lăng Song Tường nhanh và hiểm độc. Tần Cốc Lý ít di chuyển, áp dụng đấu pháp Dĩ tịnh chế động, trong khi đối thủ của lão linh hoạt như cánh bướm, đáo lộn không ngừng.
    Hạo Thiên Cung chủ thông thạo lộ số võ công trăm nhà, kiếm pháp tinh kỳ, bác tạp, biến ảo phi thường nên đã giành được lợi thế về vũ khí. Mũi kiếm của bà lăm le đe dọa những tử huyệt trên cơ thể đối phương, nhiều lần tưởng như đắc thủ.
    Tần Cốc Lý tuy thua sút ở mặt này, thủ nhiều hơn công, song lại hơn về mặt khác. Lão nhờ viên Tỵ Hỏa Châu mà đạt được mười thành hỏa hầu của công phu Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng. Cho nên, họ Tần có thể liên tục giáng những chưởng sấm sét, đẩy lùi kẻ địch.
    Lăng Song Tường là nữ nhân, sức lực chẳng bằng đối phương, lại chỉ mới luyện Lô Hoả Thần Công đến lớp thứ tám, nên không dám phí sức cho những đạo chỉ phong, thỉnh thoảng mới ra đòn.
    Hai tà công chí Dương và chí Âm này đúng là khắc tinh của nhau, biến họ thành kẻ tử đối đầu. Nếu địch thủ của họ là người khác thì cuộc chiến đã kết liễu từ lâu rồi!
    Quần hùng say mê theo dõi và reo hò tán thưởng nhưng Ban giám đài thì rầu thúi ruột trước bản lãnh của hai kẻ có dã tâm kia! Trong phe chính phái, không có cao thủ nào xứng tay với họ!
    Ban giám đài của Đại hội lần này gồm năm vị chưởng môn các phái Bạch Đạo.
    - Giám Tuệ Thiền sư, phương trượng chùa Thiếu Lâm.
    - Bạch Trúc Tử, chưởng môn phái Võ Đang.
    - Hắc Bì Cái, Bang chủ Cái Bang.
    - Trương Thiên Sư, Giáo chủ Thiên Sư Giáo, tức Trương Hàn Vũ.
    - Mộc Chân Nhân, chưởng môn phái Hoa Sơn.
    Đáng lẽ có thêm Toàn Chân Trưởng Giáo Hạo Dương Chân Quân, nhưng ông ta đã vắng mặt...
    Đàm Vân Tử, Trưởng lão phái Võ Đang, là người điều khiển Đại hội nên cũng ngồi chung với Ban giám đài. Ông trầm ngâm bảo họ:
    - Võ lâm đã đến hồi mạt lộ nên cả hai tà công kia cùng xuất hiện. Trong thế cân bằng này, bần đạo chỉ sợ Hạo Thiên Cung và Kỳ Lân Bang bắt tay nhau, chia đôi thiên hạ! Lúc ấy thì chính khí lu mờ, các phái khó mà giữ được Tông môn!
    Mộc Chân Nhân gật đầu tán thành:
    - Đạo huynh quả là người cao kiến! Tiểu đệ nhận thấy họ đều gườm nhau, không dám liều lĩnh. Có lẽ cùng muốn thủ hòa để thương lượng!
    Bạch Trúc Tử hắng giọng xen vào:
    - Bần đạo thì lấy làm lạ khi Nam Hải Tiên Ông và học trò là Giáp Vô Yên vẫn thản nhiên không hề sợ hãi trước bản lãnh của Lăng Cung chủ và Tần Bang chủ! Chẳng lẽ võ công của họ Giáp lại cao cường đến thế sao?
    Năm người kia nghe vậy cùng nhìn xuống hàng ghế đầu phía trước lôi đài thầm công nhận chưởng môn phái Võ Đang tinh ý!
    Hắc Bì Cái gãi mông sồn sột rồi nhăn nhở bảo:
    - Lạ thực! Hay Giáp Vô Yên là con rơi của lão Ninh Hoàng Lạc? Trông họ khá giống nhau! Chúa ăn mày nói chẳng sai, thầy trò Nam Hải Tiên Ông chỉ khác nhau ở chỗ mầu của tóc râu. Ninh lão thì bạc trắng còn Vô Yên thì đen mun.
    Lúc này, trận đấu mạc đã diễn ra được nửa canh giờ, hai đấu thủ bắt đầu mỏi mệt, chiêu thức chậm lại, nhưng chẳng ai chịu nhận bại.
    Quần hào xem đã chán mắt liền la ó vang trời:
    - Đánh đấm kiểu gì thế? Xuống đi!
    Hoặc là:
    - Không chừng họ phải so tài trên giường mới phân thắng bại được.
    Nửa vạn người cười ầm lên, phụ họa bằng những câu thô tục khác.
    Khách võ lâm đa số là những ké hữu dũng vô mưu, ít học, nên nói năng thô lỗ tục tằn. Nhất là khi đứng trong đám đông nhung nhúc, họ tha hồ phát ngôn bừa bãi, chẳng sợ ai bắt bẻ cả.
    Đại hội ngày càng ồn ào, náo loạn nên Đàm Vân Tử đành phải bước ra tuyên bố:
    - Song phương ngang tài, trận này xem như hòa! Mời nhị vị đình thân chờ đến lượt tái đấu!
    Tần Cốc Lý và Lăng Song Tường nhất tề nhẩy lùi, nhìn nhau bằng ánh mắt đố kỵ rồi hạ đài.
    Đàm Vân Tử lại cao giọng:
    - Kính thỉnh Hải Hoa Bang Chủ Giáp Vô Yên và Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu thượng đài!
    Đệ tử Hải Hoa Bang hiện diện ở đây khá đông nên đã vỗ tay và reo hò cổ vũ rất lớn khi Giáp Vô Yên cúi chào cử tọa. Hôm nay họ Giáp mặc võ phục lam sậm, lâm nổi bật nước da trắng trẻo của gương mặt đẹp. Với bộ râu ba chòm đen nhánh trông lão thật đường bệ, oai phong.
    Ngược lại, Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu có nước da ngăm đen, mặt xương xẩu, xấu xí, người gầy mảnh khảnh. Vũ khí của họ Đoàn là một cây trường côn bằng thép ròng, nặng không dưới ba chục cân.
    Phép đánh trường côn xuất phát từ thuật sử dụng thiền trượng của chùa Thiếu Lâm, có cải biên đôi chút. Thiền trượng là vật mà chỉ những bậc cao tăng mới được quyền dụng, các sư sãi cấp thấp thì không được phép. Do đó, khi bắt đầu học võ thì tăng lữ Thiếu Lâm dùng Trường côn, cả đám đệ tử tục gia cũng vậy! Họ chỉ được học nghề đánh côn sau này hạ sơn chẳng lẽ vác thiền trượng trong khi đầu đầy tóc, vợ vài nàng?
    Pho Thiếu Lâm Trường côn được phổ biến rộng rãi nhất là vào thời nhà Nguyên. Thuở ấy, quân Mông Cổ tịch thu mọi loại khí giới bằng sắt thép nhưng không cấm người Hán phòng thân bằng những đoạn tre hay gỗ. Thế là bọn thanh niên đua nhau học côn thuật, cả đoản lẫn trường.
    Ở miền Bắc Trung Hoa không có tre nên đòn gánh cũng được làm từ gỗ, vì vậy trường côn càng trở thành vật thiết thân cho lữ khách.
    Song song với côn, phép đánh Tiểu đao, đoản kiếm, và thuật phóng ám khí cũng rất phát triển. Những loại vũ khí này nhỏ bé, dễ giấu trong áo, không sợ quân Mông nhìn thấy mà bắt bớ.
    Giờ đây, nước nhà đã độc lập, trường côn không còn được ưa chuộng vì cồng kềnh, vướng víu. Đa số khách giang hồ học đao, kiếm vì những ưu thế hơn hẳn. Vẫn còn một số ít lưu luyến Trường côn song là côn sắt. Côn gỗ không bền, cứng thì dễ gãy, mềm thì dễ đứt khi chạm thép tốt.
    Nhưng côn sắt thường dài độ nửa trượng, khá nặng nề, chẳng phải ai cũng đủ sức sử dụng. Bởi vậy, Vân Nam Đại hiệp Đoàn Phục Hưu được xem là người có côn thuật cao siêu nhất võ lâm. Tuy ông không vạm vỡ nhưng sức lực dồi dào, có thể múa tít cây trường côn bằng thép hàng canh giờ.
    Đoàn lão càng gầy hơn vì bộ võ phục bằng gấm đen. Nhưng nếu ông mặc mầu sáng thì e rằng gương mặt lộ rõ nét đen đúa, thô kệch.
    Giáp Vô Yên ôm đao thi lễ rồi tấn công trước, đao quang xanh biêng biếc, đao kình xé gió. Vân Nam Đại hiệp trụ tấn, vươn dài trường côn điểm liền tám thức nhanh như điện, không cho đối phương nhập nội. Và ông uốn mình quét một đường tảo diệp, đẩy lùi họ Giáp.
    Thép chạm thép chan chát, bắn ra những tia lửa nhỏ, song phương quần thảo kịch liệt, đòn ra như vũ bão, cước bộ kinh khoái, đẹp mắt, khiến người xem trầm trồ thán phục.
    Với lợi thế về chiều dài vũ khí, Đoàn lão công nhiều hơn thủ, Trường côn bay lượn, uyển chuyển tựa giải lụa đen. Giáp Vô Yên không sao tiếp cận được kẻ địch nhưng Phục Hưu cũng chẳng phá nồi màn đao ảnh dầy đặc mà thủ thắng. Đã ba khắc trôi qua, Đoàn Phục Hưu bắt đầu đổ mồ hôi ướt trán và lưng áo. Ông thầm khiếp sợ khi phát hiện đối thủ vẫn chưa xuất hạn, rồi điểm nụ cười bí ẩn.
    Quần hùng không hề biết điều ấy, cứ cho rằng song phương ngang sức, có thể lại hòa như trận trước. Riêng Tư Đồ Sảng thì nghĩ khác, chàng đã nhận ra sự tiến bộ vượt bậc của Giáp Vô Yên, qua đường đao và thân pháp. Dường như họ giáp đã đạt đến cảnh giới tùy tâm nhi phát! Chàng thấy lão xuất chiêu Mông Lung Ám Bích nhanh gấp bội lúc trước và tùy tiện biến hóa chứ không đánh trọn. Nghĩa là, lão thừa sức đả bại Đoàn Phục Hưu từ lâu nhưng lại kéo dài, giấu giếm võ công chân thực.
    Giáp Vô Yên giả vờ rất khéo nên trừ Tư Đồ Sảng ra chẳng ai nhận thấy ẩn tình. Lý do là vì chàng đã bước qua ngưỡng cửa kiếm đạo và đã từng đối phó với họ Giáp. Ngay Ban giám đài lẫn Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường cũng bị lừa!
    Tư Đồ Sảng vẫn nghi hoặc, cho rằng dẫu đao pháp có cao cường hơn thì Giáp Vô Yên cũng không thắng nổi Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng của Tần Cốc Lý, hoặc Lô Hoả Thần Chỉ của Lăng Song Tường. Vậy phải chăng lão ta còn sở cậy vào một tuyệt kỹ nào khác nữa?
    Nghĩ thế nên Tư Đồ Sảng chú mục quan sát từng động tác của Giáp Vô Yên. Nửa khắc sau, đường côn của Đoàn Phục Hưu chậm lại và Bang Chủ Hải Hoa Bang tấn liền năm chiêu vũ bão Đoàn lão kém sức phải lùi dần và nhảy xuống đất nhận bại.
    Giáp Vô Yên thở hổn hển ra chiều mệt nhọc, tươi cười đón nhận sự hoan hô của quần hùng.
    Trận thứ ba thuộc về hai cao thủ Sơn Đông. Chắc họ biết mình không qua nổi bọn Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường nên đánh nhau như biểu diễn võ thuật, được vài trăm hiệp thì đình thủ, ôm nhau cười ha hả rồi hạ đài. Tất nhiên hai người ấy bị cử tọa chửi nát nước...
    Cũng đã gần đầu giờ Ngọ, Ban giám đài tuyên bố nghỉ trưa, giữa giờ Mùi sẽ đấu trận kế tiếp.
    Quần hùng lũ lượt xuống núi tìm nơi ăn uống, trong những ngôi quán xá tạm bợ dưới chân núi, hoặc vào huyện thành Đăng Phong, tùy theo hầu bao.
    Tư Đồ Sảng đang phân vân chẳng biết có nên xem tiếp nữa hay không, thì nghe tiếng Tây Môn Giới sát bên tai:
    - Sảng nhi! Ngươi mau về Thúy Phòng Cốc để hội ngộ với Táo Gia Cát và Thuý Phong Cốc chủ. Còn hai gã kia cứ để lại đây cho lão phu sai vặt!
    Nói xong lão lẩn đi ngay. Tư Đồ Sảng liền quay lại bảo Huyết Báo:
    - Túc hạ hãy cùng Phi Hoan ở lại đây chờ sự chỉ bảo của Tây Môn Đại thúc. Ta về Thúy Phong Cốc trước!
    Liễu Mộ Hào gật đầu tuân lệnh, kéo Triển Phi Hoan đi tìm quán nhậu, không theo Tư Đồ Sảng nữa.
    Tư Đồ Sảng đến nơi gởi ngựa, thưởng cho lão tiều phu lạng bạc rồi lên yên phi thẳng. Chàng đang bị dằn vặt bởi mặc cảm bất lực, kém tài trước kẻ thù, nên không thiết gì đến chuyện ăn uống.
    Khi chiều vừa buông thì Tư Đồ Sảng có mặt ở chân núi Thúy phong, lỏng tay cương chậm rãi đi xuyên qua cánh rừng ngô đồng xơ xác mà tiến vào Thúy Phong Cốc.
    Hai ả họ Lăng đang loay hoay bên khóm cúc dại, nghe tiếng vó câu mừng rỡ chạy ra đón. Gương mặt diễm kiều, rạng rỡ của họ khiến lòng Tư Đồ Sảng ấm lại.
    Không thấy ai khác, chàng nhẩy xuống ôm họ và hôn lên má. Hai nàng đỏ mặt, nhìn chàng say đắm. Dẫn ngựa vào chuồng xong Tư Đồ Sảng cùng họ đi vào căn nhà gỗ lớn ở giữa sơn cốc. Khi gần đến nơi hai ả mới chịu buông tay tình lang ra, giả đò thùy mị theo sau.
    Cạnh chiếc bàn bát tiên cuối phòng khách của mộc xá là Táo Gia Cát Bùi Thế Trực và một lão nhân râu năm chòm điểm bạc, mặt vuông, ngũ quan thanh tú.
    Bùi lão vui vẻ bảo:

  11. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Album Ngày Nào Em Đi Lấy Chồng








    Ngày nào em đi lấy chồng

    Bước tình Hồng

    Em lễ chùa nầy

    Xuân vui ca

    Em đã thấy mùa xuân chưa

    Mộng ban đầu

    Mừng Xuân

    Như giọt sầu rơi

    Tiễn bước sang ngang

    Gọi anh mùa Xuân



    Last edited by giavui; 05-13-2020 at 05:10 PM.

Trang 2 / 6 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •