Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Cái trở ngại to nhất của hạnh phúc là trông chờ một hạnh phúc khác to hơn.
Fontenelle
Trang 3 / 6 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 54

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký

  1. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Sảng nhi ! Ngươi mau bái kiến Tư Không Cốc chủ!
    Tư Đồ Sảng vội vòng tay thi lễ:
    - Vãn bối Tư Đồ Sảng xin ra mặt Cốc chủ!
    Tư Không Chất ngắm nhìn chàng rồi gật gù khen:
    - Đúng là mĩ chất lương tài, cốt cách như rồng phượng, có một không hai! Mời hiền diệt an tọa!
    Phi Tuyết và Phi Hồng biết phận nữ nhi, xin phép lui ra sau bếp chuẩn bị cơm rượu!
    Ở đây Táo Gia Cát nhíu mày hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Sáng nay, khi xem xong hai trận đấu, Sảng nhi có nhận xét thế nào?
    Tư Đồ Sảng trầm ngâm đáp:
    - Bẩm nhị vị tiễn bối! Vãn bối đã quan sát rất kỹ và nhận ra Mân Xuyên Bá Đao có vài cơ hội để đả bại cung chủ Hạo Thiên Cung, mà chỉ bị tổn thất rất nhẹ, nhưng lão ta đã bỏ qua. Hai là, nếu họ Tần cất đao, dùng cả song thủ để thi triển pho Ngưng Huyết Huyền Băng Thần Chưởng thì Lăng Cung chủ sẽ thua trong vòng hai trăm chiêu! Tiên sư thường bảo rằng pho chưởng ấy không chỉ lạnh thấu xương mà còn quỉ dị, biến hóa tuyệt luân! Nay Lăng Song Tường mới có khoảng tám thành Hỏa hầu Lô Hoả Thần Chỉ tất sẽ không địch lại!
    Chàng dừng lời, nhấp hớp trà thơm rồi nói tiếp:
    - Vãn bối cho rằng Tần Cốc Lý cố nhường nhịn Lăng Cung chủ là để sau này mua chuộc sự ủng hộ của Hạo Thiên Cung. Lăng Song Tường có dưới trướng mấy trăm thủ hạ, toàn tà cao thủ nhất lưu, hơn hẳn lực lượng Thập Điện Diêm Cung trước đây và Kỳ Lân Bang bây giờ. Do vậy, Tần Cốc Lý e ngại sự chống đối của Hạo Thiên Cung và còn muốn có họ làm vây cánh!
    Táo Gia Cát hào hứng giơ ngón cái khen ngợi:
    - Cao luận ! Không ngờ một gã thật thà như ngươi lại tinh mắt và tinh ý như vậy! Nói tiếp đi !
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn vì được tán dương, cầm chén. trà lên uống cạn. Dù quen tính khiêm tốn nhưng lòng chàng cũng rộn ràng cảm giác khoan khoái trước những lời khen ấy. Và chàng mạnh dạn trình bày tiếp:
    - Bẩm nhị vi tiền bối! Tần Cốc Lý tài ba và mưu mẹo như thế song không đáng ngại bằng thầy trò Nam Hải Tiên Ông! Vãn bối đã tương giao đấu với Giáp Vô Yên nên sáng nay phát hiện võ công của lão ta đột nhiên tăng tiến đến ba bốn bậc, một việc rất khó tin! Công lực có thể dồi dào thêm nhờ kỳ trân, thần dược, nhưng muốn tinh thâm đao ý thì phải mất nhiều năm! Đao khác kiếm là ở chỗ ấy!
    Bùi lão khoái trá vỗ đùi quay sang bảo Tư Không Cốc chủ:
    - Lão đệ đã tin chưa? Sảng nhi là viên ngọc chưa được mài dũa, dần dần mới lộ vẻ sáng!
    Tư Không Chất mỉm cười gật đầu và hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Vậy ngươi kết luận thế nào?
    Tư Đồ Sảng cân nhắc một lúc rồi đáp:
    - Vãn bối đã suy nghĩ suốt trên đường về và phỏng đoán rằng Nam Hải Tiên Ông đùng kế thay mận đổi đào, hóa trang làm Giáp Vô Yên để tranh ngôi Minh Chủ !
    Hai lão nhân đồng thanh khen:
    - Giỏi lắm !
    Và họ ngỉra cổ cười khanh khách. Tư Đồ Sảng cáo lui, vào sau tắm gội, tự hỏi vì sao hôm nay mình không còn ngốc nữa! Phải chăng khi người ta bình tâm quan sát và suy nghĩ thấu đáo, cặn kẽ sẽ nhìn ra chân tướng sự vật?
    Sau bữa cơm tối, cả nhà quây quần uống trà. Tư Không Cốc chủ nghiêm trang nói:
    - Sảng nhi! Lão phu đã tìm ra cách hóa giả thủ pháp Bế Kinh Tuyệt Mạch cho hai con bé họ Lăng. Việc chữa trị không khó, chỉ cần ngươi hiểu được câu “Ngộ biến tùng quyền!”. Nghĩa là, dù đang cư tang cha mẹ, ngươi vẫn phải thành thân với Tuyết nhi và Hồng nhi! Yên Du vốn là khoái huyệt nên sau vài lần ân ái sẽ tự động đả thông! Ngoài cách ấy ra không còn phương thức nào cả!
    Tư Đồ Sảng và cả hai ả họ Lăng xấu hổ đến mức chỉ muốn chui xuống gầm bàn mà trốn.
    Táo Gia Cát nói thêm vào:
    - Tần Cốc Lý võ nghệ cao cường, thủ hạ đông đảo, nên việc báo thù nhà của ngươi bội phần hung hiểm. Chẳng lẽ ngươi không nghĩ đến việc tông tự để vong linh Tư Đồ Quát được vui?
    Tư Đồ Sảng nghe nhắc tên cha già, sực nhớ tới tâm nguyện của ông. Chàng bồi hồi run giọng:
    - Vãn bối xin tuân mệnh!
    Tư Không Cốc Chủ cười bảo:
    - Vợ chồng lão phu không có con nên sẽ nhận Tuyết và Phi Hồng làm nghĩa nữ ý các ngươi thế nào?
    Hai ả họ Lăng sung sướng quì xuống lạy chín lạy và gọi:
    - Can gia ! Can nương!
    Còn Tư Đồ Sảng thì ngượng ngùng gọi nhạc gia, nhạc mẫu!
    Đêm ấy, Tư Đồ Sảng động phòng với Phi Tuyết trước vì nàng là chị! Ngày còn bị giam trong thạch tháp HạoThiên Cung, họ đã quen với thân xác của nhau nên giờ bớt ngượng ngùng. Tư Đồ Sảng mơn man cơ thế mịn màng, nóng bỏng của ái thê và thức ngộ rằng mình đã khát khao ghê gớm được đặt môi miệng vào đầu vú nhỏ xinh kia. Chàng cúi xuống và chìm trong cảm giác an lành thuở ấu thơ! Cuối canh ba, Tư Đồ Sảng sang phòng Phi Hồng!
    O0o
    Chiều mười chín, Tây Môn Giới về Thúy Phong Cốc, báo tin rằng trưa mai sẽ đấu trận của Mân Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý và Hải Hoa Bang chủ Giáp Vô Yên. Đấy cũng là trận bế mạc, quyết định ngôi Minh Chủ thuộc về ai, vì Hạo Thiên Cung Chủ Lăng Song Tường đã tuyên bố rút lui.
    Nhìn gương mặt đỏ bừng đầy sắc xuân và dáng điệu thẹn thùng e ấp của Phi Tuyết Phi Hồng, Tây Môn Giới đoán ra ngay hỉ sự. Lão cười hỏi Táo Gia Cát:
    - Bùi lão ca ! Phải chăng họ Tư Đồ đã có dâu!
    Táo Gia Cát cười khà khà, kể lại phương pháp giải huyệt có một không hai của Tư Không Chất!
    Tây Môn Giới phì cười:
    - Thế có hiệu quả hay không hở Sảng nhi?
    Tư Đồ Sảng bẽn lẽn ấp úng nói:
    - Dạ bẩm có! Tuyết muội và Hồng muội bảo rằng đã phục hồi được một nửa võ công!
    Tư Không Cốc chủ ôm bụng cười sặc sụa:
    - Làm gì có chuyện đả thông một nửa! Chẳng qua hai con nha đầu ấy thích được ngươi tận tình phục vụ nên nói thế thôi.
    Lão phán đoán không sai vì hai tân nương kia bị nói trúng tim đen, ôm mặt bay vèo ra khỏi phòng khách, chứng tỏ chân khí đã hoàn toàn thông suốt! Và họ trốn biệt, cơm tối cũng không ăn chung với cả nhà! Tất nhiên hai ả chẳng dại nhịn đói, ngồi dưới bếp mà bốc bải! Họ vừa ăn vừa cười nói, đổ thừa cho nhau về việc nói dối trượng phu. Phi Tuyết, Phi Hồng là chị em song sinh,dung mạo giống nhau, tâm ý tương thông, nay cùng lấy một chồng, không phải chia lìa nên bội phần thương yêu nhau. Và họ chẳng bao giờ ghen tuông, đố kỵ! Đây cũng là diễm phúc cho Tư Đồ Sảng vì kẻ đa thê thường gặp nhiều phiền toái trong gia sự.
    Hai nàng ở dưới bếp, không biết các trưởng bối và chồng mình bàn bạc chuyện gì trên phòng khách, nên đêm ấy vẫn đắm chìm trong ân ái, chẳng chút lo âu.
    Sáng ra, trước lúc đăng trình, Tư Đồ Sảng mới nghiêm nghị bảo:
    - Sau đại hội ta sẽ đi ngay Hàm Dương để dự ngày giỗ đầu của song thân.
    Chàng vừa nói đến đây thì hai ả đã ngắt lời, nhao nhao đòi theo. Phi Hồng nũng nịu nói:
    - Tướng công ! Bọn thiếp giờ đã là dâu họ Tư Đồ, làm sao có thể vắng mặt trong ngày giỗ ky nhị vị nhân gia được! Mong tướng công cho bọn thiếp theo chàng.
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới bảo:
    - Không được! Hiện nay Hạo Thiên Cung và Kỳ Lân Bang đã liên minh thành một khối. Đêm hôm trước, lão phu đột nhập vào Đăng Phong đại khách điếm, rình nghe được cuộc thương lượng của bọn tà ma. Lăng Song Tường đã kể cho Tần Cốc Lý nghe lai lịch của Sảng nhi. Họ Tần là hung thủ tất phải biết mùng bốn tháng mười tới là ngày giỗ của nạn nhân. Do vậy, chắc chắn sau khi đại hội võ lâm bế mạc, Tần Cốc Lý sẽ huy động lực lượng bủa lưới ở Hàm Dương. Tóm lại, chúng ta đi càng đông càng dễ bị lộ nên chỉ mình lão phu và Sảng nhi đến Hàm Dương mà thôi!
    Nghe nói phu tướng sẽ đi vào chốn nai phục, hai nàng tái mặt bởi lo âu, Tây Môn Giới thấy thế liền trấn an:
    - Các ngươi cứ yên tâm! Với nghề cải trang của lão phu thì chẳng ai có thể khám phá ra được. Lão phu hứa sẽ trả lại cho hai ngươi một đấng land quân còn nguyên vẹn!
    Táo Gia Cát cũng an ủi họ:
    - Tây Môn Giới đa mưu túc kế chẳng kém lão phu dẫu thiên la địa võng cũng không sso vây nổi, tất sẽ giữ cho Sảng nhi được an toàn!
    Các trưởng bối đã nói thế thì hai ả chẳng thể phụng phịu mãi đành gượng cười tiễn phu tướng lên đường!
    O0o
    Giữa giờ Mùi ngày hai mươi tháng chín, trận đấu quyết định ngôi Minh Chủ đã khởi đấu. Tần Cốc Lý áo trắng, Giáp Vô Yên áo xanh đậm, họ ôm đao chào nhau rồi thủ thế. So niên kỷ, họ Giáp có quyền thủ thế trước. Và cũng như những trận đã qua, lần này Bang chủ Hải Hoa Bang điềm đạm tấn công bằng một chiêu nhẹ nhàng, mang tính thăm dò.
    Tần Cốc Lý gian xảo có thừa, đã ngấm ngầm hoài nghi đối phương giấu giếm bửu bối, nên lão cực kỳ cảnh giác, không dám khinh địch. Họ Tần dồn ngay tám thành công lực vào tả thủ để phòng thân rồi mới cử đao tiếp chiêu.
    Hai thanh bảo đao chạm nhau và Tần Cốc Lý nghe tay hữu tê chồn, và hổ khẩu đau rát, cứ như vùa chém vào đá vậy. Lão tái mặt nhận ra công lực đối phương cực kỳ thâm hậu, còn đao pháp thì đã đến mức Đăng Đường Nhập Thất. Giáp Vô Yên ra đòn có vẻ hiền hòa song kỳ thực đường đao nặng như núi Thái. Điều này chứng tỏ họ Giáp đã đạt đến mức trình độ thượng thừa của đao thuật.
    Tần Cốc Lý bị lưỡi đao của Giáp Vô Yên uy hiếp sát rạt, vội vỗ liền một chưởng Huyền Băng, gài đối thủ vào thế lưỡng bại câu thương.
    Phách Không Chưởng lực lợi hại ở chỗ có thể đả thương kẻ địch từ xa và bất ngờ, cứ như là cánh tay tả thủ của họ Tần đột ngột vươn dài ra thêm nửa trượng vậy.
    Mân Xuyên Bá Đao đinh ninh rằng Giáp Vô Yên bắt buộc phải né tránh hoặc nhẩy lùi lại. Nào ngờ Bang chủ Hải Hoa Bang chẳng hề khiếp sợ chỉ khẽ khoa bàn tay trái đón lấy đạo chưởng kình Ngưng Huyết. Và kỳ diệu thay, phát chưởng lạnh giá của Tần Cốc Lý lập tức bị triệt tiêu, chẳng còn chút tăm hơi nào cả, ngoại trừ những âm thanh ì ầm do va chạm.
    Mân Xuyên Bá Đao kinh hoảng thức ngộ rằng Giáp Vô Yên đã luyện thành công phu Tán Kình Trảo Pháp, một tuyệt học hãn thế thời nhà Nguyên. Pho tuyệt học này xuất xứ ở Ba Tư, truyền đến thời Định Phong Chân Nhân thì mai một. Tán Kình Trảo Pháp tạo ra một lực đạo vô cùng quái dị, có thể hóa giải mọi loại chưởng phong, chỉ lực! Sử sách võ lâm Trung Nguyên đã ghi lại rằng thuở ấy các loại vũ khí bằng sắt thép đều bị quân Mông Cổ cấm đoán nên quyền chưởng rất được hâm mộ và trở nên hưng thịnh.
    Nhưng Định Phong Chân Nhân đã xuất hiện và đả bại tất cả những cao thủ trong nghề Phách Không Chưởng Lực! Tuy nhiên người ta không hề nghe nhắc đến việc Tán kình Trảo Pháp có khả năng khắc chế những loại vũ khí sắc bén như đao hoặc kiếm. Điều này không quan trọng lắm bởi Giáp Vô Yên chỉ cần Tán Kình Trảo Pháp để đối phó với Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng và lão đã thành công!
    Trong lúc Tần Cốc Lý choáng váng trước tuyệt kỹ thất truyền, họ Giáp bình thản đánh trọn chiêu đao, quyết lấy mạng kình địch. Song bang chủ Kỳ Lân Bang chẳng phải kẻ bất tài, đã sớm đảo bộ thoát thân. Do đó, lão ta chỉ bị Giáp Vô Yên chém rách thịt da nơi lồng ngực vạm vỡ.
    Quần hùng ồ lên kinh ngạc khi thấy máu hồng loang ướt tấm bạch bào của Tần Cốc Lý. Họ vẫn đánh giá Mân Xuyên Bá Đao cao hơn Giáp Vô Yên nên rất kinh ngạc khi thấy họ Tần đã thọ thương ngay trong trăm chiêu đấu.
    Và còn đáng ngạc nhiên hơn nữa vì Giáp Vô Yên đang áp đảo Tần Cốc Lý bằng một thứ đao pháp ảo diệu và nhanh như thiểm điện.
    Thanh đao có nước thép xanh ngời trên tay họ Giáp bay lượn tựa rồng thiêng múa vuốt, đao ảnh nối nhau thành giải lụa mờ mờ, đao kình vù vù xé không gian.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tần Cốc Lý dù từng nổi danh Mân Xuyên Bá Đao song giờ đây hoàn toàn bị hạ phong trước pho Cửu Huyền Đao Pháp của Đao Vương. Lão như cá nằm trong lưới, tuyệt vọng chống đỡ bằng cách liên tục xạ ra những đạo chưởng phong trắng đục và lạnh toát. Lão hi vọng khí âm hàn sẽ khiến tứ chi của đối phương tê cóng và sau đó là máu huyết ngưng đọng.
    Nhưng luồng đao kình vũ bão của họ Giáp đã xua tan khí lạnh trong lúc tay tả ung dung hóa giải Huyền Băng Chưởng. Máu hồng vương vãi như sương vì Tần Cốc Lý đã bị vướng thêm vài đao nữa. Dẫu sao thì Huyền Băng Chưởng cũng đã làm cho đối phương phân tâm, phân lực, nếu không, Tần Cốc Lý đã tiêu đời.
    Họ Tần đã nghĩ đến việc buông đao để rảnh tay thi triển pho Huyền Băng Chưởng. Song Giáp Vô Yên đã không để lão có cơ hội. Trong cuộc giao tranh giữa những đại cao thủ, đường đao chỉ hơi sơ hở một chút là đủ vong mạng nên việc bỏ vũ khí chẳng phải là điều có thể làm bất cứ lúc nào.
    Bọn đệ tử Hải Hoa Bang ngồi sau lưng Nam Hải Tiên Ông Ninh Hoàng Lạc leo hò vang dội khi thấy Bang chủ thắng thế, liên tiếp đả thương và dồn kẻ địch lùi dần về phía mép lôi đài.
    Xa vài trượng, Tư Đồ Sảng và Tây Môn Giới thì thầm bàn luận, lộ vẻ ngao ngán trước bản lãnh võ công của hai đấu thủ trên lôi đài.
    Tư Đồ Sảng rầu rĩ nói:
    - Tiểu điệt có cảm giác rằng Giáp Vô Yên thừa sức giết Tần Cốc Lý nhưng không làm. Dường như lão muốn sau này sẽ thu phục Kỳ Lân Bang và Hạo Thiên Cung làm vây cánh! Lúc ấy, việc báo thù nhà của tiểu điệt sẽ càng bội phần khó khăn, nhất là khi Tần Cốc Lý được phong làm võ lâm Phó Minh Chủ!
    Tây Môn Giới vỗ vai chàng an ủi và nói bâng quơ:
    - Ngươi luận việc rất chí lý nhưng biết đâu cả hai lão ấy cùng chết thì sao?
    Tư Đồ Sảng không cãi nhưng tự nhủ rằng việc ấy khó có thể xây ra. Hơn nữa, lúc này Tần Cốc Lý đã tìm ra cách vãn hồi cục diện. Lão dồn toàn lực vào bảo đao, tấn công rất quyết liệt và bất ngờ uốn người lăn xả vào chân đối thủ.
    Lối đánh này xuất xứ từ pho Địa Đường Đao Pháp đất Hà Nam, thường được lính bộ binh sử dụng khi đối phó với quân kỵ mã. Người võ lâm ít ai chịu học bởi nó kém phần tao nhã, thượng võ mà dễ dơ bẩn y phục, vừa khó coi vì chuyên chém vào hạ bàn người ta.
    Chính vì thế mà Giáp Vô Yên bị lúng túng khi một vị Bang chủ cao cả như Tần Cốc Lý lại dám muối mặt chơi trò lăn lóc. Lão chỉ còn cách bốc chếch lên cao để tránh né. Nhờ vậy Tần Cốc Lý lăn được vào vị trí gần giữa lôi đài. Và lão lập tức đứng lên phóng thanh bảo đao vào người họ Giáp. Đồng thời, họ Tần ập đến, múa tít song thủ vẽ nên muôn ngàn chưởng ảnh trắng muốt, vây kín đối phương.
    Giáp Vô Yên chưa kịp đặt chân lên sân lôi đài đã phải né tránh phi đao, và chống đỡ với chiêu quái chưởng, nên mất tiên cơ. Lão nghiến răng công phá màn chưởng ảnh lạnh lẽo kia bằng những đường đao sấm sét, tả thủ thì chập chờn bảo vệ ngực bụng. Đao quang rực rỡ xé toang màn chưởng ảnh Huyền Băng, đẩy lui Tần Cốc Lý, nhưng đùi phải họ Giáp đã trúng phớt một đòn đau điếng. Vô Yên lảo đảo vì chân trụ bị tê dại và không thể truy đuổi kẻ địch.
    Thắng lợi này của Tần Cốc Lý đã làm nức lòng tướng sĩ Kỳ Lân Bang. Họ reo hò nồng nhiệt hoan hô Bang chủ. Riêng các chưởng môn Bạch Đạo và bọn Tư Đồ Sảng thì càng e ngại họ Tần đã để lộ một tâm địa thấp hèn, không thủ đoạn nào không dùng, quí hồ đắc lợi.
    Lúc này, Tần Cốc Lý hung hãn tấn công như vũ bão, chưởng ảnh giăng mắc đấu trường, làm rung chuyển cả lôi đài.Lão thi triển hàng loạt chiêu Huyền Băng Chưởng, song thủ liên tiếp giáng những đạo kình phong giá lạnh và nặng như chùy sắt vào đối thủ. Họ Tần phải hạ gục Giáp Vô Yên trước khi chân của lão kịp phục hồi.
    Nhưng Bang chủ Hải Hoa Bang đã múa tít bảo đao, tạo nên chiếc tán thép xanh ngời, chứa đầy kình lực để che chở châu thân. Chiếc tán này đã đánh bạt toàn bộ những đòn tấn công của họ Tần. Khách quan chiến có cảm giác như Vô Yên đang đứng trong một trái cầu bằng pha lê xanh trong suốt vậy! Họ vô cùng thán phục đao pháp thần kỳ của Giáp Vô Yên, vỗ tay tán thưởng, miệng xuýt xoa ca ngợi?
    Tư Đồ Sảng cũng tấm tắc khen và nói với Tây Môn Giới:
    - Đại thúc! Xem ra Giáp Vô Yên chính thị Nam Hải Tiên Ông cải trang thành. Người có công lực dưới Hoa Giáp không thể tạo ra luồng đao kình kiên cố như thế được !
    Tích Dịch Qủi gật gù hỏi lại:
    - Thế Sảng nhi có đoán đước lý do vì sao Nam Hải Tiên Ông dù tuổi đã tám mươi tư mà vẫn cố giành cho được ngôi Minh Chủ hay không?
    Tư Đồ Sảng bối rối lắc đầu:
    - Việc này tiểu điệt đã có suy nghĩ mà không tìm ra nguyên nhân! Xin Đại thúc chỉ giáo!
    Tây Môn Giới cười nhạt:
    - Lão phu đã cho thủ hạ đến Nhai Sơn điều tra, lờ mờ hiểu được ẩn tình song chưa thể khẳng định. Ta cần chứng thực một vài điểm nữa mới rõ nguồn cơn! Tuy nhiên, dù thế nào đi nữa thì cũng không thể để Ninh lão quỉ trở thành Minh Chủ được. Và lão nheo mắt cười với chàng:
    - Người xứng đáng làm Minh Chủ võ lâm chính là ngươi đấy gã ngốc ạ!
    Tư Đồ Sảng ngơ ngác, ngượng ngùng, cho rằng lão đang giỡn cợt mình. Chàng quay lại xem tiếp trận đấu và phát hiện diễn biến mới. Huyệt Phục Thố trên đùi phải Giáp Vô Yên đã được đả thông, gân cốt không còn tê bại đau đớn nữa. Và họ Giáp bắt đầu phản công quyết liệt, ẩn trong màn đao quang mà xông vào lưới chưởng của kẻ địch. Đao phong, chưởng kình chạm nhau nổ ì ầm và kẻ thoái bộ chính là Tần Cốc Lý.
    Họ Tần đành sử dụng phép du đấu di chuyển thật nhanh, lúc tả lúc hữu, tránh nhuệ khí chết người của đối phương, và giữ khoảng cách để phát huy ưu thế của Phách Không Chưởng lực.
    Nhưng Giáp Vô Yên cũng là kẻ có khinh công cao cường, bám theo sát sạt, quyết chẳng để kẻ địch thủ lợi! Pho Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng Pháp gồm bẩy mươi hai chiêu bội phần quỉ dị nên mới lừng danh vũ nội, do vậy khi Giáp Vô Yên rạch được một đao trên da thịt Tần Cốc Lý thì cũng phải chịu một chưởng. Song giờ đây, quanh thân họ Giáp tỏa ra một lớp khí xanh mờ nhạt, giúp lão chống lại chưởng kình.
    Thần Công hộ thể này đã khiến những người ngồi ở hàng ghế đầu trợn mắt kinh ngạc và một nữ nhân đã cao giọng:
    - Giáp Vô Yên đã luyện thành Thuần Thanh Cương Khí! Tần Bang chủ hãy thức thời mâ nhận bại!
    Người kêu gọi Tần Cốc Lý hạ đài chính lầ Cung Chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường. Đêm qua, mụ đã cùng họ Tần thế non hẹn biển và ân ái mặn nồng nên giờ lo sợ cho tính mạng tình quân?
    Lăng Song Tường luyện Lô Hoả Thần Công nên lửa dục rất mạnh, chẳng nam nhân nào đáp ứng nổi. Nhưng Tần Cốc Lý sở đắc Huyền Băng Chân Khí, lại là cao thủ chốn phòng the, nên có thể ân ái thâu đêm suốt sáng khiến thân thể nóng bỏng của Lăng Song Tường chìm mãi trong khoái lạc. Tần Cốc Lý lại giầu nứt đố đổ vách nhờ tài cướp bóc của Quỷ Ảnh Hội, trong khi Hạo Thiên Cung thì sạt nghiệp bởi cuộc vơ vét của Phi Tuyết, Phi Hồng. Vì cả hai lý do tình, tiền, Lăng Song Tường vô cùng mãn nguyện được trở thành vợ của họ Tần, cùng nhau mưu đồ bá nghiệp!
    Kiến văn của Mân Xuyên Bá Đao không rộng bằng Cung chủ Hạo Thiên Cung nên chẳng nhận ra Thuần Thanh Chân khí. Nãy giờ lão liều chết kéo dài cuộc chiến vì nuôi hy vọng rằng Giáp Vô Yên sẽ bị bế tắc kinh mạch bởi khí âm hàn của Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng. Nay nghe tình nương cảnh giác, lão hiểu rằng mình vô vọng. Dù cho Giáp Vô Yên chỉ mới luyện được hai ba thành Thuần Thanh Tâm Pháp thì cũng thừa sức chống lại khí lạnh của Huyền Băng Chưởng. Tuy không thể sánh với Khô Mộc Thần Công của Ngũ Hành Giáo song Thuần Thanh Cương khí cũng rất lợi hại. Nghĩ đến câu “Còn nón xanh chẳng sợ thiếu củi đun”, Tần Cốc Lý cắn răng chấp nhận thất bại, chờ cơ hội mà vươn lên. Lão là kẻ gian hùng tuyệt thế, biết lẽ tiến thoái, biết ẩn nhẫn không hề loạn động!
    Tần Cốc Lý liền lùi nhanh về phía đài hướng Đông chuẩn bị nhảy xuống. Nhận ra ý định của đối thủ, Giáp Vô Yên hài lòng đình thủ và không truy đuổi. Do vậy, khi Tần Cốc Lý đến được mép lôi đài thì khoảng cách giữa hai người là trượng rưỡi.
    Kẻ thắng đang khấp khởi mừng nghĩ đến giây phút đăng quang. Kẻ thuaa thì cay đắng ngậm ngùi , lòng đầy nỗi oán hận, đứng ở mép sàn gỗ nhìn kẻ địch với ánh mắt căm hờn.
    Ban giám đài và cử tọa cũng chưa rõ chủ ý của Tần Cốc Lý là đánh nữa hay thôi vì lão vẫn còn ở trên lôi đài.
    Đúng lúc ấy, hai tiếng nổ kinh thiên động địa phát ra và hai góc Tây Nam, Đông Nam của lôi đài bị phá nát, gỗ ván bay lên trời và khói bụi mịt mù! Nửa lôi đài sụp xuống rối bốc cháy ngùn ngụt.
    Ban giám đài ngồi tận mép hướng Bắc nên chỉ bị kinh hãi chừ không tổn thương, quan khách phía dưới cũng vô sự vì ở cách lôi đài đến hơn hai trượng, do sàn đài khá cao!
    Tóm lại, chỉ có vài hào kiệt bị thương nhẹ do gỗ vụn rơi vào đầu. Nhưng sự kiện này đã khiến toàn trường khiếp đảm, ùa nhau bỏ chạy, rời xa lôi đài bẩy tám trượng mới dừngchân. Và khi khói bụi lắng xuống, lửa bị dập tắt họ quay lại để xem sự thể.
    Ban giám khảo đã trở về lôi đài bàn bạc và kết luận rằng đại hội phải bế mạc ngay vì sự an toàn của quần hùng, mặc dù chưa xác định được ai là Minh Chủ võ lâm. Tần Cốc Lý và Giáp Vô Yên đều bị trọng thương không biết sống chết. Trước khi vụ nổ xảy ra, họ Tần vẫn chưa nhận bại, chưa hạ đài nên trận đấu chưa kết thúc.
    Sau khi thống nhất, Ban giám đài cử Đàm Vân Tử đại diện công bố với quần hùng:
    - Do có kẻ phá hoại đại hội, làm cho Tần Bang chủ và Giáp Giáo chủ thọ thương trước khi cuộc so tài kết thúc, nên họ sẽ tái đấu vào dịp tiết Trùng Cửu sang năm. Trong thời gian từ nay đến lúc ấy, nếu có người chẳng may mệnh chung thì ngôi Minh Chủ thuộc về người kia! Hội đồng võ lâm kính mong chư vị anh hùng cho biết cao kiến của mình.
    Lập tức có người lên tiếng:
    - Lão phu cho rằng sau lần bị trùng thương bởi hoả dược thì kẻ sống sót cũng bị tàn tật hoặc giảm sút võ công, không xứng đáng với danh vị Minh Chủ. Vì thế, lão phu đề nghị phế bỏ hoàn toàn kết quả nghèo nàn của Đại hội lần này, sang năm tổ chức Đại hội khác để tìm ra một vị Minh Chủ thật vẹn toàn.
    Người vừa phát ngôn chính là Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh, chủ nợ của hơn nửa số người hiện diện chốn này. Tuy hay chọc ghẹo thiên hạ nhưng Cổ lão cực kỳ hào phóng, sẵn sàng giúp đỡ vài chục lượng cho những bậc anh hùng nghèo kiết xác.
    Ai chưa nhờ đến lão thì cũng tự nhủ có khi mình cần đến, tội quái gì phản bác vị thần tài tốt bụng! Thế là nửa vạn người đồng thanh tán thành cao kiến của Hí Nhân cư sĩ. Và tất nhiên Hội đồng Võ lâm, tức Ban giám đài không dám không nghe theo.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 8

    Tây Khứ Hồi Cố Thổ,
    Thượng Kinh Cứu Quí Nhân
    Quần hùng hể hả xuống núi, hẹn tái ngộ vào dịp Trùng Cửu sang năm. Nam Hải Tiên Ông và Hạo Thiên mỗi người một ý nhưng đều cay đắng như nhau, vô cùng căm hận cái kẻ đã gài hoả dược.
    Tây Môn Giới vui vẻ bảo Tư Đồ Sảng:
    - Không ngờ Đại hội võ lâm lại kết thúc một cách hay ho như vậy! Mong sao Tần Cốc Lý và Nam Hải Tiên Ông đều chết cả để giang hồ được thanh bình! Và nếu đúng thế thì sang năm ngươi phải ra tranh cứ đấy! Lúc ấy, chỉ mới ba thành Khô Mộc Thần Công ngươi cũng đủ sức đả bại Lăng Song Tường rồi!
    Tư Đồ Sảng nhận ra vẻ cao hứng phi thường của Tích Dịch Quỉ đối với sự cố vừa qua, và dường như lão rất thiết tha với việc chàng lên ngôi Minh Chủ chứ chẳng nói đùa.
    Cơ trí Tư Đồ Sảng ngày càng tiến bộ nên thoáng hoài nghi Tây Môn Giới là người đã đặt thuốc nổ, diệt trừ hai cường địch kia để dọn đường cho chàng sau này. Nhưng chàng không dám khẳng định vì Tích Dịch Quỉ chẳng biết gì về hoá dược và chính lão đã khăng khăng từ chối, không cho Phi Tuyết, Phi Hồng về Hàm Dương tảo mộ. Hơn nữa, lẽ nào chỉ sau một tháng cận kề, lão lại yêu thương chàng đến thế!
    Tư Đồ Sảng hoang mang hỏi sang chuyện khác:
    - Đại thúc! Nay Tần Cốc Lý đã bị trọng thương, chúng ta có nên cho Tuyết muội và Hồng muội theo về Hàm Dương hay không!
    Tây Môn Giới mỉm cười:
    - Tất nhiên rồi, họ Tần sắp chết, sức đâu mà nghĩ đến việc giết người nữa. Chúng ta sẽ quay về Thúy Phong Cốc, trưa mai cùng họ khởi hành đi Hàm Dương.
    Tư Đồ Sảng càng tin lão vô can. Chàng sực nhớ đến hai thủ hạ liền hỏi:
    - Bẩm đại thúc! Không hay hai gã Mộ Hào và Phi Hoan đi đâu chẳng thấy?
    Tây Môn Giới nghiêm nghị đáp:
    - Lão phu lo cho tính mạng Lý đại ca nên đã bảo hai gã ấy đi núi Cửu Tuấn trước rồi!
    Tư Đồ Sảng rất yêu mến chủ quán Lý Tứ, xem như ông ngoại, nên cảm động nói:
    - Đại thúc quả là người chu đáo! Nay Lý Thúc công đã già yếu không người phụng dưỡng! Tiểu điệt chẳng an tâm chút nào cả!
    Tây Môn Giới nói ngay:
    - Lão phu cũng định lần này rước luôn Lý Đại ca về Thuý Phong Cốc cho hai ả họ Lăng hầu hạ! Trước sau gì kẻ thù của ngươi cũng tìm đến núi Cửu Tuấn, e rằng cái mạng già của Lý Đại ca khó an toàn!
    Hai người xuống núi, về đến Thuý Phong Cốc cuối canh hai. Cả nhà mừng rỡ đón chào, xúm lại để nghe kể chuyện Đại hội! Kết cục lưỡng bại câu thương của hai kẻ gian hùng là Nam Hải Tiên Ông và Mân Xuyên Bá Đao đã khiến mọi người khoan khoái cười vang.
    Táo Gia Cát Bùi Thế Trực lén nhìn Tây Môn Giới với ánh mắt là lạ song chẳng nói gì cả. Đêm ấy, sau cơn ân ái, hai mỹ nhân mãn nguyện chìm vào giấc ngủ, không biết rằng phu quân vẫn trằn trọc. Tư Đồ Sảng thương nhớ song thân và áy náy vì mình võ nghệ chẳng bằng cừu nhân nên không sao chợp mắt được.
    Chàng nhẹ nhàng kéo tấm chăn đơn đắp lên thân thể trắng trẻo của Phi Tuyết rồi rời phòng. Chàng chậm rãi đi ra vườn hoa lớn giữa sơn cốc, ngồi xuống chiếc đôn đá mà ngắm vầng trăng Hạ huyền tháng chín.
    Lát sau, tiếng ho khúc khắc phát ra từ căn tiểu xá mé Tây hoa viên đã khiến Tư Đồ Sảng quay lại nhìn. Qua song cứa, chàng phát hiện Tây Môn Giới đang ngồi uống rượu một mình cạnh dĩa đèn dầu lù mù. Chàng lập tức cảm nhận được nỗi cô đơn cùng cực của lão ta, lòng dào dạt xót thương.
    Tư Đồ Sảng quên ngay nỗi buồn riêng, tiến vế hướng ấy, đứng ngoài song cửa mà gọi:
    - Tây Môn đại thúc! Tiểu điệt xin được hầu người vài chung.
    Tây Môn Giới ngước lên, ánh mắt rạng rỡ niềm vui. Lão cười khà khà bảo:
    - Sảng nhi đấy ư! Lão phu tưởng ngươi đã ngon giấc trong vòng tay của hai con nha đầu kia rồi chứ! Mau vào đây uống với lão phu, cửa không cài then!
    Tư Đồ Sảng kính cẩn tuân mệnh, đẩy cửa chính mà vào. Chàng nốc cạn chung rượu rồi hỏi:
    - Trời đã sang canh tư, vì sao Đại thúc không ngủ mà lại độc ẩm thế này?
    Tây Môn Giới thở dài u uất:
    - Lão phu một đời cô độc, thê tứ chẳng có, nửa đêm tỉnh giấc là bị nỗi tịch mịch vây quanh, nghĩ đến hậu vận mà không sao ngủ lâu được nữa, đành mượn chén rượu giải sầu!
    Tư Đồ Sảng lặng người trước tâm sự của lão trộm già và bỗng khát khao được làm người an ủi lão. Chàng ấp úng vòng tay nói:
    - Tây Môn Đại thúc! Tiểu điệt mồ côi cả so ng thân, thiếu thốn sự giáo huấn của trưởng bối! Vì vậy, tiểu điệt khấu đầu xin được gọi Đại thúc là nghĩa phụ, mong đại thúc thành toàn cho!
    Tây Môn Giới nhìn chàng trân trối, lệ mừng ứa ra từ khoé mắt nhăn nheo. Lão hiền hòa hỏi lại:
    - Sảng nhi làm như thế vì tự nguyện hay được người khác mớm ý cho?
    Tư Đồ đảng ngơ ngác biện bạch:
    - Đây là lòng thành của tiểu điệt chớ nào có ai xúi bẩy!
    Vẻ mặt trung thực, thuần phát của chàng đã nói lên tất cả. Tây môn Giới hài lòng gật đầu:
    - Thế thì được! Lão phu đồng ý nhận người làm nghĩa tử!
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ rời ghế quì sụp xuống lạy chín lạy, miệng Can gia!
    Tây Môn Giới cao hứng đỡ chàng lên, bảo ngồi vào ghế, cùng uống ba chén rượu mừng.
    Tư Đồ Sảng tò mò hỏi:
    - Can gia! Vì sao lúc nãy người lại hỏi hài nhi như thế!
    Tây Môn Giới mỉm cười giải thích:
    - Lão phu tưởng Táo Gia Cát đã biết lai lịch lão phu nên xui ngươi lạy làm cha nuôi. Dù ta rất yêu mến ngươi nhưng không thể nhận một kẻ thiếu lòng thành lâm con!
    Tư Đồ Sảng ngớ người:
    - Vậy chẳng lẽ lai lịch của Can gia còn nhiều điều bí ẩn?
    Tây Môn Giới cười nhạt đáp:
    - Đúng thế! Lão phu chính là Hội chủ Hắc Hiệp Hội, một tổ chức Hắc Đạo đông đến hàng ngàn người, thế lực bao trùm hai tỉnh Hà Nam, Hà Bắc! Bọn ta đứng giữa chính tà, tuy là trộm cướp nhưng không hề lạm sát hay hà hiếp lương dân. Khi võ lâm nổi sóng, Hắc Hiệp Hội luôn tùy cơ mà phù trì chính khí, tiêu diệt bọn ác ma!
    Tư Đồ Sảng tỉnh ngộ ồ lên:
    - Thì ra chính Can gia đã chủ sử việc gài hỏa dược ở lôi đài để giải trừ đại họa cho võ lâm!
    Tây Môn Giới thản nhiên xác nhận:
    - Đúng vậy! Lão phu tiên đoán tà ma sẽ thắng thế nên đã sớm cho thủ hạ gài thuốc nổ ở hai góc lôi đài, từ trước ngày khai mạc!
    Lúc nói câu này gương mặt Tíchai Dịch Quỉ rạng ngời hào khí, đầy phong thái của một hiệp sĩ trừ gian diệt bạo.Tư Đồ Sảng vô cùng ngưỡng mộ, vái lão và nói:
    - Can gia quả là bậc anh hùng hiếm có, làm việc nghĩa mà chẳng muốn ai biết được!
    Tây Môn Giới sướng rơn trong bụng, trước lời khen ngợi chí tình của con nuôi, song lại giả vờ nghiêm giọng:
    - Lai lịch của lão phu ngươi phải giữ gìn, dù cả với thê thiếp. Nhớ chưa!
    Tư Đồ Sảng vội hứa thủ khẩu như bình! Tây Môn Giới hài lòng cười bảo:
    - Trong thiên hạ chỉ có hai người biết được chân diện mục của lão phu. Ngươi sẽ là ngươi thứ ba!
    Nói xong, lão đưa tay lên cẩn thận gỡ tấm da người mỏng manh, để lộ gương mặt cương nghị, quắc thước và trắng bệch vì quanh năm bị mặt nạ che phủ.
    °
    °
    Sáng hôm sau, trong bữa điểm tâm, Tư Đồ Sảng trình bày việc mình nhận Tây Môn Giới làm nghĩa phụ. Cả nhà hoan hỉ chúc mừng và Phi Tuyết, Phi Hồng lại phải quì xuống nhận cha chồng!
    Họ chẳng hề uổng công vì đã được Tây Môn Giới tặng cho hai viên Tố Nữ thần đan, có công dụng lưu giữ tuổi xuân, da dẻ luôn trắng muốt và toả mùi thơm thoang thoảng. Hai ả vui mừng khôn xiết, hết lời cảm tạ Can gia!
    Xế trưa đoàn người khởi hành đi Hàm Dương, đến nơi đúng vào chiều ngày hai tháng mười.
    Quán rượu của Lý Tứ tiêu điều hơn trước và chẳng có ma nào đến ăn nhậu cả. Bởi thế cho nên Lý quán chủ và hai gã tiểu nhị ngồi nhâm nhi với nhau.
    Nghe tiếng ngựa xé dừng lại, họ mừng rỡ bước ra cửa đón chào. Chỉ mới một năm mà Lý Tứ trông già hẳn đi, râu tóc bạc trắng, lưng không còn thẳng nữa. Không phải vì Lý lão đã tám mươi mà chính bởi cái chết thê thảm của vợ chồng Tư Đồ Quát. Lý Tứ vẫn xem Võ Xuân Hoa là con gái mình và Tư Đồ Quát là chàng rể tâm đầu ý hợp. Mất họ, Lý Tứ buồn vô hạn, để mặc tuổi già theo rượu mà ập đến. Lão lại chẳng ngủ được khi nghĩ đến đứa cháu côi cút đang phiêu bạt giữa chốn giang hồ đầy sắt`máu để báo thù nhà.
    Tư Đồ Sảng xúc động trước vẻ già nua, còm cõi của Lý Tứ, rời lưng ngựa chạy đến quỳ dưới chân lão mà gọi:
    - Thúc công! Tiểu tôn đã về đây!
    Lý Tứ hân hoan đỡ chàng lên và ôm chặt lấy. Lão ứa lệ mừng nhưng lại xô cháu ra và mắng yêu:
    - Tiểu quỷ đáng ghét này, sao lại khóc như con nít thế kìa. Lão phu vẫn còn sống chứ nào đã chết đâu!
    Tư Đồ Sảng hổ thẹn, chưa kịp nói gì thì Tây Môn Giới đã lên tiếng:
    - Lý đại ca! Tiểu đệ là Tây Môn Giới đây!
    Tích Dịch Quỷ luôn mang mặt nạ nên phải tự giới thiệu. Nói xong, lão bước đến chống tay, quỳ một chân mà bái kiến. Lý Tứ hừ nhẹ và lạnh lùng bảo:
    - Sao ngươi không chờ lão phu chết rồi hẳng vế đưa đám! Phải chăng giờ đây ngươi đã là bá chủ một vùng nên không có thời gian về thăm lão phu!
    Tây Môn Giới vẫn quỳ, dịu giọng biện minh:
    - Tiểu đệ đã biết tội, mong đại ca lượng thứ! Tuy đã hơn năm không về vấn an được nhưng lòng này luôn canh cánh nhớ đến huynh trưởng.
    Lý Tứ hài lòng xua tay:
    - Thôi được! Có nhớ đến là tốt rối!Đứng lên đi!
    Tây Môn Giới bình thân rồi thì đến lượt Phi Tuyết, Phi Hống. Hai ả chắp tay nghiêng mình, ỏn ẻn thưa:
    - Tiểu tôn tức bái kiến thúc công!
    Lý Tứ trợn mắt nhìn họ và bật cười ha hả:
    - Sảng nhi giỏi thực! Ngươi làm thế nào mà lấy được cả hai con bé đẹp như tiên thế này?
    Được khen, hai ả khoái chí chúm chím cười, mặt rạng rỡ như hoa Xuân. Và họ giật bắn mình, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ khi nghe Lý lão nói tiếp:
    - Chị em ngươi đểu có tướng chân dài, eo nhỏ, e rằng cháu cưng của lão phu chẳng còn khí lực để báo thù nhà. Chà! Nguy hiểm thực!
    Đã thế gã khỉ đột Triển Phi Hoan lại còn cười hô hố mà phụ họa:
    - Thúc công dạy chí phải! Tiểu diệt nhận thấy nước da của công tử xanh xao hơn trước nhiều!
    Tư Đồ Sảng cũng thẹn đỏ mặt, vội đánh trống lảng bằng cách giới thiệu Táo Gia Cát với Lý Tứ.
    Sau đám giỗ vợ chồng Tư Đồ Quát, đoàn người rời núi Cửu Tuấn, lên đường trở lại Hà Nam. Chiều ngày mùng chín, họ có mặt ở Trường An, vào trọ trong Hưng Thái đại lữ điếm.
    Do Tư Đồ Sảng hết lời năn nỉ nên Lý Tứ đã bằng lòng về Lạc Dương sống chung với vợ chồng chàng. Lý lão biết mình chẳng còn sống bao lâu lữa và muốn được ma chay tử tế, có em, có cháu để tang. Tròn một năm buồn khổ, bỏ bê việc luyện công, ngày ngày nhậu say khướt, Lý Tứ đã hoàn toàn suy sụp, bắt đầu lẩm cẩm, giở chết. Tuy nhiên, ngoài những câu nói thẳng thừng, khiến người khác đỏ mặt thì Lý lão rất dễ mến. Phi Tuyết, Phi Hồng luôn quấn quít bên lão để xoa bóp bộ xương già còm cõi và để được nghe lão kể về thời thơ ấu của Tư Đồ Sảng. Phi Tuyết còn trổ tài thần y, châm cứu và bốc thuốc bổ cho Lý lão uống.
    Chính lão già lẩm cẩm này đã vạch mặt Tây Môn Giới. Tối mùng bốn, cả nhà đang ăn uống thì Lý Tứ bỗng hỏi:
    - Này Tây Môn hiền đệ! Phải chăng ngươi đã chọn Sảng nhi làm người kế nhiệm cái chức hội chủ Hắc Hiệp Hội?
    Thanh danh của bang hội thần bí này đã được võ lâm truyền tụng suốt mấy chục năm nhưng không ai biết Tích Dịch Quỉ là hội chủ. Vì thế, giờ đây mọi người trố mắt kinh ngạc nhìn Tây Môn Giới. Tích Dịch Quỷ ngượn gngùng đáp:
    - Bấm đại ca! Tiểu đệ nào dám có ý ấy! Tiểu đệ chỉ muốn dùng thế lực Hắc Hiệp Hội hỗ trợ cho Sảng nhi báo gia thù và dương danh thiên hạ. Nêu y trở thành Minh Chủ võ lâm thì càng tốt.
    Ba mươi mấy năm trước, Tây Môn Giới từng bị trọng thương sắp chết, nhưng Lý Tứ mang về cứu chữa, chăm sóc suốt hai năm ròng, nên lão suốt đời tôn kính họ Lý, dẫu bị mắng chửi oan cũng không dám cãi. Trong thâm tâm, đúng là Tây Môn Giới muốn giao cơ nghiệp Hắc Hiệp Hội cho con nuôi song lại bị Lý Tứ phản đối nên chẳng dám thú nhận. Nào ngờ, Lý lão gật gù nói tiếp:
    - Thực ra, làm minh chú võ lâm là tốt, còn làm hội chủ Hắc Hiệp Hội thì cũng chẳng xấu. Lão phu cho rằng ngươi có thể tùy nghi hành động.
    Tây Môn Giới hân hoan vái dài:
    - Cảm tạ đại ca đã thấu hiểu tâm tình của tiểu đệ.
    Tương lai của Tư Đồ Sảng đã được xếp đặt ở Hàm Dương như thế đấy, giờ chúng ta trở lại Trường An để giống thời gian được liên tục.
    Sau bữa cơm chiều trong Hưng Thái đại lữ điếm, Tư Đồ Sảng rủ Huyết Báo đến Mạc Gia Trang thăm Mạc Lão Thái và Mạc Chiêu Hương. Lúc này, họ đang đứng dưới mái hiên và không còn ai khác bên cạnh.
    Huyết Báo thở dài não ruột, nhìn chàng trân trối và nghiêm nghị bảo:
    - Mong công tử thành thật trá lời Liễu mỗ!
    Tư Đồ Sảng nhíu mày đáp:
    - Tất nhiên là thế! Liễu huynh cử hỏi đi.
    Huyết Báo chậm rãi nói:
    - Liễu mỗ muốn biết công tử có ái mộ tệ sư muội Mạc Chiêu Hương hay không?
    Tư Đồ Sảng giật mình, suy nghĩ một lúc rồi đáp:
    - Mạc cô nương nhan sắc phi phàm, lại có ơn cứu mạng, nên Sảng này cũng thầm yêu mến. Nhưng Chiêu Hương là ý trung nhân của Liễu huynh nên ta tuyệt đối chẳng dám nẩy sinh tà ý. Liễu huynh cứ yên tâm!
    Huyết Báo dở khóc dở cười nhăn nhó nói:
    - Công tử quả là kẻ hồ đồ, ngốc nghếch nhất trên đời. Tại hạ với Mạc sư muội chẳng hề có tình ý gì với nhau cả. Hơn nữa, Chiêu Hương đã thầm yêu công tử và đã hy sinh danh tiết mà chăm sóc công tử suốt quãng đường từ Đông Quan đến Trường An.
    Tư Đồ Sảng chết điếng người, ấp úng hỏi:
    - Phải chăng ta đã mạo phạm đến Mạc cô nương?
    Huyết Báo cười khẩy:
    - Chẳng lẽ công tử không nhớ ai đã tắm rửa cho mình? Và hằng đêm công từ sờ soạng ngực ai mà gọi là mẹ! Dù cho công tử mê man, không ý thức được hành vi của mình thì Chiêu Hương cũng không còn trong trắng nữa.
    Sảng hổ thẹn khôn xiết, thức ngộ rằng đấy là sự thực. Sau khi bình phục chàng vẫn nhớ đến giấc mơ êm đềm trong lúc bệnh hoạn. Hình bóng yêu kiều của Chiêu Hương hiện về rực rỡ vì chẳng còn ngăn cách. Tư Đồ Sảng chợt hiểu mình đã yêu nàng thiết tha đến dường nào. Chàng quyết định lấy Chiêu Hương làm vợ, dẫu cho Phi Tuyết, Phi Hồng phật ý.
    Tư Đồ Sảng cố trấn tĩnh vái Huyết Báo và nói:
    - Tiểu đệ quyết chẳng để Chiêu Hương phải chịu thiệt thòi. Mong Liễu sư huynh đứng ra làm báng nhân ( ông mai ), tác hợp cho mối lương duyên này.
    Ánh mắt Huyết Báo dịu lại và gã thở dài:
    - Công tử có trách nhiệm như thế là phải đạo. Tiếc rằng Mạc sư nương và Chiêu Hương đã bán nhà đi về Hà Bắc mất rồi. Tại hạ có hỏi thăm nhưng hàng xóm không ai biết địa chỉ mới của họ..
    Tư Đồ Sảng lộ vẻ buồn rầu, than rằng:
    - Hà Bắc đất rộng người đông, không có địa chỉ rõ ràng thì làm sao tìm được họ?
    Chợt có người ở phía sau lên tiếng:
    - Sảng nhi chớ lo! Trong vòng hai tháng người của Hắc Hiệp Hội sẽ tìm ra con dâu thứ ba của lão phu.
    °

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    °
    Hơn mười ngày sau, bọn Tư Đồ Sảng về đến Thúy Phong Cốc. Tây Môn Giới có đến bảy cơ ngơi trong thành Lạc Dương nhưng Lý Tứ không chịu đến đòi sống chung với cháu trai và cháu dâu. Vả lại, vợ chồng Tư Không Cốc chủ hết lời mời mọc, không cho Lý Tứ hoặc bất cứ ai đi đâu cả. Họ đều đã già, sợ hãi nỗi cô đơn còn hơn cái chết.
    Thế là Tây Môn Giới đành phải về ở Thúy Phong Cốc. Đệ tử thân tín của lão đi về như mắc cửi, báo cáo sự vụ của hội cũng như tình hình võ lâm. Tây Môn Giới đặc biệt lưu tâm đến những kình địch của Tư Đồ Sảng như Hải Hoa Bang, Kỳ Lân Bang và Hạo Thiên Cung. Một mặt, lão huy động mấy trăm thủ hạ Hà Bắc điều tra tung tích của mẹ con Mạc Lão Thái. Huyết Báo và Triển Phi Hoan cũng đã đi Bắc Kinh, tham gia tìm kiếm. Phi Hồng và Phi Tuyết không hề biết tâm sự của trượng phu, nhưng là ngươi đầu gối tay ấp nên chừng nửa tháng sau họ khám phá ra ẩn tình. Một hôm, Phi Hồng đến khuê phòng hỏi chị:
    - Tỷ tỷ có nhận ra liều gì khác lạ ở tướng công hay không?
    Phi Tuyết nhíu đôi mày liễu trầm ngâm:
    - Nhị muội hỏi ta mới nhớ ra. Dạo này tướng công thường hay trằn trọc, và mất hẳn thói quen đặt bàn tay lên ngực ta khi ngủ. Có đêm ta trở giấc, nghe được tiếng thở dài não nuột của chàng. Lúc ấy ta tưởng chàng nhớ đến thù nhà chưa báo được nên không hỏi.
    Phi Hồng mỉm cười:
    - Tiểu muội cũng nhận ra điều ấy và còn tình cờ nghe tướng công than thở: “Chiêu Hương, ta quả có lỗi với nàng!”.
    Cơn ghen làm Phi Tuyết xây xẩm mặt mày, nàng trợn mắt nói:
    - Té ra là là chàng tương tư con nha đầu họ Mạc. Chàng đã có hai chị em chúng ta sao lại còn đa mang thêm nữa làm gì!
    Phi Hống dịu dàng can gián:
    - Tỷ tỷ hãy bình tâm, khoan oán trách tướng công. Chàng được Mạc tiểu thư cứu mạng trước khi vào Hạo Thiên Cung cứu chúng ta. Và sau đó chàng không hề nhắc đến Chiêu Hương một lần nào cả. Chỉ sau khi đi Hàm Dương tảo mộ vế tướng công mới sinh ra buồn rầu, dù ngoài mặt vẫn gượng vui. Thái độ của chàng không giống một kẻ đang mê hoa luyến sắc mà giống như người đang hối hận vậy. Tiểu muội đoán rằng trong thời gian thọ thương, tướng công đã mạo phạm ân nhân mà không hay biết, hờ hững với Chiêu Hương. Mạc tiểu thư vì việc ấy mà bán nhà rời khỏi Trường An. Có lẽ Huyết Báo đã kể lại ẩn tình khiến tướng công chìm đắm trong sự hối tiếc, tự dằn vặt mình mãi. Chàng lại sợ chúng ta buồn nên chẳng dám nói ra.
    Phi Tuyết tỉnh ngộ thảng thốt nói: '
    - Thôi chết rồi! Tướng công từng kể cho ta nghe việc gia nương hiện về trong lúc chàng mê man bất tỉnh, nằm trên xe ngựa. Hay là chàng đã ôm ấp Chiêu Hương mà sờ soạng rồi cứ ngỡ mẫu thân!
    Phi Hồng bật cười khúc khích:
    - Chứ còn gì nữa! Chính vì thế mà tướng công hồ thẹn, bỏ hẳn tật xấu kia.
    Phi Tuyết cũng phì cười, lát sau bảo em gái:
    - Tuy ta không muốn thêm kẻ chung thuyền nhưng cũng chẳng thể để Mạc tiểu thư bị thiệt thòi. Xét ra, tướng công không có lỗi còn Chiêu Hương thật đáng thương! Ta sẽ cùng ngươi đến tra hỏi tướng công và khuyên chàng đi tìm Mạc cô nương.
    Tuy tính hay ghen nhưng PhiTuyết lại là người cương trực, công bằng, có lòng nhân hậu. Nàng tự đặt mình vào hoàn cảnh Chiêu Hương và hiểu được nỗi khổ của nạn nhân. Dẫu là giang hồ nhi nữ thì cũng không thể vui sống khi đã trải qua cảnh ngộ éo le ấy.
    Phi Hống vui vẻ tán thành, kéo bào tỷ về phòng mình. Bị hai ái thê nhìn thấu tâm can, Tư Đồ Sảng đành thú thực mọi việc. Chàng như người trùt được khối đá ngàn cân khi biết họ chấp nhận Chiêu Hương và còn khuyên chàng đi Hà Bắc tìm kiếm. Tất nhiên là với điều kiện phải đưa họ đi theo.
    Tuy nhiên, Lý Tứ lại không chịu xa hai đứa cháu dâu nên sáng hôm sau Tư Đồ Sảng độc hành.
    Tây Môn Giới bận sự vụ Hắc Hiệp Hội nên không thể đi cùng. Lão bèn trao cho chàng tấm lệnh bài tuần sứ và dạy cách liên lạc với thủ hạ Hắc Hiệp Hội trên lãnh thổ Hà Bắc. Lão còn tặng cho chàng ba tấm mặt nạ da người để sử dụng khi cần thiết, mặc dù ở phía bắc Hoàng Hà Tư Đồ Sảng không hề có kẻ thù.
    Đã sang đầu tháng mười một, tuyết chưa rơi nhưng trời đã lạnh nhiều..Phi Hồng bắt trượng phu phải mặc áo ngự hàn bằng loại lông cừu thượng hạng màu đen tuyền. Chiếc áo choàng lông này đã che phủ túi da đựng Giáng Ma Phủ. Cây búa cổ kính này khi xếp lại sẽ nằm gọn trong túi da lươn tròn trĩnh, đường kính độ hơn gang. Người ngoài không thể nào đoán ra vật bên trong lại là một cây rìu dài hơn ba xích và nặng đến hai chục cân.
    Tư Đồ Sảng yêu mến di vật của mẫu thân nên lúc nào chàng mang theo mặc dù chàng rất giỏi kiếm pháp.
    Do trọng lượng của Giáng Ma Phủ mà thắt lưng của Tư Đồ Sảng cũng phải được may bằng da dầy, bọc lụa, có khóa móc trước bụng. Phi Tuyết cẩn thẩn nhét vào khúc cán rỗng của Giáng Ma Phủ một cuộn ngân phiếu. Hái á đã vét của Hạo Thiên Cung một số tài sản lên đến bốn chục vạn lượng vàng nên chẳng thể để lang quân thiếu thốn.
    Nữ nhân vẫn dồi dào tình cảm, nhẹ phần đạo lý, nên chị em họ Lăng thản nhiên lấy luôn những thứ không phải của họ. Phi Tuyết cho rằng số dư là sự bồi thường thỏa đáng cho cái chết của sư phụ nàng, Y Độc Thần Quân. Rốt cuộc Lăng Song Tường phải sạt nghiệp, đành bán thân cho Tần Cốc Lý để có gạo nuôi quân.
    Nhắc lại Tư Đồ Sảng một mình một ngựa ngược Bắc, cứ theo đường quan đạo Bắc Nam mà bôn hành, chẳng sợ lạc, chỉ mới ba đêm mà chàng đã nhớ hai ải thê vô hạn. Chàng quá quen với thân hình mỹ miều của họ vâ những trận ái ân nồng cháy nên giờ đây thao thức mãi. Dọc đường, kỹ viện, thanh lâu rất nhiều, vì là ngành kinh doanh được triều đình thu thuế, nhưng Tư Đồ Sảng chẳng bao giờ có ý định ghé vào. Chàng thầm hổ thẹn cho cái tính háo sắc, đa dục của mình, chăm chú luyện Khô Mộc Thần Công, mỗi khi vào quán trọ.
    Tư Đồ Sảng rất hiếu võ, dẫu đã có hai giai nhân bên cạnh vẫn không hề xao nhãng việc rèn luyện. Chàng đã tĩnh tọa mỗi tối liên tục từ giữa tháng tám đến nay. Tổng cộng thời gian chưa đầy ba tháng nên thành tựu còn rất nhỏ nhoi.
    Xế trưa ngày rằm tháng mười một, Tư Đồ Sảng ghé thành An Dưỡng ăn trưa và tìm đến một cơ sở của Hắc Hiệp Hội để hỏi thăm tình hình. Bọn đệ tử cung kính báo lại rằng đã điều tra ra việc một cỗ xe song mã do một nữ lang rất xinh đẹp cầm cương, đã rời An Dương đi lên hướng Bắc hồi đầu tháng chín. Có thể đấy chính là xe của mẹ con Mạc Chiêu Hương. Phần Liễu Mộ Hào và Triển Phi khoan thì cũng đã vượt An Dương hồi giữa tháng mười.
    Tư Đồ Sảng tiếp tục đãng trình khi chiều sắp buông, thì đến sông Chương Hà. Bên kia sông chính là địa phận của tình Hà Bắc.
    May thay, chàng sang kịp chuyến đò ngang cuối cùng, phi ngựa hướng về phía Từ Thành, cách bờ Bấc độ vài dặm. Do thành này nằm khá gần sông nên bến đò chẳng có quán xá nào ra hồn cả. Thường thì thương lái và lữ khách đểu ghé Từ Thành mà nghỉ ngơi cho an toàn và đầy đủ tiện nghi. Đám đệ tử Hắc Hiệp Hội ở An Dương đã chỉ dẫn cho Tư Đồ Sảng như thế.
    Đoạn đường đi đến Thành Từ rất vắng vẻ, hai bên là gò đỗi lổn nhổn, cây cối um tùm. Vùng đất này nầm ở chân cao nguyên sơn tây nên khá cằn cỗi, nhiều sỏi đá.
    Tư Đồ Sảng chậm rãi cho ngựa đi nước kiệu để có thể chiêm ngưỡng rặng Thái Hoàng Sơn hùng vĩ ở hướng Tây. Mặt trời mùa đông yếu ớt gửi gấm những tia nắng nhợt nhạt cuối cùng lên những đám mây trắng đang lững lờ trên viền đinh núi.
    Tư Đồ Sảng không vội nên bị những người khách đồng hành vượt qua. Họ là năm kỵ sĩ, gồm bốn hán tử trung niên mang đao và một chàng công tử tuổi độ mười chín đôi mươi, vai đeo kiếm. Chàng trai ấy có dáng người tầm thước, mặt hơi khô nhưng ánh mắt đầy vẻ uy nghiêm.
    Cả bốn gã hán tử theo hầu cũng có diện mạo lạnh như tiền, mắt thường liếc nhanh với vẻ dò xét, nghi ngờ. Tư Đồ Sảng thấy vậy không thèm lưu ý đến nữa.
    Lúc lên bờ, năm thớt ngựa lập tức phi nước đại như đang có chuyện cấp bách vậy. Phải chăng họ mang theo quá nhiều vàng bạc nên sợ cường đạo? Giờ này đò ngang ngưng hoạt động nên cả hai hướng Bắc Nam chẳng có ai đi tới cả. Con đường trở nên tịch mịch và đáng ngại.
    Tuy đang say sưa với cảnh hoàng hôn buông trên núi Thái Hoàng nhưng đôi tai thính nhạy của Tư Đồ Sảng vẫn nghe được tiếng thép chạm nhau cũng như tiếng người quát tháo. Chàng hiểu ngay rằng năm ky sĩ ấy đã gặp phục binh.
    Dù không biết họ là ai, Tư Đồ Sảng vẫn ra roi phóng như bay về phía trước để tương trợ. Chàng công tử kia còn quá trẻ, không thể là ác nhân được.
    Túi da hươu được thiết kế rất khéo, Tư Đồ Sảng thọc tay vào là nắm được chuôi Giáng Ma Phủ. Và chì thêm hai động tác nữa là cán búa vươn dài và mũi đoản kiếm ló ra.
    Khi đến chiến địa, Tư Đồ Sảng phát hiện năm vị khách đồng thuyền đang bị vây chặt bởi một đội hắc y nhân bịt mặt đông đến ba bốn chục. Năm chiếc áo lông cừu trắng muốt của họ có chỗ bị nhuộm hồng bởi máu tưới. Tuy họ còn đứng vững, sát cánh nhau mà chiến đấu. Song chắc chẳng còn cầm cự được bao lâu nữa. Đối thủ của họ vừa đông lại vừa tinh nhuệ, đao pháp lão luyện, tiến thoái nhịp nhàng.
    Trước lực lượng mai phục hùng hậu ấy, Tư Đồ Sảng tự lượng không thể cứu cả năm nạn nhân, đành chọn hạ sách là cứu một mình chàng công tử. Những tính toán này xẩy ra trong chớp mắt và Tư Đồ Sảng nhảy xuống đất, vỗ thật mạnh vào mông tuấn mã. Đấy chính là mệnh lệnh bảo nó đi trước. Con ngựa già rất hiểu ý chủ nhân, men theo vạt đất cạnh đường quan đạo mà vượt qua trận địa. Ngựa không người cưỡi nên bọn hắc y nhân chẳng chặn lại làm gì.
    Phần Tư Đồ Sảng quát vang như sấm rồi đánh thốc vào hàng ngũ bọn áo đen, cố mở đường máu để tiến vào rốn trận mà cứu người.
    Tiếng quát của chàng mang tác dụng làm phấn khích tinh thần năm kẻ đang bị vây hãm chứ thực ra không có lợi về mặt đấu pháp. Thường thì, khi xuất thủ các võ sĩ luôn ngậm miệng như thóc để chân khí không bị đứt đoạn.
    Nguyên nhân là vì Nhâm Mạch tận cùng bằng huyệt Thừa Tương ( là chỗ lõm ở giữa và dưới môi dưới ) còn Đấc Mạch thi chấm dứt ở huyệt Ngôn Giao ( ở giữa kẽ môi trên và chân lợi răng cửa ). Do đó, khi lưu chuyển chân khí các võ sĩ luôn luôn phải ngậm miệng đặt đầu lưỡi vào chân răng cứa hàm trên để nối liền hai mạch Nhâm Đốc.
    Nghĩa là, sau khi quát tháo, Tư Đồ Sảng phải mau chóng khép môi, đặt lưỡi vào vị trí cũ Chàng múa tít thanh Giáng Ma Phủ tạo thành màn lưới thép chết chóc quanh thân và lao đi.
    Vài tên hắc y nhân đã sớm quay lại vung đạo ngăn cản kẻ mới đến. Chúng hung hãn công phá màn phủ ảnh đen mờ, cho rằng tiểu tử mặt trắng kia chẳng có gì đáng sợ.
    Nhưng chúng đã lầm, cây búa thép nặng hai chục cân đã được cánh tay dũng mãnh của Tư Đồ Sảng biến thành ngàn cân, dễ dàng chặt gẫy những thanh đao ốm yếu và liếm vào cơ thể kẻ cầm đao.
    Tiếng rên la thảm khốc vang dội chiều đông và máu hồng vương vãi theo bước tiến của chàng trai áo cừu đen, thanh Giáng Ma Phủ liên tục quét những đòn sấm sét hoặc âm thầm thọc những nhát chết người, trong phút chốc đã đả thương mười mấy gã hắc y nhân. Chính Tư Đồ Sảng cũng ngạc nhiên khi nhận ra đường búa của mình nhanh và mạnh mẽ hơn lúc trước. Phải chăng Khô Mộc Thần Công đã mang lại kỳ tích này, dù chàng chỉ mới qua được lớp đầu tiên.
    Chẳng có thời gian để suy nghĩ thêm, Tư Đồ Sảng xuất chiêu Thần Phủ Khai Lâm, đánh văng hai gã hắc y trước mặt rồi đề khí tung mình lên cao, nhảy xuống trung tâm vòng vây.
    Chàng đến nơi rất đúng lúc vì bốn gã hộ vệ trung niên đều đã kiệt sức vì mất máu, đưa tấm thân huyết nhục ra đỡ đòn cho chủ nhân.
    Tư Đồ Sảng giận dữ lao đến bên chàng trai trẻ, quét văng bọn hắc y chung quanh rồi vươn tả thủ kẹp chàng trai vào hông trái.
    Nạn nhân đang sợ chết khiếp nên theo bản năng sinh tồn mà bám chặt lấy chàng, chẳng khác một đứa bé đòi mẹ.
    Tuy phải vướng víu thêm trọng lượng của một người mà Tư Đồ Sảng vẫn kiêu dũng như thiên tướng. Chàng vươn dài Giáng Ma Phủ, di chuyển theo lối xoay tròn để bảo vệ hậu tâm, hóa thành chiếc chong chóng thép nghiến nát xương cốt những kẻ chặn đường.
    Sức công phá mãnh liệt của Giáng Ma Phủ và thủ pháp giết người mau lẹ, hữu hiệu của Tư Đồ Sảng đã phá vỡ vòng vây của bọn hắc y. Chàng lao vút về hướng Bắc với tốc độ của một con tuấn mã.
    Gần hai chục tên hắc y còn sống sót vội đuổi theo nhưng không sao bắt kịp, được hơn dặm thì bỏ cuộc vì kiệt lực.
    Tư Đồ Sảng cũng mệt lả nhưng may thay tuấn mã đã chờ sẵn đứng gặm cỏ bên đường. Chàng đặt nạn nhân lên lưng ngựa còn mình thì thi triển khinh công mà chạy bên cạnh. Hơn nửa khắc sau, họ đến Từ Thành.
    Từ Thành nằm trên đường quan đạo Bắc Nam, lại là nơi nghỉ chân của khách vượt sông Chương Hà, nên rất sầm uất, phồn thịnh. Do vậy, lượng quan quân ở đây cũng khá đông để duy trì an ninh trật tự. Nghĩa là, khi đã vào được trong thành thì Tư Đồ Sảng khôngc òn phái sợ bọn hắc y truy đuổi nữa.
    Chàng ghé ngang khách sạn đầu tiên gần cứa nam, có tên Chương Hà đại lữ điếm. Lão chưởng quỷ nhìn thân hình nhuộm máu trên tay Tư Đồ Sảng với ánh mắt ái ngại. Nhưng khi nghe chàng hói:
    - Lư hương trên bàn thờ Quan Đế thường thắp ba nén nhang sao túc hạ lại thiếu mất ba?
    Lão tươi cười:
    - Thế trong Thất Tinh Bắc Đẩu thì tôn giá thích sao nào?
    Tư Đồ Sảng đáp:
    - Thiên Toàn!
    Lão chướng quỷ lập tức vòng tay thi lễ:
    - Thuộc hạ là Mã Nhật Linh, phân hội chủ phân hội Từ Thành, xin bái kiến tuần sứ.
    Tư Đồ Sảng nói mau:
    - Ta cần một phòng tốt, nước nóng và vải sạch sẽ để băng bó cho vị bằng hữu này.
    Mã lão vội ra lệnh cho gã tiểu nhị chuẩn bị những thứ chàng cần, còn mình thì đích thân đưa thượng cấp đến một phòng ở góc Đông Nam. Lão loay hoay mở cửa và nói:
    - Tuần sứ cứ yên tâm! Dãy phòng này không có ai ở trọ nên rất yên tĩnh.
    Tư Đồ Sảng đặt chàng trai trẻ tội nghiệp kia lên giường và nhanh tay lột bỏ y phục. Gã đã mê man từ lúc sắp qua cửa Từ Thành vì mất máu quá nhiều.
    Tư Đồ Sảng nhận ra nạn nhân bị trúng hai đao ở vai trái và ngực phải nhưng phủ tạng vẫn nguyên vẹn.
    Trước tiên, chàng cho gã uống những viên linh đan mà Lăng Phi Tuyết đã bào chế. Sau đó, thò tay xuống dưới thắt lưng, truyền công lực qua mệnh môn để bảo vệ nguyên khí và thúc đẩy tim phổi một bệnh hoạt động điều hòa.
    Lát sau, nước sôi và vải sạch được mang lên. Tư Đồ Sảng lau hết những vệt máu quanh vết thương, rắc thuốc kim sang vào rồi băng chặt lại. Chàng thầm cảm ơn ái thê đã chuẩn bị cho chàng rất chu đáo.
    Hết việc, Tư Đồ Sảng đi tắm, thay y phục rồi thưởng thức mâm cơm thịnh soạn mà Mã chưởng quỷ đã tự tay bưng lên. Để lão ta hoàn toàn tín nhiệm, ăn xong, chàng lấy tấm lệnh bài tuần sứ bằng đồng đen đưa cho lão xem.
    Là phân hội chủ thường xuyên tiếp các vị tuần sứ từ tổng hội đến nên Mã Nhật Linh chẳng lạ lẫm gì, chỉ nhìn thoáng cũng biết thực giả. Lão xua tay vui vẻ nói:
    - Tuần sứ bất tất phải làm thế! Thuộc hạ tuyệt đối chẳng dám nghi ngờ!
    Tư Đồ Sảng mỉm cười:
    - Đấy là quy củ của bổn hội, ta không thể bỏ qua được!
    Mã lão tủm tỉm nói:
    - Nếu là người khác thì thuộc hạ đã hỏi ngay từ lúc nhận mật khẩu. Nhưng tuần sứ lại có dung mạo cực kỳ trung hậu, quang minh, nên thuộc hạ tin ngay. à! Dám hỏi tuần sứ đã gặp bọn cường địch nào vậy!
    Tư Đồ Sảng nhấp hớp trà rỗi kể sự việc cứu người. Mã Nhật Linh nhíu đôi mày rậm bàn rằng:
    - Theo thiển ý của thuộc hạ thì bọn hắc y sẽ không bỏ cuộc và tiếp tục tồ chức trận địa mai phục ở ngoại thành phía bắc. Mong tuần sứ hãy cẩn trọng.
    Lão bỗng thở dài, áy náy:
    - Tiếc rằng đệ tử bồn hội ở Từ 'Thành chỉ có mười người võ nghệ kém cỏi chẳng thể giúp gì được cho tuần sứ. Riêng thuộc hạ tuy bất tài cũng liều mình xách đao theo tuần sứ vào chốn hiểm nguy.
    Tư Đồ Sảng nghiêm nghị bác bỏ:
    - Đây là việc riêng của ta, chẳng liên quan gì đến bổn hội cả. Chờ chàng trai kia bệnh phục ta sẽ đưa gã đi ngay. Mã lão chớ băn khoăn làm gì.
    Mã chường quỷ mừng hùm, xin phép cáo từ, bưng mâm chén đĩa ra ngoài. Tư Đồ Sậng suy nghĩ một lúc rồi tĩnh tóa luyện công, đến tận cuối canh hai mới ngả lưng. Mờ sáng, chàng thức giấc vì những động tác cựa quậy của bệnh nhân nằm bên cạnh, liền ngồi dậy. Chàng trai mớ mắt nhìn chàng với vẻ tri ân và mệt mỏi bảo:
    - Bổn... tại hạ là Chu Tam xin cảm tạ ơn cứu mạng của các hạ. Chẳng hay quý tính đại danh của các hạ là gì?
    Tư Đồ Sảng điềm đạm đáp:.
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng! Dám hỏi vì sao Chu các hạ lại bị đám hắc y nhân kia phục đánh?
    Chu Tam không vội đáp mà hỏi
    - Thế bốn vệ sĩ của ta sống chết thế nào rồi?
    Tư Đồ Sảng ngập ngừng:
    - Có lẽ họ khó mà toàn mạng. Lúc tại hạ đến nơi thì cả bốn người ấy đều đã trọng thương, trúng liền mấy nhát đao.
    Chu Tam lộ vẻ buồn rầu:

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Tội nghiệp cho Đường Sơn Tứ Hổ!
    Gã lặng người đau xót một lức rồinói tiếp::
    - Tại hạ lâ con thứ ba của một nhà đại phú đất Bắc Kinh. Do tại hạ được gia phụ yêu thương nên bị các anh đem lòng oán hận. Họ sợ được thừa kế gia sản nên đã mướn người chặn. đường ám hại.
    Gã dừng lại lấy hơi và kể lể:
    - Tại hạ đi Trịnh Châu dự đám tang của sư phụ trở về, không ngờ vừa qua sông Chương Hà đã gặp phục binh. Đường về quá xa, e rằng phía trước còn nhiều bẫy rập.
    Nói đến đây, Chu Tam nắm cánh tay Tư Đồ Sảng mà khẩn cầu:
    - Giúp người thì giúp cho trót! Mong các hạ hộ tống ta về kinh, ơn này ta xin hậu tạ ngàn vàng!
    Thấy chàng không nói gì gã vội đính chính:
    - Ngàn vàng chi là lời nói sáo, dẫu vạn lượng hoàng kim ta cũng sẵn sàng trả đủ.
    Tư Đồ Sảng thấy vẻ sợ hãi của y mà tội nghiệp. Chàng tủm tỉm bảo:
    - Tại hạ tuy xuất thân thanh bạch nhưng lại lấy được vợ giàu sang, trong người lúc nào cũng có một, hai vạn lượng, nên nghe đến vàng bạc là chán ngán. Hơn nữa, cũng đang có việc phải lên miền Bắc, nhân tiện sẽ đưa các hạ về nhà, chẳng cần thù lao.
    °
    °
    Bốn hôm sau, lúc vầng dương vừa le lói dưới những đám mây xám xit đằng đông, có hai kỵ sĩ hòa cùng đoàn thương lái mà rời cửa Bắc Thành Từ. Họ là hai hán tử trung niên mặc đạo bào Thiên Sư Giáo, mặt nhẵn nhụi không râu, nên ai cũng thấy rõ rằng một người bị rỗ hoá còn người kia có cái mũi lân đỏ ửng.
    Hôm qua, hai vị đạo sĩ này đã đi vào Thành Từ bằng lối cửa Bắc nên giờ đây đi ra cũng là hợp lý, chẳng hề khiến những gã lạ mặt đang quanh quẩn nơi cửa thành sinh lòng ngờ vực. Mặc dù, hai đạo sĩ kia một cao, một thấp rất giống những kẻ mà họ đang tìm kiếm.
    Kế kim tiền thoát xác của Tư Đồ Sảng rất đơn gián nhưng hữu hiệu, nhờ hai tấm mặt nạ của Tây Môn Giới tặng.
    Đệ tử Hắc Hiệp Hội đất Từ Thành tuy kém phần võ nghệ công lại thừa tài đạo chích. Họ đã đột nhập đạo quán ở cách Từ Thành hơn chục dặm, về hướng Bắc, ăn trộm mũ áo, kiếm phất trần, rồi mang mặt nạ đi vào thành. Cho nên sáng nay phe đối phương bị 1ừa vì tưởng là hai người hôm qua.
    Thuốc kim sang và linh đan của Lăng phi Tuyết rất thần hiệu, đã giúp Chu Tam bình phục, có thể cưỡi ngựa bôn hành.
    Bọn hắc y nhân kín bốn cổng thành, nhất là cửa Bắc, nếu qua mặt được chúng thì những chặng mai phục phía trước sẽ không phát động. Nhờ thế mà Tư Đồ Sảng và Chu Tam an toàn đến được thành Bảo Định, sau mười ngày đường vất vả.
    Thành Bảo Định nam ở khu trung tâm tỉnh Hà Bắc, phía đông gần đầm Bạch Dương, phía Tây có núi Thái Hoàng Sơn, nam và bắc là vùng đồng bằng rộng lớn phì nhiêu Ký Trung.
    Vào thời Ân Thương, tổ tiên của người Trung Hoa đã từng sinh sống ở vùng này. Thời Xuân Thu Chiến Quốc, Bảo Định là lãnh thổ của nước Yên. Những năm đầu thời Tây Hán, địa phương này chỉ là một huyện, nhưng đến thời nhà Minh thì trở thành cấp phủ.
    Trong và ngoài thành có đến mười hai con sông lớn nhỏ và nổi tiếng nhất chính là sông Dịch Thủy, gắn liền với chàng tráng sĩ Kinh Khá. Dịch Thúy phát nguyên từ rặng Thái Hoàng Sơn, chảy về hướng đông rồi đổ vào đầm Bạch Dương. Dòng sông này nằm ở phía bắc thành Bảo Định, cách chừng ít dặm.
    Nhưng giờ đây, Tư Đồ Sảng và Chu Tam vẫn còn trong thành Bảo Định nên chúng ta tạm gác câu chuyện sông Dịch hồi sau sẽ nhắc lại.
    Bảo Định là một thành lớn có lịch sứ lâu đời đất đai quanh vùng mầu mỡ nên lê dân khá sung túc. Đồng bằng Ký Trung chính là vựa lương thực lớn nhất Hoa Bắc, sán xuất được nhiều loại nông sản như tiểu mạch, ngô, lạc, bông vải và các giống đậu. Ngoài ra còn có các đặc sản nổi tiếng toàn quốc như táo phụ bình, đào tươi thuận bình, hạnh đào lai nguyên... người Bảo Định còn khai thác được các khoáng sản như than, sắt, đồng, đá vôi mẫu, đá hoa cương... ở rặng Thái Hoàng Sơn phía Tây.
    Do điều kiện địa lý, kinh tế thuận lợi như thế nên số người giàu sang ớ Bảo Định khá đông. Kẻ giàu thì luôn sợ mất của, mất mạng, cho nên, họ tập trung trong thành. Xây dựng những căngười nhà thật tráng lệ và đồ sộ. Vài cơ ngơi rộng đến mức có cả vườn rừng, nổi tiếng thiên hạ về mặt thẩm mỹ.
    Nhưng, như cụ Tố Như đã viết: “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ!”.Tư Đồ Sảng đang nẫu ruột vì Mạc Chiêu Hương nên thờ ơ trước những cảnh đẹp trong thành Bâo Định. Chàng đưa Chu Tam vào thẳng một phạn điếm để dùng cơm trưa.
    Thiên Sư Giáo không cấm ăn mặn nên hai vị đạo sĩ giả hiệu có thể thản nhiên gọi rượu thịt. Tuy Chu Tam bảo rằng nhà gã giàu nhất Bắc Kinh song hiện nay vì túi chẳng còn một đồng trinh. Tay nải của gã đã mất khi gặp mai phục. Rõ ràng là gã không có kinh nghiệm giang hồ nên mới treo tay nải vào khấu yên ngựa. Kẻ lão luyện lúc nào cũng đeo túi hành lý nơi vai để đề phòng bất trắc.
    May cho Chu Tam là Tư Đồ Sảng đem theo nhiều vàng bạc và chẳng hề bủn xỉn. Chàng bảo tiểu nhị dọn lên những món ngon nhất, đất nhất, cả rượu cũng vậy. Do đó, chàng công tử kén ăn Chu Tam rất hài lòng.
    Sau mười ngày đồng hành, được ân nhàn đối xử rất tử tế, Chu Tam càng bội phần yêu mến, vui vẻ gọi Tư Đồ Sảng là đại ca, không còn xưng tại hạ nữa.
    Tư Đồ Sảng tuy không muốn vành cạnh người quyền quý nhưng cũng gọi gã là hiền đệ. Và chàng thực lòng thương yêu gã trai trẻ họ Chu và gã thông minh và điềm đạm. Chu Tam còn tỏ ra là kẻ sính văn chương, mỗi lúc cao hứng thường ngâm thơ cho chàng nghe.
    Gã có lối dò hỏi rất khéo nên đã moi được tâm sự của Tư Đồ Sảng, hiểu sơ cuộc đời chàng. Gã cũng biết Tư Đồ Sảng là người khí tiết, thi ân bất cần báo, vì không màng danh lợi.
    Dùng cơm xong, Tư Đồ Sảng thưởng rất hậu cho tiểu nhị, gửi hai con tuấn mã, rồi rủ Chu Tam đi dạo phố.
    Họ Chu không được tiết lộ điều gì về Hắc Hiệp Hội, chỉ biết Tư Đồ Sảng có người quen ở khắp nơi, và chàng tìm đến họ để hỏi thăm tung tích Mạc Chiêu Hương, người vợ đã giận chồng mà bỏ đi. Tất nhiên Tư Đồ Sảng phải nói thế chứ không thể kể rõ ẩn tình được.
    Các thành trì của Trung Hoa đều có lối xây dựng và bố cục tương tự nhau, đường sá luôn xây theo hướng Bắc Nam, Đông Tây, chia khu dân cư ra thành những ô như bàn cờ vậy!
    Các đường ấy đều lấy hai phố chính nối hai cặp cổng thành làm trục. Đường nhánh có thể hơi lệch nhưng phố chính luôn thẳng tắp, có gặp sông suối thì bắc cầu mà vượt qua.
    Những cây cầu trong thành Bảo Định được làm bằng đá hoặc gỗ song đều rất đẹp, góp phần xứng đáng trong phong cảnh chung tuyệt vời.
    Tư Đồ Sảng âm thầm quan sát bảng hiệu các quán xá, tìm ám ký của Hắc Hiệp Hội. Chàng chỉ thố lộ với Chu Tam những điều thuộc về riêng mình, như xuất thân, gia cảnh và giữ kín mối quan hệ với Hắc Hiếp Hội. Tổ chức này quy tụ toàn bọn đạo chích, đạo tặc, chuyên viếng thăm nhà bọn trọc phú và tham quan tất chẳng hợp khẩu vị với triều đình.
    Nếu Chu Tam biết được sự hiện diện của một Hắc Hiệp Hội và sau này lỡ miệng nói ra thì rất bất lợi. Nhà gã giàu có, lại ở Bắc Kinh nên chắc chắc có mối thâm giao với bọn quan lại. Giới thương nhân Trung Hoa rất giỏi nghề tìm kiếm ô dù để che chở cho việc kinh doanh của mình.
    Khi đã phát hiên ra ám ký trên những chiêu bài của một kỹ viện lớn, mang tên Mẫu Đơn Viện. Tư Đồ Sảng vẫn tiếp tục đi thêm vài chục trượn mới dừng chân. Chàng bảo Chu Tam:
    - Chu hiền đệ! Đêm nay chúng ta sẽ nghỉ lại ở đây.
    Họ Chu hớn hở tán thành:
    - Đại ca bàn rất phải! Tiểu đệ nghe xương cốt mỏi nhừ, chẳng hề muốn lên đường ngay lúc này.
    Hai ngươi quay lại phạn điếm lấy ngựa rồi tìm lữ quán mà trọ. Chu Tam có vẻ thông thạo địa thế Bảo Định, mau mắn dẫn Tư Đồ Sảng đến Vọng Trì đại khách sạn ở giữa thành.
    Tòa lữ điếm này rất lớn và đồ sộ, lại có một vị trí cực kỳ thuận lợi. Nó nằm ngay cạnh Bảo Định trì nước trong xanh, quanh bờ liễu rủ tơ mành, phong cảnh hữu tình và diễm lệ, ao Bảo Định đã có từ thời nhà Đường, là một trong những danh thắng nổi tiếng nhất Hoa Bắc.
    Chung quanh chiếc ao cổ này là một vườn hoa ìớn, và có cả những hàng cây cổ thụ, khiến nơi đây xa xa, trông như một vạt rừng nhỏ xanh tươi và râm mát.
    Để khách có thể ngắm nhìn phong cảnh, Vọng Trì đại lữ điếm đã phải cách tân phông cách kiến trúc thông thường, cho xây cả một tòa lâu các bốn tầng. Tầng chót chính là phòng ăn, có đầy đủ rượu ngon thức nhắm, và qua những khung cửa rộng thênh thang, người ta tha hồ chiêm ngưỡng vẻ đẹp của Bảo Định trì cũng như vườn rừng quanh nó.
    Nhận phòng và tắm gội xong, Chu Tam rủ Tư Đồ Sảng lên tầng chót ngắm cảnh, uống rượu. Sáng nay, tuyết bắt đầu rơi lất phất và chỉ vài ngày nữa sẽ phủ trắng vạn vật, chẳng còn gì để xem cả.
    Vọng Trì đại khách sạn nằm ở mạn bắc ao Bảo Định, quay mặt về hướng Nam. Và sau lưng nó được những hàng tùng bách cao vút chở che trước ngọn gió đông lạnh lẽo. Nhờ thế mà các cửa ba hướng đông, tây, nam vẫn còn có thể mở toang. Tất nhiên, khách không thể thiếu những lò than hồng đỏ rực và những tấm áo ngự hàn.
    Cho rằng bọn sát thủ đã bị đánh lừa, vì Bảo Định là nơi rất an toàn, nên Tư Đồ Sâng và Chu Tam đa lột bỏ áo đạo sĩ trước khi vào thành Bảo Định. Tuy nhiên họ vẫn mang mặt nạ như cũ.
    Thực ra, y phục không quan trọng vì áo choàng lông đã che kín áo trong. Đạo sĩ hay tục sĩ thì cũng như nhau.
    Thấy Tư Đồ Sảng đi nhậu mà mang theo cả túi da đựng Giáng Ma Phủ, Chu Tam bật cười:
    - Đại ca suốt ngày đeo mãi cục sắt nặng nề ấy mà không chán ư? Vả lại, nơi dây làm gì có kẻ địch?
    Tư Đồ Sảng cười đáp:
    - Không có kẻ thù nhưng chẳng thiếu kẻ trộm. Ta sợ chúng lấy mất vật tổ truyền của bên ngoại. Hơn nữa, Giáng Ma Phủ còn tượng trưng cho tiên mẫu, ta chẳng hề muốn xa lìa.
    Hai người thượng lâu, vừa nhâm nhỉ vừa ngắm cảnh tuyết rơi trên sóng nước Bảo Định trì.
    Hết vò rượu Chu Tam ngà say, nhìn ân nhân với ánh mắt thiết tha và nói:
    - Tư Đồ đại ca! Sau này khi báo xong gia thù, mong đại ca đưa cả gia quyến đến Bắc Kinh mà ở để tiểu đệ được sớm hôm gần gũi. Nếu đại ca muốn làm quan thì cũng chẳng khó. Đại ca cứ giật lấy ngôi võ trạng nguyên, sau đó, tiểu đệ sẽ nhờ quan Binh Bộ Thượng Thư tiến cử với Thánh Thượng, xin một chức tổng binh.
    Tứ Đồ Sảng hờ hững lắc đầu:
    - Hảo ý của Chu đệ ta xin tâm lĩnh. Sảng này xuất thân chốn sơn dã, lòng thanh bạch không màng danh.lơi.
    Chu Tam phật ý bảo:
    - Đại ca thần dũng tuyệt luân, võ nghệ siêu phàm, sao không nghĩ đến việc đem tài ra phò vua giúp nước? Nay quân Mông Cổ ngày đêm uy hiếp biên thùy. Ai cũng nghĩ như đại ca thì sơn hà nguy mất.
    Tư Đồ Sảng thản nhiên cười đáp:
    - Ta không thông binh pháp. Làm tướng chỉ tổ thiệt quân. Bằng như ta vượt trường thành ám sát tên đại tướng của Mông Cổ thì chúng cũng có người khác để thay. Cương thổ vững bền hay không là tùy vào đức độ và sự sáng suốt của thiên tử, sự liêm khiết, tài cai trị của bá quan. Nay nhà vua hôn ám, nghe lời bọn thái giám và nịnh thần, để cho quan lại khắp nước tham ô, nhũng nhiễu, hút máu lê dân, đấy chính là điều mất nước.
    Chu Tam choáng váng trước lập luận của Tư Đồ Sáng. Gã chưa kịp tranh cãi thì chàng đã nói tiếp:
    - Cô Chưởng Nan Minh. Ta có đầu quân cũng chẳng xoay chuyển được vận nước, đành chịu tiếng bất trung để lo chuyện riêng. Nhưng ngày nào Vạn Lý TrườngThành không còn đứng vững, ta sẽ đem xác mình ngăn vó ngựa quân thù.
    Câu nói ngời ngời chính khí rạng rỡ tinh thần trung liệt, ái quốc của Tư Đồ Sảng đã chinh phục được Chu Tam. Gã chợt hiểu rằng Trung Hoa đầy dẫy nhân tài nhưng không cường thịnh được cũng là vì sự hủ bại của triều đình nhà Minh. Đấy cũng là lý do khiến một nước lớn, dân công, văn hóa rực rỡ lại thua một nước nhỏ vã man rợ như Mông Cổ. Trong khi ấy,.An Nam đã ba lần đánh bại quân Mông, giữ vững được độc lập.
    Chu Tam rầu rĩ thở dài, uống hết ba chung và khề khà nói:
    - Chí hướng của đại ca đã như thế thì e rằng chúng ta không cơ hội sum họp và tiểu đệ cũng chẳng thể báo ân. Thôi thì, cứ xem như đây là buổi tiệc chia tay, tiểu đệ xin tặng đại ca một bài thơ.
    Gã hắng giọng ngâm lớn, chẳng cần giữ ý tứ như lúc nãy.
    Tuyết trinh vân tán bắc phong hoa hàn
    Sở thủy ngô đạo lộ nan,
    Kim nhật tống quân tu tận túy
    Minh triêu tương ức lộ man man.
    Dịch thơ:
    Lạnh lùng gió bấc tuyết mây tan
    Nước sở non ngô mấy dặm ngàn
    Còn bữa này thôi say túy lúy
    Mây đây đôi ngả nhớ đôi đàng.
    Giọng họ Chu trong trẻo, thanh tao trẻ trung, khác hẳn với gương mặt của tuổi bốn mươi. Điều này đã khiến tửu khách lấy làm lạ, chăm chú nhìn gã. Và có một lão nhân râu ngắn, áo cừu đen, đang ngồi ở gốc tây nam đứng lên, chậm rãi tiến vế phía cầu thang gỗ ở giữa tầng lầu, cách Tư Đồ Sảng khoảng hai trượng rưỡi.
    Bàn của chàng và Chu Tam nằm gần cửa sổ hướng Nam. Chàng ngồi nhìn sang Tây còn họ Chu thi ngược lại. Do vậy, Tư Đồ Sảng có thể thấy lão nhân râu ngắn.. Lúc đầu, chàng hoàn toàn không lưu ý, chi nhìn thoáng rồi quay đi ngắm cánh.
    Nhưng gương mặt của lão ta có một đặc điểm làm xôn xao tiềm thức của Tư Đồ Sảng. Chàng thoáng giật mình, vận khí đề phòng và tính toán rất nhanh. Tuy không quay hắn lại nhưng khóe mắt chàng vẫn giám sát chặt chẽ mọi cử chỉ của kẻ đáng ngờ nọ.
    Quả nhiên, khi vừa đến đầu cầu thang, lão nhân áo cừu đen bất ngờ lao vút đến và song thủ phóng liến sáu mũi phi đao vào người Chu Tam.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tư Đồ Sảng đã sớm có đối sách, lập tức hất nghiêng chiếc bàn gỗ nặng nề về phía đối phương, hứng lấy những mũi đao oan nghiệt. Dĩ nhiên, cơm canh rượu thịt cũng bay theo, đổ đầy người hung thủ.
    Sau đó, Tư Đồ Sảng vươn tay túm lấy Chu Tam, nhấc bổng lên và nhảy qua cửa sổ ra ngoài lan can. Nhưng chàng không đào tẩu bằng cách chạy dọc lan can mà lại tiếp tục nhảy xuống đất.
    Sợ Chu Tam thọ thương bởi độ cao quá lớn, Tư Đồ Sảng thò tả thủ chụp lấy thành lan can tầng ba rồi tầng hai để hãm đà rơi. Nhờ vậy, họ tiếp đất rất nhẹ nhàng.
    Tư Đồ Sảng mang họ Chu vào cửa chính của tầng trệt và nói nhanh:
    - Mau chạy xuống chuồng ngựa và tùy cơ mà đào tẩu.
    Chu Tam đã bình phục hẳn nhưng không có kiếm trong tay, ở lại chỉ vướng víu Tư Đồ Sảng, nên đành nghe lời chàng.
    Lão nhân áo cứu đen đã xuống đến nơi, tay lăm lăm một thanh đao sắc quắc. Đao này có lẽ được kẻ khác đưa cho, hoặc lúc nãy giấu dưới áo lông cừu.
    Lão ta hung hãn xông vào vì đã nhìn thấy hai con mồi. Bọn sát thủ chuyên nghiệp thường hành sự rất tàn nhẫn và quyết liệt nên lão nhân nọ lập tức phóng liền ba mũi ám khí bằng tay tả. Sau đó, vung đao lao đến tấn công.
    Lão chắc mẩm rằng hai kẻ kia chẳng thể toàn mạng vì tay không tấc sắt. Nhưng Tư Đồ Sảng đã quay ngoắt lại, búa thép trong tay dệt nên màn lưới đen mờ, đánh bạt phi đao và chống đỡ đường đao mãnh liệt của đối phương.
    Chiêu Kiên Bích Đương Phong là chiêu phòng thủ vô cùng tuyệt diệu, phủ ảnh loang rộng hết tầm tay, dẫu mưa tên cũng không qua lọt. Và trọng lượng của cây búa đã tăng theo tốc độ nên đao của đối phương chạm vào đã lập tức bị văng ra. Tất nhiên người cầm đao cũng bị lực phản chấn đẩy lùi, cánh tay tê chồn.
    Lão nhân vô cùng bất ngờ trước khí lực kinh hồn của Thần Phủ Lang Quân. Lúc nghe thủ hạ về báo lại trận chiến khốc liệt ở bờ Bắc sông Chương Hà, lão ngờ ngợ đoán ra lai lịch của kẻ đã cứu Chu Tam. Nhưng không một tên hắc y nào có thể khẳng định hình dáng của thứ vũ khí mà chàng trai áo cừu đen đã sử dụng nên lão chẳng chắc có phải Thần Phủ Lang Quân hay ai khác.
    Giờ đây chạm trán lão mới biết thực hư và rủa thầm số mình đen như mõm chó. Lý Thu đã từng đả thương bang chủ của lão là Giáp Vô Yên thì lão làm sao địch lại! Lão chỉ là tứ hộ pháp của Hải Hoa Bang mà thôi.
    Thế nhưng ngoài lão ra còn có đại hộ pháp hiện diện chốn này, đang hượm sẵn ở sân trước. Do đó, tứ hộ pháp Hải Hoa Bang chẳng dại gì một mình đương cự với cường địch, nhanh chân tháo lùi. Lão tin rằng hai anh em lão liên thủ lại thì chẳng thể thua Thần Phủ Lang Quân được.
    Tư Đồ Sảng không biết điều ấy, lao theo sát nút, cố cầm chân lão áo cừu đen để Chu Tam đủ thời gian đào thoát.
    May thay, lão ta đã dừng chân, quay lại vì có thêm đồng đảng. Người mới xuất hiện này và lão có dung mạo khá giống nhau nhưng râu dài hơn một chút. Chắc họ là huynh đệ và cùng có chiếc mũi ưng cong khoằm, răng thì hơi thô.
    Tư Đồ Sảng than thầm, chỉ sợ phe địch còn thêm nhân thủ để truy đuổi Chu Tam, khác với dự án của chàng. Tư Đồ Sảng đã tính toán rằng giá phòng của Vọng Trì đại khách điếm đắt đến đau ruột nên đối phương chẳng thể kéo đàn, kéo lũ vào đây ở trọ. Riêng lão râu ngắn kia là thủ lĩnh nên mới học thói vương tôn.
    Chàng cũng thức ngộ rằng có thể kế kim tiền thoát xác của mình chưa bại lộ, do xui xẻo mà bị đối phương phát hiện. Chu Tam đang đóng vai một gã trung niên mặt rỗ thô kệch mà lại cất giọng non nớt ngâm thơ thì bị lộ là phải đạo.
    May mà trên gương mặt lão râu ngắn có ba nốt ruổi đen, khiến chàng liên tưởng đến Quỷ ảnh Hội nên đề cao cảnh giác và cứu được họ Chu.
    Lo lắng cũng vô ích, Tư Đồ Sảng nghiến răng xuất chiêu Hắc Vân Áp Định đề khí bốc cao, bủa lưới thép cuồng nộ xuống đầu lão nhân râu dài mới đến.
    Đã nghe bào đệ cảnh báo rằng đối phương chính là Thần Phủ Lang Quân nên lão đại hộ pháp chẳng dám khinh thường, vội nhảy lùi để tránh nhuệ khí của chiêu búa sấm sét.
    Tư Đồ Sảng hụt mục tiêu, vừa hạ thân đã phải chống đỡ chiêu đao của lão râu ngắn đến từ mé tả. Chàng liền xoay người đánh chiêu Đào Hoa Lưu Thủy, phủ ảnh cuồn cuộn như sóng dữ, lớp lớp vỗ vào màn đao quang của đối phương.
    Không ai mổ trâu bằng dao giết gà vì nó quá nhẹ. Bởi thế cho nên thanh đao của lão tứ hộ pháp Hải Hoa Bang bị lép vế trước cây Giáng Ma Phủ nặng nề. Khi va chạm, thanh bảo đao dội ra khiến đường đao lệch lạc, để lộ những sơ hở chết người. Và Tư Đồ Sảng đã không để lỡ thời cơ, thọc búa vào sườn trái kẻ thù.
    Nhưng đao của lão râu dài đã uy hiếp sau lưng, Tư Đồ Sảng đành phải bỏ mục tiêu trước mặt, đảo bộ né tránh. Do vậy lão tứ hộ pháp thoát chết chỉ bị gẫy hai nhánh sườn non. Máu chảy đầm đìa, lão ta vội điểm huyệt chỉ huyết, cố nén đau xông vào hỗ trợ bào huynh.
    Lúc này, Tư Đồ Sảng đã trao đổi với lão râu dài hai chiêu, hiểu rằng bản lãnh của lão cao hơn người kia đến hai ba bậc. Chàng chẳng dám sính cường, vội thi triển Trung Tinh Thân Pháp, hoán vị liên tục mà đối phó với hai cường địch.
    Pho khinh công này là tuyệt học của Táo Gia Cát. Bùi lão tinh thông Bát Quái, Ngũ Hành nên đã sáng tạo ra bộ pháp ảo diệu ấy. Tuy ông là sư phụ của Phi Hồng, song vẫn vui vẻ truyền thụ luôn cho Phi Tuyết. Hạo Thiên Cung chủ biết tuyệt kỹ này lợi hại phi thường nhưng vì tự ái mà không thèm học. Cả Lăng Khải Trạch cũng vậy!
    Hai ả họ Lăng đã rất đúng đắn khi dạy cho ý trung nhân pho Truy Tinh Bộ Pháp. Nó đã nâng cao bản lãnh của chàng và giờ đây giúp chàng đối phó với sự giáp công của hai cao thủ lão thành.
    Thân ảnh Tư Đồ Sảng chập chờn đảo lộn giữa hai luồng đao quang thoát hiểm trong gang tấc, khiến những người đứng xem phải toát mồ hôi và hoan hô nhiệt liệt. Toàn bộ khách trọ của lữ điếm đã ùa ra để xem trận đấu. Cả những người dạo phố ngang qua cũng ghé vào quan chiến.
    Bảo Định là thủ phủ của tỉnh Hà Bắc, có công đường của bố chính ty và doanh trại của quân triều đình, nên khi được gã tiểu nhị đến cấp báo, quan quân lập tức lên ngựa.
    Dọc đường, gã tiểu nhị Trần Lục đã tỷ tê kể lể với quan tổng binh rằng hai vị khách quý của gã bị hai lão cường đạo tấn công. Thực ra, hai lão nhân kia cũng là khách của Vọng Trì lữ điếm. Nhưng họ keo kiệt trong khi bọn Tư Đồ Sảng thì rất hào phóng. Gã chỉ mới đưa vị đại gia mũi lân đến phòng là đã được thưởng ngay thỏi bạc năm lượng. Một người giàu có và hào sảng như thế thì không thể xấu được!
    Quan tổng binh Chu Hải đinh ninh lời khai của Trần Lục là đúng nên khi đến nơi đã quát vang:
    - Hai lão cường đạo khốn kiếp kia mau bó tay chịu trói, bổn tướng đã cho đại quân vây chặt nơi này, dẫu con kiến cũng không chui lọt.
    Vị tổng binh này tuổi mới mười chín, đôi mươi, mặt mày non choẹt. Gã chẳng hề đậu kỳ thi võ nào nhưng nhờ là hoàng thân quốc thích nên được ban cho chức tổng binh ở một nơi yên bình và béo bở là thành Bảo Định này.
    Hai tháng trước, Chu Hải đã có lệnh điều ra quan ải. Gã sợ khiếp vía nên viết thư nhờ mẫu thân mang vàng đến hối lộ Binh Bộ Thượng Thư nên được ở lại
    Ba năm trấn nhậm Bảo Định, Chu tổng binh chưa hề được đánh trận nào, nay gặp dịp ra oai liền nói năng dài dòng như gã hát tuồng.
    Nào ngờ một lão cường đạo nhẩy lùi khỏi chiến địa rồi quát lại:
    - Chớ hồ đồ! Bọn ta là Cẩm Y Thị Vệ đang truy bắt trọng phạm của triều đình đây!
    Nói xong, lão ta tiếp tục tấn công kẻ địch là gã cầm búa. Chu tổng binh tái mặt khi nghe bốn chữ Cẩm Y Thị. Vệ Lực lượng này là thân binh của Thiên Tử, uy quyền rất lớn, chẳng ai dám đụng vào. Gã định hỏi thẻ bài thí vệ của lão ta nhưng lại thôi, cứ do dự bất quyết, chẳng biết phải làm sao. Chu Hải tự nhủ:
    - Thôi thì tiên bảo kỳ trân, cứ mặc xác hai phe, chẳng can chi ta phải nhúng tay vào. Tốt nhất là án binh bất động, chờ họ phân thắng bại rồi sẽ tính sau.
    Nghĩ vậy nên Chu tồng binh thản nhiên xem trận đấu, chỉ một lúc đã mê mẩn, hò reo theo đám đông, quên bẵng vai vế và bổn phận của mình.
    Họ Chu vô cùng thán phục hán tử cầm cây búa đen sì. Người này thần dũng tuyệt luân, một mình chống hai mà không bị hạ phong. Mỗi lần gã phản kích là phe đối phương phải tháo lui không sao trụ vững tấn trước đường búa ảo diệu và vũ bão.
    Nhng Chu Hải không biết rằng Tư Đồ Sảng đang cạn dần sức lực trước phép du đấu xảo quyệt của hai lão già Hải Hoa Bang. Sau hơn trăm chiêu chàng đã nhận ra lộ số đao pháp của họ.
    Tư Đồ Sảng thấy đối phong xưng là Cẩm Y Thị Vệ thì lòng hơi ngán ngại, không dám liều lĩnh đổi đòn. Chàng có thể giết được lão râu ngắn bất cứ lúc nào song sẽ thọ thương và khó thoát nổi sự vây hãm của quan quân. Bởi vậy, Tư Đồ Sảng cố nhẫn nhịn cầm cự chờ cơ hội tốt để đào tẩu.
    Dù mang bản chất bất khuất vô úy nhưng Tư Đồ Sảng đành chịu nhục bỏ chạy, giữ lấy mạng sống mà báo thù nhà. Song dường như hai hộ pháp Hải Hoa Bang cũng biết chủ ý của chàng nên bám sát mà tấn công quyết liệt, kẻ trước người sau phối hợp rất ăn ý, chặn đứt mọi sinh lộ.
    Trong lúc thế trận chưa ngã ngũ, gã tiểu nhị Trần Lục đã mon men đến bên ngài tổng binh trẻ tuổi, trao một mảnh giấy nhỏ. Chu Hải đọc xong, mặt tái mét, vội xuống ngựa đi theo Trần Lục vào phòng khách của khách sạn. Nhận ra dưng mạo của người ngồi trên tràng kỷ, Chu Hải vội đuổi gã tiểu nhị Họ Trần ra ngoài. Họ Chu cẩn thận gài chặt cửa lại rồi quỳ xuống:
    - Mạt tướng là Chu Hải khấu kiến Tam hoàng tứ.
    Thì ra là Chu Tam không nỡ thoát thân một mình, ở lại xem tình hình của Tư Đồ Sảng. Nhờ vậy mà gã nhìn thấy Chu Hải, đứa cháu họ đã cùng mình lớn lên ở Bắc Kinh, hoàn toàn có thể tin tưởng được.
    Chu Tam chính là con thứ ba của Gia Tĩnh hoàng đế tên gọi Chu Tải Hậu. Gã rất thông tuệ và đa tài nên được phụ hoàng yêu thương hơn hẳn anh trai là Nhị hoàng tử Chu Cát.
    Chính vì sợ cảnh phế trưởng lập thứ nên Chu Cát đã âm mưu sát hại em ruột. Cơ hội đã đến khi Chu Tải Hậu đi Trịnh Thành để dự đám tang thầy dạy võ là Quách thang giáo đầu.
    Không hiểu vì sao Nhị hoàng tử lại có quan hệ với Hải Hoa Bàng vâ nhờ họ ra tay.
    Trở lại cánh lúc nãy, chúng ta sẽ thấy Chu Tam xua tay nói với Chu tổng binh:
    - Miễn lễ! Miễn lễ! Ta với ngươi đã từng đánh nhau đến vỡ đầu, chẳng cần phải thủ lễ như thế, mau đến đây ngồi để cùng ta bàn bạc.
    Cứu nhân như cứu hỏa nên chỉ một loáng sau Chu Hải đã trở lại chiến địa, hạ giọng ra lệnh cho quân sĩ dưới trướng. Khi ai nấy đều đã rõ mục tiêu, Chu Hải hùng dũng quát vang:
    - Hỡi ba quân! Mau bằm xác hai lão già chết tiệt kia cho ta!
    Thế là hơn hai trăm quân giáo dài ùa vào đâm chém hai ngài Cẩm Y Thị Vệ giả hiệu. Giáo xuất xứ từ trường thương nhưng nhẹ và dễ sử dụng hơn nên được chọn làm thứ binh khí chính trong quân ngũ nhà Minh, cùng với đao. Khi đối phó với ky binh, giáo tỏ ra hữu hiệu hơn hẳn đao.
    Trong trường hợp hôm nay cũng thế những mũi giáo nhọn hoắt của bọn binh lính đã khiến hai lão hộ pháp Hải Hoa Bang phải lúng túng. Chẳng phải một mũi mà là hàng tá, tủa tủa tựa bàn chông, đâm vào mọi phương vị, từ chân đến mặt.
    Tuy thế, hai lão vẫn thừa sức đánh bại tất cả bằng những đường đao uy mãnh. Nhưng khổ thay họ còn có một kình địch là Tư Đồ Sảng nữa. Chàng đã không bỏ lỡ cơ hội, nhân lúc hai kẻ địch đang chống đỡ những ngọn giáo mà hạ thủ.
    Tư Đồ Sảng chọn lão nhân râu ngắn vì khoảng cách quá gần mà không có bọn lính ngăn cách họ. Chàng mím môi xông đến xuất chiêu Lực Phách Nga Mi, lưỡi búa giáng những đòn nặng tựa thái sơn vào màn đao ảnh quành người đối thủ. Lão ta đang thi triển một chiêu thủ cực kỳ kín đáo trong pho Cửu Huyền đao pháp.
    Những nhát chém kinh hồn của Giáng Ma Phủ đã đánh bật thanh đao và chặt đôi thân thể kẻ thù. Lão tứ hộ pháp rú lên ghê rợn vì cảm giác đau đớn vô biên làm cho lão kia bàng hoàng, chấn động.
    Cái chết thảm thiết của đứa con ruột thịt đã khiến ngài đại hộ pháp đau xót và căm hận vô vàn, điên cuồng đánh văng cây những giáo đang vây hãm mình rồi tung người về phía Thần Phủ Lang Quân, bủa đám mây thép xuống đầu chàng ta.
    Tư Đồ Sảng đã mấy phen lâm trận, kinh nghiệm chiến đấu phong phú hơn trước rất nhiều, nên chẳng dại gì mà tiếp chiêu đao cuồng nộ kia. Chàng chỉ khẽ xoay gót là đã rời xa vị trí hơn trượng, nhanh tựa vì sao đổi ngôi, và chàng mau chóng phản kích để chiếm tiên cơ. Chiêu Thần Phủ Khai Lâm đã khiến đối phương phải lùi bước.
    Nhưng sau lưng còn có nhữmg mũi giáo của quan quân đang rình rập nên lão ta phải đảo người, vung đao chống cự
    Tuy động tác của lão rất mau lẹ song vẫn là cơ hội tốt để đối phương khai thác. Tư Đồ Sảng ập vào như cơn lốc, búa thép bay lượn, chém những đòn thần tốc và dũng mãnh.
    Khi quay lại đón chiêu, lão râu dài đã chậm mất một nhịp, chỉ còn cách cắn răng loang đao chống đỡ.
    Nhưng thanh Giáng Ma Phủ đã bất ngờ rời khỏi tay Tư Đồ Sảng, xé toang màn đao quang, cắm vào bụng đối phương. Một lần nữa, chiêu Chuyên Chư Tể Ngưu đã phát huy diệu đụng. Trong thiên hạ, chẳng mấy người đủ công lực mà dùng đao hoặc kiếm để chặn được một khối thép nặng hai chục cân, đang bay với tốc độ của trường tiễn.
    Lão râu dài bị lực đạo mạnh mẽ kia đẩy ngã, tay ôm cán Giáng Ma Phủ, mắt trợn trừng trừng đầy nghi hoặc, dù đã chết toi.
    Tư Đồ Sảng mệt mỏi bước đến thu hồi vũ khí. Nghe mặt nhớp nhúa mồ hôi, chàng đưa tay lột bỏ mặt nạ, để lộ dung mạo anh tuấn, hiền lành, khiến mọi người kinh ngạc!

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hồi 9

    Lâm Biên Phóng Hương Hồ
    Trực Cô Hoan Tương Ngộ
    Ngay chiều hôm ấy, Chu Tam đã sang dinh tổng binh để ở với Chu Hải. Gã hẹn sáng mai sẽ đến rước Tư Đồ Sảng cùng đi Bắc Kinh, với sự hộ tống của ngàn quân giáp kỵ. Chu Tam vẫn giấu kỹ lai lịch, chỉ nói thác Chu Hải là em bà con cô cậu ruột.
    Tư Đồ Sảng chẳng hề nghi ngờ gì cả. Nhưng tối hôm ấy, tiểu nhị Trần Lục đã đến phòng chàng, khai rõ việc Chu Tam là hoàng tử của Đại Minh. Họ Trần vì tò mò mà rình nghe cuộc nói chuyện giữa Chu Tam và ngài tổng binh.
    Tư Đồ Sảng chẳng xem việc bị Chu Tối Hậu dối gạt là quan trọng nhưng quyết định rời xa gã. Chàng là kẻ quê mùa nơi chân núi Cửu Tuấn, chẳng nên quan hệ với bậc quyền cao chức trọng làm chi.
    Do đô, sáng hôm sau, Tư Đồ Sảng đã bảo Chu Tam cứ đi trước. Chàng sẽ ở lại Bảo Định để tìm quen mà hỏi tung tích Mạc Clúêu Hương. Chu Tam có ý không hài lòng, bắt chàng hứa là sẽ ghé thăm gã khi đến Bắc Kinh. Địa chỉ mà gã viết cho chàng cũng ccó chiêu bài Chu Gia Trang song chưa chắc đã là nhà của gã. Hoàng tộc nhà Minh ở kinh sư rất đông, toàn là họ Chu cả.
    Chu Tam đi rồi, Tư Đồ Sảng lên phòng tĩnh tọa hành công để bồi bổ số chân khí đã hao hụt trong trận chiến khốc liệt hôm qua.
    Xế trưa, Tư Đồ Sảng trả phòng, rời thành Bảo Định vì đã nhận được báo cáo của đệ tử Hắc Hiệp Hội. Họ đã truy lùng khắp thành và khu phụ cận mà không hề thấy mẹ con Mạc Chiêu Hương.
    Đầu giờ thân, Tư Đồ Sảng lên thuyền vượt sông Dịch Thủy. Gió bấc lạnh lùng mang theo những bông tuyết thổi vào mặt chàng. Hồi tưởng đến cảnh Kinh Kha sang Tần, từ biệt Thái Tử Đan ở chốn này, Tư Đồ Sảng cảm khái ngâm nho nhỏ:
    Phong phiêu phiêu hề!
    Dịch Thủy hàn
    Tráng sĩ nhất khứ hề!
    Bất phục phản!
    Bài thơ bi tráng này đã sống mãi trong lòng hậu thế, nhất là những kẻ sắp dấn thân vào hiểm địa.
    Nhưng Kinh Kha vào Nam để sang Tây, còn chàng thì ngược Bắc. Và cánh rừng bên kia bờ không hề có phục binh, dù Tư Đồ Sảng đã uổng công đề phòng. Có lẽ khi biết Tam hoàng tử được quan quân hộ tống hồi kinh, Hải Hoa Bang đã bỏ cuộc.
    Rời bến sông được một đoạn, Tư Đồ Sảng chợt thấy một lão thợ săn đang từ hướng Bắc đi ngược xuống. Trên vai lão là chiếc đinh ba treo lủng lẳng hai con thỏ xám, còn tay nữa thì xách chiếc lồng tre, trong nhốt một con vật lông trắng.
    Trước chàng còn có vài kỵ sĩ nữa nhưng chẳng phải khách giang hồ. Họ bình an đi qua lão thợ săn song đến lượt Tư Đồ Sảng thì con vật trong lồng tre bỗng rít lên lanh lảnh, âm điệu bi thương như đang cầu cứu vậy.
    Tư Đồ Sảng sinh trưởng chấn núi rừng, từ nhỏ đã được từ mẫu dạy cho bẫy thú. Do đó, giờ đây chàng biết ngay đó là tiếng kêu của loài chồn hương đang sập bẫy.
    Không hiểu sao Tư Đồ Sảng lại rùng mình, lòng đầy bất nhẫn. Mẹ chàng cũng như hàng trăm người đàn bà nông thôn quê mùa khác. luôn tin vào những chuyện thần tiên, ma quái. Bà đã thả tất cả những con chồn con cáo mà chàng bắt về và giải thích rằng:
    - Chồn cáo là loài vật cực kỳ thông linh, có thể tu luyện mà thành tiên! Sảng nhi đừng bao giờ hại chúng!
    Tư Đồ Sảng bồi hồi, xao xuyến, quay ngược lại bảo lão thợ săn:
    - Này lão trượng! Tiểu điệt muốn mua con chồn trắng kia!
    Lão nheo mắt ngắm nghía chàng rồi nói:
    - Loài chồn hương lông trắng rất hiếm nên giá rất cao. Chỉ sợ công tử chê mắc đấy thôi!
    Biết lão tham tiến, chàng vui vẻ nói:
    - Xin lão trượng cứ ra giá!
    Lão thợ săn ngập ngừng nói:
    - Năm lượng bạc không bớt!
    Tư Đồ Sảng xuống ngựa, móc hầu bao đưa cho lão ta nén bạc mười lượng và nói:
    - Xin tặng cả cho đại thúc!
    Lão thợ săn vừa mừng vừa nghi hoặc, đưa nén bạc lên cắn thử. Biết là của thực, lão trao lồng tre rồi tất tả đi ngay, chỉ sợ chàng đòi lại.
    Tư Đồ Sảng ngồi ngắm con chốn nhỏ xinh đẹp một lúc rồi nói với nó:
    - Hồ ly cô nương! Ta sẽ thả nàng về rừng xanh, sao này phải cần thận, đừng để mắc bẫy nữa.
    Nói xong. chàng mở cửa lồng để giải phóng con vật. Nào ngờ nó không chạy đi ngay mà phóng lên vai, liếm mặt chàng vài cái rồi mới chịu lao vào rừng.
    Tư Đồ Sảng ngẩn người lẩm bẩm:
    - Chẳng lẽ mẫu thân nói đúng! Nếu không phải hồ ly tinh thì sao nó lại thông linh đến thế!
    Chàng bật cười, nhảy lên ngựa, ra roi phi nước đại.
    Trưa hôm sau, Tư Đồ Sảng đến huyện Tịnh, ghé vào phạn điếm dùng cơm. Chàng rất ngạc nhiên khi thấy nơi đây tập trung khá nhiều khách võ lâm. Chàng hiếu kỳ lắng nghe câu chuyện của họ, lát sau mừng rỡ thở phào vì đã biết Mạc Chiêu Hương hiện đang ở đâu.
    Té ra là, Mạc Lão Thái trước khi xuất giá mang họ Bàng và bà có một bào đệ tên Bàng Đạo Trí, hiện là thủy sư đồ đốc ở thành Trực Cô.
    Bàng đề đốc thấy cháu gái chưa chồng liền tổ chức một lôi đài tỷ võ chiêu phu, khai mạc vào ngày hai mươi hai tháng mười một này. Điều kiện tham gia là nam nhân tuổi không quá ba mươi và chưa vợ.
    Tư Đồ Sảng nghe được tín này bâng khuâng ngơ ngẩn như kẻ vừa đánh mất một vật quý giá. Giờ đây, Chiêu Hương sắp lên xe hoa, gá nghĩa với một bậc anh hùng đất Bắc nào đó thì chàng còn tìm kiếm làm gì nữa! Và phải chăng đó là sự an bày tốt nhất cho cả hai.
    Chàng buồn bã định xuôi Nam ngay, trở lại Thúy Phong Cốc với hai người vợ rộng lượng, song lòng chàng chợt bừng lên nỗi khát khao là được gặp mặt Mạc Chiêu Hương một lần cuối. Dẫu sao thì chàng cũng chẳng còn cách Trực Cô bao xa.
    Và để tâm hồn kẻ sắp sang ngang được yên bình, Tư Đồ Sảng sẽ giấu mặt bằng mặt nạ. Nghĩa phụ Tây Mởn Giới tặng chàng đến ba chiếc, đã dùng hết hai, còn lại một. Hài lòng với chủ ý này, Tư Đồ Sảng rời quán cơm, sau khi hỏi thăm đường đi Trực Cô. Gã tiểu nhị đã nói rằng không có quan đạo nối Trịnh Thành với Trực Cô mà chỉ toàn là đường nhỏ lối mòn. Do đó, Tư Đồ Sảng đã đi theo bọn hào kiệt Hà Bắc để khỏi lạc đường.
    Đoàn người đi về hướng Đông, vượt sông Tiểu Lý Hà để đến trấn Cố An vào buổi chiều và nghỉ lại mờ sáng họ khởi hành, vượt trấn Tây An, rồi băng rừng lội suối để đến kịp Trực Cô khi trời chưa tối.
    Hành trình này khá gian khổ vì tuyết rời nhiều, trời lạnh thấu xương và đường sá thì lầy lội, trơn trượt.
    Trước khi vào thành, Tư Đồ Sảng thận trọng mang mặt nạ để có dung mạo của một gã tam tuần khá đẹp trai, râu mép rậm rì. Không những mặt mũi thay đổi mà tính danh của chàng cũng thế. Mỗi chiếc mặt nạ của Tây Môn Giới đều đi kèm với một thẻ đinh hợp lệ, đã đóng đủ thuế. Có thể là giấy giả nhưng chẳng khác gì giấy thật. Bởi vậy, giờ đây Tư Đồ Sảng sẽ mang cái tên Tư Mã Khôi, hai mươi bẩy tuổi, quê quán Bảo Định.
    Tư Đồ Sảng nghỉ một đêm ở lữ điếm, sáng ra tìm cách liên hệ với Hắc Hiệp Hội. May thay, chàng chỉ cần đi vài chục trượng dã phát hiện ám ký trên tấm bảng chiêu bài của một tòa trang viện cố kính rộng lớn, mang tên Địch Gia Trang.
    Trang chủ Địch Hùng, sáu mươi tuổi chính là phân hội chủ thành Trực Cô. Không ai có thể ngờ rằng một thương nhân đáng kính như Địch Hùng lại từng là đạo tặc vùng Tứ Xuyên, và giờ đây đang chỉ huy một mạng lưới trộm cắp đông đến hàng trăm tên.
    Địch lão vui vẻ đón tiếp tuần sứ, và cho gia nhân đến lữ quán lấy ngựa cùng tay nải của thượng cấp.
    Tư Đồ Sảng đến đây ở để có chỗ ôn luyện quyền thuật. Dù sáng nào chàng cũng múa pho Du Long Quyền như là một cách tập thể lực nhưng chưa bao giờ dùng nó mà chiến đấu. Quyền cước là nền móng của võ thuật Trung Hoa song không lép vế trước phép sử dụng các loại vũ khí. Thịt xương con người rất dễ bị thương tên.
    Từ thời thượng cổ, nhân loại đã hiểu rằng cần có một cây chùy đá, một đoạn gỗ chống lại ác thú. Các cuộc chiến tranh cũng được tiến hành bằng khí giới chứ chẳng phải là nắm đấm.
    Cũng chính vì nhận ra nhược điểm của quyền thuật, người ta đã sáng tạo ra khí công để thân thể bền chắc hơn. Và để tăng khả năng sát địch, Phách Không Chưởng đã ra đời. Tuy nhiên, công phu này khiến người võ sĩ rất hao tổn chân nguyên, đưa đến tổn thọ, nên ít ai muốn luyện, trừ những kẻ hiếu danh, đầy tham vọng.
    Thầy chùa và đạo sĩ nhạt mùi danh lợi nên pho Du Long Quyền của núi Cổ Sơn không bao hàm Phách Không Chưởng. Nó thuần túy gồm những thế thức của tứ chi.
    Tư Đồ Sảng là người chí hiếu, không vì công dụng mà xem trọng tuyệt kỹ đánh búa của mẹ hơn nghề quyền cước của cha. Chàng luôn khổ luyện song song cả hai thứ để an ủi vong hồn phụ mẫu. Vả lại, pho Du Lóng Quyền pháp có khá nhiều thế thức thi triển bằng tả thủ, giúp Tư Đồ Sảng tương đối tạo được sự quân bình giữa hai cánh tay.
    Hữu thủ của chàng quen múa thanh Giáng Ma Phủ nặng đến hai chục cân, tất nhiên phải nở nang, to lớn hơn tả thủ. Cho nên, ngoài việc tập quyền pháp, Tư Đồ Sảng còn phải múa búa bằng tay trái để cơ thể đỡ xấu xí vì mất cân đối. Hai cô ả họ Lăng thường chọc ghẹo chàng về khuyết điểm nảy.
    Trong suốt ba ngày mười chín, hai mươi, hai mươi mốt. Tư Đồ Sảng chỉ chuyên luyện quyền cước, tìm cách phối hợp những chiêu thức trong pho Du Long Quyền với cách di chuyển của Trung Tinh Bộ Pháp. Chàng sung sướng nhận ra rằng pho Tường quyền gia truyền đã trở nên lợi hại hơn trước. Kiếm đạo chính là đỉnh cao của võ đạo nên Tư Đồ Sảng có thể điều hòa những điểm không tương đồng giữa hai tuyệt học, biến làm một.
    Nhưng Tư Đồ Sảng luyện quyền để làm gì? Phải chăng chàng định thượng đài để giành lấy Mạc Chiêu Hương. Đây là vấn đế tâm lý khá phức tạp của tuổi thanh niên, khó mà phân tích cho rạch ròi được. Tư Đồ Sảng đã tự nhủ rằng mình cứ chuẩn bị chu đáo nhưng sẽ tùy theo sắc diện của Mạc Chiêu Hương mà hành động. Nếu nàng thực sự vui với cuộc tỷ võ chiêu phu này thì chàng sẽ không thượng đài, lặng lẽ quay về Lạc Dương. Bằng ngược lại, chàng sẽ tham gia để đền đáp ân tình của nữ nhân.
    Sáng hai mươi hai tháng mười một, Tư Đồ Sảng lững thững đi theo đám đông để đến dinh Bàng đề đốc ở góc Đông Nam thành Trực Cô.
    Tuyết rơi nhiều, gió bấc từ bán đảo Liêu Đông thổi về ào ạt, khiến ai nấy đều co ro trong áo ngự hàn. Nhưng giá lạnh không làm nguội được lửa lòng của những chàng trai võ dũng đất Hà Bắc.
    Qua những bộ mũ áo lông cừu thượng hạng, người ta có thể nhận ra không ít cao thủ xuất thân quyến thế, đến từ Bắc Kinh. Đế đô cách Trực Cô chỉ hai ngày đường, trong khi thông báo mở lôi đài đã dán khắp nơi cách nay cả tháng trời.
    Khi đến nơi, mọi người khoan khoái vì nhận ra mảnh sân gạch rộng mênh mông của dinh đề đốc đã được che kín bầng vải buồm. Bàng Đạo Trí là chỉ huy cao nhất của lực lượng thủy quân miền Bắc, thống lĩnh bảy tám trăm chiến thuyền nên chẳng thiếu vải buồm.
    Không phải vải cũ rách mà là thứ mới, chưa dùng đến, mượn của xưởng đóng thuyền ở cửa biển Ni Cô. Xưởng này được xây dựng từ thời Bấc Tống đến thời Minh thì quy mô càng lớn hơn.
    Giữa giờ thìn, số người đến xem lôi đài đã lên đến hơn ngàn, nói cười râm ran, bàn luận về nhan sắc của Mạc tiểu thư. Kẻ thì vỗ ngực tự xưng rằng mình đã từng gặp qua người con gái có nhan sắc tiên nga ấy, kẻ thì tỏ ý nghi ngờ vì nghe nói nàng ta đã gần tam thập.
    Tư Đồ Sảng nhanh chân chiếm được vị trí khá gần tòa mộc đài cao nửa trượng, đứng ngắm hai câu liễu trên cột lôi đài mà nhớ đến chàng trai ít học Triển Phi Hoan.
    Nhưng nếu hôm nay gã có mặt ở đây chắc cũng chẳng gặp khó khăn vì hai câu đối này dược viết bằng lối chữ khải thư.
    Khải thư xuất hiện cuối đời Hán và lưu hành cho đến nay. Do dạng chữ ngắn, nét bút thẳng, được xem là chuẩn mực, nên khải thư còn được gọi là chính thư chân thư. Rất nhiều nhà thư pháp của các thế hệ đã nổi tiếng nhờ loại chữ này.
    Tư Đồ Sảng gật gù đọc thầm đôi liễu:
    “Quyền đã thanh long cước hàn
    Bạch hổ anh hùng xuất tự thiếu niên
    Nhãn như thu thủy nhan tự
    Đào hoa mỹ nhân tiếu đắc phu quân”.
    Chàng thoáng bâng khuâng, tự hỏi Chiêu Hương có cười được chăng khi lấy chồng bằng cái cách kỳ dị này?
    Nam nữ kết đôi phải có tình yêu, sự cảm thông, chứ sao lại dựa vào võ nghệ? Liệu một kẻ vai u thịt bắp, giỏi nghề quyền cước nhưng bất thông tình lý đầu ốc bã đậu, có thể là một người chồng tốt hay sao?
    Tiếng đàn sáo vang lên báo hiệu sự xuất hiện của chủ nhà. Bàng đề đốc oai phong trong bộ quân phục võ thương, chậm rãi bước lên cầu thang gỗ. Ông ta tuổi độ năm mươi, thân hình tráng kiện, râu cằm đen nhánh và dài đến ngực, mắt sáng, diện mạo hồng nhuận, phương phi.
    Theo sau Bàng Đạo Trí là Mạc Lão Thái và Mạc Chiêu Hương. Cử tọa reo hò ầm ĩ, suýt xoa tán thưởng nhan sắc chim sa cá lặn của Mạc tiểu thư. Nàng kiều diễm phi phàm và trẻ như gái đôi mươi khiến bọn nam nhân không tin vào mắt mình, hoặc cho rằng người ta đã ghi lộn tuổi nàng trong thông báo.
    Chiêu Hương còn đẹp hơn những gì mà vế liến thứ hai đã ca ngợi. Ngoài đôi mắt phượng trong như hố thu, dáng mặt hồng tựa hoa đào, sóng mui dọc dừa và đôi môi chín mọng của nàng cũng bội phần thanh tú và duyên dáng.
    Hôm nay, Chiêu Hương gọn gàng trong bộ võ phục xanh, áo cừu khoác hờ, không khép vạt, nên đồi ngực kiêu hãnh và vòng eo thon thả đã làm bỏng mắt bọn đàn ông.
    Tư Đồ Sảng đỏ mặt nhớ lại rằng mình đã từng vuốt ve thân hình nõn nà, khêu gợi ấy mà không biết.
    Bàng đề đốc sang sảng giới thiệu chị và cháu gái rồi nói sơ mục đích cũng như quy củ của lôi đài. Sau đó, ba người chào cử tọa rồi về ngồi trên những chiếc ghế dựa ở mạn cuối mộc đài.
    Tư Đồ Sảng bồi hồi thương cảm vì nhận ra ánh mắt u buồn của cố nhân. Nàng mỉm cười với cử toạ nhưng nhãn thần thờ ơ lạnh lẽo, chẳng chút niềm vui
    Việc điều khiểu lôi đài được giao cho người vừa bước lên. Gã ta chính là Huyết Báo Liễu Mộ Hào.
    Tư Đồ Sảng không ngạc nhiên vì đã nghe phân hội chủ Hắc Hiệp Hội ở Trực Cô, là Địch Hùng báo lại việc Mộ Hào vào dinh đề đốc đã gặp mẹ con Chiêu Hương. Nhưng tiếc rằng thông báo chiêu phu đã phát ra, không thể thay đổi được nữa. Huyết Báo đành ngậm ngùi nhận việc, cố giúp cho lương duyên của sư muội được vẹn toàn.
    Tất nhiên, gã chẳng thể vui vì đã phụ lòng kỳ vọng của Tư Đồ Sảng. Hơn nữa, gã rất muốn sư muội mình trở thành vợ chàng, để gã có điều kiện gần gũi sư nương mà phụng dưỡng. Bà đã nuôi đay gã suốt cả một thời niên thiếu.
    Huyết Báo hắng giọng rồi lạnh lùng nói với cử tọa:
    - Kính cáo chư vị anh hùng! Thể thức tranh tài của bổn đài rất đơn giản. Trong ba ngày bất cứ cao thủ nào thắng liền bẩy trận và đả bại luôn cả Mạc tiểu thư thì sẽ trở thành chú rể. Sau mỗi trận, người thắng được quyền nghỉ ngơi hai khắc.
    Hầu hết những kẻ rắp ranh bắn sẻ đầu đều la làng, phản đối điều kiện khắc nghiệt kia. Đấu liền tám trận là một việc chẳng dễ dàng chút nào cả.
    Ai đó bực bội quát lớn:
    - Mẹ kiếp! Sức người chớ nào phải sức trâu, nghỉ ngơi hai khắc thì nào thấm thía gì.
    Huyết Báo chưa kịp có ý kiến thì một người khác đã cao giọng, hùng hổ nói:
    - Tám trận thì có gì đáng kể! Bổn công tứ cho rằng như thế là vô cùng hợp lý! Các ngươi mau nhường đường để lão phu thướng đài, hiển lộng thần oai!
    Cái giọng oang oang, rè rè kia rất quen với Tư Đồ Sảng. Chàng giật mình nhìn quanh để tìm Triển Phi Hoan song chẳng thấy đâu. Gã quá lùn nên bị người chung quanh che lấp mất.
    Nhưng rồi hàng người duỗi ra, và họ Triển nghênh ngang trèo lên lôi đài. Hôm nay Phi Hoan mặc võ phục bằng gấm nâu, vai khóạe áo choàng lông trắng, trông rất diêm dúa và kệch cớm.
    Quần hùng cười ồ lên chế giễu chàng trai thiếu thước tấc và lại to ngang đến mức dị kỳ:
    - Con bà nó! Gã này may ra chỉ cao đến vú người đẹp, thực là thuận lợi!
    Mọi người thấm ý phá lên cười hô hố. Huyết Báo bực bội vô cùng, phát ra những âm thanh chối tai, áp đảo cả tiếng cười thô lễ của khán giả:
    - Kẻ nào dám buông lời bất nhã với tiểu thư sẽ bị tống cổ ra ngoài!
    Đám thanh niên chợt nhớ ra đây là dinh thự của ngài thủy sư đề đốc, liền ngậm miệng, chẳng dám mỉa mai, giễu cợt nữa.
    Triển Phi Hoan nhìn Huyết Báo với ánh mát tri ân rồi vòng tay tự giới thiệu:
    - Tại hạ là Triển Phi Hoan, hai mươi chín tuổi, quê quán Tứ Xuyên, chưa vợ!
    Nào ngờ Liễu Mộ Hào cau mày hỏi lại:
    - Sao ngươi không đi Lạc Dương mà lại tới đây làm chi? Mau hạ đài ngay!
    Họ Triển nhăn nhó biện bạch:
    - Tiểu đệ đã đi được một quảng đường nhưng chẳng mặt mũi nào mà gặp công tử nên đành quay lại đây.
    Và gã hý hửng hạ giọng:
    - Tiểu đệ đã nghĩ ra một thần mưu diệu kế thật phi thường, cả Gia Cát Lượng cũng phải phục lăn. Nghĩa là tiểu đệ sẽ đả bại tất tả, mang Mạc Chiêu Hương về Lạc Dương cho công tứ. Đại ca thấy tiểu đệ có giỏi không?
    Liễu Mộ Hào tức đến chẹn họng, mặt tái xanh. Còn đám hào kiệt đứng ở hàng đầu thì la ó nhao nhao phản đối. Bàng đề đốc quát bảo:
    - Làm gì có chuyện thượng đài tỷ võ giùm kẻ khác. Ngươi không muốn cưới vợ thì xuống để người khác lên.
    Triền Phi Hoan quýnh quáng thét lên:
    - Không! Không! Ta muốn vợ thực mà! Ta chỉ nói gạt họ Liễu thế thôi!
    Tuy nói thế nhưng mắt gã nháy nhó lia lịa, ra dấu với Huyết Báo. Liễu Mộ Hào chợt cảm động trước lòng trung thành của gã quái nhân họ Triển mà thức ngộ rằng có thể đây là giải pháp tốt nhất, tuy hơi khó coi.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Huyết Báo giả vờ tức giận, cười nhạt bảo:
    - Thôi được! Tất nhiên ngươi cũng có quyền cưới vợ!
    Và gã cao giọng tuyến bố:
    - Triển Phi Hoan đủ tư cách thượng đài, mời anh hùng thứ hai lên cùng y tỷ thí.
    Triển Phi Hoan đắc ý cởi áo choàng, xếp lại cẩn thận và đặt xuống chân cột ở góc Đông Nam lôi đài.
    Từ ngày theo phò Tư Đồ Sảng, họ Triển thoát cảnh đói nghèo, có tiền sắm sửa y phục bằng gấm lụa thượng hạng. Những gã rất trân trọng tài sản của mình, chẳng hề hoang phí.
    Giờ đây, bộ võ phục gấm nâu làm nổi bật những bắp thịt nở nang và tấm lưng rộng như cánh phản của Phi Hoan. Quần hào tắm tắc khen thầm vẻ oai phong ấy, quên đi khuyết điểm về chiều cao.
    Phi Hoan được dịp dương oai diễu võ trơức mặt đám đông, cao hửng trụ tấn rồi gồng người để khoe khoang cơ thể rắn chắc, đầy sức mạnh.
    Vẻ kênh kiệu của gã đã khiến một cao thủ trẻ tuổi đất Bắc Kinh nóng mũi nhẩy lên lôi đài. Chàng ta tự giới thiệu mình tên Bách Lý Phương, hai mươi ba tuổi được giới võ lâm Hà Bắc tặng cho mỹ híệu Thần Quyền Vô Địch.
    Bách Ly Phương cũng rất vạm vỡ và cao hơn Triển Phi Hoan gần hai gang tay. Gã có dung mạo hơi thô, mắt lộ, mũi tẹt lông mày chổi xể rậm rì.
    Sự chênh lệch khá lớn này đã khiến một vị khán giả tỏ ý lo ngại:
    - Này Bách Lý lão đệ! Ngươi hã ycố mà bảo vệ đoản thương của mình nhé. Ta thấy gã họ Triển đang nhìn đũng quần của người với ánh mắt đầy sát khí.
    Cử tọa khoái trá cười dài trước câu nói hoạt kê này. Nhưng Phi Hoan quê mùa, chất phác, nên không hiểu tiếng lóng, trợn mắt quát mắng Bách Lý Phương:
    - Tiểu tử kia! Đài quy đã cấm không được sứ dụng vũ khí, sao ngươi lại dám lén giấu đoản thương trong quần. May mà vị huynh đài tốt bụng kia nói ra, không thì bổn công tử đã bị ám toán rồi. Ngươi có mau lấy thương ra rồi tạ lỗi với mọi người hay chăng?
    Tiếng cười của cả ngàn người cất lên làm rung chuyển cả những tấm bạt vải buồm căng trên đầu họ. Cả Bàng đề đốc lẫn mẹ con Mạc Lão Thái cũng cười ngất nghẽo. Riêng Bách Lý Phương ôm bụng ngã lăn xuống sàn lôi đài, cười bò lăn bò càng.
    Huyết Báo chán nản bước đến bảo họ Triển:
    - Sao ngươi lại ngu đến mức ấy cơ chứ! Người ta nói: “đoản thương” là ám chỉ cái khúc thịt trong đũng quần của đàn ông đấy.
    Triển Phi Hoan thẹn chín người, lẩm bầm chửi rửa cái gã đã biến mình thành trò cười. Gã bối rối đứng cúi gầm mặt, chẳng biết phải làm sao. May thay, Huyết Báo đã vỗ tay, ra hiệu cho hai bên động thủ.
    Bách Lý Phương vẫn còn cười, xua tay bảo:
    - Tại hạ tức cười đến nông ruột, làm gì còn khí lực mà đấu nữa?
    Nói xong, gã loạng choạng rời lôi đài vừa đi vừa khúc kha khúc khích, không sao nín nổi.
    Liễu Mộ Hào thản nhiên tuyên bố:
    - Bách Lý Phương bỏ cuộc nên Triển Phì Hoan xem như thắng trận này! Xin mời người thứ hai.
    Lập tức có một chàng trai võ phục lam nhẩy lên, xưng là Kiêu Hổ Dương Tứ Bích, hai mươi lăm tuổi, quê quán Đường Sơn, một huyện nằm phía bắc Trực Cô, cạnh bờ biển Bột Hải.
    Lần này chẳng có ai phá đám nên cuộc chiến diễn ra ngay. Kiêu Hổ xuất thủ trước tấn công bằng một đường quyền vô cùng dũng mãnh và đẹp mắt, đáp vào mặt và ngực của Triển Phi Hoan.
    Họ Triển tuy thấp lùn song hai cánh tay lại dài bằng người bình thường, khiến gã có dáng dấp của một con dã nhân. Nhưng trong quyền thuật thì đấy lại là một lợi thế. Gã chỉ cần khẽ rún người xuống là né được đường quuyền, rồi vươn hữu thủ gạt đòn chân của đối phương.
    Đôi tay họ Triển to đùng và rắn như thép khiến chân Dương Tứ Bích bị đau, mặt nhăn như khỉ. Họ Dương vội tung chân kia đá vào mặt Phi Hoan. Kiêu Hổ ra đòn như vũ bão, thi thố hết sở học để khoe tài với mỹ nhân và cử toạ. Khổ thay, Phi Hoan chẳng hề bối rối ung dung chống đỡ, vững chắc tựa tường đồng vách sắt.
    Khán giả vô cùng khâm phục, hoan hô ầm ĩ và đốc thúc họ Triển phản công.
    Phi Hoan đắc ý gật đầu, xông vào đối thủ, song quyền vù vù xé gió, uy hiếp hạ bàn Họ Dương, từ ngực đến đầu gối.
    Muốn chống trả, Dương Tứ Bích bắt buộc phải hạ tấn xuống thấp hơn bình thường, vừa dễ mỏi chân vừa không vững, nên khi va chạm thân hình bị chao đảo.
    Trong quyền thuật, các thế tấn chính lộ căn bản và có vai trò rất quan tâm. Tấn không chắc thì đường quyền, ngọn cước đều kém uy lực và khi đối phương phản kích thì rất dễ bị đẩy lùi.
    Hôm nay, Dương Tứ Bích xui xẻo rơi vào tình trạng bất lợi là phải đối phó với một kẻ chỉ đứng đến vai mình. Gã phải choãi chân rộng ra, rùn người xuống thật thấp thì mới bảo vệ được hạ bàn. Tuy đài quy cấm đánh vào chỗ kín nhưng họ Dương vẫn nơm nớp lo sợ cho của quý. Ai dám bảo đảm rằng gã lùn kia không lỡ tay, lỡ chân, làm tan nát đời đàn ông của dương công tử?
    Nhưng dù cho Tứ Bích không rơi vào thế bất lợi vì chiều cao thì cũng không thể địch lại Triển Phi Hoan. Họ Triển thần lực hơn người, đường quyền mạnh như búa bể, khiến xương cốt tứ chi của Tứ Bích bị đau đớn và ê ẩm.
    Gã lùn lại có đấu pháp cực kỳ cương mãnh, liều lĩnh. Gã ta cứ hùng hục xông đến, để lộ hàng tá sơ hở mời gọi họ Dương. Kiêu Hổ chẳng hề khách sáo, tặng cho đối phương vài quyền và có cảm giác đã đánh vào bị cát bằng da trâu chứ chẳng phải thân người. Nhưng khi Phi Hoan đáp trả họ Dương một đòn vào ngực thì chàng trai đất Đường Sơn đau thấu trời, thiếu điều nín thở, văng ngược về phía sau vài bước.
    Tuy đã ngao ngán đến tận cổ mà Dương Tứ Bích cũng cứ cố cầm cự, sợ mất mặt với người đẹp và giới võ lâm Hà Bắc.
    Trong khi ấy, Triển Phi Hoan tiếp tục đấu pháp chịu đấm ăn xôi, đánh cho Tứ Bích tơi bời hoa lá. Tiếng quyền cước chạm da thịt vang lên liên tục và cảnh song phương trúng đòn đã khiến cứ tọa vô cùng phấn khích, hoan hô quá cỡ. Tất nhiên là họ tán dương Triển Phi Hoan, kẻ có ngoại công thâm hậu, đang giành được thế thượng phong.
    Kiêu Hổ Dương Tứ Bích vì tự ái và thanh danh mà chẳng cam tâm nhận bại, cứ chạy quanh mãi. Nhưng Triệu Phi Hoan đã nóng ruột, xuất kỳ chiêu, tấn công tới tấp và bất ngờ vươn tay tóm lấy cổ chân của Họ Dương. Gã chỉ giát mạnh một cái là thân hình nặng hơn trăm cân của Tứ Bích bay vèo xuống dưới đài, rơi vào đầu khán giả.
    Thần lực khủng khiếp của gã đã làm toàn trường phải phục lăn. Được cử tọa vỗ tay tán thưởng, Phi Hoan khoan khoái toét miệng cười mãi và đắc ý nói:
    - Tại hạ còn khỏe như trâu, không cần phải nghỉ ngơi! Xin mời người thứ ba!
    Huyết Báo thở dài, thầm giận đứa em ngốc nghếch, huênh hoang, song vẫn lặng lẽ làm nhiệm vụ của mình.
    Nhưng xem ra Phi Hoan chẳng đến nỗi ngu khờ cho lắm trong trận thứ ba gã hạ đối thủ rất chóng vánh bằng một thứ quyền thuật ảo diệu và lạ mắt. Chỉ sau chục chiêu, họ Triển lăn tròn trên sàn đài, cuốn đến chân đối phương và túm lấy thắt lưng mà ném xuống đất.
    Quyền thuật Trung Hoa rất phong phú, bao gồm cả những thế vật song không được xem trọng phần này nên môn vật dần dà bị mai một. Trong khi ấy võ vật phát triển rất mạnh ở các vùng lãnh thổ lân cận như Mông Cổ, mãn châu, phù tang, An Nam, Nga La
    Lý do sâu xa của hiện tượng này có lẽ xuất phát từ khuynh hướng xem trọng lễ nghi, vẻ tôn nghiêm chỉnh tề của người Hán. Khi vật nhau thì y phục xốc xếch, cơ thể dơ bẩn vì mồ hôi, chẳng đẹp mắt và oai phong chút nào cả.
    Nhưng dẫu sao thì thế vật ảo diệu của Triển Phi Hoan cũng được mọi người hoan hô vì mang đến thắng lợi cho gã ở trận thứ ba.
    Họ Triển thắng thêm một trận nữa thì đến giờ nghỉ trưa. Đầu giờ chiều, Phi Hoan lại thắng, tiến rất sát danh hiệu quán quân. Gã vừa khỏe như voi, vừa có cơ thể rắn chắc giỏi chịu đòn, lại giỏi quyền thuật, nên chẳng ai địch lại.
    Tư Đồ Sảng không ngờ cục diện lại diễn biến một cách éo le như thế. Chẳng lẽ chàng lại thượng đài, đả bái thuộc hạ để giành lấy vợ. Bằng như chàng không hành động thì sau này mặt mũi nào mà giành Chiêu Hương?
    Chàng đang phân vân, do dự thì đối thủ thứ sáu của Phi Hoan xuất hiện. Tư Đồ Sảng giật mình nhận ra Lăng Khải Trạch thiếu cung chủ Hạo Thiên Cung. Chàng băn khoăn tự hỏi họ Lăng đến đây làm gì khi năm sắp hết, phải chăng bọn tà mà đang muốn bành trướng thế lực lên miền Bắc nên Hải Hoa Bang thì tiếp tay cho Nhị hoàng tử Chu Cát, còn Lăng Khải Trạch có mặt ở Trực Cô?
    Trên lôi đài, Huyết Bắc Liễu Mộ Hào cũng đã nhận ra kẻ địch, bước đến rỉ tai Triển Phi Hoan mà căn dặn.
    Lăng Khải Trạch chẳng thèm lưu ý đến cử chỉ ấy, vui vẻ vòng tay thi lễ với Bàng đề đốc cùng Mạc Lão Thái. Và gã tươi cười nói với Mạc Chiêu Hương:
    - Mạc tiểu thư! Từ ngày tương ngộ ở Đồng Quan, lòng ta luôn vương vấn bóng hình của mỹ nhân. Nay tình cờ gặp lại, Lăng mỗ vô cùng hanh phúc, quyết cùng nàng sánh duyên Tần Tấn cho thỏa ước nguyện bình sinh.
    Mạc Chiêu Hương rầu rĩ, không biết nói sao, ánh mắt đầy vẻ ai oán. Nhưng Bàng đề đốc thì lại rất cao hứng trước chàng trai anh tuấn như cây ngọc trước gió họ Lăng. Ông mong Lăng Khải Trạch sẽ đả bại cái gã lùn họ Triển kia để cháu gái ông có đượm một đấng lang quân tài mạo song toàn. Từ sáng đến giờ Bàng lão vô cùng áy náy, cảm thấy có lỗi với Chiêu Hương, khi gã khỉ đột Triển Phi Hoan cứ thắng hết người này đến người khác. Chiêu Hương mà phải lấy gã ta thì đúng là hoa lai cắm bãi cứt trâu.
    Ai nghĩ sao cũng mạc, trận đấu sẽ bắt đầu. Triến Phi Hoan, tuy dã được Huyết Báo cảnh báo, vẫn tự tin vung quyền xông vào đấm đá như mưa.
    Gã không biết rằng Lăng Khai Trạch tinh thông võ nghệ nhiều nhà, công lực lại thâm hậu hơn tuổi tác. Họ Lăng thi triển ngay pho Xà Quyền, một loại công phu đặc dị của đất quý châu. Xà quyền cũng chuyên tấn công phần thân dưới, bao gồm những thế tấn thấp, rất thích hợp để đối phó với một kẻ có chiều cao khiêm tốn như Phi Hoan.
    Con người không có đuôi nên những đòn chân tượng trưng cho những cú quét đuôi của loài bò sát, rất bất ngờ và mãnh liệt. Thêm vào đấy, song thủ của Lăng Khải Trạch có tư thế đầu rắn cất lên, bàn tay lúc thì xòe như móng vuốt lúc thì chụm lại để mổ những cú nhanh như điện.
    Quyền cước chạm nhau, song phương quấn quít đổi đòn, bật ra rồi lại áp sát ngay, động tác rất uyển chuyển và dũng mãnh, khiến người xem ngây ngất.
    Công lực của Lăng Khải Trạch còn cao hơn Triển Phi Hoan nên gã chẳng va chạm và cũng không sợ bị đẩy lùi. Không những thế, họ Lăng còn chiếm được thượng phong về mặt chiêu thức, liên tiếp đánh trúng đối phương.
    Gần khắc sau, nhân dạng của Triển Phi Hoan trông thật đáng thương, quần áo rách te tua vì song tráo, để lộ những vết cáo đỏ hỏn hay những chỗ thâm tím bởi đòn xà chủy.
    Họ Triển tức vì đau thì ít mà giận bởi tiếc bộ võ phục đẹp thì nhiều. Gã điên tiết gầm lên, gồng người chịu liền mấy trao rồi lừa thế bổ vào chân đối thủ.
    Lăng Khải Trạch tưởng Phi Hoan định vật mình, vội tung người bốc lên cao. Nào ngờ, họ Triển lại thi thố một chiêu quái dị, dựng ngược người rồi búng mạnh đôi tay, để thân hình bay vút theo Khải Trạch, song cước đá ngay và hạ bàn.
    Họ Lăng trúng hai đòn, một vào đùi một vào hạ thể. Do gã đang thuận thế bốc lên nên đùi trái không sao, nhưng mũi giầy vải chân kia của Phi Hoan lại đá phớt hạ nang, khiến Khải Trạch đau thấu trời, tứ chi bải hoải, rụng rời.
    Quần hào đất Bắc reo hò như sấm, hoan hô cái chiêu thức lạ lùng, hiếm có của Phi Hoan. Họ hài lòng khi thấy thiếu cung chủ Hạo Thiên Cung ăn đòn.
    Một ai đó còn cười hô hố châm chọc:
    - Tội nghiệp Lăng công tử! Dù chàng ta có thắng được trận này thì cũng vô ích! Hai hòn ngọc kia vỡ mẹ nó mất rồi, còn làm chồng ai được nữa.
    Đám thanh niên nghe vậy phá lên cười ngất. Trên kia, Mạc Chiêu Hương thẹn đỏ nhặt tía tải song vẫn mỉm cười.
    Nhưng có lẽ của quý vẫn còn nên lát sau cơn đau qua đi và Lăng Khải Trạch trút hận lên đầu đối thủ. Gã tấn công Triển Phi Hoan bằng những đòn liên hoàn, nối nhau tựa sóng dữ Hoàng Hà, quyền ảnh mờ mịt đấu trường. Họ Triển trúng đòn tới tấp, thân hình chao đảo như chiếc lá giữa cuồng phong máu rỉ ra khóe miệng, chứng tỏ đã thọ nội thương. Nhưng gã vẫn ngoan cường chiến đấu, lăn xả vào kẻ địch, chứng chịu hạ đài.
    Mọi người chết lặng, lòng xót xa bất nhẫn khi chứng kiến thảm trạng Phi Hoan. Sự dũng cảm, sức chịu đựng phi thường và tính bất khuất của gà đã khiến người ngoài khâm phục và yêu mến. Giờ đây, trong con mắt của họ, chàng trai thấp lùn kia đích thị là một hảo hán, một dũng sĩ.
    Còn đối với gã thiếu cung chủ kênh kiệu, cao ngạo kia, họ càng bội phần chán ghét. Trong đạo của tự nhiên, cái gì trắng quá sẽ mau bị bôi bẩn, cái gì sáng quá sẽ bị che mờ. Cho nên, kẻ kiêu kỳ, tự tôn luôn khiến cho người đời đố kỵ, xa cách. Bậc chân nhân hiểu rõ đạo trời nên lúc nào cũng khiêm tốn, giấu giếm cái hay, cái đẹp của bản thân.
    Nhưng lòng yêu ghét của khán giả không cứu nổi Triển Phi Hoan, nhất là khi Lăng Khải Trạch động sát cơ, thi triển Lô Hoả Thần Chì. Hỏa hầu của gã còn non, chỉ phong phát ra dài chưa đến hai gang, song cũng đủ sức đốt cháy da thịt nạn nhân! Mọi người kinh hãi kêu lên khi thấy chiếc áo rách của Phi Hoan bốc khói và gã thì đau đớn rú vang những âm thanh phẫn hận.
    Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, vừa định nhẩy lên đài can thiệp thì Huyết Báo đã ra lệnh đình thủ. Gã nhẩy đến nắm vai chàng ngốc kiêu dũng đất Tứ Xuyên mà lôi khỏi chiến địa.
    Tất nhiên, Lăng Khải Trạch cũng phải dừng tay, môi điểm nụ cười tàn ác.
    Phi Hoan quỵ xuống, ôm chân Liễu Mộ Hào khóc nói:
    - Liễu đại ca! Tiểu đệ đã tận lực mà vẫn không giành được Chiêu Hương về cho họ Tư Đồ. Chẳng mặt mũi nào mà về gặp công tử nữa. Sao đại ca không để cho tiểu đệ chết cho đỡ thẹn!
    Dứt lời gã rống lên như cha chết, tiéng khóc bi ai, thê thiết khiến nhiều người múi lòng.
    Tư Đồ Sảng cũng vậy và chàng tự hỏi vì sao Triển Phi Hoan lại đối với mình nặng tình đến mức liều cả sinh mạng như thế! Nếu là Huyết Báo thì Tư Đồ Sảng có thể hiểu được vì chàng từng cứu mạng họ Liễu. Nhưng Phi Hoan chỉ là kẻ sơ giao, nhận chân thủ hạ để kiếm để chén cơm, ân tình lợt lạt.
    Tiếng khóc của họ Triển đã dứt bặt vì Mạc Chiêu Hương đã bước đến, thì thầm an ủi. Chẳng hiểu nàng nói gì mà Phi Hoàn tươi tỉnh nhoẻn miệng cười ngay và gật đầu lia lịa. Sau đó, gã tập tễnh hạ đài, theo mấy ả nữ tỳ vào dinh đề đốc để được chăm sóc thương tích.
    Ở đây Huyết Báo lạnh lùng tuyên cáo:
    - Lăng Khải Trạch thắng trận đầu còn phải đấu thêm sáu trận nữa. Mời chư vị anh hùng nhanh chân cho!
    Nhưng Lô Hoả Thần Chỉ đã dọa khiếp mọi người nên chẳng ai dáng hó hé. Lăng Khải Trạch đắc ý bảo Huyết Báo:
    - Nếu không còn ai đủ can đảm thượng đài, phiền Liễu các hạ mau mời Mạc tiểu thư xuống cùng ta thương lượng mối lương duyên.
    Bọn hào kiệt trẻ Hà Bắc tức điên người, thở phò phò như trâu, song chân thì như bị chôn xuống đất, miệng câm tựa ngậm tăm.
    Do vậy, không gian nơi đây vô cùng tĩnh lặng, chỉ còn tiếng giũ phần phật của những tấm vải buồm trước gió đông
    May thay, có người đã thượng đài phá vỡ bầu không khí nặng nề, khó thở
    - Tại hạ Tư Mã Khôi, hai mươi bẩy tuổi, quê quán Hà Bắc.
    Cứ tọa xôn xao hẳn lên, hỏi nhau xem có ai biết chàng trai để ria mép kia không? Nếu gã giỏi võ đến mức không sợ hãi Lăng Khải Trạch thì vì sao trước giờ vẫn vô danh. Hoặc giả, Tư Mã Khôi háo danh và có máu liều nên lên để kiếm chút tiếng tăm?
    Chính Huyết Báo cũng nghi ngờ và ái ngại cho Tư Mã Khôi. Gã lạnh lùng nhắc nhở:
    - Các hạ đã chứng kiến tận mắt bản lãnh của Lăng Khải Trạch xin hãy tự lượng sức mình?
    Tư Đồ Sảng gật đầu, thản nhiên cởi áo choàng lông, và tháo cả túi da đựng Giáng Ma Phủ, trao cho Huyết Báo. Túi da này Phi Hồng mới khâu, sau khi Liễu Mộ Hào rời Thúy Phong Cốc nên gã không nhìn ra.
    Huyết Báo ngỡ ngàng nhận lấy, suýt nữa làm rơi Giáng Ma Phủ. Gã đâu ngờ cái túi tròn tròn này lại nặng đến hai chục cân. Một ý niệm là lạ bỗng lóe bên trong tâm thức, Huyết Báo ngơ ngấn nhìn theo vóc dáng cao lớn của Tư Mã Khôi mỉm cười ngây ngô. Gã thận trọng nắn thử vật trong bao da, lát sau thở phào nhẹ nhõm tươi như hoa.
    Lúc này, hai đấu thủ đã đứng đối diện nhau, Lăng Khải Trạch ngạo nghễ bảo:
    - Ngươi quả là kẻ khờ dại, không biết sống chết là gì! Xuất thủ đi!
    Chẳng phải họ Lăng tốt bụng nhường nhịn mà vì Tư Mã Khôi nhỏ tuổi hơn đấy thôi.
    Tư Đồ Sảng ôm quyền chào đối phương rối ập vào nhanh như gió thoảng, xuất chiêu Thần Long Cửu Chuyển. Song thủ chập chờn vươn dài, uy hiếp chín phương vị trên thân trước họ Lăng.
    Mười ngón tay chàng biến hóa liên tục lúc xòe lúc cụp, lúc là trảo, lúc là quyền, tùy theo từng thế thức.
    Xen kẽ với những đòn tay, song cước Tư Đồ Sảng thường thọc nhanh vào hạ bàn kẻ địch, mũi giầy nhắm hai huyệt Phục Thố trên đùi và Độc Tỵ trên đầu gối.
    Chín lần chín tám mươi mốt thức nối nhau liên miên bất tuyệt, hung hãn tựa bão táp, đã khiến Lăng Khải Trạch phải lúng túng. Chẳng phải vì gã chưa kịp chuẩn bị chu đáo, chân khí dồn không đủ, mà bởi bản lãnh của Tư Mã Khôi cao siêu đến khó ngờ, cả về phương diện công lực lẫn chiêu thức.
    Khi chống đỡ, họ Lăng có cảm giác tay chân mình tiếp xúc với gỗ cứng, còn tệ hơn lúc va chạm với gã lùn Triển Phi Hoan. Dường như thủ cước của Mã Khôi chỉ toàn xương xẩu chứ không có miếng thịt nào. Dĩ nhiên, Lăng Khải Trạch đau đến toát mồ hôi, cắn răng tiếp chiêu, chân thì thoái bộ liên tục.
    Lăng Khải Trạch cũng là một nhân tài võ học kiệt xuất, thông minh hơn người, lại luyện võ đã hai mươi mấy năm, nên quyền pháp cao cường. Nhờ vậy gã giải phá được gần hết những đòn thế hiểm ác của Tư Mã Khôi. Nhưng chân trái đối phương đột ngột vươn cao, đá thông vào mặt gã. Khải Trạch nhanh nhẹn đảo cổ tay, chụp lấy chân đối phương. Nào ngờ đấy chính là hư chiêu và bàn chân Tư Mã Khôi đã hạ xuống, thọc vào ngực họ Lăng. Cước pháp ảo diệu phi thường này đã giành được thắng lợi, đá văng Khải Trạch ra xa nửa trượng.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Họ Lăng công lực thâm hậu nên chỉ bị thương nhẹ. Gã đưa tay áo lau máu miệng rồi lao đến trả đũa bằng thủ pháp Lô Hoả Thần Chỉ, ánh mắt đầy vẻ căm hận.
    Quần hào đang reo hò vội ngậm miệng vì lo ngại Tư Mã Khôi không chống nổi những đạo chỉ phong nóng rực. Thương tích trên người Triển Phi Hoan đã chứng tỏ uy lực đáng sợ của thứ công phu bá đạo ấy.
    Nhưng Tư Mã Khôi vẫn thản nhiên đối phó, tận dụng ưu thế chiều dài tay chân và thân pháp kỳ ảo mà chống trả. Chàng ta cao hơn đối phương cả một cái đầu nên tầm với của tứ chi phải xa hơn.
    Những đạo chỉ phong của Lăng Khải Trạch chỉ dài gần hai gang tay, khó mà chạm đến cơ thể của Tư Mã Khôi được.
    Tất nhiên, song thủ và song cước, Tư Mã Khôi không tránh được tổn thương ống quần, ống tay áo thừng lỗ chỗ và bốc khói nghi ngút. Da thịt chắc cũng khó vẹn toàn.
    Nhưng Tư Mã Khôi chịu đựng được nỗi đau đớn ấy, ra đòn tới tấp và liên tiếp đắc thủ.
    Lăng Khải Trạch đã thay đổi nhiều loạt quyền pháp khác nhau như xà Quyền, Hạc Quyền, Hổ Quyền, Hầu Quyền, Thập Bát La Hán Quyền, Nga Mỹ nhu quyền, Võ Đang trường quyền... mà vẫn không địch lại Tư Mã Khôi. Có thể chính vì gã tinh thông quá nhiều công phu nên không môn nào đạt đến trình độ cao.
    Hơn nữa, những cao thủ đến Hạo Thiên Cung trao đổi võ học ít nhiều đều giấu lại vài chiêu tuyệt kỹ, và dù cho họ đưa cả bí kíp ra thì cũng chẳng tiết lộ tinh túy của võ học là phép biến hóa. Phần tinh hoa này chỉ có được sau nhiều năm khổ luyện.
    Ngược lại, Tư Đồ Sảng học pho Du Long Thần Quyền dưới sự chỉ bảo tận tình của phụ thân. Dĩ nhiên, Tư Đồ Quát dã truyền lại cho con trai những yếu quyết, mà ông đã thu hoạch được.
    Điếu này đã khiến cho Tư Đồ Sảng dễ dàng vươn đến cảnh giới thượng thừa của pho quyến. Vả lại, chàng chỉ luyện có một thứ quyền pháp, bảo sao không tinh thông cho được?
    Tư Đồ Sảng giống cha ở tính rạch ròi, thẳng thắn, ghét ác như kẻ thù, nên giờ đây chàng quyết không tha cho Lăng Khải Trạch.
    Tư Đồ Sảng dồn toàn lực thi triển pho trường quyền núi Cổ Sơn, lạnh lùng giáng những đòn nặng nề vào thân xác họ Lăng. Và trước khi gã kịp nhận bại để toàn sinh, chàng xuất chiêu Ngư Long Bái Vỹ ( cá rồng vẫy đuôi ) đá văng gã khỏi mép lôi đài, rơi xuống đất.
    Thủ hạ của Lăng Khải Trạch chạy đến xem xét thương thế rồi mau chóng cõng chủ nhân rời sinh đề đốc. Họ Lăng mà không chết thì cũng phải liệt giường ít nhất ba năm. Tư Đồ Sảng biết rõ mình đã đánh dập gan của gã.
    °
    °
    Ba hôm sau, Triển Phi Hoan đang nằm dưỡng thương, người dán đầy những lá cao trị bỏng, chợt nghe hai ả nữ tỳ đi ngang hành lang bàn về lễ đính hôn của Tư Đồ Sảng và Mạc Chiêu Hương. Gã lập tức ngồi bật dậy, mặc y phục chỉnh tề, đi tìm chủ nhân.
    Gã hói thăm thì được biết Tư Đồ Sảng đang Huyết Báo và mẹ con Mạc lão thái uống trà trong phòng khác nhỏ. Gã rảo bước đến đấy, được mọi người niềm nở mời ngồi.
    Phi Hoan an toạ, cố nhấp hớp trà thơm rồi ấp úng hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Dám hỏi công tử lễ đính hôn sẽ tổ chức ngày nào?
    Tư Đồ Sảng ngượng ngùng đáp:
    - Trưa mai!
    Triển Phi Hoan gật gù, hít một hơi dài để lấy dũng khí rồi ngập ngừng nói:
    - Ta... ta có một ước nguyện nhỏ nhoi. Mong công tử đáp ứng cho!
    Tư Đồ Sảng ngạc nhiên không hiểu song cũng gật đầu:
    - Triển túc hạ cứ nói!
    Sau lần đả lôi đài vừa rồi, chàng đã nhìn rõ bản chất cương liệt, trung thành và tận tuỵ của họ Triển nên rất kính trọng, mến mộ. Những người khác trong nhà cũng vậy.
    Phi Hoan nhìn chàng với ánh mắt thiết tha, đầy hy vọng:
    - Nay công tử đính hôn mà không có trưởng bối bên cạnh, ta muốn được đóng vai huynh trưởng của công tử, liệu có được chăng?
    Trong lúc Tư Đồ Sảng còn ngơ ngác trước yêu cầu lạ lùng kia, Phi Hoan buồn rầu nói tiếp:
    - Ta mồ côi cha từ trong bụng mẹ, làm bạn với khỉ vượn, nên lòng khao khát có được một người anh em. Nay tình cờ gặp công tử có cái mũi giống ta khiến lòng này vô cùng quyến luyến, chứ chẳng phải là mưu đồ lợi lộc gì cả. Ta chỉ mong được một lần làm anh rồi trở về với phận nô bộc cũng cam lòng.
    Cả nhà ngẩn người xúc động trước tâm tình của gã trai bất hạnh. Riêng Tư Đồ Sảng bỗng nghe buồn dào dạt một tình cảm yêu thương nồng ấm. Chàng điềm đạm nói:
    - Tại hạ cũng là kẻ mồ cổ, không huynh đệ, xin gọi túc hạ là anh, không chỉ một lần mà là mãi mãi.
    Và chàng vái gã rồi gọi:
    - Triển đại ca!
    Mạc Chiêu Hương thấy vậy cũng đứng lên nghiêng mình thi lễ thỏ thẻ:
    - Tiểu muội bái kiến đại ca!
    Phi Hoan vui mừng khôn xiết, toét miệng cười và xua tay nói:
    - Miễn lễ! Miễn lễ! Hai em cứ bình thân.
    Liễu Mộ Hào phì cười:
    - Mẹ kiếp! Ngươi đâu phải là vua mà ăn nói như thế!
    Họ Triển hổ thẹn cười nói giả lả:
    - Tiểu đệ mừng quá nên chẳng biết nói sao, đành bắt chước mấy gã đóng tuồng!
    Mạc lão thái hắng giọng, vui vẻ nhận xét:
    - Này Triển hiền điệt! Tuy mắt miệng và khuôn mặt của ngươi khác hẳn với Sảng nhi nhưng lão thân cho rằng hai người còn giống nhau ở chỗ cùng ngốc nghếch, thực thà.
    Ba bỗng che miệng cười khúc khích và hỏi Phi Hoan :
    - À! Thế ngươi sờ vú mẹ đến năm mấy tuổi?
    Mạc Chiêu Hương đỏ mát vì nhớ lại chuyện cũ rồi bỏ chạy về phòng kll.
    nghe Phi Hoan cười hề hễ đáp:
    - Tất nhiên là thua xa Sảng đệ! Đến năm bổn tuổi là tiểu điệt không còn được ngú chung với gia mẫu nữa rồi.
    °
    °
    Mùa đông đã thực sự ngự trị vùng Hoa Bắc, khắp nơi phủ trắng một màu tang tóc. Vịnh Bột Hải đóng băng và sông ngòi trong và ngoài thành Trực Cô cũng vậy.
    Trực cô nằm trên bờ sông Hải Hà và lặ nơi tụ hội, đổ ra biển của năm nhánh sông đào là nam Vận Hà, Bắc Vận Hà, Tử Nha Hà, Đại Thanh Hà, Vĩnh Định Hà. Đồng thời cũng là chốn quy tụ rồi ra biển của năm con sông khác. Tử Nha Tâm Hà, Độc Lưu Giảm Hà, Định Tân Hà, Triều Bạch Tây Hà, Kế Vận Hà.
    Chính vì địa thế ấy mà Trực Cô trở thành hải cảng quan trọng nhất Hoa Bắc, với clúều dài bờ biển là hơn ba trăm dăm.
    Sông ngòi ở phủ Trực Cô ( tức Thiên Tân sau này ) ngang dọc như bàn cờ, đê tự nhiên và đê nhân tạo uốn khúc vươn ra tận biển. Đặc biệt có con đê cổ bằng vỏ sò, là một kỳ quan trên bình nguyên duyên hải.
    Ra giêng Tư Đồ Sảng cũng sẽ đưa Chiêu Hương về Lạc Dương nên giờ đây hai người tranh thủ cải trang du ngoạn khắp vùng, mặc cho tuyết rơi mù mịt và gió Đông Bắc thét gào. Họ đều có nội công thâm hậu nên chịu đựng dễ dàng thời tiết khắc nghiệt chốn này.
    Cái lạnh thấu xương đã íàm cho họ gần gũi nhau hơn và đến đêm đầy tháng chạp thì họ hòa lầm một. Tối hôm ấy, hai người chuyện trò đến đầu canh ba, Chiêu Hương cáo từ trở lại khuê phòng.
    Tư Đồ Sảng lắc đầu, nhìn vị hôn thê bằng ánh mắt khát khao cháy bỏng. Chiêu Hương hiểu ý, mặt hoa đỏ bừng như say rượu, để phu tướng bồng mình đặt lên giường. Lát sau, thân hình nõn nà, khiêu gợi của nàng run lên dưới bàn tay và đôi môi nồng nhiệt của Tư Đồ Sảng.
    Mạc Chiêu Hương là vưu vật hiếm có của tạo hóa, ngực nở, eo thon, chân dài, da dẽ mịn màng, trắng trẻo. Nàng đủ các tướng đa tình, song vì quá tự hào về nhan sắc của mình mà mãi đến tuổi hai mươi chín mới gặp được người vừa ý.
    Đêm nay, dục tính bao nhiêu năm bị đè nén chợt bùng lên, Chiêu Hương cuồng nhiệt hiến dâng, mang lại cho Tư Đồ Sảng những cảm giác khoái lạc ngút ngàn và cũng nhận lại không ít những lần bồng bềnh trên đỉnh sóng tình.
    Gần sáng, đôi uyên ương thỏa nguyện vu sơn, nằm cạnh nhau lắng nghe con tim rộn rã những nhịp yêu đương. Chiêu Hương bỗng thỏ thẻ:
    - Tướng công có biết nguyên nhân vì sao mà thiếp lái ghét bỏ Liễu sư huynh vâ luôn tìm cách hãm hại y khỏng?
    Tư Đồ Sảng lấc đầu:
    - Ta cũng thắc mắc vì điều ấy vì bản chất nàng thiện lương, nhân hậu, chẳng hề ác độc.
    Chiêu Hương ngượng ngùng kể lể:
    - “Năm thiếp mười sáu tuổi thì nhan sắc đã rực rỡ, nổi tiếng đất Cam Châu nên sinh lòng kiêu ngạo, xem nam nhân trong vùng như cỏ rác. Liễu sư huynh thấy thế thường nhỏ nhẹ khuyên bào nhưng thiếp không nghe. Mộ Hào giận dữ cười nhạt, ngâm hai câu thơ:
    Giai nhân tự cổ như danh tướng
    Bất hứa nhân gian kiến bạch đầu.
    Và y còn nói:
    “Người đẹp thường chẳng thọ, sư muội lại thiếu lòng nhân, vui cười trước sự, đau khổ của kè khác khiến ngu huynh càng thêm lo lắng”. Dứt lời y bỏ đi ngay.
    Kể từ hôm ấy thiếp bị ám ảnh bởi việc chết non, lo lắng sợ sệt, bất an suốt mấy tháng trời. Đến khi bình tâm lại được thì nỗi oán hận Mộ Hào đã quá sâu”.
    Kể xong, nàng ứa lệ, run giọng hỏi Tư Đồ Sảng:
    - Tướng công! Nay thiếp gặp được chàng, hạnh phúc như người lạc cỏi tiên nên nỗi ảnh năm xưa lại hiện về. Thiếp không được cùng chàng chung sống đến bạc đầu.
    Tư Đồ Sảng suy nghĩ một lúc rồi dịu giọng an ủi nàng:
    - Đúng là thế sự vô thường, yểu thọ khó lường, nhưng việc sinh tử vốn không liên quan đến nhan sắc và tài ba. Nghĩa là hai câu thơ cổ kia đã sai vì trong lịch sử có khá nhiều tướng tài sống rất thọ. Điển hình là Ngô Khởi, Bạch Khởi, Liêm Phay thời Chiến Quốc, và Hoàng Trung, Triệu Vân thời Tam Quốc. Còn trong các đại mỹ nhân thì Tây Thi, Điêu Thuyền đều sống đến lúc răng long, tóc bạc.
    Chàng dừng lại, tát yêu vào má nàng và cười bảo:
    - Do nàng được song thân và nhất ngươi thân yêu thương, khen ngợi quá nhiều nên sinh lắm tự hào về nhan sắc. Thực ra, mỹ nhân như nàng khòng phải là hiếm. Khi về Thúy Phong Cốc, nàng sẽ thấy Phi Tuyết, Phi Hồng kiều diễm chẳng kém.
    Trong lúc Chiêu Hương chết điếng vì hồ thẹn, Tư Đồ Sảng vuốt ve ngực nàng mà tiếp lời:
    - Họ chỉ thua nàng ở hai quả dừa này thôi!
    Chiêu Hương thẹn quá hóa giận, đấm thùm thụp vào ngực tình quân. Nhưng lát sau nàng bật cười khúc khích:
    - Thiếp đúng là kẻ ngu xuẩn, hồ đồ bao năm tự huyễn hoặc mình là đệ nhất mỹ nhân. Giờ thì thiếp đã tỉnh ngộ và không còn sợ chết non nữa.
    Hai người ân ái thêm một hiệp rồi Chiêu Hương trở lại khuê phòng. Họ mới chỉ đính hôn, không thể ôm nhau ngủ đến sáng bạch được.
    Nàng đi rồi, Tư Đồ Sảng nằm thao thức, suy nghĩ về câu chuyện lúc nãy. Chàng chợt hiểu ra rằng thế gian lắm kẻ u mê, tự phủ hào quang lên bản thân, cho mình là thượng đẳng, vượt trên đồng loại và luôn muốn chứng minh sự siêu việt ấy. Tần Cốc Lý, Lăng Song Tường, Nam Hải Tiên Ông cũng đều như thế. Và đấy cũng là tật xấu của những vị hôn quân trong lịch sử Trung Hoa. Họ xưng là con trời, có toàn quyến hành động, cư xử, bất kể hạnh phúc của lê dân và sự tồn vong của xã tắc. Kẻ tự tôn bao giờ cũng ích kỷ. Vua quan một giuộc như nhau nên lương thổ đã có lần rơi vào tay giặc Mông, nỗi nhục ngàn đời cho một nước vẫn tự hào là vĩ đại.
    Tư Đồ Sảng thở dài, nhắm mắt dỗ dành giấc ngủ. Chàng mơ thấy thủ cấp của mình treo trên quan ải, mắt trợn trừng đầy uất hận, nhìn đoàn quân Mông Cổ lũ lượt qua ải mà vào Trung Thổ.
    °
    °
    Đêm đông giá rét thường quá dài đối với kẻ cô đơn người lữ thứ, nhưng lại quá ngắn với đôi tình nhân đang hồi nồng thắm. Thượng tuần tháng chạp trôi mau dù hàng đêm có hai kẻ trong đám thanh xuân, cố níu kéo thời gian bằng những trặn ái ân nóng bỏng.
    Tuy đang lặn hụp trong biển tình, Tư Đồ Sảng vẫn không quên mối gia thù cũng như bai ngườì vợ hiền đang tựa cửa trông chồng.
    Ngày ngày, chàng ra hoa viên rèn luyện võ nghệ, chẳng quản tuyết sương. Thấy vậy, Mạc Chiêu Hương và Triển Phi Hoan cũng không dám chểnh mảng. Tư Đồ Sảng hài lờng, dạy cho họ pho Trung Tinh bộ pháp. Huyết Báo đã được học từ dạo trước, giờ có thể vênh mặt làm thầy gã họ Triển.
    Nlhưng tối đến, trong khì Tư Đồ Sảng tĩnh tọa. luyện Khô Mộc Thần công thì hai gã Liễu, Triển biến mất.
    Nơi họ đến là những kỹ viện trong thành Trực Cô. Ở đấy, Triển Phi Hoan được tiếp đón như một thượng khách,vì ba lí do. Một là gã đã lừng danh hảo hán sau trận đả lôi đàí ở dính đề đốc. Hai là gã rất sòng phẳng chẳng bao giờ ỷ thế mà chơi quỵt hoặc thiếu chịu. Ba là gã rất kiêu dũng, bền bỉ, làm hài lòng những ả kỹ nữ lão luyện nhất.
    Liễu Mộ Hào tuổi đã khá lớn, sức lực chẳng thể bì với họ Triển, song lại được ái mộ hơn. Nguyên nhân cực kỳ đơn giản, họ Liễu rất hào phóng, luôn thưởng thêm hậu hĩnh.
    Triển Phi Hoan thì khác, gã chỉ trả đúng giá, không thêm bớt một trinh nào cả. Gã không tài nào hiểu nổi tại sao Mộ Hào phải đưa mười lượng khi giá dịch vụ chỉ lâ năm?
    Và Phi Hoan cũng không biết rằng Mộ Hào đã lén thưởng cho những nàng phục vụ gã. Nhờ vậy mà nơi nơi đều vui vẻ nghênh đón cả hai người.
    Sức lực của Phi Hoan thật đáng nể, tối nào cũng nài nỉ họ Liễu cùng mình đến thanh lâu. Mộ Hào không đi thì sẽ đi một minh.
    Tối ngày mười một tháng chạp, Phi Hoan hăng hái rảo bước dưới làn mưa tuyết, tìm đến phố Quản Trọng, nơi tập trung thanh lầu, kỹ viện của Trực Cô.
    Quản Trọng, tướng quốc nước Tề, là người đầu tiên xem nghề mãi dâm là một ngành kinh doanh hợp pháp, có những đóng góp đáng kể vào ngân sách quốc gia. Chính ông đã quy định các kỹ viện phải quét vôi màu xanh, từ đó có từ “thanh lâu”.
    Vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên khi người Trực Cô lấy tên ông ta mà đặt cho con đường có lắm gái lầu xanh.
    Trực Cô nối liền với biển Bột Hải bằng đoạn hạ lưu Hải Hà dài hơn trăm dặm. Hải Hà có bề ngang rộng, luồng nước khá sâu, thuyền buồm thời bấy giờ lại không lớn lắm, nên chúng thường ngược giòng sông Hải, vào đến tận bến cảng ở phía Nam thành, chứ không thả neo ở cửa biển Đại Cô.
    Hầu hết các thuyền ấy là của ngoại bang, Bồ Đào Nha, Hà Lan bởi thế cho nên thành Trực Cô có rất nhiều những thủy thủ mắt xanh, mũi lõ tóc vàng, người đầy lông lá.
    Bọn Tây Dương khoái nhất hai món ăn nhậu và đàn bà, đêm đêm ngất ngưởng bá vai nhau mà đến phố Quản Trọng. Họ rất hung hăng, dữ tợn, khi say thường choảng nhau để giành gái.
    Do địa bàn phức tạp như vậy nên lực lượng tuần tra của quân nhà Minh ở đây rất đông đảo, túc trực ngày đêm.
    Tuy cực khổ như thế nhưng bù lại bọn lính tuần được các chủ quán rượu, chủ thanh lâu bồi dưỡng khá hậu, khi đến ngăn cản hành vi càn quấy của đám khách Tây Dương.
    Tóm lại, đường phố trong thành Trực Cô rất an ninh nên Triển Phi Hoan mới dám rong chơi, không sợ sự báo thù của Hạo Thiên Cung.
    Song, nhớ lời dặn dò của Tư Đồ Sảng, gã luôn mang theo vũ khí. Thanh đao của Phi Hoan ngắn hơn đao thường một gang tay nhưng nặng gấp rưỡi, có thế mới xứng với thân hình ngắn ngủn và sức khỏe phi thường của gã.
    Phố Quản Trọng rất dài và các thanh lâu tập trung ở đoạn cuối gần cửa Nam thành, tức là gần bến cảng, chứ không nằm rải rác.
    Khi còn cách khu vực ấy nửa dặm, Triển Phi Hoan bị chặn lại và ngỡ ngàng nhìn tòa trang viện bên mé hữu mình. Thường ngày, cơ ngơi ấy chẳng hề buôn bán gì, sao tối nay lại trương bảng Xuân Tình kỹ viện thế kia. Bảng này được chiếu sáng bởi một cặp đèn lồng phất giấy hổng.
    Và kẻ chặn đường Triển Phi Hoan chính là hai ả trẻ măng và bội phần xinh đẹp. Họ níu áo gã mời chào:
    - Bổn viện mới khai trương sáng nay, toàn là những tiểu cô nương kiều diễm và ngây thơ, có cả vài nàng nhụy còn phong kín, động đào chưa ai mở lối. Triển đại ca là bậc anh hùng, lại khét tiếng phong lưu, xin hãy dừng gót ngọc, ghé vào mở hàng cho chúng em. Bậc quý nhân như đại ca sẽ mang đến hồng vận, khiến sinh ý của Xuân Tình viện được thịnh vượng.
    Được người đẹp hết lởi tán dương, họ Triển vô cùng khoan khoái, mũi phập phỗng nở to.
    Nhưng gã đã khôn ra, nhờ thường xuyên tiếp xúc với bọn kỹ nữ. Kỹ viện là một nơi gian xảo, lọc lừa bậc nhất thiên hạ, chẳng thua gì chốn quan trường.
    Song, đối với một gã ruột ngựa và ngoan cố như Phi Hoan thì bọn kỹ nữ có dỗ bao nhiêu mánh khóe cũng chẳng moi thêm được xu nào. Vì thế, họ thực thà với gã và còn dạy cho gã rất nhiều điều để khơi sáng cái đầu bã đậu, quê mùa.
    Nhờ vậy mà giờ đây gã còn tỉnh táo để suy nghĩ chứ không cắn câu ngay. Phi Hoan thản nhiên luồn tay qua áo lông cừu của kỹ nữ đang níu tay mình mà sờ nắn nhũ phong, miệng thì nói:
    - Để ta xem thử các nàng đúng là hàng mới hay là đã tã như chiếc mền rách rồi.
    Ả kia nghe vậy không dám phản kháng, để mặc gã thám tra. Có lẽ ả mới vào nghề son phấn nên chưa quen, mặt đỏ bừng như gấc.
    Phát hiện da thịt đối phương rất sân chắc, Phi Hoan hài lòng gật gù:
    - Tốt lắm! Nàng qủa là thực thà! À! Thế giá cả bao nhiêu?
    Ả kia run giọng đáp:
    - Bẩm đại ca! Bổn viện mời ngài khai trương giùm nên chỉ lấy nửa giá nơi khác.
    Phi Hoan khoái chí theo hai ả vào trong. Gã không biết rằng khi mình vừa đi hết sân trước, bước qua cứa thuỳ hoa, thì đèn lồng cùng bảng hiệu phía trước kỹ viện đã bị gỡ.
    Và lúc Phi Hoan phát hiện ra rằng khung cánh nơi đây chẳng có gì giống kỹ viện thì đã muộn. Một mùi thơm hăng hạc xộc vào mũi họ Triển, làm cho gã mê man, khuy xuống. Hai ả kỹ nữ giả hiệu kìa lập tức lôi xệch nạn nhân vào một phòng sáng đèn, trong dãy nhà mé Bắc.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Triền Phí Hoan tỉnh lại, nhận ra mình đang bị trói chặt vào một chiếc cột gỗ ở tư thế đứng, trên thân chỉ còn lại chiếc quần đùi. Nhưng gã không thấy lạnh vì gần đấy là một lò than hồng.
    Trong căn phòng không có cửa sổ này đèn nến sáng trưng nên Phi Hoan nhìn thấy rất rõ dung mạo của nữ nhân áo hồng đang ngồi trên cỗ đại ỷ, cách gã hơn trượng. Sau lưng người ấy là hai ả đã mời chào và hạ thủ Phi Hoan.
    Họ Triển thầm chột dạ kinh hãi nhận ra cung chủ Hạo Thiên Cung Lăng Song Tường. Gã biết mình chết là cái chắc vì chân khí đã bị phong tỏa. Và dù cho võ công còn nguyên vẹn, tay chân được tự do thì gã cũng không địch lại đối phương. Nhưng vì sao mụ ta không giết gã ngay phải chăng muốn dùng đòn tra tấn để tìm hiểu về Tư Đồ Sảng?
    Lăng Song Tường lên tiếng:
    - Chắc ngươi đã nhận ra lão thân là ai rồi chứ?
    Phi loan gật đầu vì biết rằng chối cũng vô ích. Trong đại hội võ lâm, gã đã ngu ngốc đứng ra làm trò cười cho nửa vạn người, giờ không thể nói là không tham dự.
    Lăng cung chủ nói tiếp:
    - Lão thân đã biết rõ Tư Mã Khôi chính thị Tư Đồ Sảng hóa trang, và gã ấy mới là kẻ thù của ta chứ không phải ngươi. Do vậy, lão thân sẽ mở cho ngươi một sinh lộ, sống chết là do ngươi tự quyết định lấy.
    Triển Phi Hoan đã mờ mờ hiểu ra, điềm tĩnh đáp:
    - Xin cung chủ cứ nói rõ cho ta nghe thử.
    Lăng Song Tường hài lòng gật đầu và hỏi:
    - Ngươi lĩnh lương của Tư Đồ Sảng một tháng bao nhiêu ngân lượng?
    Phi Hoan đáp ngay:
    - Năm chục lượng! Chưa kể chi phí ăn ở.
    Lăng Song Tường cười nhạt:
    - Kể ra thì cũng hậu nhưng lão thân e rằng không đủ cho một kẻ ngày nào cũng mò đến kỹ viện như ngươi.
    Bà ta nói rất đúng và thực ra Phi Hoan được đối xử rộng rãi hơn nhiều. Gã chưa kịp cạn túi thì đã được Huyết Báo nhét cho một, hai trăm lượng, bất kể đã đủ tháng hay chưa. Họ Triển biết đấy là hảo ý cua Tư Đồ Sảng, lòng thầm biết ơn nhưng chẳng bao giờ nói.
    Lăng cung chủ nói tiếp:
    - Dẫu người có phục vụ cho Tư Đồ Sảng đến già thì cũng không thể nào khá được. Vì thế lão thân đề nghị cái giá hai ngàn lượng vàng nếu ngươi ám sát được Tư Đồ Sảng.
    Và mụ gằn giọng hăm dọa:
    - Ngươi có muốn từ chối cũng khó vì lão thân đã cho ngươi uống một viên Thất Nhật Đoạn Trường Đan. Trong bày ngày, nếu ngươi không mang được thủ cấp gã Tư Đồ Sảng chết bầm ấy đến đây thì sẽ toi mạng.
    Phi Hoan biết mụ ta nói thật. Mụ sẽ chẳng dại gì thả gã ra trước khi nắm chắc sinh mạng. Uy hiếp xong, Lăng Song Tường lại dùng đến chiêu dụ dỗ:
    - Ngươi cứ yên tâm mà hành động. Lão thân xin đem tổ tiên họ Lăng ra bảo đảm rằng sẽ giữ đúng lờỉ hứa, giải độc và tặng ngươi số vàng hai ngàn lượng. Hơn nữa, tại sao ngươi lại phải chết vì một kẻ người dưng. nước lã như Tư Đồ Sảng? Ngươi chỉ là một thứ nô tài lãnh lương tháng của gã thôi mà.
    Mụ tin rằng Phi Hoan sẽ bị khuất phục bởi sự sợ chết, bởi hơi vàng, hai thứ có uy lực nhất trên đời.
    Lăng Song Tường không thể ngờ rằng Phi Hoan thà chết chứ chẳng bán Tư Đồ Sảng, dù với giá nào cũng vậy.
    Khi đã cam tâm đi vế cõi vĩnh hằng, tâm hồn Phi Hoan rất bình thản, sáng suốt. Gã suy nghĩ rất nhanh: Mẹ kiếp! Đằng nào cũng chết, ta phải tìm cách gỡ gạc con mẹ điếm non này mới được.
    Và gã nghiêm nghị nói:
    - Thú thực với cung chủ là tại hạ háo sắc hơn háo tài. Do vậy, tại hạ sẽ không lấy vàng mà chỉ muốn cùng cung chủ ân ái một đêm. Có thế thì tại hạ mới yên tâm hạ thủ Tư Đồ Sảng. Đã cùng chung chăn gối thì cung chủ sẽ không nỡ giết ta khi đại sự đã thành.
    Lăng Song Tường choáng váng và hổ thẹn, không ngờ gã quỷ lùn kia lại đưa ra một yêu cầu oái ăm như thế. Bà ấp úng nói:
    - Ta cho hai cón bé xinh đẹp cùng hầu hạ ngươi có được chăng?
    Phi Hoan cười khổ:
    - Trẻ như họ thì các thanh lâu chẳng thiếu. Ta chỉ muốn nếm thử hương vị của người đàn bà nổi tiếng nhất võ lâm đương đại mà thôi. Hơn nữa, cung chủ còn kiều diễm hơn bội phần.
    Lăng Song Tường được tán dương, lòng vô cùng khoan khoái. Nhưng bà giả vờ giận dữ nạt:
    - Sinh mạng ngươi ta đang nắm trong tay, đừng đòi hỏi quá mức!
    Phi Hoan ngửa cể cười dài:
    - Bà có thể giết ta nhưng sẽ không có được cái đầu của Từ Đồ Sảng! Triển mỗ vốn không sợ chết. Bà cứ hỏi Lăng Khải Trạch thì biết! Ta là quái nhân dị dạng nên suy nghĩ khác hẳn người thường.
    Lăng Song Tường ngẩn người không biết tính sao. Và mắt bà tình cờ đặt vào thân trên vạm vỡ, cuồn cuộn bắp thịt của Phi Hoan, lát sau, lửa dục bùng lên. Hơn hai tháng nay, Môn Xuyên Bá Đao Tần Cốc Lý nằm liệt giường vì vụ nổ lôi đài ở đại hội võ lâm, khiến Song Tường phải đơn côi lúc đông về. Bà luyện Lô Hoả Tấm Pháp nên lửa dục rất vượng.
    Lại nhớ đến đứa con trai yêu quý đang thập tử nhất sinh, Song Tường vô cùng căm giận Tư Đồ Sảng, quyết lấy mạng chàng bằng mọi giá. Dinh đề đốc được canh gác nghiêm mật và trong thành đầy dẫy quán binh nên bà chẳng dám trực diện báo thù đành phải mượn tay Phi Hoan. Hơn nữa, bản lãnh của Tư Đồ Sảng rất cao siêu, sức lực lại dồi dào, dễ dàng phá vây mà đào tẩu.
    Vì những lý do nêu trên mâ Lăng Song Tường cắn răng chấp thuận đề nghị của Phi Hoan.
    Hai ả nữ đệ tử bị đuổi ra khỏi mật thất, vừa đi vừa tức tối, chửi rủa. Phi Hoan là kẻ quái đản, ngu ngốc, thích rơm khô hơn cỏ non.
    Ở đây, Lăng Song Tường điểm thêm vài huyệt trên người Phi Hoan rồi cởi trói cho gã. Bà bẽn lẽn nói:
    - Ngươi đừng bao giờ nghĩ đến chuyện ám toán lão thân mà hoài công.
    Phi Hoan mỉm cười, vươn tay vươn chân cho giãn gân cốt rồi bế xốc Lăng Song Tường đi về phía chiếc giường bát bửu đặt sát tường mật thất.
    Chỉ một lát sau, tiếng rên rỉ vì khoái lạc vang lên, Song Tường xiết chặt lấy tấm thán cường tráng của họ Triển, liên tiếp rùng mình.
    Phi Hoan thần dũng tuyệt luân lại có lối ái ân rất mãnh liệt. Song lại đáp ứng được nỗi khát khao của người đàn bà dâm đãng như Lăng Song Tường. Gã đã cho bà ta nhiều lạc thú hơn là Tần Cốc Lý.
    Mây mưa nối tiếp mây mưa, đến sáng bạch Phi Hoan mới chịu đình chiến. Gã cười bảo:
    - Bà có muốn ta ở lại thêm vài ngày nữa không?
    Song Tường đỏ mặt đáp bằng giọng ôn nhu:
    - Ngươi quả là một nam nhân vô cùng tuyệt diệu, khiến ta chẳng muốn xa. Nhưng ngươi không thể ở lại vì sẽ gây sự nghi ngờ. Ngươi hãy vế dinh đề đốc, cố giết cho được Tư Đồ Sảng! Lúc ấy ta sẽ phong ngươi làm tổng hộ pháp Hạo Thiên Cung, cùng nhau hưởng lạc thú và vinh hoa phú quý.
    °
    °
    Phi Hoan vế đến dinh đề đốc, vào thẳng phòng ăn hậu viện, nơi cả nhà đang dùng điểm tâm. Bàng đề đốc không có mặt vì đã đi Bắc Kinh từ mấy ngày trước.
    Mạc Chiêu Hương đon đả nói:
    - Chắc Triển đại ca chưa ăn sáng,hãy cùng dùng điểm tâm với mọi người.
    Phi Hoan mỉm cười:
    - Cảm ơn túc muội! Ta đang đói khủng khiếp.
    Chờ gã ăn vài miếng bánh hấp nhân tôm, Huyết Báo cằn nhằn:
    - Đêm qua ngươi đi đâu mà đến giờ mới trở về khiến cả nhà lo lắng! Thường thì ngươi đâu có qua đêm ở kỹ viện?
    Phi Hoàn chiêu một hớp trà rồi thản nhiên đáp:
    - Tiểu đệ bị Hạo Thiên Cung chủ Lăng Song Tường bắt cóc. Bà ta hiện đang ở trong một tòa gia trang trên phố Quán Trọng. Đại ca có muốn bắt thì kéo quân binh đi ngay kẻo muộn.
    Liễu Mộ Hào biết gã nói thực, suy nghĩ một lúc rồi bảo:
    - Có vậy cũng không bắt nổi mụ ta. Ngươi hãy kể rõ tao ngộ đêm qua xem nào?
    Phi Hoan ăn thêm một cái bánh bao nhân thịt lớn rồi mới thuật lại mọi sự, Do có mặt Chiêu Hương và Mạc Lão Thái nên gã giấu kín cuộc ái ân với Lăng Song Tường.
    Nghe xong, Mạc Lão Thái kinh hãi nói:
    - Thất Nhật Đoạn Trường Đan là bí phương của Y Độc Thần Quân, lão thân cũng phải bó tay. Có thể là nha đầu Lăng Phi Tuyết giải được, nhưng trong bẩy ngày làm sao chúng ta kịp về Lạc Dương?
    Tư Đồ Sảng vô cùng cảm động khi thấy Phi Hoan thà chịu chết chứ không phản bội mình. Chàng bi phẫn nói:
    - Nếu thế, chúng ta chỉ còn cách tấn công ngay, bằng mọi giá phải bắt cho được Lăng cung chủ để lấy thuốc giải độc.
    Triển Phi Hoan xua tay bác bỏ:
    - Vô ích thôi! Hạo Thiên Cung đã cho người giám sát dính đề đốc rất chặt chẽ. Chúng ta mà khởi binh là họ biết ngay và biến mất tăm.
    Chiêu Hương ứa nước mắt, ngập ngừng than thở:
    - Vậy chẳng lẽ chúng ta phải bó tay nhìn Triển đại ca vong mạng?
    Phi Hoan lắc đầu trấn an:
    - Túc muội chớ lo! Thực ra mạng ta cũng chúng đến nỗi nguy ngập lắm. Lăng Song Tường đã đem tông môn ra bảo đảm rằng sẽ đem ta thoát khỏi Trực Cô nếu chẳng may hành sự thất bại. Vài ngày nữa, chúng ta sẽ diễn một màn kịch khổ nhục kế ta mang thương tích đào tẩu, tìm đến với Lăng Song Tường, vì ám toán Sảng đệ sẽ chẳng thành. Các ngươi sẽ kéo quân truy bắt nhưng không được đến phố Quản Trọng. Ta sẽ đi theo Hạo Thiên Cung đến khi được giải độc xong mới quay về.
    Huyết Báo ngạc nhiên, vỗ đùi khen:
    - Chân diệu kế! Sao hôm nay ngươi lại thông minh đột xuất thế nhỉ?
    Phi Hoan cười đáp:
    - Kế này ta học trong tuồng Chu Du đả Hoàng Cái đấy mà! Có gì hay ho đầu.
    Tuy biết đấy là phương án duy nhất để cứu mạng Phi Hoan song Tư Đồ Sảng vẫn thận trọng. Chàng trầm ngầm bảo:
    - Để đề phòng Lăng Song Tường nuốt lời, tiểu đệ và Liễu huynh sẽ ẩn mình trên nóc tòa trang viện ấy. Nếu mụ giở quẻ thì chúng ta liên thủ mà đối phó. Tiểu đệ tự tin sẽ đả thương được đối phương bằng một đòn đánh lén. Sau đó, chúng ta dễ dàng bắt sống Lăng Song Tường hơn. Phần Hương muội sẽ mai phục bên ngoài, khi hữu sự thì vào tiêu diệt mấy ả đệ tử Hạo Thiên Cung.
    Dẫu đã có kế hoạch tốt, nhưng ai nấy cũng nơm nớp lo lắng, chỉ sợ Lăng Song Tường thoát được. Với công lực siêu phàm và tuyệt kỹ Lô Hoả Thần Chỉ, dầu đã thọ thương thì bà ta vẫn có khả năng đào thoát. Khi ấy, mạng của Phi Hoan toi là cái chắc.
    Sầm tối hôm ấy, Phi Hoan thản nhiên mò đến tìm Lăng Song Tường.
    Bà ta cau mày hỏi:
    - Sao ngươi không ở nhà tìm cách hạ thủ mà đến đây làm gì?
    Phi Hoan cười nhạt:
    - Giờ này Tư Đồ Sảng còn thức, ta làm sao hành động được. Hay nàng muốn ta chết theo gã? Vả lại, tối nào ta cũng đi, nếu ở nhà chẳng phải sẽ gây nghi ngờ sao?
    Và gã tình tứ nói nhỏ:
    - Hơn nữa, ta nhớ nàng quá. Chúng ta cứ vui vẻ đến nửa đêm rồi Hoan này sẽ về dinh rình cơ hội ra tay.
    Được gọi bằng tiếng “nàng” rất ngọt ngào, người đàn bà lớn tuổi kia chợt ngất ngây vì sung sướng. Bao năm qua, Song Tường tìm đủ mọi cách để lưu giữ tuổi xuân bằng cả thuốc quý lẫn tà công. Bà ta đã thành công nhưng vẫn tự hiểu rằng mình sắp sáu mươi.
    Nay được một chàng trai trẻ đắm say đến mức quên cả tuổi tác, bảo sao Song Tường không vui cho được?
    Bà bẽn lẽn nguýt gã:
    - Ngươi thích ta thật sao?
    Phi Hoan gật đầu, cười hề hề, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Lúc này, hai người ở trong phòng phía trên của mật thất nên nhanh chóng xuống dưới, gầy cuộc truy hoan.
    Lần này họ Triển không vội vã, vuốt ve mơn trớn bạn tình rất lâu. Gã đã được bọn kỹ nữ truyền nghề nên biết rõ những thủ thuật gợi tình.
    Phi Hoan thần khen đối phương giỏi thuật trụ nhan, giữ được thân hình săn chắc, gọn gàng, nở nang nhưng chẳng chút mỡ thừa. Có lẽ không cho con bú một ngày nào nên ngực còn rất đẹp. Đột nhiên gã thức ngộ rằng mình thực lòng say mê mụ yêu nữ họ Lăng này. Khổ nỗi, Song Tường lại hơn gã đến hai mươi mấy tuổi.
    Giữa canh ba, Phi Hoan hạ mã đòi về. Song Tường rất lưu luyến nhưng không giữ lại. Và bà dịu giọng dặn dò:
    - Khi hành sự ngươi nên thận trọng, thấy không thoát được thì khoan làm chờ cơ hội khác. Nếu lỡ bại lộ, ngươi cứ vừa về đây mà trốn. Nơi này có mật lộ thông ra ngoài, dẫu ngàn quân vây hãm chúng ta cũng thoát ra được
    Phi Hoan cảm động, hôn lên má kẻ thù, biết rằng diệu kế của mình sẽ thành công. Không phải là khổ nhục kế mà là vu sơn kế, ái ân đã khiến Song Tường yêu mến gã.
    Từ đó, tối nào Phi Hoan cũng đến thăm cung chủ Hạo Thiên Cung và trở về lúc nửa đêm. Nhưng Song Tường không quên mối hận với Tư Đồ Sảng, mở lời nhắc nhở kỳ hạn bẩy ngày và bắt đầu sinh nghi.
    Vì thế mà đêm mười sáu tháng chạp dinh đề đốc được một phen náo loạn, đèn đuốc sáng rực. Tiếng người reo hò vang dội. Và sau đó, tỉếng vó ngựa của quân binh gõ vang trên những con phố trong thành Trực Cô.
    Lúc này, Triển phi Hoan đã có mặt bên cạnh Lăng Song Tường để được tình nhân băng bó. Gã kể rằng đã đột nhập vào phòng riêng của Tư Đồ Sảng, vung đao định chém, nào ngờ chàng ta phát hiện, lăn người né tránh nên không chết. Tư Đồ Sảng chỉ bị mũi đao rạch một vết nơi vai trái.
    Phi Hoan đã xấn tới chém với thêm một nhát nữa nhưng Tư Đồ Sảng đã sớm chụp được thanh trường kiếm đặt trong giường, đâm gã một nhát vào ngực phải. Biết đại sự không thành, gã đành phải đào tẩu, may mà thoát chết.
    Lăng Song Tường rất tin câu chuyện ấy vì nhát kiếm rất sâu, đâm gầy một nhánh xương lồng ngực, sắp chạm vào màng phổi.
    Sáng hôm sau, bà cho Phi Hoan uống giải độc đan rồi đưa gã cùng vài đệ tử rời thành Trực Cô.
    Lăng cung thủ không biết rằng đêm qua có hai người nằm phục trên mái ngói. Sau khi chứng kiến cảnh bà tận tình chăm sóc cho Phi Hoan, họ mới bỏ đi.
    Last edited by duyanh; 03-21-2011 at 11:46 AM.

  11. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Album Ngày Nào Em Đi Lấy Chồng








    Ngày nào em đi lấy chồng

    Bước tình Hồng

    Em lễ chùa nầy

    Xuân vui ca

    Em đã thấy mùa xuân chưa

    Mộng ban đầu

    Mừng Xuân

    Như giọt sầu rơi

    Tiễn bước sang ngang

    Gọi anh mùa Xuân



    Last edited by giavui; 05-13-2020 at 05:10 PM.

Trang 3 / 6 ĐầuĐầu 12345 ... Cuối Cuối

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •