Kiệt ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng thẳng cứng nhắc. Mặt Oanh cúi nấp, Kiệt tựa cằm trên tóc nàng, môi ngậm nhấm mấy sợi tóc phất phơ. Sau những dồn nén, thiếu nữ bắt đầu xúc động. Sự xúc động nhẹ nhàng dấy. Như một diễn viên vụng về, Kiệt không biết xoay xở ra sao, chàng vuốt ve mái tóc.


-Em đi chân nên đến chậm.


Nói xong, Oanh khẽ đẩy Kiệt lùi xa. Trán nàng lấm tấm mồ hôi. Nàng bước vào giữa phòng quay dòm phía sau. Cửa vẫn mở rộng. Nàng mỉm cười hỏi ý Kiệt, nàng không nhận thấy chỗ nào nàng có thể tới trong căn phòng.


Kiệt đến bên và chàng lại ôm đầu Oanh vào ngực. Hai người đứng im tại chỗ. Kiệt ngó mông ra ngoài, tới tận những đám cây xa trên con đường còn cao hơn ngọn đồi cư xá. Con đường chạy ngang những dinh thự. Chàng trông thấy những dinh thự bám chênh vênh dưới chân con đường ấy. Dường như Kiệt không biết làm gì hơn là lập lại những cử động chàng đã làm. Oanh cũng vậy. Nàng vẫn cúi nấp đầu nhưng đã bớt hồi hộp. Nàng ở trong vòng tay Kiệt nhẹ như thỏi bông.


Kiệt bắt đầu thấy mình kỳ cục, dị hợm.


-Nói một câu gì đi. Kiệt nói.


-Kỳ cục.


Như được xô sau lưng trên dốc trượt, chàng bật cười vò đầu Oanh. Chàng nghiêng người, nâng mặt nàng ngửa lên nhìn vào. Không hiểu sao, chàng bỏ ý hôn nàng, chàng giữ im nụ cười soi trong đôi mắt thất lạc.


-Kỳ cục thiệt. Kiệt lập lại. – Còn kỳ cục nữa. Anh đang trở về, đang trẻ lại. Giống như thể ngồi sau chiếc phi thuyền tốc độ hơn tốc độ ánh sáng…


Oanh ngơ ngác. Kiệt giải thích thuyết tương đối của Einstein. Chàng nói trôi.


-Em thấy không, anh chỉ muốn đứng, muốn đứng mãi một chỗ như thế…


Oanh không thể hiểu ý và điều này thì chàng không giải thích. Làm sao giải thích những rung động? Muốn đứng mãi một chỗ như một thân cây, một tảng đá, một ngọn núi không chuyển. Và nghĩa là không muố nằm, không muốn tan chẩy, không muốn biến.


Kiệt trẻ lại thật. Không tà ý, bay bổng, chênh chao và khờ khạo.


Chàng bảo Oanh ngồi xuống chiếc ghế trống. Nhà có hai chiếc ghế, một cái vắt quần áo và xếp chồng giấy má. Chàng ngồi ghé mép giường, đánh đàn. Chàng cố gẩy một đoạn trong Liên Khúc Số 3 của Bach. Nhạc tràn trề sinh lực, cao sang, phúc hậu. Bị vấp, chàng hát nối. Hết Bach, đến Brahms, Saint Saens. Chàng mê man như hồi mới lớn buổi tối ngồi trên bao lơn thổi kèn, tưởng tượng cô gái nhỏ bên hàng xóm đang rình nghe.


-Anh hát được vọng cổ. Lúc này anh có thể hát vọng cổ.


Không biết từ lúc nào, mắt Oanh ướt lệ. Mặt nàng ửng hồng như tức thở. Kiệt đang vui, chàng không nén cơn vui và chàng tưởng Oanh cũng say trong niềm hoan lạc bất thường, quá độ.


Hai người chẳng nói chuyện gì ra chuyện gì. Giống như buổi chiều hôm trước, họ biểu lộ những cử chỉ thân ái, nói những câu vô nghĩa đâu đâu. Những câu nói chỉ nhằm mục đích duy nhất giúp họ gần gũi thêm, kéo dài thời gian ở bên nhau.


-Em phải về không?


Oanh lắc đầu.


-Mình ra ngoài cho thoáng.


Buổi trưa đang tới. Nắng gió ào ào từng cơn như buổi trưa gần biển. Những buổi trưa như bữa nay khó ngủ. Gió mở trống Kiệt từng lúc, chàng cứ thấy mình bị thổi tung bay trên cảnh vật giống như nhân vật trong tranh Chagall.


-Sợ không?


-Sợ gì?


-Đi với anh?


Đầu tóc Oanh áp tựa lưng sau. Chiếc xe lao dốc cao, nổ ầm ĩ, chậm hẳn. Kiệt nghe vẳng một đề nhạc trong gió ngược. Một đề nhạc đơn sơ chính chàng bắt được. Chàng âm ư, sửa đi sửa lại tưởng mình như một nhạc sĩ tràn trề cảm hứng.


Họ ghé một nhà hàng xập xệ.


Dẫy quán làm bằng vật liệu chắp vá (gỗ thừng sữa, nhôm thiếc mỏng vỏ hộp lade Mỹ...), dựng mau chóng trong một đêm, trên vỉa hè nhỏ che dẫy nhà đã có trước cũng chẳng sang trọng hơn. Con phố hẹp, dốc, lồi lõm, trông như hàm răng khấp khểnh. Đến đây, thành phố hết nét cá biệt, nó giống bất cứ thành phố nào của một xứ đang chịu chiến tranh tàn phá. Cảnh sống chui rúc, bẩn chật, tạm bợ, lê lết. Khu vực của lính biệt kích, lính đào ngũ, du đãng, anh hùng nhất khoảnh, lúc nào súng cũng có thể nổ, lựu đạn có thể ném vì những chuyện không đâu: một cơn say, một cuộc cãi lẫy, một màn tranh giành, thanh toán…


Quán bán những món bình dân, Kiệt ghé vào vì thuận đường và biết chắc không bị ai quấy nhiễu. Gian quán nín thinh. Bên kia ván vách, có tiếng chân bước lệt xệt, banh bi-a chạm đụng, phấn vạch trên bảng ghi. Không khí nghiêm trang buồn cười.


-Em giống như một ả xẩm.


Cả hai đều không đói. Tuy nhiên họ vẫn ăn thong thả, mỗi người một bát bún riêu lót dạ. Kiệt uống một chai bia.


Trong khi ăn, Kiệt bỗng nhớ đến những ngọn gió bấc cắt da, những hạt mưa nhọn như kim châm, dúm ớt bột tê môi, chảy nước mắt, bát chè tươi bỏng rát lưỡi. Từ bát bún riêu, chàng nói về mùa màng thời tiết, về bầu trời sông nước, về đồng ruộng trái quả, về phố phường thắng cảnh và vô tình chàng tiết lộ những mảnh vụn của một thời ấu thơ và niên thiếu chẳng hề chàng nói với ai.


Oanh mở mắt to chăm chú. Kiệt lại thấy những giọt nước mắt rơi. Chàng không còn tưởng là những giọt hoan lạc nữa, chàng nghĩ, đó là những giọt sầu. Những giọt sầu chung. Chàng cảm động. Tuy nhiên chàng nói:


-Em dễ bị dụ quá há.


-Em bị anh dụ từ lâu rồi. Oanh cười nhếch.


-Sợ không? Hỏi vậy, nhưng chính Kiệt thoáng hãi.


Oanh lắc đầu. Dáng nàng ảo não. Hoặc giả có thể là mầu mờ tối của của gian quán nhơ nhớp ánh trên mặt nàng.


-Đến phiên em nói gì đi.


-Anh muốn em nói gì?


-Nói bất cứ chuyện gì em thích nói.


Kiệt gọi thêm bia.


Oanh im lặng lơ đãng. Chàng tưởng nàng đắn đo suy nghĩ. Chừng quay nhìn, nàng nở nụ cười, trong ánh mắt chiếu tỏ ý thoái thác.


-Cười trừ hả?


Tính Kiệt ghét bị truy nã, và cũng ghét truy nã kẻ khác. Vả lại sự im lặng của Oanh tràn đầy, không bắt Kiệt phải tưởng tượng đến gì khác. Nàng không còn là một cô bé dưới mắt Kiệt. Sự im lặng của nhạc. Sự im lặng như hạt nhân ở chàng ngay những lúc chàng ồn ào. Oanh ngồi thẳng trước món ăn bỏ dở, nhìn chàng và cười, như thế không đủ sao? Chàng đâu cần biết nàng từ đâu tới, nàng sẽ về đâu, trước kia nàng thế nào, sau này nàng sẽ ra sao. Ích gì? Nàng ngồi đó, nhả những sợi im lặng mềm mại bao bọc chàng, che chở chàng trong cơn lảo đảo không đủ sao? Khi mở bừng mắt, nàng biến mất như bóng chim, vừa làm xong chiếc tổ mong manh trên cành bão, vút bay theo cơn giông những ngày tới. Chắc thế.


Trong thoáng, dồn ắp sự im lìm của Oanh biết bao nhiêu ngày qua trong giảng đường ở cuối tầm nhìn của chàng. Gương mặt thuôn thuôn ngước trông lờ lững trong nét cười không hé môi, luôn luôn phảng phất quấn quanh tia mắt giúp chàng nhẹ nhõm trôi đi trong tiếng nói của mình.


Bây giờ, sự im lìm tách rời khung cảnh kề cận trước mắt, như một đốm sáng lập lòe giữa đêm mịt mùng gọi kẻ lữ hành nhắm hướng. Nơi đốm sáng chập chờn kia là gì?


Sau bữa ăn, xong từ lâu nhưng còn kéo dài nữa nếu Kiệt cứ ngồi yên, Kiệt như đã vượt một chặng đường dài. Quay nhìn, chàng không còn thấy chốn đã khởi đi. Chàng chỉ thấy mình đang trên con đường, trước mặt sau lưng là lối trải dằng dặc.


Gần qua buổi trưa trên đồng hồ khi hai người rời quán. Hai giờ hơn. Nhưng buổi trưa thực sự, buổi trưa của ngày chủ nhật ở thành phố nhỏ, chưa dứt. Người ta còn ở trong nhà, chỉ ra phố sau bốn giờ.


Gió và nắng mướt vàng của ngày hè đang độ ửng.


Kiệt rong xe trên con đường đẹp nhất thành phố, cao nhất thành phố. Hai bên dinh thự, biệt thự và sau lưng các dinh thự, biệt thự là lũng sâu. Một bên phố xá, một bên những làng ấp phụ cận. Kiệt thốt thành tiếng một ý tưởng thoáng hiện, rồi nghe Oanh hỏi tới từ phía sau:


-Anh nói gì?


-There will be time, there will be time… Em biết không?


-Không.


-The Love Song of J. Alfred Prufock. Bản tình ca của chàng…


Kiệt rẽ vào con đường dẫn đến các vườn mận nằm trên doi đất cao lọt trong một thung lũng. Cuối đường, một ngôi chùa cất trên một đỉnh đồi.


Đứng trên chùa trông xuống lũng xanh rờn. Mận trồng như rừng bám dài triền vách lũng. Thông rậm tối và cao hơn hơn bên phía thành phố. Chùa như dựng cất trên mỏm gió. Gió ào ạt từ dưới lũng sâu bao quanh thổi lên không lúc nào ngớt. Tiếng gió rộn ràng say sưa đến chóng mặt.


Mặc dầu nắng sáng, Oanh có vẻ bị thấm lạnh khi vừa lên cổng tam quan. Nàng thu nhỏ mình trong vòng tay khoác của Kiệt. Còn Kiệt hoàn toàn nhẹ thênh. Chàng ở giữa trận gió rùng rùng, mê hoặc thính giác và thị giác. Mắt chàng hoen ướt lòa nhòa. Tai chàng lung bùng tưởng chừng đang nghe một dàn nhạc trổ đoạn Allegro.


Ngồi trên bệ gạch trước chánh điện đóng kín, Kiệt định thần. Chàng lắng nghe gió dưới xa, xuyên qua những lớp gió gần vây bọc. Chàng nghe tiếng gió hòa ca bất tận mấy lời chàng thốt tình cờ trên đường, there will be time, there will be time… Rồi chàng nghe lại đề nhạc đơn sơ bắt gặp buổi trưa, đề nhạc triển khai bát ngát vọng dưới các đám rừng. Một lát, đề nhạc rậm rịt, lạc dần, nhập lẫn với những âm điệu trong ký ức, biến thành đoạn khai mở bi tráng của Wagner. Dường như Tristan và Isolde. Lúc ấy chàng biết rằng chẳng bao giờ là nhạc sĩ như mơ ước, chàng chẳng biết cách nào để ghi những tiếng, những nhịp đang bạo hành tâm trí. Chàng bất lực, thoáng buồn. Chàng chỉ là đứa trẻ thổi harmonica trong những chiều hiu quạnh, là người đàn ông mặc binh phục ôm Tây Ban Cầm dạo vài bài phổ thông trước khi vào trại.


Oanh sáp lại bên Kiệt. Nàng cầm bàn tay Kiệt đang buông thõng. Lần đầu tiên nàng tỏ cử chỉ âu yếm, chủ động, Nàng bóp nhẹ bàn tay, gọi chàng tỉnh cơn lơ đãng.


-Buồn không? Kiệt nói chẳng suy nghĩ.


Oanh mỉm cười, lắc đầu.


-Đố biết anh đang nghĩ gì?


Oanh lại lắc đầu.


-Anh muốn có một cây kèn thổi cho em nghe lúc này.


Oanh ngó lảng ra gốc thông trong sân chùa. Mấy đứa trẻ từ dưới ngôi trường tiểu học còn đóng cửa nghỉ hè đang chạy đuổi nhau trên lối dốc.


-Chốc nữa về phố anh sẽ mua cây kèn.


-Để làm gì?


-Để thổi cho em nghe. Một bài thật lãng mạn. Kiệt bắt đầu cười.


-Khỏi. Em nghe thấy rồi.


-Thật không?


Oanh áp má xuống bàn tay nàng đang nắm giữ.


Hai người đứng dậy khi mấy đứa trẻ lên đến trước tam quan. Kiệt cởi áo khoác của mình phủ lên vai Oanh. Họ bước sang mé gần bờ vực nơi trồng những gốc mận. Ở mép sân có một cây lựu thấp, những bụi hồng, cẩm chướng và một gốc hoàng lan.


Suốt gần ba năm, mãi buổi chiều ấy, Kiệt mới cảm nhận được vẻ đẹp chìm đắm ngây ngất của thành phố. Chàng nghĩ mình có thể sống quây quần với gió núi, khí rừng một thời thong dong mà mộng ước không sao phá quấy, làm cho chộn rộn.


Kiệt chui dưới những tàn cây lòa xòa, bứt trộm vài trái mận. Họ cùng nhấm nháp xuýt xoa. Kiệt kể cho Oanh nghe về vườn mận ở bên dưới, không rõ cánh vườn nào, có người thiếu nữ quen Duy. Theo Duy, cô bé đẹp và hiền hậu nhưng tàn tật. Cô bị xe nhà binh tông và bị cưa một bàn chân trái. Nhắc chuyện này, Kiệt sực nhận thấy điểm đặc biệt ở bạn mà từ trước đến nay chàng không chú ý: những người Duy quen thân đều không tật này cũng chứng nọ. Cô “cháu gái” thứ hai trong bốn chị em mắc bệnh phổi, gầy gò yếu ớt. “Góa phụ vui tươi” có đứa con trai mắc bệnh tê liệt. “Người đẹp xứ Thái” ngây ngô trẻ nít.


-Anh ta không bao giờ mời được cô bạn đi dạo phố. Một hai tuần lóc cóc xuống đây thăm, đi dạo với cô ngoài vườn, lượm mận ăn. Trước kia anh cười anh ta lãng mạn lẩm cẩm. Nhưng anh ta thì hài lòng. Mỗi lần xuống đây về anh ấy hớn hở yêu đời lạ. Bây giờ anh hiểu. Vào không khí này chẳng còn cần đi đâu nữa, phải không?


Khoảng gần bốn giờ nắng đã rút khỏi thung lũng. Phía thành phố cây xẫm đen. Trời như đã ngả chiều. Gió vẫn thổi miên man nhưng mang theo khí ẩm lạnh. Khu vực này đêm xuống, đàn ông bỏ nhà ra phố ngủ nhờ.