Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Muốn nhận hạnh phúc thì trước hết phải chia hạnh phúc.
The Flight Of Freedom
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 25

Chủ Đề: Nạn Nhân Thứ Tư

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Nạn Nhân Thứ Tư

    Nạn Nhân Thứ Tư

    Tác giả :Tess Gerritsen



    Hắn lẻn vào những ngôi nhà khi đêm đến. Hắn tiến lại gần mép giường, nơi các cô gái đang ngủ say. Họ sẽ thức dậy và gặp cơn ác mộng kinh khủng nhất trong đời. Tính chính xác trong cách thức hoạt động của hắn cho thấy hắn là một bác sĩ bệnh hoạn, điều đó khiến báo chí gọi hắn bằng cái tên "Bác sĩ phẫu thuật". Dẫn đầu là thám tử Moore và Rizzoli, các cảnh sát tìm ra nạn nhân của một loại tội phạm tương tự. Hai năm trước, bác sĩ Catherine Cordell đã chống cự và giết chết kẻ tấn công mình trước khi hắn có thể hoàn thành việc tra tấn cô.

    Một câu truyện tiết tấu nhanh với những tình tiết ly kỳ. Tất cả những yếu tố đó đã dẫn đến đỉnh điểm căng thẳng và rùng mình

    Đây là một trong những cuốn truyện trinh thám hay nhất... những nhân vật sắc sảo. Nó khiến bạn dán mắt vào từng trang giấy.



    Phần mở đầu
    Hôm nay họ sẽ tìm thấy cô ta.

    Ta biết việc này sẽ xảy ra. Ta có thể tưởng tượng khá sống động các chuỗi sự kiện dẫn đến phát hiện đó. Vào 9 giờ, mấy bà cô ở Hãng lữ hành Kendall và Lord đó sẽ ngồi ở bàn làm việc, những móng tay được cắt tỉa đẹp đẽ của họ đang gõ trên bàn phím máy tính. Họ đang đăng ký chuyến viễn du đến biển Địa Trung Hải cho bà Smith, một kỳ nghỉ ở khu trượt tuyết tại Kloters cho ông Jones. Còn ông bà Brown thì có chút thay đổi trong năm nay. Họ sẽ đến nơi nào đó tuyệt đẹp như Chiang Mai hay bán đảo Madagascar nhưng họ sẽ chẳng gặp chút mạo hiểm nào. Ồ không, một chuyến đi trên hết phải thật thoải mái và dễ chịu. Đó là khẩu hiệu của Hãng lữ hành Kendall và Lord: "Những chuyến đi thoải mái". Đây là một hãng lữ hành đông khách và điện thoại reo liên tục.

    Rồi chẳng bao lâu sau, các bà chị mới nhận thấy Diana không có ở bàn làm việc.

    Một trong số họ sẽ gọi đến khu dân cư Back Bay của Diana, điện thoại reo nhưng không ai nhấc máy. Có lẽ Diana đang ở trong buồng tắm nên không nhận điện. Hay cô ta đã đi làm nhưng chạy cuống cuồng vì đã muộn giờ làm. Người gọi điện sẽ nghĩ rằng hàng chục khả năng tốt lành đến mức hoàn hảo. Nhưng cả ngày trôi qua, và những cuộc gọi liên tục không có ai nhận máy thì người đó sẽ nghĩ đến những khả năng khác đáng lo hơn.

    Ta nghĩ người quản lý tòa nhà sẽ cho phép đồng nghiệp của Diana vào căn hộ của cô ta. Ta thấy ông ta lo lắng xục xạo chùm chìa khóa và nói.

    Cô là bạn của cô ấy à? Cô chắc là cô ấy sẽ không phiền chứ? Vì tôi phải nói với cô ấy là tôi đã cho phép cô vào.

    Họ bước vào căn hộ, cô bạn đồng nghiệp gọi to.

    Diana, cô có nhà không? Họ bắt đầu đi dọc hành lang, qua những tấm áp phích quảng cáo du lịch được đóng khung cẩn thận. Người quản lý đứng ngay sau cô ta để canh chừng xem cô ta có cuỗm vật gì không.

    Rồi ông nhìn lối vào và nhìn giường ngủ. Ông ta thấy Diana Sterling và không còn lo ngại về những việc vụn vặt như việc ăn cắp nữa. Ông ta chỉ muốn ra khỏi căn hộ trước khi bị đuổi.

    Ta muốn có mặt ở đó khi cảnh sát đến nhưng mình đâu có ngu. Ta biết họ sẽ để ý từng ô tô đi qua, từng khuôn mặt trong đám người đứng xem túm tụm bên đường. Họ biết ta rất muốn trở lại đó. Ngay cả bây giờ, khi đang ngồi ở Starbucks, ngắm nhìn một ngày sáng sủa qua cửa sổ, ta vẫn cảm thấy căn phòng đó đang gọi ta quay lại. Nhưng ta rất giống anh chàng Ulysses, an toàn buộc mình vào cột buồm, khao khát điệu hát của nàng tiên cá. Ta sẽ không tự đập đầu vào đá. Ta sẽ không phạm sai lầm.

    Thay vào đó, ta sẽ ngồi uống cà phê, trong khi bên ngoài, cả thành phố Boston đã thức tỉnh. Ta khuấy tan ba thìa đường vào cốc cà phê, ta thích cà phê có vị ngọt. Ta muốn mọi thứ phải như vậy, thật hoàn hảo.

    Một nàng tiên cá ở đằng xa đang mời gọi ta. Ta thấy như thể Ulysses đang cố dứt dây thừng nhưng chúng giữ rất chắc.

    Hôm nay họ sẽ tìm thấy cô ta.

    Hôm nay họ sẽ biết chúng ta đã trở lại.



    Chương 1
    Một năm sau

    Thám tử Thomas Moore không thích mùi cao su. Anh vỗ đôi găng tay, một mùi bột tan bay lên. Cơn buồn nôn mà anh đoán trước cuộn lên trong bụng. Thứ mùi đó gợi lên những việc không mấy dễ chịu trong nghề của anh. Như con chó trong thí nghiệm của Pavlov được rèn luyện để tiết nước bọt trong điều kiện nào đó, mỗi khi ngửi thấy mùi cao su thì anh lại liên tưởng đến những hình ảnh không thể tránh được của máu và những chất dịch trong cơ thể. Cảnh báo về khứu giác đó cứ quấn lấy anh.

    Và bây giờ nó đang xảy ra khi anh đứng ngoài phòng mổ tử thi. Anh vừa từ chỗ nóng bước vào thế nhưng mồ hôi hình như đã làm da anh lạnh toát. Hôm đó là ngày mười hai tháng bảy, một chiều thứ sáu ẩm ướt đầy sương. Khắp thành phố Boston, những chiếc máy điều hòa nhiệt độ kêu xoạch xoạch và nhỏ nước. Nhiệt độ quá cao. Trên cầu Tobin, những chiếc ô tô đã bị lùi lại, chạy về phía bắc, nơi có những khu rừng mát mẻ ở bang Maine. Nhưng thám tử Moore không thuộc số đó. Anh đã bị gọi về khi đang đi nghỉ và phải chứng kiến nỗi sợ hãi mà anh không muốn đối diện.

    Anh mặc bộ đồ dành cho bác sỹ phẫu thuật. Anh đã lấy nó từ ngăn đựng vải lanh ở nhà xác. Giờ anh đội mũ giấy, túm gọn những sợi tóc xõa ra và dùng ủng giấy bọc bên ngoài đôi giày của mình. Anh làm vậy vì thi thoảng anh đã chứng kiến thứ gì đó chảy từ bàn mổ xuống sàn nhà. Đó là máu và những tế bào. Anh không phải là người quá sạch sẽ nhưng anh không muốn đôi giày của mình dính bất cứ dấu vết nào trong phòng mổ tử thi và mang nó về nhà. Anh dừng lại mấy giây ngoài cánh cửa và hít sâu. Rồi anh buộc mình phải đối diện với thử thách đó, đẩy cửa bước vào.

    Cái xác được quấn nằm trên bàn - căn cứ vào hình dáng thì đó là một phụ nữ. Moore tránh không nhìn nạn nhân quá lâu, thay vào đó, anh tập trung vào những người còn sống trong căn phòng. Đó là bác sĩ Ashford Tierney, bác sỹ giám sát y khoa và một nhân viên nhà xác đang xếp các dụng cụ lên khay. Đứng đối diện với Moore ở bên kia bàn là Jane Rizzoli, cũng thuộc bộ phận Điều tra các vụ giết người ở Boston. Rizzoli, năm nay ba mươi ba tuổi, là một phụ nữ nhỏ bé có chiếc cằm vuông. Những lọn tóc bướng bỉnh của cô giấu trong mũ giấy phòng mổ. Thiếu mất mái tóc đen giúp các đường nét mềm mại nên khuôn mặt cô dường như chỉ toàn góc cạnh, đôi mắt sẫm màu lồi ra, nghiêm nghị. Cô đã chuyển từ Bộ phận phòng chống tệ nạn và ma túy sang Bộ phận điều tra các vụ giết người cách đây sáu tháng. Cô là phụ nữ duy nhất thuộc Bộ phận điều tra các vụ giết người. Cô và các thám tử khác đã có mâu thuẫn, bất đồng về việc quấy rối tình dục, bất đồng về những ác ý không dứt. Moore không biết mình có ưa Rizzoli không và cô cũng vậy. Đến giờ họ vẫn giữ mối quan hệ đồng nghiệp nghiêm túc. Anh cho là cô cũng thích như thế hơn.

    Đứng sau Rizzoli là cộng sự của cô, Barry Frost, một viên cảnh sát vui vẻ, vô tư. Khuôn mặt ôn tồn, nhẵn nhụi khiến anh trông rất trẻ dù đã ở tuổi ba mươi. Frost đã làm việc cùng Rizzoli được hơn hai tháng và anh không phàn nàn gì. Anh là người duy nhất thuộc bộ phận này đủ điềm tĩnh để chịu đựng tính khí bất thường của cô.

    Khi Moore lại gần bàn, Rizzoli nói:

    - Chúng tôi không biết khi nào anh mới đến.

    - Tôi đang ở tiểu bang Maine Turnpike thì nhận được tin nhắn của cô.

    - Chúng tôi đã chờ ở đây từ lúc năm giờ.

    - Còn tôi thì mới bắt đầu khám nghiệm bộ phận bên trong - bác sỹ Tierney nói - Vì vậy tôi đã nói là thám tử Moore sẽ đến đây đúng giờ - anh bào chữa cho Moore. Anh đóng mạnh cửa tủ, khiến tiếng động dội lại khắp phòng. Đây là lần hiếm hoi anh tỏ ra tức giận. Bác sỹ Tierney là người thuộc thời vua George chính cống, một người xuất thân ở nông thôn và tin rằng phụ nữ phải cư xử cho ra phụ nữ. Anh không thích làm việc cùng cô Jane Rizzoli dễ nổi cáu.

    Nhân viên nhà xác đẩy khay dụng cụ lại gần bàn mổ. Ánh mắt anh nhìn Moore như thể muốn nói, Anh tin bà cô này không?

    - Xin lỗi về chuyến câu cá của anh - Tierney nói với Moore - Có vẻ như kỳ nghỉ của anh đã bị phá hỏng.

    - Anh có chắc lại là do tên đó không?

    Vừa trả lời, Tierney vừa túm vải trùm, kéo ngược lên, để lộ ra xác chết.

    - Tên cô ấy là Elena Ortiz.

    Mặc dù Moore đã chuẩn bị tinh thần nhưng khi thoáng thấy nạn nhân lần đầu tiên, toàn thân anh bị tác động mạnh.

    Mái tóc đen của người phụ nữ khô lại và bê bết máu. Nó thò ra như lông nhím, khuôn mặt cô màu xanh như bi ve. Môi cô hé mở, như thể cô bị đông cứng khi đang nói dở. Người ta đã lau máu cho cái xác. Trên lớp da đã sẫm lại, những vết thương của cô ngoác ra từ những cái lỗ có màu hơi tím. Có hai vết thương có thể nhìn thấy rõ. Một vết cắt sâu rạch ngang cổ họng, kéo dài từ dưới tai trái, cắt đứt động mạch cảnh, khiến sụn thanh quản lộ ra. Vết cắt rất gọn. Vết cắt thứ hai ở phần bụng dưới. Vết thương này không gây tử vong, nó có mục đích hoàn toàn khác.

    Moore nuốt khan.

    - Tôi đã hiểu tại sao các bạn gọi tôi trở về khi tôi đi nghỉ.

    - Tôi là người chỉ huy vụ này - Rizzoli nói.

    Anh nhận thấy câu đó của cô như muốn cảnh cáo, cô đang bảo vệ lãnh thổ của mình. Anh hiểu tại sao cô làm vậy. Anh hiểu những cảnh sát nữ phải liên tục chịu những lời chế nhạo và thái độ hoài nghi. Và điều đó khiến họ luôn tấn công nhanh. Thực sự anh không muốn thách thức cô. Trong vụ này họ sẽ phải làm việc cùng nhau, và lúc này còn quá sớm để chơi trò tranh giành quyền chỉ huy.

    Anh thận trọng trả lời cô một cách tôn trọng.

    - Cô cho tôi biết tình tiết vụ án chứ?

    Rizzoli gật đầu rất nhanh.

    - Nạn nhân được tìm thấy vào lúc chín giờ sáng nay, tại căn hộ trên phố Worvester, cuối phía Nam thành phố. Cô ấy thường đến nơi làm việc lúc sáu giờ sáng ở khu Cửa hàng hoa Celebration, cách nơi ở của cô ấy mấy tòa nhà. Đây là công việc kinh doanh của cả gia đình, bố mẹ cô ấy là người quản lý. Khi cô ấy không xuất hiện, họ đã lo lắng. Anh trai cô ấy đã đến kiểm tra. Anh ấy thấy cô ấy trong phòng ngủ. Bác sỹ Tierney dự đoán thời gian tử vong vào khoảng mười hai giờ đêm đến bốn giờ sáng nay. Gia đình cô ấy cho biết hiện cô ấy không có bạn trai. Không ai trong khu chung cư thấy bất kỳ vị khách nam nào. Cô ấy là một cô gái theo đạo Thiên chúa, làm việc chăm chỉ.

    Moore nhìn cổ tay nạn nhân.

    - Cô ấy bị trói.

    - Đúng vậy! Có băng dính ống nhựa ở cổ tay và mắt cá chân. Người ta tìm thấy cô ấy trong tình trạng khỏa thân, trên người chỉ có vài đồ nữ trang.

    - Nữ trang gì?

    - Một chiếc vòng cổ, một chiếc nhẫn, hai bông tai. Hộp nữ trang ngay cạnh giường vẫn còn nguyên. Động cơ không phải là cướp tài sản.

    Moore nhìn vệt thâm tím ngang hông nạn nhân.

    - Phần thân cũng bị trói.

    - Có băng dính ống nhựa ngang eo, đùi trên và ngang miệng cô ấy.

    Moore thở dài.

    Lạy chúa! Khi nhìn kỹ Elena Ortiz, Moore thấy một vết cắt khó hiểu khác trên cơ thể một phụ nữ. Đó là cái xác khác - một cô gái tóc vàng và các vết cắt cũng rạch ngang cổ họng và bụng.

    - Diana Sterling - Anh lẩm bẩm.

    - Tôi vừa lấy các báo cáo xét nghiệm tử thi của Diana Sterling ra xem - Tierney nói - Nếu anh cần xem lại.

    Nhưng Moore không xem. Vụ án của Sterling mà anh là thám tử điều tra chính sẽ không bao giờ mờ đi trong tâm trí anh.

    Cách đây một năm, Diana Sterling, ba mươi tuổi, là nhân viên hãng lữ hành Kendall và Lord đã được phát hiện trong tình trạng khỏa thân, bị trói trên giường bằng băng dính ống nhựa. Cổ họng và bụng dưới bị cứa đứt. Vụ giết người đó vẫn chưa phá được.

    Bác sỹ Tierney chiếu đèn kiểm tra vào bụng của Elena Ortiz. Trước đó máu đã được lau bớt, và mép vết rạch có màu hồng nhạt.

    - Tìm được dấu vết nào không? - Moore hỏi.

    - Chúng tôi đã tìm thấy vài sợi vải khi lau chùi cho cô ấy, và một sợi tóc cạnh mép vết thương.

    Moore nhìn lên chăm chú.

    - Của nạn nhân à?

    - Nó ngắn hơn nhiều và có màu nâu sáng.

    - Tóc Elena Ortiz màu đen.

    Rizzoli nói.

    - Chúng tôi đã yêu cầu lấy mẫu tóc của tất cả những người có tiếp xúc với cái xác.

    Tierney chuyển chú ý của họ sang vết thương.

    - Thứ chúng ta thấy ở đây là một vết cắt ngang. Các bác sỹ phẫu thuật gọi nó là vết cắt Maylard. Thành bụng bị cắt từng lớp một. Đầu tiên là da, sau đó đến lớp trên bề mặt, rồi đến cơ, cuối cùng là màng bụng ở khung xương chậu.

    - Giống như Sterling - Moore nói.

    - Đúng vậy, giống với Sterling. Nhưng có vài điểm khác biệt.

    - Khác biệt gì?

    - Vết thương của Sterling có vài vết nham nhở, chứng tỏ hắn lưỡng lự và không chắc chắn. Hãy để ý xem da bị rạch gọn mức nào với vết cắt này. Không hề nham nhở. Hắn làm việc này hết sức tự tin - Tierney nhìn Moore - Con mồi của chúng ta đang rèn luyện. Kỹ thuật của hắn đã tiến bộ.

    - Nếu việc này là do cùng một kẻ bí ẩn - Rizzoli nói.

    - Có những nét tương đồng khác. Hãy nhìn mép hình vuông của vết thương! Nó cho thấy vết rạch đi từ phải sang trái, như vết rạch của Sterling. Lưỡi dao được dùng để rạch vết thương này chỉ có một lưỡi, không có răng cưa, giống lưỡi dao được dùng khi rạch lên người Sterling.

    - Một con dao mổ ư?

    - Nó rất giống một con dao mổ. Vết cắt gọn cho tôi biết lưỡi dao không xoắn. Nạn nhân có thể đã bất tỉnh hay bị trói chặt nên không cử động, không chống cự được. Cô ấy không thể làm cho lưỡi dao chệch khỏi đường đi của nó.

    Barry Frost nhìn anh như muốn buồn nôn.

    - Ồ. Hãy nói với tôi là cô ấy đã chết khi hắn làm việc này!

    - Tôi e rằng đó không phải là vết thương sau khi chết - Chỉ cặp mắt của Tierney lộ ra dưới khẩu trang và chúng ánh lên vẻ giận dữ.

    - Có hiện tượng chảy máu trước khi chết à? Moore hỏi.

    - Máu ộc ra từ khoang xương chậu. Điều đó nghĩa là tim cô ấy vẫn bơm máu. Cô ấy vẫn sống khi... quá trình này được thực hiện.

    Moore nhìn hai cổ tay có hai vòng bầm tím do dây trói. Có những vết bầm tím tương tự ở mắt cá chân, một vùng da bị xuất huyết - đó là chứng xuất huyết đốm trên da - chạy ngang hông cô. Elena Ortiz đã giãy giụa khi trói.

    - Có dấu hiệu khác chứng tỏ cô ấy còn sống trong suốt quá trình hắn rạch cô ấy - Tierney nói - Hãy cho tay vào trong vết thương, Thomas. Tôi nghĩ anh biết anh sẽ thấy điều gì.

    Moore lưỡng lự cho bàn tay đeo găng vào vết thương. Thịt lạnh ngắt do được bảo quản trong kho đông lạnh mấy tiếng. Nó gợi cho anh nhớ cảm giác khi anh thọc tay vào xác một con gà tây và xoay quanh để tìm bộ lòng. Anh thọc sâu đến tận khuỷu tay, ngón tay anh thăm dò mép vết thương. Đây là sự đụng chạm rất gần gũi khi anh thọc sâu vào phần bên trong sâu kín nhất của phụ nữ. Anh tránh không nhìn khuôn mặt của Elena Ortiz. Đây là cách duy nhất để anh xem xét những gì còn lại của cô một cách rành mạch, và cũng là cách duy nhất để anh có thể tập trung vào các kỹ thuật đã được áp dụng trên cơ thể cô.

    - Tử cung đã mất - Moore nhìn Tierney.

    Bác sỹ chuyên khoa gật đầu.

    - Nó đã bị cắt rời.

    Moore rút tay khỏi cái xác, cúi nhìn vết thương ngoác ra như cái miệng. Giờ Rizzoli đã đeo găng tay vào, những ngón tay ngắn của cô run rẩy thăm dò khoang xương hông.

    - Còn vật gì khác bị cắt bỏ không? - Cô hỏi.

    - Chỉ tử cung thôi - Tierney khẳng định - Hắn để phần bàng quang và ruột còn nguyên.

    - Thứ tôi đang cảm thấy ở đây là gì? Dây gì đó nhỏ ở bên trái - cô thắc mắc.

    - Đó là chỉ khâu. Hắn dùng nó để thắt mạch máu lại.

    Rizzoli kinh hãi nhìn lên.

    - Đây là chỉ khâu khi phẫu thuật?

    - Dây ruột mèo cỡ 2-0 - Moore mạnh bạo nói và nhìn Tierney chờ anh xác nhận.

    Tierney gật đầu.

    - Đó là dây khâu tương tự mà chúng tôi đã tìm thấy trên cơ thể Diana Sterling.

    - Dây ruột mèo 2-0 à? - Frost thẽ thọt hỏi. Anh đã lùi khỏi bàn và giờ đứng ở góc phòng, sẵn sàng nhảy bổ tới bồn nước - Nghe tên đó giống như một thương hiệu hay thứ gì đó phải không?

    - Không phải là một thương hiệu - Tierney nói - Dây ruột mèo là một loại chỉ y tế được làm từ ruột của bò hay cừu.

    - Vậy tại sao gọi đó là dây ruột mèo? - Rizzoli hỏi.

    - Việc này xuất phát từ thời Trung cổ, khi những dây ruột được dùng làm nhạc cụ. Các nhạc sỹ gọi nhạc cụ của mình là kit 1, và dây đàn được gọi là kitgut. Từ này cuối cùng được chuyển thành catgut 2. Trong ngành giải phẫu, loại chỉ y tế này được dùng để khâu các lớp mô nối tiếp nằm sâu bên trong. Cuối cùng, cơ thể sẽ làm đứt và tiêu hóa sợi chỉ đó.

    - Vậy hắn lấy chỉ ruột mèo ở đâu? - Rizzoli nhìn Moore - Anh có tìm thấy nguồn gốc của nó trong vụ án của Sterling không?

    - Gần như không thể xác định nguồn gốc cụ thể - Moore lắc đầu - Chỉ ruột mèo được nhiều quốc gia sản xuất, phần lớn ở châu Á. Nó vẫn được sử dụng ở một số bệnh viện nước ngoài.

    - Chỉ bệnh viện nước ngoài thôi sao?

    Tierney giải thích.

    - Giờ có nhiều giải pháp tốt hơn. Chỉ ruột mèo không có sức mạnh và độ bền như chỉ nhân tạo. Tôi nghĩ rất ít bác sỹ phẫu thuật ở Mỹ đang sử dụng loại chỉ này.

    - Tại sao tên sát nhân lại dùng nó?

    - Để thỏa mãn nhu cầu quan sát, để điều khiển cho máu chảy đủ lâu để hắn có thể thấy mình đang làm gì. Tên sát nhân này làm rất gọn.

    Rizzoli rút tay khỏi vết thương. Trong lòng bàn tay đeo găng của cô có một giọt máu nhỏ, như một hạt cườm đỏ tươi.

    - Hắn tinh xảo mức nào? Chúng ta đang đương đầu với một bác sỹ, hay một tên đồ tể?

    - Rõ ràng hắn có kiến thức ngoại khoa - Tierney nhận định - Tôi không nghi ngờ gì về việc hắn đã từng làm việc này rồi.

    Moore lui khỏi bàn, buộc mình không nghĩ đến việc Elena Ortiz chắc hẳn đã đau đớn mức nào. Nhưng anh không thể xóa đi những hình ảnh đó. Hậu quả đang phơi bày ngay trước mắt anh, mở mắt trừng trừng nhìn anh.

    Anh giật mình quay đi khi các dụng cụ kêu loảng xoảng trên khay. Nhân viên nhà xác đẩy chiếc khay đến gần chỗ bác sỹ Tierney để chuẩn bị cắt hình chữ Y. Giờ nhân viên đó cúi xuống, nhìn chằm chằm vết thương trên bụng.

    - Chuyện gì đã xảy ra với nó? - Anh hỏi - Sau khi hắn cắt rời tử cung, hắn làm gì với nó?

    - Chúng tôi không biết - Tierney đăm chiêu - Chúng tôi không tìm được các bộ phận đó.

    --------------------------------
    1 Tiếng Anh có nghĩa là đồ nghề
    2 Tiếng Anh có nghĩa là ruột mèo

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2


    Moore dừng ở vệ đường gần phần cuối phía nam, nơi Elena Ortiz bị giết. Có một thời, đây là khu phố của những ngôi nhà cho thuê tồi tàn, cạnh đó là một khu nước đen bẩn thỉu. Những đường ray tách biệt khu phố này với nửa phía bắc phát triển hơn của thành phố Boston. Nhưng một thành phố đang phát triển là một con thú đói khát, luôn tìm vùng đất mới. Và những đường ray không còn là vật ngăn cản con mắt thèm khát của các nhà đầu tư. Một thế hệ mới đã được khai quật ở miền nam Boston, những ngôi nhà cho thuê cũ nát dần bị biến thành những tòa nhà chung cư.

    Elena Ortiz sống trong tòa nhà như vậy. Mặc dù cảnh vật nhìn ra từ căn hộ tầng hai của cô không có gì đáng ngạc nhiên - cửa sổ phòng trông ra cửa hàng giặt khô là hơi bên kia đường - nhưng tòa nhà này cho người ta một thú vui hiếm có và khó tìm thấy ở thành phố Boston: đó là khu đỗ xe của chủ nhà nằm trong một ngõ hẻm gần đó.

    Lúc này Moore đang đi xuống ngõ hẻm đó, quan sát cửa sổ của những căn hộ phía trên và tự hỏi không biết lúc đó có ai đang nhìn anh không. Không có gì chuyển động sau những tấm cửa kính. Những người thuê nhà có căn hộ nhìn ra ngõ hẻm này đã được thẩm tra, không ai cung cấp một thông tin hữu ích.

    Anh dừng lại dưới cửa sổ phòng tắm của Elena Ortiz và ngước nhìn lối thoát hiểm dẫn lên đó. Thang đã được kéo lên và đóng khóa gập. Vào đêm Elena bị sát hại, một ô tô của người thuê nhà đã đỗ ngay dưới lối thoát hiểm. Sau đó các dấu giày cỡ tám rưỡi được tìm thấy trên nóc xe. Tên sát nhân đã sử dụng chiếc xe làm bước đệm để leo lên lối thoát hiểm.

    Anh thấy cửa sổ phòng tắm đóng kín. Vào đêm cô ấy bị giết, nó không đóng.

    Anh rời ngõ hẻm, đi vòng trở lại rồi đi vào bên trong tòa nhà.

    Dây phân cách hiện trường của cảnh sát giăng ngang cánh cửa căn hộ của Elena Ortiz. Anh mở cửa và thấy bột in dấu vân tay bám vào tay anh trông như bồ hóng. Dải dây lỏng lẻo kêu soàn soạt trên vai anh khi anh bước vào căn hộ.

    Phòng khách vẫn y như khi anh cùng Rizzoli đến xem lần trước. Chuyến đi đó không dễ chịu mấy. Đầy những đối kháng và tranh chấp. Vụ án của Ortiz đã được khởi động và người đứng đầu là Rizzoli. Cô cảm thấy không an tâm và có nguy cơ ai đó sẽ làm lung lay vị thế của cô, nhất là một nam cảnh sát già tuổi hơn. Mặc dù bây giờ họ đã cùng một đội nhưng đội có đến năm thám tử. Moore cảm thấy mình như kẻ đột nhập vào lãnh địa của cô. Anh đã thận trọng giấu những lời gợi ý của mình một cách ôn hòa nhất. Anh không muốn tham chiến vì cái tôi cá nhân mặc dù nó đã biến thành trận chiến cá nhân. Hôm qua anh đã cố tập trung vào hiện trường vụ án nhưng sự đố kỵ của cô khiến sự tập trung của anh tan thành bong bóng.

    Chỉ lúc này, khi ở một mình, anh mới có thể tập trung toàn bộ tâm trí vào căn hộ, nơi Elena Ortiz đã chết. Trong phòng khách, anh thấy đồ đạc các kiểu được xếp quanh một chiếc bàn thấp làm bằng gỗ liễu gai. Một chiếc máy tính để bàn nằm ở góc phòng. Một chiếc thảm màu be pha lẫn họa tiết dây nho đầy lá và những bông hoa màu hồng. Kể từ khi vụ án xảy ra, theo như Rizzoli nói thì không vật gì bị dịch chuyển, không vật gì bị thay đổi. Những tia sáng cuối cùng của ngày đang mờ dần bên cửa sổ nhưng anh không bật điện lên. Anh đứng đó rất lâu, thậm chí không xoay đầu, chờ sự im lặng hoàn toàn bao trùm lên căn hộ. Đây là lần đầu tiên anh có dịp quan sát hiện trường một mình, lần đầu tiên anh đứng trong căn phòng này và không bị giọng nói, khuôn mặt của những người còn sống làm anh phân tâm. Anh tưởng tượng những phân tử không khí bị bước chân của anh xáo trộn giờ đang di chuyển chậm lại và trôi dạt. Anh muốn căn phòng nói chuyện với mình.

    Anh chẳng cảm thấy gì, không có hơi hướng của tội ác, không có sự run rẩy lẩn quất.

    Tên sát nhân đã không vào phòng bằng cửa chính. Hắn cũng không lang thang trong vương quốc chết chóc mà hắn mới giành được. Hắn dồn toàn bộ thời gian, tâm trí vào phòng ngủ.

    Moore chầm chậm bước qua nhà bếp, nhìn dọc hành lang.

    Anh cảm thấy tóc gáy bắt đầu dựng lên. Khi đến cánh cửa đầu tiên, anh dừng lại, nhìn vào phòng tắm và bật điện.

    Đêm thứ năm là một đêm nóng bức. Thời tiết thường ấm áp khắp thành phố, các cửa sổ để mở để cuốn bất cứ cơn gió nhẹ hay luồng khí mát nào đi qua. Ngươi trèo lên lối thoát hiểm, vã mồ hôi trong bộ đồ sẫm màu, nhìn chằm chằm vào phòng tắm. Không có âm thanh gì, cô gái đang ngủ trong phòng. Cô ấy phải dậy sớm để đi làm tại cửa hàng bán hoa. Lúc này giấc ngủ của cô ấy đã đến lúc sâu nhất, và đó là giai đoạn gần như không thể đánh thức nổi.

    Cô ấy không nghe thấy tiếng ken két của con dao gắn ma tít của ngươi khi ngươi tò mò nhìn vào.

    Moore nhìn giấy dán tường sáng lên với những bông hồng nhỏ màu đỏ. Đây là kiểu giấy rất nữ tính, nam giới sẽ không chọn màu này. Mọi thứ đều thể hiện đây là phòng tắm của một phụ nữ, từ dầu gội hương dâu tây đến gói băng vệ sinh dưới bồn nước, đến tủ chất đầy mỹ phẩm. Tất cả đều phảng phất bóng dáng của một cô gái.

    Ngươi leo vào qua cửa sổ, mảnh vải áo sơ mi màu xanh nước biển của ngươi mắc kẹt vào khung cửa. Nó làm bằng vải pô-li-etx-te. Giày đế mềm cỡ tám rưỡi của ngươi để lại dấu vết trên tấm vải sơn lót sàn nhà trắng tinh. Có những vết cát, lẫn bụi thạch cao. Đó là loại hỗn hợp rất đặc trưng khi người ta đi lại trong thành phố Boston.

    Có lẽ ngươi dừng lại, nghe ngóng trong bóng tối, hít thở hương vị ngọt ngào kỳ lạ trong căn phòng của cô gái. Hoặc có thể ngươi không lãng phí thời gian mà thực hiện luôn mục đích của mình.

    Không khí dường như hôi hám hơn, dày đặc hơn khi anh đi theo dấu chân của kẻ đột nhập. Nó không chỉ là cảm giác về một thứ mùi của tội ác, thứ mùi đó có thật.

    Anh đến cánh cửa phòng ngủ. Lúc này tóc gáy anh dựng ngược lên. Anh đã biết trước mình sẽ thấy gì trong phòng, anh tưởng mình đã chuẩn bị tinh thần cho việc đó. Nhưng khi anh bật điện lên, nỗi sợ lại xâm chiếm anh như lần đầu anh nhìn thấy căn phòng.

    Các vết máu đã có hơn hai ngày. Dịch vụ lau chùi vẫn chưa đến. Nhưng dù có dùng chất tẩy rửa, bình xịt khí và những chai thuốc tẩy trắng thì họ cũng không thể xóa hết những gì đã xảy ra ở đây. Bởi không khí đã ám màu sợ hãi.

    Ngươi bước vào phòng qua cánh cửa. Rèm cửa rất mỏng, chỉ là tấm vải côt-tông không nếp gấp. Ánh sáng từ những bóng đèn đường chiếu lên giường qua rèm cửa, lên cô gái đang say giấc. Chắc chắn ngươi phải nán lại một lúc, nhìn cô ấy thật kỹ và hài lòng xem xét nhiệm vụ cần thực hiện tiếp theo. Bởi vì ngươi cảm thấy rất vui sướng vì điều đó, đúng không? Ngươi cảm thấy ngày càng hưng phấn. Cảm giác rùng mình đó len lỏi trong mạch máu của ngươi như một thứ thuốc phiện, đánh thức mọi dây thần kinh cho đến khi các đầu ngón tay ngươi giật mạnh vì háo hức.

    Elena Ortiz không kịp hét lên. Hoặc nếu cô có hét thì cũng không ai nghe thấy. Không có gia đình nào sống bên cạnh, cũng không có hàng xóm nào sống bên dưới.

    Kẻ đột nhập lấy dụng cụ. Đó là băng dính ống nhựa, một tấm giẻ rách tẩm thuốc gây mê, một bộ sưu tập các dụng cụ phẫu thuật. Hắn chuẩn bị rất kỹ.

    Thử thách đó có lẽ đã kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Ít ra trong lúc đó Elena Ortiz vẫn tỉnh táo. Phần da cổ tay và mắt cá chân cô bị chà xát, chứng tỏ cô đã chống cự. Trong cơn hoảng loạn và đau đớn, cô đã tống hết dung dịch trong bàng quang ra ngoài. Nước tiểu ngấm vào đệm, pha lẫn với máu của cô. Việc mổ xẻ được tiến hành rất tinh vi và hắn chọn đúng thời điểm thực hiện nó, chỉ lấy đi thứ hắn muốn, không lấy thêm gì khác.

    Hắn không cưỡng bức cô, có lẽ hắn không thể làm vậy.

    Khi hắn đã thực hiện xong các vết cắt khủng khiếp, cô vẫn còn sống. Cổ tử cung vẫn chảy máu, tim vẫn đập. Trong bao lâu? Bác sỹ Tierney đã đoán việc đó kéo dài ít nhất nửa tiếng, ba mươi phút. Chắc chắn ba mươi phút đó đối với Elena Ortiz kéo dài vô tận.

    Ngươi đã làm gì trong suốt thời gian đó? Cất dụng cụ đi chăng? Hay ngươi chỉ đứng đó, sung sướng chứng kiến cảnh tượng?

    Hành động cuối cùng diễn ra rất nhanh gọn và chuyên nghiệp. Kẻ tra tấn Elena Ortiz đã lấy đi thứ hắn muốn và giờ đã đến lúc chấm dứt toàn bộ việc này. Hắn đến đầu giường. Tay trái túm chặt tóc cô, giật về phía sau mạnh đến nỗi hàng chục sợi rụng ra. Những sợi tóc này sau đó đã được tìm thấy, rải rác trên gối và sàn nhà. Những vết máu và những tiếng la hét là sự việc cuối cùng xảy ra. Khi đã giữ chặt đầu cô và để phần cổ lộ ra, hắn thực hiện một nhát cắt duy nhất rất sâu từ bên hàm trái, đi thẳng sang phải, cắt ngang cổ họng. Hắn phá hủy hoàn toàn động mạch cảnh và khí quản. Bức tường bên trái giường có một khối các vệt hình tròn chảy xuống. Điều đó cho thấy máu phun ra và bắn lên từ khí quản. Gối và ga trải giường ướt đẫm những giọt máu. Vài giọt bắn lên rèm cửa khi tên sát nhân rút mạnh lưỡi dao ra.

    Elena Ortiz đã sống đủ lâu để nhìn thấy máu từ cổ mình ộc ra và bắn lên tường như một cỗ máy phun nước màu đỏ. Cô đã sống đủ lâu và hít cả máu vào khí quản đã bị thủng và nghe thấy nó chảy ồng ộc trong hai lá phổi. Rồi cô cố ho khạc nó ra, lẫn trong nước đờm đỏ tươi.

    Cô vẫn sống và biết mình sắp chết.

    Và khi đã làm xong việc đó, khi những cơn giãy giụa đau đớn của cô ấy đã ngừng lại, ngươi để lại cho bọn ta một thẻ điện thoại. Ngươi gấp áo choàng ngủ của nạn nhân gọn gàng, để nó trên ghế cạnh giường. Tại sao vậy? Có phải đó là một dấu hiệu chứng tỏ sự tôn trọng méo mó của ngươi với người phụ nữ ngươi vừa mổ xẻ không? Hay đó là cách ngươi chế giễu bọn ta, là cách để ngươi nói với bọn ta là ngươi kiểm soát hoàn toàn?

    Moore quay lại phòng khách, ngồi sụp xuống ghế bành. Căn hộ rất nóng bức và ngột ngạt nhưng anh thì run rẩy. Anh không biết đó là sự ớn lạnh về thể xác hay tinh thần. Đùi và vai anh đau buốt, có thể một loại vi rút nào đó đang xâm nhập vào cơ thể anh. Cúm trong mùa hè là loại cúm đáng sợ nhất. Anh nghĩ đến tất cả những địa điểm mà anh muốn đến lúc đó, hồ Adrift hay hồ Maine. Dây câu của anh văng lên không trung. Hoặc anh đang đứng trên bờ biển, nhìn sương mù tràn vào. Anh muốn đến bất cứ nơi nào, trừ hiện trường vụ án mạng.

    Tiếng kêu của máy nhắn tin làm anh giật mình. Anh tắt nó đi và thấy tim mình đập mạnh. Đầu tiên, anh cố trấn tĩnh lại, rồi mới lấy di động ra, nhìn kỹ số đang gọi đến.

    - Rizzoli đây - cô trả lời sau tiếng chuông đầu tiên, lời chào của cô thẳng như viên đạn.

    - Cô nhắn tin cho tôi à?

    - Anh chưa bao giờ cho tôi biết anh có tên trong VICAP - cô nói.

    - Được ghi danh sao?

    - Về Diana Sterling. Giờ tôi đang xem hồ sơ vụ giết người của cô ấy.

    VICAP, tức Chương trình tìm hiểu những tên tội phạm bạo lực, là thông tin về các vụ giết người và hành hung được thu thập từ các vụ án khắp nước Mỹ. Những tên sát nhân thường lặp lại các kiểu gây án. Nhờ các dữ liệu này, các điều tra viên có thể liên kết các vụ án do cùng một thủ phạm gây ra. Và theo thói quen, Moore và cộng sự của mình, Rusty Stivack đã bắt đầu lục tìm trên VICAP.

    - Chúng tôi không tìm thấy trường hợp nào ăn khớp tại bang New England - Moore nói - Chúng tôi đã xem qua mọi vụ giết người có liên quan đến việc cắt mổ nạn nhân, đột nhập ban đêm và trói bằng băng dính ống nhựa. Nhưng không có gì trùng khớp với hồ sơ của Sterling.

    - Còn một chuỗi các vụ ở Georgia thì sao? Cách đây ba năm có bốn nạn nhân, một ở Atlanta, ba ở Savannah. Tất cả đều nằm trong dữ liệu của VICAP.

    - Tôi đã xem qua mấy vụ đó. Tên tội phạm đó không phải là kẻ tình nghi của chúng ta.

    - Nghe này, Moore! Dora Ciccone, hai mươi hai tuổi, sinh viên đã tốt nghiệp ở Emory. Đầu tiên nạn nhân đã bị đánh gục bằng thuốc Rohypno có tác dụng làm mất trí nhớ tạm thời, sau đó bị trói vào giường bằng băng dính ống nhựa.

    - Còn tên tội phạm của chúng ta lại dùng thuốc gây mê và băng dính ống nhựa.

    - Hắn đã mổ bụng cô ấy, cắt rời tử cung. Hắn đã thực hiện hai vết cắt, một vết duy nhất ngang cổ. Và cuối cùng... hãy nghe cho rõ nhé... hắn gấp bộ quần áo ngủ của cô ấy và đặt chúng lên chiếc ghế cạnh giường. Tôi muốn nói với anh đó là màn kết thúc thật khốn nạn.

    - Các vụ án tại Georgia đã khép lại - Moore cố giải thích - Chúng đã được khép lại hai năm rồi. Tên tội phạm đó đã chết.

    - Nếu Sở cảnh sát Savannah thổi phồng việc đó lên thì sao? Nếu hắn không phải là tên giết người thật sự thì sao?

    - Họ có bằng chứng ADN, các sợi vải và tóc. Thêm vào đó, còn có một nhân chứng, một nạn nhân còn sống sót.

    - Ồ, đúng vậy. Một người còn sống sót. Đó là nạn nhân số năm - Giọng Rizzoli có vẻ giễu cợt.

    - Cô ấy đã nhận dạng tên sát nhân - Moore khẳng định.

    - Cô ta cũng tiện thể bắn chết hắn luôn phải không?

    - Vậy thì sao? Cô muốn bắt bóng ma của hắn à?

    - Anh đã nói chuyện với nạn nhân sống sót đó chưa? - Rizzoli hỏi.

    - Chưa.

    - Sao chưa?

    - Làm vậy ích gì chứ?

    - Vấn đề là anh có thể tìm thấy điều gì đó đáng quan tâm. Ví dụ như cô ta đã rời khỏi Savannah không lâu sau vụ tấn công đó. Và anh thử đoán xem giờ cô ta ở đâu?

    Qua tiếng rè rè trên điện thoại di động, anh nghe thấy mạch mình đập mạnh.

    - Boston à? - Anh khẽ hỏi.

    - Và anh sẽ không tin nổi cô ta làm nghề gì để kiếm sống đâu.


  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3



    Bác sỹ Catherine Cordell lao nhanh dọc hành lang bệnh viện. Đế giày của cô nện vang trên nền nhà lót vải. Cô đẩy cửa vào phòng cấp cứu.

    Một y tá hét to:

    - Họ đang ở phòng chấn thương số hai, thưa bác sĩ Cordell.

    - Tôi đến ngay - Catherine nói, và lao như tên bắn vào phòng chấn thương số hai.

    Gần chục khuôn mặt giãn ra nhẹ nhõm khi thấy cô bước vào. Chỉ cần nhìn qua, cô đã hiểu ngay tình hình. Cô thấy những dụng cụ lộn xộn lấp lánh trên khay. Các cực gắn điện tâm đồ cùng túi đựng chất lac-tat Ringer treo lơ lửng như trái cây mọng trên cột thép. Gạc lau máu và túi bị xé rách rải rác khắp sàn nhà. Các đường xoang chạy ngang màn hình điện tâm đồ - mẫu điện tâm đồ đó cho thấy quả tim đang chạy đua đến nơi của Tử thần phía trước.

    - Chúng ta có gì đây? - Cô hỏi khi mọi người dạt ra để cô đi qua.

    Ron Littman, nhân viên phụ mổ số một báo cáo nhanh.

    - Ông ta là người đi bộ tên John Doe, bị xe đâm và kéo lê. Được đưa vào phòng cấp cứu trong tình trạng bất tỉnh. Đồng tử đều nhau, vẫn hoạt động. Phổi sạch nhưng bụng sưng to. Không có âm bụng. Huyết áp giảm xuống sáu mươi. Tôi đã chích dịch trong bụng. Bụng ông ấy có máu. Chúng tôi đã luồn một đường dây trung tâm vào trong, ống lac-tat Ringer đã mở rộng nhưng chúng tôi không thể làm huyết áp của ông ấy tăng lên.

    - Ống truyền máu và huyết tương đông lạnh sắp đến chưa?

    - Mấy phút nữa sẽ đến.

    Người đàn ông nằm trên giường đã được cởi hết quần áo, những chi tiết nhạy cảm đều phơi bày trước mắt cô. Ông ta khoảng sáu mươi tuổi, đã được luồn ống thở và máy trợ thở đã bật lên. Những thớ cơ không còn sức sống xệ xuống thành những nếp nhăn trên tứ chi gầy gò. Sườn ông ta nhô lên như những lưỡi dao. Đây là biểu hiện của căn bệnh kinh niên trước đây, cô nghĩ, suy luận đầu tiên của cô là căn bệnh ung thư. Cánh tay và hông phải bị trầy xước, chảy máu là do bị lê dọc vỉa hè. Phần dưới ngực bên phải có vết thâm tím, tạo thành một mảng màu tím trên chỗ da trắng. Không có vết thương sâu.

    Cô đeo ống nghe để xác nhận những gì nhân viên y tá đã báo cáo. Cô không nghe thấy âm thanh gì trong bụng, không chút ầm ì, không chút lục bục. Đó là sự im lặng của phần bụng bị chấn thương. Cô di chuyển ống nghe lên phần ngực, nghe tiếng thở và xác nhận là ống thở đã được luồn đúng chỗ. Cả hai lá phổi đang được thông khí. Tim đập mạnh như đang đấm vào thành ngực. Cô chỉ cần kiểm tra trong vòng vài giây nhưng cô cảm thấy cử động của mình như đang quay chậm và xung quanh cô, căn phòng chật ních người lúc đó như đang chững lại, chờ động thái tiếp theo của cô.

    Một y tá nói to.

    - Tôi thấy tâm thu không quá mức năm mươi nữa!

    Thời gian trôi đi với tốc độ đáng sợ.

    - Lấy áo khoác và găng tay cho tôi! - Catherine gằn giọng - Mở khay ve áo!

    - Không đưa ông ấy đến phòng mổ sao? - Littman ngạc nhiên.

    - Tất cả các phòng đã kín. Chúng ta không thể chần chừ - Ai đó ném cho cô mũ giấy. Cô nhanh chóng túm gọn mái tóc đỏ dài đến vai, đeo khẩu trang. Một y tá làm nhiệm vụ vệ sinh đã cầm sẵn chiếc áo khoác phẫu thuật tiệt trùng. Catherine mặc áo và đeo găng tay. Cô không có thời gian rửa tay, không thể chần chừ. Cô là người chịu trách nhiệm và John Doe đang trông cậy ở cô.

    Ngực và hông nạn nhân được lau sạch bằng khăn tiệt trùng. Cô lấy chiếc kẹp cầm máu trên khay rồi nhanh chóng cố định các khăn tiệt trùng. Các mũi thép bị xiết chặt tạo nên những tiếng ken két.

    - Máu từ đâu ra? - Cô hét to.

    - Giờ tôi sẽ kiểm tra phòng thí nghiệm ngay - Cô y tá vội nói.

    - Ron, anh là người phụ trách số một - Catherine nói với Littman. Cô nhìn khắp phòng và để ý thấy một thanh niên có khuôn mặt xanh xao đang đứng gần cửa. Thẻ bệnh viện của anh ta ghi: Jeremy Barrows, sinh viên y khoa - Anh - Cô chỉ tay - Anh là phụ tá số hai.

    Ánh mắt chàng thanh niên thoáng vẻ sợ hãi.

    - Nhưng... tôi mới là sinh viên năm thứ hai. Tôi đến đây để...

    - Chúng ta có thể gọi nhân viên trực nào khác đến đây không?

    Littman lắc đầu.

    - Ai cũng chạy dài rồi. Họ có vụ chấn thương ở đầu ở phòng chấn thương số một và một vụ mê man dưới đại sảnh.

    - Được rồi - Cô quay lại nhìn chàng sinh viên - Barrows, cậu sẽ làm việc đó. Y tá, lấy cho cậu ta áo choàng và găng tay!

    - Tôi phải làm gì? Vì thực sự tôi không biết...

    - Nghe này, cậu muốn làm bác sĩ không? Vậy thì đeo găng tay vào!

    Mặt cậu sinh viên đỏ bừng, cậu ta quay lại mặc áo khoác. Cậu ta rất sợ nhưng vì nhiều lý do, Catherine thích một sinh viên lo lắng như cậu ta hơn một người hiếu chiến. Cô đã chứng kiến quá nhiều bệnh nhân chết vì sự tự tin quá mức của bác sỹ.

    Ai đó thông báo trên điện đàm.

    - Xin chào, phòng chấn thương số hai phải không? Phòng thí nghiệm đây. Tôi có mẫu máu cho ông John Doe. Đó là số mười lăm.

    Ông ta đang chảy máu, Catherine nghĩ.

    - Chúng tôi cần ống máu đó ngay bây giờ.

    - Chúng tôi đang đưa đến.

    Catherine lấy dao mổ. Tay cầm và chất liệu thép của dao mổ có vẻ như đều thoải mái trong tay cô. Chúng chỉ là một phần phụ mọc thêm trên chính bàn tay và da thịt của cô. Cô hít nhanh một hơi, thấy mùi cồn và mùi bột tan bốc ra từ găng tay. Rồi cô ấn mũi dao lên da nạn nhân, rạch một đường chính giữa bụng.

    Mũi dao mổ vạch một đường màu đỏ tươi lên tấm khăn phủ trắng phau.

    - Chuẩn bị ống hút và các tấm dùng để mổ bụng - Cô nói - Bụng ông ấy đầy máu.

    - Huyết áp khó duy trì ở mức năm mươi.

    - Ống máu và huyết tương đông lạnh đã được đem đến.

    - Ai đó hãy quan sát nhịp tim và báo cho tôi biết nó biến đổi ra sao - Catherine nói.

    - Màn hình điện tim! - Nhịp tim đã lên mức một trăm năm mươi.

    Cô cắt xuyên qua lớp da và lớp mỡ dưới da, không chú tâm gì đến việc thành bụng đang chảy máu, chỗ xuất huyết nặng nhất vẫn ở bên trong bụng. Cô phải ngăn nó ngay. Có nhiều khả năng đó là do lá lách hay gan bị rách đã gây ra hiện tượng đó.

    Màng bụng phình to, bên trong đầy máu.

    - Nó sẽ khá lộn xộn đấy - Cô cảnh báo trước. Mũi dao mổ của cô chuẩn bị xọc sâu xuống. Mặc dù đã giữ chặt chất sắp phun ra nhưng tiếng nổ đầu tiên của màng bụng mạnh đến nỗi cô thoáng thấy hoảng loạn. Máu phọt ra khăn phủ, chảy xuống sàn. Nó bắn lên cả áo khoác của cô. Nó ấm như nước tắm có mùi đồng và ngấm qua tay áo cô. Nó vẫn chảy ra như lụa.

    Cô dùng dụng cụ banh miệng vết mổ, mở rộng vết thương, để lộ ra toàn bộ phần bụng bên trong. Littman nhét ống hút nước tiểu vào. Máu òng ọc chảy vào ống. Một dòng nước màu đỏ tươi bắn lên hộp kính chứa chất lỏng.

    - Lấy thêm các tấm mổ bụng! - Catherine hét lên. Cô đã nhét hơn mười cuộn bông thấm vào vết thương và thấy chúng biến thành màu đỏ như có ma. Trong vòng mấy giây, chúng đã ướt đẫm. Cô lấy bông cũ ra, cho bông mới vào, gói chúng lại thành các hình vuông.

    Một y tá nói.

    - Tôi thấy có hiện tượng rung tim trên màn hình.

    - Tệ thật! Tôi đã hút hai lít máu vào hộp chứa - Littman nói.

    Catherine ngẩng lên. Cô thấy túi máu và huyết tương đông lạnh nhỏ rất nhanh vào dây truyền, như thể họ đang đổ máu lên một cái sàng. Máu chảy vào động mạch, rồi lại chảy ra từ vết thương. Chúng không chảy kịp. Cô không thể kẹp chặt mạch máu khi chúng bị nhấn chìm trong bể máu, cô không thể phẫu thuật mà không nhìn thấy chúng.

    Cô lôi bông thấm ra. Chúng nặng và nhỏ giọt. Cô cho thêm bông vào. Trong mấy giây quý giá đó, cô đã thấy các cột mốc. Máu ộc ra từ gan nhưng không có dấu hiệu tổn thương rõ rệt. Dường như máu tràn lên trên toàn bộ bề mặt gan.

    - Huyết áp của ông ấy giảm mạnh - Một y tá kêu lên.

    - Kẹp! - Catherine kêu lên và ngay lập tức, dụng cụ đó được chuyển đến tay cô - Tôi sẽ cố thực hiện thủ thuật cắt màng ngoài. Barrows, cho thêm bông thấm vào!

    Cậu sinh viên y khoa giật mình nên khi với tay về chỗ khay đựng dụng cụ y tế, cậu ta làm rơi các cuộn bông thấm. Cậu ta sợ hãi khi chúng rơi lộn xộn trên sàn.

    Một y tá xé gói mới.

    - Chúng phải được đặt vào bụng nạn nhân, chứ không phải trên sàn - Cô mắng. Cô bỗng gặp ánh mắt Catherine. Ánh mắt hai người phụ nữ đó cho thấy họ đều có chung suy nghĩ.

    Anh chàng đó sẽ là bác sỹ ư?

    - Đặt ở đâu đây? - Barrows hỏi.

    - Hãy thấm vết mổ. Tôi không thể quan sát khi máu ngập hết chỗ này!

    Cô cho cậu ta vài giây để thấm máu cho vết thương, rồi cô cho tay vào, xé toang các màng nối. Cô di chuyển kẹp từ bên trái, xác định được cuống gan. Trong đó có các động mạch gan và các mạch máu.

    Đây chỉ là giải pháp tạm thời. Nhưng nếu lúc đó cô có thể cầm máu thì cô có thể kiểm soát tình trạng xuất huyết. Việc đó sẽ cho họ chút thời gian quý giá để ổn định huyết áp, bơm thêm máu và huyết tương vào mạch của ông ấy.

    Cô đóng chặt kẹp, ngăn không cho mạch máu chảy vào cuống gan.

    Nhưng cô ngạc nhiên khi máu vẫn tiếp tục ộc ra như trước.

    - Cô có chắc đã kẹp vào cuống gan không? - Littman hỏi.

    - Tôi biết là tôi đã kẹp đúng. Và tôi còn biết là lúc trước nó chảy từ màng bụng.

    - Đó có thể là mạch trong gan không?

    Cô chộp hai bông thấm trên khay. Lần thực hiện thủ thuật tiếp theo sẽ là cố gắng cuối cùng của họ. Cô đặt bông thấm lên bề mặt gan, rồi đôi tay đeo găng bóp chặt gan.

    - Cô ấy đang làm gì vậy? - Barrows hỏi.

    - Ép gan - Littman nói - Đôi khi nó có thể đóng và che mất mép của chỗ thủng. Cô ấy ngăn cho máu không chảy hết.

    Mọi thớ cơ trên vai và cánh tay cô rã rời khi cô cố hết sức để duy trì huyết áp và bóp chặt cho máu chảy vào trong.

    - Máu vẫn trào ra - Littman thông báo - Không có tác dụng.

    Cô nhìn kỹ vết thương và thấy máu lại tích tụ ở đó. Ông ấy bị chảy máu từ chỗ quái nào vậy? Cô nghĩ. Đột nhiên cô thấy máu cũng từ từ trào ra từ những chỗ khác, không chỉ riêng gan mà cả từ thành bụng, mạc treo ruột và mép chỗ da bị rạch.

    Cô nhìn cánh tay trái của bệnh nhân thò ra khỏi chăn phủ. Miếng gạc phủ trên chỗ ống dẫn huyết thanh ướt đẫm máu.

    - Tôi muốn sáu đơn vị tiểu huyết cầu và huyết tương đông cứng - Cô yêu cầu - Hãy bắt đầu pha chế hê-pa-rin. Mười nghìn đơn vị thuốc truyền nước cỡ lớn, sau đó truyền thêm mười nghìn đơn vị nữa trong vòng một giờ.

    - Hê-pa-rin à? - Barrows ngơ ngác - Nhưng ông ấy đang chảy máu...

    - Đây là hiện tượng DIC - Catherine giải thích - Ông ấy cần thuốc chống đông tụ.

    Littman nhìn cô.

    - Giờ chúng ta không có phòng thí nghiệm. Sao cô biết ông ấy cần thuốc chống đông tụ?

    - Khi chúng ta nghiên cứu thuốc chống đông tụ xong thì đã quá muộn. Chúng ta phải hành động ngay - Cô gật đầu với y tá - Tiêm đi!

    Cô y tá ấn kim tiêm vào ống truyền. Hê-pa-rin là phương án vô vọng cuối cùng. Nếu Catherine chẩn đoán đúng, nếu bệnh nhân bị DIC - tức bệnh đông máu trong mạch phổ biến - thì trong khắp mạch máu của ông ấy, các cục máu đông lớn đang hình thành như những trận mưa đá cực nhỏ. Chúng sẽ phá hủy toàn bộ các nhân tố giúp đông máu và tiểu huyết cầu quý giá của ông ấy. Một vụ chấn thương mạnh, căn bệnh ung thư hay một loại truyền nhiễm tiềm ẩn có thể khiến các cục máu đông hình thành với tốc độ không thể kiểm soát nổi. DIC sẽ ngốn hết các nhân tố giúp đông máu và tiểu huyết cầu. Cả hai yếu tố đó đều cần thiết để giúp máu đông lại. Nếu không có chúng, bệnh nhân sẽ bị xuất huyết. Để ngăn hiện tượng DIC, họ phải dùng hê-pa-rin, một loại thuốc chống đông máu. Đây là một phương pháp chữa trị ngược đời. Và nó cũng là một ván bài. Nếu Catherine chẩn đoán sai, hê-pa-rin sẽ khiến bệnh nhân chảy máu nhiều hơn.

    Và như vậy mọi việc dường như không thể tệ hơn. Lưng cô đau buốt, tay cô run rẩy vì cố giữ áp lực ở gan. Một giọt mồ hôi chảy dọc trên má cô, làm ướt khăn bịt mặt.

    Phòng thí nghiệm nói trên điện đàm.

    - Phòng chấn thương số hai, tôi đã có kết quả xét nghiệm máu cho ông John Doe.

    - Tiếp tục đi - Một y tá nói.

    - Số lượng tiểu huyết cầu chỉ còn một nghìn. Chất Prothombin lên tới ba mươi. Ông ấy có các chất tơ huyết bị thoái hóa nặng. Có vẻ như bệnh nhân của các bạn bị chứng DIC nặng.

    Catherine bỗng nhìn thấy vẻ mặt sửng sốt của Barrows. Các sinh viên y khoa rất dễ bị xúc động.

    - Rung tim! Ông ấy đang bị rung tim!

    Catherine nhìn ngay màn hình. Một đường bị đứt quãng như các vết răng cắn chạy ngang màn hình.

    - Huyết áp còn không?

    - Không, tôi không thấy huyết áp nữa.

    - Hãy bắt đầu ép tim! Littman, anh chịu trách nhiệm vận hành máy.

    Sự hỗn loạn cuốn mọi người như một cơn lốc. Cơn lốc đó cuốn cô đi mạnh hơn. Một chiếc xe đẩy lao vào phòng, mang theo huyết tương đông lạnh và tiểu huyết cầu. Catherine nghe thấy Littman hét to yêu cầu thêm thuốc trợ tim. Cô thấy một y tá đặt tay lên xương ức bệnh nhân và bắt đầu bơm máu vào tim. Đầu cô ấy giật lên xuống như một chú chim máy đang uống nước. Sau mỗi lần ép, họ sẽ bơm máu lên não, giúp nó tiếp tục hoạt động. Nhưng họ cũng tiếp thêm máu cho quá trình xuất huyết.

    Catherine cúi nhìn ổ bụng của bệnh nhân. Cô vẫn giữ chặt gan, ngăn không cho đợt máu khác trào ra. Có phải cô đang tưởng tượng hay không? Máu đang rỉ ra như những sợi dây trang trí qua ngón tay cô dường như đang chảy chậm lại.

    - Gây sốc cho ông ấy! - Littman hét - Luồng điện một trăm jun.

    - Không, chờ đã. Nhịp ông ấy đã trở lại.

    Catherine nhìn màn hình. Nhịp tim của phần lõm gian thùy. Tim đang đập trở lại, nhưng nó cũng sẽ khiến máu lại chảy vào các động mạch.

    - Chúng ta có bơm máu vào được không? - Cô hét to - Huyết áp bao nhiêu?

    - Đã lên mức chín mươi trên bốn mươi. Có thể bơm máu được.

    - Nhịp tim ổn định. Vẫn duy trì nhịp.

    Catherine nhìn phần bụng mở phanh ra. Chứng xuất huyết giờ chỉ rỉ ra và hầu như không nhìn thấy được. Cô đứng đó, ôm chặt gan trong lòng bàn tay và nghe tiếng kêu đều đều trên màn hình. Với đôi tai của cô thì đó chính là âm nhạc.

    - Các bạn - Cô nói - Tôi nghĩ chúng ta đã cứu được ông ấy.

    Catherine tháo đôi găng tay đầy máu, đi theo xe đẩy đưa John Doe ra khỏi phòng chấn thương số hai. Các thớ cơ trên vai cô run rẩy vì mệt mỏi nhưng đó là sự mệt mỏi hạnh phúc, mệt mỏi sau chiến thắng. Các y tá đẩy xe vào thang máy để đưa bệnh nhân đến Bộ phận chăm sóc đặc biệt sau phẫu thuật. Catherine định bước vào thang máy thì cô nghe thấy ai đó gọi tên mình.

    Cô quay lại, thấy một người đàn ông và một phụ nữ đang tiến về phía cô. Người phụ nữ thấp bé, trông rất đáng sợ. Đôi mắt nâu nhìn thẳng vào cô như tia la-ze. Cô ta mặc bộ com-lê màu xanh dương trông rất khắc khổ. Nó khiến cô ta trông như một quân nhân. Cô ta trông như người lùn khi đi bên cạnh người đồng hành cao hơn nhiều. Người đàn ông có vẻ đã gần bốn mươi lăm tuổi, những sợi tóc bạc lốm đốm trên đầu. Tuổi tác đã in hằn những đường nét chín chắn trên khuôn mặt nổi bật và rất điển trai của anh. Catherine rất chú ý đôi mắt của anh. Chúng có màu ghi nhạt và không thể đọc được suy nghĩ ẩn bên trong.

    - Cô là bác sĩ Cordell phải không? - Anh hỏi.

    - Vâng.

    - Tôi là thám tử Thomas Moore. Còn đây là thám tử Rizzoli. Chúng tôi đến từ Bộ phận điều tra Án mạng - Anh giơ huy hiệu lên nhưng trông nó như một món đồ rẻ tiền ở cửa hàng. Hầu như cô chẳng để ý đến nó, ánh mắt cô dồn hết về phía anh.

    - Chúng tôi nói chuyện riêng với cô được không? - Anh hỏi.

    Cô nhìn mấy y tá đang chờ cùng John Doe trong thang máy.

    - Đi trước nhé! - Cô nói với họ - Bác sỹ Littman sẽ viết các yêu cầu.

    Chỉ khi thang máy đóng lại, cô mới quay sang nói chuyện với Moore.

    - Có phải vì vụ đâm xe vừa xảy ra không? Có vẻ như ông ấy sẽ sống được.

    - Chúng tôi đến đây không phải vì bệnh nhân đó.

    - Các vị nói các vị đến từ Bộ phận điều tra Án mạng đúng không?

    - Đúng vậy - Giọng anh có chút trầm xuống khiến cô lo lắng. Đó là lời cảnh báo nhẹ nhàng cho cô biết sẽ có tin xấu.

    - Ôi lạy Chúa, tôi mong là điều này không có liên quan đến ai đó mà tôi biết.

    - Về Andrew Capra và việc đã xảy ra với cô tại Savannah.

    Cô im lặng một lúc. Chân cô đột nhiên tê dại. Cô tựa vào bức tường phía sau như để tránh cho mình khỏi ngã.

    - Bác sỹ Cordell? - Giọng anh đột nhiên tỏ ra quan tâm - Cô ổn chứ?

    - Tôi nghĩ... tôi nghĩ chúng ta nên nói chuyện trong văn phòng của tôi - Cô thì thầm. Cô nhanh chóng quay đi, và ra khỏi phòng cấp cứu. Cô không quay lại xem hai vị thám tử có đi theo mình không, cô cứ đi, chạy trốn về phía văn phòng an toàn của mình ở tòa nhà bên cạnh. Cô nghe thấy tiếng bước chân họ ngay phía sau khi cô dẫn đường trong khu nhà lộn xộn. Đó chính là Trung tâm Y tế Hành Hương.

    Chuyện gì đã xảy ra với cô ở Savannah?

    Cô không muốn nói về chuyện đó. Cô đã mong sẽ không phải nói về Savannah với bất cứ ai, không bao giờ. Nhưng đây là các nhân viên cảnh sát và cô không thể lảng tránh những câu hỏi của họ.

    Cuối cùng, họ đến một dãy phòng có tấm biển:

    Bác sỹ chuyên khoa Peter Falco.

    Bác sỹ chuyên khoa Catherine Cordell.

    Khoa phẫu thuật thông thường và phẫu thuật mạch.

    Cô bước vào văn phòng phía trước. Nhân viên lễ tân nhìn lên và cười chào cô theo thói quen. Nụ cười tắt ngấm trên môi khi cô thấy khuôn mặt Catherine tái đi và thấy hai người lạ mặt theo cô vào.

    - Bác sỹ Cordell, có chuyện gì vậy?

    - Chúng tôi sẽ vào văn phòng, Helen. Đừng chuyển cuộc gọi nào cho tôi!

    - Bệnh nhân đầu tiên của cô sẽ đến lúc mười giờ. Ông Tsang sẽ thực hiện thủ thuật cắt bỏ lách tiếp theo.

    - Hủy đi!

    - Nhưng ông ấy lái xe từ tận Newbury. Có thể ông ấy đã lên đường rồi.

    - Vậy thì để ông ấy đợi. Nhưng làm ơn, đừng nối cuộc gọi nào cho tôi!

    Catherine không để ý đến ánh mắt ngạc nhiên của Helen, cô đi thẳng vào văn phòng. Moore và Rizzoli đi theo ngay sau cô. Cô đưa tay lấy ngay chiếc áo khoác màu trắng. Nó không có trên móc treo ở cửa, chỗ cô vẫn thường treo. Đó chỉ là một điều bực mình nho nhỏ nhưng nó khiến tâm trạng cô thêm bực tức. Dường như đó là điều cô không thể chịu đựng thêm. Cô nhìn quanh phòng, tìm chiếc áo khoác trắng như thể mạng sống của cô hoàn toàn phụ thuộc vào nó. Cô thấy nó phủ trên ngăn tủ đựng hồ sơ. Cô cảm thấy thoải mái không thể giải thích nổi khi cô chộp lấy nó rồi lui về sau bàn làm việc. Ở đó cô cảm thấy an toàn hơn, được ngăn cách bởi mặt bàn bằng gỗ hồng sắc bóng loáng. Cô thấy an toàn khi cô là người kiểm soát.

    Căn phòng được sắp xếp cẩn thận như cách cô sắp xếp cuộc sống của mình. Cô không thể chịu nổi sự bừa bộn. Các tệp hồ sơ của cô được sắp xếp vào hai ngăn gọn gàng trên bàn. Sách của cô được xếp theo trật tự chữ cái của tên tác giả trên giá sách. Máy tính kêu rầm rì, màn hình ở chế độ chờ có hình những mẫu hộp chất lên nhau. Cô khoác chiếc áo trắng để che vết máu trên cổ tay áo bên trong. Một lớp áo đồng phục mới khiến cô có cảm giác như một lớp bảo vệ và ngăn cách trước những biến đổi lộn xộn và nguy hiểm của cuộc sống.

    Cô ngồi sau bàn, nhìn Moore và Rizzoli. Họ đang nhìn khắp căn phòng và chắc chắn đang đưa ra những nhận định về chủ nhân của nó. Có phải các nhân viên cảnh sát đều tự động nhìn nhanh một lượt để đánh giá tính cách của một người dựa trên các đồ vật của người đó? Điều đó khiến Catherine cảm thấy bị phơi bày và dễ tổn thương.

    - Tôi biết đây là vấn đề sẽ khiến cô đau lòng khi tôi nhắc lại - Moore nói và ngồi xuống.

    - Anh không biết việc đó khiến tôi đau đớn mức nào đâu. Đã hai năm rồi. Tại sao bây giờ các vị lại muốn bới nó ra?

    - Nó có liên quan đến hai vụ giết người ở Boston này.

    Catherine cau mày.

    - Nhưng tôi đã bị tấn công ở Savannah.

    - Đúng, chúng tôi biết. Có một trung tâm dữ liệu tội phạm quốc gia tên là VICAP. Khi chúng tôi tìm kiếm trên VICAP, và tìm những vụ án tương tự vụ giết người ở đây thì cái tên Andrew Capra xuất hiện.

    Catherine im lặng một lúc để ghi nhận thông tin đó. Cô cố thu hết can đảm để đối diện với câu hỏi logic tiếp theo. Cô cố bình tĩnh nói.

    - Chúng ta đang nói về những nét tương đồng nào vậy?

    - Đó là cách những người phụ nữ bị trói và kiểm soát, loại dụng cụ được dùng để cắt mổ nạn nhân và... - Moore dừng lại, cố chọn lọc từ ngữ sao cho khéo léo hết mức có thể - Và bộ phận hắn lựa chọn để cắt bỏ - Anh nói khẽ.

    Cả hai tay Catherine bám chặt vào bàn, cố ngăn cơn buồn nôn đột ngột trào lên. Cô nhìn chồng hồ sơ xếp gọn gàng ngay trước mặt. Cô nhìn thấy một vết mực màu xanh lơ trên cánh tay áo phòng thí nghiệm. Dù ngươi có cố bao nhiêu để kiểm soát cuộc sống của mình, dù ngươi có cẩn thận mức nào để bảo vệ bản thân khỏi những lỗi lầm và những điều không hoàn hảo thì lúc nào cũng có một vết nhơ, một sai lầm nào đó lẩn khuất khỏi tầm mắt. Chúng chỉ chực khiến ngươi kinh ngạc.

    - Hãy kể cho tôi nghe - Cô nói - Về hai người phụ nữ đó.

    - Chúng tôi không được phép tiết lộ nhiều.

    - Các vị có thể cho tôi biết điều gì?

    - Không có gì nhiều hơn những gì đã được viết trong tờ Toàn cầu ngày Chủ nhật.

    Cô mất mấy giây để hiểu những gì anh vừa nói. Người cô cứng đơ kinh ngạc.

    - Các vụ giết người tại Boston... chúng chỉ mới xảy ra thôi sao?

    - Vụ mới nhất xảy ra vào thứ sáu vừa rồi.

    - Vậy thì chẳng có gì liên quan đến Andrew Capra! Chẳng có gì liên quan đến tôi hết!

    - Có những điểm tương tự đáng ngạc nhiên.

    - Vậy thì đó chỉ là ngẫu nhiên! Chắc chắn là vậy. Tôi nghĩ các vị sẽ nói về những vụ án cũ, một việc gì đó mà Andrew Capra đã làm cách đây mấy năm, chứ không phải tuần trước - Cô đẩy nhanh chiếc ghế về phía sau - Tôi thấy tôi không giúp gì được hai vị.

    - Bác sỹ Cordell, tên giết người này biết những tình tiết mà chưa được tiết lộ cho công chúng. Hắn có những thông tin về các vụ tấn công của Capra mà không ai bên ngoài vụ điều tra Savannah biết được.

    - Vậy thì có thể các vị nên điều tra những người trong ban điều tra đó, những người đã biết mọi việc.

    - Cô là một trong số đó, bác sỹ Cordell.

    - Vậy thì các vị quên rồi à, tôi cũng là một nạn nhân.

    - Cô đã từng tiết lộ về chi tiết vụ án của cô với bất cứ ai chưa?

    - Chỉ cảnh sát ở Savannah thôi.

    - Cô chưa từng nói về nó rất lâu với bạn bè sao?

    - Không.

    - Gia đình thì sao?

    - Không.

    - Chắc chắn cô phải tin tưởng ai đó chứ.

    - Tôi không nói ra chuyện đó. Tôi không bao giờ nói ra chuyện đó.

    Anh nhìn cô chằm chằm, tỏ vẻ không tin.

    - Không bao giờ ư?

    Cô quay mặt đi.

    - Chưa hề! - Cô thì thầm.

    Họ im lặng rất lâu, rồi Moore nói khẽ.

    - Cô đã bao giờ nghe thấy cái tên Elena Ortiz chưa?

    - Chưa.

    - Diana Sterling?

    - Chưa. Họ là những phụ nữ...

    - Đúng vậy, họ là những nạn nhân.

    Cô nuốt khan.

    - Tôi không biết tên họ.

    - Cô không biết gì về những vụ giết người này à?

    - Tôi đã cố tránh không đọc bất cứ thứ gì bi thương. Đó là việc tôi không thể chịu nổi - Cô thở dài mệt mỏi - Anh phải hiểu chứ. Tôi đã thấy quá nhiều chuyện khủng khiếp trong phòng cấp cứu. Khi tôi về nhà vào cuối ngày, tôi muốn yên bình. Tôi muốn cảm thấy an toàn. Những việc xảy ra trên thế giới - toàn bộ những chuyện bạo lực đó - tôi không cần đọc những thông tin về chúng.

    Moore cho tay vào áo khoác, lấy ra hai tấm ảnh, rồi đặt lên bàn, đẩy về phía cô.

    - Cô nhận ra ai trong hai người phụ nữ này không?

    Catherine nhìn kỹ hai gương mặt đó. Người bên tay trái có đôi mắt đen và đang cười. Tóc cô bay trong gió. Người kia có mái tóc vàng như thiên thần, ánh mắt mơ màng, xa xăm.

    - Người tóc đen là Elena Ortiz - Moore nói - Người kia là Diana Sterling. Diana đã bị giết năm ngoái. Cô nhận ra ai không?

    Cô lắc đầu.

    - Diana Sterling sống tại Back Bay, chỉ cách chỗ ở của cô một dặm. Căn hộ của Elena Ortiz chỉ cách bệnh viện này hai tòa nhà về phía nam. Có thể cô đã nhìn thấy họ. Cô có chắc cô chưa từng thấy ai trong hai người này không?

    - Trước đây tôi chưa từng thấy họ - Cô đưa những bức ảnh cho Moore và đột nhiên nhận thấy tay mình run lẩy bẩy. Chắc chắn anh đã nhận ra điều đó khi cầm những bức ảnh và những ngón tay của anh chạm vào tay cô. Cô nghĩ chắc chắn anh đã để ý thấy nhiều thứ khác, một cảnh sát sẽ làm vậy. Cô đã quá bận tâm về tâm trạng bất ổn của mình nên hầu như cô không để ý đến người đàn ông này. Anh ta im lặng và nhẹ nhàng, cô không hề cảm thấy bị đe dọa chút nào. Chỉ lúc này cô mới nhận thấy anh đang nghiên cứu cô rất kỹ và chờ đợi bất cứ biểu hiện nào bên trong Catherine Cordell. Đó không phải là một bác sỹ điều trị chấn thương nổi tiếng, không phải cô gái sành điệu và thanh lịch với mái tóc màu đỏ mà đó là một phụ nữ dưới vẻ ngoài đó.

    Giờ thám tử Rizzoli mới lên tiếng. Khác với Moore, cô không cố làm câu hỏi của mình dịu đi. Cô chỉ muốn biết câu trả lời và không lãng phí thời gian để có được chúng.

    - Cô chuyển tới đây từ bao giờ, bác sỹ Cordell?

    - Tôi rời Savannah một tháng sau khi bị tấn công - Catherine nói. Giọng cô ấy rất ăn ý với giọng điệu kiểu công việc của Rizzoli.

    - Tại sao cô lại chọn Boston?

    - Tại sao lại không?

    - Nó cách miền Nam quá xa.

    - Mẹ tôi lớn lên ở Massachussetts. Hè nào bà cũng đưa chúng tôi đến New England. Tôi có cảm giác... tôi đang về nhà.

    - Vậy cô đã ở đây hơn hai năm?

    - Đúng vậy?

    - Để làm gì?

    Catherine cau mày, bối rối vì câu hỏi đó.

    - Làm việc tại bệnh viện Hành Hương cùng bác sỹ Falco, thuộc bộ phận chấn thương.

    - Vậy thì tôi nghĩ tờ Quốc tế đã viết sai.

    - Xin lỗi, cô nói gì?

    - Tôi đọc bài báo về cô cách đây vài tuần, một bài báo về các bác sỹ phẫu thuật nữ. Nhân tiện cũng muốn nói ảnh của cô rất đẹp. Họ nói cô mới làm việc ở bệnh viện Hành Hương này được một năm.

    Catherine dừng lại, rồi bình tĩnh nói.

    - Bài báo đó nói đúng. Sau khi rời Savannah, tôi dành thời gian để... - Cô hắng giọng - Mãi tháng bảy vừa rồi tôi mới tham gia cùng bác sỹ Falco.

    - Còn năm đầu tiên cô ở Boston thì sao?

    - Tôi không làm việc.

    - Cô làm gì?

    - Không làm gì hết - câu trả lời đó quá cộc và cụt lủn, đó chính là những gì cô có thể nói được. Cô sẽ không tiết lộ sự thật đáng xấu hổ về năm đầu tiên của mình. Những ngày kéo dài thành nhiều tuần liền, cô rất sợ phải ra khỏi căn hộ của mình. Khi đêm đến, một tiếng động nhỏ cũng khiến cô run rẩy hoảng loạn. Rồi cô chậm chạp và đau đớn quay trở lại với thế giới bên ngoài. Đầu tiên chỉ là cố đi thang máy, rồi đi bộ đến ô tô của mình trong đêm tối cũng là một hành động quá gan dạ. Cô rất xấu hổ vì sự mềm yếu của mình, bây giờ cô vẫn thấy xấu hổ. Lòng tự hào của cô sẽ không cho phép cô tiết lộ chuyện đó.

    Cô nhìn đồng hồ.

    - Tôi có vài bệnh nhân sắp đến. Tôi thực sự không thể nói thêm điều gì.

    - Hãy để tôi kiểm tra vài sự việc tôi thu thập được ở đây đã - Rizzoli mở cuốn sổ tay nhỏ, đóng gáy xoắn - Hơn hai năm trước, vào một đêm ngày mười lăm tháng sáu, cô bị bác sỹ Andrew Capra tấn công tại nhà của mình. Cô biết người đó. Đó là thực tập sinh tại bệnh viện - cô ngước lên nhìn Catherine.

    - Cô đã biết câu trả lời rồi.

    - Anh ta cho cô uống thuốc, lột quần áo, trói cô vào giường, đe dọa cô.

    - Tôi không thấy có ích gì khi...

    - Và đã cưỡng bức cô - Những từ đó, dù được nói rất khẽ nhưng rất độc ác. Chúng như một cái tát vào mặt cô.

    Catherine không nói gì.

    - Đó không phải là tất cả những gì hắn định làm - Rizzoli tiếp tục.

    Lạy Chúa, hãy ngăn cô ấy lại đi!

    - Hắn định phẫu thuật trên cơ thể cô ở một bộ phận tồi tệ nhất. Hắn đã làm vậy với bốn phụ nữ khác ở Georgia. Hắn mổ phanh người họ, phá hủy chính bộ phận làm nên người phụ nữ.

    - Đủ rồi! - Moore ngăn.

    Nhưng Rizzoli vẫn ngoan cố.

    - Có thể điều đó đã xảy ra với cô, bác sỹ Cordell.

    Catherine lắc đầu.

    - Tại sao các người làm vậy?

    - Bác sỹ Cordell, tôi chẳng muốn gì hơn ngoài việc bắt được gã này. Tôi muốn cô giúp chúng tôi. Cô muốn việc này sẽ không xảy ra với những người phụ nữ khác chứ?

    - Tôi chẳng liên quan gì đến việc này hết! Andrew Capra đã chết! Hắn đã chết hai năm trước.

    - Ồ, tôi đã đọc báo cáo khám nghiệm tử thi của hắn.

    - Vậy, tôi đảm bảo hắn đã chết - Catherine nói - Vì tôi chính là người đã kết liễu đời tên khốn khiếp đó.


  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 4



    Moore và Rizzoli ngồi vã mồ hôi trong ô tô. Luồng khí nóng kêu ầm ĩ qua lỗ thông hơi xoay chiều. Họ đã bị mắc kẹt mười phút trong đám xe cộ và chiếc xe không mát mẻ lên chút nào.

    - Những người nộp thuế nhận được những gì họ phải chi trả - Rizzoli bực tức - Chiếc xe này chỉ là món đồ chơi.

    Moore đóng cánh quạt điều hòa, cuộn cửa xuống. Không khí nóng bức và chất thải xe cộ bay vào xe. Người anh ướt đẫm mồ hôi. Anh không hiểu nổi tại sao Rizzoli vẫn có thể mặc chiếc áo cộc tay như quân phục được. Anh đã cởi áo khoác ngay khi họ ra khỏi Trung tâm y tế Hành hương. Một làn không khí ẩm ướt dày đặc bao trùm lấy họ. Anh biết chắc chắn cô cảm thấy hơi nóng vì anh thấy mồ hôi lấp lánh trên môi cô. Có lẽ đôi môi đó chưa bao giờ tiếp xúc với thỏi son nào. Rizzoli trông không xấu, nhưng thay vì có thể làm da mềm nhờ trang điểm hay đeo bông tai thì Rizzoli dường như rất ngoan cố và che giấu sự quyến rũ của chính mình.

    Cô mặc những bộ com-lê tối màu. Chúng không thể tôn thân hình mảnh mai của cô. Tóc cô trông như một búi lọn xoăn lộn xộn. Cô chỉ là cô. Người khác phải chấp nhận điều đó, nếu không muốn xuống địa ngục. Anh hiểu tại sao cô có kiểu hành xử tùy người khác nghĩ sao thì nghĩ, có thể cô cần làm như vậy để là một nữ cảnh sát. Rốt cuộc Rizzoli là người sống sót.

    Giống như Catherine Cordell cũng là người may mắn sống sót. Nhưng Cordell đã áp dụng một chiến lược tồn tại khác: đó là rút lui, tạo khoảng cách. Trong suốt thời gian thẩm tra, anh có cảm giác anh đang nhìn cô qua một tấm kính mờ. Dường như cô quá xa vời.

    Chính sự khác biệt đó khiến Rizzoli khó chịu.

    - Cô ấy có vấn đề gì đó - Rizzoli thắc mắc - Có cái gì đó thiếu sót về mặt tình cảm và cảm xúc.

    - Cô ấy là một bác sỹ phẫu thuật chấn thương. Cô ấy đã rèn luyện cho bản thân phải lạnh lùng.

    - Đúng, lạnh như băng vậy. Hai năm trước, cô ấy đã bị trói, cưỡng bức và suýt nữa thì bị mổ xẻ. Giờ cô ấy lạnh lùng về chuyện đó đến mức khó chịu. Điều đó khiến tôi băn khoăn.

    Moore dừng xe lại trước đèn đỏ. Anh ngồi trên xe, nhìn khu ngã tư ùn tắc. Mồ hôi nhỏ từng giọt trên lưng anh. Anh làm việc không được tốt khi trời nóng, nó khiến anh cảm thấy bơ phờ và ngu muội. Nó khiến anh mong cho mau đến cuối hè và khao khát sự tinh khiết của những bông tuyết đầu tiên của mùa đông...

    - Này - Rizzoli nhắc - Anh có nghe không đấy?

    - Cô ấy hoàn toàn tự chủ - Anh thừa nhận. Nhưng đó không phải là băng đá, anh nghĩ và nhớ lại bàn tay Catherine đã run rẩy như thế nào khi cô trả lại anh những tấm ảnh của hai người phụ nữ.

    Khi trở lại văn phòng làm việc, anh uống một long cô-ca ấm và đọc lại bài báo được phát hành cách đây vài tuần trên tờ Quốc tế Boston: "Những người phụ nữ cầm dao". Bài báo nói về ba bác sỹ phẫu thuật nữ ở Boston - thành công và những khó khăn của họ, những vấn đề đặc biệt họ gặp phải trong chuyên môn. Trong số ba bức ảnh, Cordell trông quyến rũ nhất. Không chỉ do cô rất xinh đẹp, mà đó là do ánh mắt của cô. Đôi mắt cô tự tin và thẳng thắn đến nỗi chúng như thách thức chiếc máy ảnh. Bức ảnh và cả bài báo đều khắc sâu ấn tượng rằng người phụ nữ này hoàn toàn làm chủ cuộc sống của mình.

    Anh bỏ bài báo sang bên và nghĩ xem những ấn tượng đầu tiên có thể nhầm lẫn mức nào. Một nỗi đau có thể dễ dàng che giấu bằng một nụ cười hay một chiếc cằm hếch lên ngạo nghễ như thế nào.

    Giờ anh mở hồ sơ khác. Anh hít sâu một hơi, rồi đọc lại báo cáo của cảnh sát ở Savannah về Andrew Capra.

    Capra được biết đến lần đầu tiên khi hắn giết một sinh viên y khoa năm cuối tại Đại học Emory ở Atlanta. Nạn nhân là Dora Ciccone, sinh viên chưa tốt nghiệp tại Đại học Emory. Thi thể cô được tìm thấy, bị trói trên giường tại căn hộ thuê bên ngoài. Người ta tìm thấy dấu vết của thuốc Rohypno khi khám nghiệm tử thi cho cô. Căn hộ của cô không có bất cứ dấu vết bị xâm nhập nào.

    Nạn nhân đã mời kẻ giết người về nhà.

    Khi bị tiêm thuốc xong, Dora Ciccone bị trói vào giường bằng dây ni-lông. Cô bị dán băng dính ống nhựa vào miệng nên không la hét được. Đầu tiên, tên sát nhân cưỡng bức cô. Rồi hắn cắt mổ bộ phận trên người cô.

    Khi đã cắt và lấy đi chiến lợi phẩm, hắn thực hiện hai nhát cắt: một nhát cắt duy nhất rất sâu ngang cổ: từ trái sang phải. Mặc dù cảnh sát có mẫu ADN từ tinh trùng của tên sát nhân nhưng họ không có manh mối nào. Cuộc điều tra rất phức tạp vì Dora được mọi người biết đến là một cô gái rất ham tiệc tùng. Cô thích lui tới các quán rượu địa phương và thường đưa những người đàn ông mới gặp về nhà.

    Vào đêm cô chết, người đàn ông cô đưa về nhà là một sinh viên y khoa tên là Andrew Capra. Nhưng cảnh sát không hề chú ý đến tên Andrew Capra cho đến khi ba cô gái khác bị giết tại thành phố Savannah, cách đó hai trăm dặm.

    Cuối cùng, vào một đêm tháng sáu oi bức, những vụ giết người đó chấm dứt.

    Catherine Cordell, ba mươi mốt tuổi, trưởng bộ phận phẫu thuật tại bệnh viện Riverland ở Savannah giật mình khi có người gõ cửa. Khi mở cửa, cô thấy Andrew Capra, sinh viên thực tập tại phòng phẫu thuật của cô đang đứng ngoài mái hiên. Cách đó một hôm, tại bệnh viện, cô đã khiển trách hắn vì hắn đã mắc lỗi. Và giờ hắn tuyệt vọng tìm cách chuộc lỗi. Hắn muốn vào để nói chuyện với cô về việc đó.

    Trong khi uống bia, họ xem xét lại việc thực tập y khoa của Capra, những lỗi lầm hắn mắc phải, những người bệnh có thể đã bị hại do sự bất cẩn của hắn. Cô không hề che giấu sự thật rằng: Capra đã thất bại và sẽ không được phép hoàn thành chương trình thực tập. Rồi sau đó Catherine rời phòng khách, vào nhà vệ sinh, quay lại tiếp tục cuộc nói chuyện và uống nốt chỗ bia.

    Khi cô tỉnh lại, cô thấy mình bị lột truồng, bị trói vào giường bằng dây ni-lông.

    Báo cáo của cảnh sát đã miêu tả chi tiết cơn ác mộng diễn ra sau đó.

    Những bức ảnh chụp cô trong bệnh viện cho thấy một phụ nữ với cặp mắt như bị ma ám. Má bị một vết thâm tím và sưng to. Những gì anh nhìn thấy trong bức ảnh được tóm gọn lại bằng một từ duy nhất: nạn nhân.

    Đó không phải là từ dành cho người phụ nữ kỳ lạ mà anh gặp hôm nay.

    Khi đọc lại những lời khai của Cordell, anh có thể nghe thấy giọng nói của cô trong đầu mình. Những lời nói đó không phải của một nạn nhân vô danh mà của một phụ nữ anh biết mặt.

    Tôi không biết tôi cởi trói tay bằng cách nào. Lúc đó cổ tay tôi bị trầy xước hết nên chắc tôi đã lôi nó ra khỏi dây trói. Tôi xin lỗi, nhưng mọi việc trong đầu tôi không được rõ ràng. Tất cả những gì tôi còn nhớ là tôi cầm dao mổ. Tôi biết nhất định tôi phải lấy con dao mổ ra khỏi chiếc khay và tôi phải cắt dây trói trước khi Andrew trở lại...

    Tôi nhớ tôi đã lăn sang bên kia giường. Tôi ngã xuống sàn, đập đầu xuống. Rồi tôi cố tìm khẩu súng. Đó là khẩu súng của bố tôi. Sau khi cô gái thứ ba bị sát hại ở Savannah, ông yêu cầu tôi giữ nó.

    Tôi nhớ đã luồn tay xuống dưới giường, cầm lấy khẩu súng. Tôi nhớ những bước chân đi về phía phòng ngủ. Rồi tôi không chắc lắm. Hình như đó là khi tôi bắn hắn. Vâng, tôi nghĩ mọi việc đã xảy ra như vậy. Họ nói với tôi là tôi đã bắn hắn hai phát. Tôi nghĩ điều đó chắc là đúng.

    Moore dừng lại, ngẫm nghĩ về những lời khai đó. Bộ phận Nghiên cứu Đường đạn đã xác nhận cả hai viên đạn được bắn từ khẩu súng của bố Catherine và được tìm thấy bên cạnh giường. Các bài thử máu tại bệnh viện xác nhận có chất Rohypno trong máu của cô, đó là một loại thuốc khiến người ta mất trí nhớ. Do vậy rất có thể trí nhớ của cô bị mất một phần, có thể do thuốc mất trí nhớ hay do chấn thương. Chỉ một cú đấm rất mạnh mới có thể gây ra vết thâm tím và sưng phồng như vậy. Cô không nhớ cô đã bị đấm và đấm khi nào.

    Moore quay sang nhìn những tấm ảnh chụp hiện trường. Trên sàn nhà trong phòng ngủ, Andrew Capra đã chết, nằm úp mặt xuống sàn. Hắn đã bị bắn hai lần, một viên ở bụng, một viên ở mắt. Cả hai đều được bắn ở cự ly gần.

    Anh nghiên cứu những bức ảnh rất lâu, chú ý tư thế của Andrew Capra và mẫu những vết máu.

    Anh quay sang bản báo cáo của cảnh sát, đọc đi đọc lại nhiều lần.

    Rồi anh lại nhìn tấm ảnh chụp hiện trường lần nữa.

    Có cái gì đó không ổn ở đây, anh nghĩ. Những lời khai của Cordell rất vô lý.

    Đột nhiên một bản báo cáo được đặt lên bàn anh. Anh ngước lên và giật mình khi thấy Rizzoli.

    - Anh đã nhận được cái này chưa?

    - Cái gì vậy?

    - Bản báo cáo về sợi tóc tìm thấy ở mép vết thương của Elena Ortiz.

    Moore nhìn câu cuối. Và anh nói.

    - Tôi không hiểu điều này có nghĩa gì.

    Vào năm 1997, nhiều bộ phận khác nhau của Phòng cảnh sát Boston hoạt động trong cùng một cơ quan. Cơ quan đó được đặt bên trong khu nhà mới xây tại Plaza One Schroeder, gần khu Roxbury tồi tàn và cũ nát của Boston. Các nhân viên cảnh sát gọi cơ quan mới của mình là "cung điện cẩm thạch" vì tòa nhà của họ dùng đá granit đánh bóng để xây hành lang phụ. Người ta thường nói đùa với nhau "Hãy cho chúng tôi vài năm để bày bừa nơi này và chúng tôi sẽ có cảm giác nó là nhà của chúng tôi". Schroeder Plaza không giống với các sở cảnh sát tồi tàn mà người ta thường thấy trên ti vi. Đó là một tòa nhà hiện đại và sang trọng, sáng lên vì những ô cửa và ánh sáng tự nhiên. Bộ phận điều tra các vụ giết người có sàn nhà trải thảm và hệ thống máy tính hiện đại. Đáng lẽ nó phải dành cho một văn phòng thuộc tổng công ty nào đó. Điều mà các cảnh sát thích nhất về Schroeder Plaza là các nhánh của Sở Cảnh sát Boston có sự liên kết.

    Các thám tử điều tra vụ giết người chỉ cần đi bộ xuống hành lang là đến phòng thí nghiệm hình sự. Nó nằm ở mạn trái của tòa nhà.

    Tại Phòng Kiểm tra Tóc và Sợi vải, Moore và Rizzoli đang quan sát Erin Volchko, nhà khoa học chuyên về pháp lý, đang xem xét tỉ mỉ các túi đựng vật chứng.

    - Tất cả những gì tôi nghiên cứu chỉ là sợi tóc đó - Erin nói - Nhưng thật kỳ diệu khi chỉ một sợi tóc lại có thể cho ta biết nhiều điều. Được rồi, nó đây rồi - Cô tìm túi đựng có đánh số vụ án của Elena Ortiz, rồi cho nó lên kính hiển vi - Tôi sẽ cho các bạn thấy trông nó như thế nào dưới kính hiển vi. Các số liệu đã được ghi lại trong bản báo cáo.

    - Các con số này à? - Rizzoli hỏi và nhìn một chuỗi các mã số dài trên trang giấy.

    - Đúng vậy.

    Mỗi mã số miêu tả một đặc điểm khác nhau của tóc, từ màu sắc và độ xoăn đến các đặc điểm siêu nhỏ. Sợi tóc này thuộc lớp A01 - một sợi tóc màu vàng đậm. Độ xoăn của nó thuộc loại B01, tức là xoăn và đường kính mỗi lọn xoăn không quá tám mươi. Nó không hẳn nhưng gần như thẳng. Độ dài của sợi tóc là bốn centimet. Thật đáng tiếc, sợi tóc này đã ở giai đoạn hình thành, vì vậy không có các biểu mô bao bọc quanh nó.

    - Nghĩa là không có ADN.

    - Đúng vậy. Telogen là quá trình kết thúc sự phát triển của ngọn tóc. Sợi tóc này rụng ra do tự nhiên, là một phần của quá trình rụng tóc tự nhiên. Nói cách khác thì nó không bị giật đứt. Nếu có bất cứ tế bào biểu mô nào ở ngọn tóc thì chúng ta có thể sử dụng hạt nhân bên trong để phân tích ADN. Nhưng sợi tóc này lại không có loại tế bào đó.

    Rizzoli và Moore thất vọng nhìn nhau.

    - Nhưng - Erin nói thêm - Ở đây chúng ta lại có một thứ khác khá có ích. Nó không hữu ích bằng ADN nhưng nó có thể được giữ lại khi ra tòa khi các vị đã tìm được kẻ tình nghi. Thật tệ là chúng ta không có sợi tóc nào trong vụ của Diana Sterling để đối chiếu - Cô nhìn vào ống kính hiển vi rồi đứng sang bên - Nhìn xem!

    Chiếc kính hiển vi có kính quan sát để giải thích cho người xem nên cả Moore và Rizzoli có thể quan sát hình ảnh cùng lúc. Khi nhìn vào ống kính, vật Moore nhìn thấy là một sợi tóc bị gập cong bởi những nút phồng.

    - Các nốt nhỏ đó là gì? - Rizzoli hỏi - Chúng không bình thường.

    - Không chỉ bất thường, mà nó còn rất hiếm - Erin giải thích - Đó là một tình trạng mà chúng tôi gọi là Trichorrhexis invaginata, nó còn có tên khác là "tóc tre". Các bạn có thể thấy tại sao nó có tên đó. Các nút nhỏ đó khiến nó trông như một đoạn thân cây tre, đúng không?

    - Đó là các nút gì? - Moore tò mò.

    - Đó là các khiếm khuyết lớn trong sợi tóc, là các điểm yếu khiến tóc tự gập lại, khiến người đó bị hói hay trọc đầu. Các nút phồng lên là các điểm yếu. Tại đó, sợi tóc bị thu ngắn lại và tạo thành các nút.

    - Tại sao người ta lại bị như vậy?

    - Thường thì tình trạng đó gia tăng khi làm đầu quá nhiều, nhuộm, buộc, đại loại như vậy. Nhưng vì có nhiều khả năng chúng ta đang đối đầu với một đối tượng tình nghi là nam và tôi không thấy dấu hiệu tẩy màu nhân tạo nên tôi nghiêng về khả năng đây không phải do làm đầu nhiều mà là một loại lỗi gen nào đó.

    - Cụ thể là gì?

    - Ví dụ như triệu chứng Netherton. Đó là tình trạng thoái hóa tóc tự nhiên, ảnh hưởng đến sự phát triển của chất sừng kê-ra-tin trong tóc. Chất sừng rất cứng, là một loại pro-tê-in dạng sợi được tìm thấy trong tóc và móng tay hay móng chân. Nó cũng là lớp ngoài cùng trên da chúng ta.

    - Nếu bị lỗi gen thì chất sừng sẽ không phát triển bình thường và tóc bị yếu đúng không?

    Erin gật đầu.

    - Và không chỉ tóc bị ảnh hưởng. Những người mắc chứng bệnh Netherton thường cũng bị rối loạn trên da như tẩy đỏ hay tróc vảy.

    - Vậy chúng ta đang tìm tên sát nhân bị bệnh gàu rất nhiều à? - Rizzoli hỏi.

    - Có thể nó còn rõ hơn thế. Vài bệnh nhân mắc bệnh này còn mắc một chứng bệnh nặng tên là icthyosis. Da của họ khô đến mức trông giống như vảy cá sấu.

    Rizzoli cười.

    - Vậy là chúng ta đang tìm người bò sát! Điều đó sẽ thu hẹp phạm vi tìm kiếm.

    - Không hẳn đâu. Vì bây giờ là mùa hè.

    - Điều đó thì có liên quan gì?

    - Cái nóng và sự ẩm ướt sẽ khiến da khô bớt thoái hóa. Trông hắn có thể hoàn toàn bình thường vào thời gian này trong năm.

    Rizzoli và Moore nhìn nhau, họ có chung một suy nghĩ.

    Cả hai nạn nhân đều bị giết vào mùa hè.

    - Miễn là thời tiết oi bức này kéo dài - Erin nói - thì hắn vẫn như bao người khác.

    - Bây giờ mới là tháng bảy - Rizzoli lẩm bẩm.

    Moore gật đầu.

    - Mùa săn của hắn chỉ mới bắt đầu.

    Bệnh nhân vô danh giờ đã có tên. Các y tá phòng cấp cứu đã tìm thấy một thẻ tên được gắn trên móc chìa khóa của ông. Ông ấy là Herman Gwadowski, sáu mươi chín tuổi.

    Catherine đứng trong buồng bệnh thuộc Bộ phận chăm sóc đặc biệt sau khi phẫu thuật. Cô nghiên cứu một cách chuyên nghiệp những màn hình và các thiết bị được đặt quanh giường của ông. Đường tim điện tâm đồ bình thường hiện trên máy nghiệm dao động. Các đường động mạch ở mức một trăm mười trên bảy mươi. Sơ đồ đường tĩnh mạch trung tâm của ông lên xuống như những con sóng cồn trên biển nổi gió. Căn cứ vào những con số thì ca mổ của ông Gwadowski đã thành công.

    Nhưng ông vẫn chưa tỉnh lại, Catherine nghĩ khi cô soi đèn pin vào con ngươi bên trái, rồi bên phải. Gần tám mươi tiếng sau ca mổ mà ông ấy vẫn trong tình trạng hôn mê sâu.

    Cô đứng thẳng lên, nhìn ngực ông nâng lên hạ xuống theo nhịp quay của máy thông khí. Cô đã giúp ông ấy không bị chảy máu đến chết. Nhưng thực sự cô đã cứu vãn được gì? Một cơ thể có trái tim còn đập nhưng bộ não thì tê liệt chăng?

    Cô nghe tiếng gõ cửa trên kính. Qua ô cửa phòng bệnh, cô thấy bạn đồng nghiệp của mình, bác sỹ Peter Falco. Anh đang vẫy tay chào cô. Khuôn mặt lúc nào cũng vui vẻ của anh có vẻ lo lắng.

    Vài bác sỹ phẫu thuật nổi tiếng vì hay phát cáu trong phòng mổ. Có người hùng hổ lao vào phòng mổ và khoác áo choàng của họ theo cái cách mà người ta khoác áo choàng của hoàng đế. Có người lại tỏ ra là những kỹ thuật viên tài ba lạnh lùng. Với họ, bệnh nhân chỉ là một mớ dụng cụ kỹ thuật cần được sửa chữa.

    Và rồi sau đó có Peter, Peter hài hước, cởi mở, luôn hát lạc điệu những bài hát chói tai của Elvis Presley trong phòng mổ, người tổ chức cuộc thi máy bay giấy trong văn phòng và vui vẻ bò bằng tay và đầu gối để chơi trò Lego với các bệnh nhân nhỏ tuổi. Cô đã quen nhìn thấy nụ cười trên khuôn mặt của Peter. Vì vậy khi thấy anh cau mày bên ô cửa phòng bệnh, cô bước ra khỏi phòng bệnh ngay.

    - Mọi việc đã ổn chứ? - Anh hỏi.

    - Mới xong các bước đầu.

    Peter nhìn ống dẫn và đống máy móc quanh giường ông Gwadowski.

    - Tôi nghe nói cô đã cứu sống ông ấy một cách tuyệt vời, một ca chảy máu cần mười hai đơn vị máu liền.

    - Tôi không biết có nên gọi đó là cứu sống ông ấy hay không - Cô quay lại nhìn người bệnh - Mọi bộ phận đều hoạt động, trừ não.

    Họ im lặng một lúc. Cả hai đều nhìn ngực ông Gwadowski nâng lên, hạ xuống.

    - Helen nói với tôi là hôm nay cảnh sát đến gặp cô, có chuyện gì vậy?

    - Không có gì.

    - Lại quên không trả tiền phạt đỗ xe sai quy định à?

    Cô cố cười.

    - Đúng vậy, và tôi chỉ còn biết trông cậy vào anh thôi.

    Họ rời Bộ phận chăm sóc đặc biệt, đi dọc hành lang. Peter cao lênh khênh thong thả đi bên cạnh cô. Khi họ vào thang máy, anh hỏi.

    - Cô ổn chứ, Catherine?

    - Sao anh hỏi vậy? Trông tôi không ổn sao?

    - Thật chứ? - Anh nhìn kỹ mặt cô. Đôi mắt màu xanh dương của anh thẳng thắn đến mức cô có cảm giác anh đang nhìn thấu tâm trạng cô - Có vẻ như cô cần một cốc rượu và một bữa ăn tối bên ngoài thật ngon. Cô muốn đi cùng tôi chứ?

    - Một lời mời hấp dẫn đấy.

    - Nhưng?

    - Nhưng tôi nghĩ tối nay tôi sẽ ở nhà.

    Peter ôm ngực như bị thương nặng.

    - Lại bị bắn hạ! Hãy nói cho tôi biết, lời nào có thể thuyết phục nổi cô đây?

    Cô cười.

    - Anh phải tự tìm ra điều đó.

    - Còn chuyện này thì sao? Một chú chim nhỏ bảo tôi rằng sinh nhật cô vào thứ bảy này. Hãy để tôi đưa cô đi bằng máy bay của tôi!

    - Không được. Hôm đó tôi phải trực.

    - Cô có thể đổi cho Ames. Tôi sẽ nói với anh ấy.

    - Ôi, Peter. Anh biết tôi không thích bay mà.

    - Đừng nói với tôi là cô có chứng bệnh sợ bay đấy nhé!

    - Tôi chỉ không giỏi điều khiển khi lơ lửng thôi.

    Anh buồn bã gật đầu.

    - Tính cách cổ điển của một bác sỹ phẫu thuật.

    - Đó là cách nói lịch sự rằng tôi là kẻ cứng nhắc.

    - Vậy là sẽ không có buổi hẹn hò bay bổng nào sao? Tôi không thể khiến cô thay đổi ý kiến à?

    - Tôi nghĩ vậy.

    Anh thở dài.

    - Ồ, đó là những lời của tôi. Tôi đã xài hết mọi tiết mục rồi.

    - Tôi biết. Anh đã bắt đầu xào lại rồi đấy.

    - Helen cũng nói vậy.

    Cô nhìn anh ngạc nhiên.

    - Helen có khuyên anh làm cách nào để mời tôi đi chơi không?

    - Cô ấy nói cô ấy không thể chịu đựng được cảnh tượng đáng thương khi thấy một người đàn ông đập đầu vào bức tường rắn chắc.

    Họ đều cười khi bước ra khỏi thang máy và đi về phía phòng làm việc của mình. Đó là những tiếng cười sảng khoái của những người đồng nghiệp, những người hiểu rằng trò chơi này chỉ là đùa vui. Giữ nó ở mức độ đó nghĩa là cảm giác của họ không bị tổn thương, cảm xúc của họ sẽ không quá mạo hiểm. Đó là chút phỉnh phờ giúp họ tránh những điều rối rắm. Anh mời cô đi chơi một cách tếu táo, và cô cũng tếu táo từ chối. Cả văn phòng làm việc của họ chỉ là một trò đùa vui.

    Năm giờ rưỡi. Các nhân viên của họ đã về hết. Peter lui về văn phòng của mình, cô về văn phòng của cô, treo áo khoác và lấy ví. Khi cô treo áo lên móc cửa, một ý nghĩ chợt lóe lên trong đầu.

    Cô đi qua hành lang, thò đầu vào văn phòng của Peter. Anh đang xem lại các bản đồ, cặp kính lủng lẳng trên sống mũi. Khác văn phòng gọn gàng của cô, phòng làm việc của Peter trông như một trung tâm hỗn độn. Sọt rác đầy máy bay giấy. Sách báo về phẫu thuật chồng chất trên ghế. Một vách tường chằng chịt cây ráy thơm bò lổm ngổm. Vùi trong đống lá cây đó có những bằng cấp của Peter: một bằng cử nhân về kỹ thuật hàng không của Đại học MIT, một bằng tiến sỹ của Đại học Y khoa Harvard.

    - Peter, câu hỏi này hơi ngớ ngẩn một chút...

    Anh nhìn lên qua cặp kính.

    - Vậy là cô đã tìm đúng người rồi.

    - Anh đã bao giờ vào văn phòng của tôi chưa?

    - Tôi có nên gọi luật sư trước khi trả lời câu hỏi đó không?

    - Thôi nào, tôi nói nghiêm túc đấy.

    Anh ngồi thẳng lên, ánh mắt anh nghiêm túc nhìn cô.

    - Không, chưa hề. Sao thế?

    - Không có gì. Việc đó chẳng có gì quan trọng - Cô quay đầu đi ra và nghe thấy tiếng ghế cót két khi anh đứng lên. Anh đi theo cô vào văn phòng của cô.

    - Cái gì không quan trọng? - Anh hỏi.

    - Tôi đang bị ám ảnh và ép buộc, thế thôi! Tôi thấy bực mình vì mọi thứ không ở chỗ mọi khi.

    - Ví dụ như?

    - Áo khoác phòng thí nghiệm của tôi. Tôi luôn treo nó trên cánh cửa. Không biết bằng cách nào mà nó lại phủ trên tủ hồ sơ hay trên chiếc ghế. Tôi biết đó không phải do Helen hay các y tá khác. Tôi đã hỏi họ rồi.

    - Có thể cô nhân viên vệ sinh đã để nó ra chỗ khác.

    - Vậy thì tôi càng phát điên lên vì không tìm thấy ống nghe.

    - Vẫn chưa tìm thấy à?

    - Tôi phải mượn ống nghe của người trông coi việc chăm sóc bệnh nhân.

    Anh cau mày, nhìn khắp phòng.

    - Ồ, nó đây rồi, trên giá sách - Anh đi về phía giá sách, trên đó ống nghe của cô nằm cuộn trong những cuốn sách.

    Cô im lặng nhận lại nó từ tay anh và nhìn nó chằm chằm, như thể nó là một sinh vật lạ, một con trăn màu đen, cuộn quanh tay cô.

    - Này, có chuyện gì vậy?

    Cô hít sâu.

    - Tôi nghĩ tôi mệt rồi - Cô đặt ống nghe vào túi áo khoác bên trái, chỗ cô vẫn thường để nó.

    - Cô có chắc là chỉ mệt không? Có chuyện gì đang xảy ra vậy?

    - Tôi phải về nhà - Cô ra khỏi văn phòng, anh theo cô đến tận hành lang.

    - Có chuyện gì mà cảnh sát lại đến? Nghe này, nếu cô gặp rắc rối gì, nếu tôi có thể giúp cô...

    - Tôi không cần ai giúp đỡ, cảm ơn! - Câu trả lời của cô lạnh lùng hơn cô mong muốn. Lập tức cô cảm thấy hối hận về điều đó. Peter không đáng bị đối xử như vậy.

    - Tôi biết, tôi sẽ không phiền nếu cô nhờ tôi giúp đỡ thường xuyên hơn - Anh khẽ nói - Đó là một phần khi chúng ta làm việc cùng nhau và là đồng nghiệp. Cô không nghĩ vậy sao?

    Cô không trả lời.

    Anh trở về văn phòng của mình.

    - Hẹn gặp cô sáng mai.

    - Peter.

    - Sao?

    - Về hai nhân viên cảnh sát đó và lý do họ đến gặp tôi...

    - Cô không phải nói với tôi.

    - Không, tôi nên nói ra. Anh sẽ thắc mắc chuyện đó nếu tôi không nói ra. Họ đến hỏi tôi về một vụ giết người. Một cô gái bị sát hại vào đêm thứ năm. Họ nghĩ có thể tôi biết cô ấy.

    - Cô biết à?

    - Không. Đó là một sự nhầm lẫn, thế thôi - Cô thở dài - Chỉ là một sự nhầm lẫn.

    Catherine xoay chốt cửa, cảm nhận nó đã vào đúng chỗ khi một âm thanh gọn vang lên, rồi cô luồn dây xích vào. Lại thêm một hàng rào bảo vệ khỏi nỗi sợ không tên lẩn khuất bên ngoài bức tường của cô. Sau khi đã được ngăn cách an toàn trong căn hộ của mình, cô tháo giày, đặt ví và chìa khóa ô tô lên chiếc bàn bằng gỗ anh đào. Đôi chân đeo tất dài của cô bước đi trên tấm thảm màu trắng dày trong phòng khách. Căn hộ mát mẻ và dễ chịu, nhờ hệ thống điều hòa trung tâm. Nhiệt độ ngoài trời là ba mươi độ nhưng trong này, nhiệt độ hiếm khi dao động trên mức hai mươi hai độ vào mùa hè hay hai mươi độ trong mùa đông. Rất ít việc trong cuộc sống mà ta có thể thiết lập hay quyết định trước. Và cô cố hết sức duy trì trật tự mà cô có thể làm được trong phạm vi cuộc sống đã được vạch sẵn của mình.

    Cô đã chọn tòa nhà gồm mười hai bộ phận cai quản trên đại lộ Commonwelth vì nó mới được xây và có khu đỗ xe an toàn. Dù nó không đẹp nên thơ và không có những ngôi nhà xây bằng gạch đỏ như ở Back Bay nhưng nó không phiền nhiễu vì các sự cố đường ống nước hay dây điện như những tòa nhà cũ khác. Sự bất ổn là điều cô không thể chịu đựng nổi. Cô giữ cho căn hộ của mình không có một vết bẩn. Trừ vài gam màu sặc sỡ thì cô chọn các đồ đạc trong phòng hầu hết là màu trắng: ghế trắng, bàn trắng và gạch lát trắng. Đó là màu tinh khiết, không bị vấy bẩn và trinh nguyên.

    Cô vào phòng ngủ, cởi hết quần áo. Cô treo váy lên, đặt áo khoác sang bên để nhân viên giặt quần áo làm sạch sẽ. Cô mặc quần thụng và một chiếc áo sát nách bằng lụa. Khi đi chân trần vào bếp, cô đã cảm thấy bình tĩnh và trở lại trạng thái kiểm soát mọi việc.

    Cô không còn cảm thấy như lúc trước đây. Chuyến thăm của hai thám tử khiến cô run rẩy. Suốt buổi chiều, cô nhận thấy mình mắc những lỗi lầm ngớ ngẩn: bị trượt chân trong phòng thí nghiệm, viết những dữ liệu sai trong hồ sơ bệnh án. Đó chỉ là những lỗi nhỏ nhưng chúng như những gợn sóng lăn tăn, làm xao động mặt nước và khuấy động mặt nước đó rất nhiều. Trong hai năm qua, cô đã nén tất cả những suy nghĩ về việc đã xảy ra ở Savannah. Nhưng không hề báo trước, một hình ảnh nào đó thường bất chợt hiện về. Nó sắc như lưỡi dao. Cô đã cố nhảy nhót, trốn chạy nó, khéo léo lượn những dòng suy nghĩ của mình sang chuyện khác. Hôm nay, cô không thể trốn tránh những ký ức đó. Hôm nay, cô không thể vờ như đã không có chuyện gì ở Savannah.

    Những viên gạch lát trong bếp dường như lạnh hơn dưới đôi chân trần của cô. Cô cầm cái vặn nút, bật chai vodka và nhấp một ngụm. Cô nạo pho mát Parmesan, thái cà chua, hành và rau thơm. Sau bữa sáng, cô vẫn chưa ăn gì. Chất cồn ào ào chảy thẳng vào mạch máu. Ga của vodka thật dễ chịu và đê mê. Cô thấy thoải mái khi nghe tiếng dao gõ đều đều trên mặt thớt, khi cảm thấy mùi thơm của rau húng quế và tỏi. Nấu ăn cũng là một liệu pháp.

    Bên ngoài cửa sổ phòng bếp của cô, thành phố Boston là một cái vạc bị nấu chín với những chiếc xe ùn tắc, những người dễ nổi giận. Nhưng ở đây, cô được bao bọc trong lớp kính, lặng lẽ chiên áp chảo cà chua trong dầu ô-liu, đổ một cốc Chianti và đun sôi nước để chuẩn bị món mỳ sợi - tóc - thiên thần mới. Luồng khí mát mẻ kêu xè xè từ lỗ thông hơi trên máy điều hòa.

    Cô ngồi xuống, cầm món mỳ Ý, rau trộn và rượu. Cô vừa ăn, vừa nghe những giai điệu nhẹ nhàng của nhóm Debussy được chơi trên máy nghe nhạc. Mặc dù rất đói và chuẩn bị công phu cho bữa ăn nhưng mọi thứ hình như đều vô vị. Cô ép mình phải ăn nhưng cô thấy cổ họng đầy ứ, như thể cô vừa nuốt thứ gì rất to và dinh dính. Ngay cả khi đã uống cốc rượu thứ hai, cô vẫn không thể nuốt trôi vật tắc nghẽn trong cổ họng. Cô bỏ dĩa xuống, nhìn bữa tối bỏ dở. Tiếng nhạc lớn dần và cuốn cô đi theo những con sóng đứt đoạn.

    Cô gục đầu vào lòng bàn tay. Đầu tiên không có âm thanh gì. Dường như nỗi buồn khổ của cô đã bị nhốt quá lâu, nút chai đã bị gắn quá chặt đến mức đóng thành băng. Rồi một âm thanh thoát ra khỏi cổ họng cô, một thứ âm rất mỏng và nhẹ. Cô hớp lấy không khí, ngay lập tức tiếng khóc của nỗi đau giằng xé suốt hai năm cứ thế tuôn ra. Sự xúc động mạnh mẽ của cô khiến cô sợ hãi vì cô không thể kìm nó lại. Cô không thể thăm dò nỗi đau của mình sâu mức nào hay liệu cô có ngăn nó lại được hay không. Cô khóc cho tới khi cổ họng khô rát, hai lá phổi co thắt và tiếng thút thít của cô bị cách âm hoàn toàn trong căn phòng được đóng kín bằng các tấm kim loại.

    Cuối cùng, khi nước mắt đã cạn, cô nằm xuống ghế băng và lập tức chìm vào giấc ngủ sâu và mệt mỏi.

    Cô chợt tỉnh và thấy mình nằm trong bóng tối. Tim cô đập thình thịch. Áo cô đẫm mồ hôi. m thanh gì vậy? Tiếng cửa kính bị nạy, tiếng bước chân xa xăm chăng? Có phải đó chính là âm thanh khiến cô bừng tỉnh khi đang ngủ say? Cô không dám nhúc nhích vì sợ mình sẽ bỏ lỡ mất tiếng động nào đó của kẻ đột nhập.

    Một luồng sáng chuyển động chiếu qua cửa sổ, đó là ánh đèn của một chiếc ô tô đi qua. Phòng khách của cô chợt sáng, rồi lại tối như trước. Cô lắng nghe tiếng không khí rì rì từ cánh quạt trong máy điều hòa, tiếng ầm ì của tủ lạnh trong bếp. Không có gì lạ. Không gì có thể gợi lên cảm giác sợ hãi như vậy.

    Cô ngồi dậy, thu hết can đảm bật đèn lên. Nỗi sợ hãi tưởng tượng của cô lập tức tan biến dưới ánh đèn ấm áp. Cô đứng lên khỏi ghế băng, chủ ý đi hết phòng này sang phòng khác, bật hết điện lên, nhìn vào từng ngõ ngách. Nếu suy nghĩ lô-gic, cô biết rằng không có kẻ đột nhập, rằng căn hộ của cô được trang bị hệ thống báo động phức tạp, chốt cửa và các cửa sổ đã được chốt chặt. Nó được bảo vệ như mọi ngôi nhà khác. Nhưng cô không dừng lại cho đến khi đã làm xong việc đó và đã kiểm tra mọi ngách tối trong nhà. Khi đã hài lòng vì sự an toàn của cô không bị đe dọa, cô mới cho phép mình thở nhẹ nhàng như trước.

    Mười giờ rưỡi. Hôm nay là thứ tư. Mình cần nói chuyện với ai đó. Đêm nay mình không thể chịu đựng sự cô đơn.

    Cô ngồi xuống bàn, khởi động máy tính và nhìn màn hình sáng lên. Nó là nhựa sống, là chuyên gia chữa bệnh của cô. Nó chỉ là một đống thiết bị điện, dây rợ và nhựa nhưng nó là nơi an toàn duy nhất mà cô có thể thổ lộ mọi nỗi đau của mình.

    Cô đánh tên của mình, CCORD, đăng nhập vào mạng. Chỉ sau vài cú nhấp chuột và đánh vài chữ trên bàn phím, cô đã tìm được phòng nói chuyện riêng của mình, tên đơn giản là phụ nữ giúp nhau.

    Gần sáu cái tên đã hiện trên đó. Những phụ nữ không mặt, không tên, tất cả bọn họ đều lao vào nơi ẩn náu an toàn, ẩn danh này trên mạng. Cô ngồi một lúc, nhìn những tin nhắn chạy dọc theo màn hình. Trong tâm tưởng, cô nghe thấy giọng nói của những người phụ nữ bị tổn thương mà cô chưa từng gặp, ngoại trừ trong căn phòng ảo này.

    LAURIE 45: Vậy sau đó cô làm gì?

    VOTIVE: Tôi nói với anh ấy tôi chưa sẵn sàng. Tôi vẫn hồi tưởng lại chuyện cũ. Tôi nói với anh ấy rằng nếu anh ấy sợ tôi thì anh ấy nên chờ đợi.

    HBREAKER: Điều đó tốt cho cô.

    WINKY98: Đừng để anh ấy lấn át cô!

    LAURIE 45: Anh ấy phản ứng sao?

    VOTIVE: Anh ấy nói tôi chỉ cần VƯỢT QUA CHUYỆN ĐÓ. Như thể tôi là người yếu đuối, hay đại loại như vậy.

    WINKY98: Đàn ông đáng bị cưỡng hiếp!!!

    HBREAKER: Tôi mất hai năm mới sẵn sàng.

    LAURIE 45: Còn tôi thì hơn một năm.

    WINKY98: Tất cả những gì những gã đàn ông đó nghĩ đến là của quý của họ. Chỉ vì cái đó thôi. Họ chỉ muốn CÁI CỦA NỢ ĐÓ của họ được thỏa mãn.

    LAURIE 45: Ôi! Hôm nay bạn nói hơi quá đấy, Wink.

    WINKY98: Có lẽ vậy. Có lúc tôi nghĩ Lorena Bobbitt có suy nghĩ đúng.

    HBREAKER: Wink đang thoát khỏi lưỡi dao của chính cô ấy!

    VOTIVE: Tôi nghĩ anh ấy không sẵn lòng đợi. Tôi nghĩ anh ấy đã bỏ tôi.

    WINKY98: Cô đáng được chờ đợi. Cô ĐÁNG ĐƯỢC NHƯ VẬY!

    Vài giây trôi qua, hộp thoại trống không. Rồi sau đó...

    LAURIE 45: Chào CCord, rất vui khi bạn trở lại.

    Catherine gõ.

    CCORD: Tôi thấy chúng ta lại nói chuyện về đàn ông.

    LAURIE 45: Đúng vậy. Làm sao chúng ta có thể bỏ qua chủ đề mệt mỏi này nhỉ?

    VOTIVE: Vì họ là người khiến chúng ta tổn thương.

    Họ dừng lại rất lâu. Catherine hít sâu một hơi rồi gõ tiếp.

    CCORD: Hôm nay tôi có một ngày tồi tệ.

    LAURIE 45: Hãy nói với chúng tôi, CC. Có chuyện gì vậy?

    Catherine gần như nghe thấy tiếng thì thầm của cô gái đó, nhẹ nhàng và an ủi.

    CCORD: Tối nay tôi bị một trận hoảng loạn. Tôi ở đây, trong căn phòng được khóa kín, nơi không ai có thể chạm vào tôi. Vậy mà chuyện đó vẫn xảy ra.

    WINKY98: Đừng để hắn chiến thắng. Đừng để hắn biến bạn thành tù nhân.

    CCORD: Muộn rồi. Tôi đã là một tù nhân rồi. Vì đêm nay tôi nhận thấy một chuyện gì đó rất khủng khiếp.

    WINKY98: Cái gì vậy?

    CCORD: Cái ác không chết! Cái ác không bao giờ chết! Nó chỉ biến tướng thành một gương mặt hay một cái tên khác. Chỉ vì chúng ta bị nó sờ đến một lần thì điều đó không có nghĩa là chúng ta có thể được miễn dịch khỏi nó và không bị đau đớn nữa. Sét có thể đánh trúng hai lần mà.

    Không ai đánh thêm dòng chữ nào nữa. Không ai trả lời.

    Dù chúng ta cẩn thận mức nào thì cái ác vẫn biết chúng ta sống ở đâu, cô nghĩ. Nó biết cách tìm ra chúng ta.

    Một giọt mồ hôi chạy dọc sống lưng cô.

    Giờ tôi đang cảm thấy nó. Ở rất gần.

    Nina Peyton sẽ không đi đâu, không gặp ai nữa. Cô ta đã không đi làm mấy tuần liền. Hôm nay ta đã gọi đến văn phòng của cô ta tại Brookline, cô ta làm đại diện bán hàng ở đó và đồng nghiệp của cô ta nói rằng hắn không biết cô ta có trở về với họ không. Cô ta như một con thú cái bị thương, bị nhốt trong hang và sợ hãi chỉ vì tiếng bước chân trong đêm. Cô ta biết điều gì đang chờ cô ta trong đêm đó, vì cô ta đã bị cái ác của bóng đêm sờ đến. Và ngay cả lúc này, cô ta đang cảm thấy nó rỉ ra như hơi nước và ngấm vào những bức tường trong ngôi nhà của cô ta. Rèm cửa đóng kín, những tấm vải đó rất mỏng, và ta nhìn thấy cô ta đi lại bên trong. Dáng người nhỏ bé của cô ta có vẻ bối rối, tay đặt lên ngực như thể cơ thể cô ta đang cuộn vào trong. Những cử động của cô ta giật cục và máy móc khi cô ta đi đi lại lại.

    Cô ta kiểm tra khóa cửa, chốt cửa sổ, cố ngăn cách với bóng tối bên ngoài.

    Chắc chắn bên trong ngôi nhà đó rất oi bức. Đêm nay như một cái lò hơi, và trên cửa sổ của cô ta không có máy điều hòa. Cô ta ở trong nhà suốt buổi tối và cánh cửa đóng chặt, dù nóng bức. Ta có thể tưởng tượng ra cô ta vã mồ hôi. Cô ta đã chịu đựng cả ngày nóng bức, và giờ lại đến đêm. Cô ta rất muốn cho chút không khí trong lành vào nhưng lại sợ ai đó có thể đột nhập.

    Cô ta lại đi qua cửa sổ, dừng lại, nán lại ở đó. Dáng cô ta in rõ dưới bóng đèn hình chữ nhật. Đột nhiên, cửa sổ mở ra. Cô ta thò tay mở chốt cửa. Cô ta cuộn cửa lên, đứng trước nó và vội vàng hớp lấy chút khí trong lành. Cuối cùng, cô ta lui về trong cái căn phòng nóng bức.

    Không gì thú vị hơn với một tên đi săn khi thấy con mồi bị thương. Ta có thể ngửi thấy nó đang lan tỏa trong không khí, mùi của con quái vật đẫm máu, mùi của đống thịt ô uế. Chỉ cần cô ta hít thở không khí ban đêm thì ta cũng ngửi thấy mùi của cô ta và nỗi sợ của cô ta.

    Tim ta đập nhanh hơn. Ta cho tay vào cặp, mơn trớn những công cụ của ta. Ngay cả thép cũng ấm lại dưới sự đụng chạm của ta.

    Cô ta đóng sầm cửa lại. Cô ta chỉ dám cho mình hớp vội chút khí lành. Và giờ cô ta khổ sở rụt đầu vào trong ngôi nhà ngột ngạt.

    Ta chấp nhận thất vọng một lúc, ta bỏ đi, để lại cô ta toát mồ hôi suốt đêm trên chiếc giường nóng như lò thiêu.

    Người ta nói là ngày mai, trời còn nóng hơn.


  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 5



    - Kẻ tình nghi của chúng ta đúng là một kẻ mắc bệnh thích cắt bỏ - bác sỹ Lawrence Zucker nói - Một kẻ dùng dao để thỏa mãn ham muốn gián tiếp hay hạ cấp về mặt tình dục. Bệnh thích cắt bỏ là hành động đâm hay cắt bỏ cái gì đó, bất cứ hành động xâm hại đến da nhiều lần bằng một vật nhọn. Con dao là một biểu tượng của dương vật - một vật thay thế cho bộ phận sinh dục nam. Thay vì thực hiện quá trình giao cấu thông thường, tên sát nhân này thực sự khoái cảm bằng cách bắt nạn nhân chịu đau đớn và sợ hãi. Chính sức mạnh đó khiến hắn hưng phấn. Đó là quyền lực cao nhất, hắn có thể định đoạt sự sống và cái chết.

    Thám tử Jane Rizzoli không dễ bị khiếp sợ nhưng bác sỹ Zucker khiến cô rùng mình. Trông anh ta như nhân vật John Malkovich xanh xao, người béo phục phịch, giọng anh ta thì thào và nghe như giọng con gái. Khi anh ta nói, những ngón tay của anh ta di chuyển mềm mại như những con rắn. Anh ta không phải là cảnh sát, mà là một chuyên gia tâm lý tội phạm đến từ Đại học Southeastearn, là người cố vấn cho Sở cảnh sát Boston. Cô đã làm việc với anh ta một lần trong một vụ giết người. Khi đó anh đã khiến cô sởn gai ốc. Đó không chỉ là do vẻ ngoài của anh mà còn do cách anh đặt hẳn bản thân vào tâm trí của kẻ tình nghi và tâm trạng vui sướng của anh khi lang thang trong không gian của kẻ điên loạn. Anh thích chuyến phiêu lưu kiểu đó. Cô có thể nhận thấy sự vui thích trong tiếng ngân nga từ tiềm thức lộ ra trong giọng nói của anh.

    Cô nhìn quanh, quan sát bốn thám tử khác cùng ngồi trong phòng họp và không biết có ai khác cảm thấy rùng mình vì con người lập dị này không. Nhưng tất cả những gì cô thấy chỉ là những biểu hiện mệt mỏi và những cái bóng khác nhau vào lúc năm giờ chiều.

    Tất cả mọi người đều mệt mỏi. Đêm qua cô cũng ngủ không quá bốn tiếng. Sáng nay, cô dậy trước khi trời sáng. Đầu óc cô như một chiếc hộp số đang xử lý để hiểu một chiếc kính vạn hoa với hàng vạn hình ảnh và màu sắc. Vụ án của Elena Ortiz đã ăn quá sâu vào tiềm thức của cô đến mức trong mơ, cô thấy mình và Elena cùng nói chuyện với nhau, mặc dù đó là một cuộc nói chuyện vô lý. Không có mối liên hệ siêu nhiên, không có chi tiết nào vượt khỏi khu mộ của cô gái đó mà chỉ có những hình ảnh được các tế bào nơ-ron thần kinh tạo ra. Nhưng Rizzoli vẫn nghĩ giấc mơ đó có ý nghĩa với cô. Là thám tử điều tra đứng đầu vụ điều tra quan trọng, cô cảm thấy như thể mình đang đi trên một sợi dây trên cao, và không có lưới đỡ bên dưới. Chỉ cần cô bắt được tên sát nhân thì mọi người sẽ vỗ tay tán thưởng. Nếu cô thất bại, cả thế giới sẽ chứng kiến cô sụp đổ.

    Giờ vụ này đã biến thành một vụ quan trọng hàng đầu. Cách đây hai ngày, trang nhất tờ báo lá cải ở địa phương đã viết: "Bác sỹ phẫu thuật lại mổ xẻ". Nhờ tờ Người đưa tin Boston mà kẻ tình nghi của họ đã có biệt danh riêng và cả cảnh sát cũng dùng. Đó là Bác sỹ phẫu thuật.

    Lạy Chúa, cô đã sẵn sàng thực hiện động tác đi bộ trên dây cao, sẵn sàng đối diện với khả năng nâng cao hay sụp đổ toàn bộ công cán của mình từ trước đến nay. Cách đây một tuần, khi bước vào căn hộ của Elena Ortiz với tư cách thám tử đứng đầu, cô đã biết ngay rằng vụ này sẽ gây dựng sự nghiệp cho cô. Và cô nóng lòng muốn chứng tỏ khả năng của mình.

    Mọi việc thay đổi thật nhanh.

    Trong vòng một ngày, vụ của cô đã bùng phát thành một vụ điều tra quá lớn, dẫn đầu là Trung úy Marquette. Vụ của Elena Ortiz đã được gộp chung với vụ của Diana Sterling. Cả đội điều tra tổng cộng đã lên tới năm thám tử, cộng thêm Trung úy Marquette. Trong đó có Rizzoli, cộng sự của cô Barry Frost, Moore và cộng sự to béo của anh Jerry Sleeper, cộng thêm một thám tử thứ năm là Darren Crowe. Rizzoli là người phụ nữ duy nhất trong đội. Thực ra cô còn là người phụ nữ duy nhất trong Bộ phận điều tra các vụ giết người và có vài người đàn ông sẽ không bao giờ cho phép cô quên điều đó. Cô đã làm việc với Barry Frost rất lâu, bất chấp tính khí vui vẻ đến khó chịu của anh. Jerry Sleeper quá lạnh nhạt nên anh không bao giờ phỉ báng ai và cũng không ai phỉ báng anh. Còn với Moore thì - mặc dù ban đầu cô còn e dè nhưng cô đã thực sự bắt đầu mến và tôn trọng anh vì anh làm việc im lặng và có phương pháp. Quan trọng nhất là dường như anh cũng tôn trọng cô. Bất cứ khi nào cô lên tiếng thì cô biết anh sẽ lắng nghe.

    Không, chính viên cảnh sát thứ năm trong đội, Darren Crowe là người gây rắc rối với cô. Giờ anh ta ngồi đối diện với cô ở bên kia bàn. Khuôn mặt rám nắng vẫn giữ nụ cười tự mãn như mọi khi. Cô đã lớn lên và gặp nhiều thanh niên như anh ta. Đó là những cậu bé vai u thịt bắp, có nhiều bồ và có cái tôi to tướng.

    Cô và Crowe không thích nhau.

    Mấy xấp giấy được chuyển quanh bàn. Rizzoli lấy một bản và thấy đây là tập hồ sơ tài liệu tội phạm do bác sỹ Zucker vừa hoàn thành.

    - Tôi biết vài người trong số các vị có thể nghĩ công việc của tôi là một trò lừa bịp - Zucker tiếp tục - Vì vậy cho phép tôi giải thích lý do. Chúng ta biết những điều sau đây về chủ thể vô danh của chúng ta. Hắn xâm nhập chỗ ở của nạn nhân qua cửa sổ để mở. Hắn làm việc này vào đầu giờ sáng, đôi khi vào khoảng nửa đêm và hai giờ sáng. Hắn khiến nạn nhân kinh hoàng khi đang nằm trên giường. Hắn lập tức vô hiệu hóa nạn nhân bằng thuốc gây mê. Hắn lột quần áo họ. Khiến họ bất động bằng cách trói họ vào giường rồi buộc băng dính ống nhựa quanh cổ tay và cổ chân nạn nhân. Cuối cùng, hắn dán băng dính vào miệng nạn nhân. Điều hắn đạt được chính là kiểm soát hoàn toàn. Khi nạn nhân tỉnh sau đó một lúc, cô ấy không thể cử động, không thể la hét. Như thể cô ấy bị tê liệt nhưng cô ấy lại tỉnh táo và hiểu chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo.

    - Và chuyện xảy ra sau đó chắc chắn là cơn ác mộng kinh hoàng nhất với bất cứ ai - Giọng nói của Zucker nhỏ dần thành kiểu đều đều. Các chi tiết càng kỳ lạ thì anh nói càng nhẹ. Dường như chúng đang ngả hết về phía trước và lơ lửng ở đầu những từ anh nói - Tên sát nhân bắt đầu cắt mổ. Theo báo cáo khám nghiệm tử thi, hắn mất khá nhiều thời gian. Hắn rất tỉ mỉ. Hắn mổ phần bụng dưới, từng lớp một. Đầu tien là lớp da, sau đó đến lớp dưới da, lớp cân, rồi đến cơ. Hắn dùng chỉ y tế để ngăn không cho vết thương chảy máu. Hắn tìm kiếm rồi lấy đi bộ phận duy nhất mà hắn muốn. Không hơn! Và thứ hắn muốn chính là tử cung.

    Zucker nhìn quanh bàn, chú ý phản ứng của mọi người. Ánh mắt anh dừng lại ở Rizzoli, viên cảnh sát duy nhất trong phòng sở hữu bộ phận họ đang nói đến. Cô cũng nhìn lại anh, và tức giận vì giới tính của mình khiến anh tập trung vào cô.

    - Điều đó cho chúng ta biết điều gì về hắn, cô Rizzoli? - Anh hỏi.

    - Hắn căm ghét phụ nữ - Cô bực tức trả lời - Hắn cắt bỏ bộ phận khiến họ trở thành phụ nữ.

    Zucker gật đầu. Nụ cười của anh khiến cô rùng mình.

    - Đó chính là điều Jack, tên thợ mỏ đã làm với Annie Chapman. Khi cắt bỏ tử cung, hắn đã khiến nạn nhân không còn là đàn bà nữa. Hắn lấy đi sức mạnh của họ. Hắn không màng đến đồ trang sức hay tiền bạc của họ. Hắn chỉ muốn một thứ. Khi đã lấy được chiến lợi phẩm của mình rồi, hắn có thể tiếp tục phần việc cuối cùng. Nhưng đầu tiên, hắn dừng lại trước lần hồi hộp cuối cùng. Việc khám nghiệm tử thi của cả hai nạn nhân cho thấy khi đó hắn dừng lại. Có lẽ cả một giờ trôi qua khi nạn nhân vẫn tiếp tục chảy máu dần dần. Một vũng máu đọng lại từ vết thương của họ. Vậy hắn làm gì trong suốt thời gian đó?

    - Thủ dâm - Moore khẽ nói.

    - Ý anh là cho cái thứ đó ra à? - Darren Crowe hỏi một cách thô lỗ như mọi khi.

    - Không có bằng chứng là hắn đã xuất tinh tại hiện trường vụ án - Rizzoli không ngần ngại lên tiếng.

    Crowe ném về phía cô ánh mắt như thể muốn nói cô chẳng thông minh gì.

    - Không có hiện - tượng - xuất - tinh - anh ta nói và cố tình nhấn mạnh từng âm một cách giễu cợt - Điều đó không loại bỏ khả năng là hắn đã làm việc đó.

    - Tôi không tin là hắn đã thủ dâm - Zucker giải thích - Tên sát nhân đặc biệt này sẽ không mất cảnh giác quá như vậy trong môi trường không quen thuộc. Tôi nghĩ hắn chờ cho đến khi ở một nơi an toàn để đạt được khoái cảm tình dục. Tất cả mọi thứ tại hiện trường đều cho thấy một điều. Đó là sự kiểm soát. Khi hắn tiếp tục làm công việc cuối cùng, hắn làm việc đó một cách tự tin và tự chủ. Hắn cắt cổ nạn nhân bằng một vết dao sắc ngọt duy nhất. Rồi hắn thực hiện nghi thức cuối cùng - Zucker lục va li, lấy ra hai bức ảnh chụp hiện trường, đặt chúng lên bàn. Một tấm chụp phòng ngủ của Diana Sterling, tấm kia là của Elena Ortiz - Hắn cẩn thận gấp quần áo ngủ của họ, đặt gọn gàng gần thi thể họ. Chúng ta biết việc gấp quần áo được thực hiện sau khi giết người vì ta thấy các vết máu bên trong các nếp gấp.

    - Tại sao hắn làm vậy? - Frost hỏi - Hành động đó tượng trưng cho điều gì?

    - Lại là sự kiểm soát - Rizzoli khẳng định.

    Zucker gật đầu.

    - Chắc chắn đó là một phần lý do. Bằng nghi thức này, hắn chứng tỏ hắn hoàn toàn làm chủ hiện trường gây án. Nhưng đồng thời, chính nghi thức đó cũng kiểm soát hắn. Đó là sự thôi thúc mà hắn không thể kìm nổi.

    - Nếu hắn không thể thực hiện việc đó thì sao? - Frost băn khoăn - Giả sử có ai đó làm phiền hắn và hắn không thể thực hiện việc đó.

    - Điều đó sẽ khiến hắn tức giận đến phát điên. Có thể hắn sẽ thấy buộc phải săn nạn nhân tiếp theo. Nhưng đến nay, hắn luôn cố hoàn thành thủ tục đó. Và mỗi lần giết người khiến hắn hài lòng đủ lâu để hắn không động tĩnh gì trong một khoảng thời gian dài - Zucker nhìn quanh phòng - Đây là loại tội phạm tồi tệ nhất mà chúng ta có thể gặp phải. Các vụ tấn công của hắn diễn ra cả năm, điều này thực sự hiếm có. Điều đó nghĩa là hắn ngừng lại vài tháng trước khi đi săn. Chúng ta có thể chạy hết tốc lực cố tìm hắn trong khi hắn im lặng ngồi chờ lần giết người tiếp theo. Hắn rất cẩn thận. Hắn rất có tổ chức. Nếu có thì hắn chỉ để lại rất ít manh mối - Anh nhìn Moore xem Moore có xác nhận điều đó không.

    - Chúng ta không tìm thấy dấu vân tay, AND hay bất cứ dấu vết nào tại hiện trường - Moore thêm vào - Tất cả những gì chúng ta có là một sợi tóc được lấy từ mép vết thương của Elena Ortiz và vài sợi polieste tối màu trên khung cửa sổ.

    - Tôi nghĩ là các vị cũng không tìm được nhân chứng.

    - Chúng tôi đã phỏng vấn mười ba người trong vụ án của Sterling và đến nay có một trăm tám mươi người được phỏng vấn trong vụ của Elena Ortiz. Không ai nhìn thấy kẻ đột nhập. Không ai biết có người lén theo dõi.

    - Nhưng chúng ta có ba lời thú nhận - Crowe nói - Tất cả bọn họ đều bước từ ngoài phố vào. Chúng tôi đã lấy lời khai của họ và đã gửi người đi tìm - Anh ta cười lớn - Tìm những kẻ điên rồ!

    - Tên sát nhân của chúng ta không hề điên - Giọng Zucker đều đều - Tôi nghĩ trông hắn hoàn toàn bình thường. Tôi tin hắn là một gã đàn ông da trắng, đã vào tuổi cuối hai mươi, đầu ba mươi, ăn mặc chỉnh tề, gọn gàng và có trí thông minh mức bình thường. Ta có thể gần như chắc chắn rằng hắn đã tốt nghiệp trung học phổ thông, có lẽ đã học xong đại học, hoặc hơn thế nữa. Hai hiện trường gây án cách nhau hơn hai dặm, những vụ giết người được thực hiện vào cùng một thời gian trong ngày, khi có ít phương tiện giao thông công cộng đi lại. Vì vậy hắn đi bằng ô tô.

    Chiếc xe đó nhỏ gọn và được bảo quản tốt. Có lẽ hắn không có vấn đề sức khỏe gì trong hồ sơ bệnh án nhưng hắn có thể có tiền sử trộm cắp hay thích xem tranh ảnh khiêu dâm khi còn là thiếu niên. Nếu hắn có công ăn việc làm thì công việc đó đòi hỏi cả trí thông minh và sự tỉ mỉ. Chúng ta đều biết hắn biết lên kế hoạch, điều đó được chứng tỏ bằng hộp dụng cụ hắn mang đi - gồm dao mổ, chỉ y tế, băng dính ống nhựa và thuốc gây mê, cộng thêm một hộp chứa để hắn mang chiến lợi phẩm về nhà. Có thể đó chỉ đơn giản là túi đựng vật chứng Ziploc. Hắn làm việc trong một lĩnh vực nào đó đòi hỏi phải tỉ mỉ đến từng tiểu tiết. Căn cứ vào việc rõ ràng hắn có kiến thức về giải phẫu và các kỹ năng phẫu thuật thì chúng ta có thể đang đối đầu với một chuyên gia y khoa.

    Rizzoli bắt gặp ánh mắt của Moore. Có lẽ ở Boston có nhiều bác sỹ hơn bất cứ nơi nào trên thế giới.

    - Vì hắn thông minh - Zucker tiếp tục - Hắn biết chúng ta sẽ khoanh cọc hiện trường nên hắn sẽ cố nín nhịn sự cám dỗ muốn đến đó. Nhưng sự cám dỗ vẫn còn đó nên chúng ta phải cố gắng tiếp tục theo dõi hiện trường nơi ở của Ortiz, ít nhất là trong tương lai gần.

    - Hắn đủ thông minh để tránh không chọn nạn nhân ở ngay sát nhà hắn. Hắn là loại người mà chúng ta nên gọi là "người đi vé tháng", chứ không phải "kẻ cướp". Hắn đi ra khỏi khu gần nhà mình để săn mồi. Cho đến khi chúng ta có thêm hồ sơ dữ liệu để phân tích thì tôi thực sự không thể đưa ra phân tích về nơi ở của hắn. Tôi không thể khoanh vùng nơi nào trong thành phố các vị cần tìm kiếm.

    - Anh cần bao nhiêu hồ sơ dữ liệu nữa? - Rizzoli hỏi.

    - Ít nhất là năm.

    - Nghĩa là ít nhất chúng ta phải có năm vụ giết người sao?

    - Chương trình phân tích địa lý nơi ở của tội phạm mà tôi dùng đòi hỏi phải có năm điểm mới đủ. Tôi đã thử chạy chương trình phân tích địa hình với bốn dữ liệu. Đôi khi các bạn có thể dự đoán về nơi ở của tên sát nhân dựa vào đó nhưng nó không được chính xác. Chúng ta cần hiểu sâu hơn về những chuyển động của hắn. Nơi hoạt động của hắn ở đâu, nơi dừng chân của hắn ở đâu. Mỗi tên giết người làm việc trong một khu vực an toàn nhất định. Chúng như những con thú ăn thịt săn mồi. Chúng có lãnh thổ riêng, có khu săn mồi riêng, để tìm thấy con mồi - Zucker nhìn khuôn mặt không biểu hiện cảm xúc của các vị thám tử ngồi quanh bàn - Chúng ta vẫn chưa đủ thông tin về tên sát nhân để đưa ra bất cứ phán đoán nào. Vì vậy chúng ta cần tập trung vào các nạn nhân. Họ là ai? Tại sao hắn chọn họ?

    Zucker lục va li, lấy ra hai hồ sơ, một tên là Sterling, một tên là Ortiz. Anh lấy ra hàng chục tấm ảnh, rải lên bàn. Đó là bức ảnh của hai cô gái khi còn sống, vài bức được chụp khi còn nhỏ.

    - Các vị chưa xem những tấm ảnh này. Tôi đã yêu cầu gia đình họ cung cấp để chúng ta hiểu phần nào về cuộc sống của hai cô gái đó. Hãy nhìn kỹ khuôn mặt họ xem! Và hãy xem trước đây họ là những cô gái như thế nào? Tại sao tên sát nhân lại chọn họ? Hắn gặp họ ở đâu? Họ có điểm gì khiến hắn chú ý? Một nụ cười chăng? Hay cách họ đi xuống phố?

    Anh bắt đầu đọc một tờ giấy được đánh máy.

    Diana Sterling, 30 tuổi, tóc vàng, mắt xanh. Cao 1,7 mét, nặng 56 cân. Nghề nghiệp: nhân viên hãng lữ hành. Nơi làm việc: phố Newbury. Nơi ở: phố Marlborough ở vịnh Back. Sinh viên tốt nghiệp trường Smith. Bố mẹ đều là luật sư, sống trong ngôi nhà trị giá 2 triệu đô ở Connecticutt. Bạn trai: không có bạn trai quanh thời điểm bị giết.

    Anh đặt tờ giấy lên bàn, cầm tờ khác lên.

    - Elena Ortiz, hai mươi hai tuổi. Người gốc Tây Ban Nha, tóc đen, mắt nâu. Cao một mét sáu, nặng sáu mươi ba cân. Nghề nghiệp: nhân viên bán lẻ tại cửa hàng bán hoa tươi của gia đình ở South End. Nơi ở: căn hộ ở South End. Trình độ học vấn: tốt nghiệp trung học phổ thông. Đã sống cả đời ở Boston. Bạn trai: không có bạn trai tại thời điểm bị sát hại.

    Anh ngước lên.

    - Hai cô gái sống ở cùng một thành phố nhưng đến từ những trường học khác nhau. Họ đi mua sắm ở những cửa hiệu khác nhau, ăn ở những nhà hàng khác nhau và không có chung bạn bè. Làm sao tên sát nhân tìm ra họ? Hắn tìm thấy họ ở đâu? Họ không chỉ khác nhau mà họ còn là nạn nhân của vụ hành hung tình dục khác biệt. Hầu hết những kẻ săn mồi tấn công những người yếu ớt trong xã hội, như những gái làng chơi hay người vẫy xe đi nhờ. Như bất cứ thú ăn thịt săn mồi nào, bọn chúng thường tấn công con vật ở ngoài rìa của đàn. Vậy tại sao hắn lại chọn hai cô gái đó? - Zucker lắc đầu - Tôi không hiểu.

    Rizzoli nhìn những bức ảnh trên bàn và một bức hình của Diana Sterling khiến cô chú ý. Nó cho thấy đó là một cô gái trẻ, rạng ngời, một sinh viên mới tốt nghiệp trường Đại học Smith trong chiếc áo dài và mũ lưỡi trai. Một cô gái điệu đà. Một cô gái điệu đà sẽ như thế nào nhỉ? Rizzoli băn khoăn. Cô không biết. Cô đã lớn lên, là một bà chị khó tính của hai đứa em trai tinh nghịch. Cô là một cô gái tinh nghịch nhỏ bé nhưng tuyệt vọng, chỉ muốn được làm con trai. Chắc chắn Diana Sterling, cô gái với đôi gò má quý phái và chiếc cổ dài như thiên nga chưa bao giờ biết bị nhốt bên ngoài và bị loại trừ sẽ như thế nào. Cô ấy sẽ không bao giờ biết không được mọi người để ý tới là như thế nào.

    Ánh mắt của Rizzoli dừng lại trên mặt dây chuyền bằng vàng trên cổ Diana. Cô cầm tấm ảnh lên, nhìn kỹ hơn. Mạch đập mạnh, cô nhìn khắp căn phòng để xem có viên cảnh sát nào để ý thấy chi tiết mà cô vừa phát hiện ra không - bọn họ đều tập trung vào bác sỹ Zucker.

    Anh vừa mở bản đồ thành phố Boston. Trên những ô đường thành phố có hai chỗ bị bôi đậm, một chỗ bao quanh Back Bay, một chỗ bao quanh South End.

    - Đây là các khu vực hoạt động của hai nạn nhân, những nơi họ thường làm việc và sinh sống. Tất cả chúng ta đều có xu hướng sống những ngày bình thường ở nơi quen thuộc. Có một câu nói được các nhà lập hồ sơ địa lý sử dụng: Nơi chúng ta đi phụ thuộc vào những gì chúng ta biết, và những gì chúng ta biết là nhờ nơi chúng ta đi. Điều này đúng với hai nạ nhân và kẻ sát nhân của chúng ta. Nhìn bản đồ này, các vị có thể thấy hai cô gái sống ở hai nơi tách biệt hoàn toàn. Không có điểm giao nhau. Không có cầu hay điểm nối để họ có thể gặp gỡ nhau khi còn sống. Đây chính là điều khiến tôi băn khoăn nhất. Nó chính là mấu chốt của cuộc điều tra. Sterling và Ortiz có mối liên hệ gì?

    Rizzoli lại cúi nhìn bức ảnh, nhìn mặt dây chuyền ở cổ Diana. Mình có thể nhầm lẫn. Mình không thể nói gì cho tới khi mình chắc chắn, nếu không lại có thêm một điều nữa để Darren Crowe tận dụng đem mình ra làm trò cười.

    - Anh có biết là trong vụ này còn có một mắt xích nữa không? - Moore hỏi - Đó là bác sỹ Catherine Cordell.

    Zucker gật đầu.

    - Nạn nhân sống sót ở Savannah.

    - Một số chi tiết nhất định về vụ giết Andrew Capra không được tiết lộ cho công chúng. Như việc sử dụng chỉ ruột mèo, việc hắn gấp bộ quần áo ngủ của nạn nhân. Nhưng tên sát nhân của chúng ta ở đây lại gây dựng toàn bộ các chi tiết đó.

    - Những tên sát nhân thực sự có liên hệ với nhau. Đó là một loại anh em xa.

    - Capra đã chết hai năm. Hắn không thể liên lạc với ai được nữa.

    - Nhưng trong lúc còn sống, có thể hắn đã tiết lộ toàn bộ chi tiết độc ác đó cho tên sát nhân của chúng ta. Đó là lời giải thích mà tôi mong đợi, bởi vì nếu lý giải cách khác thì sự việc còn đáng sợ hơn nhiều.

    - Rằng tên sát nhân của chúng ta đã đọc được bản báo cáo của cảnh sát Savannah.

    Zucker gật đầu.

    - Điều đó nghĩa là hắn là ai đó thuộc cơ quan hành pháp.

    Căn phòng im lặng. Rizzoli không thể không nhìn các đồng nghiệp xung quanh. Cô nghĩ về loại người bị công việc của cảnh sát lôi cuốn, loại người thích sức mạnh, quyền lực, súng đạn, huy hiệu, và cả cơ hội trấn áp người khác. Đó chính là điều tên sát nhân của chúng ta đang khao khát.

    Khi cuộc họp tan, Rizzoli chờ các thám tử khác đã rời phòng họp rồi mới lại gần Zucker.

    - Tôi có thể giữ tấm ảnh này không? - Cô hỏi.

    - Tôi có thể biết lý do không?

    - Một linh cảm.

    Zucker cười theo kiểu của John Malkovich khiến cô sởn gai ốc.

    - Chia sẻ với tôi được không?

    - Tôi không chia sẻ những linh cảm của mình.

    - Đó là điềm xấu à?

    - Để bảo vệ lãnh địa của tôi.

    - Đây là cuộc điều tra của cả nhóm.

    - Có những điều thật nực cười khi điều tra theo nhóm. Cứ khi nào tôi nói với họ những linh cảm của tôi thì ai đó lại luôn tin - Cô cầm bức ảnh, ra khỏi phòng và ngay lập tức thấy hối hận vì đã đưa ra lời bình phẩm đó. Nhưng cả ngày nay mấy đồng nghiệp nam, những lời nhận xét nho nhỏ và vẻ khinh rẻ của họ đã khiến cô bực bội. Họ ngày càng tỏ vẻ khinh thường cô. Việc vặt vãnh gần nhất là buổi thẩm vấn người hàng xóm ngay cạnh phòng Elena Ortiz của cô, cùng Darren Crowe. Crowe đã liên tục ngắt lời câu hỏi của Rizzoli để đưa ra câu hỏi của chính anh ta. Khi cô lôi anh ta ra khỏi phòng và đề nghị anh ta cư xử cho đúng mực thì anh ta cự lại bằng lời thóa mạ cổ điển của đàn ông: "Tôi nghĩ chắc cô đang đến kỳ."

    Zucker động viên cô.

    - Không cô sẽ giữ linh cảm đó cho riêng mình. Nếu chúng không đúng thì chẳng ai có thể chế giễu cô. Và nếu chúng đơm hoa kết trái thì chắc chắn cô sẽ là người được tin cậy.

    Cô quay về khu làm việc của mình, ngồi xuống và nhìn kỹ tấm ảnh chụp lễ tốt nghiệp của Diana. Cô lấy kính lúp, đột nhiên cô chú ý chai nước khoáng mà cô luôn để trên bàn. Cơn tức giận của cô tan biến khi cô tháy chất bẩn gì đó sủi tăm bên trong.

    Đừng phản ứng, cô nghĩ. Đừng để họ lấn át!

    Cô lờ chai nước và chất bẩn bên trong đi, chiếu kính lúp vào vùng cổ Diana Sterling. Đột nhiên căn phòng có vẻ im lặng một cách kỳ lạ. Dường như cô có thể cảm thấy ánh mắt của Darren Crowe đang chờ cô nổi điên.

    Việc đó sẽ không xảy ra đâu, đồ con lừa! Lần này tôi sẽ bình tĩnh.

    Cô tập trung vào vòng cổ của Diana. Suýt nữa cô đã bỏ qua chi tiết này vì điều khiến cô chú ý là khuôn mặt của cô gái, từ đôi gò má quý phái đến đường cong mềm mại của lông mày. Giờ cô xem xét kỹ hai mặt dây chuyền. Một mặt có hình ổ khóa, mặt kia có hình một chiếc chìa khóa. Đó là chìa khóa vào trái tim mình, Rizzoli nghĩ.

    Cô lật nhanh các hồ sơ trên bàn và thấy các bức ảnh lấy từ hiện trường của vụ Elena Ortiz. Cô dùng kính lúp, nghiên cứu tấm ảnh chụp thân thể nạn nhân ở cự ly gần. Qua lớp máu khô đóng lại trên cổ, cô vẫn nhìn thấy một sợi dây bằng vàng, hai mặt dây chuyền bị mờ đi.

    Cô lấy điện thoại, quay số của phòng y tế.

    - Bác sỹ Tierney sẽ ra ngoài cả buổi chiều - cô thư ký nói - Tôi có thể giúp gì cho cô?

    - Về việc khám nghiệm tử thi của anh ấy vào thứ sáu tuần trước. Vụ của Elena Ortiz.

    - Vâng.

    - Nạn nhân có đeo trang sức khi cô ấy được đưa đến nhà xác. Cô còn giữ nó không?

    - Để tôi xem!

    Rizzoli chờ đợi, gõ bút chì lên bàn. Chai nước ở ngay trước mặt nhưng cô quên nó ngay lập tức. Cơn tức giận của cô đã nhường chỗ cho sự thích thú và sự hồ hởi của việc săn tìm.

    - Thám tử Rizzoli?

    - Tôi đây.

    - Các vật dụng tư trang đã được gia đình cô ấy đem đi, bao gồm khuyên tai bằng vàng, vòng cổ và một chiếc nhẫn.

    - Ai ký tên lấy chúng?

    - Anna Garcia, chị gái của nạn nhân.

    - Cảm ơn! - Rizzoli gác máy, nhìn đồng hồ đeo tay. Anna Garcia sống ở tận Danvers. Điều đó có nghĩa là cô sẽ phải đi vào đúng giờ cao điểm...

    - Cô biết Frost đâu không? - Moore hỏi.

    Rizzoli giật mình khi thấy anh đứng cạnh bàn.

    - Không, tôi không biết.

    - Anh ấy không có đây à?

    - Tôi không kiểm soát anh ấy.

    Anh dừng lại, rồi hỏi.

    - Cái gì thế?

    - Các bức ảnh chụp hiện trường của Ortiz.

    - Không, vật trong chai cơ.

    Cô nhìn lên và thấy anh cau mày.

    - Trông nó giống cái gì? Một miếng băng vệ sinh khốn nạn. Ai đó quanh đây có khướu hài hước thật phức tạp - cô nhìn thẳng Darren Crowe đang cố nín cười và quay đi.

    - Tôi sẽ lo vụ này - Moore nói, cầm cái chai lên.

    - Này, này! - Cô vặc lại - Khốn kiếp, Moore. Quên chuyện đó đi!

    Anh bước vào văn phòng của Trung úy Marquette. Qua lớp cửa kính ngăn cách, cô thấy Moore đặt cái chai có băng vệ xuống bàn của Marquette. Marquette quay lại, nhìn về phía Rizzoli.

    Lại thế rồi. Giờ họ sẽ nói là con chó cái không thể chịu nổi trò đùa ác ý.

    Cô chộp lấy ví, thu các tấm ảnh và ra khỏi bộ phận điều tra giết người.

    Cô ra đến thang máy thì Moore gọi cô.

    - Rizzoli?

    - Đừng đấu tranh vô ích vì tôi, được chứ? - Cô hét lên.

    - Cô không đấu tranh. Cô chỉ ngồi yên đó với cái... cái thứ vớ vẩn đó.

    - Băng vệ sinh. Anh có thể nói từ đó to và rõ ràng được không?

    - Tại sao cô lại giận tôi? Tôi đang cố đấu tranh cho cô thôi mà.

    - Nghe này, vị thánh Thomas, đây chính là cách mọi việc xảy ra ở thế giới thật với phụ nữ. Nếu tôi than phiền thì tôi sẽ bị châm biếm. Một ghi chú sẽ được điền vào bản nhận xét về bản thân tôi. Không hòa đồng với đồng nghiệp nam. Nếu tôi phàn nàn thêm lần nữa thì danh tiếng của tôi chấm hết. Rizzoli kẻ than vãn. Rizzoli kẻ lắm mồm!

    - Cô sẽ để bọn họ thắng nếu cô không lên tiếng.

    - Tôi đã cố làm theo cách của anh. Nó không có tác dụng. Vì vậy đừng giúp đỡ tôi, được chứ? - Cô vắt túi lên vai, bước vào thang máy.

    Khi cánh cửa đóng lại giữa họ, cô muốn rút lại những lời đó. Moore không đáng bị xỉ vả như vậy. Anh luôn là người đàn ông lịch sự, nhã nhặn. Và trong lúc bực tức, cô đã ném biệt danh mà cả bộ phận điều tra các vụ giết người đặt cho anh: thánh Thomas. Anh là một cảnh sát không bao giờ quá trớn, không chửi thề, không mất bình tĩnh.

    Và rồi đời tư của anh có những chuyện buồn. Cách đây hai năm, vợ anh, Mary đã suy sụp sau một trận xuất huyết não. Trong suốt sáu tháng, cô đã bám trụ lại trong trạng thái hôn mê tăm tối. Nhưng mãi cho đến ngày cô mất, Moore vẫn không chịu từ bỏ hy vọng là cô sẽ tỉnh lại. Ngay cả bây giờ, đã một năm rưỡi sau khi Mary qua đời, dường như anh vẫn không chấp nhận điều đó. Anh vẫn đeo nhẫn cưới, vẫn để ảnh cô trên bàn làm việc. Rizzoli đã chứng kiến nhiều cuộc hôn nhân của cảnh sát đổ vỡ, đã nhìn thấy một phòng trưng bày các bức ảnh thay nhau trên tấm bàn của các bạn đồng nghiệp. Còn trên bàn của Moore, tấm hình của Mary vẫn còn. Nụ cười của cô ấy vẫn còn mãi.

    Vị thánh Thomas ư? Rizzoli lắc đầu hoài nghi. Nếu trên thế gian này có những vị thánh thật sự thì chắc chắn họ sẽ không phải là cảnh sát.

    Một người muốn ông sống, người kia muốn ông chết và cả hai đều khăng khăng là mình yêu ông hơn. Con trai và con gái Herman Gwadowski ngồi đối diện nhau bên giường cha và không ai chịu đầu hàng.

    - Anh không phải là người chịu trách nhiệm chăm sóc bố - Marylin nói - Em nấu cơm cho bố. Em dọn nhà cho bố. Em đưa bố đi khám bệnh hàng tháng. Lần cuối anh gặp bố là khi nào? Lúc nào anh chả có việc hay ho hơn để làm?

    - Lạy Chúa, anh sống ở Los Angeles - Ivan cự lại - Anh còn có công việc của mình.

    - Lẽ ra anh có thể bay về mỗi năm một lần. Việc đó khó lắm sao?

    - Ồ, thì giờ anh đã về đây.

    - Được. Ông Nói To đã bổ nhào về đây để tiết kiệm ngày tháng. Trước đây anh không thèm về thăm bố. Nhưng giờ anh muốn mọi thứ được tiến hành.

    - Anh không thể tin là em lại để bố ra đi.

    - Em không muốn bố chịu đựng thêm nữa.

    - Hoặc em chỉ muốn bố đừng có tốn tài khoản trong ngân hàng.

    Mỗi thớ cơ trên mặt Marylin căng lên.

    - Anh thật khốn nạn!

    Catherine không thể nghe tiếp nữa, cô cắt ngang.

    - Đây không phải là nơi bàn bạc chuyện đó. Hai anh chị làm ơn ra khỏi phòng!

    Hai anh em im lặng, nhìn nhau với ánh mắt nảy lửa như thể ai là người đầu tiên ra khỏi phòng sẽ là kẻ đầu hàng. Rồi Ivan bước ra, dáng đi dọa dẫm trong bộ com-lê thêu hoa. Em gái anh ta là Marylin, mỗi đường nét đều lộ rõ đây là một bà nội trợ ở thành thị rất mệt mỏi. Cô xiết chặt tay bố, rồi theo anh trai ra ngoài.

    Ở hành lang, Catherine báo cho họ tin xấu.

    - Bố của anh chị đã bị hôn mê sau vụ tai nạn. Thận của ông ấy hoạt động ngày càng kém. Do bệnh tiểu đường lâu năm, chúng đã bị hư hại nhiều và vụ chấn thương khiến mọi thứ tồi tệ hơn.

    - Bao nhiêu trong số đó là do ca mổ? - Ivan hỏi - Cô đã tiêm cho bố tôi bao nhiêu thuốc gây mê?

    Catherine cố nén cơn giận ngày càng tăng, bình tĩnh nói.

    - Ông ấy đã bất tỉnh khi nhập viện. Thuốc mê không phải là nguyên nhân. Chính sự hủy hoại các mô đã gây áp lực cho thận và thận của ông ấy đang dần dần ngừng hoạt động. Thêm vào đó, chúng tôi chẩn đoán ông ấy mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nó đã ăn vào xương. Ngay cả khi ông ấy tỉnh lại thì những vấn đề đó vẫn còn.

    - Cô muốn bỏ cuộc phải không? - Ivan hỏi.

    - Tôi chỉ muốn anh chị nghĩ lại về tình trạng hôn mê của ông ấy. Nếu tim ông ấy ngừng đập thì chúng tôi sẽ không thể khiến ông ấy tỉnh lại nữa. Chúng tôi chỉ có thể để ông ấy ra đi yên bình.

    - Ý cô là chỉ cần để ông chết.

    - Đúng vậy.

    Ivan khịt mũi.

    - Hãy để tôi kể cô nghe về bố tôi. Ông không phải là người bỏ cuộc. Và tôi cũng vậy.

    - Vì Chúa, Ivan, đây không phải là vấn đề thắng thua! - Marylin gắt - Mà đây là việc để bố đi khi nào.

    - Và cô cũng mong điều đó mau chóng xảy ra đúng không? - Anh ta bực bội, quay lại đối mặt với cô - Khi có dấu hiệu khó khăn đầu tiên, cô em Marylin bé nhỏ đã bỏ cuộc và để bố mình chết. Ồ, bố sẽ không bao giờ bỏ tôi.

    Cặp mắt Marylin chứa chan nước mắt.

    - Đó không phải là vì bố phải không? Đó là vì anh chỉ muốn chiến thắng thôi phải không?

    - Không, đó là để cho bố có cơ hội chiến đấu - Ivan nhìn Catherine - Tôi muốn mọi việc được làm vì bố tôi. Tôi chỉ mong điều đó phải thật rõ ràng.

    Marylin lau nước mắt trên mặt khi nhìn anh trai bỏ đi.

    - Làm sao anh ấy có thể nói là yêu bố trong khi chẳng bao giờ đến thăm ông? - Cô nhìn Catherine - Tôi không muốn bố tôi tỉnh lại. Cô có thể ghi lại điều đó vào hồ sơ bệnh án không?

    Đây là tình thế khó xử về mặt đạo lý mà bác sỹ nào cũng sợ. Mặc dù Catherine đứng về phía Marylin nhưng những lời cuối cùng của anh trai cô có tính đe dọa rõ ràng.

    Cô nói.

    - Tôi không thể thay đổi mọi việc cho đến khi cô và anh trai cô thống nhất về vấn đề này.

    - Anh ấy sẽ không bao giờ đồng ý. Cô đã nghe anh ấy rồi đấy.

    - Vậy thì cô phải nói chuyện thêm với anh ấy. Hãy thuyết phục anh ấy!

    - Cô sợ anh ấy sẽ kiện cô phải không? Đó là lý do tại sao cô không chịu thay đổi yêu cầu.

    - Tôi biết anh ấy tức giận.

    Marylin buồn bã gật đầu.

    - Đó là cách anh ấy chiến thắng. Anh ấy luôn chiến thắng.

    Mình có thể khâu một cơ thể liền lại, Catherine nghĩ. Nhưng mình không thể hàn gắn gia đình đã tan vỡ này.

    Nỗi đau và sự xung đột của cuộc gặp mặt đó vẫn bám lấy Catherine khi cô ra khỏi bệnh viện một giờ sau. Đó là chiều thứ sáu và một kỳ nghỉ cuối tuần rảnh rỗi đang chờ cô phía trước. Nhưng khi lái xe ra khỏi bến đỗ của trung tâm y tế, cô không cảm thấy tự do chút nào. Hôm nay thậm chí còn nóng bức hơn hôm qua, nhiệt độ lên tới ba mươi hai độ. Và cô thèm khát sự mát mẻ trong căn hộ của mình, muốn ngồi xuống cùng cốc trà đá rồi bật kênh Khám phá trên ti vi.

    Cô đang chờ ở chỗ đường giao nhau để đèn chuyển sang màu xanh thì ánh mắt cô bị thu hút bởi tên phố cắt ngang. Phố Worcester.

    Đây là khu phố Elena Ortiz sống. Địa chỉ của nạn nhân đã được nhắc đến trong bài báo trên tờ Quốc tế Boston mà Catherine đã buộc mình phải đọc.

    Đèn chuyển màu. Cô bị thôi thúc và lái xe rẽ vào phố Worcester. Trước đây cô chẳng có lý do gì để rẽ vào phố này nhưng có điều gì đó lôi kéo cô về phía đó. Đó chính là mong muốn bệnh hoạn. Cô muốn nhìn thấy chỗ tên sát nhân đã ra tay, muốn nhìn thấy tòa nhà, nơi ác mộng của riêng cô đã biến thành sự thật với một cô gái khác. Tay cô đẫm mồ hôi. Cô cảm thấy mạch mình đập nhanh hơn khi cô nhìn những số nhà bên đường tăng dần.

    Khi đến chỗ ở của Elena Ortiz, cô phanh lại.

    Dinh thự này chẳng có gì đặc biệt, chẳng có gì gợi cho cô sự sợ hãi và chết chóc. Cô chỉ thấy một tòa nhà ba tầng bằng gạch.

    Cô bước ra khỏi xe, nhìn những ô cửa tầng trên. Cửa sổ nào là cửa sổ căn hộ của Elena Ortiz? Cửa sổ có rèm mở chăng? Hay là ô cửa có một rừng chậu cây? Cô đi về phía lối vào, quan sát tên của những người thuê nhà. Có sáu căn hộ, tên người thuê ở căn hộ 2A bỏ trống. Elena đã bị xóa tên, nạn nhân đã bị loại khỏi danh sách những người còn sống. Không ai muốn nhớ về cái chết.

    Theo tờ Quốc tế, tên sát nhân đã đột nhập bằng đường thoát hiểm. Quay trở lại vỉa hè, Catherine để ý thấy hàng rào mắt cáo bằng thép ở khu ngõ hẻm của tòa nhà. Cô đi vài bước trong con hẻm tối, rồi đột ngột dừng lại. Tóc gáy cô dựng ngược. Cô quay lại nhìn khu phố và thấy một chiếc xe tải đi qua, một phụ nữ đang chạy bộ, một đôi tình nhân đang vào xe. Chẳng có gì khiến cô cảm thấy bị đe dọa nhưng cô không thể vờ như không có những tiếng kêu im lặng hoảng loạn.

    Cô trở lại xe, khóa cửa xe, ngồi bám chặt vô lăng và nói đi nói lại với chính mình.

    Chẳng có vấn đề gì cả. Chẳng có vấn đề gì - một luồng khí lạnh phả vào qua bộ phận thông hơi và cô mới thấy mạch mình đập chậm lại một chút. Cuối cùng, cô thở dài và ngả người về sau.

    Ánh mắt cô lại hướng về phía căn hộ của Elena Ortiz.

    Khi đó, cô mới chú ý một chiếc ô tô đậu trong con hẻm và để ý thấy biển xe đăng ký ở bộ phận hãm phanh phía sau.

    POSEY5.

    Lập tức, cô lục tung ví, tìm tấm danh thiếp của vị thám tử hôm trước. Tay cô lẩy bẩy bấm số trên máy di động.

    Anh nhận điện, trịnh trọng nói.

    - Thám tử Moore đây!

    - Tôi là Catherine Cordell - Cô nói - Mấy hôm trước anh có đến gặp tôi.

    - Vâng. Bác sỹ Cordell?

    - Elena Ortiz có lái một chiếc ô tô Honda màu xanh lá cây không?

    - Xin lỗi?

    - Tôi cần biết biển số đăng ký của cô ấy.

    - Tôi xin lỗi, tôi không hiểu.

    - Hãy nói cho tôi! - Mệnh lệnh chắc nịch của cô làm anh giật mình. Cô im lặng rất lâu trên điện thoại.

    - Để tôi xem - Anh nói. Cô nghe thấy tiếng chuông điện thoại và tiếng nhiều người đàn ông nói chuyện ở đầu kia. Anh trở lại.

    - Đó là biển đăng ký ảo... Tôi nghĩ nó có liên quan đến công việc kinh doanh hoa của gia đình.

    - POSEY 5 - Cô thầm thì.

    Cô dừng lại.

    - Đúng thế - Anh nói. Giọng anh đột nhiên trầm xuống và cảnh giác.

    - Hôm trước, khi nói chuyện với tôi, anh hỏi tôi có biết Elena Ortiz không.

    - Và cô nói là không.

    Catherine run rẩy thở hắt ra.

    - Tôi nhầm.


  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6



    Catherine đi rất nhanh trong phòng cấp cứu, mặt tái xanh, căng thẳng. Mái tóc đỏ như đồng của cô xõa rối trên vai. Cô nhìn Moore khi anh bước vào phòng.

    - Tôi nói đúng không? - Cô hỏi.

    Anh gật đầu.

    - Posey 5 là tên của mạng Internet. Chúng tôi đã kiểm tra máy tính của cô ấy. Giờ hãy cho tôi biết tại sao cô biết chuyện này?

    Cô nhìn quanh phòng cấp cứu nói.

    - Hãy đến phòng họp nào đó!

    Căn phòng cô đưa anh đến như một cái hang nhỏ tối tăm, không có cửa sổ, chỉ có một chiếc giường, một cái ghế và một cái bàn có ngăn. Với một bác sỹ mệt mỏi và chỉ muốn chợp mắt thì căn phòng đã đầy đủ và dễ chịu rồi. Moore nhận thấy không gian đó nhỏ hẹp mức nào. Anh tự hỏi sự gần gũi bắt buộc đó có khiến cô cảm thấy bất tiện như anh không. Họ đều nhìn quanh, tìm một chỗ ngồi xuống. Cuối cùng, cô ngồi trên giường, còn anh ngồi trên ghế.

    - Tôi thực sự chưa từng gặp Elena - Catherine nói - Tôi còn không biết tên cô ấy. Chúng tôi chỉ cùng một phòng chat trên mạng. Anh biết phòng chat là gì chứ?

    - Đó là cách nói chuyện trực tiếp trên máy tính.

    - Đúng vậy! Một nhóm người lên mạng cùng lúc để có thể gặp gỡ trên đó. Đây là phòng nói chuyện riêng tư, chỉ dành cho phụ nữ. Anh phải biết từ khóa chính xác để vào được đó. Tất cả những gì anh thấy trên máy tính là những cái tên ảo. Không có tên hay mặt thật, vì vậy chúng tôi đều vô danh. Điều đó khiến chúng tôi cảm thấy an toàn và có thể chia sẻ những bí mật - Cô dừng lại - Anh chưa bao giờ dùng phòng chat sao?

    - Tôi e là tôi không có hứng thú nói chuyện với những người lạ mà không biết mặt.

    - Đôi khi - Cô khẽ nói - Một người lạ không rõ mặt là người duy nhất anh có thể nói chuyện.

    Anh nhận thấy nỗi đau đớn trong câu nói đó và không nghĩ ra điều gì để nói.

    Một lúc sau, cô hít sâu, không nhìn anh mà nhìn hai bàn tay mình đan vào nhau, đặt trên đùi.

    - Chúng tôi gặp gỡ một lần một tuần, vào đêm thứ tư, lúc chín giờ tối. Tôi vào mạng, nhấp biểu tượng phòng chat rồi đánh các chữ cái viết tắt là PTSD, sau đó là phụ nữ giúp nhau. Và tôi vào được. Tôi nói chuyện với các phụ nữ khác bằng cách gõ lời thoại, rồi gửi qua mạng. Lời nói của chúng tôi hiện trên màn hình, chúng tôi có thể thấy nó ở trên đó.

    - PTSD là gì? Tôi nghĩ nó là viết tắt của...

    - Rối loạn thần kinh sau chấn thương. Đó là một thuật ngữ y khoa khá hay dùng để miêu tả những gì phụ nữ ở đó đang mắc phải.

    - Chúng ta đang nói về những chấn thương gì vậy?

    Cô ngẩng đầu lên, nhìn thẳng vào mắt anh.

    - Bị cưỡng bức.

    Từ đó lơ lửng giữa họ một lúc. m thanh của nó làm xao động không khí. Đó là hai âm độc ác, nó tác động như một cú đấm thực sự.

    - Và cô tham gia vì Andrew Capra - Anh nói khẽ - Vì chuyện hắn gây ra cho cô.

    Cô hấp háy mắt, nhìn xuống.

    - Đúng vậy - Cô thì thầm. Cô lại nhìn hai bàn tay của mình. Moore nhìn cô. Anh cảm thấy phẫn nộ vì những chuyện đã xảy ra với Catherine và vì những gì tên Capra đã cướp mất từ tâm hồn cô. Anh tự hỏi cô là người thế nào trước khi bị tấn công. Ấm áp và cởi mở hơn chăng? Hay cô vẫn luôn trốn tránh tiếp xúc với người khác? Liệu cô có như một bông hoa bị bọc trong sương giá?

    Cô ưỡn thẳng người lên, cố nhìn về phía trước.

    - Đó chính là nơi tôi đã gặp Elena Ortiz. Tôi không biết tên thật của cô ấy, tất nhiên rồi! Tôi chỉ thấy biệt hiệu của cô ấy là Posey 5.

    - Có bao nhiêu phụ nữ trong phòng chat đó?

    - Tùy theo tuần. Vài người trong số đó bỏ cuộc. Rồi vài cái tên mới xuất hiện. Vào bất cứ đêm nào, ở bất cứ đâu, chúng tôi có thể có từ ba đến hơn mười người.

    - Sao cô biết nó?

    - Từ một tờ rơi dành cho nạn nhân bị cưỡng bức. Nó được phát cho các phòng khám và bệnh viện nữ khắp thành phố.

    - Vậy những phụ nữ trong phòng chat này đều sống ở Boston?

    - Đúng vậy!

    - Và Posey 5 là một vị khách thường xuyên chứ?

    - Cô ấy đã có ở đó, lúc có lúc không trong vòng hơn hai tháng. Cô ấy không nói nhiều nhưng tôi thấy tên cô ấy trên màn hình và tôi biết cô ấy có ở đó.

    - Cô ấy có nói về vụ cưỡng bức của mình không?

    - Không. Cô ấy chỉ lắng nghe. Chúng tôi gõ chữ chào cô ấy. Nhưng cô ấy không nói về bản thân, như thể cô ấy sợ làm vậy. Hoặc cô ấy quá xấu hổ nên không nói gì.

    - Vậy cô không chắc là cô ấy có bị cưỡng bức hay không?

    - Tôi biết cô ấy đã bị.

    - Sao cô biết?

    - Vì Elena Ortiz đã được điều trị trong phòng cấp cứu này.

    Anh nhìn cô chằm chằm.

    - Cô thấy hồ sơ của cô ấy chứ?

    Cô gật đầu.

    - Tôi chợt nhớ ra là có thể cô ấy đã được chăm sóc sức khỏe sau lần tấn công. Đây là bệnh viện gần chỗ ở của cô ấy nhất. Tôi đã kiểm tra máy tính bệnh viện. Nó có tên của từng bệnh nhân đã được chăm sóc trong phòng cấp cứu này. Tên cô ấy có trên đó - Cô đứng lên - Tôi sẽ cho anh xem những ghi chép về cô ấy.

    Anh đi theo cô ra khỏi phòng nghỉ, trở lại phòng cấp cứu. Hôm đó là tối thứ sáu, những người bị thương đang được đưa vào cửa. Nạn nhân trong tình trạng say túy lúy, lóng ngóng giữ chặt túi khí, áp vào khuôn mặt đã bị dập nát. Đây là một tay đua còn trẻ đã thua cuộc vì đèn vàng. Vào đêm thứ sáu nào cảnh sát cũng phải làm việc vất vả và chứng kiến máu đổ. Trung tâm y tế Hành Hương là một trong các trung tâm cấp cứu đông bệnh nhân nhất ở Boston. Moore có cảm giác anh đang đi vào trung tâm một cuộc hỗn loạn khi anh đâm sầm vào mấy cô y tá và xe đẩy hay dẫm lên một vũng máu.

    Catherine dẫn anh đến phòng lưu trữ hồ sơ của phòng cấp cứu. Nó rộng bằng một nhà vệ sinh, bốn bức tường xung quanh là các giá chứa tập hồ sơ được đóng gáy cẩn thận.

    - Đây là nơi họ lưu trữ tạm thời các ca họ đã xử lý - Catherine nói. Cô lấy ra một tập có chữ: ngày mùng 7 đến ngày 14 tháng 5 - Mỗi khi có bệnh nhân được đưa đến phòng cấp cứu, chúng tôi đều ghi lại vào một tờ đơn. Nó thường dài cả một trang, có ghi chú của bác sỹ và hướng dẫn điều trị.

    - Không có hồ sơ bệnh án cho mỗi bệnh nhân sao?

    - Nếu bệnh nhân chỉ đến một lần thì sẽ không cần đến hồ sơ bệnh án của bệnh viện. Ghi chép duy nhất chỉ là một tờ giấy ghi chú. Những tờ giấy này cuối cùng sẽ được chuyển tới phòng ghi chép của bệnh viện. Ở đó chúng tôi sẽ quét và lưu lại trên ổ đĩa - Cô mở tập hồ sơ của ngày mùng 7 đến ngày 14 tháng 5 - Đây rồi!

    Anh đứng bên cạnh, nhìn qua vai cô. Mùi thơm trên tóc cô lập tức khiến anh phân tâm. Anh phải cố tập trung vào trang giấy. Lần nhập viện đó xảy ra ngày mùng 9 tháng 5, lúc 1 giờ sáng. Tên, địa chỉ và thông tin về các hóa đơn của bệnh nhân được ghi trên đầu, phần còn lại là các ghi chép bằng tay. Chữ viết tắt của y khoa, anh nghĩ, vì anh cố giải mã từng từ, cố hiểu nội dung của đoạn đầu do một cô y tá viết:

    Một cô gái gốc Tây Ban Nha 22 tuổi, bị cưỡng bức cách đây hai giờ. Không bị dị ứng, không bị chảy máu. Huyết áp 105/70, nhịp tim 100, mạch đập 99.

    Phần còn lại trên tờ giấy anh không hiểu nổi.

    - Cô sẽ phải dịch cho tôi thôi - Anh nói.

    Cô quay lại nhìn anh. Đột nhiên mặt họ gần nhau đến nỗi cô cảm thấy hơi ấm từ hơi thở của anh.

    - Anh không đọc được à?

    - Tôi đọc được các ghi chép về sức khỏe và huyết áp. Phần này tôi không đọc được.

    - Đó là chữ viết của Ken Kimball. Tôi nhận ra chữ ký của anh ấy.

    - Tôi không nhận ra đây là tiếng Anh.

    - Với các bác sỹ khác thì chữ viết này hoàn toàn dễ đọc. Anh phải biết các ký hiệu.

    - Họ dạy cô khi cô học trường y à?

    - Họ dạy cả những cách bắt tay bí mật và hướng dẫn giải mã từ chiếc nhẫn.

    Dù là người lạ mặt đi chăng nữa thì họ cũng sẽ cảm thấy bất ngờ khi nghe những lời châm biếm hài hước về công việc nghiêm túc nhất thốt ra từ miệng bác sỹ Cordell. Đây là lần đầu tiên anh thoáng thấy bóng dáng người phụ nữ ẩn sau lớp vỏ. Anh thấy hình ảnh của cô trước khi tên Andrew Capra hủy hoại cô.

    - Đoạn đầu tiên viết về các khám nghiệm bên ngoài - Cô giải thích - Anh ấy dùng chữ viết tắt của ngành y. HEENT nghĩa là đầu, tai, mắt, mũi, và cổ. Cô ấy có một vết bầm tím ở má bên trái. Phổi sạch, tim không có âm thanh như ngựa phi nước đại.

    - Điều đó nghĩa là?

    - Hoàn toàn bình thường.

    - Một bác sỹ không thể viết: "Tim bình thường" sao?

    - Tại sao cảnh sát lại dùng từ 'xe cộ' thay cho từ 'ô tô'?

    Anh gật đầu.

    - Lời giải thích được chấp nhận.

    - Bụng phẳng, mềm, không có chất gì bất thường. Nói cách khác thì...

    - Vẫn bình thường.

    - Anh đang hiểu vấn đề đấy. Tiếp đó, anh ấy miêu tả... khám nghiệm khung xương chậu, ở đó các bộ phận không bình thường - Cô dừng lại. Khi nói tiếp, giọng cô nhỏ hơn và không còn âm điệu hài hước nữa. Cô hít sâu, như thể thu hết can đảm để tiếp tục - Có máu trong âm hộ. Các vết cào xước và thâm tím hai bên đùi. Có một vết rách âm đạo theo hướng bốn giờ trên đồng hồ. Điều đó chứng tỏ đây không phải là hoạt động tình dục tự nguyện. Lúc này, bác sỹ Kimball nói anh ấy dừng kiểm tra.

    Moore chú ý vào đoạn cuối. Đoạn này anh đọc được. Nó không có chữ viết tắt của y khoa.

    Bệnh nhân bị kích động, không chịu để chúng tôi thu thập những chứng cứ về vụ cưỡng bức. Không chịu hợp tác và không cho chúng tôi chạm vào cô ấy. Sau khi đường vạch ranh giới của bệnh HIV, bệnh giang mai và bệnh lậu được thu xong, cô ấy mặc quần áo và bỏ đi trước khi chúng tôi gọi cho những người có thẩm quyền.

    - Vậy là vụ cưỡng bức không được thông báo - Anh nói - Họ không dùng gạc lau âm hộ, không thu được mẫu ADN nào.

    Catherine im lặng. Cô đứng cúi gằm xuống. Tay ôm chặt tập hồ sơ.

    - Bác sỹ Cordell? - Anh nói và chạm vào vai cô. Cô giật mình như thể anh vừa làm cô bị bỏng. Anh nhấc tay ra ngay. Lúc đó có những tia lửa giận dữ tỏa ra từ cô khiến cô như muốn đánh anh.

    - Bị cưỡng bức vào tháng năm, bị chôn cất vào tháng bảy - Cô nói - Đó là một thế giới thật tốt đẹp cho phụ nữ, phải không?

    - Chúng tôi đã nói chuyện với từng người trong gia đình cô ấy.

    Không ai nói gì về vụ cưỡng bức.

    - Vậy thì cô ấy không cho họ biết.

    Bao nhiêu phụ nữ đã im lặng? Anh tự hỏi. Bao nhiêu bí mật đau đớn mà họ không thể chia sẻ với người họ yêu quý? Khi nhìn Catherine, anh nghĩ về sự thật rằng cô cũng đã tìm kiếm sự an ủi từ những người lạ mặt.

    Cô lấy ghi chép trong tập hồ sơ, photo cho anh. Khi cầm lấy nó, anh nhìn tên bác sỹ và một ý nghĩ khác chợt lóe lên trong đầu anh.

    - Cô có thể cho tôi biết đôi điều về bác sỹ Kimball không? - Anh nói - Người đã kiểm tra Elena Ortiz đó?

    - Anh ấy là một bác sỹ xuất sắc.

    - Anh ta thường làm ca đêm phải không?

    - Đúng vậy.

    - Cô có biết vào đêm thứ năm tuần trước anh ta có trực không?

    Mất một lúc cô mới hiểu ý nghĩa của câu hỏi đó. Khi cô hiểu ra, anh thấy cô rùng mình vì ẩn ý của anh.

    - Thực sự anh không cho là...

    - Đó là một câu hỏi theo thói quen. Chúng tôi xem xét toàn bộ những người mà nạn nhân đã tiếp xúc trước đó.

    Nhưng đây không phải là một câu hỏi bình thường. Cô hiểu điều đó.

    - Andrew Capra cũng là bác sỹ - Cô khẽ nói - Anh nghĩ là lại một bác sỹ khác...

    - Khả năng đó đã xảy ra một lần.

    Cô quay đi, thở gấp.

    - Ở Savannah, khi những cô gái khác bị giết, tôi luôn nghĩ là tôi không biết tên sát nhân. Tôi nghĩ nếu tôi đã từng gặp hắn thì tôi sẽ biết ngay và sẽ cảm thấy ngay. Andrew Capra đã dạy cho tôi biết là tôi sai mức nào.

    - Đó là tính chất bình thường của cái ác.

    - Đó chính là điều tôi đã học được, rằng cái ác rất bình thường, rằng người đàn ông tôi gặp hàng ngày, chào hỏi hàng ngày có thể cười với tôi - Cô khẽ nói thêm - Và cùng lúc đó, hắn đang vạch ra đủ cách để giết tôi.

    Trời đã sẩm tối khi Moore đi bộ ra chỗ để xe. Nhưng hơi nóng ban ngày vẫn phả ra trên mui xe màu đen. Chắc chắn đêm nay lại là một đêm khó chịu. Khắp thành phố, các cô gái sẽ ngủ và mở cửa sổ để hứng lấy chút gió nhẹ của ban đêm. Đó chính là tội ác trong đêm.

    Anh dừng lại, quay về phía bệnh viện. Anh thấy ánh đèn màu đỏ của phòng cấp cứu sáng như ngọn hải đăng. Đó là một biểu tượng của sự hy vọng và lành lặn.

    Liệu đó có phải là khu đi săn của ngươi không, ở chính khu mà những cô gái được cứu chữa?

    Một chiếc xe cứu thương lao đi trong đêm, đèn nhấp nháy. Anh nghĩ về những người đã vào phòng cấp cứu vào thời điểm nào đó trong ngày. Đó là các EMT, các bác sỹ, hộ lý và nhân viên trực bệnh viện.

    Và các cảnh sát. Một khả năng anh không muốn nghĩ đến nhưng cũng là khả năng anh không thể loại trừ. Nghề hành pháp có sức hấp dẫn với những người muốn đi săn lùng kẻ khác. Súng, phù hiệu là những biểu tượng mạnh nhất của sự kiểm soát. Và nếu có quyền hành cao hơn, một người có thể tra tấn, thậm chí là giết người khác hay không? Với một tay săn mồi như vậy thì cả thế giới là một khu đồng bằng rộng lớn, đầy những con mồi.

    Tất cả những gì hắn cần làm là chọn con mồi nào.

    Chỗ nào cũng có sự hiện diện của trẻ con. Rizzoli đứng trong bếp và ngửi thấy mùi như mùi sữa và bột hòa tan khi cô chờ Anna Garcia lau dọn xong chỗ nước táo trên sàn nhà. Một đứa bé đang tập đi bám vào chân Garcia, đứa khác đang lôi vung nồi từ khay bếp và gõ chúng vào nhau như một cái chiêng. Một đứa bé đang ngồi trên ghế cao. Nó cười, miệng dính đầy bột rau. Trên sàn, một đứa bé khác, đội mũ xộc xệch đang bò quanh, tìm bất cứ vật gì nguy hiểm để nhét vào chiếc miệng nhỏ xinh, tham ăn. Rizzoli không quan tâm đến trẻ con và cô thấy bồn chồn khi chúng vây quanh cô. Cô cảm thấy mình như Diana Jones rơi vào ổ rắn.

    - Chúng không phải là con tôi cả đâu - Anna giải thích nhanh gọn khi cô cúi về phía bồn rửa. Đứa bé vẫn bám chặt lấy cô như một quả bóng buộc xích. Cô vò mạnh giẻ rửa bát rồi lau tay - Chỉ đứa này là con tôi thôi - Cô chỉ vào đứa bé đang bám vào chân mình - Đứa bé cầm vung nồi và đứa ngồi trên ghế là con của chị gái tôi, Lupe. Còn đứa bé đang bò quanh thì tôi trông hộ cho anh họ. Chỉ cần tôi ở nhà với con tôi thì tôi nghĩ tôi có thể trông thêm vài đứa nữa.

    Đúng vậy, lại thêm một việc đau đầu nữa phải không? Rizzoli nghĩ. Nhưng điều buồn cười là trông Anna không hạnh phúc chút nào. Thực sự thì cô không thèm chú ý đến quả bóng bằng thịt và sợi dây xích đang bám vào chân hay tiếng cheng cheng khi vung xoong đập xuống sàn. Tình trạng đó khiến Rizzoli bồn chồn đến khó chịu, còn Anna thì có vẻ mặt cau có của một người phụ nữ đang ở nơi cô mong muốn. Rizzoli tự hỏi nếu một ngày nào đó Elena Ortiz cũng như vậy nếu cô còn sống thì trông cô sẽ như thế nào? Một bà mẹ trong bếp, vui vẻ lau dọn nước cam và nước tiểu của trẻ con. Anna trông rất giống cô em gái chụp trong những bức ảnh, chỉ mập hơn một chút. Khi cô quay về phía Rizzoli, ánh đèn trong bếp chiếu thẳng vào trán cô. Rizzoli thấy lạnh người và có cảm giác như thể cô đang nhìn vào chính khuôn mặt đã nhìn cô trên bàn khám nghiệm tử thi.

    - Khi những đứa bé này quẩn quanh, tôi phải làm những việc vặt mãi thôi - Anna nói. Cô đặt đứa bé lên đùi, vỗ vỗ rất chuyên nghiệp lên mông nó - Rồi, để tôi xem nào. Cô đến vì chiếc vòng cổ. Chờ tôi đi lấy hộp nữ trang nhé! - Cô ra khỏi nhà bếp. Rizzoli cảm thấy hoảng loạn khi bị bỏ lại cùng ba đứa bé. Một bàn tay nhớp nháp sờ vào mắt cá chân cô. Cô cúi xuống, thấy đứa bé tập bò đang nhai ngấu nghiến gấu quần mình. Cô lắc mạnh để nó nhả ra và nhanh chóng lùi xa để tránh cái miệng nhỏ xinh đó.

    - Đây rồi! - Anna nói. Cô trở ra, mang theo chiếc hộp, đặt lên bàn - Chúng tôi không muốn bỏ nó lại trong căn hộ của em tôi khi những người lạ mặt sẽ đi vào đi ra để lau dọn căn hộ. Vì vậy các anh tôi nghĩ tôi nên giữ chiếc hộp cho đến khi cả nhà quyết định xem chúng tôi nên làm gì với đống nữ trang - Cô mở nắp, một giai điệu ngân lên. Bài hát "Tình yêu của tôi ở nơi xa". Anna dường như ngạc nhiên vì âm thanh đó. Cô ngồi im, mắt đẫm lệ.

    - Cô Garcia?

    Anna nuốt nước bọt.

    - Tôi xin lỗi! Chồng tôi chắc đã vặn nó lên. Tôi không nghĩ là mình sẽ nghe thấy...

    Điệu nhạc chậm dần thành những nốt ngọt ngào cuối cùng và dừng lại. Anna im lặng cúi nhìn số nữ trang. Đầu cô gục xuống như đang than khóc. Cô lưỡng lự, mở một trong các ngăn có viền nhung và lấy ra chiếc vòng cổ.

    Rizzoli thấy tim mình đập mạnh hơn khi cầm lấy chiếc vòng từ tay Anna. Nó đúng là giống hệt những gì cô nhớ khi cô thấy nó trên cổ Elena trong nhà xác. Một chiếc khóa nhỏ và một chìa khóa lủng lẳng trên sợi dây bằng vàng. Cô quay mặt sau lại và thấy dấu ghi vàng 18 kara ở mặt sau.

    - Sao em gái cô có chiếc vòng này?

    - Tôi không biết.

    - Cô biết cô ấy đeo nó từ bao giờ không?

    - Chắc là mới. Tôi chưa hề thấy nó trước hôm...

    - Hôm nào?

    Anna nuốt nước bọt, rồi khẽ nói.

    - Hôm lấy nó ở nhà xác, cùng các nữ trang khác của con bé.

    - Cô ấy cũng đeo khuyên tai và một chiếc nhẫn. Những thứ đó cô đã nhìn thấy trước đây?

    - Đúng vậy. Con bé đeo những thứ đó lâu rồi.

    - Trừ chiếc vòng cổ.

    - Sao cô cứ hỏi về chiếc vòng mãi thế? Nó có liên quan gì đến... - Anna dừng lại, đôi mắt lộ rõ vẻ sợ hãi - Ôi Chúa ơi! Cô nghĩ là hắn đã đeo cho con bé sao?

    Đứa bé ngồi trên ghế như cảm thấy điều gì đó không ổn nên khóc ré lên. Anna đặt con mình xuống sàn nhà, chạy vội đến bế đứa bé. Cô ôm chặt nó, quay lưng về phía chiếc vòng cổ như thể muốn bảo vệ không cho đứa bé thấy biểu tượng của tội ác đó.

    - Làm ơn hãy mang nó đi - Cô thì thào - Tôi không muốn để nó trong nhà.

    Rizzoli cho chiếc vòng vào túi đựng vật chứng Ziploc.

    - Tôi sẽ viết cho cô một tờ chứng từ.

    - Không, chỉ cần cô mang đi! Tôi không cần biết cô cầm hay tôi cầm nó.

    Dù sao, Rizzoli vẫn viết một tờ hóa đơn, đặt nó trên bàn bếp, cạnh đĩa đựng súp rau của những đứa bé.

    - Tôi cần hỏi thêm một câu - Cô khẽ nói.

    Anna đi đi lại lại trong bếp, bực mình vỗ về đứa bé.

    - Làm ơn hãy xem lại hộp trang sức của em gái cô - Rizzoli nói - Hãy cho tôi biết xem có thứ gì bị mất không?

    - Cô đã hỏi tôi câu đó tuần trước rồi. Chẳng có gì bị mất cả.

    - Không dễ phát hiện ra một thứ gì đó bị mất đâu. Mà thay vào đó, chúng ta thường chỉ để ý đến những gì không thuộc về cô ấy. Tôi cần cô xem lại chiếc hộp lần nữa. Cảm ơn!

    Anna nuốt khan. Cô miễn cưỡng ngồi xuống, đặt đứa bé lên đùi, nhìn hộp nữ trang. Cô lấy ra từng thứ một, đặt chúng lên bàn. Đó là công việc phân loại những đồ nữ trang rẻ tiền của một cửa hàng tạp hóa. Những viên kim cương giả, những hạt vòng lấp lánh và những viên ngọc trai giả. Elena thích những thứ sáng màu và lòe loẹt.

    Anna đặt vật cuối cùng lên bàn. Đó là một chiếc nhẫn tình bạn màu xanh lam. Cô ngồi một lát, mặt cô từ từ cau lại.

    - Chiếc vòng tay - Cô nói.

    - Vòng tay nào?

    - Lẽ ra phải có một chiếc vòng tay có đính những bùa chú nhỏ. Đó là hình những con ngựa. Em tôi thường xuyên đeo nó khi đi học cấp ba. Elena phát cuồng về những con ngựa... - Anna nhìn lên, vẻ ngạc nhiên - Nó chẳng có giá trị gì! Nó được làm bằng thiếc. Tại sao hắn lấy nó?

    Rizzoli nhìn túi Ziploc đựng chiếc vòng cổ - chiếc vòng mà cô tin chắc đã từng thuộc về Diana Sterling. Và cô nghĩ, mình nghĩ mình đã biết đích xác chúng ta sẽ tìm thấy chiếc vòng tay của Elena ở đâu: quanh cổ tay của nạn nhân tiếp theo.

    Rizzoli đứng trước cửa nhà Moore, vui sướng lắc túi Ziploc đựng chiếc vòng cổ.

    - Nó là của Diana Sterling. Tôi vừa nói chuyện với bố mẹ cô ấy. Họ không nhận ra nó bị mất cho tới khi tôi gọi điện.

    Anh cầm cái túi nhưng không mở ra. Anh chỉ cầm nó, nhìn sợi dây chuyền vàng cuộn tròn trong túi nhựa.

    - Nó là sợi dây liên lạc hữu hình giữa hai vụ án - Cô nói - Hắn lấy kỷ vật của nạn nhân này, rồi đeo nó cho nạn nhân tiếp theo.

    - Tôi không thể tin nổi là chúng ta lại bỏ qua chi tiết này.

    - Chúng ta đã không bỏ qua.

    - Ý cô là cô đã không bỏ qua - Anh nhìn cô khiến cô thấy mình như cao thêm vài phân. Moore không thuộc tuýp người hay vỗ lưng hay hét to khen ngợi người khác. Thực sự cô nhớ anh chưa bao giờ cao giọng, chưa từng nghe thấy sự giận dữ hay vui sướng trong giọng nói của anh. Nhưng khi anh nhìn cô bằng ánh mắt đó, lông mày anh nhướn lên tán thưởng, nhoẻn nụ cười nửa miệng và đó là tất cả sự khích lệ cô cần.

    Cô đỏ mặt vui sướng, lấy túi đồ ăn cô đã mang đến.

    - Anh muốn ăn tối chứ? Tôi đã dừng ở nhà hàng Trung Hoa dưới phố.

    - Cô không cần làm vậy.

    - Không, cần chứ. Tôi nghĩ tôi nợ anh lời xin lỗi.

    - Vì chuyện gì?

    - Chiều nay. Vụ ngớ ngẩn với miếng băng vệ sinh. Anh lên tiếng bênh vực tôi, cố tỏ ra là người đàn ông tốt. Còn tôi lại hiểu nhầm.

    Giây phút im lặng ngượng ngùng trôi qua. Họ đứng đó, không biết nói gì. Hai người không hiểu rõ về nhau đang cố vượt qua giai đoạn đầu khó khăn trong mối quan hệ của họ.

    Rồi anh cười. Nụ cười đó biến anh từ một người ủ rũ hàng ngày thành một người vui vẻ hơn nhiều.

    - Tôi sắp chết đói rồi - Anh nói - Mang đồ ăn vào đây!

    Cô cười tươi, bước vào nhà anh. Đây là lần đầu tiên cô đến đây. Cô dừng lại, nhìn quanh, ghi lại từng chi tiết chứng tỏ có sự đụng chạm của bàn tay phụ nữ: rèm cửa bằng vải hoa sặc sỡ, bức tranh vẽ hoa lá bằng sơn màu treo trên tường. Cô không nghĩ sẽ thấy những thứ đó. Tệ thật, căn hộ của anh còn nữ tính hơn phòng của cô.

    - Vào bếp đi - Anh nói - Các giấy tờ tôi để đó.

    Anh dẫn cô qua phòng khách. Cô thấy đàn xpi-net.

    - Ồ, anh chơi được không?

    - Không. Đó là của Mary. Tai tôi nhỏ lắm!

    Đó là của Mary. Anh nói câu đó ở thời hiện tại. Điều đó khiến cô chợt nhận ra tại sao ngôi nhà này vẫn mang những nét nữ tính như ngày xưa. Như thể Mary vẫn còn. Ngôi nhà này vẫn đang chờ đợi, không thay đổi để chờ cô chủ của nó trở về. Một bức ảnh của vợ Moore được đặt trên chiếc bàn. Đó là một phụ nữ có nước da rám nắng, đôi mắt biết cười và tóc bay trong gió. Mary, người có những rèm cửa màu hoa sặc sỡ vẫn được treo trong ngôi nhà mà cô không bao giờ trở lại nữa.

    - Đây là các ghi chép ở phòng cấp cứu của Elena Ortiz - Anh nói và đưa cho cô.

    - Cordell đã tìm ra những thứ này à?

    Anh cười mỉa mai.

    - Hình như quanh tôi toàn là những phụ nữ tài năng hơn tôi.

    Cô mở tập tài liệu và thấy một bản photo chữ viết như gà bới của bác sỹ.

    - Anh đã được cô ấy dịch cho đống lộn xộn này chứ?

    - Nó gần chính xác như những gì tôi đã nói với cô trên điện thoại. Một vụ cưỡng bức không được báo cáo. Không thu được mẫu vật hay ADN. Ngay cả Elena cũng không biết việc đó.

    Cô đóng tập hồ sơ lại, đặt lên đống giấy tờ khác của anh.

    - Ôi, Moore! Đống lộn xộn này trông như bàn ăn của tôi. Chẳng có chỗ nào để thức ăn.

    - Việc đó cũng tái diễn cả đời cô rồi đúng không? - Anh nói và dọn đống tài liệu, lấy chỗ để đồ ăn.

    - Cả đời à? Tất cả những thứ này thuộc về tôi: ngủ, ăn, làm việc. Và nếu may mắn thì tôi sẽ có một tiếng ngủ với bạn trai cũ của tôi là Dave Letterman.

    - Không có bạn trai sao?

    - Bạn trai à? - Cô khịt mũi khi bỏ những hộp giấy đựng đồ ăn, khăn và đũa lên bàn - Ồ, đúng vậy. Có vẻ như tôi đã gạt bọn họ ra hết - Chỉ sau đó cô mới cảm thấy tủi thân thế nào khi nói câu đó, cô không có ý đó. Cô vội nói thêm - Tôi không phàn nàn đâu. Nếu ngày cuối tuần tôi cần làm việc thì tôi có thể làm tốt khi không có một gã nào đó lắm mồm. Tôi không thể làm tốt khi có người lải nhải bên cạnh.

    - Điều đó cũng không ngạc nhiên lắm. Vì cô khác hẳn một kẻ lắm mồm khi cô làm tôi đau lòng hôm nay.

    - Đúng, đúng vậy. Tôi nghĩ tôi đã xin lỗi về chuyện đó rồi.

    Anh lấy hai chai bia trong tủ lạnh rồi ngồi đối diện với cô. Cô chưa bao giờ thấy anh như lúc này. Tay áo sơ mi xắn cao, trông anh thật thoải mái. Cô thích anh như vậy. Đó không phải là vị thánh Thomas xa cách, mà là một người đàn ông cô có thể nói chuyện phiếm cùng, người cười với cô, người mà nếu anh chỉ cần đeo một lá bùa thì có thể cởi tất của bất cứ cô gái nào.

    - Cô biết không, cô không cần lúc nào cũng nghiêm túc hơn những người khác - Anh nói.

    - Vâng, tôi vậy đấy.

    - Tại sao lại phải như thế?

    - Vì bọn họ nghĩ là tôi không đủ mạnh mẽ.

    - Ai vậy?

    - Những kẻ như Crowe, hay trung úy Marquette.

    Anh nhún vai.

    - Lúc nào chả có vài người như vậy.

    - Tại sao tôi lại luôn phải làm việc cùng họ? - Cô mở lon bia, tu một ngụm lớn - Đó là lý do tại sao anh là người đầu tiên tôi thông báo về chiếc vòng cổ. Anh sẽ tin tôi.

    - Sẽ buồn lắm nếu chúng ta tìm ra ai đó tin việc này hay việc kia.

    Cô cầm đũa lên, sục vào hộp giấy đựng món gà tần. Món này cay tận răng nhưng cô thích như thế. Rizzoli không nhăn nhó khi động đến ớt cay hay tiêu.

    Cô nói.

    - Vụ án quan trọng thực sự đầu tiên mà tôi tham gia khi còn làm việc bên Bộ phận Tệ nạn xã hội và buôn bán ma túy. Tôi là phụ nữ duy nhất trong nhóm năm người. Khi chúng tôi phá xong vụ án, họ tổ chức một buổi họp báo. Các đài truyền hình trong phạm vi mười cây số quanh đó đều đổ xô đến. Và anh biết sao không? Họ nhắc đến tên từng người trong đội, trừ tôi. Họ nhắc từng cái tên chết tiệt khác - Cô uống một ngụm bia nữa - Tôi phải bảo đảm là việc đó sẽ không tái diễn. Các anh có thể tập trung toàn bộ tâm trí của mình vào vụ án và chứng cứ. Còn tôi lãng phí nhiều công sức chỉ để mọi người lắng nghe tôi.

    - Tôi nghe cô rất rõ đây, Rizzoli.

    - Đây là một biến chuyển tốt!

    - Còn Frost thì sao? Cô có vấn đề gì với anh ấy không?

    - Frost tuyệt lắm! - Cô nhăn mặt khi nói lời châm biếm sau đó - Vợ anh ấy đã huấn luyện rất tốt cho anh ấy.

    Cả hai đều cười vì câu nói đó. Bất cứ ai tình cờ nghe được Frost nói chuyện điện thoại với vợ sẽ nghe thấy những câu nhu mì của Barry Frost, đại loại như được rồi, em yêu. Không, em yêu. Điều đó chứng tỏ chắc chắn vợ anh chính là chủ trong nhà.

    - Đó là lý do anh ấy sẽ không thăng tiến xa - Cô nói - Không có lửa trong bụng. Đó là mẫu người đàn ông vì gia đình.

    - Có vấn đề gì khi là người đàn ông hết lòng vì gia đình đâu. Tôi ước trước đây tôi là người chồng tốt hơn.

    Cô rời mắt khỏi miếng thịt bò Tây Tạng lấy trong hộp giấy và thấy anh không nhìn cô, mà nhìn chiếc vòng cổ. Giọng anh có cái gì đó đau đớn. Cô không biết nên trả lời thế nào, cô nghĩ tốt hơn là không nên nói gì.

    Cô thấy nhẹ nhõm khi anh lái chủ đề về cuộc điều tra. Trong thế giới của họ, vụ giết người luôn là chủ đề an toàn.

    - Có vấn đề gì đó ở đây - Anh nói - Tôi không hiểu món đồ trang sức này có ý nghĩa gì.

    - Hắn lấy đi những kỷ vật, những vật rất bình thường.

    - Nhưng có ích gì nếu lấy kỷ vật, rồi lại cho đi?

    - Một số tên sát nhân lấy nữ trang của nạn nhân, rồi cho vợ hoặc bạn gái mình. Bọn chúng cảm thấy vui sướng âm thầm khi nhìn thấy nó trên cổ bạn gái và chỉ có bọn chúng mới biết nguồn gốc của món đồ đó.

    - Nhưng cậu bé của chúng ta lại không làm vậy. Hắn bỏ lại kỷ vật đó tại hiện trường gây án tiếp theo. Hắn không lấy để chiêm ngưỡng nó. Hắn không vui sướng khi nhìn thấy vật nhắc nhở hắn về vụ giết người do hắn gây ra. Tôi thấy chẳng có sự thỏa mãn nào về mặt tâm lý.

    - Một biểu tượng của sự sở hữu thì sao? Như một con chó đánh dấu lãnh thổ của mình vậy. Chỉ có hắn dùng một món đồ trang sức để đánh dấu nạn nhân tiếp theo.

    - Không. Không phải vậy - Moore cầm túi Ziploc lên, thử dùng tay ước tính trọng lượng của nó như thể đang tìm ra mục đích sử dụng của nó.

    - Điều quan trọng là chúng ta đã dần hiểu cách thức của hắn - cô nói - Chúng ta biết chính xác hiện trường vụ án tiếp theo sẽ có gì.

    Anh ngẩng lên nhìn cô.

    - Cô đã giải được câu đố.

    - Gì?

    - Hắn không đánh dấu nạn nhân. Hắn đánh dấu hiện trường gây án.

    Rizzoli dừng lại. Ngay lập tức cô hiểu sự khác biệt.

    - Lạy Chúa, bằng cách đánh dấu hiện trường gây án...

    - Đây không phải là một kiểu kỷ vật, cũng không phải một dạng đánh dấu quyền sở hữu - Anh đặt chiếc vòng cổ xuống. Đó chính là sợi dây bằng vàng đã chạm vào da thịt của cả hai cô gái.

    Rizzoli bỗng rùng mình.

    - Đó là một tấm thiệp mời gọi - cô khẽ nói.

    Moore gật đầu.

    - Bác sĩ phẫu thuật đang nói chuyện với chúng ta.

    Một nơi chỉ có gió to và những đợt thủy triều nguy hiểm.

    Đây chính là những gì Edith Hamilton đã miêu tả cảng Aulis của Hy Lạp trong cuốn Thần thoại học. Ở đây có những vật đổ nát của ngôi đền cổ Artemis, nữ thần săn bắn. Chính tại cảng Aulis này, một nghìn con tàu đen của Hy Lạp đã tập hợp lại, tấn công thành Troy. Nhưng gió bắc đã nổi lên, những con thuyền không thể ra khơi. Rồi ngày qua ngày, gió mỗi lúc một mạnh. Đội quân Hy Lạp, dưới sự chỉ huy của vua Agamemnon ngày càng phẫn nộ, bồn chồn không yên. Một nhà tiên tri đã tiết lộ bí mật để gió dịu đi: đó là nữ thần Artemis tức giận vì Agamemnon đã giết hại một trong các sinh vật yêu quý của nữ thần, đó là con thỏ hoang. Nữ thần sẽ không cho quân Hy Lạp ra khơi, trừ phi Agamemnon chịu một sự hy sinh khủng khiếp: đó là cô con gái Iphigenia.

    Và thế là đức vua cho vời Iphigenia đến, nói rằng ngài đã sắp xếp để nàng thành hôn long trọng với Achilles. Nàng không hề biết là nàng sắp lao vào chỗ chết.

    Những cơn gió to gớm ghiếc đó sẽ không thổi vào ngày anh và tôi đi bộ trên bãi biển gần Aulis. Gió lặng, mặt nước trong xanh như gương, cát nóng như tàn thuốc màu trắng ngay dưới chân chúng ta. Ồ, chúng ta đã ghen tị mức nào với những cậu bé Hy Lạp chạy chân trần trên bãi biển bị mặt trời thiêu đốt! Mặc dù cát thiêu đốt làn da xanh xao của những khách du lịch như chúng ta nhưng chúng ta thích thú trong cảm giác khó chịu đó. Bởi vì chúng ta muốn được như những cậu bé ấy. Gót chân của chúng ta sẽ rắn chắc lại như da thuộc. Chỉ khi đã trải qua đau đớn và quần áo cứng thì những vết chai sần mới hình thành.

    Đến buổi tối, khi trời dịu lại, chúng ta đến đền Artemis.

    Chúng ta đi giữa những cái bóng đổ dài và đến ngôi đền, nơi Iphigenia đã bị tế cho thần. Mặc dù nàng van xin, than khóc " Cha, xin hãy cho con được sống!" nhưng những chiến binh vẫn đưa nàng đến khu đền. Nàng bị buộc thẳng người trên mặt đá, chiếc cổ trắng ngần của nàng trần trụi dưới lưỡi dao. Nhà soạn kịch thời cổ đại Euripides đã viết những người lính Atreus, tất cả quân đội đều cúi gằm xuống đất và không muốn nhìn dòng máu trinh tiết của cô chảy xuống. Họ không muốn chứng kiến cảnh tượng đáng sợ đó.

    À, nhưng tôi sẽ phải xem! Và cả anh cũng vậy. Chúng ta sẽ phải háo hức xem.

    Ta hình dung những đoàn quân lặng lẽ mai phục trong bóng tối. Ta tưởng tượng thấy tiếng trống. Đó không phải là tiếng đập rộn ràng của lễ cưới mà là tiếng trống hành quân đều đều về phía cái chết. Ta thấy đoàn người đi về phía rừng cây. Cô gái như một con thiên nga trắng muốt, binh lính và vị linh mục vây quanh nàng. Tiếng trống ngừng.

    Họ đưa nàng công chúa đang gào thét đến khu đền.

    Trong tâm trí của ta, vua Agamemnon chính là người cầm lưỡi dao bởi vì làm sao gọi đó là một sự hy sinh nếu ngươi không phải là kẻ cầm dao, rút cạn máu của nàng? Ta thấy ông ta tiến lại gần khu đền, chỗ con gái mình đang nằm. Những thớ thịt mềm mại của nàng lộ ra trước hàng nghìn cặp mắt. Nàng cầu xin tha mạng nhưng vô ích.

    Vị linh mục túm tóc nàng, giật mạnh về phía sau, để lộ chiếc cổ trắng ngần. Dưới lớp da trắng đó là những động mạch chủ, đánh dấu chỗ cần đặt lưỡi dao lên. Agamemnon đứng cạnh con gái, cúi nhìn khuôn mặt mà đức vua yêu quý. Trong mạch máu nàng có dòng máu của chính nhà vua. Trong mắt nàng, vua thấy chính mình. Cắt cổ nàng nghĩa là cắt chính da thịt của mình.

    Nhà vua vung dao lên. Các binh lính đứng im như những bức tượng giữa những lùm cây nghiêm trang. Mạch trên cổ nàng đập mạnh.

    Artemis đòi sự hy sinh và đây chính là việc Agamemnon phải làm.

    Nhà vua ấn lưỡi dao vào cổ nàng, ấn rất sâu.

    Một cột máu đỏ tươi phụt lên, bắn vào mặt đức vua như một trận mưa nóng ấm.

    Iphigenia vẫn sống. Mắt nàng trợn ngược kinh hãi khi máu ộc ra từ cổ nàng. Cơ thể người có năm lít máu và phải mất một thời gian để một khối lượng chất lỏng như vậy chảy ra từ một động mạch duy nhất bị cắt đứt. Chỉ cần trái tim còn đập thì máu sẽ còn chảy. Trong vòng ít nhất vài giây, có lẽ một phút hoặc hơn thế, não vẫn hoạt động. Chân tay vẫn ngọ nguậy.

    Khi tim nàng đập nhịp cuối, Iphigenia thấy bầu trời tối sầm lại. Nàng cảm thấy hơi ấm của máu phả lên mặt.

    Những người Hy Lạp cổ nói gió gần như dừng lại ngay lập tức. Artemis đã hài lòng. Cuối cùng, những con thuyền của Hy Lạp đã ra khơi, quân đội đã chiến đấu và thành Troy đã bị gục. Trong bối cảnh có nhiều máu đổ như vậy thì việc giết một cô gái trinh tiết chẳng có nghĩa lý gì.

    Nhưng khi ta nghĩ về cuộc chiến thành Troy, điều hiện lên trong tâm trí ta không phải là con ngựa gỗ, tiếng gươm leng keng hay hàng nghìn con tàu đen ngòm căng buồm. Không, đó chính là hình ảnh thi thể của nàng, bị rút kiệt máu và trắng phau. Và cha nàng đứng bên cạnh, cầm con dao dính máu.

    Đức vua Agamemnon cao quý, đôi mắt ngài rưng lệ.


  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 7



    - Nó đang đập - cô y tá nói.

    Catherine nhìn chằm chằm, miệng khô rát, sợ hãi nhìn người đàn ông nằm trên bàn chấn thương. Một thanh sắt dài ba mươi phân đâm lòi trên ngực anh ta. Một sinh viên y ngất xỉu khi nhìn thấy cảnh tượng đó, còn ba y tá đứng há hốc miệng. Thanh sắt đã găm sâu vào ngực anh ta. Nó nâng lên hạ xuống theo nhịp thở của anh.

    - Huyết áp bao nhiêu? - Catherine hỏi.

    Giọng cô dường như đã đánh thức mọi người trở về trạng thái sẵn sàng hành động. Tấm đo huyết áp được bơm đầy, rồi xả một ít hơi.

    - Bảy mươi trên bốn mươi. Mạch lên tới một - năm mươi.

    - Hãy mở cả hai thanh truyền!

    - Đang mở khay đựng nước truyền.

    - Ai đó gọi bác sỹ Falco xuống đây ngay! Tôi cần trợ giúp - Catherine đeo găng tay tiệt trùng. Bàn tay cô rất trơn vì ra nhiều mồ hôi. Nhìn thanh sắt nâng lên hạ xuống, cô biết rằng mũi thanh sắt đã đâm vào gần đến tim - hay thậm chí tồi tệ hơn nó thực sự đã đâm trúng tim. Điều tồi tệ nhất cô có thể làm là lôi nó ra. Việc đó có thể gây ra một lỗ thủng và máu của anh ta sẽ bị rút hết qua lỗ thủng đó chỉ trong vài phút.

    Các y tá cấp cứu hiện trường đã đưa ra quyết định đúng: họ đã truyền máu, lắp ống thở cho nạn nhân, đưa anh ta vào phòng cấp cứu và vẫn để thanh sắt ở chỗ cũ. Phần còn lại là việc của cô.

    Cô vừa đưa tay định lấy dao mổ thì cánh cửa bật mở. Cô ngẩng lên và nhẹ người khi thấy bác sỹ Peter Falco bước vào. Anh dừng lại, nhìn ngực bệnh nhân có một thanh sắt lòi ra như một cái cọc đâm xuyên người một con ma cà rồng.

    - Đây là vụ chúng ta không thường gặp - anh nói.

    - Huyết áp đang tụt mạnh! - một y tá hét to.

    - Không còn thời gian chờ tim nhân tạo nữa. Tôi sẽ mổ ngay - Catherine quyết định.

    - Tôi sẽ ở ngay cạnh cô - Peter quay lại và nói rất tự nhiên - Lấy cho tôi áo khoác nhé?

    Catherine nhanh chóng tạo một vết mổ ở phần bên phía trước. Nó sẽ để lộ ra rõ nhất các bộ phận quan trọng trong lồng ngực. Cô đã cảm thấy bình tĩnh hơn vì Peter đã đến. Đó không chỉ là có thêm một đôi tay lành nghề, mà đó chính là cô có Peter bên cạnh, là cách anh có thể bước vào phòng cấp cứu và hiểu ngay tình hình khi chỉ cần nhìn qua. Cô an tâm vì anh không bao giờ to tiếng trong phòng cấp cứu, không bao giờ tỏ ra hoảng loạn. Anh có hơn năm năm kinh nghiệm so với cô về lĩnh vực phẫu thuật chấn thương. Chính trong những ca mổ đáng sợ như thế này, kinh nghiệm của anh mới được bộc lộ.

    Anh chọn chỗ đối diện với Catherine bên này bàn mổ. Cặp mắt xanh lơ của anh nhìn kỹ vết mổ.

    - Được rồi! Chúng ta thư giãn chưa nhỉ?

    - Đã cười nhiều lắm rồi!

    Anh bắt tay vào việc ngay. Đôi tay anh phối hợp ăn ý với đôi tay cô khi họ cùng nhau xé toang lồng ngực bằng một lực rất mạnh. Anh và Catherine đã phối hợp trong nhiều ca trước đây nên mỗi người tự động hiểu người kia cần gì và họ có thể tiên đoán động thái của người kia.

    - Có chuyện gì với anh ấy vậy? - Peter hỏi. Máu xối ra. Anh bình tĩnh kẹp chặt kẹp cầm máu vào chỗ máu chảy.

    - Một công nhân xây dựng. Bị lỡ chân và ngã nghiêng, khiến anh ấy bị xiên như vậy.

    - Điều đó sẽ phá hỏng cả ngày của các bạn đấy. Hãy lấy dụng cụ banh vết mổ Burford!

    - Burford đây!

    - Chúng ta đã xét nghiệm máu chưa?

    - Đang chờ ở phòng xét nghiệm - một y tá trả lời.

    - Bác sỹ Murata có trong bệnh viện không?

    - Đội phụ trách tim nhân tạo của anh ấy đang đến.

    - Vậy chúng ta chỉ cần thêm chút thời gian ở đây. Nhịp tim thế nào?

    - Nhịp tâm thất là một trăm năm mươi. Tim hơi rung...

    - Tâm thu giảm xuống năm mươi!

    Catherine quay ngoắt lại nhìn Peter.

    - Chúng ta sẽ không thể chờ quả tim nhân tạo được.

    - Vậy thì hãy xem chúng ta có thể làm gì!

    Cả căn phòng đột nhiên im lặng khi anh nhìn vết mổ.

    - Ôi lạy Chúa! - Catherine kêu lên - Đó là tâm nhĩ.

    Đầu thanh sắt đã găm vào vách tim. Mỗi lần tim đập thì máu tươi lại tràn lên mép chỗ thủng. Máu đã ứ lại thành vũng lớn trong lồng ngực.

    - Chúng ta sẽ lôi nó ra. Nó sẽ biến thành một giếng phun thực sự! - Peter nói.

    - Anh ấy đã bị chảy máu quanh chỗ thủng.

    Y tá nói.

    - Tâm thu gần như không đo được.

    - Được rồi! - giọng Peter không hề tỏ vẻ hoảng loạn, cũng không có dấu hiệu của sự sợ hãi. Anh nói với một trong các y tá - Cô có thể tìm cho tôi ống thông nước tiểu cỡ mười sáu, hiệu Foley của Pháp và một quả bóng đường kính ba mươi phân không?

    - Vâng, bác sỹ Falco. Anh nói là ống Foley à?

    - Đúng, ống thông nước tiểu.

    - Và chúng ta cần thêm một xi lanh chứa mười cc muối - Catherine thêm vào - Chuẩn bị ấn nó! - cô và Peter không cần giải thích với nhau bất cứ điều gì, họ đều hiểu kế hoạch của nhau.

    Ống thông nước tiểu Foley là một ống dẫn được thiết kế để thông vào bàng quang, hút nước tiểu ra. Nó được đưa cho Peter. Họ sẽ sử dụng nó vào việc mà chưa ai từng thực hiện từ trước đến nay.

    Anh nhìn Catherine.

    - Cô sẵn sàng chưa?

    - Làm đi!

    Mạch cô đập mạnh khi nhìn Peter nắm chặt thanh sắt. Cô thấy anh nhẹ nhàng lôi nó ra khỏi vách tim. Khi nó được rút ra, máu xối xả từ chỗ thủng. Catherine lập tức nhét đầu ống thông nước tiểu vào chỗ thủng.

    - Bơm quả bóng vào! - Peter nói.

    Một y tá ấn xi lanh, tiêm mười cc muối khoáng vào đầu ống thông nước tiểu Foley.

    Peter kéo ống thông nước tiểu, nhồi chặt cho quả bóng chui vào trong vách tâm nhĩ. Đợt máu bị chặn lại, chỉ còn rỉ ra một ít.

    - Còn sống chứ? - Catherine hét to.

    - Tâm thu vẫn ở mức năm mươi. Máu truyền đã đến. Chúng tôi sẽ cho truyền ngay.

    Tim vẫn đập, Catherine nhìn Peter và thấy anh nháy mắt với cô qua tấm kính bảo vệ.

    - Vui không? - anh hỏi rồi với tay, lấy cái kẹp có mũi tiêm vào tim - Cô muốn làm phần việc vinh quang chứ?

    - Anh cá gì?

    Anh đưa cho cô đuôi kim. Cô sẽ khâu mép lỗ thủng lại với nhau, lôi ống thông tiểu Foley ra, trước khi gắn lại toàn bộ lỗ thủng đó. Cứ khâu xong một mũi, cô lại cảm thấy ánh mắt khích lệ của Peter. Cô cảm thấy mặt đỏ rần lên vì đã lấp lánh tia sáng thành công. Cô đã cảm nhận được nó trong xương tủy của mình: bệnh nhân này sẽ sống.

    - Khởi đầu một ngày mới thật tuyệt phải không? - anh nói - Xé toang lồng ngực.

    - Đây là dịp sinh nhật tôi sẽ không quên.

    - Lời mời của tôi vẫn dành cho tối nay. Chuyện đó thế nào?

    - Tôi phải trực.

    - Tôi sẽ bảo Ames trực thay cô. Thôi nào! Ăn tối và khiêu vũ.

    - Tôi nghĩ là anh mời tôi đi máy bay của anh cơ mà!

    - Cô muốn gì cũng được. Trời ơi! Hãy ăn món bánh mỳ kẹp bơ đậu nành. Tôi sẽ mang cốc-tai bia Skeepy.

    - Ha ha! Tôi biết anh lúc nào cũng tiêu xài hoang phí.

    - Catherine, tôi nói nghiêm túc đấy.

    Nhận ra sự biến đổi trong giọng nói của anh, cô ngẩng lên, bắt gặp ánh mắt hiền hòa của anh. Đột nhiên cô thấy cả phòng im lặng và tất cả những người khác đang nghe ngóng, chờ đợi xem bác sỹ Cordell không thể chinh phục cuối cùng có bị khuất phục trước sự mê hoặc của bác sỹ Falco không.

    Cô khâu một mũi nữa khi suy nghĩ về việc cô thích có một đồng nghiệp như Falco mức nào. Cô tôn trọng anh mức nào và anh cũng vậy. Cô không muốn điều đó thay đổi. Cô không muốn phá hoại mối quan hệ quý giá đó bằng một hành động rủi ro là tạo thêm khoảng cách với anh.

    Nhưng, làm sao cô có thể bỏ qua một ngày khi cô có thể ra ngoài đi chơi nhỉ! Đó là một buổi tối đáng mong đợi, chứ không đáng e sợ.

    Cả phòng vẫn im lặng chờ đợi.

    Cuối cùng, cô ngẩng lên nhìn anh.

    - Đón tôi lúc tám giờ nhé!

    Catherine rót một ly rượu merlot, đứng bên cửa sổ, nhấm nháp cốc rượu khi nhìn ra màn đêm bên ngoài. Cô nghe thấy tiếng cười, thấy mọi người đi bộ trên đại lộ Commonweath phía dưới. Khu phố Newburry sành điệu chỉ cách đây một khu nhà. Và cứ đến tối thứ sáu vào mùa hè như thế này, những khu quanh Back Bay là điểm thu hút khách du lịch. Catherine đã chọn sống ở Back Bay chỉ vì điều đó, cô thấy thoải mái khi biết có những người khác quanh cô, mặc dù họ là người lạ. m nhạc và tiếng cười nghĩa là cô không cô độc, không bị tách biệt.

    Nhưng cô ở đây, đóng mình sau ô cửa, uống cốc rượu một mình, cố thuyết phục bản thân rằng cô đã sẵn sàng tận hưởng thế giới ngoài kia.

    Thế giới mà Andrew Capra đã đánh cắp của mình.

    Cô ấn tay lên cửa sổ. Những ngón tay tì cong trên cửa sổ như thể muốn phá vỡ nó để giải thoát cô khỏi nhà tù tiệt trùng này.

    Cô liều mình uống hết cốc rượu, đặt cốc lên ngưỡng cửa. Mình sẽ không là nạn nhân, cô nghĩ. Mình sẽ không để hắn thắng.

    Cô vào phòng ngủ, xem quần áo trong tủ. Cô lấy ra một chiếc váy lụa màu xanh lục, mặc lên. Đã bao lâu rồi cô không được mặc bộ váy này? Cô không nhớ nổi.

    Ở phòng bên có tiếng nói to vui vẻ: "Bạn có thư!". Đó là thông báo trên máy tính của cô. Cô lờ tin nhắn đó, vào phòng tắm trang điểm. Son phấn, cô nghĩ khi bôi kem mắt, và tô son. Một chiếc mặt nạ dũng cảm, giúp cô đối diện với thế giới bên ngoài. Mỗi lần quệt một lớp trang điểm là cô đang xây thêm tự tin. Trong gương, cô thấy một phụ nữ mà cô gần như không nhận ra. Một phụ nữ cô đã không gặp hai năm rồi.

    Cô tắt điện phòng tắm, ra phòng khách. Chân cô đang quen dần với giày cao gót. Peter đến trễ, đã tám giờ mười lăm. Cô nhớ thông báo "Bạn có thư" vọng ra từ phòng ngủ. Cô lại gần máy tính, nhấp vào biểu tượng thư điện tử.

    Có một tin nhắn từ người gửi tên là SavvyDoc.

    Thư có tiêu đề là "Báo cáo từ phòng thí nghiệm". Cô mở thư.

    Bác sỹ Cordell,

    Tệp đính kèm là các bức ảnh về cơ thể người sẽ khiến cô quan tâm.

    Bức thư không để tên người gửi.

    Cô di chuyển con trỏ đến biểu tượng tải tệp tin. Rồi cô do dự, ngón tay vẫn để hờ trên con chuột. Cô không biết người gửi, SavvyDoc và cô thường không tải tệp của người lạ. Nhưng tin nhắn này viết ngắn gọn là có liên quan đến công việc của cô và có đề tên cô.

    Cô nhấp nút tải về.

    Một bức ảnh màu hiện lên trên màn hình.

    Cô há hốc miệng, bật khỏi ghế như bị bỏng. Chiếc ghế đổ lăn trên sàn. Cô loạng choạng về phía sau, tay ôm chặt miệng.

    Rồi cô chạy đi lấy điện thoại.

    Thomas Moore đứng ở ngưỡng cửa, nhìn cô chăm chú.

    - Bức ảnh vẫn trên màn hình chứ?

    - Tôi không chạm đến nó.

    Cô bước sang bên. Anh bước vào rất đúng tác phong của một cảnh sát. Anh nhìn ngay người đàn ông đang đứng cạnh máy tính.

    - Đây là bác sỹ Peter Falco - Catherine nói - Bạn đồng nghiệp của tôi.

    - Chào bác sỹ Falco - Moore nói khi họ bắt tay.

    - Catherine và tôi định ra ngoài ăn tối nay - Peter nói - Tôi có việc ở bệnh viện. Tôi vừa đến trước anh một lúc và... - Anh dừng lại nhìn Catherine - Tôi phải hoãn bữa tối nay sao?

    Moore ngồi xuống cạnh chiếc máy tính. Màn hình để ở chế độ chờ. Những con cá nhiệt đới rực rỡ bơi ngang màn hình. Anh xoa con chuột.

    Bức ảnh được tải về hiện lên.

    Lập tức, Catherine quay về phía cửa sổ. Cô đứng đó, ôm chặt lấy mình, cố quên đi hình ảnh cô vừa nhìn thấy trên màn hình. Cô nghe thấy Moore gõ lên bàn phím sau lưng. Cô nghe thấy anh gọi điện và nói.

    - Tôi vừa gửi tệp tin. Nhận được chưa? - Bóng tối dưới ô cửa của cô đột nhiên im lặng lạ lùng. Đã muộn thế sao? Cô tự hỏi. Cô nhìn khu phố im lìm. Cô không thể tin nổi một giờ trước cô đã sẵn sàng bước ra ngoài lúc trời tối để vui cùng thế giới ấy.

    Giờ cô chỉ muốn khóa hết chốt cửa và trốn chạy.

    Peter nói.

    - Kẻ quái nào lại gửi cho cô thứ này? Ghê quá!

    - Tôi không muốn nhắc đến nó - cô nói.

    - Trước đây cô nhận được thứ tương tự bao giờ chưa?

    - Không hề.

    - Vậy tại sao cảnh sát lại can thiệp?

    - Làm ơn thôi đi, Peter! Tôi không muốn nói về chuyện đó!

    Họ dừng lại.

    - Ý cô là cô không muốn nói chuyện với tôi.

    - Không phải lúc này, không phải đêm nay.

    - Nhưng cô sẽ nói chuyện đó với cảnh sát phải không?

    - Bác sỹ Falco - Moore nói - Thực sự sẽ tốt hơn nếu anh rời khỏi đây ngay.

    - Catherine, cô muốn gì?

    Cô thấy anh bị tổn thương nhưng cô không thể quay lại nhìn anh.

    - Tôi muốn anh về đi. Làm ơn!

    Anh không trả lời. Chỉ khi anh đóng cửa, cô mới biết anh đã bỏ về.

    Họ im lặng rất lâu.

    - Cô không nói gì với anh ta về việc ở Savannah chứ? - Moore hỏi.

    - Không, tôi không bao giờ tự nói chuyện với anh ấy - Bị cưỡng bức là một chủ đề quá nhạy cảm, quá nhục nhã để đem ra nói chuyện, thậm chí với ai đó quan tâm đến bạn.

    Cô hỏi.

    - Người phụ nữ trong tấm hình là ai?

    - Tôi mong là cô có thể cho tôi biết.

    Cô lắc đầu.

    - Tôi cũng không biết người gửi là ai.

    Chiếc ghế kêu cót két khi anh đứng lên. Cô thấy anh đặt tay lên vai cô. Hơi ấm của anh truyền qua lớp váy lụa. Cô vẫn chưa thay quần áo, vẫn mặc rất đẹp, chuẩn bị cho buổi tối. Toàn bộ ý nghĩ về việc ra ngoài giờ khiến cô thấy hối hận. Cô đã nghĩ gì vậy? Cô muốn trở lại bình thường như mọi người sao? Cô lại muốn vẹn toàn như xưa sao?

    - Catherine - anh nói - Cô phải cho tôi biết về bức ảnh này.

    Những ngón tay của anh ấn chặt lên vai cô. Cô chợt nhận ra anh gọi tên thánh của mình. Anh đang đứng gần cô đến nỗi cô cảm thấy hơi thở của anh phả vào tóc mình nhưng cô không hề thấy bị đe dọa. Bất cứ sự đụng chạm nào của đàn ông dường như là hành động xâm phạm nhưng sự đụng chạm của Moore thực sự khiến cô an lòng.

    Cô gật đầu.

    - Tôi sẽ cố.

    Anh kéo một chiếc ghế khác. Họ cùng ngồi xuống trước máy tính. Cô buộc mình phải tập trung vào bức ảnh.

    Người phụ nữ có mái tóc xoăn như cái vặn nút chai xõa trên gối. Môi cô bị khóa chặt dưới lớp băng dính ống nhựa nhưng mắt vẫn mở to và còn tỉnh táo. Võng mạc ánh lên đỏ rực dưới ánh đèn máy ảnh. Bức ảnh chụp cô từ phần hông trở lên. Cô bị trói vào giường và trần truồng.

    - Cô nhận ra cô ấy không?

    - Không.

    - Bức ảnh này có gì quen thuộc với cô không? Căn phòng hay đồ đạc chẳng hạn?

    - Không. Nhưng...

    - Cái gì?

    - Hắn đã làm như vậy với tôi - cô thì thào - Andrew Capra cũng đã chụp ảnh tôi, trói tôi vào giường... - cô nuốt nước bọt. Sự xấu hổ xâm chiếm cô như thể toàn bộ cơ thể cô đang hiện ra rất gần gũi dưới ánh mắt của Moore. Cô thấy mình khoanh tay trước ngực để bảo vệ không cho kẻ khác xâm phạm ngực mình.

    - Tệp tin này được gửi đi lúc năm giờ năm phút chiều. Tên người gửi là SavvyDoc. Cô nhận ra cái tên này không?

    - Không - cô lại nhìn bức ảnh người phụ nữ đang nhìn cô bằng đôi mắt đỏ rực - Cô ấy còn tỉnh táo. Cô ấy biết hắn sắp làm gì. Hắn chờ đợi điều đó. Hắn muốn nạn nhân phải tỉnh táo để cảm nhận sự đau đớn. Nạn nhân phải tỉnh táo, nếu không hắn sẽ mất hết hứng thú... - mặc dù đang nói về Andrew Capra nhưng cô lại chuyển dần sang dùng thời hiện tại như thể Capra vẫn còn sống.

    - Sao hắn biết địa chỉ thư điện tử của cô?

    - Thậm chí tôi còn không biết hắn là ai.

    - Hắn đã gửi cho cô, Catherine. Hắn biết chuyện đã xảy ra với cô ở Savannah. Cô nghĩ ai có thể làm chuyện này?

    Chỉ có một người, cô nghĩ. Nhưng hắn chết rồi. Andrew Capra chết rồi.

    Di động của Moore đổ chuông. Cô suýt nữa nhảy ra khỏi ghế.

    - Chúa ơi! - cô kêu lên. Tim cô đập mạnh, rồi cô bình tĩnh trở lại.

    Anh mở điện thoại.

    - Đúng, giờ tôi đang ở bên cô ấy... - Anh nghe điện một lát rồi bất chợt nhìn Catherine. Ánh mắt anh làm cô giật mình.

    - Chuyện gì vậy? - Catherine lo lắng hỏi.

    - Đó là thám tử Rizzoli. Cô ấy nói cô ấy đã tìm được nguồn gốc của bức thư.

    - Ai gửi nó?

    - Là cô.

    Dường như anh vừa tát vào mặt cô. Cô chỉ lắc đầu, quá sốc nên không nói nên lời.

    - Biệt danh SavvyDoc mới được lập chiều nay, sử dụng tài khoản trên mạng Mỹ của chính cô - anh nói.

    - Nhưng tôi có hai tài khoản tách biệt, một để dùng cho việc cá nhân...

    - Còn tài khoản kia?

    - Cho các nhân viên văn phòng của tôi để dùng trong khi... - Cô dừng lại - Văn phòng. Hắn đã dùng máy tính ở văn phòng của tôi.

    Moore áp điện thoại vào tai.

    - Cô nghe rõ chứ, Rizzoli? - Anh dừng lại rồi nói - Chúng tôi sẽ gặp cô ở đó.

    Thám tử Rizzoli chờ họ bên ngoài phòng làm việc của Catherine. Một nhóm người đã đứng ở hành lang. Trong đó có một nhóm nhân viên an ninh của tòa nhà, hai nhân viên cảnh sát và vài người mặc thường phục. Có lẽ đó là thám tử, Catherine nghĩ vậy.

    - Chúng tôi đã tìm kiếm trong văn phòng - Rizzoli nói - Hắn đi lâu rồi.

    - Vậy chắc chắn hắn đã ở đó? - Moore khẳng định.

    - Cả hai máy tính đều bật. Cái tên SavvyDoc vẫn hiện trên màn hình đăng nhập vào mạng của Mỹ.

    - Hắn vào bằng cách nào?

    - Cánh cửa dường như không bị cạy. Có dịch vụ trông coi phòng được ký kết để dọn dẹp các văn phòng này, vì vậy đã có một số chìa khóa vạn năng được sử dụng quanh đây. Cộng thêm vào đó là các nhân viên làm việc trong phòng này.

    - Chúng tôi có nhân viên hóa đơn, lễ tân và hai trợ lý phòng khám - Catherine nói.

    - Cả cô và bác sỹ Falco nữa.

    - Đúng.

    - Vậy điều đó nghĩa là sáu chìa khóa khác có thể đã bị mất hay bị mượn - phản ứng của Rizzoli rất gay gắt. Catherine không để ý đến người phụ nữ này. Cô không biết cô ta có cảm nhận được điều đó không.

    Rizzoli chỉ tay về phía phòng làm việc.

    - Được rồi, hãy cùng đưa cô qua một lượt các phòng, bác sỹ Cordell để ý xem có mất mát thứ gì không. Nhưng đừng chạm vào bất cứ vật gì, được chứ? Kể cả cánh cửa hay máy tính. Chúng tôi sẽ phủ bụi để tìm vân tay.

    Catherine nhìn Moore, anh đặt tay lên vai cô an ủi. Họ bước vào phòng làm việc của cô.

    Cô chỉ thoáng nhìn phòng chờ của bệnh nhân rồi vào khu tiếp đón, nơi làm việc của nhân viên. Máy tính in hóa đơn vẫn bật. Ổ A trống rỗng, kẻ đột nhập không để lại bất cứ đĩa mềm nào lại.

    Moore dùng chiếc bút, gõ lên con chuột máy tính để tắt chế độ chờ màn hình. Cửa sổ đăng nhập vào mạng của Mỹ hiện lên. Cái tên SavvyDoc vẫn hiện trong hộp thoại.

    - Cô thấy căn phòng này có gì thay đổi không? - Rizzoli hỏi.

    Catherine lắc đầu.

    - Được rồi. Hãy vào văn phòng của cô!

    Tim cô đập nhanh hơn khi cô bước dọc hành lang, qua hai phòng khám. Cô bước vào phòng làm việc của mình. Lập tức cô nhìn ngay lên trần nhà. Cô há hốc miệng, giật mình lùi lại và suýt đâm sầm vào Moore. Anh nắm chặt cánh tay cô để cô bình tĩnh lại.

    - Chúng tôi đã tìm thấy nó ở đó - Rizzoli nói và chỉ ống nghe lơ lửng trên bóng đèn treo trên đầu - Nó được treo ở chính chỗ đó. Tôi nghĩ cô không đặt nó ở đó.

    Catherine lắc đầu. Cô nói, giọng vẫn đầy kinh hãi.

    - Trước đó hắn đã ở đây.

    Ánh mắt Rizzoli dán chặt vào cô.

    - Khi nào?

    - Mấy hôm trước. Tôi phát hiện vài thứ bị mất và bị thay đổi vị trí.

    - Vật gì?

    - Ống nghe, áo khoác phòng thí nghiệm của tôi.

    - Hãy nhìn quanh phòng! - Moore nhẹ nhàng khuyên cô nên tiếp tục - Có vật gì khác thay đổi không?

    Cô nhìn giá sách, bàn và tủ đựng hồ sơ. Đây là không gian riêng của cô và cô đã sắp xếp từng milimet. Cô biết mọi thứ nên và không nên ở đâu.

    - Máy tính bật - cô nói - Tôi luôn tắt đi trước khi về vào cuối ngày.

    Rizzoli bấm lên con chuột, màn hình đăng nhập vào mạng của Mỹ hiện lên, có tên của Catherine "CCord" trong hộp thoại đăng nhập.

    Cô nhìn chăm chăm vào bàn phím. Hắn đã gõ lên những bàn phím này. Hắn đã ngồi lên chiếc ghế này.

    Giọng nói của Moore làm cô giật mình.

    - Bị mất thứ gì không? - anh hỏi - Rất có thể là một vật nhỏ, một vật gì đó rất riêng tư.

    - Sao anh biết điều đó?

    - Đó là cách thức của hắn.

    Vậy là điều đó đã xảy ra với những cô gái khác, cô nghĩ, và các nạn nhân khác.

    - Rất có thể là thứ gì đó cô đeo trên người - Moore nhắc - Một vật gì đó cô sẽ đeo khi ở một mình. Một món trang sức, một chiếc lược hay một đoạn xích khóa.

    - Ôi, lạy Chúa! - Lập tức cô cúi xuống, giật mạnh để mở ngăn bàn trên cùng ra.

    - Này - Rizzoli nói - Tôi đã bảo không được chạm vào bất cứ vật gì.

    Nhưng Catherine vẫn sục tay vào ngăn kéo, điên cuồng lục tung đống bút bi và bút chì.

    - Nó không có ở đây.

    - Cái gì?

    - Tôi giữ một chùm chìa khóa dự trữ trong ngăn bàn.

    - Cô treo những chìa khóa nào trên đó?

    - Một chìa khóa dự trữ của xe ô tô, một của ngăn khóa trong bệnh viện... - Cô dừng lại. Cổ họng cô chợt khô rát - Hắn đã lục tủ khóa của tôi suốt ngày hôm nay, rồi hắn mò vào cả ví của tôi - Cô ngước lên nhìn Moore - Và lấy cả chìa khóa nhà của tôi nữa.

    Các nhân viên kỹ thuật hình sự đã phủ bột tìm dấu vân tay khi Moore quay lại phòng y tế.

    - Cô ấy đã ngủ chưa? - Rizzoli hỏi.

    - Cô ấy sẽ ngủ trong phòng gọi cấp cứu. Tôi không muốn cô ấy về nhà cho đến khi nào ngôi nhà an toàn tuyệt đối.

    - Chính anh sẽ thay toàn bộ ổ khóa cho cô ấy?

    Anh cau mày, cố hiểu vẻ mặt của cô. Anh không thích những gì anh thấy ở đó.

    - Cô có vấn đề gì sao?

    - Cô ta là một phụ nữ đẹp.

    Mình biết ngay chuyện này sẽ đi đến đâu mà, anh nghĩ và thở dài mệt mỏi.

    - Dễ bị tổn thương, dễ bị xâm phạm - Rizzoli nói - Tuyệt! Điều đó khiến bọn đàn ông muốn chạy theo sau và bảo vệ cô ấy.

    - Đó chẳng phải là công việc của chúng ta sao?

    - Nghe hay quá phải không, công việc à?

    - Tôi sẽ không nói về chuyện này nữa! - Anh nói rồi ra khỏi phòng khám.

    Rizzoli đi theo anh như một con chó bun, cắn chặt lấy gót chân anh.

    - Cô ta là trung tâm của vụ này, Moore. Chúng ta không biết cô ấy có nói thật không. Làm ơn đừng nói với tôi là anh đang quan tâm đến cô ta.

    - Tôi không quan tâm.

    - Còn tôi thì chưa mù.

    - Vậy chính xác thì cô thấy gì?

    - Tôi thấy cách anh nhìn cô ta. Và tôi thấy cách cô ta nhìn anh. Tôi thấy một cảnh sát đã mất đi tính khách quan - cô dừng lại - Một cảnh sát sẽ bị tổn thương.

    Nếu cô đã lên giọng và nói câu đó một cách hung hăng thì anh cũng đã trả lời đích đáng. Nhưng cô đã nói những lời cuối cùng một cách nhẹ nhàng. Anh không có đủ sự tức giận cần thiết để nói lại.

    - Tôi sẽ chẳng nói điều này với bất cứ ai - Rizzoli nói - Nhưng anh là một trong những người tốt. Nếu anh là Crowe hay một trong những tên khốn nạn khác thì tôi sẽ nói: Chắc chắn rồi! Hãy đi đến nơi tình yêu vẫy gọi! Tôi chẳng thèm quan tâm. Nhưng tôi không muốn điều đó xảy ra với anh.

    Họ nhìn nhau một lúc. Và Moore cảm thấy ngượng ngùng, bối rối khi anh không thể chấp nhận sự thẳng thắn của Rizzoli. Dù anh khâm phục tư duy nhạy bén và động lực không ngừng vươn đến thành công của cô, nhưng lúc nào anh cũng chỉ chăm chăm nhìn khuôn mặt bình thường và những bộ com lê không ra hình dáng gì của cô. Nói một cách khác, anh cũng chẳng hơn gì Darren Crowe, không hơn gì những kẻ khốn nạn đã cho băng vệ sinh vào chai nước của cô. Anh không xứng được cô quan tâm.

    Họ nghe thấy tiếng ai đó hắng giọng. Họ quay lại, thấy nhân viên điều tra hiện trường đứng ở lối đi.

    - Không có dấu vân tay - anh nói - Tôi đã phủ bột lên cả máy tính, bàn phím, con chuột, các ổ đĩa. Chúng đã được lau sạch.

    Điện thoại của Rizzoli đổ chuông. Cô mở ra, lầm bầm.

    - Chúng ta đã nghĩ gì? Chúng ta không đối đầu với một tên khờ.

    - Còn những cánh cửa thì sao? - Moore hỏi.

    - Có vài vệt đứt quãng - nhân viên đó nói - Nhưng do rất nhiều loại xe ra vào nơi này... kể cả bệnh nhân và nhân viên... thì chúng ta sẽ không thể nhận dạng hay làm những việc tương tự.

    - Này, Moore - Rizzoli nói và gập di động - Đi thôi!

    - Đi đâu?

    - Về trung tâm. Brody nói anh ấy sẽ cho chúng ta xem điều kỳ diệu của những ảnh điểm.

    - Tôi đã cho tệp ảnh đó vào chương trình Photoshop - Sean Brody nói - Tệp đó có dung lượng lên tới ba mê-ga-bai. Điều đó nghĩa là nó chứa nhiều chi tiết. Tên sát nhân này không thèm chụp ảnh mờ. Hắn gửi một bức ảnh chất lượng tới ngay trước mắt nạn nhân.

    Brody là một phù thủy trong lĩnh vực kỹ thuật của Bộ phận điều tra án mạng. Đó là một thanh niên hai mươi ba tuổi, mặt xanh xao, đang ngồi thõng người trước màn hình máy tính. Bàn tay anh thực sự như bám rễ vào con chuột. Moore, Rizzoli, Frost và Crowe đứng sau và nhìn màn hình qua vai anh. Brody có kiểu cười rất khó chịu, như một con chó hoang. Anh cười nắc nẻ, vui sướng khi nhân hình ảnh thành nhiều bản trên màn hình.

    - Đây là một bức ảnh chụp toàn màn hình - Brody nói - Nạn nhân bị trói vào giường, còn tỉnh, mắt mở to. Mắt ánh lên màu đỏ xấu xí do đèn nháy. Hãy nhìn băng dính ống nhựa trên miệng cô ấy! Giờ hãy nhìn xuống phần góc trái tấm ảnh. Đây là mép bộ quần áo ngủ. Các bạn có thể thấy một chiếc đồng hồ hẹn giờ trên hai cuốn sách. Hãy phóng to xem mấy giờ.

    - Hai giờ hai mươi - Rizzoli nói.

    - Đúng vậy! Giờ lại đặt ra câu hỏi là buổi sáng hay chiều? Hãy nhìn lên phần trên tấm ảnh. Ở đó các bạn có thể thấy góc cửa sổ. Rèm cửa khép lại nhưng các bạn có thể thấy chút khe hở ở đây. Ở đó mép rèm cửa không khít lắm. Không có ánh sáng mặt trời chiếu qua. Nếu thời gian trên đồng hồ chính xác thì bức ảnh này được chụp lúc hai giờ hai mươi phút sáng.

    - Đúng, nhưng vào hôm nào? - Rizzoli bực tức - Đó có thể là đêm qua hay cách đây một năm rồi. Khốn kiếp! Chúng ta còn không rõ có phải Bác sỹ phẫu thuật đã chụp bức ảnh này không.

    Brody nhìn cô khó chịu.

    - Tôi đã nói xong đâu.

    - Được rồi, còn gì nữa?

    - Hãy cuộn xuống phần dưới tấm ảnh! Hãy kiểm tra cổ tay bên phải của nạn nhân! Băng dính ống nhựa đã làm mờ nó. Nhưng các bạn thấy vết sưng tấy sẫm màu ở đó không? Các bạn nghĩ đó là gì? - Anh chỉ con trỏ và nhấp vào đó. Chi tiết trong hình to hơn.

    - Vẫn không thấy gì - Crowe thông báo.

    - Được rồi, chúng ta sẽ phóng to lần nữa! - anh nhấp lần nữa. Vệt sẫm màu đã có hình dạng cụ thể.

    - Lạy Chúa! - Rizzoli nói - Trông nó như một con ngựa nhỏ. Đó chính là vòng tay có bùa của Elena Ortiz.

    Brody quay lại, toét miệng nhìn cô.

    - Tôi giỏi trong việc này chứ?

    - Chính hắn! - Rizzoli thốt lên - Chính là Bác sỹ phẫu thuật!

    Moore nói.

    - Hãy cuộn lên chỗ bàn đầu giường!

    Brody nhấp về dạng toàn màn hình, chuyển con trỏ lên góc trái.

    - Anh muốn quan sát gì?

    - Đồng hồ cho chúng ta biết lúc đó là hai giờ hai mươi. Và có hai cuốn sách dưới đồng hồ. Hãy nhìn gáy sách! Các bạn thấy bìa sách phản chiếu dưới ánh sáng không?

    - Đúng vậy!

    - Cuốn sách đó có giấy bọc ni lông trong suốt bảo vệ.

    - Được rồi... - Brody nói, rõ ràng không hiểu nổi việc đó có nghĩa gì.

    - Hãy phóng to phần gáy sách bên trên - Moore nói - Để xem chúng ta đọc được tên sách không.

    Brody chỉ vào đó và nhấp chuột.

    - Trông như hai từ - Rizzoli nói - Tôi thấy từ the.

    Brody nhấp lần nữa cho hình to hơn.

    - Chữ thứ hai bắt đầu bằng chữ S - Moore nói - Và nhìn cái này xem! - anh chỉ lên màn hình - Hãy nhìn hình vuông nhỏ ở đây, ở cuối gáy sách!

    - Tôi biết anh sắp thấy gì - giọng Rizzoli đột nhiên rất phấn khởi - Tên sách. Tiếp nào, chúng ta cần cái tên sách chết tiệt đó!

    Brody chỉ vào đó và nhấp chuột lần cuối.

    Moore nhìn chăm chăm vào màn hình, nhất là chữ cái thứ hai trên gáy sách. Lập tức anh quay lại, nhấc điện thoại lên.

    - Tôi chẳng hiểu gì cả - Crowe nói.

    - Tên sách là Con chim sẻ - Moore nói, nhấn mạnh vào chữ O - Và một hình vuông nhỏ trên gáy sách. Tôi cá đó là một số thứ tự.

    - Đó là cuốn sách mượn ở thư viện - Rizzoli nhận định.

    Một giọng nói bên kia đầu dây.

    - Nhân viên tổng đài xin nghe!

    - Tôi là thám tử Thomas Moore, tại Sở cảnh sát Boston. Tôi cần liên lạc gấp với Thư viện công cộng ở Boston.

    - Những thầy tu trong không gian - Frost ngồi ở ghế sau nói - Đó là nội dung của cuốn sách.

    Họ tăng tốc đến khu phố Trung tâm. Moore lái xe, đèn báo động nhấp nháy. Hai xe tuần tiễu dẫn đường.

    - Vợ tôi cũng thuộc nhóm độc giả này - Frost khoe - Tôi nhớ cô ấy đã kể về cuốn sách có tên Con chim sẻ.

    - Vậy đó là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng à? - Rizzoli sốt ruột.

    - Không, nó chỉ nói về những vấn đề tôn giáo. Bản chất của Chúa là gì? Những thứ đại loại như vậy.

    - Vậy thì tôi chẳng cần đọc nó - Rizzoli nói - Tôi biết tất cả câu trả lời. Tôi theo đạo Thiên Chúa.

    Moore nhìn sang bên kia đường và nói.

    - Chúng ta sắp đến.

    Địa chỉ họ tìm nằm ở phố Jamaica Plain, khu vực phía đông Boston, nằm giữa công viên Franklin và viền ngoài của thành phố Brooklin. Tên cô gái đó là Nina Peyton. Tuần trước, cô có mượn bản sao của cuốn sách Con chim sẻ tại thư viện nhánh ở Jamaica Plain. Trong số tất cả những người sống quanh Boston và đã kiểm tra bản sao của cuốn sách thì Nina Peyton là người duy nhất không trả lời điện thoại lúc hai giờ sáng.

    - Đây rồi! - Moore thông báo. Hai chiếc xe đi tuần ngay trước vừa ngoặt vào phố Eliot. Anh đi ngay theo sau, qua một tòa nhà và dừng lại ngay sau xe tuần tra.

    Đèn pha của một xe đi tuần chiếu một luồng sáng xanh vào màn đêm khi Moore, Rizzoli và Frost bước qua cánh cổng, tiến lại gần ngôi nhà. Bên trong có ánh đèn yếu ớt.

    Moore nhìn Frost. Frost lập tức gật đầu và vòng về phía sau tòa nhà.

    Rizzoli gõ cửa trước, hét lớn.

    - Cảnh sát đây!

    Họ chờ vài giây.

    Rizzoli gõ cửa lần nữa, lần này mạnh hơn.

    - Cô Peyton, cảnh sát đây! Mở cửa!

    Cô dừng lại khoảng ba giây. Đột nhiên, Frost nói trên điện đàm.

    - Có một màn hình quan sát ở cửa sổ phía sau!

    Moore và Rizzoli nhìn nhau. Họ đã quyết định mà không cần lên tiếng.

    Moore dùng đuôi đèn pin, đập cửa kính gần cửa trước, cho tay vào trong, mở cánh cửa.

    Rizzoli vào nhà trước, đi cúi người. Súng của cô quét thành hình vòng cung. Moore đi ngay sau cô. Chất kích thích adrenaline tăng mạnh khi anh nhận ra một chuỗi hình ảnh nối tiếp nhau: sàn gỗ, một căn phòng mở cửa, nhà bếp ngay phía trước, phòng khách bên tay phải, một bóng đèn duy nhất sáng ở cuối bàn.

    - Phòng ngủ - Rizzoli nói.

    - Đi!

    Họ nhìn lối đi. Rizzoli đi trước. Đầu cô ngó nghiêng hết bên phải sang bên trái khi họ đi qua phòng tắm, phòng ngủ dự trữ. Cả hai đều trống trơn. Cánh cửa cuối hành lang hơi mở, họ không nhìn qua cánh cửa, không thể thấy phòng ngủ tối om bên trong.

    Moore đặt tay lên súng, tim đập mạnh, đi lần theo mép cửa. Anh dùng chân đá cánh cửa mở ra.

    Mùi máu, hơi nóng và mùi hôi hám xộc lên mũi anh. Anh tìm công tắc bóng điện rồi bật lên. Trước khi cảnh tượng đó đập vào mắt, anh đã biết trước mình sẽ thấy gì. Nhưng anh vẫn chưa hoàn toàn chuẩn bị tâm lý cho cảnh tượng hãi hùng đó.

    Bụng cô gái bị mổ phanh. Các đoạn ruột xổ ra khỏi vết mổ. Chúng lủng lẳng như những đoạn giấy màu khủng khiếp ở cạnh giường. Máu rỉ ra trên vết thương ở cổ và đọng lại thành một vũng lớn trên sàn nhà.

    Moore phải cố lắm mới hiểu được những gì anh đang thấy. Chỉ khi đó, anh mới ghi nhận được đầy đủ các chi tiết và hiểu chúng nói lên điều gì. Máu vẫn còn mới, vẫn đang nhỏ giọt. Thành động không bị vỡ và một vũng máu gần như đã chuyển sang màu đen ngày càng lan rộng ra.

    Lập tức, anh lại gần thi thể cô gái. Giày anh không giẫm lên vết máu.

    - Này! - Rizzoli hét lên - Anh đang làm hỏng hiện trường!

    Anh ấn ngón tay lên bên cổ còn nguyên của nạn nhân.

    Cái xác mở trừng mắt.

    Lạy Chúa! Cô ấy còn sống.


  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8


    Catherine giật mình trên giường. Tim cô đập mạnh. Mỗi dây thần kinh đều rung lên vì sợ hãi. Cô nhìn chằm chằm vào bóng tối, cố kìm nén cơn hoảng loạn.

    Ai đó đang gõ cửa phòng gọi điện rất mạnh.

    - Bác sỹ Cordell? - Catherine nhận ra giọng nói của một y tá phòng cấp cứu - Bác sỹ Cordell?

    - Gì vậy? - Catherine hỏi.

    - Chúng ta có một ca chấn thương đang đến! Mất nhiều máu, có vết thương ở bụng và cổ. Tôi biết bác sỹ Ames chịu trách nhiệm các ca chấn thương đêm nay nhưng anh ấy bị tắc đường. Bác sỹ Kimball cần cô hỗ trợ!

    - Nói với anh ấy tôi sẽ đến ngay - Catherine quay sang bật đèn và nhìn đồng hồ. Hai giờ bốn mươi lăm phút sáng. Cô mới chợp mắt ba tiếng. Bộ váy lụa màu xanh vẫn vắt trên ghế. Trông nó lạ lẫm như thể nó thuộc về một phụ nữ khác chứ không phải của cô.

    Bộ quần áo của nhân viên vệ sinh cô đang mặc ướt đẫm mồ hôi. Cô buộc tóc cao lên rồi ra bồn nước, táp nước lạnh lên mặt. Người phụ nữ đang nhìn cô trong gương là người lạ mặt đang hoảng hốt. Hãy tập trung. Đã đến lúc mình phải thoát khỏi nỗi sợ này. Đã đến lúc phải làm việc. Cô xỏ chân vào đôi giày đế bệt mà cô lấy ra từ tủ khóa của bệnh viện. Cô hít sâu, rồi bước ra khỏi phòng.

    - Còn hai phút nữa! - Nhân viên trực phòng cấp cứu hét to - Xe cứu thương thông báo huyết áp đã giảm xuống bảy mươi!

    - Bác sỹ Cordell, họ đã chuẩn bị phòng Chấn thương số một!

    - Đội của chúng ta có những ai?

    - Bác sỹ Kimball và hai sinh viên tập sự. Cám ơn Chúa là cô có ở đây. Xe của bác sỹ Ames bị tắc đường và anh ấy không đến được...

    Catherine chạy nhanh vào phòng chấn thương số một. Chỉ cần nhìn qua cô thấy cả đội đã chuẩn bị cho tình huống xấu nhất. Dung dịch lac-tat Ringer được treo trên ba thanh truyền, ống truyền nước được cuộn lại, sẵn sàng đưa vào người bệnh nhân, cạnh đó có một chiếc xe đẩy để đưa các ống nghiệm đựng máu tới phòng thí nghiệm. Hai sinh viên thực tập đứng hai bên bàn mổ, cầm ống thông nước tiểu. Còn Ken Kimball, bác sỹ phẫu thuật trực phòng cấp cứu đã xé băng dính trên khay dụng cụ.

    Catherine đội mũ phẫu thuật, xỏ găng tay cao su tiệt trùng. Một y tá buộc dây áo phía sau cho cô. Mỗi lớp quần áo đồng phục là một lớp sức mạnh. Cô thấy mình mạnh mẽ hơn và kiểm soát tốt hơn. Trong căn phòng này, cô cứu người chứ không phải là nạn nhân.

    - Bệnh nhân bị sao? - Cô hỏi Kimball.

    - Một vụ giết người. Bị thương ở cổ và bụng.

    - Đạn bắn à?

    - Không. Vết thương do dao.

    Catherine ngừng lại khi đang đeo dở chiếc găng tay còn lại. Bụng cô bỗng cuộn lên. Cổ và bụng. Vết thương do dao.

    - Xe cứu thương đã đến! - Một y tá hét lên ở lối vào.

    - Chảy nhiều máu và bị lòi ruột - Kimball nói rồi ra ngoài đón bệnh nhân.

    Catherine đã tiệt trùng xong nhưng cô vẫn đứng im. Căn phòng bỗng im lặng. Hai sinh viên tập sự đứng hai bên bàn và cả y tá tiệt trùng sắp đưa dụng cụ mổ cho Catherine đều không nói gì. Họ đang mải nghĩ đến việc đang diễn ra ở cửa bệnh viện.

    Họ nghe thấy Kimball hét to.

    - Đi! Đi nào!

    Cánh cửa bật mở, xe đẩy được đưa vào. Catherine thoáng thấy những tấm vải sũng máu, một cô gái tóc màu hạt dẻ rối bù, mặt cô bị băng dính cố định ống truyền máu che kín.

    Họ hét một, hai, ba rồi chuyển bệnh nhân lên bàn mổ.

    Kimball bỏ tấm vải ra, để lộ phần thân của nạn nhân.

    Trong căn phòng hỗn loạn đó, không ai nghe thấy Catherine hít mạnh một hơi. Không ai để ý là cô loạng choạng ngã về phía sau. Cô nhìn cổ nạn nhân, trên đó, tấm vải buộc thấm đẫm màu đỏ tươi. Cô nhìn vào phần bụng. Trên đó, một đoạn vải buộc vội đã được cởi ra. Những đợt máu chảy xuống bàn mổ. Dù tất cả mọi người đã bắt tay ngay vào việc, nối ống dẫn và các đầu điện tim, bơm không khí vào phổi nạn nhân, nhưng Catherine vẫn đứng bất động hoảng loạn.

    Kimball cởi hết phần vải quấn quanh bụng. Một đống ruột xổ ra, rơi tõm trên bàn.

    - Tâm thu chỉ còn xấp xỉ sáu mươi! Nhịp tim đang giảm mạnh...

    - Tôi không thể cắm được ống truyền. Mạch của cô ấy mất hết!

    - Thử phần dưới xương đòn!

    - Đưa tôi ống truyền khác!

    - Tệ thật! Toàn bộ chỗ này đã bị nhiễm bẩn...

    - Bác sỹ Cordell? Bác sỹ Cordell?

    Catherine vẫn như bị thôi miên, quay lại nhìn cô y tá vừa gọi tên mình và thấy cô ấy cau mày nhìn cô dưới lớp vải khẩu trang.

    - Cô cần bông gạc không?

    Catherine nuốt nước bọt, hít sâu rồi nói.

    - Có, bông gạc và ống hút... - Cô cố tập trung vào bệnh nhân lần nữa. Đó là một cô gái trẻ. Cô bị phân tâm. Óc cô chợt lóe lên hình ảnh cô ở một phòng cấp cứu khác, của cái đêm ở Savannah khi chính cô là người nằm trên bàn mổ.

    Tôi sẽ không để cô chết. Tôi sẽ không để hắn cướp mất cô.

    Cô lấy một túi bông và một chiếc kẹp cầm máu trên khay. Giờ cô hoàn toàn tập trung, bác sỹ chuyên phẫu thuật đã kiểm soát được bản thân. Tất cả những năm tháng rèn luyện để trở thành bác sỹ mổ tự động trở về với cô. Đầu tiên, cô tập trung vào vết thương trên cổ và tấm vải đã được tháo ra. Máu đen phun ra, bắn xuống sàn.

    - Động mạch cảnh! - Một trong hai sinh viên thực tập hét lên.

    Catherine ấn bông vào vết thương, hít sâu một hơi.

    - Không. Không! Nếu là động mạch cảnh thì cô ấy đã chết lâu rồi! - Cô nhìn y tá tiệt trùng - Dao mổ!

    Dao mổ lập tức được đưa đến tay cô. Cô dừng lại, chuẩn bị tinh thần cho nhiệm vụ tiếp theo, rồi đặt mũi dao lên cổ nạn nhân. Catherine vẫn duy trì lực ép lên vết thương, nhanh chóng chọc qua da và cắt một đường ngược lên trên hàm, để lộ tĩnh mạch cảnh.

    - Hắn cắt vẫn chưa đủ sâu nên không thể chạm đến động mạch cảnh - cô nói - Nhưng hắn đã cắt đến tĩnh mạch. Phần cuối này đã khiến các mô mềm bị thụt lại - Cô ấn sâu dao mổ, giữ chặt phần kẹp ở ngón cái - Tập sự! Tôi cần anh lau máu! Nhẹ thôi!

    - Cô định nối lại mạch máu?

    - Không, chúng ta chỉ buộc nó lại. Cô ấy sẽ chảy máu ở hai bên. Tôi cần để lộ mạch để có thể quấn chỉ quanh đó. Kẹp mạch!

    Kẹp mạch lập tức đến tay cô.

    Catherine đặt kẹp mạch, rồi kẹp nó vào mạch máu lộ ra. Cô thở phào, nhìn Kimball.

    - Máu đã ngừng chảy. Tôi sẽ buộc nó lại sau!

    Cô chuyển sang phần bụng. Lúc này, Kimball và sinh viên tập sự đã lau sạch bụng bằng ống hút và băng gạc. Vết thương đã lộ hẳn ra. Catherine nhẹ nhàng phanh hai bên mép bụng, nhìn vào vết mổ bên trong. Thứ cô nhìn thấy khiến cô buồn nôn và tức giận.

    Cô nhìn thấy ánh mắt kinh ngạc của Kimball đang đứng bên kia bàn.

    - Ai đã làm việc này? - Anh khẽ hỏi - Chúng ta đang đương đầu với loại người gì vậy?

    - Một con quái vật - Cô nói.

    - Nạn nhân vẫn trong phòng mổ. Cô ấy vẫn sống - Rizzoli gấp điện thoại lại, nhìn Moore và bác sỹ Zucker - Giờ chúng ta đã có một nhân chứng. Tên sát nhân của chúng ta đang trở nên bất cẩn.

    - Không phải bất cẩn - Moore nói - Mà là vội vàng. Hắn không có thời gian làm nốt việc đó - Moore đứng cạnh cửa phòng ngủ, xem kỹ vết máu trên sàn. Vết máu còn mới, vẫn lấp lánh. Nó không kịp khô. Bác sỹ phẫu thuật vừa mới ở đây.

    - Bức ảnh được gửi cho Catherine Cordell lúc bảy giờ năm mươi lăm phút tối - Rizzoli nói - Đồng hồ trên bức ảnh ghi hai giờ hai mươi - Cô chỉ chiếc đồng hồ cạnh đầu giường - Chiếc đồng hồ vẫn chạy đúng.

    Điều đó chứng tỏ hắn đã chụp bức ảnh đó đêm qua. Hắn để nạn nhân sống trong ngôi nhà này trong hơn hai mươi tư giờ.

    Kéo dài thêm niềm vui của hắn.

    - Hắn ngày càng tự phụ - Giọng bác sỹ Zucker có vẻ khâm phục không giấu diếm - Hắn không chỉ để nạn nhân sống cả ngày, mà thực sự hắn còn bỏ cô ấy ở đây một lúc để gửi bức thư đó. Cậu bé của chúng ta đang giỡn với chúng ta.

    - Hoặc là với Catherine Cordell - Moore đoán.

    Ví của nạn nhân nằm trên mặt tủ có ngăn kéo. Moore đeo găng tay, xem bên trong ví.

    - Ví có ba mươi tư đô, hai thẻ tín dụng, một tấm thiệp, phù hiệu nhận dạng nhân viên của Phòng kinh doanh thiết bị khoa học Lawrence, cao một mét sáu, nặng năm mươi chín cân - Anh lật mặt sau giấy phép - Đã hiến nội tạng.

    - Tôi nghĩ cô ấy vừa hiến thôi - Rizzoli nói.

    Anh mở ngăn bên.

    - Có một cuốn sổ ghi ngày tháng.

    Rizzoli quay lại nhìn anh, vẻ quan tâm.

    - Gì cơ?

    Anh mở cuốn sổ đến tháng hiện tại. Nó trống không. Anh lật về những trang trước cho đến khi thấy một dòng chữ được viết cách đây gần tám tuần: đã đến hạn thuê. Anh lật thêm những trang trước và thấy nhiều dòng chữ hơn: sinh nhật Sid. Giặt khô. Buổi hòa nhạc lúc tám giờ. Họp nhân sự. Đó là tất cả những chi tiết vụn vặt hàng ngày, tạo nên cuộc sống. Tại sao những dòng chữ này lại bị gián đoạn cách đây tám tuần? Anh nghĩ về cô gái đã viết những dòng này. Chúng được viết gọn gàng bằng bút mực xanh. Đó là một cô gái có lẽ đã mường tượng trước tháng mười hai và hình dung ra Giáng sinh tuyết trắng như mọi năm để tin rằng cô sẽ sống để chứng kiến nó.

    Anh gập cuốn sổ. Nỗi buồn xâm chiếm anh đến nỗi anh không nói gì một lúc.

    - Chẳng có gì bỏ lại trên khăn trải giường - Frost nói, và đang cúi xuống giường - Không có sợi chỉ y tế vương vãi, không dụng cụ, không gì hết.

    - Với một người mà chúng ta nghĩ đã vội vàng bỏ đi thì hắn đã lau chùi quá sạch - Rizzoli nhận định - Nhìn xem! Hắn còn có thời gian gấp bộ đồ ngủ nữa! - Cô chỉ bộ quần áo ngủ bằng vải côt-tông được gấp gọn trên ghế - Điều này không khớp với sự vội vàng của hắn.

    - Nhưng hắn để nạn nhân còn sống - Moore nói - Đó là một lỗi lầm ngớ ngẩn nhất hắn mắc phải.

    - Điều đó thật vô lý, Moore. Hắn gấp quần áo ngủ của nạn nhân rồi mới chuồn. Rồi hắn bất cẩn tới mức bỏ lại một nhân chứng sao? Hắn quá thông minh. Hắn không thể mắc lỗi này.

    - Ngay cả kẻ thông minh nhất cũng có lúc loạn lên - Zucker thêm vào - Ted Bundy cuối cùng đã bất cẩn.

    Moore nhìn Frost.

    - Anh chính là người gọi điện cho nạn nhân phải không?

    - Đúng. Khi chúng tôi gọi một loạt danh sách số điện thoại lấy từ thư viện, tôi đã gọi đến đây vào khoảng hai giờ đến hai giờ mười lăm. Tôi nghe thấy máy trả lời tự động. Tôi không để lại lời nhắn.

    Moore nhìn quanh phòng nhưng không thấy máy trả lời tự động. Anh ra ngoài phòng khách và thấy điện thoại ở cuối bàn. Nó có một hộp ghi địa chỉ người gọi và nút bấm trên đó dính máu.

    Anh dùng đầu bút chì ấn nút đó. Số điện thoại của người gọi gần nhất hiện lên trên màn hình.

    Sở cảnh sát Boston: hai giờ mười bốn phút.

    - Có phải điều đó khiến hắn hoảng loạn? - Zucker hỏi. Anh đã theo Moore vào phòng khách.

    - Hắn đã ở đây khi Frost gọi điện. Có vết máu trên nút bấm để hiện địa chỉ người gọi.

    - Vậy là điện thoại đã reo. Tên sát nhân đã không làm xong phần việc. Hắn không đạt được sự thỏa mãn. Nhưng cú điện giữa đêm chắc đã khiến hắn chột dạ. Hắn ra ngoài phòng khách này và thấy số trên hộp địa chỉ. Hắn thấy đó là số của cảnh sát đang cố liên lạc với nạn nhân - Zucker dừng lại - Anh sẽ làm gì tiếp đó?

    - Ra khỏi đây.

    Zucker gật đầu. Môi anh uốn éo thành một nụ cười méo xệch.

    Với ngươi đây là một trò chơi, Moore nghĩ. Hắn ra cửa sổ, nhìn ra con phố lúc đó trông như lăng kính vạn hoa sáng màu dưới ánh đèn màu xanh nhấp nháy. Gần sáu xe tuần tra đỗ trước ngôi nhà. Báo chí cũng có ở đó, hắn thấy những chiếc xe đưa tin của hãng truyền hình đang lắp dụng cụ vệ tinh.

    - Hắn bắt đầu không thích điều đó - Zucker nói.

    - Hắn đã mổ xong.

    - Không. Đó chỉ là chiến lợi phẩm, một điều nhắc nhở nho nhỏ về chuyến thăm của hắn. Hắn không có ở đó để lấy đi một bộ phận cơ thể. Hắn muốn sự thỏa mãn cao độ: đó là cảm thấy sự sống của cô gái đang cạn dần. Nhưng lần này hắn đã không đạt được điều đó. Hắn bị gián đoạn, bị nỗi sợ ngăn lại vì cảnh sát sắp đến. Hắn không thể ở lại để chứng kiến nạn nhân chết - Zucker dừng lại - Sẽ sớm có nạn nhân tiếp theo. Tên sát nhân của chúng ta đang nổi điên. Hắn không chịu nổi sự căng thẳng đó. Điều đó nghĩa là hắn sẽ săn tìm nạn nhân tiếp theo.

    - Hoặc hắn đã chọn cô ấy - Moore nói và nghĩ đến Catherine Cordell.

    Những tia nắng đầu tiên khiến bầu trời sáng lên. Moore đã không chợp mắt suốt hai mươi tư giờ qua. Anh đã làm việc suốt đêm và chỉ uống một tách cà phê. Nhưng khi nhìn lên bầu trời sáng sủa, anh không cảm thấy mệt mỏi, mà chỉ có tâm trạng lo âu mới mẻ. Có mối liên hệ nào đó giữa Catherine và tên Bác sỹ phẫu thuật mà anh không hiểu nổi. Có sợi dây vô hình nào đó kết nối cô và con quỷ dữ đó.

    - Moore!

    Anh quay lại, thấy Rizzoli. Anh nhận thấy mắt cô ánh lên vẻ thích thú.

    - Đội phá các vụ án liên quan đến xâm phạm tình dục vừa gọi đến - cô nói - Nạn nhân của chúng ta là một cô gái rất đáng thương.

    - Ý cô là sao?

    - Cách đây hai tháng, Nina Peyton đã bị xâm phạm tình dục.

    Tin đó khiến Moore kinh ngạc. Anh nghĩ đến những trang giấy trống trong sổ lịch trình. Cách đây tám tuần, những dòng ghi chép bị gián đoạn. Đó chính là lúc cuộc sống của Nina Peyton dừng lại.

    - Có báo cáo nào không? - Zucker hỏi.

    - Không chỉ có một bản báo cáo - Rizzoli nói - Mà họ còn tìm thấy hung khí gây án.

    - Hai nạn nhân bị cưỡng bức à? - Zucker thắc mắc - Sao lại tình cờ như vậy?

    - Anh nghĩ tên tội phạm đó quay lại giết họ sao?

    - Chắc chắn đó không phải là một sự ngẫu nhiên, mười phần trăm các tên tội phạm cưỡng bức liên tục sau đó đã tìm cách liên lạc với nạn nhân của chúng. Đó là cách tên sát nhân của chúng ta kéo dài sự thỏa mãn của hắn. Đó là sự ám ảnh.

    - Vậy vụ cưỡng bức chỉ là bục nhảy cho vụ giết người - Rizzoli khịt mũi khinh bỉ - Tuyệt!

    Moore bỗng nảy ra một ý khác.

    - Cô nói đã thu được chứng cứ vụ cưỡng bức. Vậy là đã lấy được dịch âm đạo?

    - Đúng vậy. ADN đang được phân tích.

    - Ai lấy mẫu dịch âm đạo? Cô ấy có đến phòng cấp cứu không? - Anh gần như chắc chắn là cô sẽ nói: Bệnh viện Hành Hương.

    Nhưng Rizzoli lắc đầu.

    - Không phải là phòng cấp cứu. Cô ấy đã đến phòng khám Forest Hill dành cho phụ nữ. Nó ở ngay cuối phố.

    Trên tường phòng chờ trong bệnh viện tư, một bức tranh màu vẽ các bộ phận sinh dục của phụ nữ. Nó nằm dưới dòng chữ: Phụ nữ. Một vẻ đẹp đáng ngạc nhiên. Mặc dù Moore đồng ý rằng cơ thể người phụ nữ là một sáng tạo huyền diệu nhưng anh cảm thấy mình như một kẻ tọc mạch bẩn thỉu khi nhìn sơ đồ vẽ rất kỹ càng đó. Anh thấy mấy người phụ nữ trong phòng chờ nhìn mình bằng ánh mắt mà những con linh dương nhìn kẻ săn mồi. Việc anh đi cùng Rizzoli dường như không thể thay đổi sự thật rằng anh là người đàn ông lạc lõng trong căn phòng này.

    Anh thấy nhẹ người khi nhân viên tiếp đón cuối cùng nói.

    - Giờ bác sỹ có thể gặp các vị, thưa các thám tử. Phòng cuối cùng bên tay trái.

    Rizzoli đi trước, dọc theo hành lang, qua những bức tranh ghi Mười dấu hiệu chứng tỏ bạn tình của bạn lạm dụng tình dục và Sao bạn biết đó là vụ cưỡng bức? Sau mỗi bước đi, Moore cảm thấy như thể một vết nhơ khác của đàn ông đang bám lấy anh, chúng như đất bẩn vấy lên áo anh. Rizzoli không hề cảm thấy điều đó, cô là người ở phe bên kia. Cô thuộc về lãnh địa của phụ nữ. Cô gõ cửa rồi nói.

    - Tôi xin gặp cô Sarah Daly, bác sỹ hộ lý.

    - Mời vào!

    Người phụ nữ đứng dậy chào họ còn trẻ và có vẻ buồn bã. Dưới lớp áo khoác trắng, cô mặc quần bò và áo phông màu đen. Mái tóc cắt như con trai của cô làm tôn thêm cặp mắt sẫm màu và gò má thanh thoát. Nhưng thứ khiến Moore không thể không nhìn là một chiếc khuyên nhỏ bằng vàng ở lỗ mũi bên trái của cô. Trong suốt buổi thẩm tra, anh có cảm giác anh đang nói chuyện với cái khuyên đó.

    - Tôi đã xem lại hồ sơ bệnh án của cô ấy sau khi các vị gọi đến - Sarah nói - Theo tôi biết thì họ đã thu thập hồ sơ cho cảnh sát.

    - Chúng tôi đã đọc - Rizzoli nói.

    - Vậy lý do các vị đến đây là gì?

    - Đêm qua, Nina Peyton đã bị tấn công trong căn hộ của cô ấy. Giờ cô ấy đang trong tình trạng nguy kịch.

    Phản ứng đầu tiên của người phụ nữ đó là kinh hoàng, rồi tức giận. Moore thấy cằm cô hếch cao, mắt long lên.

    - Có đúng là hắn không?

    - Hắn?

    - Kẻ đã cưỡng bức cô ấy?

    - Chúng tôi cũng đã nghĩ đến khả năng đó - Rizzoli nói - Thật không may, nạn nhân đang trong tình trạng hôn mê và không thể nói chuyện với chúng tôi.

    - Đừng gọi cô ấy là nạn nhân. Cô ấy có tên họ.

    Rizzoli cũng hếch cằm lên và Moore biết cô tỏ ra khinh bỉ. đó không phải là một cách hay để bắt đầu một buổi thẩm tra.

    Anh nói.

    - Cô Daly, đây là một vụ án rất dã man đến khó tin và chúng tôi cần...

    - Chẳng có gì khó tin cả - Sarah cự lại - Chẳng có gì khó tin khi chúng ta nói về những việc đàn ông gây ra cho phụ nữ - Cô cầm một tập hồ sơ trên bàn lên và đưa cho anh - Đây là ghi chép về tình hình sức khỏe của cô ấy. Vào buổi sáng sau khi bị cưỡng bức, cô ấy đã đến phòng khám này. Hôm đó, tôi chính là người tiếp cô ấy.

    - Vậy cô cũng là người khám cho cô ấy?

    - Tôi làm hết, hỏi han, rồi lấy xét nghiệm dịch âm đạo. Tôi đã lấy mẫu dịch âm đạo của cô ấy và xác nhận có tinh dịch khi quan sát bằng kính hiển vi. Tôi đã lấy mẫu tóc và cắt móng tay làm bằng chứng cho vụ cưỡng bức. Tôi đã cho cô ấy uống thuốc sáng hôm đó.

    - Cô ấy có đến phòng khám để thực hiện thử nghiệm gì nữa không?

    - Bất cứ nạn nhân bị cưỡng bức nào bước vào phòng khám của chúng tôi sẽ được chăm sóc mọi thứ trong tòa nhà này bởi một người duy nhất. Cô ấy sẽ không muốn nhìn thấy những khuôn mặt khác nhau. Vì vậy, tôi đã lấy máu và gửi đến phòng thí nghiệm. Tôi đã làm việc cần thiết là gọi điện cho cảnh sát. Tôi chỉ gọi nếu cô ấy muốn.

    Moore mở tệp hồ sơ và thấy tờ giấy ghi thông tin về nạn nhân. Ngày sinh, địa chỉ, số điện thoại và cả tên ông chủ của Nina Peyton đều được ghi rõ. Anh lật sang trang sau và thấy nó ghi đầy chữ nhỏ, viết rất dày. Ngày viết là ngày mười bảy tháng năm.

    Chứng bệnh chính: bị xâm phạm tình dục.

    Tình hình bệnh hiện tại: một phụ nữ hai mươi chín tuổi tin là cô ấy đã bị xâm phạm tình dục. Đêm qua, khi đang uống rượu tại Câu lạc bộ Gramecy, cô ấy thấy chóng mặt và nhớ là đã vào phòng tắm. Cô ấy không nhớ những việc xảy ra sau đó...

    - Cô ấy tỉnh dậy trong nhà, trên giường ngủ - Sarah kể - Cô ấy không nhớ đã về nhà bằng cách nào, không nhớ quần áo đã bị cởi. Chắc chắn cô ấy nhớ là đã không xé rách áo khoác ngoài. Nhưng cô ấy đã bị lột sạch quần áo. Đùi cô ấy bám đầy chất gì đó mà cô ấy nghĩ là tinh dịch. Một mắt bị sưng to và hai cổ tay thâm tím. Cô ấy đã nhanh chóng nhận ra đã có chuyện gì. Và cô ấy đã phản ứng giống như các nạn nhân bị cưỡng bức khác. Cô ấy nghĩ: "Đó là lỗi của tôi. Đáng lẽ tôi không nên bất cẩn như vậy." Nhưng đó chính là việc đã xảy ra với cô gái đó - Cô nhìn thẳng vào Moore - Chúng tôi tự trách mình vì mọi việc, ngay cả khi bọn đàn ông làm cái việc khốn nạn đó.

    Khi nhìn khuôn mặt giận dữ như vậy, anh không thể nói gì. Anh cúi nhìn hồ sơ bệnh án và đọc kết quả kiểm tra sức khỏe.

    Tóc bệnh nhân rối bời. Một cô gái lạnh nhạt, nói chuyện đều đều. Cô ấy đi một mình, tự đi từ phòng khám về nhà...

    - Cô ấy cứ hỏi chìa khóa ô tô - Sarah kể tiếp - Cô ấy nhăn nhó. Một mắt nhắm tịt lại vì bị sưng to. Cô ấy phải tìm thấy chúng, nếu không cô ấy sẽ không đi làm được. Tôi phải mất một lúc mới giúp cô ấy không lẩm bẩm câu đó nữa và nói chuyện với tôi. Đó là một cô gái mà từ trước tới nay không gặp nhiều khó khăn. Cô ấy được giáo dục tốt, sống độc lập, một nhân viên bán hàng cho Công ty cung cấp phụ kiện khoa học Lawrence. Cô ấy gặp gỡ mọi người suốt ngày. Và cô ấy đến đây, bị tê liệt hoàn toàn, bị ám ảnh về việc phải tìm chìa khóa ô tô. Cuối cùng, chúng tôi mở ví của cô ấy, lục từng ngăn và chìa khóa ở đó. Lúc đó, tôi mới khiến cô ấy tập trung nhìn tôi và cho tôi biết đã có chuyện gì.

    - Cô ấy đã nói gì?

    - Cô ấy đến Câu lạc bộ Gramecy lúc gần chín giờ để gặp bạn gái. Cô bạn đó không đến nên Nina nán lại đó một lúc. Cô ấy đã uống rượu mác - ti và nói chuyện với vài gã trai. Nghe này, tôi đã đến đó và đêm nào cũng đông đúc. Một cô gái sẽ cảm thấy an toàn - Cô nói thêm, giọng tỏ vẻ cay đắng - Cứ như thể có một nơi an toàn thật sự vậy.

    - Cô ấy có nhớ người đàn ông đưa cô ấy về không? - Rizzoli hỏi - Chúng tôi thật sự rất cần biết điều đó.

    Sarah nhìn cô.

    - Tất cả chỉ vì vụ án phải không? Đó là tất cả những gì nhân viên cảnh sát từ Phòng điều tra Tội phạm tình dục muốn nghe. Tên sát nhân mới đáng chú ý.

    Moore có thể cảm thấy cơn giận của Rizzoli đã lan khắp phòng. Anh nói nhanh.

    - Các thám tử nói cô ấy đã không thể mô tả hắn.

    - Tôi đã có mặt trong phòng khi họ thẩm tra cô ấy. Cô ấy yêu cầu tôi ở lại, vì vậy tôi đã nghe toàn bộ câu chuyện đến hai lần. Họ cứ hỏi cô ấy hắn trông thế nào nhưng cô ấy không nói được. Thực sự cô ấy không thể nhớ gì về hắn.

    Moore lật sang trang bệnh án tiếp theo.

    - Cô đã gặp lại cô ấy vào tháng bảy, cách đây mới một tuần.

    - Cô ấy quay lại để thử máu tiếp theo. Phải mất sáu tuần sau khi làm xét nghiệm HIV để xem có kết quả dương tính không. Đó là hành động cực kỳ nhẫn tâm. Đầu tiên là bị cưỡng bức, sau đó phát hiện ra kẻ tấn công đã gây cho mình một căn bệnh chết người. Đó là 6 tuần đau đớn với những cô gái khi phải chờ xem họ có mắc bệnh AIDS hay không. Họ băn khoăn liệu có kẻ thù nào đó đang ẩn nấp bên trong và phá hủy cơ thể họ không. Khi họ đến làm bài thử nghiệm tiếp theo, tôi phải nói chuyện chuẩn bị tâm lý trước cho họ. Và tôi thề sẽ gọi cho họ ngay khi có kết quả.

    - Cô không phân tích kết quả ở đây à?

    - Không. Nó được gửi đến những phòng thí nghiệm liên kết của chúng tôi.

    Moore lật đến trang cuối hồ sơ và thấy tờ giám định kết quả. Mẫu xét nghiệm HIV: âm tính. Bệnh giang mai: âm tính. Tờ giấy đó rất mỏng, được in từ dạng giấy than. Anh nghĩ những tin tức tố lành nhất trong đời lại xuất hiện trên một tờ giấy mỏng manh như vậy. Trên đó ghi các bức điện tín, kết quả các kỳ thi và kết quả thử máu.

    Anh đóng tập hồ sơ, đặt lên bàn.

    - Khi gặp Nina lần thứ hai, khi cô ấy đến kiểm tra máu tiếp theo, cô thấy cô ấy thế nào?

    - Anh hỏi tôi là cô ấy còn bị chấn thương không á?

    - Tôi chắc chắn là cô ấy vẫn còn.

    Câu trả lời nhỏ nhẹ của anh dường như khiến cơn thịnh nộ của Sarah nguôi dần. Cô ngồi lui về phía sau, như thể khi đã hết tức giận thì cô mất đi nguồn năng lượng lớn trong cơ thể. Cô ngồi một lúc, ngẫm nghĩ về câu hỏi của anh.

    - Khi tôi gặp Nina lần thứ hai, cô ấy như người sống mà đã chết.

    - Cụ thể như thế nào?

    - Cô ấy ngồi trên chiếc ghế mà cô Rizzoli đang ngồi. Tôi có cảm giác tôi có thể nhìn xuyên qua cô ấy, như thể cô ấy trong suốt. Cô ấy không đi làm kể từ khi bị cưỡng bức. Tôi nghĩ cô ấy rất khó đối diện với người khác, nhất là đàn ông. Cô ấy bị tê liệt trước những nỗi sợ kỳ lạ. Cô ấy sợ uống nước ở vòi công cộng, hay bất kỳ thứ gì không được đóng gói cẩn thận. Nó phải được đựng trong một chai nước hay một lon chưa mở, một thứ gì đó không thể bị bỏ độc hay cho thuốc mê. Cô ấy sợ đàn ông nhìn cô ấy và biết là cô ấy đã bị xâm hại. Cô ấy tin là kẻ cưỡng bức cô ấy đã làm rớt tinh dịch trên ga trải giường và quần áo của cô ấy. Ngày nào cô ấy cũng mất mấy tiếng giặt đồ nhiều lần. Dù Nina Peyton trước kia là người thế nào thì cô ấy cũng đã chết. Trong cô ấy, tôi chỉ thấy một bóng ma - Giọng nói của Sarah nhỏ dần. Cô ngồi im, nhìn về phía Rizzoli và thấy một phụ nữ khác hẳn trên chiếc ghế đó. Những khuôn mặt phụ nữ khác nhau cứ chạy ngang mắt cô như một cuộc diễu hành bị đứt đoạn.

    - Cô ấy có nói gì về việc bị theo dõi không, về việc kẻ tấn công lại xuất hiện?

    - Một kẻ xâm phạm tình dục sẽ không bao giờ biến mất khỏi cuộc sống của chúng ta. Chúng ta sẽ là tài sản và nô lệ của chúng, miễn là chúng ta còn sống - Sarah dừng lại, rồi cay đắng nói thêm - Có lẽ hắn chỉ đến lấy đi thứ thuộc về hắn.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 9



    Mắt Nina Peyton mở to, hoang dại. Dây buộc bốn góc đã cố định cổ tay và cổ chân cô vào thành giường. Những đường gân trên cánh tay cô nổi lên thành những đường rất to khi cô cố tháo tay ra.

    - Cô ấy tỉnh lại cách đây khoảng năm phút - Stephanie, y tá Bộ phận chăm sóc đặc biệt nói - Đầu tiên, tôi để ý thấy nhịp tim của cô ấy tăng. Rồi cô ấy mở mắt. Tôi đã cố làm cô ấy bình tĩnh lại nhưng cô ấy cố chống cự để tháo dây buộc.

    Catherine nhìn màn hình điện tim và thấy nhịp tim đập rất nhanh, nhưng không bị loạn nhịp. Hơi thở của Nina cũng gấp, đôi khi nó bị đứt đoạn thành những tiếng khò khè lớn, chúng thoát ra từ ống khí quản đầy đờm.

    - Đó là ống thở - Catherine nói - Nó khiến cô ấy hoảng hốt.

    - Tôi có nên tiêm thêm thuốc mê Valium cho cô ấy không?

    Moore đứng ở lối vào lên tiếng.

    - Chúng tôi cần cô ấy tỉnh táo. Nếu cô ấy bị hôn mê, chúng tôi sẽ không có câu trả lời.

    - Dù sao cô ấy cũng không thể nói chuyện với anh, khi còn thông ống thở - Catherine nhìn Stephanie - Các bọt khí cuối cùng trong máu thế nào? Chúng ta có bỏ ống ra được không?

    Stephanie lật những trang giấy trên bìa kẹp hồ sơ.

    - Chúng là những đường ranh giới. P02: 65. PC02: 32. Thông số trên ống truyền là bốn mươi phần trăm ô-xi.

    Catherine cau mày. Cô không muốn lựa chọn nào trong số đó. Cô muốn Nina tỉnh táo và có thể nói chuyện càng nhiều càng tốt như cảnh sát mong đợi. Nhưng lập tức, cô lo ngại vài vấn đề. Cảm giác bị ống luồn trong cổ họng có thể khiến một người hoảng loạn. Nina bị kích động đến mức cổ tay bị buộc của cô đã bị chà xát mạnh. Nhưng nếu tháo ống ra cũng rất nguy hiểm. Các chất dịch đã đọng lại trong phổi cô sau khi phẫu thuật. Thậm chí khi cô hít vào bốn mươi phần trăm ô-xi - tức gấp đôi lượng ô-xi bình thường trong phòng - thì trạng thái bão hòa trong máu của cô vẫn không đủ. Đó là lý do Catherine vẫn giữ nguyên ống thở. Nếu bỏ ống ra, họ sẽ mất khoảng cách an toàn. Nếu vẫn để ống bên trong, họ sẽ khiến bệnh nhân tiếp tục hoảng loạn và giãy giụa. Nếu họ làm cô hôn mê thì những câu hỏi của Moore sẽ không có lời đáp.

    Catherine nhìn Stephanie.

    - Tôi sẽ rút ống.

    - Cô chắc chứ?

    - Nếu có biểu hiện mọi việc xấu đi, tôi sẽ luồn ống vào - Nói dễ, làm khó, đó là điều cô thấy trong mắt Stephanie. Sau vài ngày luồn ống, các mô thanh quản phần nào đã sưng lên, khiến việc luồn ống trở lại rất khó khăn. Một ca phẫu thuật mở thanh quản sẽ là giải pháp duy nhất của họ.

    Catherine đi vòng về sau đầu bệnh nhân, nhẹ nhàng ôm mặt cô.

    - Nina, tôi là bác sỹ Cordell. Tôi sẽ rút ống. Cô muốn vậy phải không?

    Bệnh nhân gật đầu, một cách trả lời dứt khoát nhưng tuyệt vọng.

    - Tôi muốn cô phải nằm thật im, được chứ? Để chúng ta không làm tổn thương dây thanh của cô - Catherine ngẩng lên - Mặt nạ sẵn sàng chưa?

    Stephanie giữ mặt nạ ô-xi bằng nhựa.

    Catherine bóp vai Nina vỗ về. Cô tháo băng dính cố định ống thở và xả không khí ra như mở đuôi một quả bóng bay.

    - Hít sâu, rồi thở ra! - Catherine nhẹ nhàng bảo. Cô nhìn ngực bệnh nhân nở ra. Nina thở ra. Catherine rút ống ra.

    Một đống nước nhầy phun ra khi Nina ho và thở khò khè. Catherine vuốt tóc bệnh nhân, nhẹ nhàng vỗ về khi Stephanie buộc cố định mặt nạ ô-xi.

    - Cô sẽ ổn mà - Catherine nói.

    Nhưng những tiếng kêu trên màn hình điện tim vẫn tiếp tục. Ánh mắt sợ hãi của Nina vẫn dán chặt vào cô, như thể cô là sợi dây cứu cô ấy và cô ây không dám rời mắt khỏi cô. Catherine nhìn mắt bệnh nhân và cảm thấy một tia nhìn khó chịu quen thuộc. Đây là mình hai năm trước, tỉnh dậy ở bệnh viện Savannah, thức dậy sau cơn ác mộng và...

    Cô nhìn sợi dây buộc chặt cổ tay, cổ chân Nina và nhớ lại cô đã sợ hãi như thế nào khi bị trói. Andrew Capra đã trói cô như vậy.

    - Tháo dây buộc! - Cô ra lệnh.

    - Nhưng cô ấy có thể dứt các dây nối.

    - Hãy tháo chúng ra, làm ngay đi.

    Stephanie tức đỏ mặt lên khi bị quở trách. Cô không nói gì, tháo dây buộc ra. Cô không hiểu; không ai có thể hiểu được, trừ Catherine. Thậm chí đã hai năm sau vụ ở Savannah, cô vẫn không thể chịu được tay áo có cổ tay quá chặt. Khi sợi dây buộc cuối cùng được nới ra, cô thấy môi Nina mấp máy câu gì đó.

    Cám ơn!

    Tiếng kêu đường điện tâm đồ trên màn hình dần chậm lại. Trong âm thanh đều đều của nhịp tim, hai người phụ nữ nhìn nhau. Nếu như Catherine nhận ra một phần của mình trong đôi mắt Nina thì Nina cũng nhận ra chính mình trong mắt Catherine. Đó là tình cảm gắn bó im lặng của hai nạn nhân.

    Chúng ta có nhiều điều mà những người khác sẽ không bao giờ biết.

    - Các vị có thể vào, các thám tử - Y tá thông báo.

    Moore và Frost bước vào phòng, thấy Catherine ngồi bên giường, nắm tay Nina.

    - Cô ấy yêu cầu tôi ở lại - Catherine giải thích.

    - Tôi có thể gọi một cảnh sát nữ vào - Moore gợi ý.

    - Không, cô ấy muốn tôi - Catherine khẳng định - Tôi sẽ không đi.

    Cô nhìn thẳng vào Moore. Ánh mắt cô không thể khuất phục được. Và anh nhận thấy đây không phải là người phụ nữ như người anh đã nắm tay chỉ mới cách đây mấy tiếng; đây là tính cách hoàn toàn khác trong cô: mạnh mẽ và tự vệ. Cô sẽ không chịu thoái lui trong việc này.

    Anh gật đầu, ngồi xuống bên giường. Frost bật máy thu âm và tìm một chỗ kín đáo ở chân giường.

    Đó là tính ôn tồn và phép lịch sự của Frost. Điều đó khiến Moore phải chọn cho mình một chỗ ngồi để thẩm tra. Nina Peyton sẽ không muốn đối diện với một cảnh sát quá hung hãng.

    Mặt nạ ô-xi của cô đã được tháo ra và thay bằng ngạnh mũi. Không khí thổi xì xì trong ống, đẩy vào hai lỗ mũi cô. Mắt cô nhìn hết người này sang người khác, cặp mắt tỉnh táo trước bất cứ sự đe dọa hay hành động bất ngờ nào. Moore thận trọng nói nhẹ nhàng khi giới thiệu mình và Barry Frost. Anh hướng dẫn cô qua màn mở đầu, xác nhận tên, tuổi và địa chỉ của cô. Họ đã biết những thông tin này nhưng khi yêu cầu cô xác nhận, họ đã ổn định lại tình trạng tâm lý của cô và chứng tỏ cô tỉnh táo, có khả năng đưa ra lời khai. Cô trả lời câu hỏi của anh bằng giọng khàn khàn, đều đều, không có chút cảm xúc. Thái độ xa cách của cô khiến anh bối rối, anh cảm thấy như thể anh đang nghe một người đã chết đang nói.

    - Tôi không nghe thấy hắn vào nhà - cô nói - Mãi đến khi hắn đã đứng ở cạnh giường, tôi mới thức dậy. Lẽ ra tôi không nên mở cửa sổ. Lẽ ra tôi không nên uống thuốc..

    - Thuốc gì? - Moore nhẹ nhàng hỏi.

    - Tôi bị khó ngủ, vì... - Giọng cô nhỏ dần.

    - Vì vụ cưỡng bức?

    Cô quay đi, tránh ánh mắt anh.

    - Tôi gặp ác mộng. Ở phòng khám, họ cho tôi thuốc để ngủ được.

    Và một cơn ác mộng, một cơn ác mộng thực sự đã vào phòng ngủ của cô.

    - Cô thấy mặt hắn chứ?

    - Trời tối. Tôi nghe thấy hắn thở nhưng tôi không cử động được. Tôi không hét lên được.

    - Lúc đó cô đã bị trói?

    - Tôi không nhớ hắn làm việc đó khi nào. Tôi không nhớ chuyện đó xảy ra như thế nào.

    Thuốc mê, Moore nghĩ, để hạ gục cô trước, trước khi cô hoàn toàn tỉnh táo.

    - Sau đó có chuyện gì, Nina?

    Hơi thở của cô gấp gáp. Trên màn hình điện tim ở đầu giường, những tiếng kêu nhanh hơn.

    - Hắn ngồi xuống chiếc ghế bên giường tôi. Tôi thấy bóng hắn.

    - Và hắn làm gì?

    - Hắn... hắn nói chuyện với tôi.

    - Hắn nói gì?

    - Hắn nói... - Cô nuốt nước bọt - Hắn nói tôi bẩn thỉu, dơ dáy. Hán nói tôi nên ghét sự bẩn thỉu của chính mình. Và hắn... hắn sẽ cắt bỏ phần đã bị ô nhục, để tôi trong sạch trở lại - Cô dừng lại và thì thào - Đó là lúc tôi biết tôi sắp chết.

    Mặc dù mặt Catherine trắng bệch ra nhưng nạn nhân trông vẫn thản nhiên một cách kỳ lạ, như thể cô đang nói về cơn ác mộng của một phụ nữ khác chứ không phải của chính mình. Cô không còn nhìn Moore nữa, mà nhìn vào một điểm nào đó đằng sau anh. Như thể cô đang thấy một cô gái ở đằng xa đang bị trói trên giường. Và trên chiếc ghế, một gã đàn ông lặng lẽ miêu tả những điều khủng khiếp tiếp theo mà hắn đã vạch ra. Với tên Bác sỹ phẫu thuật, Moore nghĩ, đây chỉ là màn dạo đầu. Đây là điều khiến hắn thích thú, mùi nỗi sợ của nạn nhân. Hắn nhấm nháp nó. Hắn ngồi bên giường cô, nhồi nhét vào đầu cô những hình ảnh của cái chết. Mồ hôi túa ra trên da thịt cô, mồ hôi của cô như tỏa ra mùi chua của sự sợ hãi. Đó là một thứ nước hoa kỳ lạ mà hắn khao khát. Hắn hít nó và hắn thích thú.

    - Sau đó có chuyện gì? - Giọng Moore rất nhẹ nhàng.

    Cô không trả lời.

    - Nina?

    - Hắn chiếu đèn, rọi thẳng vào mặt tôi. Hắn chiếu thẳng vào mắt tôi khiến tôi không thấy hắn. Tất cả những gì tôi thấy chỉ là một luồng sáng mạnh. Rồi hắn chụp hình tôi.

    - Sau đó?

    Cô nhìn anh.

    - Rồi hắn bỏ đi.

    - Hắn bỏ cô một mình trong nhà sao?

    - Không phải một mình. Tôi vẫn nghe thấy hắn đi lại quanh nhà. Và ti vi... cả đêm tôi nghe thấy tiếng ti vi.

    Cung cách hành động của hắn đã thay đổi, Moore nghĩ. Anh và Frost ngạc nhiên nhìn nhau. Tên Bác sỹ phẫu thuật giờ đã tự tin lên rất nhiều, liều lĩnh hơn. Thay vì giết người trong vài giờ, hắn dây dưa kéo dài. Suốt đêm đó và cả ngày hôm sau, hắn để mặc nạn nhân bị trói trên giường, để mặc cô suy nghĩ về cực hình tra tấn sắp tới. Khi không thèm chú ý đến những mối nguy hiểm, hắn đã khiến cô càng hoảng sợ, còn hắn thì thích thú.

    Nhịp tim trên màn hình lại nhanh hơn. Mặc dù giọng nói của cô có vẻ đều đều, không sức sống, nhưng sau khuôn mặt điềm tĩnh đó, nỗi sợ vẫn ngự trị.

    - Sau đó thì sao, Nina?

    - Đôi lúc trong buổi chiều, chắc tôi đã ngủ quên. Khi tôi tỉnh lại, trời đã tối. Tôi khát nước. Tôi chỉ nghĩ về việc đó, tôi cần nước...

    - Hắn có bỏ cô một mình lúc nào không? Cô có một mình trong nhà không?

    - Tôi không biết. Tôi chỉ nghe thấy tiếng ti vi. Khi hắn tắt ti vi, tôi biết. Tôi biết hắn đang trở lại phòng ngủ của tôi.

    - Và khi đó, hắn bật đèn?

    - Đúng.

    - Cô thấy mặt hắn chứ?

    - Chỉ cặp mắt. Hắn đeo khẩu trang, loại khẩu trang của bác sỹ.

    - Nhưng cô đã thấy mắt hắn.

    - Đúng.

    - Cô nhận ra hắn chứ? Trước đây cô có thấy hắn không?

    Cô im lặng rất lâu. Moore thấy tim minh đập mạnh khi anh chờ câu trả lời mà anh mong đợi.

    Rồi cô khẽ nói.

    - Không.

    Anh ngồi xuống ghế. Sự căng thẳng trong phòng bỗng tan biến. Với nạn nhân, tên Bác sỹ phẫu thuật là một kẻ xa lạ, không tên. Và lý do hắn chọn cô vẫn còn là bí ẩn.

    Giọng lộ rõ vẻ thất vọng, anh nói.

    - Hãy mô tả hắn cho chúng tôi, Nina.

    Cô hít sâu, nhắm mắt như thể để gom hết lại trí nhớ.

    - Hắn... tóc hắn ngắn, cắt rất gọn...

    - Màu gì?

    - Nâu. Màu nâu sáng.

    Trùng khớp với sợi tóc tìm thấy trên mép vết thương của Elena Ortiz.

    - Vậy hắn là người da trắng? - Moore gợi ý.

    - Đúng.

    - Mắt thì sao?

    - Màu nhạt. Xanh lơ hoặc xám. Tôi không dám nhìn thẳng vào mắt hắn.

    - Mặt hình gì? Tròn, hay trái xoan?

    - Bé - Cô dừng lại - Bình thường.

    - Chiều cao và cân nặng?

    - Rất khó...

    - Lời suy đoán chính xác nhất của cô là gì?

    - Trung bình.

    Trung bình, bình thường. Một con quỷ dữ trông như những người khác.

    Moore quay lại nhìn Frost.

    - Cho cô ấy xem "gói sáu"!

    Frost đưa cho anh cuốn sổ có các bức ảnh căn cước có tên là gói sáu vì mỗi trang có sáu ảnh. Moore đặt cuốn sổ lên chiếc bàn gấp trên giường và xoay nó về phía bệnh nhân.

    Trong nửa tiếng sau đó, họ quan sát cô. Hy vọng của họ chìm dần khi cô lật qua những trang sổ và không dừng lại. Không ai nói gì, chỉ có tiếng xì xì của khí ô-xi và tiếng lật giở của những trang sách. Các bức ảnh chụp những tên tội phạm tình dục đã được xác định danh tính. Khi Nina lật hết trang này sang trang khác, Moore thấy dường như những khuôn mặt đó kéo dài vô tận. Những khuôn mặt lướt qua đó thể hiện mặt tối của mỗi người, đó là một kẻ mắc chứng bệnh da cóc nhưng lại đội lốt người.

    Anh nghe thấy tiếng gõ cửa. Khi nhìn lên, anh thấy Rizzoli đang ra hiệu cho anh.

    Anh ra ngoài nói chuyện với cô.

    - Đã nhận dạng được ai chưa? - Cô hỏi.

    - Chúng ta sẽ chẳng tìm được tên nào. Hắn đeo khẩu trang bác sỹ.

    Rizzoli cau mày.

    - Tại sao lại đeo khẩu trang?

    - Đó có thể là một phần trong thói quen của hắn, một phần kích thích hắn. Hắn chơi trò làm bác sỹ giả tưởng. Hắn nói với cô ấy là hắn sẽ cắt bỏ bộ phận đã bị ô uế. Hắn biết cô ấy là nạn nhân bị cưỡng bức. Tại sao hắn lại cắt bỏ bộ phận đó? Hắn tìm ngay đến tử cung.

    Rizzoli nhìn vào phòng. Cô khẽ nói.

    - Tôi có thể nghĩ đến một nguyên nhân khác khi hơn đeo khẩu trang đó.

    - Tại sao?

    - Hắn không muốn cô ấy nhìn thấy mặt hắn. Hắn không muốn cô ấy nhận ra mình.

    - Nhưng điều đó nghĩa là...

    - Đó chính là điều tôi đã nói suốt - Rizzoli quay lại nhìn Moore - Tên Bác sỹ phẫu thuật hoàn toàn cố ý để Nina Peyton sống.

    Chúng ta thực sự chỉ tin tưởng rất ít ở trái tim con người, Catherine nghĩ khi xem phim chụp X-quang lồng ngực Nina. Cô đứng trong bóng tối nhập nhoạng, nhìn tấm phim được kẹp trên hộp chiếu, xem kỹ hình xương và các nội tạng được in đậm, lồng ngực, cơ hoành và chỏm trên tim. Đó không phải là nơi trú ngụ của tâm hồn, mà chỉ là một cái bơm bằng cơ, chẳng có gì huyền bí hơn so với hai lá phổi và thận. Nhưng ngay cả Catherine, người đã am hiểu sâu về y khoa vẫn không thể nhìn quả tim của Nina mà không thấy xúc động trước biểu tượng của nó.

    Đó là trái tim của một người sống sót.

    Cô nghe thấy tiếng nói chuyện ở phòng bên. Đó là Peter, đang yêu cầu nhân viên hồ sơ đưa cho anh phim chụp của bệnh nhân. Một lúc sau, anh vào phòng đọc hồ sơ và khựng lại khi thấy cô đứng gần hộp chiếu.

    - Cô vẫn ở đây sao?

    - Anh cũng vậy.

    - Nhưng tôi là người trực đêm nay. Sao cô không về nhà?

    Catherine quay lại nhìn tia chụp X-quang lồng ngực Nina.

    - Tôi muốn chắc chắn bệnh nhân này đã ổn định.

    Anh đứng ngay sau cô. Anh xem qua phim chụp.

    - Không có gì ngoài chứng xẹp phổi. Tôi thấy chẳng có gì phải lo lắng quá - Anh chú ý cái tên "Jane Doe" ở góc phim - Đây là cô gái ở giường số mười hai phải không? Người mà cảnh sát vây quanh à?

    - Đúng!

    - Tôi đã thấy cô tháo ống thở cho cô ấy.

    - Mấy giờ trước - cô do dự dừng lại. Cô không muốn nói về Nina Peyton, không muốn tiết lộ những liên quan của cô trong vụ án. Nhưng Peter cứ đặt ra câu hỏi.

    - Khí trong máu của cô ấy ổn chứ?

    - Chúng vừa đủ.

    - Vậy thì cô ấy hoàn toàn ổn định phải không?

    - Đúng vậy.

    - Vậy sao cô không về nhà? Tôi sẽ trông nom thay cô.

    - Tôi muốn tự mình chăm sóc bệnh nhân này.

    Anh đặt tay lên vai cô.

    - Cô đã không còn tin đồng nghiệp của mình từ bao giờ vậy?

    Cô lập tức cứng người lại khi bị anh chạm vào. Anh nhận thấy điều đó nên rút tay lại.

    Anh im lặng một lúc, rồi quay đi, treo những tấm phim chụp X-quang của mình lên hộp chiếu, nhanh chóng quan sát chúng. Anh đặt lên một loạt hình chụp cắt lớp bụng. Những tấm phim choán hết hộp chiếu. Khi đã treo xong, anh đứng im. Mắt anh bị che mất vì những tấm phim lấp lánh trên mắt kính.

    - Tôi không phải là kẻ thù, Catherine - anh khẽ nói, không nhìn cô mà nhìn hộp chiếu - Tôi ước tôi có thể làm cô tin điều đó. Tôi cứ nghĩ mãi. Chắc là tôi đã làm gì, đã nói điều gì đó khiến mọi việc giữa hai chúng ta thay đổi - Cuối cùng anh quay lại nhìn cô - Chúng ta đã từng tin tưởng nhau, ít ra như những đồng nghiệp. Thật tuyệt, đã có hôm tôi và cô cùng ấn tay lên ngực người đàn ông đó! Và giờ cô không để tôi chăm sóc một bệnh nhân. Giờ thì cô không hiểu và không tin tưởng tôi.

    - Tôi tin tưởng anh hơn bất cứ bác sỹ phẫu thuật nào.

    - Vậy thì có chuyện gì ở đây thế? Tôi đến nơi làm việc vào buổi sáng và thấy chúng ta bị quấy rầy. Còn cô không nói cho tôi về chuyện đó. Tôi hỏi cô về bệnh nhân giường mười hai và cô cũng không nói gì về cô ấy.

    - Cảnh sát yêu cầu tôi không được nói.

    - Dường như cảnh sát bám theo cô mỗi ngày. Tại sao vậy?

    - Tôi không thể nói về chuyện đó.

    - Tôi không chỉ là bạn đồng nghiệp của cô, Catherine. Tôi nghĩ tôi là bạn cô - Anh tiến thêm một bước về phía cô. Anh có dáng vẻ to cao nên chỉ cần anh tiến một bước, cô đã cảm thấy như bị bủa vây - Tôi hiểu là cô sợ hãi. Cô giam mình trong văn phòng. Trông cô như mấy ngày rồi không ngủ. Tôi không thể đứng bên nhìn cô như vậy.

    Catherine giật tấm chụp X-quang của Nina khỏi hộp chiếu, cho vào phong bì.

    - Việc đó chẳng có gì liên quan đến anh.

    - Có, có chứ, nếu nó ảnh hưởng đến cô.

    Thái độ cảnh giác của cô bỗng biến thành cơn tức giận.

    - Hãy nói rõ mọi chuyện ở đây, Peter. Đúng, chúng ta làm việc cùng nhau. Đúng, tôi tôn trọng anh là một bác sỹ phẫu thuật tài ba. Tôi rất muốn anh là đồng nghiệp của tôi. Nhưng chúng ta không sống chung. Và chắc chắn chúng ta không cần chia sẻ những bí mật của nhau.

    - Tại sao không? - Anh khẽ hỏi - Cô sợ nói với tôi điều gì?

    Cô nhìn và mềm lòng bởi giọng nói nhẹ nhàng của anh. Lúc đó, điều cô muốn hơn hết là giải thoát gánh nặng cho mình và nói cho anh biết chuyện gì đã xảy ra với cô ở Savannah, kể cả những chi tiết đáng xấu hổ nhất. Nhưng cô biết hậu quả của việc thú nhận đó. Cô hiểu việc cô bị cưỡng bức sẽ mãi là vết nhơ, cô mãi là nạn nhân. Cô không thể chịu nổi sự thương hại, nhất là sự thương hại từ Peter. Sự tôn trọng của anh rất quan trọng với cô.

    - Catherine? - Anh đưa tay ra.

    Cô khóc khi nhìn anh đưa tay ra. Như một người phụ nữ đang chết đuối nhưng lại chọn biển đen, thay vì được cứu sống, cô không cầm lấy tay anh.

    Cô quay đi và ra khỏi phòng.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10



    Jane Doe đã cử động.

    Tay ta cầm ống xét nghiệm máu của cô ta và ta thất vọng vì nó lạnh dưới da ta. Nó đã nằm trong khay tĩnh mạch quá lâu. Hơi nóng từ cơ thể truyền sang chiếc ống này đã phát tán hết qua tấm kính và tan vào không khí. Máu lạnh là một thứ chết chóc, không có sức mạnh hay tâm hồn. Và nó không làm ta cảm động. Ta chỉ chú ý đến tên nhãn của nó, một hình chữ nhật màu trắng dán trên ống thủy tinh có ghi tên bệnh nhân, số phòng và số bệnh viện. Mặc dù trên đó viết tên "Jane Doe" nhưng ta biết mẫu máu này thực sự là của ai. Cô ta không còn nằm trong Bộ phận chăm sóc đặc biệt. Cô ta đã được chuyển đến phòng 538 - phòng phẫu thuật.

    Ta đặt ống nghiệm vào khay cùng hơn một chục ống khác. Chúng được đậy nút cao su màu xanh dương, màu tím, đỏ và xanh lá cây. Mỗi màu biểu thị một quá trình khác nhau cần thực hiện. Các nút màu tím là để đếm mẫu máu, nút màu xanh là thử nghiệm đông máu, nút màu đỏ là phân tích hóa chất và điện phân. Trong vài ống có nắp màu đỏ, máu đã đông lại thành những cột chất lỏng sẫm màu. Ta nhìn qua đống đồ trong phòng thí nghiệm, rồi tìm thấy miếng giấy dành cho Jane Doe. Sáng nay bác sỹ Cordell đã yêu cầu kiểm tra hai việc: đếm toàn bộ lượng máu và điện phân huyết thanh. Ta đã xem kỹ toàn bộ yêu cầu trong phòng thí nghiệm đêm qua và thấy bản sao một yêu cầu khác có tên của bác sĩ Cordell với tư cách bác sỹ điều trị.

    Họ đã xét nghiệm bọt khí máu trong động mạch sau khi rút ống thở. Hai lít ô-xi được truyền bằng gạc mũi.

    Ninn Peyton đã được rút ống thở. Cô ta đang tự thở, hít không khí mà không cần hỗ trợ y tế. Cô ta nghĩ cô ta đã thắng trận này. Cô ta nghĩ cô ta là vị cứu tinh của Nina Peyton. Đã đến lúc dạy cho cô ta một bài học. Đã đến lúc cô ta học sự nhạo báng là gì.

    Ta cầm điện thoại và gọi cho Bộ phận Ăn kiêng của bệnh viện. Một người phụ nữ nhấc máy. Giọng cô ta nghe có vẻ đang bận, có tiếng khay dụng cụ rơi loảng xoảng. Đã sắp đến giờ ăn tối và cô ta không có thời gian để trò chuyện linh tinh.

    - Đây là nhánh phía Tây số năm - ta nói dối - Tôi nghĩ có thể chúng ta đã bị lẫn yêu cầu về chế độ ăn kiêng của hai bệnh nhân. Cô có thể cho tôi biết chế độ ăn kiêng cô đã lập cho bệnh nhân phòng 538 không?

    Cô ta dừng lại, gõ lên bàn phím và đọc thông tin.

    - Các chất dịch trong - cô ta trả lời - Đúng không?

    - Đúng, đúng vậy. Cảm ơn! - Ta gác máy.

    Trong bài báo sáng nay, bọn họ nói Nina Peyton vẫn trong tình trạng hôn mê và tình hình rất nguy kịch. Điều đó không đúng. Cô ta tỉnh rồi.

    Catherine Cordell đã cứu mạng cô ta, và ta biết trước điều đó.

    Một bác sỹ chuyên mở tĩnh mạch đi đến chỗ ta, rồi đặt khay dụng cụ đầy ống nghiệm máu vào hộp. Bọn ta cười với nhau như mọi ngày. Hai đồng nghiệp thân thiện luôn tự động nghĩ ra những điều tối đẹp nhất để gán cho nhau. Cô ta trẻ trung. Hai bên ngực áo phồng lên như hai quả dưa sau lần vải trắng. Răng cô ta rất trắng và đều. Cô ta cầm một xấp yêu cầu của phòng thí nghiêm, vẫy vẫy rồi ra ngoài. Ta tự hỏi không biết máu cô ta có vị mặn không.

    Những chiếc máy kêu ầm ĩ. Tiếng ồng ộc liên tục như một điệu hát ru.

    Ta lại gần chiếc máy tính, tìm danh sách bệnh nhân ở nhánh phía Tây số năm. Có hai mươi phòng trong bộ phận đó. Nó được xếp theo hình chữ H và phòng y tá nằm ở thanh giao nhau của chữ H. Ta cuộn dọc danh sách bệnh nhân, tổng cộng có ba mươi ba người. Ta lướt nhanh qua tuổi tác và chẩn đoán của từng người. Ta dừng ở số thứ tự mười hai, trong phòng 521.

    Ông Herman Gwadowski, sáu mươi chín tuổi. Bác sỹ điều trị: bác sỹ Catherine Cordell. Chẩn đoán: sử dụng thủ thuật mở bụng khẩn cấp do chấn thương phức tạp ở bụng.

    Phòng 521 nằm ở cánh song song với phòng của Nina Peyton. Từ phòng 521 có thể thấy phòng của Nina Peyton.

    Ta nhấp vào tên Gwadowski và xem sơ đồ quá trình thực hiện trong phòng thí nghiệm dành cho ông ta. Ông ta đã nằm viện hai tuần. Hồ sơ của ông ta chạy hết màn hình này đến màn hình khác. Ta có thể hình dung ra cánh tay của ông ta, mạch bị những mũi tiêm đâm chi chít và tím bầm. Căn cứ vào lượng đường trong máu, ta thấy ông ta bị bệnh tiểu đường. Lượng bạch cầu của ông ta chứng tỏ ông ta bị nhiễm bệnh gì đó. Ta cũng nhận thấy có những khối vi khuẩn hình thành do vết thương ở chân. Bệnh tiểu đường đã ảnh hưởng đến sự lưu thông của máu trong tứ chi và phần thịt ở chân ông ta đã bắt đầu bị hoại tử. Ta cũng thấy một cụm vi khuẩn hình thành trên bông gạc ở tĩnh mạch chủ của ông ta.

    Ta đọc kỹ phân tích điện phân của ông ta. Nồng độ chất kali đang dần tăng lên. Hai tuần trước là 4,5. Tuần trước là 4,8. Hôm qua là 5,1. Ông ta già rồi. Hai quả thận bị tiểu đường của ông ta đang cố thải chất độc ra mỗi ngày và chúng đọng lại trong mạch máu. Các chất độc như kali chẳng hạn.

    Ta chẳng cần tốn nhiều sức để khiến ông ta lao xuống vực.

    Ta chưa bao giờ thấy ông Gwadowski - ít ra là chưa đối mặt bao qiờ. Ta lại gần khay dựng ống xét nghiệm máu đươc để trong ngăn và nhìn các mã số. Ngăn này dành cho cánh phía Đông và Tây số năm. Có hai mươi ống trong những khe khác nhau. Ta tìm thấy một ống nút đỏ của phòng 521. Đó là mẫu của ông Gwadowsky.

    Ta cầm ống nghiệm lên, xem nó thật kỹ, rồi từ từ đưa nó ra chỗ sáng. Nó không bị đóng cục. Chất lỏng bên trong sẫm màu và hơi lợ, như thể kim tiêm đã đâm thủng mạch của ông Gwadowsky và khiến những chất bị ứ đọng trào lên.

    Ta mở nút ống nghiệm, hít một hơi chất bên trong. Ta thấy mùi nước tiểu của một ông già, vị ngọt ôi thối của một thứ bệnh truyền nhiễm. Ta thấy một cơ thể đã bắt đầu thối rữa. Bộ não dường như không chịu chấp nhận sự thật là toàn bộ tế bào quanh nó đang chết dần.

    Bằng cách này, ta đã làm quen với ông Gwadowsky.

    Tình bạn đó sẽ không lâu bền.

    Angela Robbins là một y tá tận tâm. Cô bực mình vì liều thuốc kháng sinh của ông Herman Gwadowsky lúc mười giờ vẫn chưa được đem đến. Cô đến chỗ nhân viên ở cánh bệnh viện số năm và nói:

    - Tôi vẫn đang chờ thuốc truyền cho ông Gwadowsky. Cô có thể gọi bên Dược lần nữa được không?

    - Cô đã kiểm tra xe mang thuốc chưa? Xe được đưa đến lúc chín giờ.

    - Trên đó chẳng có gì cho ông Gwadowsky. Ông ấy cần một liều Zosyn để truyền ngay bây giờ.

    - Ồ, tôi nhớ rồi - Nhân viên đó đứng lên, lấy một cái hộp để trên nóc tủ - Một trợ lý tầng bốn vừa mang nó lên cách đây không lâu.

    - Tầng bốn à?

    - Túi thuốc bị gửi nhầm tầng - Nhân viên đó kiểm tra nhãn thuốc - Gwadowsky, phòng 521A.

    - Đúng - Angela nói, rồi cầm túi truyền. Trên đường về phòng, cô đọc nhãn, xác nhận lại tên bệnh nhân, bác sỹ điều trị và liều thuốc Zosyn đã được thêm vào túi muối khoáng. Có vẻ như tất cả đều đúng. Mười tám năm trước, khi Angela là một y tá mới ra trường. Khi đó cô là y tá đã đăng ký và chỉ được phép vào phòng cung cấp đồ của khu bệnh viện, cầm túi dịch truyền và bổ sung thêm những dụng cụ y tá khác. Khi đó những y tá bất cẩn đã mắc lỗi, vài người còn bị đưa ra kiện cáo. Giờ mọi việc đã thay đổi. Giờ ngay cả một túi muối truyền đơn giản được cho thêm kali cũng phải được phòng dược của bệnh viện kiểm tra. Đó là một lớp bảo vệ khác, một quy trình được cộng thêm vào cơ chế hoạt động vốn đã phức tạp của dịch vụ y tế. Angela không thích điều đó. Nó khiến túi truyền của cô đến chậm những một giờ.

    Cô chuyển ống tiêm của ông Gwadowsky sang túi truyền mới, rồi treo nó lên thanh truyền. Trong khi cô làm việc đó, ông Gwadowsky nằm bất động. Ông ấy đã hôn mê suốt hai tuần và đã có mùi xác chết. Angela đã làm y tá đủ lâu để nhận ra thứ mùi đó. Bất cứ khi nào phát hiện thấy nó, cô sẽ lẩm bẩm với các y tá khác.

    - Người này sẽ không qua khỏi - Đó là điều cô nghĩ lúc này, khi cô tăng tốc độ truyền và kiểm tra những tín hiệu cơ bản của bệnh nhân. Người này sẽ không qua khỏi. Nhưng cô vẫn thực hiện công việc của mình cẩn thận như với những bệnh nhân khác.

    Đã đến lúc tắm xà bông. Cô mang chậu nước ấm đến bên giường, nhúng khăn tắm và bắt đầu lau mặt cho ông Gwadowsky. Ông nằm há hốc miệng, lưỡi khô, đầy gai. Giá như họ có thể để ông ấy ra đi. Giá như họ có thể giải thoát cho ông khỏi địa ngục này. Nhưng con trai ông thậm chí không cho phép thay đổi tình trạng hôn mê của ông. Và do đó ông vần sống nếu người ta muốn gọi đó là sống. Tim ông vẫn đập trong cơ thể đang sắp rữa ra.

    Cô cởi quần áo bệnh viện của bệnh nhân, kiểm tra vùng da có đường tĩnh mạch, vết thương hơi tấy đỏ khiến cô lo lắng. Họ đã tháo hết ống truyền trên cánh tay. Lúc này, đây là đường truyền duy nhất của họ. Angela rất tỉ mỉ trong việc giữ cho vết thương sạch sẽ và thay băng gạc liên tục. Sau khi lau chùi xong, cô sẽ thay khăn phủ.

    Cô lau phần thân dưới, miết khăn tắm ngang sườn người bệnh. Cô có thể biết là trước đây ông ấy không hề lực lưỡng. Và những gì còn lại trên ngực ông giờ chỉ là một lớp da bọc xương.

    Cô nghe thấy tiếng bước chân và không vui khi thấy con trai ông Gwadowsky vào phòng. Anh ta chỉ nhìn qua rồi đưa mình vào thế gây gổ với cô - anh ta là loại đàn ông như vậy, luôn đào bới sai lầm và điểm yếu của người khác. Anh ta thường làm vậy với chị gái mình. Có lần, Angela nghe thấy họ cãi nhau và phải cố lắm mới không ra can ngăn và bảo vệ cho cô chị. Rốt cuộc thì đây không phải là nơi Angela được phép giảng cho cậu con trai này một bài về thái độ nạt nộ của anh ta. Nhưng cô cũng không cần quá thân thiện với anh ta. Vì vậy, cô chỉ gật đầu và tiếp tục với khăn tắm.

    - Bố tôi sao rồi? - Ivan Gwadowsky hỏi.

    - Không có gì thay đổi - Giọng cô lạnh lùng. Cô ước anh ta bỏ đi, kết thúc nghi lễ cỏn con là giả vờ quan tâm và để cô tiếp tục công việc. Cô đủ sâu sắc để hiểu tình thương chỉ là một phần lý do rất nhỏ khiến anh ta ở đây. Anh ta quan tâm vì đó là điều anh ta đã quen làm. Anh ta sẽ không bỏ qua cơ hội để được kiểm soát người khác, thậm chí là Thần chết.

    - Bác sỹ đã đến thăm bố tôi chưa?

    - Sáng nào bác sỹ Cordell cũng đến.

    - Cô ta nói sao về việc bố tôi vẫn hôn mê?

    Angela cho bông tắm vào chậu, đứng thẳng lên nhìn anh ta.

    - Tôi không chắc mình nên nói gì, thưa ông Gwadowsky.

    - Bố tôi sẽ như vậy bao lâu nữa?

    - Cho đến khi nào anh bắt ông như vậy.

    - Cô có ý gì?

    - Anh không nghĩ là sẽ tốt hơn nếu để ông ấy ra đi sao?

    Ivan Gwadowsky trừng mắt nhìn cô.

    - Đúng, cho người khác sự sống dễ hơn đúng không? Và như vậy sẽ có một giường bệnh trống.

    - Đó không phãi là lý do tôi nói vậy.

    - Tôi biết dạo này bệnh viện được chi trả thế nào. Bệnh nhân ở quá lâu và các vị ăn hết chi phí.

    - Tôi chỉ muốn nói điều tốt nhất cho bố anh.

    - Điều tốt nhất là bệnh viện phải làm phần việc của mình.

    Để không nói điều gì phải hối hận, Angela quay đi, lấy bông tắm trong chậu, run rẩy vắt kiệt nước. Đừng đôi co với anh ta. Hãy làm công việc của mình thôi. Anh ta là loại người đòi chiến thắng đến cùng.

    Cô đặt tấm khăn ướt lên bụng bệnh nhân. Khi đó, cô mới nhận ra bệnh nhân không còn thở nữa.

    Lập tức, cô bắt mạch ở cổ.

    - Chuyện gì thế? - Anh con trai hỏi - Bố tôi ổn chứ?

    Cô không trả lời. Cô chạy ngang qua anh ta, lao ra hành lang.

    - Hôn mê sâu! - Cô hét lên - Hãy gọi Bộ phận hôn mê sâu, phòng 521!

    Catherine lao ra khỏi phòng bệnh của Nina Peyton, rẽ vào khúc ngoặt dẫn sang hành lang tiếp theo. Mọi người đã tụ tập đầy đủ trong phòng 521 và còn dồn ra ngoài hành lang, ở đó một nhóm sinh viên thực tập đang tròn mắt nhìn, rướn cổ nhìn vào phòng bệnh.

    Catherine lao vào phòng, hét to trong đám người nháo nhác:

    - Có chuyện gì?

    Angela, y tá chăm sóc ông Gwadowsky nói.

    - Ông ấy vừa ngừng thở! Không có mạch.

    Catherine đi thẳng đến bên giường bệnh. Cô thấy một y tá khác đã đeo mặt nạ dưỡng khí cho bệnh nhân và bơm ô-xi vào hai lá phổi. Một sinh viên thực tập ép lên ngực bệnh nhân. Mỗi lần cậu ta ép ngực là một lần bơm máu vào tim người bệnh, ép máu chảy qua động mạch và mao mạch, truyền lên các cơ quan khác và não.

    - Đã gắn các tấm chì điện tâm đồ! - Ai đó hét lên.

    Catherine nhìn màn hình. Màn hình cho thấy đã có hiện tượng sợi cơ hình thành trên tâm thất. Các khoang tim không co bóp nữa. Các bó cơ riêng lẻ đang co lại và tim bị biến thành một bó cơ mềm nhũn.

    - Xạc điện chưa? - Cathenne hỏi....

    - Một trăm jun.

    - Làm ngay đi!

    Cô y tá đặt các tấm điện tim lên ngực bệnh nhân và hét to.

    - Tất cả lùi lại!

    Tấm ép tim được xạc điện, truyền một luồng điện mạnh vào tim bệnh nhân. Cơ thể ông giật mạnh trên giường như một con mèo bị ném lên vỉ nướng đang nóng.

    - Vẫn không có mạch.

    - Truyền một miligam epinefrin! Rồi sốc điện cho ông ấy lần nữa ở mức một trăm jun - Catherine nói.

    Một viên epinefrin được hòa vào dung dịch truyền.

    - Lùi lại!

    Một cú sốc khác được truyền từ luồng điện. Toàn thân bệnh nhân lại nảy lên.

    Trên màn hình điện tâm đồ, nhịp tim lao vút lên rồi hạ xuống thành một đường thẳng. Đó là những cơn co thắt cuối cùng của quả tim đang yếu dần.

    Catherine cúi nhìn bệnh nhân và nghĩ: làm sao tôi có thể làm sống lại một đống xương bọc da thế này?

    - Cô muốn tiếp tục không? - Một sinh viên thực tập hỏi. Cậu ta vừa thở dốc, vừa ép tim. Một giọt mồ hôi chảy dọc má cậu ta.

    Tôi không muốn ông ấy bị hôn mê, cô nghĩ. Và lúc cô định chấm dứt chuyện đó thì Angela thì thầm vào tai cô.

    - Cậu con trai đang ở đây. Anh ta đang theo dõi.

    Catherine quay ngoắt lại nhìn Ivan Gwadowsky đang đứng ở cửa. Lúc này cô không còn lựa chọn nào khác. Nếu có bất cứ biểu hiện nào cho thấy cô không cố hết sức thì cậu con trai sẽ kiện cô ra tòa.

    Trên màn hình, đường điện tâm đồ chạy như những con sóng trên biển khi có bão.

    - Hãy làm lại! - Catherine nói - Lần này tăng lên hai trăm jun. Hãy đưa máu đến phòng phân tích!

    Cô nghe thấy ngăn kéo xe chứa dụng cụ gây mê kêu cọt kẹt. Những ống nghiệm đựng máu và một xi-lanh xuất hiện.

    - Tôi không bắt được mạch!

    - Hãy dùng mạch ở khuỷu tay!

    - Lùi lại!

    Mọi người lùi ra khi những tấm ép tim được nạp điện.

    Catherine nhìn màn hình, hy vọng cú sốc dành cho người bại liệt ở mức hai trăm jun sẽ làm quả tim bơm máu trở lại. Nhưng đường tim lại sụt xuống thành một đường thẳng.

    Một liều epinefrin khác được tiêm vào ống truyền.

    Cậu sinh viên thực tập đỏ mặt, toát mồ hôi, lại tiếp tục ép ngực. Một đôi tay khác ấn lên túi cứu thương, bơm ô-xi vào phổi nhưng việc đó như thể họ đang cố bơm sức sống vào một vỏ đậu khô cong. Catherine nghe thấy sự thay đổi trong giọng nói của những người đứng quanh. Những giọng nói nhanh và gấp đã không còn. Thay vào đó, chúng trở nên yên bình và tự động hơn. Giờ đó chỉ là một thủ tục, họ không thể ngăn điều tất yếu xảy ra. Cô nhìn quanh phòng, nhìn hơn một chục con người vây quanh giường và thấy quyết định cuối cùng đều đã rõ. Họ chỉ chờ cô nói ra.

    Cô nói.

    - Gọi nhà xác! - Cô nói - Bây giờ là mười một giờ mười ba phút.

    Mọi người im lặng lùi lại và nhìn vật chứng của sự thất bại của chính họ. Đó chính là ông Herman Gwadowsky đang nằm bất động trong một đống dây điện và ống truyền. Một y tá tắt màn hình điện tâm đồ, màn hình trống trơn.

    - Sao không dùng máy điều hòa nhịp tim?

    Catherine đang định ký vào tờ giấy chuyển xuống nhà xác.

    Cô quay lại, thấy con trai của bệnh nhân đã vào phòng.

    - Chẳng còn gì để cứu vãn - cô nói - Tôi xin lỗi. Chúng ta không thể làm quả tim của ông ấy đập lại nữa.

    - Sao họ không dùng máy điều hòa nhịp tim trong trường hợp này?

    - Chúng tôi đã cố hết sức...

    - Tất cả những gì các vị làm là chỉ sốc điện cho bố tôi.

    Tất cả sao? Cô nhìn quanh phòng, nhìn bằng chứng về sự nỗ lực của họ. Các ống tiêm đã sử dụng, các loại thuốc tốt nhất và những túi đựng viên tròn. Đó là các dụng cụ y tế còn lại sau mỗi lần đấu tranh. Tất cả những người khác trong phòng đều đang theo dõi, chờ xem cô sẽ xử lý việc này thế nào.

    Cô đặt bảng ghi chép đang viết dở xuống. Những lời nói tức giận đã chực bay ra khỏi miệng cô. Nhưng cô không nói lên những lời đó. Thay vào đó, cô lao về phía cửa.

    Đâu đó trong khu vực phòng bệnh, một phụ nữ hét rất to.

    Lúc Catherine lao ra khỏi phòng, các y tá đứng ngay sau cô. Cô quặt gấp ở góc rẽ, thấy một y tá cấp cứu đang đứng ở hành lang, khóc thút thít và chỉ về phía phòng bệnh của Nina Peyton. Ghế bên ngoài phòng bệnh trống không.

    Phải có một cảnh sát ở đó chứ. Anh ta đâu rồi?

    Catherine đẩy cửa bước vào và đứng bất động.

    Đầu tiên cô thấy máu, một vệt máu đỏ tươi chảy dọc trên tường. Rồi cô nhìn bệnh nhân của mình nằm úp mặt trên sàn. Nina ngã ở đoạn giữa giường bệnh và cánh cửa, như thể cô ấy đã cố đi thêm vài bước trước khi gục ngã. Ống truyền của cô ấy đã bị rút ra. Dung dịch muối nhỏ từ đầu ống mở xuống sàn nhà. Nó đọng lại thành một vũng lớn, bên cạnh đó là một vũng máu còn lớn hơn.

    Hắn đã ở đây. Tên Bác sỹ phẫu thuật đã ở đây.

    Mặc dù bản năng trong cô la hét, giục cô bỏ chạy, chạy trốn, nhưng cô buộc mình bước về phía trước, quỳ gối bên Nina. Máu thấm ướt quần cô và vẫn còn ấm. Cô lật mình Nina lên.

    Chỉ cần nhìn khuôn mặt trắng bệch và cặp mắt trừng trừng của Nina, cô biết cô ấy đã chết. Chỉ một lúc trước, tôi vẫn thấy tim cô đập.

    Catherine từ từ thoát khỏi nỗi kinh hoàng, cô ngẩng lên và thấy những khuôn mặt lo sợ.

    - Cảnh sát - cô nói - Cảnh sát đâu rồi?

    - Chúng tôi không biết.

    Cô chầm chậm đứng lên. Những người khác lùi lại, tránh đường cho cô. Cô không bận tâm là mình đang lê theo vết máu, cô ra khỏi phòng. Mắt cô điên cuồng tìm kiếm khắp hành lang.

    - Ôi lạy Chúa! - Một y tá nói.

    Ở cuối hành lang, một vệt màu đen đang chảy trên sàn. Máu! Nó chảy ra dưới cánh cửa phòng cung cấp đồ.


Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-10-2019, 01:27 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-22-2016, 01:30 PM
  3. Canh thịt nạc nấu chua, nấm nhồi tôm
    By sophienguyen in forum Món Chính Chọn Lọc
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-25-2016, 01:53 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-27-2015, 12:04 PM
  5. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-08-2015, 01:52 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •