Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Một khoảnh khắc hạnh phúc là một niềm vui bất diệt.
Figuiere
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 18 of 18

Chủ Đề: Giao Thừa

  1. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Lương


    (cũng là "Bến đò xóm Miễu")

    Lương chèo đò mướn năm mười hai tuổi. Nhà Lương nghèo, chỉ là cái chòi rách tả tơi, từ ngày đi theo đò. Lương ăn, ngủ trên bến đò, nên nhà đã bỏ hoang hẳn. Suốt ngày quần quật trên sông mà bộ mình đã khẳng khiu chỉ độc cái quần tà lỏn dính đầy nhựa trong của thời làm sai vặt ở các trại xuồng. Lương không cha, má chết sớm nên cái quần dãn dây thun không ai may lại, nó tuột luốt mỗi lần Lương thót bụng rướn người trên đôi chèo.

    Bây giờ cũng còn vài người nhớ dai nhắc hoài cái tướng Lương hồi đó. Bây giờ Lương ba mươi hai tuổi. Anh đã chèo hết thảy chín xác đò. Bến đò Đậu Đỏ qua xóm Miễu sang đi nhượng lại qua tay bốn người chủ. Mà, Lương vẫn còn nghèo. Lương khoe, nghèo, cực nhưng vui lắm. Ngày trăm lượt chèo nát mặt sông từ bến xóm Miễu qua bến chợ, anh chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi cuộc đời, người xóm Miễu già đi, những thằng con trai, đứa con gái lấy nhau sinh ra nhiều thiệt nhiều đứa trẻ. Và những đứa trẻ lớn lên...

    Chỉ Lương là già câng già cấc, già cóc thùng thiếc rồi mà chưa lấy vợ. Hỏi Lương, Lương cười hì hịch: "Tui xấu muốn chết, ai mà thèm ưng...". Lương xấu trai thiệt. Tướng Lương nhỏ xíu, teo héo. Đầu to, tóc dày, cứng, cháy nắng. Một bên mắt lé xẹ. Ai cũng cười: "Cái thằng, mầy chèo mà không ngó đằng trước, ngó đâu trật lất vậy?". Lương không giận tựa như không biết giận. Cái thân nhỏ mồ côi mồ cút, nghèo xác xơ mà bày đặt giận cuộc đời thì làm sao sống nổi. Suốt ngày Lương hệch miệng ra cười, làm như vui, làm như không, khó nắm bắt. Trong Lương như một người trí não chậm phát triển. Lương khoái cặp mắt mất đoàn kết của mình lắm, người ta nhìn anh biết, chứ anh mà nhìn lại, người ta tưởng anh ngó đâu đâu.

    Bông cũng bị Lương nhìn như vậy. Nhà Bông cũng ở bên xóm Miễu, gần chòm mả Tiều. Lương biết Bông từ hồi Bông còn đi học. Bông mê đi đò, lần nào nó cũng năn nỉ Lương lén bà chủ bến cho nó ăn gian thêm mấy bận nữa. Nó ngồi đằng mũi xuồng, thò chân xuống nước quậy quậy chơi. Lương bảo dưới sông nhóc cá sấu, Bông tin liền. Sao mà Bông dễ tin vậy. Ngày nào, Bông cũng mặc chỉ một cái áo trắng bằng vải soa lông vịt, chiếc áo hơi ố vàng, rộng thùng thình. Tan học, Bông cùng một bầy em lít chít đi mót cây vụn ở các trại xuồng về nấu cơm. Má nó có một chiếc xuồng cũ, hai bên be bể như cá chốt rỉa, vớt bọc dưới sông. Ba nó đi nhậu, nhậu xong về đánh má con nó. Lớn lên, mỗi lần qua đò, Bông thôi vọc nước nhưng đăm đăm nhìn ra xa. Con sông Thủ đến ngã ba Vàm bỗng cuồn cuộn quặn đau khi hoà sông Gành Hào ra biển.

    Bông lớn mau lắm. Chuyện đó không biết có mắc mớ gì mà tự nhiên Lương khoái soi mình xuống sông, những khi vắng khách, Lương ngồi mằn mằn lấy cồi mấy hột mụn trên mặt. Lương than với bà Tư, chủ bến "Lúc này dì thấy tui đen không?" Bà Tư cười," Chà, hỏi kiểu này chắc biết làm điệu rồi. Muốn vợ hả? Mầy ráng dành dụm tiền, mai mốt có vợ rồi tao sang lại bến đò cho mà làm ăn". Con mắt lé thờ ơ nhìn chỗ khác, nhưng con mắt còn lại thắp lửa lên. Mắc mớ gì Lương nghĩ tới Bông.

    Bông thôi học. Bữa cuối tan trường, qua tới bờ xóm Miễu, Bông không chịu lên, nó biểu Lương cho nó đi thêm bận nữa, từ mai nó đã thôi học rồi. Từ mai, nó vẫn qua đò, nhưng nó đã khác, con Bông đã khác.

    Con Bông đã khác. Buổi sáng, Bông mặc áo rách qua chợ, buổi chiều về. Trên mình là váy ngắn, áo yếm, vai quàng hờ hững hai cái dây nhỏ xíu có cũng vậy mà không có cũng vậy, vịn hờ cái áo khỏi tuột xuống. Bông hỏi Lương: "Thấy tui đẹp hôn?" Lương hệch miệng ra cười: "Đẹp dữ dằn luôn". Bông lườm một cái rồi hất mặt đi, "Đẹp khỉ khô gì, tui đâu có ham". Bông bước lên bờ, đạp đạp mũi đò ra.

    Đám em Bông mặc áo mới tới trường. Má Bông sắm được chiếc xe đẩy bán bánh mì thịt dài dài qua các hẻm. Ba Bông đi nhậu về, đã ngủ rất say.

    Người xóm qua đò xầm xì Bông đi bán bia bên cầu, quán "Đêm sầu". Bốn giờ chiều, Lương đưa Bông qua chợ. Bông nói giờ đó quán chưa có khách đâu, nhưng con mẹ chủ bắt phải mặc quần lửng ngồi ngoài băng đá đằng trước quán. Một bầy con gái ra đó giả đò ngắm mây trôi, coi xe cộ qua lại chơi nhưng thật ra là để chào hàng. Bông trở về lúc hai ba giờ sáng, quần áo xốc xếch, tóc mai dính bết vào khuôn mặt đậm đà son phấn. Đôi mắt dại đi vì say, vì mất ngủ, người sềnh sệch mùi bia, đến nỗi Bông ngồi gần, Lương hít hơi men muốn xỉu luôn.

    Lương ăn trên sông, ngủ trên sông nên không biết ở phía bờ, người ta đưa đẩy cuộc đời Bông như thế nào. Nhưng thế nào thì Bông chắc cũng giãy giụa, quặn đau như nước ở ngã ba Vàm vậy. Bởi vì Lương tin Bông, Lương hiểu Bông mà.

    Dăm bữa, Bông rút trong áo ra một nắm tiền, xoè ra tròn như chiếc quạt, phơ phất mát mặt Lương, Bông cười,"tui giàu rồi". Lương lắc đầu, Bông biểu Lương chèo đi, chèo hết đêm nay. Lương chèo trong những ánh đèn hắt ra từ hai bên bờ xóm chợ. Bông nhìn ra sông, cái nhìn vẫn buồn như lúc trước nhưng nó đã đanh đi, chai lì đi. Lương nhìn mà Bông đâu có hay. Lương hỏi Bông bộ tính làm như vầy hoài sao. Bông cười, chừng nào có người cưới tui. Lương hỏi, "Xấu xấu Bông chịu không?". Bông cười, "Thân tui gì còn kén chọn nữa, khùng?".

    Lương mà khùng ? Hỏng dám đâu. Lương ngồi gãy tay, gãi đầu hỏi bà Tư coi bà còn nhớ lời hứa hồi trước không, bà cười,"Nhớ, nhớ chớ sao không? Tiền mày gởi tao, dư sức qua cầu rồi". Nhưng bà không biết đâu, Lương còn nhiều dự tính nữa, anh muốn cất lại căn nhà đã bỏ hoang lâu rồi. Lương muốn đóng một chiếc đò mới, cẩn vỏ xe quanh be, lấp dầu trong, cho từng sớ gỗ đỏ au au.

    Lương đi xin cây vụn về để sẵn dưới sạp, rảnh rảnh, anh lấy ra, cưa đẽo đóng một cái hộp đựng tiền nho nhỏ, nhiều ngăn. Ngăn đựng giấy bạc hai trăm, năm trăm, ngăn đựng giấy bạc một ngàn. Lương mua giấy nhám về đánh cho nó bóng lên, rờ tay cho mát rượi. Lương giấu nó đi để khỏi ai trông thấy, sợ người ta hỏi tới hoài. Lương nói thiệt, người ta cười, bảo Lương cầu cao... Mắc cỡ lắm. Mà, anh còn chưa nói với Bông.

    Nhưng Bông đã nói trước, Bông khoe, "Chắc tui bỏ nghề, tui lấy chồng". Lương rà mái chèo cho đò cặp bến, Lương hỏi Bông lấy ai? Bông cười: "Cái ông hồi nãy đưa tui về". Lương muốn sụm bộ giò, lặng người mà miệng vẫn cười hịch hạc, "Sướng nghen".

    Ông già vẫn thường đưa Bông về xóm Miễu. Người ta nói, con Bông ham giàu nên ráng kêu ông ngoại đó bằng anh. Bông giẫm cái cười của cuộc đời lên đôi giày cao hai tấc, đường kính gót một phân. Bông chờ ngày lấy chồng.

    Nhưng bà già, vợ ông già không chịu, bà lùa bầy con qua nhà, rọc nham nhở mái tóc dài của Bông, xé quần áo, lột sạch những món đồ trang sức Bông đang đeo. Chuyến về, đám người đó qua sông. Lương trừ trừ chờ canô chạy qua rồi nương theo sóng lớn nhận chìm đò luôn. Bà già suýt chết đuối, may nhờ Lương ngoi ngóp kéo lên bờ. Bà vừa níu Lương vừa chửi: "Đồ không có văn hoá, đồ thất học". Lương cười hề hề, sao bà chửi câu nào trúng câu đó vậy.

    Bông biết chuyện, Bông nói trong ngân ngấn nước mắt "Làm chuyện đó chi vậy, Lương? Của người ta thì trả lại cho người ta đi. Sao mà tui dễ tin người quá vậy không biết". Lần đầu tiên, Bông gọi Lương theo đúng tên của anh chứ không kêu "khùng", kêu "đò" nữa. Lương sướng tê người đi. Bông ngồi chỏi tay ra ngoài sau, ngẩng mặt lên nhìn Lương như chị Hai nhìn thằng Út, như con chó Vá nhìn đống thóc.

    - Tui biết anh thương tui mà, Lương.

    Lương cười. Khuya đó về, sông vắng. Lâu lâu mới có một chiếc xe chở cát, chở dầu tạch tạch đi qua, ánh đèn đỏ lòm xa xa như ánh nến. Bông biểu có thương Bông thì ngồi lại gần Bông đi. Nước đứng rồi, đò có trôi đi đâu mà sợ. Hai đứa ngồi một bên be xuồng, nó nghiêng nghiêng lơ lửng. Bông biểu Lương nắm tay nó đi, Lương không dám, hai đứa cách nhau chừng bốn gang rưỡi. Lương nín khe hồi lâu rồi thở ra:

    - Gió mát thiệt, hen?

    - Lương!

    - Gì?

    - Ôm tui đi.

    - Ý trời, người ta dòm.

    - Thây kệ họ. Ôm tui đi

    - Thôi

    Bất thần, Bông xô Lương té ngửa xuống nước. Đợi Lương vẹt đám rác trôi lều bều, trồi đầu lên, Bông hét:

    - Chê thân tui dơ dáy, nhơ nhớp nên không dám động vô tui chớ gì. Vậy mà thương tui sao ? Đồ xấu xí, đồ khùng.

    Lương vịn một tay vô be xuồng, một tay vuốt nước trên mặt. Trong lòng anh nghĩ rất nhiều mà không nói được lời nào. Anh khờ khạo không có năng khiếu nói, lâu rày anh chỉ biết cười. Lương mà khùng? Lương chỉ không muốn mình giống như bao thằng đàn ông khác, nhìn Bông như nhìn một món đồ chơi. Bông là Bông, là con gái, là người.

    Sau nầy, Bông dửng dưng qua đò như chưa hề có cái đêm hôm đó. Bông đi với một thằng con trai mới. Thằng nầy để tóc năm năm nên Lương kêu nó bằng "Năm-năm". "Năm-năm"trẻ măng, quần áo thơm, đầu tóc thơm, chiếc xe phân khối lớn nổ tè tè ra đám khói cũng thơm. Bốn giờ, "Năm-năm" đón Bông ở đầu bến đò. Nó hất mặt hỏi Lương có biết Hồng không? Lương nói Lương chỉ biết Bông thôi. Lòng anh nghĩ, dù là Hồng, là Mai, là Cúc thì vẫn là Bông. "Năm-năm" cười sùi sụt: "Ông nội này cù lần thiệt". Bông qua sông đi rồi. Mấy bà già đi chợ về nguýt muốn rách đuôi con mắt:

    - Con gái con đứa gì mà ngồi vểnh phao câu, thấy ghét.

    Lương lặng lẽ cười. Anh đưa Bông đi rồi chở Bông về. Kỳ cục, Lương không biết rằng mỗi lần thấy Lương dại miệng kéo răng ra cười là lòng Bông quặn đau. Bông muốn nhìn thấy anh buồn, thấy trong mắt anh lộ ra một cái nhìn ghen tức. Nhưng Lương không được thông minh lắm, Lương không hiểu. Lương khùng.

    Lương không ngờ. Chiều đó anh đưa Bông tươi hồng qua sông, sáng hôm sau má Bông với đám em qua đò, mếu máo:

    - Con Bông nó bị tai nạn.

    Nghe nói Bông bị thương trong lúc đua xe cùng "Năm-năm".

    Nghe nói cột sống Bông bị tổn thương nặng. Một nửa chi dưới đã bất toại.

    Lương chỉ nghe người xóm Miễu qua đò nói lại. Lương không bỏ đi đâu được đôi chèo. Lương không rành cái gì ngoài cái bến, dòng sông, đất đai xóm Miễu. Lương ngồi tưởng tượng ở trong bệnh viện chắc Bông buồn lắm. Lương chờ Bông về.

    Bến đò xóm Miễu thay đổi chủ. Lương vẫn mãi miết chèo qua chèo lại, càn lên dòng chảy, lên sóng nước mà đi. Bông ngồi trên bến thu tiền. Nó vuốt phẳng phiu từng tờ giấy bạc lẻ nhàu vào từng ô của chiếc hộp Lương đóng ngày xưa. Người không biết qua bến nhìn Bông xinh đẹp tươi hồng rồi nhìn vẻ mặt già háp của Lương mà lòng tiếc hùi hụi, tiếc đôi đũa mốc với cái mâm son, tiếc bông lài trắng với bãi cứt trâu xanh. Người biết chuyện cười Lương khùng, cưu mang một đứa con gái lỡ lầm còn thêm chuyện không còn khả năng làm vợ.

    Nên bên kia chợ người ta gọi bến này là bến Đậu Đỏ, bên này bờ xóm Miễu, người ta kêu bến "Lương khùng".

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Một dòng xuôi mải miết

    Bữa nhậu gần tàn. Kim đã uống gần hết một lượt để từ giã ra về thì có anh thanh niên hào hển chạy lại hỏi thăm anh Kim nhà văn, còn dò đi hỏi lại có đúng là Kim viết mấy cái truyện về về những người chăn vịt mới được đọc trên đài. Kim gật đầu. Anh ta cười cái phào:

    - Vậy thì may quá. Tôi tính xong mùa lúa này sẽ lên trển tìm cho được anh. Vợ tôi cứ biểu hoài...

    Kim ngờ ngợ, không biết mình có dây dưa chuyện gì với vợ chồng anh chàng này đây. Anh hỏi, "Tôi giúp gì được cho anh ?". Anh chàng nọ ngần ngừ nhìn quanh rồi hỏi "Tôi có thể nói chuyện này cho một mình anh nghe được không?", Kim dại gì mà không gật đầu, ở lại, dễ gì rụp một cái có thể rời khỏi chiếu nhậu.

    Vậy mà cũng xà quần cả buổi, chờ cho anh chàng nọ uống chào sân hết cả thảy chín ly rượu trắng mới đi được. Hai người xuống cái bến bùm xùm những lùm đậu cộ, Kim chờ tàu Khánh Hội lên.

    - Anh viết mấy cái truyện chăn vịt hay thiệt, sành sỏi như người trong nghề, nghe bắt mê. Chắc anh đi nhiều chỗ, gặp nhiều người lắm. Tôi đang suốt lúa, nghe có nhà văn Trần Kim về Rạch Giồng để viết về vụ hè thu, tôi bỏ dãi chạy ra đây. Không biết anh nhà văn có biết người nuôi vịt chạy đồng nào tên Sáng, trạc ba sáu, ba bảy tuổi không ? Dà, vợ tôi nó trông gặp anh Sáng này tới mỏi con mắt nhưng trời đất mênh mông, tôi hỏi cùng khắp rồi, mà chưa thấy tăm hơi đâu hết. Chuyện của ba người chúng tôi cũng dài lắm anh à, anh biết, hai người với nhau thì dễ, thêm người thứ ba rắc rối lắm.

    Tôi không biết quê Sáng ở đâu, mấy lần nghe loáng thoáng ở An Bình, Phước Long gì đó. Mùa gặt năm nào anh cũng xuôi ghe chở bầy vịt đổi đồng về xóm Rạch Giồng này. Rồi cất cái chòi lợp bằng lá chuối, quây lưới cầm vịt trên khúc đê trồng so đũa. Từ chỗ này, mỗi ngày anh lang thang lùa vịt đi ăn khắp cả vạt đồng, qua tới vườn xóm Lung. Tới khi người ta bừa đất chuẩn bị sạ vụ mới, Sáng lại ra đi.

    Tôi thường trông Sáng mỗi khi mùa lúa mới về. Hai mươi hai tuổi, ông già tôi đã giao cho cái máy suốt Bình Thủy, hễ lúa chín là tôi tha thủi một mình ngủ giữ máy giữa đồng khơi. Anh nhà văn không biết chớ, ngủ trên đồng buồn thê thiết lắm. Gió thì hiu hút, gió thổi rơm rạ tả tơi, trời sao vằng vặc, đất mênh mông. Đang thèm hơi người nên gặp được ai là thương, là quý ngay người ấy. Vì vậy mà tôi quý Sáng. Những đi cho vịt đi ăn xa, chạng vạng không về kịp, Sáng cũng hay cầm vịt giữa đồng, hai đứa tôi ôm rơm tụm lại nhóm lửa, đánh bài tiến lên, uống ít ly cho ấm người. Xong rồi ca khơi khơi vài câu vọng cổ. Tôi hay hỏi Sáng chuyện đồng bãi mùa màng này nọ, về những nơi mà anh đã đi qua. Sáng lớn hơn tôi chừng năm tuổi nhưng anh già dặn, chững chạc trầm lặng hơn tôi, hơn cả tuổi của anh nhiều. Ban ngày, anh hay lội lại, khi thì xoắn tay xách lúa tiếp, lúc cho máy ăn để chúng tôi lua vội bữa trưa, có khi giúp vác cái thùng suốt lội ròng rã mươi công đất gò. Tôi ngại lắm, nhưng Sáng chỉ cười, "Một mình cũng buồn, tôi phải kiếm một việc gì đó để làm để khỏi phải mơ biến thành vịt".

    Ai sống một mình cũng buồn hết, anh nhà văn à. Nhưng Sáng ngon hơn tôi nhiều, anh kể đã nuôi vịt chạy đồng bảy năm. Tính ra thì cỡ mười lăm, mười sáu tuổi anh đã dầu dãi giang hồ. Tôi ngẩn ngơ, "Sao ông hay vậy ? Sống một mình ? Tôi mà lúc cúc một mình trên đồng khơi thể nào cũng điên". Sáng cười, nhiều người ở cạnh tôi lắm chớ. Ai đâu. Không có ở đây, nhưng tôi luôn nghĩ về họ. Tôi hỏi Sáng nghĩ tới ai. Sáng chỉ cười. Anh để ý coi, những người ít nói thì hay cười, không phải vì vui mà vì để khỏi trả lời. Rồi tự nhiên Sáng hỏi ngược lại rằng tôi đang nghĩ tới ai.

    Tôi nói tôi nghĩ tới Xuyến, tên của vợ tôi bây giờ. Cùng xóm mà, thương lúc nào cũng không nhớ, có thể hồi mười bảy hay hai mươi hay chừng tám chín tuổi gì đó... Tôi nói thiệt, hồi thương cổ, tôi lội tới lội lui thiếu điều sạt bờ dừa nhà ông già vợ. Tới lúc chiêm bao cũng thấy Xuyến là đậm lắm rồi. Mà chiêm bao ngộ lắm, lặp đi lặp lại hoài cũng cái cảnh tôi nắm tay em Xuyến xuống bến, nhưng không có chiếc xuồng nào, chờ một hồi thấy có người bơi lại, không thấy rõ mặt (thường thì chiêm bao ít thấy rõ mặt người), chỉ thấy cái lưng hơi khom, vai bè bè... giống như Sáng vậy, tới đó rồi thôi, giấc mơ đứt đoạn. Tôi kể cho Sáng nghe, hơi hồ nghi "Sao trong câu chuyện của tôi và Xuyến lại có ông vậy ta ?". Sáng chỉ cười, cái cười làm tôi quên mau, chuyện chiêm bao mà.

    Sáng cũng biết Xuyến, chỗ anh cầm vịt ngang với hậu vườn nhà Xuyến. Sáng hay qua nhà uống trà, nói chuyện mùa màng chơi với ông già vợ tôi. Có bữa anh nằm tâm sự, "Cứ mỗi lần cặp ghe vịt vô bến thấy thím Hai khum cái tay che nắng hỏi ai in thằng Sáng, thấy cô Xuyến chạy ra cửa nhoẻn cười thấy lòng vui như được trở về nhà". Cũng nghe nhiều người thắc mắc, thằng Sáng chắc có gì với con Xuyến, chớ không sao năm nào cũng cầm vịt ngay trân chỗ đó, năm nào cũng mua cho Xuyến khi thì khúc vải, lúc là cây dù... nhưng tôi ỷ y, cũng biết bao nhiêu người lui tới nhà Xuyến rồi, thấy tôi mài miết còn chịu hổng nổi dạt ra. Sáng thì một năm ở đây chừng ba mươi bữa, tôi đâu có ngán. Với lại tôi tin Sáng lắm, chính anh biểu tôi chỗ đó được, bước tới đi. Tôi bước tới.

    Bữa nay, anh nhà văn về gấp quá, nếu không thì lại nhà tôi chơi, cho biết mặt vợ tôi. Cổ đẹp, giỏi mà hiền lắm. Hiền nhưng làm toàn chuyện động trời. Tôi bị một lần, bây giờ đang ngủ nhiều lúc còn bàng hoàng thức dậy, ngồi coi có đúng người nằm cạnh mình là Xuyến không.

    Có lần, Xuyến băng đồng tìm tôi, cổ khóc, đã lỡ thương người khác rồi, nên không thể làm đám cưới, không thể lấy tôi làm chồng. Không có đám cưới nào vào rằm tháng Chạp này.

    Anh nhà văn không biết cảnh này đâu. Tôi ngồi chết lặng. Cay đắng, bỡ ngỡ, đau đớn, bàng hoàng không sao tả được. Có gì bằng vợ sắp cưới của mình lại hồi hôn. Tôi cứ ngồi lặng, đầu thì tăm tăm cái câu hỏi, "Vậy là sao ?"

    Đâu biết. Tôi hỏi Xuyến vậy chớ em đã thương ai. Xuyến trả lời, "Anh Sáng". Tôi thuận miệng hỏi bừa "Sáng nào ?", Xuyến nhìn tôi, "Anh biết mà...".

    Sao lại là Sáng ?

    Sao lại là cái người mà mới hôm qua thôi tôi còn rủ anh ở lại dự đám cưới, còn nhờ anh làm chú rễ phụ cho bữa đó tôi đỡ run. Sao anh lại nhận lời, rồi bây giờ... ?

    Dưng không tôi mất đi hai con người mà mình thương yêu nhất, đau lòng vậy mà Xuyến còn thút thít, "Anh đừng giận anh Sáng mà hại ảnh, tại em hết, chớ ảnh có nói gì đâu". Dường như Xuyến đọc được trong mắt tôi những tia hằn học. Nhưng mà tôi đâu có tử tế, cao thượng dữ vậy, tôi không giận Xuyến, thương quá, không thể giận, nhưng Sáng thì khác...

    Mà, anh nhà văn nè, theo anh thì con vịt nó có sinh mạng không ? Bà nội tôi nói cỏ cây cũng có sinh mạng vậy là đúng ? Anh biết không, có lần vì nóng giận mà tôi huỷ đi cả thảy một ngàn hai trăm mười bảy sinh mạng. Anh nhà văn sửng sốt hả, ghê quá phải hôn. Tôi lúc đó cũng vậy, cũng cảm giác như mình đang gây tội ác.

    Tôi nhớ hoài cái cảnh mình đứng trong một buổi sáng đầy sương. Xung quanh tôi vịt nằm chết sắp lớp, không khí nồng nặc mùi thuốc trừ sâu. Tôi giở một con vịt lên, dưới đôi cánh nó là một quả trứng vỡ be bét, chắc nó đã từng giãy giụa, đau đớn lắm mới đập nát cả trứng của mình. Sáng đứng tần ngần trong quây lưới, hơi ngơ ngác, như trong lòng bị đổ vỡ cái gì đó quý giá lắm.

    Nhưng không phải vì ngủ một đêm thức dậy đã trắng tay, cái cảnh người làm nghề nuôi vịt chạy đồng không lạ. Dường như Sáng xúc động, đau đớn vì những lời tôi nói, cái cây bị đốn thường không ngã về phía có ngàm búa, chắc Sáng cũng không ngờ rằng người bỏ thuốc vô mẻ lúa của bầy vịt là tôi, và vì Xuyến mà tôi làm việc đó.

    - Nếu chuyện Xuyến thương tôi là thật, Sáng bảo, thì đó là chuyện buồn nhất đời tôi. Tôi không chờ đợi điều đó.

    Tôi không tin. Có lẽ Sáng cũng biết tôi không tin, anh hỏi tôi có muốn nghe chuyện nhà anh không ? Tôi bảo không, anh nhà văn biết, hoàn cảnh đó mà ngồi nghe chuyện gì nữa, nhưng Sáng cứ kể.

    Sáng mồ côi cha từ mười tuổi, má anh cũng mất đã ba năm. Đó là người đàn bà sống hết đời không được mấy ngày vui, mấy ngày nhàn nhã. Cái xóm Rạch Giồng bé nhỏ này cũng đã giữ lại niềm vui nửa đời còn lại của má anh.

    Sáng còn một người em gái (hồi trước anh hay đùa là sẽ gã em cho tôi). Nhưng hai anh em không ở chung nhà, cả một quãng dài không gặp, anh quên cả khuôn mặt của nó. Hôm cúng giáp năm má anh, bày dĩa vịt luộc phay với nải chuối chín lên bàn, lòng Sáng bất chợt cồn cào. Sáng quyết định về Rạch Giồng. Vì nhớ má và vì muốn gặp em. Hôm gặp, em gái anh đi hái ổi cho một bầy em trai, em gái nhỏ. Nó giống má anh như tạc, giống từ vóc dáng đến cốt cách. Nhìn nó đứng chia ổi cho đám em mà thấy dịu dàng, nồng hậu biết bao.

    Nhưng anh chỉ đứng xa xa nhìn. Như hồi còn mạnh giỏi, má Sáng hay xuôi ghe lại trước nhà, lén nhìn. Sáng hỏi sao không chạy lại nói cho nó biết. Má anh biểu, hồi xưa, má hứa là sẽ không trở lại. Sáng nói cần gì phải giữ lời. Má anh nghiêm mặt, "phải giữ chớ, làm người ai lại phản trắc". Rồi má anh bảo, má nhớ em con thì buồn chút vậy, nhưng còn có thể nhìn nó lớn lên, còn không nhờ người ta, con nhỏ đâu còn.

    Đó là đứa em mà Sáng mắc một món nợ lớn. Cái hồi nghèo không đồng xu cạo gió, không cục đất chọi chim, ba anh lại trốn quân dịch nên cả nhà Sáng bồng bế nhau xuống ghe trôi nổi làm mướn khắp nơi. Sáng còn bồng nèo nẹo bên nách thì má anh sinh em bé. Hoàn cảnh khó khăn, Sáng hồi đó ốm đói quặt quẹo, hay đau, mũi lúc nào cũng chảy nước chèm nhẹp. Em nhỏ lại bị sài đẹn, khóc ngằn khóc ngặt, không bú được. Không thể cứu một lúc cả hai, má anh buộc phải cho người ta đứa em gái nhỏ.

    Nghe Sáng kể lờ mờ tôi nhận ra một sự thật. Là Xuyến. Không thể tin được, bàng hoàng quá phải không anh nhà văn. Giống như cải lương, ừ tuồng gì mà Vũ Linh đau khổ tới lăn ra đất vừa giãy vừa khóc đó, Hòn Vọng Phu, ờ, hơi giống Hòn Vọng Phu.

    Vợ tôi hồi đó cũng khờ quá. Thương thầm Sáng mà không chịu nói thẳng, cứ nói xa nói gần. Hỏi Sáng sao không lấy vợ, anh trả lời, chờ cô Xuyến lấy chồng cái đã. Hỏi sao cứ mỗi lần về Rạch Giồng lại mua quà cho chi vậy, Sáng trả lời, tôi chẳng còn ai, cô Xuyến là người thân nhất. Thân nhất rồi mai mốt em có chồng, anh Sáng có buồn không, Sáng trả lời, Chuyện vui của cô mà, tôi nói buồn coi sao được, nhưng nói thiệt, tôi buồn, cô nhỏ đi rồi, đâu còn gặp nữa, năm tới tôi xuống buồn cho mà coi. Sáng trả lời thật lòng, nhưng cũng thật thận trọng từng chữ để khỏi phải hớ hênh, Xuyến thì cứ tưởng Sáng gửi tình vào trong ấy. Rồi một bữa Xuyến đi gom củi ngoài hậu vườn, gặp Sáng, Sáng bảo, anh cầm vịt ở đây hết mùa nầy rồi chắc lâu lắm mới quay trở lại. Hết mùa gặt nầy, anh sẽ rã bầy để mua cái gì có giá trị một chút làm quà cưới cho Xuyến, anh hứa sẽ ở lại đưa dâu qua tới nhà trai.

    Những lời nói đó là Xuyến mủi lòng khủng khiếp, cô quyết định không lấy tôi. Xuyến nói tôi buồn còn nhiều người an ủi, nhưng Sáng buồn chỉ có một mình, tụi vịt tối ngày lạc cạc có biết gì đâu ?

    Nhưng sau cái hôm đàn vịt của Sáng lăn ra chết không còn một con, Sáng đã đi khỏi Rạch Giồng. Tôi đứng nhìn chiếc ghe khuất mất sau doi dừa nướclặng lẽ làm một cuộc tiễn đưa. Tối lại, Xuyến tuyệt vọng hỏi tôi sao Sáng đi mất tiêu mà không từ giã gì cổ hết ? Tôi bảo không biết. Cứ mỗi lần có chiếc ghe bầu nào đi ngang qua, Xuyến lại chạy chấp chới theo triền sông tới khi chiếc ghe khuất dạng mới thôi. Nhớ lại cái cảnh đó, tới bây giờ tôi còn thương.

    Không giống như chuyện Mỵ Châu, Trọng Thủy, Sáng đã không còn con vịt nào để rứt lông để lại để tôi với Xuyến lần theo dấu. Vậy mới vất vả.

    Anh nhà văn à, anh đi nhiều, nghe truyện, tôi chắc anh lăn lộn trong giới nuôi vịt chạy đồng dữ lắm. Nếu mai nầy anh còn tính đi tiếp, có gặp anh Sáng, nhắn dùm ảnh là vợ chồng tôi chờ ở Rạch Giồng. Hồi đó, Sáng đi là để cho vợ tôi nó khỏi đau đớn, bẽ bàng, để giữ lời hứa muôn năm với ông bà già vợ tôi. Nhưng bây giờ, hết thảy mọi người đều mong anh trở lại, thâm tình cũng như nước dưới sông, có chảy đi đâu, có chém vè ở đâu cũng hợp lại một dòng xuôi chảy mãi.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Một mối tình


    Mưa vô mùa, nghĩa là hết một đợt dài lưu diễn, tôi về quê. Má tôi chặt lá, giúc nếp cặm cụi ngồi gói bánh cà bắp, nấu một nồi tám đầy vun bánh. Tôi hỏi má gói chi nhiều vậy, má cười: "Cho cha con thằng Bầu, tội nghiệp tụi nó, nhà không có đàn bà nên cũng có bánh trái gì ăn đâu...". Tôi giành: "Chừng nào bánh chín, để con đem qua bển cho. Mà, má nè, anh Hai có tính bước thêm bước nữa chưa, hả má?". Má tôi cười: "Chưa, má biểu nó hoài, mà, cái con nầy, lần nào về cũng hỏi có mỗi chuyện đó...". Mình à? Mình sao? Lần nào cũng hỏi chuyện đó à? Ủa, hỏi hồi nào sao mình không hay vậy ta?

    Tôi ngủ lưng một giấc, bánh chín, một tay tôi bưng rổ bánh, tay kia xách cây dầm xuống bến. Có xa xôi gì đâu, từ nhà tôi bơi dọc theo rạch Ô Môi, ngược lên hướng mặt trời mọc chừng trăm thước là đã tới nhà Trọng rồi, nhà trồng nhiều thiệt nhiều cây ô môi, bông đỏ, lá xanh, trái chín không ai ăn, tụi con nít móc xuống làm gươm đánh nhau chan chát. Hai bên đầu nhà trồng toàn vú sữa, cao lớn lắm, già lắm, cỗi cằn lắm, lâu rày không thấy có trái trăng gì hết. Dưới mé kinh còn nguyên một đám nga cao ngòng. Mà, hết cái xóm kinh nầy có ai có cái nhà vừa cũ, vừa xưa như nhà Trọng đâu.

    Ở nhà Trọng, có nhiều thứ mấy chục năm rồi không thay đổi. Cảnh cũ giữ nguyên đã đành, tánh tình lớp người sau cũng y chang người trước, như từ một khuôn đúc ra. Như Trọng vậy, mười năm, kể từ ngày chị Ái tôi bỏ Trọng đi, Trọng vẫn giữ nguyên cái khăn choàng tắm treo đầu sào, chiếc nón lá quai nhung đã ngả màu thâm sì, cũ mèm, giữ cây lược sừng đã gãy mất mấy cái răng với cái kiếng soi để ở đầu giường như thể chị Hai tôi vẫn còn ở đâu đây, như thể chút nữa khi tắm xong, chị sẽ bước vào, chải đầu, rồi vừa nghiêng đầu, vừa quạt hong khô tóc bên cái cửa buồng trông ra hàng lơn nước, chỉ cần một cơn gió nhẹ, lá vú sữa khô nằm trên mái nhà sẽ tuôn xuống như mưa. Sao tôi lúc nào cũng thèm ngồi ở đó, ở cái vị trí yên bình đó, nhất là bây giờ, khi tôi vừa lang thang hết một mùa nắng. Nhất là khi nghe Trọng biểu thằng Bầu ở nhà bắc nồi cơm để anh đi nhổ vài cọng bông súng nấu canh với mấy con cá vừa thả câu được hồi hôm. Tôi hỏi, đám trái giác ngoài bờ liếp còn không, thằng Bầu nói còn. "Vậy anh Hai hái giùm em một mớ nấu chua ăn, thèm quá chừng", tôi dặn với theo. Rồi Trọng quay lưng đi, không để cho tôi kịp nhìn anh kỹ; nhưng thật thà vậy, Trọng đứng lớ ngớ ở đây một hồi, thể nào không nén lòng tôi cũng ôm chầm lấy anh mà khóc. Trời ơi, cảnh nầy, người nầy, sao y chang như năm ngoái, năm kia, chỉ khác là thằng Bầu đã lớn bộn lên, và mớ tóc bạc trên đầu Trọng là thay đổi, nó trắng thêm, nhiều thêm. Tôi tự hỏi mình lòng đang nghĩ đến cái gì mà lòng đau quá vậy cà.

    Chị Ái, tôi với Trọng cùng một đám con trai con gái nữa lớn lên cùng nhau trên cái xóm rạch Ô Môi nầy. Cỡ mười bảy, mười tám tuổi, thấy Trọng thương quá, tôi nói chơi chơi với chị Ái: "Em xí thằng Trọng". Chị tôi cười ngất, xong trề môi như đưa đò "người ta mà em làm như trái bình bát chín cây vậy, bày đặt xí phần". Ba Trọng mất sớm, má đi lấy chồng ít về, từ nhỏ Trọng sống với ông nội, mười tuổi, ông nội cũng mất, đang ở tuổi con nít chưa hết con nít, người lớn cũng chưa tới người lớn, anh đã gánh vác trọng trách lo hương hoả cho gia đình. Một mình, với hai con chó, một con mèo, học xong, Trọng còn phải quần quật với chín công ruộng, một mảnh vườn đất cằn cỗi, già nua, lâu rày không thu được huê lợi gì, nhưng quý là trên đó chôn cả thảy chín cái mả ông bà, và ngôi nhà gạch đã có 3 đời, cất trên nền cao theo kiểu chữ công, ba gian nhà rộng mênh mông trông ra cái sân gạch trơn rêu, mút sân là cái hàng rào giăng ngang, đứng dưới mé sông nhìn lên, dãy rào che tầm nhìn, chỉ thấy thấp thoáng mái ngói lợp trài màu vừa xanh vừa mốc.

    Nhà Trọng có một cái lạ nữa là trên bàn thờ lúc nào cũng chong đèn, ngày tháng nầy qua ngày tháng khác, năm nầy qua năm khác, ngọn đèn truyền thống từ đời cố Trọng, nội rồi tới Trọng, không bao giờ được phép tắt. Chiều nào chị em tôi đi ngang qua cũng thấy Trọng lọ mọ ngồi lau cái bóng đèn hột vịt ám khói, châm dầu bằng cái vẻ mặt thành kính, nâng niu. Lúc đó, tôi ước thầm, phải chi Trọng ngỏ lời thương, tôi sẽ làm hết thảy công việc đó thay Trọng đến suốt đời, đến khi trở thành bà già cóc kiết, tôi giữ lửa thì hay phải biết. Nhưng Trọng thì lại thích chị Ái hơn tôi, Trọng thương thầm chị cũng nhiều như tôi thương thầm anh vậy. Vậy mà anh không biết, còn cắc cớ biểu tôi làm mai. Nên có bữa, tôi hỏi má cho hai chị em đi coi hát, tới cái đập vô xóm Chẹt, Trọng đã bồn chồn chờ sẵn, tôi trao chị cho anh, giả đò đau chân để tụt lại đằng sau một khoảng xa xa. Tới sân uỷ ban xã, Trọng với chị tôi mua vé vào coi hát, tôi ngồi ngoài đầu cầu, đập muỗi. Trọng không quên mua cho tôi một ly đá bào như để cảm ơn lắm lắm. Ngồi buồn, nghe hát văng vẳng trong kia, tuồng thì giễu nhau ong óng như gà kêu đẻ, nhưng nước mắt tôi chảy ròng ròng lúc nào không biết. Vài người trong đoàn hát thấy, họ hỏi, sao khóc mò vậy, tôi cười thưa, tại tuồng cải lương hay quá. Họ cười, sao nhạy nước mắt vậy, đi hát đi, đem nước mắt mình ra để lấy nước mắt người ta. Tôi thưa má cho lên thị xã xin vô Đoàn Cải lương Bông Tràm, lang thang nguyên một mùa nắng, mùa mưa về thăm má. Cũng có lúc gặp Trọng, kêu anh Hai ơi, anh Hai à, tuồng như anh em một nhà thương nhau lắm (ai mà biết có thương thiệt). Cũng có lúc viện cớ qua nhà thăm nom thằng Bầu, ôm nó lên, nựng nịu, đả đớt, coi nó giống Trọng ở chỗ nào, mà giống chỗ nào tôi cũng ưa. Cũng có lúc ngồi trân trân ngó chị Ái tôi mặc áo đỏ, chân xỏ guốc cao đi ngúc ngắc trong nhà, thấy không hợp mà cũng không muốn nói ra. Chị thì lại nhìn tôi, săm soi guốc giày, quần áo tôi rồi tấm tắc, "Em sướng thiệt...". Tôi cười, "Chị cũng sướng thấy mồ, anh Trọng hiền khô, lại thương vợ...". Chị cười nhẹ, "Thương thôi thì được cái gì. Chị không hợp với cảnh nhà nầy, thầy Thành nói vậy...". Tôi hỏi, thầy Thành nào, chị cười, thầy mới về dạy ở trường xã mình nè, thầy hay lại nhà chơi, chưa vợ nên hay biểu chị làm mai, tưởng chuyện gì khó, con gái xứ nầy giỏi giang thiếu gì. Có lần, thầy thấy chị ngồi lau ống khói đèn thờ, thầy bảo, xứ nầy không hợp với chị, thầy nói câu nào nghĩ lại cũng trúng. Em gặp thầy một lần coi, thầy Thành nói chuyện hay lắm, thì người ta từ thành phố xuống mà. Nghe kể chuyện trên đó rồi, chị thấy sống ở đây chán thiệt, chán thí mồ đi. Gì mà ngày nào cũng giống y ngày nấy, hổng thấy thay đổi gì hết trơn".

    Vậy rồi tôi lại đi, một bữa má tôi lên thăm, mới bước chân tới cửa đã vừa nói vừa khóc: "Con Ái tệ quá, nó bỏ chồng nó theo người ta rồi. Biết nó hư thân vậy, má thà sanh cái hột gà, hột vịt còn hơn. Thôi, hết rồi, coi như đời nầy má không coi nó là con má nữa". Rồi má hỉ mũi cái rột: "Con coi kỹ, có phải cái nhà thằng Trọng chỉ có đàn ông là sống được?". Tôi không trả lời, Trọng mà rước tôi về bên ấy, chừng nào tôi bỏ đi.

    Trời Ô Môi rộng vô cùng, đất thênh thang vô cùng bởi những khoảng trống mà chị Hai tôi bỏ lại. Má tôi xấu hổ vì con gái một dạ hai lòng, nhà có gì ăn cũng chắt chiu cho cha con Trọng, như bù đắp nỗi đau, nỗi thiệt thòi. Tôi cười thầm má tôi hoài, buồng chuối xiêm, trái mướp, nắm rau với mấy cái bánh con con làm sao bù đắp nổi một con người, sao má tôi không đem tôi qua bển để đền, tôi hy sinh liền cho má coi. Nhưng từ lúc chị Ái tôi bỏ đi, cứ mỗi lần qua nhà, Trọng lánh đi chỗ khác. Tôi buồn, trách. Thằng Bầu mới sáu tuổi nhưng đã trở thành xướng ngôn viên cho ba nó, nó biểu: "Dì út đừng có giận, ba con nói dì giống má con quá, nhìn dì, ba con chịu hổng nổi".

    Mười năm rồi, không biết đã thay đổi gì chưa. Tôi hỏi thằng Bầu lúc rày ba nó làm gì mà đen thui vậy. Thằng Bầu nói, hết mùa, ba nó chạy xuồng ra bến đò ngoài thị trấn chạy đò dọc. Nhiều công chuyện lắm, ba con nó còn coi sóc cái rẫy khóm ngoài liếp nữa.

    Trọng không nghèo, nhưng cũng chưa đủ giàu để sửa lại ngôi nhà đã bệu rệu. Mối mọt, bù xè thi nhau tấn công vào những cây cột gỗ, bộ ngựa chân quỳ, mấy cái tủ thờ, trường kỷ. Tôi nằm nghe rõ ràng tiếng bù xè nhai cây trèo trẹo. Thằng Bầu nói con mèo mướp càng già càng tệ, mỗi lần bắt được một con chuột là mỗi lần làm ngói rớt xuống, bể tan nát. Thật ra, với tài bươn chải, tháo vát, tằn tiện, lại thêm má tôi giúp đỡ, Trọng có thể cất được một cái nhà khác, gọn gàng, vừa đủ để ở.

    Tôi nói gần xa, chê chỗ nầy cây mục, chỗ kia kèo sắt gãy. Trọng nói anh cũng lo không biết căn nhà có qua nổi mùa mưa năm nay không. Không biết cha con anh có còn giữ gìn được những bức liễn chạm trổ cầu kỳ, những bức tranh vẽ cảnh đồng quê, trời đất, trâu bò, trẻ con hiền hoà, những tờ giấy dán tường vẽ truyện Trầu Cau, truyện Tấm Cám, rồi cái giường, căn buồng, cái ngạch cửa... Bữa nào mưa lớn, hai cha con cũng chạy xất bất xang bang. Tôi hỏi chạy làm gì, thằng Bầu cười: "Chạy đi lấy đồ hứng nước dột đó, dì Út". Tôi cười:

    - Anh Hai à, để vầy hoài đâu có được, thôi, cất nhà mới cho rồi, ông bà mình rồi cũng hiểu cho mình chớ chấp nhứt gì. Trọng chỉ cười nhẹ, ngó ra khoảng sân nắng. Thằng Bầu cười: "Dì Út giống hệt ngoại, biểu y chang. Ba con nói với con hoài, ba con hỏng muốn thay đổi gì hết, để má con nhớ được đường, nhớ được nhà mà về".

    Trời ơi, tới bây giờ, Trọng còn mong một ngày như thế, cái ngày mà chị tôi sẽ trở về. Chị sẽ về ư? Sẽ về à? Không biết! Chỉ biết anh giữ nguyên cảnh cũ nhà xưa là để chờ người đang sống. Tự nhiên trong bụng tôi thấy rầu. Bầu lại tròn con mắt: "Để con nấu cơm đãi dì Út một bữa, mà, chút xíu nữa cơm chín rồi, dì ở lại ăn cơm với hai ba con, trừ ngoại ra, lâu lắm nhà con mới mời cơm được một người".

    Càng lớn, thằng Bầu càng giống Trọng, tử tế, đàng hoàng lại pha thêm một chút gàn gàn. Bữa giỗ, Trọng uống hơi nhiều, nó ngồi kế bên nhắc: "Ba, ông cố nói, uống rượu có chừng thôi, uống ít còn nhiều, uống nhiều là mất hết đó". Cao hứng cỡ nào Trọng cũng ngưng lại ngay đó, ai cũng lạ khi thấy thằng con nói vậy mà cha cũng nghe.

    Bây giờ, Bầu vừa bước qua tuổi mười lăm, chưa chắc nó nhớ chuyện cũ. Hai dì cháu lụi hụi trong bếp, tôi hỏi, "Bầu, còn nhớ má hôn con?", nó ngần ngừ một lúc, nhìn quanh, rồi nó thầm thì "Con cũng hổng biết, chắc là không. Nhưng nói thiệt, con sợ ba buồn... Hồi má đi, con mới chút tẳn chớ gì...". Nó nói, có má cũng được, mà không có cũng được. Bây giờ quần áo rách, nó tự may được rồi, nhà cửa nó cũng dọn dẹp gọn bân nhưng cũng có lúc nó cần có má, để hỏi vài chuyện... Tôi hỏi chuyện gì, nó cười, bẽn lẽn, dường như những câu chuyện đó người ta chỉ dành để nói với má người ta. Tôi thương nó chút nữa đã ghì đầu nó ôm vào ngực. Chợt nó hỏi: - Sao dì Út không lấy chồng, dì ở vậy hoài, bà ngoại rầu lắm đó. - Dì còn phải đi hát. - Đi hát vui hơn lấy chồng hả dì?

    Tôi cười, lấy chồng vui hơn, nhưng phải lấy ngay trân người mình thương kìa. Còn đi hát thì không vui không buồn, mơ hồ lắm, thấy cười ha ha chưa chắc là vui, thấy rặn ra một đống nước mắt vậy mà hổng phải buồn. Có lúc đang ở nhà lại muốn đi, có lúc đang hát trên sân khấu vậy tự nhiên thèm về nhà. Bầu hỏi tôi thường đóng vai gì, tôi kể, nhiều lắm, hiền có, ác có, mà toàn vai phụ không thôi... Tự dưng tôi nghe nỗi buồn chao chát trong lòng, tôi bảo, nhưng có một vai dì thèm mà không ai cho đóng, vai gì hả, vai một người bình thường, có chồng, sống với nhau trong căn nhà xưa, cũ kỹ. Buổi sáng chở mớ rau vườn ra chợ, mua ít thức ăn mang về nấu bữa cơm trưa, chiều phụ chồng mần cỏ rẫy, chạng vạng chờ chồng từ ngoài đìa vác một mớ bông súng bước vô nhà... Và để được nghe con trai mình nói với mình những câu chuyện chỉ để dành nói cho má nó nghe thôi. Ừ, dì chỉ ước có vai bình thường vậy...

    Trọng đang nằm võng, tôi nghe nhịp đưa vùn vụt rồi cò kẹt dùng dằng chậm lại, tôi biết anh có nghe lời tôi nói. Căn nhà tự nhiên lặng lẽ đến kỳ lạ, nghe tiếng thằng Bầu thở ngỡ ngàng, nghe cả tiếng ơ cá kho sôi tăm tăm trên bếp, tôi ngửi thấy đâu đây mùi bông súng Đà Lạt thơm dịu, ngọt thanh pha cái mùi tanh tanh của bùn dưới đáy ao. Không lẽ im re hoài, tôi nói với Trọng, rằng anh có nhớ chị Hai thì cũng vậy thôi, người vẫn chưa về, thử thương tôi đi, tôi sẽ giúp thằng Bầu nấu cơm, vá áo, giúp anh lau ống khói, châm dầu cái đèn chong nhỏ, giữ cho ngọn lửa suốt đêm ngày le lói đỏ như giữ vạn truyền thống nhà mình đã trăm năm nay. Sau này, chị Hai có về, tôi sẽ trao anh lại, như ngày xưa vậy, tôi làm cũng được lắm mà, gọn bân chớ gì.

    Mà, trời ơi, Trọng ác với tôi chi vậy, sao bắt tôi phải kìm lòng không được để nói ra, nhìn tôi mà không hiểu à?

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Người năm cũ


    Khi Hiên thôi học ở thành phố về, mướn căn nhà, treo cái bảng kẻ bằng bút lông lên giấy các tông "Viết hồi ký thuê" thì Hiên gặp lại người thương của má.

    Bảy năm rồi, Hiên mới gặp ông. Ông ốm, xanh, ông không già đi bao nhiêu nhưng tóc đã rụng nhiều để lại cái trán rộng như sân bay Trà Nóc. Hiên luôn luôn thấy ông gần gụi và thân thuộc, cái cảm giác ông luôn luôn có mặt trong đời của Hiên mặc dầu chẳng thâm tình gì nhau. Cứ nói với một đứa bé mười, mười hai tuổi rằng cái ông đang nói trên ti vi hồi đó thương má mày đi, nó sẽ dõi theo ông ta bằng một sự quan tâm nào đó không lý giải được. Ngay từ khi còn vào tại chức, ông luôn xuất hiện trên mặt báo, trên ti vi với sự chân thật toát ra từ đôi mắt, một vẻ mặt trăn trở, đấu tranh. Hiên cho rằng đôi mắt thể hiện được con người. Ông từ chức chủ tịch trước nhiệm kỳ hồi cuối năm rồi với lý do sức khỏe kém, không đủ năng lực để làm việc. Hiên cố làm như mình chẳng bao giờ quen ông. Bảy năm, đủ để ông già đi và Hiên bỏ bộ dạng đứa học trò quê cũ. Hiên hỏi ông muốn viết hồi ký ở dạng nào. Hẳn nhiên là có nhiều cách viết khác nhau, để lại cho con cháu thì đào sâu về đạo đức lối sống, về buổi đầu lập thân cực nhọc ra làm sao để lại cho đòi sau cơ ngơi, sự nghiệp này. Nếu xuất bản hàng loạt thì chú trọng những công việc, thành tích trong đời... hoặc chỉ viết riêng cho một mình ông thôi, sống giấu kín, chết mang theo. Ông cười rất đẹp (đôi lúc có những nụ cười như thế làm cho tim Hiên thót lên một tiếng hít hà).

    - Tôi muốn cháu viết cho người tôi yêu. Và viết thật.

    Hiên thưa rằng Hiên sẽ viết thật nếu như ông nói thật. Ông lại cười. Má ơi?

    Hiên thèm được viết thật dữ lắm chớ. Hiên vừa học vừa làm thêm việc viết hồi ký non hai năm. Hiên đã gặp nhiều khách hàng nghe họ kể về cuộc đời của họ. Ai cũng làm tỉ tỉ điều tốt, điều cao thượng hơi giống nhau, bày tỏ lòng nhân ái với thế giới, lòng thương mến với tất cả mọi người. Hiên nhận ra một quỹ đạo nhàm chán là không ai kể về những lỗi lầm của mình dù là từ thuở ấu thơ đã ngắt đuôi con chuồn chuồn đỏ nhét vào cọng cỏ hay về chú dế lửa bị mình nhốt trong cái lồng đất đã chết vì chật và buồn. Mà, Hiên cho rằng, hồi ký là phải thật, ai đời người ta lại gian dối với cả chính mình. Đôi khi cầm quyển hồi ký do chính tay mình viết ra, trình bày sạch sẽ, bìa đẹp, lật từ trang đầu tới cuối thấy người ta sống sao mà tốt quá, tốt thiệt, tốt đến không ngờ. Bạn bè cười vào cái ý nghĩ ngớ ngẩn của Hiên: "Thì tật con người ta vậy mà...". Hiên biểu tin Hiên đi, thấy cuộc đời kiểu nầy không ham, không thấy vui đâu.

    Ông không vậy, ông thủ thỉ với Hiên như một người bạn bên một người bạn thân thiết. Hiên cảm thấy cái quý giá nhất của họp đồng nầy là được ông tin cậy. Ông nói với Hiên về tuổi thơ, về quê hương, về tất cả nhưng chiến công và những lỗi lầm. Những nơi ông đến rồi đi và ấn tượng những người ông gặp. Buổi tối, trở về căn nhà vuông vức như cái bánh chưng, Hiên mở máy ghi âm để ghi lại giọng nói điềm đạm như thể dè dặt của ông và chợt nhận ra mình viết cái hồi ký không phải cho riêng ông. Hiên viết cho những đồng đội đã hy sinh xương máu để giúp ông lập nhiều chiến công. Hiên viết cho những người cộng sự cùng ông đưa cái địa phương nầy đi lên, được biểu dương thành tích. Và Hiên hạnh phúc viết về một bóng hình mơ hồ nào đó mà ông đã chia tay trong quá khứ nhưng luôn biểu hiện bên ông. Hiên không chắc đó có phải là má Hiên không. Thường thì đàn ông không nhớ sâu sắc và yêu sâu sắc như người đàn bà.



    Ông sống một mình trong một căn nhà rộng, mặt ngó ra một con đường nhỏ chạy vòng vèo quanh một hồ rộng nhân tạo. Vợ ông qua đời gần tròn bốn năm. Họ không có những đứa con trai, con gái. Ông bảo bà yếu ớt, hay đau bệnh lắm. Ông cũng đang bệnh, mỗi sáng, mỗi trưa và tối, Hiên thấy ông uống một vốc thuốc. Hơi thở của ông cũng phảng phất mùi kháng sinh. Hiên hỏi thăm ông bệnh gì, ông cười, bệnh nhỏ thôi, mai mốt hết. Hiên hơi bần thần. Cô vẫn cần mẫn đến nhà ông như mọi ngày. Sáng nào ông cũng rang cơm và chừa cho Hiên một chén. Ông rang cơm rất ngon. Hột com se lại, giòn tan. Mùi tỏi vàng trong dầu nóng xộc vào mũi.

    Hiên thường bưng chén cơm ra ăn ngoài khoảng sân hẹp rụng đầy bông điệp đỏ và ngồi xuống cái băng đá đặt dưới bệ cửa sổ. Màu của buổi sáng trong ngôi nhà nầy mới trong trẻo làm sao, Hiên bảo:

    - Sống một mình khổ thiệt. Cháu sẽ làm mai cho chú một cô. Thím cũng mất lâu rồi, phải không, chú?

    Ông lấy tay vỗ vỗ đầu gối Hiên, tay ông to, nhưng mềm và lạnh lẽo:

    - Thôi, cháu. Trễ quá rồi.

    Hiên cười, chú vẫn còn trẻ chán. Ông chắc lưỡi, "tự nhiên thèm gặp một người" rồi quay sang hỏi Hiên có muốn nghe chuyện tình của ông không. Hiên còn chờ đợi gì mà không gật đầu. Hiên nhận thấy con người nầy luôn luôn vắt kiệt mình trong đám bùng nhùng thiện - ác, đúng - sai, giả - chân... Cả trong tình yêu cũng vậy. Hai người ngồi trong cảnh buổi sớm đang vãi nắng lên cao.

    Hiên tưởng như mình đang đi trên con tàu cuộc đời ông và đã qua bao ngoặc trái ngoặc phải, leo bao đồi dốc, băng qua những cây cầu sang sông rồi một ngày, Hiên nhìn thấy má mình như một ga xép hiện rõ dần lên trong đêm tối. Một ga xép với đầy đủ vẻ đẹp của nó: thầm lặng, đìu hiu, nhưng rất trân trọng đón đưa những con tàu xuôi ngược.

    - Đó là thời đạn bom ác liệt, nhưng sáng nào cổ cũng chèo xuồng ra chi khu Rạch Ráng bán trầu. Tôi thương cổ từ ốp trầu cổ bó. Ốp trầu chắc nùi, hai đầu cong cong như mái đình làng. Những lá trầu xanh đằm lên nhau khăng khít không chèn lẫn một lá úa nào. Tôi thương cổ từ ngón tay cái bấm trầu đã mòn khuyết như trăng mùng tám. Tôi hoạt động trong vai một thầy giáo, "con" út của một bà má tiến bộ. Con trai má đi lính cho Ngô Đình Diệm đã bị tử trận, bà má đó quả quyết là con trai bà bị chính lực lượng cộng hòa dập pháo và bà muốn trả thù. Sáng nào tôi cũng ra bến chợ, xuống xuồng của cổ mua một ốp trầu cho "má". Cổ không đẹp lắm, ừ, giống như cháu vậy, ở cổ luôn luôn lộ ra một nét duyên ngầm, càng nhìn càng thấy lạ, thấy thương. Cổ cũng thương tôi thiệt lòng. Ngặt cái cổ là con gái xã trưởng Ba Chi khét tiếng ác. Gia thế cổ là vậy. Cổ chấp nhận thương tôi mặc dầu cũng đoán được tôi ở phía nào trong cuộc chiến tranh này. Cháu cũng biết thân phận của tôi mà, ông nội tôi, ba tôi, các chú bác đều thoát ly đi làm cách mạng. Gia đình tôi phản đối dữ lắm. Tổ chức cũng không đồng ý. Nhưng lúc đó tôi còn trẻ, trẻ như cháu bây giờ, tôi nghĩ, tình yêu sẽ vượt lên tất cả.

    - Cháu cũng nghĩ vậy, chú à. - Hiên gật đầu.

    - Nhưng cháu còn trẻ, cháu có hiểu không? Chiến tranh vốn đầy bất trắc. Nó để lại cho tôi một niềm đau, lâu quá rồi mà còn đau hoài.

    Hiên cũng vậy. Hiên biết buồn nỗi buồn chiến tranh từ ngày còn bé. Tụi bạn chơi trò "Việt cộng đánh quốc gia" bao giờ cũng đẩy Hiên về phía giặc. Thằng Đen lớn nhất, nó chống nạnh cười khì khịt; "Mẩy phải ở "bên nó". Má tao nói hồi đó ba mẩy đi lính quốc gia". "Bên mình" bắn "bên nó" phẳng phẳng. Hiên cũng bắn lại phẳng phẳng nhưng Hiên phải chết. Có khi nằm trên ổ kiến lửa để chết, Hiên giật nảy lên, giãy dụa, thằng Đen đứng vỗ tay cười chưa xong đã khóc mướt: "Con nhỏ nầy chết y hệt ba tao". Hiên cũng khóc. Những đứa trẻ như thằng Đen, như Hiên mới tí tuổi đầu đã bị súng bập dừa bắn vào trái tim thơ ngây. Đen thôi hồn nhiên và Hiên thì ngơ ngác chết.

    - Người ta mong hòa bình một, tôi mong tới chín mười, cháu à. Sau Mậu Thân, cơ sở bị lộ, tôi rút vô cứ. Địch ra sức đàn áp phong trào cách mạng. Tề ngụy gom dân vô ấp chiến lược, trong đó, nhà cổ đi đầu. Người xuôi kẻ ngược, cổ chỉ kịp đầm đìa nước mắt và hẹn nhau hai tiếng "hòa bình". Coi lại, cả đời chúng tôi chỉ rượt đuổi nhau. Cổ bỏ nhà ra ấp chiến lược mới chín tháng thì chúng tôi mở rộng căn cứ về xóm quê cổ. Tôi dọn dẹp căn nhà đầy váng nhện và bồ hóng của cô để làm nơi làm việc. Hôm một bà má đi chợ về ghé báo con út Xuyến nó lấy một thằng lính ngụy, đêm đó bom bỏ vụn căn nhà. Tới bây giờ, tôi cũng không hiểu làm sao mình còn sống được, nhưng hôm đó, trong cái hầm nước lỏng bỏng, tôi tìm được trong hốc đất một cái khăn trắng thêu hai con chim đậu trên cành mận trổ đầy hoa, và một dòng thêu dở: "Đường dài ngựa chạy biệt tăm... "

    -... "Người thương có nghĩa trăm năm cũng về " - Hiên buột miệng, rồi giật mình, cô quấy quá thêm - Cháu đã đọc câu ca dao nầy ở đâu rồi, chắc là trong trường học.

    Ông gật đầu, dường như chớm bàng hoàng, ông nhẩm lại "người thương có nghĩa trăm năm cũng về". Mặt ông hơi tái đi.

    - Vậy tôi không phải là người thương có nghĩa rồi, cháu ạ. Tôi đã có thật nhiều cơ hội nhưng rồi đã bỏ qua. Năm tám hai, tôi chuẩn bị làm bí thư huyện thì nghe tin chồng cổ vượt biên.

    - Và chú phải lựa chọn, hoặc làm bí thư hoặc phải từ bỏ tất cả không ai chấp nhận chú lập gia đình với một người đàn bà đã có một đời chồng là lính ngụy.

    Ông nhìn Hiên kinh ngạc, trong mắt ông ánh lên một niềm đau xót:

    - Cháu biết nhiều như vậy để làm gì, cháu gái?

    Hiên có muốn biết nhiều đâu, đời dạy cô vậy mà. Cô không trả lời câu hỏi, chỉ thốt lên:

    - Trời đất ơi, sao chú lại có thể đem tình yêu ra mà bì với mấy cái đó. Cháu mà yêu ai, cháu sẽ vượt qua mọi trở ngại để tới với người ta.

    - Cháu đã làm thử chưa?

    - Rồi - Hiên quả quyết.

    - Có một lần, tôi cũng đã làm như vậy. Tôi về thăm căn cứ. Chiếc tàu hì hụi về tới xóm đã chạng vạng. Tôi lúc đó không nghĩ tới chuyện gì khác ngoài chuyện tôi sắp gặp lại cổ. Khi tàu ghé dưới bực kinh nhà Tám Muốt, tôi thấy cổ bơi xuồng đi đặt đó. Xuồng nhỏ, bóng cổ nhỏ, một mình. Nhìn tôi, cổ mừng tới xuống nước mắt. Tối đó, sau khi ăn đã đời bữa cơm bông súng nấu canh chua cá nâu, mắm sống, tôi chống xuồng qua sông. Hôm đó, tôi hơi say. Chắc tôi ngộ lắm nên đứa con gái nhỏ của cổ cứ nhìn tôi hoài. Tôi ngả mình trên võng mà khói cứ bay nồng mũi. Tôi còn nhớ mình nói rằng không chấp chuyện đã qua, tôi không ngại đứa con gái lên sáu tuổi của cổ. Tôi nói rằng cơn mưa xưa đã đem nguồn nước cũ về đầm. Cổ nằm trên một cái võng khác, giăng xéo qua hai cây cột, đưa con gái ngủ. Cổ chỉ khóc, khóc thật nhiều mà có nói được gì đâu. Vậy mà hai đứa thức, thở vắn thở dài tới sáng. Bữa sau, tôi đi thăm những bà con trong xóm căn cứ cũ. Vườn sau sân trước hố bom chằng chịt hố bom. Bảy năm sau giải phóng mà xóm rất nghèo. Những gia đình cách mạng ngày xưa hết mình nuôi nấng, che giấu chúng tôi cuộc sống rất khó khăn, mặc dầu bông súng đã nở trắng hố bom, bầy vịt ta lội ngủng ngẳng. Cạnh nhà tường đạn bom cháy xém bà con dựng lại căn nhà lá. Tôi về than, bà con mình nghèo quá. Cổ nói với tôi rằng dù có chính tay họ làm hay không nhưng cha cổ, chồng cổ đã gây biết bao nhiêu tội ác, làm cho cái quê nhỏ nầy trở nên như vậy. Mà, có còn ai để giúp cổ trả món nợ nầy cho bà con, cho làng xóm, để cho cổ được ngẩng đầu lên nhìn cuộc đời mà không thấy mình có tội, ngoài tôi. Tôi thương cổ lắm, tôi quay lại, tự hâm nóng mình. Thời đó tôi sống tràn đầy hoài bão, tràn đầy thương yêu như cháu bây giờ, cháu gái à. Tôi chưa biết ham mê tước vị, quyền lợi. Rồi từ từ tôi mới biết cân nặng nhẹ, biết so đo. Tôi lấy vợ, mà, tội nghiệp tôi lắm, lấy vợ mà cũng so đo. Ông già vợ tôi là cán bộ tổ chức của tỉnh. Tới một ngày chợt nhận ra, quyền lực đối với tôi càng giống như cục mỡ rệu trong veo trong nồi thịt kho tàu ngày Tết, nhìn thì thèm, ăn quá ngán mà bỏ thì tiếc.

    Ông cười sùng sục. Tiếng cười nghe xao động như quầy dừa rụng xuống hào ranh giữa buổi trưa vắng. Nhưng Hiên giật mình vì ánh mắt không hề có một niềm vui, nó sâu hun hút. Hiên thấy lòng mình lạnh hẳn. Cái nhìn ông lạnh như cái ao sâu phủ kín lục bình.

    - Chú à, bây giờ cô ấy ở đâu?

    - Cháu có biết xóm Trầu? Một cái xóm đẹp. Căn cứ cũ của chúng tôi. Tôi nhớ hoài, trước mặt xóm là một cái đầm nước gió ơi là gió...

    Và một hàng dừa nước bên sông nghiêng mình soi đáy. Những ngày gió chướng về, nước trong vằng vặc như thấy rành rạnh từng sớ lá. Trên bờ kinh, dây choại mọc đầy, đọt choại xanh non nhuốt líu ra líu ríu níu bước chân người. Hàng bông bụp trước sân nhà nở đỏ. Con heo cỏ bụng bự đầy đất sục mũi vào đám rau diệu, rau chay. Sau vườn, dây trầu già leo cây cau ốm. Bầy kiến vàng liêu xiêu bò ra bò vào trên nhánh chanh giấy de ra mé ao. Và ở đó có má Hiên, một đời thầm lặng, hiền lành. Sớm sóm, ngồi xắt chuối quết nát trộn vòi cám cho bầy vịt xiêm ăn. Xẩm tối, má đốt nhang lên bàn thờ ông bà ngoại, đóng cửa, sập rèm. Má Hiên bị bức phải lấy ba Hiên tháng chín, tháng tư năm sau giải phóng miền Nam. Cái khoảnh khắc đó so với cuộc đời ngắn ngủi biết bao nhiêu nhưng đã trì níu cuộc đời má Hiên xuống. Mấy mươi năm, cuộc đời má như hủ sành bể nát, không mảnh nào ráp được với mảnh nào, phải làm hai, làm ba còn lấy keo chắp vá. Niềm vui chỉ những ngày cuối tuần, má Hiên trông từng chuyến tàu trưa, coi Hiên có về không? Một ngừơi quen cũ có về không? Khi ba Hiên đi học cải tạo ba năm, Hiên lớn lên không hề có ba mà không thấy tủi. Ba Hiên về, năm sau xuống tàu vượt biên, Hiên đã là một con bé lạ lùng, Hiên có thể rạch ròi chuyện từng chuyện một. Hiên nghĩ rằng ba ra đi là lỗi của ông, vì ông nghĩ rằng đất này không cưu mang, không liên quan tới chuyện mối tình xa gì gì đó của má. Hồi đó, mối tình đó chỉ là một ngọn lửa le lói cháy trong mắt má Hiên. Lạ sao, đến bây giờ, ngọn lửa vẫn không tắt và chưa bao giờ tắt. Có lẽ, người đời luôn luôn nuối tiếc những gì không tròn vẹn. Hiên vẫn không tin được, chỉ những lời hứa hẹn và một đôi lần nắm tay nhau (Hiên tưởng tượng cùng lắm thì hôn lên má nhau, nếu có thể) lại làm cho người ta nhớ lâu, nhớ sâu đến vậy. Mỗi lần xem ti vi, nhìn thấy ông thoáng qua, trên màn hình, má Hiên luôn cười rất nhẹ, kín đáo âm thầm. Cái cười nhỏ nhưng tràn đầy tình. Hiên có lần bảo, "Con mà thương ai thể nào con cũng lặn lội lại nói với người ta liền". Má Hiên cười, "Con còn trẻ, má già rồi. Mà, má có xứng gì đâu...". Hiên chợt nhận ra, thế hệ của mình đã khác, thế hệ mình sống nhẹ nhàng hơn thời của má nhiều.

    Không biết bây giờ xóm cũ có còn như trước, cũng ba năm rồi tôi không về...

    Ông trầm ngâm. Hiên nói với lòng mình. Không, cái xóm đó không bao giờ thay đổi được. Người ở xóm đó vẫn vậy. Chắc nó không khác được đâu, lúc nào nó cũng soi mình xuống đầm. Thấy mình khác một chút đã sửa lại.

    - Lẽ ra bây giờ chú phải về xóm Trầu. Cháu chắc chắn là có người vẫn chờ đợi chú, chờ đợi tới trăm năm.

    Ông bồn chồn ngước lên nhìn Hiên.

    ... Hai hôm sau, khi Hiên quay lại nhìn ông, nhà đã khóa cửa ngoài. Hiên quay về chỗ trọ thì nhận được lá thư nhỏ. Thư của ông. Hiên cứ cầm thư mà xuống nước mắt. Ông viết: "Cuộc đời đã tằn tiện chai sớt lại cái cơ hội cuối cùng của chú, cũng bởi vì chú đã hoài phí nhiều. Chú đã nhận ra cháu rồi, cháu gái à. Chú chuyển lời xin lỗi đến má cháu. Chú bệnh, bệnh nặng. Không còn ham hố, vướng bận gì nữa, chú cũng không thể trở về, bởi vì chú không muốn làm một gánh nặng cho má con cháu lúc cuối đời... Chú thương cháu nhiều, con gái nhỏ..."

    Chỉ vậy mà họ có thể bứt khỏi nhau ra được sao, tròi đất quỷ thần ơi, những người lớn... Đường đời gang tấc mà vì nỗi gì mà đi vòng cho xa hoài, xa mãi. Hiên lặng người, tới bây giờ Hiên cũng không biết ông bệnh gì, nghiêm trọng ra làm sao? Hiên không biết. Má ơi!

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ngày đùa


    San có điện thoại. Chẳng sung sướng gì khi phải chạy cồng cộc qua hai mươi tư bậc thang lên tầng hai, mở cánh cửa kiếng mới vào được văn phòng nhà văn hoá huyện. Giọng bên kia máy hơi đứt quãng, nhừa nhựa :

    - San ơi !

    San thở cái phào:

    - Chuyện gì đó, Phương ?

    - Anh nhớ em.

    - Ừ!

    - Nhớ thiệt. Anh thương em thiệt là thương.

    San nhăn mặt :

    - Đang tập thoại đoạn kịch nào vậy ? Nói cứ y như thiệt.

    San nghe Phương thở ngắn, rồi lặng đi, rồi thở dài:

    - San nhớ uống thuốc nghen !

    - Trời đất, bệnh gì mà uống?

    - Dặn trước, mai mốt bịnh thì uống. Mai mốt bịnh, anh không dặn nữa.

    - Trời đất - San bật cười - Không còn nữa em thôi nghen.

    - Ừ... thôi. Vĩnh biệt. Anh từ giã em, anh chết. Anh thương em nhiều lắm thiệt mà, San.

    San nhún vai, gác máy. Chị quay ra. Sao vậy ta ? Phải mười năm trước, nghe được câu này của Phương, thể nào San cũng cảm động phát ứa nước mắt luôn cho mà coi. Bây giờ nghe buồn cười không chịu được. San nghĩ, tay Phương nầy hôm nay chắc rảnh rang, đem cả chuyện chết chóc ra đùa.

    San nhận dựng một vở kịch cho nhà văn hoá huyện để đưa đi dự liên hoan văn hoá quần chúng toàn thành. Chị đã bỏ nhiều sô diễn ở thành phố. Không hiểu vì sao mình làm vậy. Có thể vì trả cái nghĩa ngày xưa, từ nơi nầy chị đi lên hoặc có thể chị muốn thay đổi không khí. Vì vậy mà chị bỏ cả máy di động ở nhà.

    San và đám diễn viên đã tập đến đoạn kết. San làm việc cật lực, giọng khàn đi. Chị không có trong tay những diễn viên nổi tiếng, hiểu nghề, điều đó làm cho công việc của chị càng khó khăn hơn. Nhưng họ truyền cho chị niềm hứng thú từ cách diễn chân chất, mộc mạc, từ sự lăn xả bất chấp nhọc nhằn. Nhìn họ, chị nhìn thấy mình mười năm trước, đầy đam mê, khát vọng nhưng khờ dại, ngây thơ.

    Mười năm trước, San gặp Phương cũng ở đây. Phương nổi tiếng và tập tễnh làm đạo diễn. San gọi Phương là thầy. San ngưỡng mộ Phương thiếu điều chiêm bao cũng thấy. Con người Phương hết thảy đều phiêu lãng, phong trần. Tóc dày lấp loáng bạc, hơi dài, mái trước vuốt ngược ra đằng sau. Thành ra đám tóc đó không bám vào đâu được, nó nằm bồng bềnh. Mắt Phương sâu róm (San tin rằng người nuôi tóc dài, móng tay dài sẽ yêu một tình yêu lâu dài). Miệng Phương cười khinh bạc. Nón quay ngược ra đằng sau. Quần áo bụi bậm. Móng tay dài. San hồi đó hay cười, hay nói líu lô. Hồn hậu, trẻ con. San trầm trồ :

    - Làm nghệ sĩ nổi tiếng chắc sướng lắm hen, thầy ?

    Phương cười :

    - Không, họ tội nghiệp lắm. À không, Phương đính chính lại, có một vài người tội nghiệp, như tôi.

    San cười khì, "em không tin đâu, thầy sướng thấy mồ". Phương bảo, khi nào San trở thành người nổi tiếng rồi San sẽ tin. Có lẽ, Phương là người đầu tiên nhìn thấy tài năng nghệ thuật tiềm ẩn trong San. Ba năm sau, San khẳng định mình trên sân khấu thành phố.

    Rồi y như lời của Phương, San bắt đầu thấy tội nghiệp mình. San sống rất mệt mỏi vì không phân biệt nổi đâu là sàn diễn, đâu là cuộc đời. San thương Phương nhiều, nhiều lắm. Phương thì lúc nóng, lúc lạnh, lúc xa, lúc gần. Âu yếm nhau trên sân khấu, bước xuống hậu trường Phương than mà giọng chao chát nghe khẽ như hơi thở, "ước gì tôi nắm được tay em". San chìa tay ra, cười, thì có ai cản đâu. Phương nhăn mặt, " Tôi mà chạm vào người em thể nào tôi cũng lạc lòng." San cười mà lòng nghe xót xót, như chừng Phương khao khát yêu mà không dám yêu, khao khát sống mà không dám sống. Phương trả lời phỏng vấn báo Sân khấu rằng : " Tôi thèm hạnh phúc nhưng không cho phép mình hạnh phúc. Một tâm hồn đầy đủ sẽ không thể diễn được một tâm tư giằng xé. Vì nghệ thuật, tôi hy sinh cả cuộc đời mình." San biết rằng đó là lời anh dành cho San. Nó cực đoan một chút. Có nhiều người hạnh phúc vẫn diễn rất hay. Nhưng diễn như ma ám, như điên, như say như Phương thì chưa một người nào làm được. Ở bất cứ vai nào, anh cũng diễn bằng sự giằng xé, bằng sự khao khát bị kìm nén. San vẫn còn nhớ tháng hai năm chín mốt, sân khấu thành phố dựng vở "Đèn không hắt bóng", khi xua đuổi người yêu - San, viên bác sỹ cao ngạo, tội nghiệp của Phương đã lặng người quay đi, rơi nước mắt. Giới phê bình đánh giá khoảnh khắc xuất thần đó của Phương bằng hai từ "quái kiệt". Lâu lâu, linh cảm hỏi San, có phải những giọt nước mắt ngày xưa ấy phải chăng dành cho mình.

    San bắt đầu tập quên có Phương trong cuộc đời. Đó là lúc tự dưng San thấy mình kiệt sức. Cứ chịu đựng một vài lần như San đi rồi biết. Diễn xong Phương rủ San đi ăn cháo gà, San rối rít tẩy son phấn, ùa ra cửa, Phương đã về rồi. Phương hẹn lại nhà San chơi, San thắp đèn ngoài cổng ánh ỏi chờ cả ngày, Phương không tới. Gọi tìm Phương, Phương hỏi "Ủa, tôi có hứa sao?". Từ Phương, San rút ra kinh nghiệm, thay vì phải ngồi nghĩ ngợi điên cái đầu, lời nào thật lời nào giả, tách bạch rõ ràng ra, mệt lắm, thôi đừng tin nhiều, hy vọng nhiều đỡ thấy thất vọng, mất mát.

    San sống như vậy riết rồi quen. Không tâm huyết, kỳ vọng vào cái gì, không mơ một xa vời, không rút ruột ra tin ai, yêu ai. San thấy mình không vịn vào ai để sống và cũng không sống vì ai. San sắm sửa được cái vẻ lạnh lùng, khinh ngạo. Không còn nghe đau xót khi ngửi thấy mùi rượu, mùi thuốc lá phả ra nồng nàn từ Phương, không buồn khi Phương cà rỡn, âu yếm với cô gái khác, không nhớ khi một tuần chẳng gặp nhau. Thực lòng, chị nghĩ, Phương vẫn còn đó chớ mất mát đi đâu. Chỉ có lần, tim San thót lên nhói một cái khi thấy Phương ôm một nam diễn viên trong bóng tối. Ánh đèn sân khấu đã tắt. Có lẽ Phương thấy cô đơn lắm. Thương chút đó rồi thôi. Khi quên mất tiêu con San ngày xưa, về đây, chị bỗng gặp lại mình.

    Buổi tập sáng San cho diễn viên nghỉ sớm, bụng San hơi cồn cào, San đổ thừa tại mình đói. Giờ nghỉ trưa, San không ngủ được, bồn chồn chờ đến đầu giờ chiều. Chị muốn lao vào làm việc ngay để quên một chuyện mơ hồ nào đó.

    San lại có điện thoại.

    San nhấm nhẳn nghỉ trong lòng, " Đâu có bao nhiêu người biết mình đang ở đây ?". Nhấc máy, giọng Ngạn, " San ơi, đang ở đâu vậy ?". San cười : " Gọi tới đây rồi mà không biết à? - San lấy giọng nghiêm khắc - Mình đang ở "ngoài vùng phủ sóng". Giọng Ngạn hơi run rẩy, "San à, Phương chết rồi ". San cười ngằn ngặt." Ừ". "Thiệt mà". "Ừ". "San về ngay nghen". San dập máy.

    Xuống sàn tập, San dựng cảnh cuối của vở. Trúc, cô diễn viên đóng chính đang cố khóc để diễn cảnh cô con gái hư hỏng thương tiếc người cha vừa qua đời. San không nói khái niệm, định nghĩa gì hết, chị bảo :

    - Em phải xuống nước mắt thật mềm, không có loại nước mắt nào dịu mềm bằng nước mắt chảy ra từ lòng hối hận.

    Trúc khóc lại lần thứ hai thì San lại có điện thoại. Bên kia máy là Mai, ngườI gọi có khác nhưng nội dung không khác. Mai bảo, Phương chết rồi. San vẫn ừ hử nhưng đã thôi cười. Vì bực mà thôi cười.

    San tự hỏi, bữa nay là ngày gì vậy nè. Đám học trò diễn ồ lên, " Bữa nay là ngày Cá Tháng Tư, người ta được quyền nói dối thoải mái mà chị". San bật cười. Xem lại ngày hiển thị trên đồng hồ, ngày Một Tháng Tư. Cha mẹ ơi!.

    Ngày này, năm ngoái, cũng đám Ngạn, Mai báo Phương chết. San thiếu điều lộn ngược ruột gan chạy lại nhà Phương, nhìn thấy Phương đang sân sẩn ngồi Karaoke, San tức không há miệng nói được tiếng nào. Phương biết chuyện, Phương nhìn San lâu lắm."Tôi vẫn còn ở trong trái tim em sao?". San bật cười, gờn gợn hỏi lại mình câu ấy. Nhìn Phương cười cười, chắc Phương lại nói chơi. Bởi vì, San và Phương ai lại không diễn một vai trong cuộc đời này.

    Nhớ chuyện năm ngoái, San đinh ninh, năm nay mình sẽ không bị lừa nữa đâu. Nhưng chỉ lát sau, San có điện thoại. Lại cồng cộc chạy lên hai mươi bốn bậc thang, San nói trước "Đừng giỡn nữa mà". Nhưng bên kia máy là đạo diễn Lưu, San giật mình hỏi lại."Có chuyện gì không thầy?". Thầy Lưu bảo, Phương chết rồi. San biết thầy mình không bao giờ đùa. San đứng sững trong văn phòng nhà văn hoá. Một nhân viên trong phòng gọi San rất to, San tuyệt vọng đẩy cửa, nhưng cánh cửa vẫn im lìm. Có tiếng người nhắc, hãy kéo cửa về phía sau. San chen ra.

    Trúc dẫn xe máy đưa San ra cổng. Trúc dặn chị chạy phải thiệt cẩn thận, đường đây về thành phố thì xa, đẩy trổ ra ngã tư là quốc lộ, xe cộ nhiều ghê lắm. San chạy đến ngã tư. Chị không biết ngả nào về thành phố. Chị chống chân xuống đường giữ cho chiếc xe được thăng bằng. Một nỗi gì đó chợt ứ đầy trong chị, muốn khóc mà không khóc được. Bao nhiêu nước mắt đã dành cho vai diễn, cho công chúng hết rồi, chị không còn giọt nào cho mình. Chị hiểu rằng vậy là vai diễn cuộc đời mình vừa hoàn tất. Bình sinh, không lúc nào chị hít thở, chị hoá thân mà trong chị không có một tình yêu cũ, không có Phương. Nó chìm lặng giữa muôn ngàn nỗi đau, nỗi thương tổn yêu thương chẳng được đền đáp bởi yêu thương. Lòng chị dửng dưng bởi Phương bao giờ cũng còn ở đó. Nhưng bây giờ Phương mất rồi, mất thật rồi. Sẽ không còn được thấy Phương phong trần, mệt mỏi, không nhìn thấy Phương cười, nghe Phương nói... Sẽ không được ôm Phương trong vòng tay dù chỉ là vai diễn. Chị dấn ga cho xe vọt lên và nấc nhọc nhằn. Đã có nước mắt. Chị thấy trước mặt mình nhoà đi, kiệt sức, chị gúc xuống giữa đường. Con đường Trúc dặn, xe cộ nhiều lắm.

    Ở nhà Phương, bọn Ngạn, Lưu tụ lại đã rất đông, họ đang chờ đoạn cao điểm nhất của một ngày vui. Nhà Phương dọn dẹp sạch sẽ, trang hoàng lại. Không còn vỏ bia lon lổn nhổn, tàn thuốc lá bết vào bàn chân. Phương ngồi trên băng đá trước nhà, chỗ nầy khi San về, anh sẽ thấy San trước tiên khi chị vòng qua nhà ông già dân phố ở góc đường và rẽ vào đây. Anh sẽ tặng một bó hồng đẹp nhất cho San và nói với San rằng, mười năm, anh hy sinh San cho nghệ thuật là một điều không công bằng, rất không công bằng. Bởi San là tất cả cuộc sống của anh. Lẽ ra anh không nên đùa như thế nhưng trò đùa mới có ý nghĩa làm sao rằng một người đã sống lại vì tình yêu một người.

    Nhưng San đã không bao giờ về nữa.

    Hôm ấy là ngày một tháng Tư. Ngày nầy, người đời hay đùa lắm.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ngày đã qua


    Mồng hai Tểt, Nguyên về quê. Khi chiếc xe tốc hành đút đít vô tới cổng cư xá, anh trèo lên mà bụng vẫn còn ngờ ngợ không biết mình có khoá nước trong nhà tắm chưa. Anh tự hỏi, mình gấp gáp gì, thời gian còn rất dài.

    Nguyên quê Tân Thành nhưng làm việc ở Sài Gòn, một năm ba trăm sáu mươi lăm ngày anh chỉ gặp đám bạn bè ruột ràng được mấy ngày sau Tết. Rồi tiếp tục guồng chân chạy như điên với thời gian. Thành lệ, năm nào cũng vậy, bọn Hoà, Chi, Thi, Tiệp cũng chờ anh về rồi kéo nhau đi dọc dọc giăng giăng như bầy kiến đi thăm hết thay nhà thầy cô, bạn bè cũ. Nhà Thi sẽ đến cuối cùng. Đến Thi thì cả bọn đều say ngà ngà, vì ngà say nên chổ này chơi vui nhất.

    Nguyên về, từ con đường Hoàng Diệu nhà Hoà đã mở ra một ngõ nhỏ ăn xéo qua ngã Đậu Đỏ nhà Thi. Nguyên không biết nên anh chạy lòng vòng qua mấy cái bùng binh. Xe cộ ken cứng. Cánh Hoà Chi cùng chung xe chắc đã tới nhà Thi lâu rồi. Mà, Tiệp ngồi đằng sau không nói gì về con đường mới. Chị sợ cứ mở miệng nhắc lại, lòng sẽ đau.

    Rồi Nguyên chạy xe qua đầu hẻm, chạy dưới tán cây bàng cành cội xơ rơ. Bây giờ là mùa lá rụng nhiều. Mùi nước cốt dừa ngầy ngậy là đà bay ra từ quán đậu đỏ bánh lọt thơm bựng mũi. Nguyên nghe thèm cồn cào còn lòng Tiệp thì cuộn đau. Mùi thơm quen thuộc dây theo Tiệp đến chỗ quẹo trái. Tiệp ngao ngán nghĩ, "nó còn hành hạ mình đến chừng nào?".

    Tiệp không định về đây. Chị không muốn nhìn lại con đường nhỏ lát gạch quanh co mỗi trưa chiều tan sở đi về, ngôi nhà có hàng rào bông trang đỏ, gian bếp ngày hai ba lượt ấm lửa, nước chảy lon ton xuống chiếc thau rửa rau... Và một đứa con trai, và một người chồng mới đây thôi đã trở thành chồng cũ. Nhưng Nguyên bảo, tụi mình chơi với nhau từ nhỏ, hồi đó hứa làm sao, dù có chuyện gì cũng không bỏ nhau. Tết nhứt mà không về đốt hai nén nhang cho ông bà già là bậy. Chi nói một câu đầy ý nghĩa, "không có Tiệp làm sao vui được". Tiệp gật đầu, chị bảo:

    - Nghĩ lại, thì đâu có thù oán giận hờn gì mà không thèm nhìn mặt.

    Thi thấy có Tiệp theo Nguyên thì mừng lắm. Anh cứ sướng sướng cười cười hoài, "cứ tưởng là Tiệp không tới...". Tiệp lừ mắt ý bảo thôi đi. Nguyên dừng xe tắt máy, như muốn được hưởng cái thâm nghiêm của con hẻm ngày xưa. Nhưng quả khác trước nhiều, anh dựng cái chân chỏi xe, ngó muốn trẹo cổ mới thấy được vạch trời xanh thẩm. Thi vò đầu Nguyên, "Trời đất, làm gì mà mới mấy tháng tóc mầy rụng thê thảm vậy. Ốm, già quá?". Nguyên cười xoà:

    - Thì tóc mầy cũng bạc trắng. Suy nghĩ gì nhiều vậy?

    Thi nói nhanh:

    - Tao có suy nghĩ buồn phiền gì đâu. Tại tao xấu máu mà. Ngủ một đêm thức dậy soi kiến thấy mình già, đâu cần lâu lắc gì mậy.

    Rồi Thi đẩy Nguyên, bảo Tiệp vô nhà. Nguyên dừng lại tháo giày ở ngạch cửa, lòng bảo lòng, bữa nay hãy vui như trước đây đã từng vui. Thi thì nghĩ, hoàn cảnh như vầy, còn đủ sức để trợn trạo vui. Chỉ không biết Tiệp nghĩ gì, chị ngẫng cao đầu khi qua cửa. Chị hỏi trống không:

    - Nhện Con đâu rồi?

    Thi trả lời:

    - Hồi sáng này anh Trực Tết cơ quan, chở nó qua bển thì nó buồn, anh điện thoại biểu cô út Nhện Con rước nó đi chơi. Chắc tới chiều mới về.

    Nguyên ngồi xuống chiếc võng lưới sát tường:

    - Cha, tao nhớ Nhện Con quá. Chắc bây giờ nó ớn bộn hen?

    - Ừ, hình nó mới chụp kìa

    Nguyên buột miệng:

    - Sao mặt thằng con chúng ta buồn vậy?

    Rồi anh chợt giật mình, hoàn cảnh như vầy sao đứa trẻ có thể vui. Anh hối hận nhìn Tiệp cắn hột dưa. Khuôn mặt xinh đẹp của chị toát ra cái vẻ lơ đãng một cách đau lòng.

    Hoà, Chi ở đằng sau vừa tằng lăng tíu líu đóng tủ này, mở tủ khác dọn đồ ăn, vừa nói chuyện vói lên:

    - Đường bằng gang tay hai người không muốn đi, lại lòng vòng cho phí cuộc đời. Tụi nầy làm cá xong rồi. Hai người có số sung sướng thiệt.

    Rồi không đợi Tiệp trả lời, Chi đã quay sang nhằn Thi sao mà để ngay trên sàn nước một đống chén dĩa dơ vậy, không rửa chén đâu mà ăn. Quần áo thì nùi ghê gớm. Trên bếp đầy vụn cá khô đã khét nghẹt. Chi thắc mắc giọng rất ư chị hai (tất nhiên không phủ nhận chị lúc nầy cực kỳ...bề thế)

    - Không hiểu ông Thi nầy vắng con Tiệp rồi sống làm sao?

    Thi cười:

    - Thì cũng cố lên. Mà, bình thường cha con tui ngon lành lắm à. Tại Tết nhứt Chi phải cho người ta bê bối một tí.

    Hoà, Chi tỉ mỉ một cách thiệt thà. Nhà Thi có món gì hai vợ chồng đã bày đủ món đó. Tiệp sắp xếp tiệc trên sàn gạch. Ngoài mấy món năm ngoái, năm kia, năm kỉa năm kìa thấy hoài là tôm khô, củ kiệu, dưa chua, dưa hấu, còn có cái lẩu cá lóc nhúng cơm mẻ. Khi mọi người ngồi quây lại, trong lòng chợt nghe rưng rưng một mái ấm nồng nàn. Đâu phải dịp nào, lúc nào muốn cũng đông đủ như vậy. Chi giục:

    - Cái con Tiệp nầy, mầy khách sáo quá đi, cầm đũa lên chớ, mầy đang nghĩ là ngồi ở nhà ai, hả? Còn anh Thi, rót rượu ra, tụi ta chúc mừng năm mới.

    Thi rót rượu ra mấy cái ly nhỏ như trứng cút. Uống, chúc mừng năm mới, chúc tụi ta vạn sự như ý, an khang thịnh vượng. Nguyên cười, "Sao người ta lại có tật chúc toàn chuyện không có, cụ thể lại đi". Vậy thì phải chúc như vầy, chúc Thi vui vẻ, làm công tác thanh tra, vô việc không đối mặt với bạn cũ để khỏi lâm vô cảnh đánh cũng lỡ mà lùi cũng dở. Tiêu chí vậy thôi. Chúc Hoà, Chi buôn may bán đắt, cuối năm trời xui đất xụi có một đứa con. Hoà nói dể ợt, đợt nầy bồng bế nhau đi Từ Dũ lần nữa mà vô phương thì xin một đứa con nuôi về. làm gì làm cũng có một đứa con gái, gả cho Nhện Con. Sau nầy già, khỏi sợ thằng rể điên điển. Cạn nữa đi chớ, trăm phần trăm, chúc Nguyên mau... về hưu để có thời gian ở lại quê chơi với bạn bè. Cuối cùng chúc Tiệp hạnh phúc, thăng tiến, thể nào cũng lên chức giám đốc chi nhánh thời trang Bình San. Tiệp liếm môi:

    - Cảm ơn nhiều, nhưng đừng chúc mất công. Em sẽ chuyển đi thành phố.

    Thi rót tràn ly rượu. Có vẻ đã kiềm chế, nhưng anh không giấu được sự thảng thốt. Nguyên cũng ngạc nhiên không kém:

    - Bất ngờ vậy? Tiệp tính từ bao giờ?

    - Lâu rồi. Nhưng em muốn mọi người bất ngờ. Năm mới em muốn mình sẽ mới.

    Hoà cười ặc ặc trong cổ, đưa cái ly lên ngang đầu:

    - Tụi mình là chim trời. Có đứa muốn bay đi, có đứa muốn bay về. Mà chọn đi hay về thì cũng vậy, như thằng cha Nguyên này nè, mười chín năm rồi với tụi mình có gì khác đâu. Dzô cái nữa đi, chúc tụi ta sống hoài, sống lâu trăm tuổi để còn chơi với nhau dài dài.

    Có lẻ đã uống nhiều trước khi đến đây nên Nguyên cạn ly nầy, mặt anh xanh xao và nhợt nhạt. Anh thất thần:

    - Lại chúc chuyện vói không tới. Làm sao chắc sống tới trăm năm?

    Thi khẽ cười, rót cho Nguyên không đầy như ly của những người khác. Hoà nói Thi thiên vị. Nhưng Tết nhứt uống không so đo, cho bao nhiêu uống bấy nhiêu. Thi nói: "Ông Nguyên phải luôn luôn tỉnh táo để chăn dắt đám say tụi nầy. Hồi nào giờ vậy, mai mốt cũng vậy". Nguyên tự dưng thấy lòng mình trĩu nặng. Anh đề nghị đánh bài. Ừ thì đánh bài, để có cớ cho vợi hơi rượu đi, để hò hét cho xôm tụ nhóm. Hồi còn đi học, ở ký túc xá, không tiền, rãnh rỗi, đâu dám đi chơi ở ngoài, thấy cái gì cũng thèm chịu gì thấu. Vậy là ở nhà đánh bài. Không máu me, không nặng đỏ đen. Lúc trẻ thua thì quỳ gối, trét lọ nghẹ, búng lỗ tai, lỗ mũi. Lớn rồi thì chuyển qua uống rượu, phạt ca. Mà ca thì không ai muốn Chi thua, chị có giọng hát cực kỳ tệ. Sau nầy đổi lại đánh bài ăn có, người ta hỏi cái gì, người thua cũng chịu "có". Hồi đó Hoà với Chi hục hặc như chó với mèo, có lần Thi cắt cớ hỏi Chi có yêu Hoà không, Chi quạu quọ "Ừ". Thua ván nữa, Tiệp hỏi Chi đang tính lấy Hoà làm chồng phải không, Chi tức thiếu điều khóc nhưng cũng bảo "Có". Ai mà biết được ra trường anh chị lại câu tay nhau làm đám cưới. Có đứa than, cách chơi nầy độc tài quá, Nguyên đề nghị ai thua chỉ bị hỏi một câu. Muốn trả lời sao cũng được nhưng phải thực lòng. Cho nên có lần Tiệp hỏi Thi có đi bia ôm không, Thi bảo "Có". Tiệp giận từ mùng hai tới mùng năm mới xả cảng. Những khi rỗi rãi, Nguyên nằm nhớ lại thời đã qua và anh nhận ra rằng bọn anh đã chơi rất nhiều ván bài định mệnh. Mười một năm trước, Hoà hỏi Tiệp có thương Thi không. Tiệp gật. Vì cái gật đầu đó mà Nguyên ở lại làm ăn tại thành phố, anh biết mình chẳng còn hy vọng gì nữa rồi. Có lần Thi hỏi lại:

    - Tao cưới Tiệp, mầy có buồn tao không?

    Anh lắc đầu. Rồi có lần Chi hỏi:

    - Không cưới vợ, ở vậy chờ ai?

    Lần đó, Nguyên nói dối, bảo là chờ duyên tới. Mà duyên thì đâu phải muốn gặp là gặp. Cũng có yêu hai ba lần đó chớ, nhưng hết thảy tréo cẳng ngỗng hết, biết làm sao. Ai cũng biết là Nguyên nói dối, anh không quên được Tiệp chớ gì. Họ phạt anh uống liền một hơi ba cốc rượu đầy. Nước mắt anh trào ra, anh nhăn mặt, rượu gì mà cay dữ vậy. Chỉ Thi, mà không, có khi cả Tiệp nữa hiểu được ý nghĩa những giọt nước mắt kia.

    Năm nay phải bắt phe lại. Chi với Thi một phe. Tiệp với Hoà một phe. Nguyên ngồi cạnh Tiệp buông rèm chấp chính cho tiệp. Những lá bài còn bóng giấy được chia ra. Hoà lơ đãng nói:

    - Y chang năm ngoái hen.

    Trời đất, thời gian mà, sao mà giống năm ngoái được. Năm ngoái Chi còn thon thả chớ đâu có phì ra như cái eo bánh mì, năm ngoái Hoà còn sáng sáng ra đá cầu với đám trẻ chớ đâu có tự dưng trở chứng muốn chơi chim, chơi cây cảnh tao nhã như mấy ông già đâu. Năm ngoái Nguyên đâu co gầy rạc, xệch xạc. Năm ngoái, Thi ngồi đằng sau Tiệp làm cô vấn an ninh chớ đâu phải Nguyên. Năm ngoái, họ còn là chồng vợ. Nhưng ai dám chắc, trong lòng họ hết thương nhau?

    Nhất là khi bắt bài lên tay, Thi bảo: "Ông Nguyên phải coi chừng em Tiệp, cái tánh bốc đồng ngẫu hứng không bỏ được đâu, từ đây ông phải chăm sóc Tiệp dài dài", nhưng Nguyên đọc trong mắt Thi lời gửi gắm khác. Anh vẫn nhớ khi chuyện Thi đỗ vỡ, Thi đi công tác có ghé anh, hai đứa kêu bia về uống. Nguyên hỏi Thi tại sao lại tới nông nỗi vợ một nơi, chồng một ngã. Thi bảo tại không hợp nhau. Đừng hỏi tại sao, không thể kể ti tỉ chuyện lụn vụn trong cuộc sống vợ chồng được đâu. Nguyên hỏi có người thứ ba không, Thi bảo phải chi có để căm ghét nhau cho đỡ khổ. Rồi khi Nguyên đã say mèm, Thi hỏi lại anh có còn yêu Tiệp không. Anh đã không nói dối, với Thi. Hai thằng từng ngủ chung giường, từng ăn chung mâm khi Nguyên ra thị xã trọ học. Má Thi hiền, thương hai đứa như nhau, chủ nhật Nguyên về quê, cõng ra một túm gạo lứt, má giận. Suốt một thời thơ ấu, Nguyên lớn lên bên Thi, thì làm sao có thể nói dối. Nghe anh, Thi chồm qua mấy chai bia lỏng chỏng lấy tay câu lấy vai Nguyên, nghẹn ngào:

    - Phải chi hồi đó tao đừng cưới Tiệp, Tiệp sống với mầy biết đâu đỡ khổ hơn với tao.

    Nguyên không nghĩ vậy. Thi không hiểu đâu. Bây giờ anh càng không nghĩ đến điều đó. Anh không có thời gian nữa, anh không còn chút gì để cho mình nữa. Anh gấp gáp lắm.

    Bắt đầu từ tháng Năm rồi, Nguyên mắc cái bệnh bồn chồn. Anh muốn làm cái gì đó, trước khi không kịp nữa. Làm cho những người mà anh yêu thương. Một lần điện thoại về, anh Bảo Thi, nhắn với Hoà, Chi, Tiệp, anh sẽ tạo ra một mẫu nhồi bông mới, không phải thú mà là người. Hoà ốm, cao, mặt chữ điền, cạnh nào ra cạnh đó. Chi ú na ú núc, cái miệng rộng, cái mũi to bè bè nhưng đôi mắt rất đẹp, đôi mắt tròn xoe. Thi dong dỏng người, lưng tôm, trán cao, mũi thẳng, miệng mím lại cương quyết.Tiệp tóc dài, khuông mặt tròn dình, miệng lúc nào cũng như cười, mắt lúc nào cũng như hỏi. Và anh sẽ tạo anh...

    - Nhồi bông tụi mình để làm gì? Để khi không còn bên nhau nữa thì tụi bông gòn đứng kề nhau à?

    Thi để con ách cơ xuống, trông như một trái tim son, mắt anh ngầu lên. Nguyên nhìn vào nét mặt thi bối rối, anh muốn nhìn đi chổ khác mà không biết nhìn đâu. Hoà bỏ xuống từng lá bài cho một sảnh dài tràng giang đại hải:

    - Thằng Thi đúng à. Tụi mình mà đem nhồi bông thì y chang con thỏ ăn củ cải của Nhện Con, làm sao đánh bài, rồi làm sao mà uống rượu. Xong - Hoà khoan khoái - Tao về nhứt, đã thiệt.

    Thi quăng bài ngang, khàn khàn giọng mũi biểu nghỉ chơi. Anh nói anh say lắm rồi, say muốn khóc luôn đây. Chi nhằn, thấy tướng mạnh dạn vậy mà có tật không bỏ, hễ say là đòi khóc. Thi mơ màng, "Hỏng hiểu sao muốn quên mấy chuyện mà càng uống nhiều, càng nhớ đứt ruột". Hỏi chuyện gì, Thi nói chuyện của ngày xưa. Nhớ một đêm ba mươi ba má Chi đã vượt biên bỏ một mình chị ở lại sau một năm giải phóng, nhớ Hoà ở tù bốn tháng mười chín ngày vì tội cho dân phá rừng để sống khi còn làm việc ở lâm trường, nhớ Nguyên ngày đầu lập nghiệp, cái xưởng sản xuất đồ chơi tẹp nhẹp như ổ mèo, khói bụi mịt mù. Nguyên buổi sáng ăn bánh mì không, chiều ăn bánh mì uống nước lã. Nhớ Tiệp hồi sinh Nhện Con, thai ép tim, phải chuyển viện tận thành phố để cứu mẹ, cứu con, số tiền dành dụm từ ngày cưới, dành dụm từ những buổi chiều tan sở, Thi gò lưng đi đổ cơm cặn về cho Tiệp nuôi heo đã lo thầy thuốc tan tành... Những ngày khổ đau, khó khăn cũng qua rồi. Chi thắc mắc:

    - Biết bao nhiêu chuyện bự bự vậy mà tụi mình cũng vượt qua hen. Sao hay vậy không biết?

    Có thể vì họ chưa bao giờ ngừng chiến đấu và hy vọng về một ngày mới tốt đẹp hơn. Có thể vì họ tin và yêu biết bao nhiêu cuộc đời này. Nguyên nghĩ khác:

    - Bởi vì chúng ta chưa bao giờ bỏ nhau - Anh bắt đầu nổi hứng văn chương - Bởi vì chỉ có cái chết mới chia lìa được mấy đứa mình.

    Thi nhìn Nguyên chằm chằm:

    - Mày bệnh hả?

    - Không, tao khoẻ.

    - Chắc không?

    - Chắc như bắp luộc - Nguyên cười.

    Thi nhăn mặt:

    - Vậy mà mở miệng ra là nói chuyện chết. Hồi còn học tiểu học, mầy còn nhớ trường Nguyễn không? Trường nằm đâu lưng với chùa, bữa nào tụi mình cũng leo rào qua chơi bắn đạn dưới gốc bồ đề. Thấy người ta vái, mấy đứa cũng bày đứng vái, cho tụi con chơi với nhau hoài, tới một trăm tuổi luôn. Mầy năm nay bao nhiêu rồi, Nguyên? Bốn ba. Tụi tao cũng tròm trèm. Còn lâu tụi mình mới chết. Còn năm mươi bảy cái Tết nữa mà, Nguyên.

    Nguyên nhìn ra cửa. Trời đang lặn xuống cái vạch trời thăm thẳm. Đêm xăng xái lại buông màn. Anh thấy thích cái cảnh chiều qua như thế nầy, anh thấy yêu cuộc sống nầy, cái cuộc sống mà anh hít được, thở được. Anh bảo:

    - Chắc mùng sáu tao quay về thành phố. Công chuyện quá trời...

    Không ai lên tiếng cầm anh lại. Thi nhìn Tiệp, Tiệp lên tiếng, "Em sẽ đi cùng để lo thủ tục chuyển việc". Chi nói bây giờ hứng sảng rồi, Chi mắc ca, chị muốn tặng Nguyên một bài. Cả bọn khủng khiếp quá nhưng trợn trạo biểu ca đi. Chi ca "Đừng tuyệt vọng, Tôi ơi, đừng tuyệt vọng..." Tự nhiên như cái đập oà vỡ, trừ Nguyên, cả bốn đều nghẹn ngào, nức nở.

    Aha, vở kịch đời đã hạ màn khi chưa hết vở. Thử uống từng ấy rượu, coi có ai kìm nén được mình không. Đã cố lắm rồi, Tiệp đi Sài Gòn cũng nằm trong kịch, Thi kể chuyện xưa cũng nằm trong kịch suốt, la lối cho to, cười làm như hể hả, nói chuyện cười, cụng ly chan chát... Cũng đừng để nghe trong nhau mỗi người cuộn lên ngàn tiếng thở dài. Làm sao vui được như những ngày cũ. Làm sao được vui như những ngày cũ. Cả bốn người kia chua xót nghĩ, mình diễn được tới đây là vĩ đại lắm rồi.

    Chỉ có Nguyên, anh dỗ, "Trời ơi mới mùng ba Tết mà khóc kiểu này cả năm xui lắm đó. Mà, chuyện gì vậy, có gì không?

    Đâu có gì, lúc sáng, khi Nguyên còn tắm trong nhà Hoà, điện thoại cầm tay Nguyên reo. Hoà nghe máy, lại đùa mình là Nguyên. Cái giọng nữ đó (Hoà mô tả là khủng khiếp hơn giọng Chi), mắng té tát, hỏi tại sao không xạ trị đúng thời kỳ, ung thư phổi thời kỳ giữa rồi chớ giỡn sao. Tìm trong công ty, thư ký nói không có, gọi máy thì tắt máy. Cổ hỏi gằng gằng rằng anh còn yêu sự sống không? Hoà chết lặng đi, rất lâu, lâu lắm...

    Vậy mà Nguyên bây giờ tỉnh rụi, anh đang cố hết sức mình để diễn cho mọi người vui. Hoà bậm môi lại để cười:

    - Có rảnh thì gọi điện thoại về cho bác sĩ Phương. Ờ Phương hay Dương ta? Nói với cổ, mồng sáu ông về, mà thôi, đừng thèm nói, ông hát vô máy câu này nè "Tôi là ai, là ai, mà yêu quá đời này". Phải chiến đấu chớ Nguyên, chiến đấu tới cùng. Bữa nay nữa thôi, ông không nhậu nhẹt nữa, để sống, coi như đây là bữa rượu cuối cùng của ông.

    Hình như thời gian lầm lẫn, mà số phận cũng lầm. Đối với những người như thế, ngày hôm qua đã ở lại mãi, trong lòng.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,703
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nhớ sông

    Mỗi lần qua sông Cái Lớn, Giang lại nghĩ chắc tới già, tới chết, mình sẽ chẳng bao giờ rời chiếc ghe nhỏ này đâu. Cũng khúc sông này, năm Giang mười tuổi, má Giang chết. Hôm đó, trời mưa nhỏ nhưng gió nhiều, gió bạt tay chèo liêu xiêu. Nước từ vàm sông cuồn cuộn đổ ra. Chiếc ghe bạt nước tấp vô sà lan chở cát. Ông Chín, ba Giang, chống đằng mũi; má Giang, chống đằng lái. Giang ngồi trong mui ghe, ôm con Thuỷ vào lòng. Giang thấy rõ ràng lúc cây sào trong tay má đang chỏi vào thành sà lan trượt hướt lên, má ngã xuống, đầu má đập vào cái gờ sắt, đôi chân còn bíu vào ghe. Rồi má cong lại như chiếc võng, hụp vào sông. Giang khóc điếng, bồng con Thuỷ lồm cồm bò về đằng sau lái, Giang còn kịp nhìn thấy mái tóc má trôi loà xoà liêu phiêu trong làn nước rồi mất hút.

    Giang không hiểu tại sao mình nhớ hoài, nhớ ràng ràng cái ngày đó. Cho nên qua vàm lần nào Giang đều kéo con Thuỷ ra, Giang chỉ: má chết chỗ này nè. Con Thuỷ ừ hữ như không. Giang hỏi: không nhớ à? Thuỷ lắc đầu.

    Cũng phải, lúc đó con Thuỷ còn mềm xèo, nhỏ xíu như con mèo mướp. Hệt như Giang, nó lớn lên trên ghe. Lúc buôn bán, lúc nấu cơm, ông Chín không bồng được, Giang buộc sợi dây dù vô chân nó, đầu kia Giang buộc vô mui ghe. Con Thuỷ bò chán bò chê rồi nằm ngửa ra, ngó những trái cà, trái khóm, trái bí, bầu ông Chín treo lúc lỉu trên nhánh chà đằng mũi ghe. Có lẽ nó biết thân mình mồ côi mẹ nên nó dễ chịu, dễ tánh.

    Gia đình ông Chín sống hẳn trên ghe. Cảnh của ông cũng buồn lắm. Nhà nghèo, ra riêng, gia đình chỉ cho hai công đất. Năm Giang ba tuổi, Giang lên sởi. Ông Chín bán đất cứu con. Số tiền còn dư lại, ông mua chiếc ghe nhỏ đi bán hàng bông. Cả nhà dắt díu nhau linh đinh sông nước. Có lúc vừa ghé lại bờ, chưa kịp buộc dây ghe vô gốc mắm, do quẩn chân lâu ngày Giang đã chạy lên bờ, chạy cuống chạy cuống như điên trên đất. Má Giang rớt nước mắt: "Con nhỏ thiệt thòi...". Ông Chín an ủi: "Vì miếng ăn mà, mình ơi".

    Sau này khi vợ chết, không hoàn toàn vì miếng ăn mà cả nhà ông Chín trôi dạt hết dòng sông này đến con kinh kia. Ở đáy con sông nào đó còn là nơi gởi gắm xương thịt của người đàn bà xấu số - má Giang. Những buổi tối, buộc ghe vô gốc tra bông nở vàng cặp mé sông, ông Chín dạy chị em Giang học. Có được chút vốn học hành nhỏ nhoi, ông dạy bằng hết. Giang lanh lợi hơn con Thuỷ, học ít mà tính rợ cực kỳ giỏi. Buôn bán lu bù mà nó tỉnh như không. Nó tính toán hết, mua rau trái, đường đậu tạp phẩm cho chuyến đi, chở than, chở củi chuyến về. Nhiều chuyến bốc than còn nóng chất dưới sạp ghe, chị em Giang nằm trên đó mà ngủ, sáng ra lưng phồng rộp. Ông Chín ứa nước mắt, cắn răng biểu: "Lần sau thôi nghen, con Hai".

    Bây giờ hỏi lại Giang nói không có con kinh, con rạch nào mà ghe chưa đi qua, không có đường ngang ngõ tắt nào mà ông Chín không biết. Xuôi dòng, ngược dòng, con nước kém, con nước ròng... Không ai nói với ai, nhưng cả nhà ông đều nghĩ, chắc là sống như vầy hoài, như vầy mãi thôi. Chị em Giang đùa nhau sau này lấy chồng, ra riêng, ba cho mỗi đứa một chiếc ghe. Con Thuỷ nói nó không lấy chồng, nó ở vậy đi bán với ba, nó nói mà giọng hơi buồn. Ông Chín nghe rồi như gió ùa về, lòng tự dưng nghe đau xót. Rồi khi hai đứa con gái ông sinh ra những đứa con, chúng lại phải sống cuộc đời lênh đênh như má chúng, ông nghĩ vậy, đâu có được. Những buổi chiều ghé đi qua thị trấn, qua phố huyện, giờ tan học nhìn đám học trò túa ra cổng trường, đám học trò áo lem mực, tay kẹp nách cái cặp, tay mang bình nước, con Thuỷ lón lén đắm đuối nhìn lên, mắt ông Chín cháy âm âm một nỗi gì đau đáu.

    Giang gặp hoài đôi mắt đó, Giang thương ông quá đi thôi. Giang lấy chồng. Chồng Giang tên Thuấn ở Đập Sậy. Những lần đậu ghe lại buôn bán, Thuấn đều mời ông Chín lên nhà uống rượu. Nhà Thuấn không giàu nhưng cũng đủ mặc đủ ăn, có đất làm ruộng, gần trường xã. Ông Chín chọn Thuấn trước, ông hỏi Giang có ưng không. Giang ngồi chải tóc, chải tới rát da đầu, vuốt ra từ cây lược mớ tóc rối (như lòng mình rối). Giang gật. Giang lấy chồng hôm mười chín tháng hai, khi dọc những triền sông, trên những đám chùm gọng, những rặng ráng... loài chùm gởi tơ hồng phủ lên một màu vàng óng, rồi chi chít những bông hoa trắng con con như hột tấm mẳn. Mấy chiếc ghe bạn kè lại thành bè, đậu phía ngoài đập. Đám đàn bà con gái bê những cái cà ràng nhóm củi nấu ăn trên bờ. Hiện - bên ghe bạn - cũng bày đặt đi đốn là dừa về bẻ vòng nguyệt trên mũi ghe nhà Giang. Ngày vui của Giang mà Hiện lầm lì, có cười cười cũng héo xèo. Nửa đêm nhóm họ, rượu uống sương sương, Hiện ca Tình anh bán chiếu mà nước mắt ròng ròng. Hiện lấy mu bàn tay quệt nước mắt, trợn trạo biểu: "Rượu xứ nầy cay dễ sợ". Rồi dòm trong ghe thấy Giang ngồi xếp quần áo với con Thuỷ, Hiện kêu: "Chắc sau này mình hổng gặp được nữa, cô Hai hen". Giang ngước lên cười buồn. Con Thuỷ thày lay: "ảnh thương chế đó". Giang vỗ đầu em: "Thương khỉ khô gì mà không chịu nói, hả?". Con Thuỷ cười: "Chế hỏi cái bộ như em là ảnh vậy". Sáng sau, Giang mặc áo dài từ dưới ghe bước lên, ông thợ chụp ảnh chụp được một pô đẹp ơi là đẹp, đẹp nhất là quanh Giang mớ bông tra vàng rụng tơi bời lừng lững như hàng trăm cái chuông.

    Giang ở nhà chồng rồi, con Thuỷ buồn lắm. Nó thay Giang buôn bán cho ông Chín nghỉ ngơi sau bao ngày lèo lái. Nó lanh lợi, mau mắn không bằng Giang nhưng được nước siêng. Ngày nào nó cũng lật lịch coi, tới con nước ba mươi đi bán vùng xóm rẫy về, ghe ghé Đập Sậy thăm chị nó. Có bữa dọn cơm nó vô thức dọn thừa đôi đũa, cái chén, ông Chín rày: "Mai mốt bay lớn bay cũng lấy chồng, chị bay đâu ở được với bay hoài". Nói vậy mà sao lòng ông cũng cồn cào nhớ.

    Ghé Đập Sậy, Giang đòi ông Chín ở lại một đêm, cho Giang xuống ghe ngủ với con Thuỷ. Giang than nức nở: "Trời ơi, con nhớ ghe quá trời đất đi". Xuống ghe, Giang đưa tay rờ rẫm từng món hàng, từng miếng sạp. Trên nhà, ông Chín ngồi uống rượu với Thuấn. Thuấn uống dữ, anh toàn tợp nguyên ly. Uống xong rồi lè nhè than: "Con nuôi con Giang như nuôi con sáo, hổng biết giờ nào nó xổ lồng nó bay. Con Giang là vợ con, nó ở đây mà lòng dạ nó ở đâu á...". Ông Chín lặng người.

    Thường thì cơm nước, quét dọn xong hễ hở ra giờ nào Giang lấy xuồng chèo đi giờ ấy. Trời đất, nó đi đâu? Thuấn cười chua chát: "Hổng biết, nó chèo khơi khơi vậy đó ba à, con cũng nghi bậy trong bụng, có bữa con rình đi theo, vợ con chèo đã đời rồi nó buông chèo lụi vô đám lá, lấy tay vịn, ngồi ở đó. Rồi chèo về, vậy à". Ông Chín thở dài.

    Đêm đó Giang nằm dưới ghe. Giang hỏi con Thuỷ: vậy chớ ghe mình bán có đắt không, bây giờ ghe mình thường về đậu ở bến nào, ba còn buồn, còn uống rượu ban đêm không... Thuỷ trả lời muốn mệt. Con Thuỷ nói:

    - Anh Hiện gởi lời thăm chế. ảnh hỏi em hoài à, hỏi vậy chớ chế lúc nầy vui hông? Em nói em hổng biết. Sao mà em thấy ảnh tội nghiệp thiệt. Phải chi... - Con Thuỷ lúng búng dừng lại rồi thẹn thò nói tiếp - Phải chi có cái gì thường được, mình thường cho ảnh.

    Mắc mớ gì mà phải bồi thường - Giang cười rồi giật mình. Con Thuỷ năm nay mười tám tuổi, nó lớn thiệt, lớn mau quá. Giang nhớ cái ngày con Thuỷ có kỳ kinh nguyệt đầu tiên, nó lụi đầu giấu vô mớ cốm gạo treo lủng lẳng khóc mướt. Giang bảo không sao đâu, không sao đâu mà chực rơi nước mắt. Giang nghĩ phải chi còn má. Thuỷ còn có chị nó, chớ ngày đó của Giang, Giang cũng khóc mà không thể hỏi ai. Ông Chín tinh ý biết, ông lặng lẽ qua bên ghe nhà Hiện, nhờ má Hiện. Ngồi hút thuốc như ống khói tàu, lần đầu tiên ông thấy mình bất lực, vô dụng và bối rối trước đứa con gái đáng thương.

    Nhớ lại nhiều chuyện quá, Giang không ngủ được. Con Thuỷ bày ra chuyện lắc ghe, lắc như là ghe đang bị sóng vậy, nó biểu "chắc là chế quen ngủ vậy rồi, êm êm hổng chịu". Giang thiếp đi, thấy mình đang ở trong một cơn mơ mà giấc mơ cũng tròng trành.

    Khi ra về, nhìn bóng Giang xơ rơ đứng tiễn bên hàng me, ông Chín dặn lòng, thôi, sau nầy có nhớ thì lâu lắm mình mới ghé thăm. Rồi nó sẽ quen, sẽ quên đi. Nó phải biết cách sống với đất để nghĩ về tương lai những đứa con của nó.

    Nhưng chưa đầy con trăng đã thấy Giang khăn gói về bến Xã Xiêu. Giang lần theo mấy chiếc ghe bạn hỏi thăm rồi quá giang họ về. Ông Chín thấy Giang lòng đau bầm. Ông gằn gằn hỏi: "Con Hai! Bay đi đâu?" Giang cúi mặt: "Con nhớ ghe quá hà, con nước rồi ba không thèm ghé thăm con". Giang nói thêm, nói Thuấn cho Giang đi, chừng nào muốn về thì về, "ảnh dễ ghê vậy đó, ba à". Ông Chín đâm sầm ra ngồi đằng lái, vấn thuốc rồi bập bập trên môi mà không buồn đốt. Con Thuỷ sợ ông giận Giang, nó men ra nói khơi: "Lâu lâu có con gái về thăm, sướng thấy mồ, ba đừng giận ba ha". Ông không trả lời, lúc đó ông đang nghĩ về một người đã khuất, lòng ông chua chát: "Tui biết tính sao bay giờ, bà ơi. Tui tính lầm một lần này rồi". Nghe con Thuỷ cười với Giang rộn rã: "Chế ngủ trên nhà riết rồi cũng quen mà, ngủ ghe vừa chật vừa nực thí mồ - Con Thuỷ nói hoài, nó thích có đất, có vườn như bên chồng Giang - Có đất để làm gì hả? Để trồng cây, ừ trồng cây ăn trái, trồng mít và trồng rau". Giang nhắc: "ờ phải em ham đất lắm, hồi nhỏ ghe đậu bến nào chế cũng coi em bắt mệt, cứ xoay lưng là em chổng mông cạp đất ăn ngon lành. Ăn đất hoài bụng ỏng bụng eo luôn, nhớ chưa? ".

    Ông Chín lần vào trong, vẹt mớ bánh kẹo, giở hũ gạo ra, moi dưới đáy một chiếc hộp sắt sơn đen. Ông gọi chị em Giang lại, ông mở hộp ra, trong hộp một túi vải dây gút miệng. Ông ngồi xếp bằng, trịnh trọng, trang nghiêm như thể ông sắp đánh đổi cái gì thiêng liêng nhất trong cuộc đời. Ông từ tốn lấy từ trong túi ra từng chiếc khâu vàng óng ánh, nói: "Ngày mai ba đưa con Hai về, thằng chồng bay chắc đang trông...". Giang ngước nhìn trân ông rồi cụp mắt, cúi đầu. Dốc ngược cái túi, ông Chín bảo:

    - Dành dụm cả đời ba chỉ có bao nhiêu đây thôi. Ba sẽ bán chiếc ghe nầy, về quê nội mua một miếng đất, rồi ba với con Thuỷ cuốc đất trồng rau, có gì ăn nấy. Ba đi cả đời, ba cũng mệt...

    Con Thuỷ ngỡ ngàng nhìn vào mớ vàng rồi nó lặng lẽ bò ra ngoài mũi ghe. Nó sợ còn ngồi trong đó, chút nữa thôi nó sẽ bật khóc vì thương mình, thương ba. Con Thuỷ biết khi bỏ lại sau lưng hơn nửa đời sông nước, ông Chín hẳn sẽ buồn lắm, đau lòng lắm. Trong này ông Chín biểu Giang: "Ngủ đi. Rồi ngày mai...". Ông chờ Giang quay đi rồi mới đốt nén nhang cắm trên cái trang thờ treo trên vách: "Còn bà, bà đã thành nước, thành đất, thành cỏ thành cây, cha con tui ở đâu, xin bà theo đó. Đám cháu chắt chít của mình rồi sẽ chẳng phải chịu lênh đênh".

    Giang ngồi ở đầu vòm mui nhìn ra đằng trước. Con Thuỷ không biết mình đang vui hay đang buồn, nó thẫn thờ buông chân xuống nước, khoả bì bõm, mắt hướng về chiếc ghe của Hiện đang đậu sát bờ lá. Hiện biết Giang về nên Hiện nằm ca sang sảng.

    Con Thuỷ lầm bầm: "Chắc là sau này em không gặp được anh đâu".

    Đêm nay cũng có gió nhiều, cà bắp trong đám lá dậy hương, cái mùi dân dã không chịu được. Gió làm sóng chao ghe mà sao khó ngủ quá vậy nè.

  8. #17
    Join Date
    Dec 2010
    Bài Viết
    901
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết
    Cám ơn bác Già Vui nhiều lắm . Kính chúc bác và gia quyến một Chủ Nhật đầm ấm .

    Kính,
    Ngân Hà :)
    "Diễn Đàn tuy ảo, nhưng Nghiệp Quả có thật."
    "Chỉ có người Giác Ngộ và kẻ chưa Giác Ngộ."

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Chi tiền tỷ đón giao thừa
    By duyanh in forum Tin Tức Việt Nam
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-03-2011, 01:37 PM
  2. Nụ cười Giao thừa
    By giavui in forum Truyện Cười Dí Dỏm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-27-2011, 09:23 PM
  3. Giao Thừa
    By giavui in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-26-2011, 07:04 PM
  4. Giao thừa ... Gõ cửa Thế Giới
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-01-2011, 05:47 PM
  5. Bom phát nổ trong đêm giao thừa
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-01-2011, 05:44 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •