Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Bí quyết để sống hạnh phúc là biết chờ đợi hạnh phúc của mình.
H. Riviere
Results 1 to 1 of 1

Chủ Đề: SỐng Sót Trên Biển

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Sống Sót Trên Biển

    Sống Sót Trên Biển


    Tác Giả: Huy Nguyên



    Chiếc ghe vượt biên chở khoảng 150 thuyền nhân bị lạc đường, hư máy nằm bềnh bồng trên song nước bao la đã hơn ba tuần lễ nay.
    Là một chiếc ghe được đăng ký, có thời gian là phương tiện để chuẩn bị đầy đủ nhiên liệu, lương thực, nước uống trong hai tuần lễ cho cuộc hành trình ngắn ngủi quá lắm là hai hôm khởi hành từ cửa Đại đi tới Thái Lan. Ghe lại được công an hộ tống an toàn ra biển. Trong khi đó các trại tị nạn Á Châu mới được dựng nên còn vắng hoe, đang mở rộng cửa, ân cần đón khách thuyền nhân. Vượt biển như thế thì chắc ăn quá, có khác gì đi du lịch đâu. Vậy mà bóng dáng thần chết vẫn đến viếng thăm họ. Đúng là con người sống, chết đều có số.
    Cũng bởi chiếc hải bàn của chiếc ghe này bị hư, người tài công đành phải nhắm hướng sao mà tiến cho nên chiếc ghe đi không chính xác, bị lạc, cứ thế mãi cho đến khi hết cả nhiên liệu, thực phẩm, nước uống cũng chưa thấy bến bờ nào cả. Trong cuộc hành trình lạc đường, chiếc ghe đã ba lần gặp bão, nhưng là ghe vượt biển của nhà giàu nên được đại tu bổ công khai trước khi khởi hành tại bến nên chắc kinh khủng. Ghe cũng đã hai lần gặp hải tặc, nhưng nhờ đám thuyền nhân có mang theo của cải, vàng bạc, đô la, lên tiếng điều đình vì thế đám cướp biển tối mắt, chỉ lấy của cải rồi bỏ đi, nên đám phụ nữ trên ghe thoát màn hãm hiếp hay bị bắt đi.
    Thoát được bão tố, hải tặc, đoàn người lâm vào cảnh cạn hết lương thực, nước uống, và hư máy tàu. Niềm hy vọng được tầu buôn, hay chiến hạm của Mỹ đi ngang đây cứu vớt họ cũng tan thành mây khói khi mọi người bị kiệt sức vì đói sau bốn ngày không còn gì để ăn. Cũng may nhờ những cơn mưa, nên họ đã hứng được nước để mà sống cầm hơi. Trong hoàn cảnh này, những cây vàng lá Kim Thành, những cục hột xoàn sang lấp lánh đã chẳng còn giá trị so với miếng bánh mì tổ phơi khô, củ khoai lùi, hay bát bo bo nhai như ăn phải sạn.
    Tội nghiệp nhất là những người già và đám trẻ con chết vì đói, được thủy táng trong lòng biển. Qua mấy hôm trời nắng, số nước uống dự trữ lại cạn khô.
    Chiều nay, lại thêm ba mạng đàn ông nữa qua đời vì sẵn đau yếu trong người. Người ta không đủ sức để làm thủy tang nửa. Mọi trách nhiệm dọn xác đều phó thác cho người tài công lái ghe là ông Thới, và người chủ thầu tổ chức chuyến đi là ông Phản.
    Tối đến, đám thuyền nhân còn sống nằm rạp hết trong khoang ghe, thoi thóp. Trên buồng lái, ông tài công Thới cũng đến hồi kiệt sức, nằm ẹp xuống sàn, miệng khô ran chẳng còn chút miếng nước. Chỉ còn ông Phản nhờ thân thể mập mạp, khoẻ mạnh nên chỉ bị gầy đi chút đỉnh chứ chưa bị quị luôn. Ông Phản đổ dầu cặn ra chiếc thau nhôm nhúng cái giẻ lau máy tàu đen nhẻm vào, rồi đốt lên. Đây là công việc mà ông vẫn làm mỗi đêm để hy vọng có chiếc tàu nào đó đi ngang thấy được ánh lửa mà tới tiếp cứu chiếc ghe này.
    Ba cái xác chết chưa thủy tang vẫn còn nằm phơi mình trên sàn ghe. Ông Phản kéo lại rồi lấy lưới phủ lên. Gió bắt đầu thổi mạnh. Ông Phản mừng rỡ chạy vào phòng lái gọi ông Thới và nói:
    - Có cơn giông đang kéo tới đây, anh Thới à.
    Ông Thới chợt ngồi nhổm dậy:
    - Vậy mình lo lấy đồ hứng nước đi.
    Hai ông xục xạo một hồi tìm được một tấm bạt nylon khá to, hì hục căng thành một cái võng. Cơn gió thổi càng lúc càng mạnh. Ông Thới mừng rỡ nói
    - Trời thương chúng mình rồi, mưa lớn lắm
    Những ánh chớp loé liên hồi, rồi những bụi nước nhỏ tạt vào mặt hai người. Ông Thới vội chạy xuống khoang la lớn:
    - Có mưa rồi bà con ơi!
    Đám đàn ông còn chút sức lực cố ngồi trỗi dậy để chia xẻ tin vui. Ông Thới lấy cái can nhựa và tất cả những gì có thể hứng được nước đem lên. Vài người đàn ông đã bò lên được phía trên. Họ nằm ngửa trên sàn ghe chờ đợi.
    Rồi mưa đổ ập xuống như một phép nhiệm mầu. Đám người sắp chết khát la to lên mừng rỡ. Những hạt mưa lớn tạt vào mặt mọi người đau rát. Đám đàn ông hả miệng hớp những giọt mưa rồi nuốt một cách sung sướng. Mưa tạt xuống khoang. Đám người ở dưới cố lết tới miệng hầm để đón những giọt nước trong mát tưới lên cơ thể khô héo của họ. Những người còn sức lực kéo cả lên trên boong, nằm xuống sàn ghe. Đám trẻ con cũng được chuyển lên trên nằm hứng nước. Mưa thật lớn. Nước cứ tuôn xuống như thác. Đám người vượt biển nhưu được hồi sinh. Chưa bao giờ trong đời họ lại được nuốt những ngụm nước ngon đến như vậy. Tấm bạt nylon đã căng trĩu đầy nước. Chiếc can nhựa cùng với đám nồi niêu cũng đã đầy tràn nước. Người ta hăm hở lấy nước. Tất cả những túi, bịch, lon và những cái gì có thể đựng được nước, đều được đem ra trưng dụng hết.
    Mưa một lúc lâu lại tạnh. Nước mưa hắt xuống cửa hầm khá nhiều nên đáy ghe cũng lấp xấp nước, nhưng chưa ngập đến tấm ván lót để mọi người ngồi. Gió biển bắt đầu lành lạnh. Mọi người lại lục tục rút xuống khoang nằm nghỉ. Bây giờ họ không còn khát nhưng cái đói vẫn tiếp tục hành hạ mọi người.
    Tối hôm sau, ông Phản lại tiếp tục đốt lửa lên làm hiệu cầu cứu. Ông Thới cố ngồi được một lúc rồi chịu đựng không nổi cái mệt của cơn đói hành hạ nên ông đứng dậy nói với ông Phản:
    - Tôi nằm xuống một chút để cho nó dịu cơn đói rồi lên đấy canh tiếp với anh.
    Nói xong, ông bước xuống khoang. Đám người bên dưới lại nằm lả đi. Cơn đói cứ tới rồi biền đi không biết bao nhiêu lần, bây giờ lại trở về hành hạ họ dữ dội hơn.
    Ông Thới nằm thiếp đi cho tới nửa đêm thì chợt tỉnh lại. Sực nhớ tới ông Phản, ông bèn gắng trỗi dậy leo lên để canh thế ông Phản. Vừa chui lên khỏi miệng hầm, ông Thới chợt ngửi thấy mùi thịt nướng. Ông Phản vẫn còn ngồi canh bên đống lửa đốt dầu cặn, đang cầm cắn ngon lành một món gì trên tay. Mắt ông Thời sang rỡ, ông lướt nhanh tới, cất tiếng hỏi:
    - Anh ăn gì đó?
    Ông Phản vừa nhai, vừa đáp;
    - Cá nướng.
    Ông Thới ngồi xề xuống;
    - Cho tôi một miếng.
    Ông Phản đưa cho ông Thới một xiên thịt đang nướng trên đám lửa đốt bằng dầu chạy máy tàu khét lẹt. Ông Thới cạp một miếng thịt nóng phỏng lưỡi, nhai ngon lành. Thịt ngọt và thơm ngon, nhưng mùi oi khói. Ông Thới ăn một loáng đã hết xiên thịt. Có thức ăn vào bụng, cơ thể ông tỉnh táo hẳn ra. Ông Phản vẫn thong thả nhai, vừa ăn vừa nhìn nét mặt sung sướng của ông Thới. Năm xâu thịt nướng được hai ông chia nhau ăn sạch. Ông Thới quệt miệng nói;
    - Phải chi có xị đế như mọi lần mình đi đánh cá thì tuyệt quá!
    - Anh ăn thấy làm sao?
    - Còn gì ngon hơn trong lúc này. Đói mà có ăn như vậy là tiên rồi.
    Rồi chợt nhớ ra điều gì, ông Thới hỏi ông Phản;
    - Cá gì mà sao mùi vị nó giống thịt vậy anh?
    Ông Phản bình thản đáp;
    - Vì muốn cho anh ăn, tôi đã nói dối là cá, chớ thiệt ra là…thịt người đó!
    Ông Thới chợt ré lên một tiếng, rồi cố móc họng khạc nhổ, nhưng chẳng có gì khạc nhổ ra ngoài được. Mặt ông chợt xanh mét:
    - Anh cho tôi ăn thịt ai vậy?
    - Một trong ba cái xác chết tôi dấu dưới đống lưới!
    Ông Thới nằm bật ngửa ra, thở dốc. Trời ơi, ông đâu có ngờ, mấy miếng ông ăn ngon lành lúc nãy là thịt người. Cảm giác tội lỗi chợt kéo đến tâm hồn ông. Nước mắt ông chợt trào ra. Ông Phản lên tiếng;
    - Mình cần phải ăn để mà sống anh Thới ạ. Sở dĩ tôi chưa liệng mấy cái xác đi là biết trước, sau gì chúng ta cũng phải cần đến nó. Lấy thịt của người chết để nuôi người sống cũng chẳng có gì là tội lỗi cả, bởi chúng ta đã kiệt lực vì đói. Không ăn nó thì ăn cái gì nay?
    Ông Thới nằm yên, mắt nhìn trừng trừng lên trời đêm. Dù ông biết lời ông Phản rất chí lý trong trướng hợp này, nhưng ông vẫn thấy nó ghê rợn làm sao ấy. Ông không trách ông Phản, bởi vì ông cũng nhờ mấy miếng thịt vừa rồi mà lấy lại sức sống.
    Thế rồi, thịt của ba người chết được hai ông già bí mật lóc ra từng mảnh nhỏ, xương cốt, ruột gan của ba xác chết được thảy xuống biển khơi. Số thịt được ướp nước muối, phơi khô, và số nước hứng được trong trận mưa đã kéo dài sự sống cảu đám người trên chiếc ghe bất hạnh được thêm mấy ngày nữa. Họ cứ đinh ninh đó là thịt một loài cá mập con như lời hai ông nói. Chưa có ai hân hạnh được ăn thịt cá mập bao giờ nên họ cũng không thắc mắc đén cái mùi vị khác lạ của miếng thịt họ được ăn, và cũng không thắc mắc làm sao mà hai ông lưới được cá mập.
    Khi mớ thịt muối đã hết, đoàn người lại lâm vào cảnh đói, khát thì may mắn thay, họ được một chiếc thương thuyền mang cờ Mỹ đi ngang qua, tiếp cứu, cho tất cả lên tầu.
    Chuyện ăn thịt người đã được hai ông già giữ kín. Sau này, khi được định cư tại Hoa kỳ, lúc gặp lại nhau trong bàn tiệc nhậu hai ông vui miệng kể lại chuyến đi khủng khiếp đó và thú thật đã cho thuyền nhân ăn thịt người, nhưng chẳng ai tin. Còn những người đi cùng chuyến ghe định mệnh đó thì cứ nhất định khoe với hàng xóm là họ đã được ăn thử thịt cá mập.

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    45,991
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 17 Lần
    Trong 17 Bài Viết
    Campuchia cũng có dự án xây hai đập Stung Treng, Sambor và chuyển nước sông Mekong từ Koh Sotin qua một hệ thống kinh đào dài 80 km để tưới 300 000 ha vùng Kompong Cham, Prey Veng và Svay Rieng (dự án Vaico) và dự án tương tự lấy nước để tưới 380 000 ha vùng Stung Treng và Kratié.

    Thái Lan cũng có dự án khổng lồ 75 tỉ USD chuyển dòng sông Mekong quặc vô sông Loei, một chi nhánh nhỏ chảy trong Thái Lan (dự án Khong-Loei- Chimun) để xây một hồ chứa nước 4 tỉ m3 có khả năng cung cấp nước ngọt rộng như ĐBSCL (4 triệu ha).

    Nói tóm lại, nước nào cũng có dự án chiếm hữu sông Mekong, duy chỉ có VN ở cuối sông thì "lãnh đạm và lãnh đạn". Lãnh đạm vì VN bị cai trị bởi một chế độ ngu dốt, tham nhũng, nên không có sáng kiến gì chỉ chờ phù sa và nước ngọt từ thượng nguồn đổ về, nhưng nước đã bị đàn anh Trung Quốc và các đàn em đồng chí Lào, Miên chia nhau xây đập nên Việt Nam ở cuối nguồn phải gánh chịu tất cả các hậu quả, nói nôm na là lãnh đạn. Trong tất cả các hội nghị, từ cấp thủ tướng đến bộ trưởng, vì nể sợ Trung Quốc, không một lãnh đạo VN nào dám phản đối chỉ có những tuyên bố linh tinh với các ngôn từ rỗng tuếch, đặc điểm của ngôn ngữ cộng sản, đại loại như… rà soát, triển khai, phát triển bền vững, nâng cao chất lượng, thực hiện tốt… Hãy nghe Bộ Trưởng Tài Nguyên Môi Trường kiêm Chủ Tịch Ủy Ban Mekong VN phát biểu trong một hội nghị: "VN theo dõi đặc biệt với sự quan tâm đặc biệt và quan ngại sâu sắc…" (Thêm đập thủy điện trên sông Mekong VNexpress 14/5/2017). Quan tâm đặc biệt mà chỉ ngậm miệng chẳng có sáng kiến, biện pháp nào cả. Càng tồi tệ hơn, trong khi các chuyên gia về môi trường và cả thế giới phản đối Lào và Trung Quốc thì Phạm Tuấn Phan, đại diện VN trong Ủy Hội Mekong lại tuyên bố với báo chí: "…Lào lắng nghe ý kiến quan ngại và đã thay đổi thiết kế tạo điều kiện cho sự di chuyển của cá và nước…, đập Xayaburi được coi như một kiểu mẫu của tất cả đập dòng chính sông Mékong." Bà Maureen Harris, Giám Đốc Tổ chức Quốc tế Sông ngòi (International Rivers) khu vực Đông Nam Á đã cực lực phản đối lời phát biểu kỳ dị nầy. (Đập thủy điện Lào đe dọa nông nghiệp ĐBSCL- RFA 23/03/2017).

    Thật là nhục nhã cho đất nước VN có những người đại diện chỉ là những đảng viên ngu xuẩn, hèn hạ, chẳng những không binh vực cho quyền lợi quốc gia mà còn làm thiệt hại quốc gia bằng các hành động bất tài, bất xứng. Thì ra, trong vấn đề đập nước, Trung Quốc khỏe ru vì bên dòng sông Mekong có 3 đồng chí Việt Miên Lào chấp nhận làm khuyển mã.

    Các Ủy hội Mekong

    Trịch thượng và xảo quyệt, Trung Quốc tự xem là bá chủ và lập luận rằng Lan Thương là con sông của Trung Quốc chảy trong nội địa, Trung Quốc có quyền hành xử theo nhu cầu và quyền lợi của Trung Quốc mặc cho những phản đối của lân bang hay các hiệp hội quốc tế. Vả chăng, Trung Quốc không bị ràng buộc bởi bất cứ một thỏa ước nào với các quốc gia ven sông Mekong.

    Về các thỏa ước, năm 1957, Liên Hiệp Quốc đã thành lập Ủy Ban Mekong (Mekong River Committee) gồm 4 quốc gia là Việt Nam Cộng Hòa, Miên, Lào và Thái Lan, trụ sở ở Bangkok, nhằm mục đích phát triển lưu vực sông Mekong, nhưng nhiều dự án đã không thực hiện được vì chiến tranh. Sau 1975, khi cộng sản nắm quyền ở Việt Nam, Miên, Lào và mặc dù có một Ủy Ban Lâm Thời (Interim Mekong Committee) nhưng Ủy Ban nầy thực tế không hoạt động vì Miên đã rút ra khỏi Ủy Ban khi Khmer Đỏ cầm quyền năm 1978 và sau đó là chiến tranh Việt – Miên.

    Ngày 05/04/1995, tại Chiang Rai (Thái Lan), 4 quốc gia trên ký kết Hiệp Định Phát Triển Bền Vững lưu vực sông Mekong (Agreement on the Cooperation for the Sustainable Development of the Mekong River gọi tắt là Ủy Hội Mekong (Mekong River Commission) đặt lại nền tảng hợp tác giữa 4 quốc gia trong việc khai thác sông Mekong trong hữu nghị. Mặc dù là quốc gia ven sông, Trung Quốc và Miến Điện chỉ tham gia với tư cách cố vấn.

    Phải chờ đến năm 2010, Ủy Hội Mekong mới hợp Hội Nghị Thượng Đỉnh đầu tiên tại Hua Hui (Thái Lan) với một bản nội qui và những tuyên bố chung chỉ có tính cách khuyến cáo mà không có quyền phủ quyết hay chế tài đối với các hội viên không tôn trọng nội qui (như Ủy Hội Mékomg 1957), do đó từ ngày tái lập, Ủy Ban bất lực trước mọi cuộc tranh chấp giữa các quốc gia ven sông, đặc biệt với hoạt động của Trung Quốc trên các đập ở thượng nguồn. Mặc dù với các tác hại rõ rệt minh chứng qua các cuộc điều tra của các giới nghiên cứu độc lập, Trung Quốc luôn tuyên bố là các đập nước của Trung Quốc không ảnh hưởng gì đến hạ lưu, và Trung Quốc cũng không cung cấp đầy đủ các dữ kiên, thông tin về các đập cho Ủy Hội và các cơ quan quốc tế.

    Để vô hiệu hóa Ủy Hội Mekong, năm 2015, Trung Quốc lập ra một tổ chức lấy tên là Ủy Ban Hợp Tác Lan Thương–Mekong (Lancang-MeKong Cooperation = LMC) qui tụ 4 nước trong Ủy Hội Mekong là Việt, Miên, Lào, Thái Lan, thêm Miến Điện và Trung Quốc. Vô hiệu hóa vì từ đây có một ủy hội mới mà Trung Quốc là cấp chỉ huy sai bảo các đàn em vốn cũng độc tài tham nhũng bằng cách tài trợ các dự án mà Trung Quốc là chủ thầu và các quốc gia đàn em sẽ là con nợ truyền kiếp. Với tên gọi Lancang- Mekong Cooperation, Trung Quốc lưu manh xem sông Lan Thương và Mekong như hai con sông khác biệt và với sách lược nầy, Trung Quốc đang tái lập lại Đông Dương thuộc Pháp của thế kỷ trước.

    Trong hội nghị thượng đỉnh lần thứ hai của LMC tổ chức ở Phnom-Penh vào ngày 10 tháng 2 năm 2018, Trung Quốc cam kết dành 12 tỉ USD dưới hình thức viện trợ và cho vay ưu đãi để thực hiên các dự án tại 5 quốc gia trong LMC. Một trong những dự án chính yếu mà Trung Quốc chủ tâm thực hiện là nới rộng lòng sông Mekong và Menam ở vùng biên giới Thái Lào để tàu chở hàng của Trung Quốc từ Vân Nam có thể xuôi dòng ra tới Ấn Đô Dương trong sách lược Một Vành Đai, Một Con Đường mà Tập Cận Bình đã đề ra hồi năm 2013. Báo cáo của TQ là trong 10 tháng năm 2017, thương mại giữa TQ và 5 quốc gia Mekong đạt được 17.5 tỉ USD và TQ đã đầu tư vào 2.6 tỉ, tăng 22% so với năm ngoái. Thủ tướng Lý Khắc Cường đã ví von TQ đóng vai trò của "chiếc đầu tàu tốc hành đưa 5 quốc gia Mékong vào thời đại cao tốc", còn ngoại trưởng Vương Nghị thì nói TQ là chiếc xe ủi đất. Thủ tướng Miên, người đồng chủ tọa hội nghị hí hửng ca tụng Trung Quốc là hào phóng. Nhìn chung, đó là mánh khóe của tên ăn trộm quăng cục xương cho những con chó giữ nhà gặm để tự do lục lạo.

    Thitinan Pongsudhirak, giáo sư về Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Chulalongkorn (Bangkok) có nhận định: "Đối với Trung Quốc, chặn dòng nước vì lợi ích của chính mình rồi giả vờ có lòng tốt đề nghị chia sẻ quyền lợi với những nước hạ nguồn để mặc cả trong ngắn hạn. Nhưng cuối cùng, cách giao tiếp thiển cận của Trung Quốc theo luật chơi của mình mà không quan tâm đến các bên khác có thể gây tác dụng ngược lại. Hôm nay, Myanmar là quốc gia không chắc sẽ phục tùng Bắc Kinh trong vấn đề Mekong. Sau nầy có thể sẽ là Thái Lan, khi nước nầy trở lại với chế độ dân chủ và có thể là Việt Nam, khi đơn giản là nước này không còn chịu đựng được nữa. Quyền lực các con đập của Trung Quốc có thể sẽ đập lại Trung Quốc khi các nước nhỏ đoàn kết để chống lại."

    For China, blocking off the water for its own benefit and then feigning benevolence in offers to share it with those further downstream yields short-term bargaining chips. But eventually, China's myopic approach of playing by its own rules and disregarding those of other parties may boomerang back. Today it is Myanmar which is unlikely to subserviently toe Beijing's line on the Mekong. Later it could be Thailand, when the country returns to democratic rule, or perhaps, Vietnam -- when it has simply had enough. China's dam power may yet be damned if its smaller neighbors gang up against it. (China’s Alarming Water Diplomacy on the Mekong in Nikkei Asian Review 21/3/2016).

    Người viết thiết nghĩ, chuyện các quốc gia nầy "tỉnh ngộ" chống lại Trung Quốc là chuyện mộng mơ, đặc biệt với Việt Nam đã mất cả dân trí, dân khí từ khi đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền.

    Tác hại các đập nước thượng nguồn sông Mekong lên Đồng Bằng Sông Cửu Long

    Từ 8000 năm qua, mỗi năm sông Mekong chuyên chở hàng tỉ tấn phù sa và vật liệu trầm tích bồi đấp đồng bằng sông Cửu Long và làm mũi Cà Mau lấn ra biển mỗi năm khoảng 100m. Nhưng từ khi TQ xây đập, ước tính của các chuyên gia là các đập của Trung Quốc đã giữ lại khoảng từ 50% đến 90% tổng lượng phù sa và trầm tích. Những đập khác đang xây trên dòng chính ở Lào và Miên còn cộng hưởng thêm vào tác động này. (Mekong River Commission Summary Report 2010, p.21).

    Theo TS Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viên Nghiên cứu biến đổi khí hậu (DRAGON) thuộc Đại học Cần Thơ, dẫn nghiên cứu của Đại học Quốc gia Singapore cho biết lượng phù sa về đồng bằng sông Cửu Long giảm từ 160 triệu tấn/năm xuống 75 triệu tấn sau khi Trung Quốc cho đập Mãn Loan hoạt động, và lượng phù sa sẽ tiếp tục giảm xuống chỉ còn khoảng 42 triệu tấn/năm, khi các đập khác trên thượng nguồn sông Cửu Long hoàn thành. Cụ thể hơn "...liên tục 20 năm qua, lượng phù sa đưa về ĐBSCL giảm đi 2.3% mỗi năm" (ĐBSCL trước đe dọa nghiêm trọng. RFA 30/06/2017).

    Phù sa và vật liệu trầm tích sụt giảm vì nước bị giữ lại trong các đập và hồ chứa trên thượng nguồn, lưu lượng nước chảy về vùng hạ lưu càng cạn kiệt. Theo TS Võ Tòng Xuân, chuyên gia nông nghiệp của VN, thì "15 năm trước đây, mực nước của ĐBSCL xấp xỉ trên dưới 4m, khi có mưa nhiều lũ lụt thì lên đến 4,5m, những năm gần đây chỉ còn 3 - 3,5m và năm nay chỉ còn 2,5m…" (Đồng bằng sông Cửu Long cạn phù sa. RFA 30/1/2018).

    Ngoài ra, bởi tác động của biến đổi khí hậu, nước biển mỗi năm mỗi dâng cao, xâm nhập vào bờ mà dòng sông Cửu Long ít nước, lưu vực sông Cửu Long yếu đi không đủ sức đẩy nước mặn, hậu quả là nước mặn càng lấn sâu vào nội địa, bờ sông bị sạt lở, đất lún, làm phá hủy nông nghiệp, nhà cửa của dân chúng và hạ tầng cơ sở. "Hiện trạng (Tháng 3/2016): ranh giới độ mặn 4g/l lấn sâu tới 90-95km trên sông Vàm Cỏ, 45 - 65km trên sông Tiền, 55- 60km trên sông Hậu và 60- 65km ở khu vực ven biển Tây (Sông Cái Lớn). ĐBSCL có khoảng 550 điểm sạt lở với tổng chiều dài khoảng gần 800 km, chủ yếu diễn ra dọc sông Tiền, sông Hậu, Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây. Từ năm 2005, bờ biển vùng ĐBSCL bị xói lở với tốc độ khoảng 300 ha/năm, chủ yếu dọc bờ biển Kiên Giang và Cà Mau." (Trần Thục. ĐBSCL đang đối mặt với những thách thức lớn. baomoi.com 26/09/2017).

    TS Dương Văn Ni, chuyên gia về nguồn nước tại Đại học Cần Thơ cho biết những dự án thủy điện và chuyển nước dòng sông Mekong ở thượng nguồn là "cái chết từ từ của Đồng bằng Sông Cửu Long". Theo ông "…sông Mekong không chỉ đưa phù sa hay nước, mà còn đưa 160 - 170 triệu tấn cát về miền Tây Việt Nam, để giữ cho mặt đất dưới này không sụt xuống. Nếu thiếu cát, sỏi, sạn thì dầu chúng ta có rất nhiều sét, thịt, bùn thì nó không giữ lại được, không định hình được đất đai và đẩy hết ra biển. Mọi người, nhà báo, truyền hình ai cũng nói tới thiếu nước. Nhưng thiếu nước ngọt, ta có thể lấy chỗ này bù chỗ khác, thiếu nước tưới, ta có thể chở từ nơi khác bù vào chỗ thiếu này. Nhưng nếu Đồng bằng sông Cửu Long thiếu cát, thiếu phù sa, mặt đất sụt hàng ngày, không lấy đâu ra phù sa bù lại được. Đồng bằng sẽ chìm xuống, ngập mặn." (Cái chết từ từ của ĐBSCL. BBC tiếng Việt 2/3/2016).

    Các đập nước còn tác hại lên thủy sản. Theo nghiên cứu của Trần Đắc Định, trường Đại học Cần Thơ thì "có ít nhất 461 loại cá trong vùng ĐBSCL mà đa số là loại cá cần di chuyển xa để sinh đẻ và phát triển" (Mô tả định loại cá ĐBSCL = Fishes of the Mekong Delta). Các con đập như một hàng rào ngăn chận sự di chuyển của loài cá. Việc xây dựng các con đập còn làm gián đoạn chu kỳ lũ tự nhiên mà các loài cá đã thích nghi. Đập cũng giữ lượng trầm tích ở lại, làm mất một nguồn dinh dưỡng cho cá, làm thay đổi nhiệt độ, gây ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và sinh sống của loài cá.

    Trong khi cả 18 triệu dân ĐBSCL đang lo sợ mất chén cơm vì tác hại của các đập Trung Quốc thì chánh phủ VN lại cho Trung Quốc xây một nhà máy giấy khổng lồ nằm bên bờ sông Hậu, tại huyên Châu Thành, tỉnh Hậu Giang, ngay tại trung tâm của ĐBSCL. Đó là nhà máy tên Lee & Man Paper Manufacturing, một trong top 5 công ty giấy lớn nhất thế giới có trụ sở chính ở Quảng Đông. Ngoài việc được Bộ Tài Nguyên - Mội Trường cho phép xả ra 50 00m3 chất thải mỗi ngày /đêm, nhà máy giấy còn có thể sử dụng hàng triệu lít nước ngọt mỗi ngày, điều không thể nào chấp nhận được vì dân chúng trong vùng đang thiếu nước ngọt trầm trọng.


    "Bà Lâm Thị Thu Sửu, đại diện Mạng lưới Sông ngòi VN (VRN) phân tích, việc nhà đầu tư Lee & Man đưa ra phương án nhập tới 80% lượng giấy đã sử dụng để tái chế có nguy cơ đẩy ra môi trường lượng soude (NaOH) rất lớn, tới 28.500 tấn. Bên cạnh đó, nhà máy còn thải ra rất nhiều hóa chất độc hại khác nhau như hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs), tecpen, rượu, phenol, metanol, acetone, chloroform, methyl ethyl ketone, chất tẩy rửa, thuốc nhuộm, bột màu, a xít, dung dịch kiềm. Nước thải từ xử lý giấy rất giàu các chất thiol, sulfur dioxide, sulfite và sulfide cũng như mùi hôi thối. Ngoài ra, nước thải từ công nghiệp tái chế giấy cũng chứa các sợi và nhựa từ giấy. Nước thải cũng chứa chất tẩy trắng như hydrogen peroxide, chlorine dioxide và xút; các chất ô nhiễm khác bao gồm: cao lanh, can xi cacbonat, talc và titan dioxite...

    An ninh nước sạch, sức khỏe và cuộc sống an toàn của dân cư đứng trước nguy cơ nhiễm độc rất cao. Nó sẽ còn hủy hoại nguồn lợi thủy sản sông và biển, đồng thời ảnh hưởng lớn tới việc nuôi trồng thủy sản ở khu vực ĐBSCL". (Lee&Man có thể kéo giảm GDP/Báo Thanh niên 10/07/2016).

    Bắt đầu hoạt động cuối tháng 9/2017 (sau nhiều năm bị đình trệ vì bị dân chúng và các chuyên gia "sạch" phản đối), chỉ một tháng sau, dân cư xung quanh nhà máy đã khiếu nại "cột khói bốc mùi hôi thối như bồn nhà cầu, cột khói trắng như có mùi acid làm da khô, nước máy bơm lên để qua đêm thấy nhớt nhớt…"
    (Nhà máy giấy Lee &Man phát mùi hôi thối (RFA, 14/11/2017). Bị chất vấn, Bà Nguyễn Thị Kim Ngân, Chủ tịch Quốc Hội trả lời "QH đang giám sát chặt" và Chủ tịch Ủy Ban Nhân Dân tỉnh đã ký giấy phép cho lập nhà máy đang bị điều tra. Đó là thứ ngôn ngữ và hành vi quen thuộc của tập đoàn tham nhũng. Lee & Man Paper Manufacturing báo hiệu một thứ Formosa khác tại miền Nam.

    Đê bao ngăn mặn của Việt Cộng trên Đồng Bằng Sông Cửu Long

    Đồng Bằng Sông Cửu Long đã và đang đối diện với những tàn phá của thiên tai như lũ lụt, hạn hán, nước biển dâng cao do hiện tượng biến đổi khí hậu. Ngoài thiên tai, ĐBSCL còn phải gánh chịu những tác hại do chính con người tạo ra, hoặc để sinh tồn, hoặc để chống đỡ với thiên nhiên như các đập nước của Trung Cộng và các đê bao ngăn nước mặn của Việt Cộng. Cho đến nay, các tác hại của những đập nước của Trung Cộng chưa được sự đồng thuận của các nhà nghiên cứu về cường độ, tác nhân và đối tượng của sự tàn phá đối với các quốc gia ở hạ nguồn

    Xin đan kể vài quan điểm điển hình:

    - TS Mai Thanh Truyết (nhà nghiên cứu môi trường, Hoa Kỳ): "Đến một thời điểm nào đó, vùng đất phì nhiêu màu mỡ, trù phú ĐBSCL sẽ trở thành vùng đất hoang vu. Với hai mũi giáp công, nước biển tấn công đất liền gia tăng và trên thượng nguồn sông Cửu Long bị ngăn chận nhiều đập thủy điện sẽ làm cạn dòng nước ở vùng hạ lưu, chắc chắn giết chết vùng địa danh nổi tiếng giàu đẹp nầy của quê hương VN" (Sông Mekong đang lâm nguy)

    - ThS Nguyễn Minh Quang (chuyên viên thủy học, Hoa kỳ): "…Nguy cơ trước mắt của ĐBSCL dường như không phát xuất từ các đập trên dòng chánh sông Mekong ở Trung Hoa hay ở Lào mà phát xuất từ các phụ lưu, quan trọng nhứt là hệ thống phụ lưu 3S: Sekong, Sesan và Srepok…" (Đồng Nai-Cửu Long, số 9/2016, p. 145) Cũng cần lưu ý là 2 sông Sesan và Srepok phát nguyên từ vùng Tây Nguyên Việt Nam trước khi chảy qua Miên, có lưu vực rộng, vũ lượng lớn, như vậy, theo quan điểm nầy, miền Tây Nguyên VN cũng có ảnh hưởng đến ĐBSCL.

    - TS Huỳnh Long Vân (trong nhóm Nghiên cứu Đồng Nai- Cửu Long, Úc) Có hai hiện tượng thấy rõ nhất ở ĐBSCL do xây dựng đập thủy điện trên thượng nguồn dòng chính sông Mê kong. Thứ nhất mất lượng phù sa tải xuống ĐBSCL sau khi một số đập thủy điện do Trung Quốc xây trên thượng nguồn. Cho đến bây giờ một số đập xây dựng xong rồi, số lượng phù sa chuyển xuống ĐBSCL giảm đi 30%. Mức giảm đó khiến đất đai mất phì nhiêu, đó là chuyện đương nhiên. Thứ hai, không bồi đắp được ĐBSCL, tức không nâng được chiều cao của ĐBSCL để trong trường hợp nước biển dâng cao thì giúp giảm đi tác hại của nước biển dâng cao. Thứ ba ĐBSCL không mở rộng ra được. Đó là ba điều rõ ràng. Nếu Trung Quốc tiếp tục xây thêm những đập nữa thì sẽ mất đến 50% lượng phù sa mà trước kia ĐBSCL vẫn nhận được khi không có những đập thủy điện đó. Hiện tượng thứ hai nữa là vào mùa khô nước mặn vào sâu trong nội địa…

    - TS Thái Công Tụng (chuyên viên thổ nhưỡng, canh nông, Canada) Năm 2016, ĐBSCL bị hạn hán khủng khiếp và nhiều người nói vì đập nước thượng lưu, nhưng năm 2017, cũng từng đó cái đập mà nước vẫn chảy về ĐBSCL, không ai rên hết. Phải chăng là vì năm 2017, vũ lượng toàn vùng cao hơn nên nước chảy về nhiều hơn. Vậy thì trách hạn hán hay trách đập thượng nguồn? Về dài hạn thì ĐBSCL phải thích nghi với nước ít đi: diện tích lúa bớt đi (vì cây lúa cần nhiều nước), trồng hoa màu phụ nhiều hơn, tăng công việc làm không cần đất (off- the-land activities) như tín dụng, như ngân hàng, như chuyển vận, như buôn bán.

    - TS Lê Anh Tuấn (Đại học Cần Thơ). Ông hoài nghi về giả thuyết Trung Quốc dùng các đập nước như một khí giới đe dọa miền hạ lưu như gậy lũ lụt, hạn hán, nhưng theo ông Biển Hồ mới thực sự ảnh hưởng đến ĐBSCL. Ông kết luận: "Hạn hán hiện nay ở các quốc gia hạ nguồn sông Mekong chưa hẳn là do các công trình trên sông. Nhiều con sông ở Đông Nam Á khác với sông Mekong cũng có những hiện tượng tương tự" (Các đập nước và hồ chứa nước ở thượng nguồn có hay không nguy cơ môi sinh tiềm ẩn cho hạ nguồn sông Mekong. www.vncold.vn)

    Nếu vấn đề các đập nước của Trung Cộng còn nhiều tranh cãi, nhưng đối với hệ thống các đê bao ngăn nước mặn mà chính quyền cộng sản đã thiết lập tại ĐBSCL từ hơn 40 năm qua, mọi người, từ nhà nghiên cứu đến người dân đểu công nhận những tác hại lớn lao và dai dẳng, mà nói như BS Ngô Thế Vinh là nhiều hệ lụy.

    Còn nhớ sau khi tiếp thu Sài Gòn tháng tư 1975, và sau khi cướp nhà cửa, của cải, vàng bạc của người dân miền Nam, cộng sản đã lùa đa số thị dân đi vùng kinh tế mới vừa để trả thù, vừa để bắt dân đào kinh khai khẩn các vùng đất hoang vu mà trước đó là sào huyệt của họ. Người dân Miền Nam không sao quên được thời kỳ đen tối, đối xử tàn bạo của tân chế độ trong kế hoạch khẩn hoang nầy.

    Chỉ trong 10 năm từ 1976 đến 1985 có 2.8 triệu người đã bị cưỡng bách đi vùng kinh tế mới (Patrick Gubry. Popualion et développement, p.201) trong đó có ít nhất 1/3 bị đi vùng ĐBSCL. Mặc dù kế hoạch đã bắt đầu áp dụng từ năm 1976, nhưng mãi đến ngày 27/03/ 1980, Tố Hữu mới ban hành Quyết Định 95-CP "Chính sách xây dựng các vùng kinh tế mới" ấn định một số "quyền lợi" của người bị cưỡng bách di dân như sau:

    - Cấp vé xe từ nhà đến vùng kinh tế mới, mỗi gia đình (CS gọi là hộ) được mang theo từ 500 đến 800kg hành lý, trợ cấp tiền ăn dọc đường 1 đồng /người/ngày (không đủ để ăn một gói xôi nhỏ!!!)

    - Cấp cho 2 dụng cụ sản xuất (thường là cuốc cùn, nếu đưa bằng tiền thì bị cán bộ ăn chặn bớt (tham nhũng đã bắt đầu ngay những ngày đầu cai trị miền Nam).

    - Trợ cấp từ 700 đến 900 đồng để làm nhà ở (thử tưởng tượng cất nhà trên đất úng thủy, vật liệu xây cất không có, gia đình thường đông con)

    -Trợ cấp 100$ tối đa để đào giếng, 100$ để mua ghe thuyền đi lại trên sông rạch

    - Nếu bị ốm đau không lao động được thì được trợ cấp 1$/ngày, thuốc phòng bịnh, chữa bịnh theo tiêu chuẩn 50 xu/ngày, khi chết được trợ cấp 150$ chi phí mai táng.

    Những người bị đưa đi vùng kinh tế mới gồm 5 dạng: 1/dân thất nghiệp; 2/dân không có hộ khẩu; 3/dân cư trú trong các cư xá, công ốc dành cho quân nhân công chức VNCH; 4/ tất cả người hành nghề buôn bán từ tiểu thương đến chủ xí nghiệp; 5/ người gốc Hoa và tín đồ Thiên chúa giáo.

    Người bị đi vùng kinh tế mới là một thứ nô lệ lao động thời cận đại, đó là một tôi ác lớn lao của đảng cộng sản sau vụ cải cách ruộng đất mà hôm nay, bọn cộng sản cha, cộng sản con phải cúi đầu nhận lỗi với nhân dân miền Nam.

    Điều khiển đám thị dân miền Nam bị cưỡng bách đi đào kinh đắp đê là Đoàn Quy Hoạch Thủy Lợi từ miền Bắc được đưa vào. Họ dốt nhưng rất tự hào, hống hách, họ bỏ qua các ý kiến của các chuyên viên thủy nông miền Nam, đem áp dụng các nguyên tắc trị thủy, đắp đê cổ lổ ở vùng sông Hồng vào ĐBSCL, nơi có những đặc tính hoàn toàn khác biệt với Đồng Bằng miền Bắc.

    Thế là "...ta đắp đê, xây đập hoặc cống ngăn mặn dọc theo duyên hải và dọc theo sông ở hạ lưu thường bị nước mặn xâm nhập; dọc theo hai bờ sông Cửu Long, nơi nước lụt chảy tràn bờ, ta đắp đê ngăn lũ, xây các công trình lấy nước; nơi nào không có nước ngọt để thâm canh tăng vụ, ta đào kênh dẫn nước sông Cửu Long vào, nếu nước không tự chảy, ta xây dựng trạm bơm điện; nơi nào bị úng, ta thực hiện các công trình tiêu úng, chống úng…" (Nguyễn Minh Quang. Tình trạng thiếu nước ở ĐBSCL đăng trong Dân Làm Báo).

    Chính trong bối cảnh ấy mà một hệ thống kinh đào, bờ đê, cống đập được mở mang ngổn ngang, vô trật tự, có cái hữu dụng, có cái tai hại đưa nước phèn, đất phèn, ô nhiểm đến những vùng khác. Và cứ thế, các đê ngăn nước mặn ở bờ biển, các đê bao chống lũ trong nội địa bành trướng khắp nơi để thi đua trồng lúa 2 vụ, 3 vụ (vụ thứ ba là trong mùa lũ).

    Nhờ hệ thống bao đê ngăn nước lũ, nước mặn, diện tích trồng lúa và sản lượng ở ĐBSCL đã tăng lên. Trong hai thập niên 1975-1995, chánh sách nầy có vẻ hợp lý để giải quyết tình trạng ăn độn khoai, sắn, bo bo, nhưng Đảng có biết đâu, thay vì trồng lúa, đất đai ở ĐBSCL còn có thể trồng nông phẩm khác, khai thác ngành chăn nuôi, ngư nghiệp còn có giá trị hơn lúa. Số gạo sản xuất tăng đến mức dư thừa, xuất cảng được, nhưng lợi nhuận không có bao nhiêu vì gạo là một sản phẩm ít giá trị nhất trong các hàng xuất cảng, giá bấp bênh trên thị trường quốc tế, bị các lái buôn, hợp tác xã cấu kết với tham nhũng lũng đoạn giá cả, chưa kể chánh phủ cầm giá gạo để làm vừa lòng người dân, vì gạo là thức ăn chủ yếu, do đó số phận người nông dân đã nghèo lại cứ nghèo thêm.

    Theo GS Võ Tòng Xuân: "Năm 1975 cả ĐBSCL mới canh tác 2,039 triệu ha lúa, tổng sản lượng lúa đạt 5,141 triệu tấn. Lợi tức bình quân đầu người ở nông thôn ước tính biến động từ 100 đến 200 USD mỗi năm. Năm 2009 diện tích canh tác lúa tăng lên 2,340 triệu ha trong đó 83,17% là lúa cao sản, đạt sản lượng 21,2 triệu tấn. Lợi tức đầu người tăng lên 500 đến 1.400 USD mỗi năm.

    Từ số liệu trên, sau gần 35 năm hòa bình, thống nhất đất nước, sản lượng lúa miền Tây Nam Bộ tăng 4 lần trong khi lợi tức nông dân tăng từ 5 đến 7 lần. Nhưng đại bộ phận nông dân không có tích lũy, cho nên đến khi thu hoạch là phải lo bán ngay sản phẩm để thanh toán nợ nần. Nhiều bà con nhân dân có thể là đã thoát nghèo nhưng chưa giàu như những người thu mua nguyên liệu mà mình đã sản xuất ra. Đến bao giờ người nhân dân mới có "của dư của để" không phải cầm cố giấy Chứng Nhận Quyền Sử Dụng Đất để vay mượn vốn sản xuất như hiện nay?"
    (Nông dân Miền Tây sau 35 năm thống nhất đất nước 11/05/2010)

    Theo TS Trần Văn Đạt "Ngành xuất khẩu gạo đã mang về cho VN bình quân khoảng 2 tỷ USD mỗi năm trong gần 3 thập niên qua" (Tình trạng sản xuất và thương mại lú gạo tại VN và thế giới 2017/18. Khoahocnet.com).

    Nhưng việc phát triển các đê bao lai đưa dến một hậu quả trầm trọng và dai dẳng mà hiện nay ĐBSCL đang phải đối mặt. Đất đai trong vùng đê bao bị suy thoái cằn cỗi, chai cứng, vì không nhận được phù sa, nông dân phải gia tăng phân bón mỗi năm, độc tố ngấm sâu vào mạch nước ngầm khiến các giếng đào nước ngọt bị hóa mặn, ô nhiểm không khí, vốn sản xuất gia tăng mà vì thâm canh nên năng suất giảm. Đê bao cũng ảnh hưởng đến nhiều loại tôm, cá đồng, cá sông không vô đồng được để sinh sản.

    Việt Nam có nhiều chuyên gia có tâm và có tầm, nhưng những quan điểm của các chuyên gia chỉ để thảo luận với nhau, để họp thành các "think tank". Các đề nghị không được cấp trên quan tâm vì người lãnh đạo ngu dốt, phe cánh, và nếu có được chấp thuận thì cũng thi hành nửa vời rồi hủy bỏ, hay tai hại hơn là các địa phương không tuân hành.

    TS Tô Văn Trường đã phát biểu trong một hội nghị: Chỉ tính riêng 8 tháng đầu năm nay, VN đã nhập trên nửa ti đô la thuốc trừ sâu và nguyên liệu chủ yếu từ Trung Quốc. Nhiều nơi 1 vụ lúa đã xịt thuốc trừ sâu từ 6-9 lần nguy hại đến an toàn sản phẩm. Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn đã biết nhiều loại thuốc trừ sâu, bảo vệ thực vật độc hại đã bị cấm sử dụng trên thế giới cho nông nghiệp như 2,4 D (đây là hóa chất diệt có dại, chiếm 50% trong “chất độc màu da cam”), Paraquat, Glyphosate v.v… nhưng vẫn cho tiếp tục sử dụng ở VN vì lý do lợi nhuận?...Ngoài ra, sự quản lý chồng chéo dẫn đến nhiều bất cập và kém hiệu quả. Nhà nước đã phân công Bộ Tài Nguyên Môi Trường quản lý sông và lưu vực còn Bộ Nông Nghiệp & Phát Triển Nông Thôn thì quản lý công trình tưới tiêu. Ở ĐBSCL trừ hai dòng chính sông Tiền và sông Hậu ra, liệu ai có thể nào phân biệt được dòng chảy nào là sông, dòng chảy nào là kênh dẫn, cấp tiêu thoát nước ở ĐBSCL không? Có phân biệt được vùng đất nào gọi là hệ thống công trình thủy lợi để Bộ NN&PTNT quản lý, vùng đất nào gọi là lưu vực sông để Bộ TN&MT quản lý không? (Tô Văn Trường. Mạn đàm về hội nghị phát triển bền vững ĐBSCL. Bauxite Việt Nam ngày 22/09/2017)

    Bởi lẽ chánh phủ không có tầm nhìn dài hạn, và luật lệ không được tôn trọng, các địa phương mạnh ai nấy làm, và chính các nhà làm kế hoạch, các lãnh đạo trung ương và địa phương cũng không đồng thuận một kế hoạch chung. Thí dụ như vấn đề sống với lũ hay là chống lũ, phá vỡ đê bao hay duy trì đê bao?

    TS Lê Anh Tuấn có nhận định:

    "Cái khó ở chỗ là nếu bỏ những đê bao nó sẽ làm đảo lộn những sắp đặt trước đây, ví dụ như nhà cửa, mồ mả, vườn tược người dân đã làm trong những vùng thấp rồi. Bây giờ phá đê như vậy sẽ ảnh hưởng cuộc sống rất nhiều. Thứ hai là một số nông dân trồng lúa trong mùa đó thì bây giờ không biết làm gì… Nhưng điều quan trọng trước tiên là yêu cầu các địa phương không nên mở rộng các khu đê bao nữa để chừa lại không gian giữ nước. Sau đó nghĩ tới những giải pháp giúp cho họ chuyển đổi trong những điều kiện khác nhau tùy theo vùng sinh thái. Tiếp theo là công trình giúp giữ nước lại như thế nào để ít bị thất thoát, đó là những bước về lâu về dài mới thực hiện." (Hiến kế cứu ĐBSCL. RFA 11/01/2017).

    Về lâu về dài là bao lâu: chắc hẳn 10 năm sắp tới cũng chưa đủ thời gian thay đổi triệt để.

    Người viết mạo muội góp ý: 100 năm nữa cũng không thay đổi được gì với chế độ cộng sản. Bằng chứng là cùng lúc với khuyến cáo của TS Tuấn, trên trang mạng của Tổng Cục Thủy Lợi viết: Kế hoạch chống lũ đến năm 2020: Đang xây dựng 450 km đê biển, 1290 km đê sông và khoảng 7 000km bờ bao ven kinh rạch nội đồng để ngăn chặn vùng ven biển (Tổng cục Thủy Lợi. Thủy lợi và phát triển nuôi trồng thủy sản vùng ĐBSCL).

    Về phía người dân, họ không có chọn lựa nào khác là phải tuân theo chánh quyền. Hãy nghe lời kể của một nông dân:

    "Ngày xưa, trong mùa nước nổi người ta sạ lúa mùa. Nước lên tới đâu lúa vượt tới đó, trổ bông kết hạt trên mực nước sâu 2-3m. Khi nước rút hết thì lúa cũng chín, gặt lúa là xong mùa, khỏi làm cỏ bón phân chăm sóc gì hết. Dân miền Tây có tiếng “làm chơi ăn thiệt” là vì vậy. Thời gian nước nổi là lúc đất nghỉ ngơi. Sau khi nước rút, ruộng đồng trở nên “tươi mới”, cỏ dại và sâu bệnh đều chết vì bị ngâm nước. Nước rút đi để lại một lớp phù sa màu mỡ, vì vậy đất luôn tốt và không bao giờ bị cằn cỗi. Nhưng từ 15-20 năm nay nông dân vùng nước nổi không còn làm lúa mùa nữa mà chuyển sang làm lúa hai vụ. Để tăng sản lượng lúa hơn nữa, người ta đắp đê bao ngăn nước để làm lúa vụ 3 ngay trong mùa nước nổi. Bên ngoài đê nước cứ nổi, bên trong đê vẫn sạ lúa và sinh hoạt bình thường như trong mùa kiệt. Rất nhiều nông dân không muốn có đê bao vì chưa chắc có lợi hơn. Làm lúa vụ 3 lời ít hơn hai vụ lúa kia, nếu giá cả bấp bênh có khi còn lỗ vốn. Thêm nữa, khi đắp đê thì trong vùng bao đê sẽ mất đi nguồn cá, đất đai mất nguồn phù sa quý giá. Cỏ dại, sâu bệnh lưu cữu trên đồng làm tăng thêm chi phí cho các vụ lúa sau. Nhưng vì đó là chủ trương của Nhà nước nên dù muốn dù không cũng phải làm theo… Nông dân vốn đã nghèo, bao đê để làm lúa, chăn nuôi trong mùa nước không khá hơn được bao nhiêu nhưng khi bị bể đê là mất sạch vốn liếng không biết bao giờ mới hồi phục nổi. Sau trận bể đê năm nay, hi vọng cả nông dân lẫn chính quyền và các ngành chức năng liên quan sẽ có nhận định sáng suốt hơn về vấn đề đắp đê bao ở vùng nước nổi. Từ đó sẽ có các giải pháp đúng đắn để giải quyết vấn đề, không để sai lầm lặp lại. Mà với sai lầm nào thì nông dân cũng là người gánh chịu hậu quả nhiều nhất". (Mùa nước nổi xưa và nay).

    Từ 43 năm qua, nhờ tài sản và mồ hôi nước mắt của hàng triệu người dân miền Nam bị cưỡng bức đi đào kinh, đấp đê để cứu người dân Miền Bắc qua cơn đói phải ăn bo bo độn với gạo. Cũng trong 43 năm qua, đảng cộng sản không có một chánh sách dài hạn và bền vững, kỳ thị địa phương mà hậu quả là miền ĐBSCL càng ngày càng kiệt quệ. Chánh sách đê bao và ưu tiên trồng lúa là một khí cụ để kềm hãm vùng đất nầy trong nghèo đói và chậm tiến.

    Phải chờ đến ngày 17 tháng 11 năm 2017, đảng cộng sản mới thấy được sai lầm của ông nông dân kể trên bằng cách ban hành Nghị Quyết 120 về phát triển bền vững vùng ĐBSCL mà chủ yếu là chuyển thứ tự ưu tiên từ lúa-thủy sản-cây trồng sang thủy sản-cây trồng-lúa. Dứt khoát giảm diện tích trồng lúa. Cộng sản cai trị bằng nghị quyết và khẩu hiệu. Kèm theo Nghị Quyết, Thủ Tướng Nguyễn Xuân Phúc bắt chước 16 chữ vàng của Trung Quốc sửa lại thành khẩu hiệu 10 chữ vàng: Kỹ Cương, Liêm Chính, Hành Động, Sáng Tạo, Hiệu Quả. Thật là vô liêm sĩ khi kẻ ăn cướp rao giảng đạo thánh hiền . Cầu mong đó là nghị quyết và khẩu hiệu cuối cùng của chế độ.

    Chuyện các "kỳ công kỳ quan" của đảng cộng sản nói hoài nói mãi không bao giờ hết. Nếu một hình ảnh bằng ngàn lời thì hai bức ảnh sau đây nói lên được phần nào thực trạng phân cách nghèo - giàu một cách thô bạo của đất nước Việt Nam hôm nay.


    Người nông dân ĐBSCL ẵm con buồn thảm nhìn ruộng lúa khô cằn


    Người giàu Hà Lội nửa người nửa ngợm nửa đười ươi (Ảnh: Internet)

    Kết luận

    Để chấm dứt, người viết mượn lời nhận định của hai nhà nghiên cứu am tường các vấn đề môi trường và xã hội VN, một ở ngoài nước và một ở trong nước.

    TS Mai Thanh Truyết: "Xin đừng đổ lỗi cho hiện tượng hâm nóng toàn cầu và cũng xin đừng đổ lỗi cho các đập thủy điện của Trung Cộng mà phải chấp nhận hậu quả ngày hôm nay đang xảy ra cho ĐBSCL là do sự quản lý, phát triển không theo đúng tiến trình toàn cầu hóa nghĩa là phát triển theo chiều hướng ứng hợp với việc bảo vệ môi trường. Ngày nào não trạng của đảng cộng sản không thay đổi trong việc bảo vệ cơ chế chuyên chính vô sản, ngày đó chắc chắn nước mặn vẫn tiếp tục tiến sâu vào đất liền…" (Sông Mekong, nỗi nghẹn ngào của vùng hạ lưu)

    TS Lê Anh Tuấn: "Di dân ở ĐBSCL chiếm tỷ lệ cao nhất Việt Nam và đang là một hiện tượng xã hội đáng lưu ý. Mặc dù cư dân vùng ĐBSCL vốn là lưu dân từ miền Trung và miền Bắc vào khai phá vùng đất này, nhưng quá trình di dân mở cõi và hình thành vùng dân cư sung túc đến thập niên 1970 phải mất hơn 300 năm. Trong khi hiện nay, chỉ hơn năm năm gần đây, dòng dịch chuyển dân cư từ nông thôn lên các khu đô thị và khu công nghiệp tăng gấp 10-15 lần so với 40 năm trước đó, tùy thuộc vào kết quả canh tác và công việc thời vụ. Theo một số khảo sát, tỷ lệ xuất cư từ vùng ĐBSCL đến vùng công nghiệp Đông Nam bộ lên đến trên 97%, đến nỗi người dân địa phương dùng cụm từ “đi Bình Dương” để ám chỉ chung cho lớp người bỏ quê lên các khu công nghiệp làm thuê. Di dân có thể có mặt tích cực trong việc phân bố lại lực lượng lao động và tăng trưởng công nghiệp nhưng cũng có rất nhiều hệ quả tiêu cực về xã hội và môi trường đô thị - công nghiệp". (ĐBSCL với thử thách 2017. www. the saigontimes.vn 25/2/2017)

    Các nhà lãnh đạo của chế độ siêu việt về tham nhũng và độc tài nghĩ sao về hai nhận định nầy?

    05/03/2018


    Lâm Văn Bé
    danlambaovn.blogspot.com
    Cám ơn đời mỗi sớm mai thức dậy
    Ta có thêm ngày nữa để yêu thương

Chủ Đề Tương Tự

  1. 10 Câu Chuyện Kinh Dị Hay Nhất Mọi Thời Ðại
    By giavui in forum Audio Ma Kinh Dị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-29-2016, 03:46 AM
  2. Trung Quốc gây khó trên biển, tận thu trên bờ
    By Hansy in forum Thời Sự Chính Trị
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-15-2011, 05:09 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-13-2011, 10:51 AM
  4. Hoàng Hôn Trên Biển
    By giavui in forum Download & Yêu Cầu Nhạc
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-17-2011, 10:35 PM
  5. NẾu trẺ sỐng trong không gian ??
    By tieulacphong in forum Tự Do Tôn Giáo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-11-2010, 01:17 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •