Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chân thật không phân biệt giai cấp tuổi tác, địa vị danh vọng... Nó sang bằng tất cả. Nó là vị thần của tình cảm.
Lope De Vegas
Trang 3 / 19 ĐầuĐầu 1234513 ... Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 189

Chủ Đề: Nồi Cháo Lú

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Nồi Cháo Lú

    .

    Khoan dung





    “Vào những kỳ đả thiền thất do thiền sư Bankei chủ trì, có rất đông thiền sinh từ nhiều miền trên nước Nhật về tham dự.

    Tại một trong những kỳ thiền thất như thế, có một đệ tử bị bắt về tội ăn cắp. Sự việc được trình lên thiền sư Bankei với lời đề nghị kẻ phạm pháp phải bị tống xuất. Nhưng thiền sư Bankei bỏ qua. Sau đó, người đệ tử lại tái phạm và bị bắt, và cũng như lần trước, thiền sư Bankei lại bỏ qua.

    Sự việc này chọc giận đám đệ tử, khiến cho họ phải làm thỉnh nguyện thư, xin đuổi tên ăn cắp, nếu không cả nhóm sẽ bỏ đi.

    Sau khi đọc xong thỉnh nguyện thư, thiền sư Bankei gọi tất cả học trò đến trước mặt mà bảo rằng:

    - Quí vị là những sư huynh sáng suốt nên quí vị biết phân biệt đúng và sai. Nếu muốn, quí vị có thể đi nơi khác để tham thiền học đạo. Nhưng người sư đệ đáng thương này thì ngay đến thế nào là đúng, là sai, cũng còn không biết. Nếu tôi không dạy hắn thì ai sẽ dạy? Cho nên tôi sẽ cho hắn ở đây dù tất cả quí vị ra đi.

    Trên gương mặt của người sư đệ tội lỗi, nước mắt tuôn ra như thác đổ. Lòng ham muốn trộm cắp trong khoảnh khắc tiêu tan hoàn toàn”.

    Trích dịch từ Collection of Stone and Sand
    Tác giả: Thiền sư Muju
    Paul Reps dịch sang Anh ngữ
    Nguồn: http://phuongkhanhdo.wordpress.com/2...-khi-den-chua/
    .
    Last edited by khieman; 01-25-2014 at 10:26 PM.

  2. #21
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .









    .
    Last edited by khieman; 06-19-2015 at 11:53 PM.

  3. #22
    Join Date
    Nov 2010
    Bài Viết
    182
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết
    Cám ơn bác khieman đã dụng tâm nhọc sức cho Huong Thien có bài hay đọc trong suốt mấy năm qua .

    Kính chúc bác một năm mới dồi dào sức khỏe, thân tâm an lac.

    Mến,
    Huong Thien
    “Ví như nước trong đại dương chỉ có một vị, đó là vị mặn, pháp và luật của Như Lai cũng thế, chỉ có một vị, đó là vị giải thoát (vimuttirasa)”

    Lời Đức Thế Tôn (c.566 BC - c.480 BC)

  4. #23
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Kamikaze - Huyền Thoại Về Các Cảm Tử Quân Nhật Bản

    .

    Kamikaze
    Huyền Thoại Về Các Cảm Tử Quân Nhật Bản





    Đứng bên cạnh hình ảnh các Samurai hiên ngang bất khuất là những cảm tử quân ít người biết đến: Kamikaze (Kami = god; kaze = wind ; Kamikaze = Thần Phong).

    Thần phong, gió thần hay Kamikaze (tiếng Nhật: 神風; kami = thần, kaze = phong) là một từ tiếng Nhật, được những tiếng khác vay mượn để chỉ các cuộc tấn công cảm tử bởi các phi công chiến đấu Nhật Bản chống lại tàu chiến của các nước Đồng Minh trong Thế chiến thứ hai trong giai đoạn kết thúc Chiến dịch Thái Bình Dương.

    Phi công Kamikaze sẽ lái máy bay của mình, thường là chở đầy thuốc nổ, bom, thủy lôi và bình đựng xăng đâm vào tàu địch. Máy bay của anh như vậy có vai trò hỏa tiễn sống trong một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tăng tối đa độ chính xác và tổn thất cho địch quân so với bom đạn thông thường. Mục tiêu của các phi công này là đánh phá càng nhiều càng tốt tàu bè của phe Đồng Minh.

    Các cuộc tấn công này bắt đầu từ tháng 10 năm 1944, sau một số trận thua nặng nề của Nhật Bản. Việc tiềm lực chiến tranh giảm sút– cùng với việc mất đi rất nhiều phi công giỏi giàu kinh nghiệm–sản xuất công nghiệp suy yếu đi so với Hoa Kỳ, cũng như việc chính phủ Nhật Bản không muốn đầu hàng, dẫn đến chiến thuật sử dụng kamikaze khi lực lượng Đồng Minh tiến đánh Quần đảo Nhật Bản.

    Các cuộc tấn công cảm tử Kamikaze là các cuộc tấn công nổi tiếng nhất và được biết đến nhiều nhất, giống như các cuộc "xung phong banzai" bởi bộ binh Nhật. Ngoài ra, người Nhật còn có các đội tấn công cảm tử khác như tàu ngầm Kairyu, thủy lôi sống Kaiten, khinh tốc đỉnh Shinyo.



    Trong những năm đầu của thập niên 1940 khi hạm đội Mỹ khống chế Thái Bình Dương, những cuộc đụng độ giữa hải quân Nhật-Mỹ liên tục diễn ra, đặc biệt là sau trận Trân Châu cảng ngày 7 tháng 12 năm 1941 với thắng lợi thường thuộc về người Mỹ vì Mỹ có ưu thế lớn về hải quân và không quân. Những thất bại đó mà đỉnh điểm là trận Hải chiến biển Philippines đã khiến quân Nhật nghĩ đến những phương sách khác, trong bối cảnh đó bộ tham mưu Nhật đã nghĩ đến những cuộc tấn công cảm tử để tái lập thế quân bình lực lượng. Người đầu tiên đưa ra ý tưởng này là chỉ huy trưởng căn cứ Nhật Tateyama tuy không được chấp thuận nhưng ý kiến này đã được bảo lưu và nghiên cứu.

    Hồi đầu chiến dịch Thái Bình Dương trong Đại chiến thế giới thứ 2 của Nhật, Onishi là Trưởng phòng phát triển không quân của Hải quân Nhật, và là người chịu một số trách nhiệm về kỹ thuật trong đợt tấn công của quân Nhật vào Trân Châu Cảng (Pearl Harbor), dưới sự lãnh đạo của thống đốc hải quân Isoroku Yamamoto. Bản thân Onishi đã từng phản đối cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng, khiến cho Mỹ sau đó tuyên chiến với Nhật và dẫn đến một cuộc chiến đẫm máu, và cuối cùng Nhật đã phải đầu hàng không điều kiện.




    Vào tháng 10/1944, Onishi được thăng chức thành tư lệnh Chiến hạm Không quân ở phía bắc Philippines. Onishi đã nghiên cứu các phương pháp đánh cảm tử vào những tàu chiến của quân Mỹ và Đồng minh, phương pháp mà hồi đầu Onishi đã từng phản đối. Sau khi bị mất dãy đảo Mariana, Onishi thay đổi ý kiến và ra lệnh tấn công bằng máy bay chứa đầy bom. Kế hoạch là khoảng 250 kg bom được đưa lên máy bay Misubishi A6M Zero và đâm thẳng vào tàu chiến địch.

    Trong buổi gặp mặt ở sân bay Magracut gần Manila , Philippines vào ngày 19/10, Onishi đến thăm đội bay 201 đã cho rằng:

    "Tôi nghĩ chúng ta sẽ không còn phương pháp nào giữ được Philippines , bằng cách cho 250 kg bom lên chiếc Zero và đâm thẳng xuống tàu chiến Mỹ".

    Từ đó những cuộc tấn công theo kiểu Kazmikaze này liên tiếp được tiến hành, nhưng không phải mọi máy bay đều đâm trúng đích. Nhiều chiếc đã bị bắn rơi trước khi kịp đâm trúng mục tiêu.

    Bộ tư lệnh tối cao Nhật lúc đó đã tin tuởng vào hiệu quả đặc biệt của chiến thuật 'bom nguời' và Nhật Hoàng Hiro Hito đọc diễn văn ca ngợi những chàng trai trẻ tuổi đôi mươi đã ra đi ''chết hạnh phúc và tự hào vì hoàng đế và sự chiến thắng''. Số người tự nguyện hi sinh nhiều gấp 10 lần số máy bay mà quân đội Thiên hoàng có. Theo nhà nghiên cứu Maurice Pinguet, những phi công đó biết rằng sớm hay muộn gì họ cũng sẽ hi sinh trong một cuộc chiến không cân sức nên họ đã chọn một cái chết nhanh chóng và có ích hơn. Họ không được hứa hẹn một sự đền đáp nào, một thiên đường nào kể cả niềm tự hào chiến thắng. Trong số những người tình nguyện, có cả những sinh viên; họ được huấn luyện trong một chế độ đặc biệt trong 7 ngày; 2 ngày cho việc cất cánh với một quả bom 250kg; 2 ngày cho việc bay theo đội hình và 3 ngày cho việc tiếp cận mục tiêu và tấn công.

    Phần lớn các kamikze đêu là những thanh niên ưu tú của Nhật Bản ở độ tuổi 20, họ là sinh viên của những trường Đại Học Nhật Bản , phần lớn họ theo học các ngành kỹ thuật . Chính học đã tự đăng ký để được trở thành các Kamikze-hi sinh cho Tổ Quốc . Tinh thần Samurai đã thấm nhuần vào dòng máu nhưng người con Nhật Bản và danh sách đăng ký ngày càng tăng cao.

    Và vào một buổi chiều, nguời chỉ huy truởng căn cứ báo cho họ biết lệnh xuất phát vào sáng hôm sau. Họ chỉ còn có một đêm cuối cùng để viết một bức thư cuối cùng cho cha mẹ. Sáng sớm, sau buổi thuyết trình thuờng lệ , họ có mặt trong những bộ đồ bay, bên sườn lủng lẳng thanh trường kiếm của nguời hiệp sĩ samurai , đầu quấn chiếc băng chéo thêu nổi hình mặt trời mọc . Chỉ huy trưởng căn cứ trao cho mỗi nguời một cốc rượu sake ; tất cả nghiêng mình về hướng cung điện của Nhật hoàng truớc khi chạy bổ nhào đến máy bay truớc sự hoan hô nồng nhiệt của các đồng đội còn ở lại .

    Theo truyền thuyết, những phi công trẻ trong các sứ mệnh tự sát kamikaze sau khi cất cánh thường bay về hướng Tây Nam của nước Nhật ở cao độ 992 mét ( khoảng 3.000 bộ Anh) của vùng núi Kaimon . Quả núi cũng được mang tên gọi là "Satsuma Fuji" (có nghĩa là "Phú sĩ sơn của làng Satsuma" , có nét đẹp tựa núi Phú sĩ Fuji ở hướng Tây - Tây Nam của Đông kinh, Tokyo ). Các phi công đã phải ngoái cổ nhìn qua vai của họ để nhìn thấy được ngọn núi xa tít phía Nam trên dải đất Nhật, và trong khi bay trên không , trước khi rời xa mãi mãi đất mẹ, họ nói lời vĩnh biệt và phất tay chào ngọn núi lần cuối...

    Những người dân cư ngụ trên đảo Kikaijima, nằm về phía đông của làng Amami Oshima, nói rằng các phi công trong những nhóm thi hành sứ mệnh tự sát đã thả những nhánh hoa tươi từ trên không, khi họ đang đi bay, chuyến bay sứ mệnh cuối cùng . Theo truyền thuyết thì những ngọn đồi ở chung quanh phi trường Kikajima có những luống hoa (giống như hoa bắp, cornflower) thường trổ hoa vào đầu tháng Năm




    Tuy nhiên cũng có nhiều người tỏ ý nghi ngờ hiệu quả của chiến thuật kamikaze, trong đó có cả các phi công nổi tiếng. Trung úy Yukio Seki, phi công kamikaze thứ 24 trong đội đặc nhiệm tham gia đánh chìm hàng không mẫu hạm St. Lo viết:

    "Tương lai Nhật Bản thật ảm đạm nếu như chúng ta buộc phải hy sinh những phi công giỏi nhất của mình. Tôi tham gia chiến dịch này không vì Đế quốc Nhật hay vì Hoàng Đế... Tôi tham gia vì tôi được lệnh phải tham gia!"

    Trong chuyến bay, chỉ huy của anh nghe thấy anh nói "Thà chết còn hơn sống như một kẻ hèn hạ."



    Tọa độ chính của những điệp vụ kamikaze

    Tuy nhiên, nhìn chung người ta không có khó khăn tuyển mộ phi công. Yêu cầu rất đơn giản:

    "Trẻ tuổi, nhanh nhẹn và hăng hái. Chỉ cần kinh nghiệm bay ở mức tối thiểu, kỹ năng hạ cánh không cần thiết".

    Đại tá Motoharu Okamura nhận xét "có nhiều người tình nguyện cho các phi vụ cảm tử đến mức đông như đàn ong, vì ‘ong chết sau khi đốt’". Các phi công Kamikaze tin tưởng bằng sự hy sinh của mình, họ đã đền đáp lại công ơn gia đình, bạn bè và Thiên hoàng. "Họ hăng hái đến mức khi chuyến bay bị trì hoãn hay hủy bỏ, thì các phi công trẻ được huấn luyện sơ sài này tỏ ra hết sức bực dọc. Nhiều người sau khi được chọn thực hiện các phi vụ cảm tử được kể lại là rất hân hoan vui sướng trước phi vụ cuối cùng của mình".

    Chiến công của các thần phong :

    7 giờ 30 sáng ngày 13/04/1945, khi các loa phóng thanh của quân đội Mỹ đồng loạt báo tin tổng thống Roosevelt từ trần thì cũng là lúc 185 máy bay Thần phong, được sự hỗ trợ của 150 chiến đấu cơ Zero, 45 phi cơ phóng lôi của Nhật tấn công vào hải quân Mỹ ngoài khơi Okinawa. Lần đầu tiên quân Nhật sử dụng một vũ khí mới, đó là bom bay OKA (hoa Anh Đào nở). Bom bay này do máy bay mang theo và phóng đi. Mỗi qủa bom bay có một cảm tử quân ngồi bên trong, điều khiển trái bom đánh trúng mục tiêu và hy sinh khi bom nổ.

    Tám chiếc oanh tạc cơ Mitsubishi G4M đem theo loại bom bay mới OKA cùng tham gia tấn công gây nỗi kinh hoàng trên các tầu Mỹ. Một trái bom bay đánh trúng khu trụ hạm Abele đã bị thương vì một Thần phong đâm trúng, chiến hạm nổ tung và bị cắt làm 2. Mốt trái khác đánh nổ tung khu trụ hạm Stanly. Trong lúc đó, các Thần phong đánh chìm tầu LST33, đánh hư hại nặng một thiết giáp hạm, 3 khu trục hạm và 8 hạm tầu khác.

    Tối hôm đó, loa phóng thanh của Nhật kêu gọi: "Quân đội Thiên hoàng chia buồn cùng quân Mỹ về cái chết của tổng thống Roosevelt. Cái chết của ông mở màn tấn thảm kịch của Hoa Kỳ và tấn thảm kịch ấy xẩy ra ở đây, ngay đối với bản thân các người. Lực lượng đặc biệt của Nhật Bản (tức Thần phong) sẽ liên tục đánh chìm tầu bè của các người. Các người sẽ làm bạn với cây cỏ của đảo này".

    Ngày 25/05/1945, hợp đồng tác chiến với cuộc rút quân ở Shuri (phòng tuyến chính của Nhật trên đảo Okinawa) là đợt tiến công của Thần phong lần thứ 7 ở Okinawa.




    Suốt 12 giờ liền, 176 Thần phong chia làm nhiều đợt từ Nhật Bản đến biển Okinawa để lao mình vào hạm đội Mỹ. Một số bị bắn nổ tung trên trời, một số rơi xuống biển nhưng có những chiếc lao trúng mục tiêu. Khu trục hạm Bates bị hai chiếc đâm trúng, nổ tung và chìm ngay, tầu đổ bộ LSM 135 chìm, 4 biến hạm khác bị đánh cháy và hư hại nặng. Phó đô đốc C.R.Brown có mặt tại hạm đội Mỹ ở Okinawa viết như sau :

    "Thật là một cảnh tượng lạ kỳ, khi đứng trên tầu ta nhìn thấy một chiếc máy bay lao thẳng vào ta. Có những pháo thủ gan dạ, đầy kinh nghiệm nhưng khi thấy một Thần Phong lao vào tầu, tự nhiên miệng há hốc ra, tay quên xiết cò súng. Tựa như anh ta bị lôi cuốn bởi trò chơi quái ác kia. Thực tình mà nói, người đứng trên tầu, lúc ấy không nghĩ đến mình nữa mà lại nghĩ lo cho anh chàng lái máy bay kia."

    Cùng ngày hôm ấy, 5 chiếc máy bay hai động cơ từ Nhật bay đến, xuyên qua hệ thống phòng không, len lỏi vào không phận sân bay Yontan giữa đảo Okinawa (lúc này đã nằm trong tay quân Mỹ). Bốn chiếc bị bắn rơi, một chiếc từ từ hạ cánh xuống đường bằng. Máy bay vừa dừng lại, cảm tử quân Nhật ùa ra chạy đến các bãi đậu máy bay và các bồn chứa của Mỹ. Họ dùng bộc phá, lựu đạn, tiểu liên, phá hủy 7 máy bay Mỹ, làm hư hại 26 chiếc khác và đốt cháy 2 bồn chứa 70.000 gallon xăng máy bay.

    Chế độ huấn luyện :

    Những người tình nguyện hi sinh, bao gồm nhiều thành phần từ phi công chính quy, binh lính cho đến cả sinh viên được huấn luyện theo một chế độ đặc biệt trong vòng 7 ngày: 2 ngày cho việc cất cánh với 1 quả bom 250 kg; 2 ngày cho việc bay theo đội hình và 3 ngày tập cách tiếp cận mục tiêu và tấn công.

    Các phi công được cấp một bản hướng dẫn chi tiết về cách tiến hành tiến công cảm tử. Theo đó phi công phải bổ nhào nhắm vào giữa tháp chỉ huy và ống khói, vì đó là cách hiệu quả nhất để đánh chìm tàu. Phi công cũng được dặn không nên nhắm vào đài chỉ huy hay tháp pháo, mà nên nhắm vào cầu thang máy hoặc boong tàu. Nếu tiếp cận từ đường chân trời thì phi công nên "nhắm vào thân tàu, cao hơn mặt nước biển một chút", hoặc "nhắm vào cửa khoang chứa máy bay hoặc chân ống khói".

    Thời khắc ra đi mãi mãi

    Vào buổi chiều trước ngày xuất phát, người chỉ huy trưởng căn cứ thông báo cho họ biết lệnh xuất phát vào ngày hôm sau và họ còn một đêm cuối cùng để viết một bức thư cuối cùng cho người thân trước khi ra đi mãi mãi vào hôm sau. Sáng sớm, sau buổi thuyết trình ca ngợi sự hi sinh, họ có mặt trong bộ đồ phi công, đeo bên mình thanh gươm của người võ sĩ đạo, đầu quấn chiếc băng chéo thiêu nổi hình mặt trời mọc, quốc kỳ của Đế quốc Nhật Bản. Chỉ huy trưởng căn cứ trao cho mỗi người một ly rượu sake, tất cả nghiêng mình về hướng cung điện để tỏ lòng tôn kính Nhật hoàng trước khi leo lên máy bay trong sự hoan nghênh của những người còn lại.

    Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Thiên hoàng Hiro Hito đọc tuyện bố đầu hàng vô điều kiện, một số người không chịu đựng được nỗi nhục thất trận đã mổ bụng tự sát theo tinh thần người Nhật. Hàng ngàn phi công trở về nhà bị lãng quên trong thời kì sau chiến tranh. Một số người cùng với những người khác xây dựng lại đất nước và khắc phục hậu quả chiến tranh, một số gia nhập Đảng Cộng sản Nhật Bản trong những năm 1946-1948, số khác bị khủng hoảng tinh thần và chỉ sau thập niên 1950, khi nền kinh tế Nhật Bản dần dần phục hồi đa phần trong số họ trở thành công nhân trong các hãng sản xuất lớn như: Sony, Honda, Denzu,… để quên đi quá khứ tuy đau thương nhưng không kém phần hào hùng.

    Theo Day of the Kamikaze và Bách khoa toàn thư Wikipedia
    http://silenhill-badmonk.blogspot.co...urai-hien.html

  5. #24
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .



    Ớn lạnh "công nghệ" chế biến sương sâm bằng chân









    .
    Last edited by khieman; 01-07-2014 at 03:01 AM.

  6. #25
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Ga xe lửa cổ nhất Đông Dương ở Đà Lạt

    .

    Ga xe lửa cổ nhất Đông Dương
    ở Đà Lạt


    Không mấy ai chú ý đến một điều, đường xe lửa lên Đà Lạt là một đường xe lửa răng cưa (cog railroad), độc đáo và hiếm có trên thế giới.




    Đà Lạt là một thành phố cao nguyên được ví như một ốc đảo trên núi.
    Là một thành phố Việt Nam nhưng Đà Lạt mang hơi thở của Pháp,
    khí hậu của Pháp và ảnh hưởng nhiều theo kiến trúc Pháp.
    Tiêu biểu cho kiến trúc cổ điển Pháp tại Đà thì không thể không nhắc đến ga Đà Lạt.




    Nhà ga được người Pháp xây dựng từ năm 1932 đến 1938 thì hoàn thành,
    là nhà ga cổ nhất còn lại ở VN. Năm 2001, ga được Bộ Văn hóa Thông tin
    công nhận là di tích kiến trúc cấp quốc gia. Nhà ga có kiến trúc vừa duyên dáng
    vừa độc đáo, là sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc phương Tây
    với kiến trúc nhà rông Tây Nguyên.




    Nhà ga Đà Lạt có hình dáng như núi Lang Biang hùng vĩ, với chiều dài 66,5m;
    chiều ngang 11,4m và chiều cao 11m, kiến trúc giống các nhà ga ở các tỉnh
    miền Nam nước Pháp, tức là có mái và hai đầu mái uốn vòm. Nếu nhìn từ
    phía bên hông, ta sẽ thấy 3 mái nhọn nhô ra ở phía trên đầu
    rồi thụt vào ở phía chân, nhưng luôn theo kiểu thẳng đứng.




    Nhìn từ mặt trước, nhà ga có ba chóp nhọn tam giác tượng trưng cho ba đỉnh núi
    Lang Biang, còn các mái ngói ở chân tam giác ngoài xiên ra như chân sườn núi.




    Nhà ga Đà Lạt hiện nay đã không còn sử dụng để vận chuyển mà phục vụ
    du lịch. Với tuyến đường 7 km, tàu sẽ đưa du khách khám phá phố núi.




    Tuy chạy tốc độ rất chậm và đầu tàu kêu to, thế nhưng, đây chính là điểm
    hấp dẫn của nhà ga phục vụ du khách tham quan ngắm cảnh trên đường đi.




    Đa số mọi người biết Đà Lạt có một nhà ga xe lửa đẹp vào bậc nhất
    Đông Nam Á, đặc sắc với kiến trúc và xây cất theo kiểu art-deco,
    một kiểu kiến trúc được ưa chuộng và thịnh hành ở châu Âu
    và cả thế giới vào đầu thế kỷ thứ 20 từ 1925 đến 1939.




    Nhưng không mấy ai chú ý đến một điều, đường xe lửa lên Đà Lạt
    là một đường xe lửa răng cưa (cog railroad), độc đáo và hiếm có trên thế giới.




    Phần lớn khách du lịch là người nước ngoài, muốn tham quan
    và trải nghiệm ga tàu cổ kính và đẹp nhất Việt Nam này.






    Không chỉ khách du lịch mà các cặp đôi cũng đến chụp ảnh cưới tại đây.




    Đầu tàu cổ được trưng bày để khách du lịch thăm quan và chụp ảnh.




    Có thể nói rằng, việc sở hữu nhiều kỷ lục như “nhà ga cao nhất”, “nhà ga cổ nhất”,
    “đầu tàu chạy bằng hơi nước duy nhất”, “nhà ga độc đáo nhất và “nhà ga đẹp nhất”
    Việt Nam đã khiến ga Đà Lạt trở thành một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn
    nhất thành phố.








    Điểm cuối cùng khách tham quan là Chùa Linh Phước – hay chùa Ve Chai
    một kiến trúc Phật Giáo đặc sắc và cùng khám phá thị trấn Trại Mát.


    Tuan Dao
    07/01/2014
    -https://news.zing.vn
    Last edited by khieman; 01-23-2020 at 08:13 PM.

  7. #26
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .



    Gà gáy báo thức
    trên desktop






    .
    Last edited by Hansy; 01-20-2011 at 11:06 AM.

  8. #27
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    03 Rose Allbum Chuyến Đò Vĩ Tuyến

    .









    .

  9. #28
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .

    Sự tích cá chép
    vượt Vũ Môn hóa Rồng







    Huyền thoại xưa ở Á Châu có kể rằng, khi trời đất mới hình thành, chính Trời đã làm ra mưa gió.

    Nước từ mưa gió, sông, biển, và những sinh vật sống trong nước được Trời tạo ra đầu tiên, đó chính là nguồn phát sinh ra mọi thứ.

    Sau, vì bận bịu tạo ra người và vạn vật nên Trời không làm mưa gió nữa, mà sai rồng là con vật ở cỏi trời, bay lượn ở trên không và phun nước xuống trần gian làm ra mưa.

    Nhưng vì số rồng trên trời ít, không đủ làm mưa cho đều khắp mọi nơi, Trời mới đặt ra một kỳ thi kén chọn các con vật lên làm rồng, gọi là “thi rồng”.

    Khi chiếu chỉ của Trời ban xuống dưới Thủy cung, vua Thủy tề là vì vua trông coi các công việc ở dưới nước, loan báo cho tất cả các giống sống ở đó, chúng tranh nhau đi thi.

    Cuộc thi gồm ba kỳ, mỗi kỳ phải vượt qua một đợt sóng, con vật nào đủ sức, đủ tài, vượt qua cả ba đợt thì mới đậu để được hóa rồng.

    Trong một tháng trời, bao nhiêu loài thủy tộc đến thi đều bị loại, vì không con nào vượt trót được cả ba đợt sóng.

    Có con cá rô nhảy qua được một đợt, đợt sau thì bị rớt.

    Có con tôm nhảy qua được hai đợt, ruột gan vây vẩy râu đuôi đã gần hóa rồng. Khi đến đợt ba, đuối sức bị té nên lưng cong lại.

    Đến lượt có một con cá chép vào cuộc thi, con cá này bản chất của nó đã là quý hiếm đặt biệt, vì trong miệng nó có ngậm một viên ngọc trai…

    Thần gió thấy lạ bay đến để xem, gió, mây ào ạt kéo đến, sấm sét ầm trời, và những đợt sóng cao trổi dậy…

    Cá chép nhờ đợt sóng cao đưa lên, vượt luôn một lần qua ba đợt sóng, nhả ngọc vượt qua Vũ Long Môn và hóa rồng.

    Cá chép hóa rồng vì vậy biểu trưng cho sự can đảm, may mắn, trót lọt, thành công, chiến thắng!

    Cả bầy cá chép con nào cũng muốn vượt qua Vũ Long Môn, bởi chúng biết hễ vượt qua được cửa đó, chúng sẽ từ những con cá chép tầm thường trở thành con rồng siêu phàm, thoát tục… và biến thành rồng thiêng, được sống đời đời.

    Vẩy, đuôi, râu, sừng tự nhiên mọc đủ, hình dạng trọn vẻ oai phong, rạng rỡ, một biểu tượng cho sự khát vọng của con người trên thế gian…

    Nhưng không phải con nào cũng có tính chất quí sáng (mang ngọc quý trong thân) và không phải cá chép nào cũng có phẩm chất, khả năng khắc phục khó khăn, trở ngại để đạt được thành công!

    Cá chép hóa rồng phun nước làm cho đất đai mầu mỡ, cây cối xanh tươi, đem lại sức sống cho muôn loài.

    Bởi vậy người ta thường xem hình ảnh cá chép hóa rồng là biểu tượng của sự an lành và sung túc, thịnh vượng. Thăng tiến trong học hành, thi cử, công danh và may mắn về tài lộc trong thương mại.
    Nguồn: Phong Thủy Tổng Hợp


  10. #29
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Cảm Ơn Tình Bạn Tuyệt Vời

    .

    Cảm Ơn Tình Bạn Tuyệt Vời

    Trân trọng gởi đến tất cả những NGƯỜI BẠN QUÍ,
    đã nâng mình khi sóng đời xô xuống.

    BẠN - BÈ thường thấy đi chung
    Nhưng BÈ và BẠN chẳng cùng bên nhau
    BẠN thì trước cũng như sau
    Sang hèn không đổi, nghèo giàu chẳng thay
    BẠN, khi ta gặp không may
    Góp lòng xoay trở, chung tay đỡ đần
    BẠN, khi ta xuống tinh thần
    Tận tâm an ủi, ân cần xẻ chia
    BẠN, không mốt nọ mai kia
    Nghe lời xiểm nịnh mà lìa tình thân
    BẠN, trong suốt quãng đường trần
    Không lừa phản, chẳng tính phần thiệt hơn
    BẠN thì trong mọi nguồn cơn
    Buồn vui chung với vui buồn của ta

    BÈ, thường cùng nhịp hoan ca
    Hân hoan vui vẻ với ta tiệc tùng
    Khi ta gặp chuyện khốn cùng
    BÈ, nhìn ta lạ như từng chưa quen
    BÈ, luôn biến trắng thành đen
    BÈ, hay đố kỵ, ghét ghen, nghi ngờ
    Khi ta lỡ vận sa cơ
    BÈ, không nâng lại phất cờ, đá thêm
    BÈ, nào ngần ngại đi đêm
    Bán ta bằng cái lưỡi mềm không xương
    BÈ, luôn miệng chữ mến thương
    Nhưng dao găm lại lụi sườn, đâm lưng
    BÈ, tay ảo thuật vô chừng
    Và vì chút lợi chẳng ngừng hại ta
    BÈ, tâm đầy những quỉ ma
    Làm chi còn chỗ Quốc gia, Đồng bào

    BẠN, ôi nghĩa ấy ngọt ngào
    Là DUYÊN là HẠNH chớ nào bỗng nhiên
    BẠN ơi, hỡi các BẠN HIỀN !
    BẠN là hoa HẠNH hoa DUYÊN, hoa ĐỜI

    CẢM ƠN TÌNH BẠN TUYỆT VỜI
    SÓNG XÔ TÔI XUỐNG, BẠN, NGƯỜI NÂNG LÊN


    (do Susan Nguyễn gửi đến)
    (01/07/2014

    http://lientruong-quynhon.com/D_1-2_...tuyet-voi.html

  11. #30
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Katana - Lưỡi Kiếm Bén nhất thế giới

    .

    Katana-Lưỡi Kiếm Bén nhất thế giới


    Hôm nay giới thiệu với mọi người một chút về kiếm Nhật Bản ( Katana ) , nhưng chủ đề này lớn và dài quá, không thể nói hết trong một entry được nên chỉ có thể giới thiệu sơ lược thui .

    Kiếm nhật
    ( Katana )Thứ vũ khí mà chúng ta quen gọi là kiếm Nhật được chính người Nhật gọi dưới cái tên katana tức là đao theo chữ Hán (.

    Chúng là những gì cao quý nhất mà nghệ thuật rèn của con người mang lại: Kiếm Nhật katana, thanh kiếm dài của những hiệp sĩ samurai. Cho đến ngày nay, những nghệ nhân vẫn còn rèn vũ khí này theo đúng truyền thống cổ.


    Nếu chia theo độ dài, cấu tạo thì kiếm Nhật có 3 loại :


    - Trường kiếm (kiếm dài - Tachi hoặc Katana)






    - Đoản kiếm (Kodachi hay Wakizashi) ngắn hơn một chút, cùng với kiếm dài tạo thành bộ song kiếm và kiếm ngắn



    - Dao găm (Tanto hoặc Akuchi). Kiếm ngắn dùng khi cận chiến hoặc trong nghi thức Seppuku (mổ bụng tự sát)





    Nếu chia về chức năng thì kiếm Nhật gồm 2 nhóm:


    - Cặp kiếm chiến đấu: Tachi và Tanto

    Cặp kiếm chiến đấu thường sử dụng khi samurai mặc giáp phục. Còn khi đã cởi bỏ áo giáp thì họ chuyển sang sử dụng cặp KatanaWakazashi. Katana có cấu tạo giống Tachi, chỉ khác một chút là Tachicó thêm bộ phận phụ ở vỏ bao để đeo bên hông.

    + Tachi: lưỡi gươm có cấu tạo cong, chuôi dài có thể nắm bằng cả hai tay. Vỏ bao có bộ phận phụ để đeo bên hông. Dùng khi mặc giáp phục.





    + Tanto: cấu tạo giống Tachi nhưng ngắn, gần giống như dao găm.




    - Cặp kiếm dân sự: Katana Wakazashi




    + Katana: có cấu tạo giống Tachi nhưng không có bộ phận phụ để đeo bên hông, và dùng khi cởi bỏ áo giáp .









    Katana là loại đao dài, hình hơi cong, một lưỡi, rất bén, được các võ sĩ Nhật trọng dụng và luôn đeo trên thắt lưng - thường đi đôi với một thanh kiếm ngắn hơn, hoặc cực ngắn, gọi là đoản đao (短刀). Bộ đôi đó gọi là Đại-Tiểu (大小) - biểu tượng cho tác phong và danh dự của người võ sĩ. Thanh đao dài katana dùng để chém trong tác chiến.

    Kiếm ngắn để đâm khi đến gần đối phương - hoặc để mổ bụng tự sát (một kỹ thuật tự sát của samurai, mang tên seppuku).








    Thanh kiếm katana này nguyên là của hiệp sỹ samurai cuối cùng Saigo Takamori,
    đã tự sát năm 1877 sau cuộc nổi dậy thất bại.


    Đao katana có chuôi dài đủ để người sử dụng dùng hai bàn tay nắm chặt. Theo truyền thống, đao được đeo với lưỡi quay lên phía trên, (chiều cong hướng lên trên, ngược với cách đeo kiếm Tây Âu). Ngày nay tuy không còn được sử dụng trong chiến tranh, kiếm Nhật vẫn được giới sưu tầm yêu chuộng - loại kiếm cổ rất đắt tiền; và nghệ thuật tác chiến bằng kiếm Nhật vẫn còn được lưu truyền trong một số môn thể thao võ thuật Nhật Bản, như Kendo (Kiếm đạo), Kenjitsu (Kiếm thuật), Battojitsu (Bạt đao thuật).

    + Wakazashi: kiếm ngắn có cấu tạo dài hơn Tanto và hợp với Katana thành một cặp song kiếm.




    Có thể nói sau một khoảng thời gian dài phát triển, môn kiếm thuật Nhật BảnKenjitsu, với những đặc trưng riêng mới được hình thành. Những kiếm sĩ thành danh thường xây dựng một hệ thống kỹ thuật riêng, để lập nên những trường phái rồi cứ thế truyền từ đời này sang đời khác.

    Tinh hoa nghệ thuật cũng theo đó dần dần phát triển thêm lên. Tuy nhiên phải đến cuối thế kỷ 14 đầu thế kỷ 15 bài tập đối luyện kiếm thuật (Kata) với tổ hợp động tác công - thủ - phản công có quy ước mới được nghiên cứu và đưa vào hệ thống huấn luyện. Mãi cho tới cuối thế kỷ 15, kiếm gỗ (Bokken) mới bắt đầu được sử dụng trong những buổi tập luyện.

    Thời kỳ này lư thuyết chung về kiếm thuật đă được hoàn thiện nhằm mục đích huấn luyện trong giới Samurai. Không chỉ vậy lư thuyết này còn được kết hợp với tư tưởng Nho Giáo để xây dựng một triết lí về phong cách sống và hành động của giới võ sĩ đạo (Bushido).


    Kiếm gỗ (Bokken)






    Theo một số thư tịch cổ để lại từ thế kỷ 15 - 17 trên toàn nước Nhật có khoảng 600 trường phái kiếm thuật, chưa kể đến các môn võ thuật khác. Có thể nói thời kỳ này đánh dấu một bước phát triển của nghệ thuật sử dụng kiếm, bởi trước đó thanh kiếm chỉ được coi là thứ vũ khí giết người .

    Khởi đầu của bộ môn nghệ thuật kiếm phải kể tới kiếm sư Sekishu - người sáng lập trường phái Yagyu Shinkage dưới sự bảo trợ của tướng quân Tokugawa Ieyasu. Ông đã truyền giảng cho môn sinh của mình khái niệm về sự cảm nhận tâm linh đạt được qua việc tập luyện kiếm thuật .

    Con trai của ông là Munenori (1571 - 1646), một kiếm sĩ tài ba sau này đã biên soạn cuốn Fudochi - shinmyoroku mà nội dung chủ yếu kể về kinh nghiệm trực ngộ "Thiện đạo" trong kiếm thuật.

    Yagyu Shinkage cũng như Maniwa Nen, Shinkatato, Ono hay Intto là những trường phái tiên phong trong khuynh hướng chuyển từ Kiếm thuật sang Kiếm đạo (Kendo). Đồng thời đưa kiếm tre (Shinai) vào luyện tập và thi đấu. Kiếm tre ban đầu được chế tạo bằng cách dùng 4 mảnh tre dài ghép lại đút vào một cái bao dài bằng da cóc hoặc da thuộc chưa có miếng lá chắn che tay (Tsuba).





    Sau này nó được cải tiến với bao vải thay thế bao da, thêm miếng lá chắn vào
    và có trọng lượng gần bằng kiếm thuật song có hình dạng thẳng
    .






    Đến thế kỷ 18, kiếm tre và sàn tập bằng gỗ trở nên phổ biến tại các trường phái dạy kiếm, hơn thế có các dụng cụ hỗ trợ tập luyện như: giáp che ngực, mũ che đầu, găng tay bảo vệ... cũng được cách tân từ binh giáp truyền thống để trang bị cho môn sinh theo học kiếm đạo.

    Sang thế kỷ 19, kiếm đạo phát triển rộng trong quần chúng cũng như nhiều môn võ khác, và nó không chỉ thu hẹp trong giới Samurai. Bằng chứng là đă có rất nhiều cuộc biểu diễn kiếm đạo được tổ chức cho công chúng xem tại những nơi sinh hoạt công cộng.

    Cuối cùng, giờ đây kiếm đạo đã trở thành một trong những nét văn hoá đặc trưng truyền thống mà mỗi khi nhắc tới văn hoá Nhật Bản chúng ta không thể không kể tới sự góp mặt của nó.

    Biểu tượng của đẳng cấp:

    Thanh kiếm katana đã là biểu tượng đẳng cấp của hiệp sĩ Nhật. Với một samurai thì thanh kiếm là một thứ không thể thiếu , nó không những chỉ là một công cụ chiến đấu lợi hại mà còn đại diện cho tinh thần chiến đấu, phẩm giá và danh dự của họ. Nó như tâm hồn của mỗi võ sĩ samurai vậy, kiếm và người như hòa làm một.

    "Kiếm còn người còn, kiếm mất người cũng mất"
    .

    Chính vì vậy mỗi samurai coi thanh kiếm như mạng sống của mình, không ai được quyền sở hữu, những thanh kiếm quý sẽ được lưu truyền trong dòng tộc, thế hệ trước để lại cho thế hệ sau.

    Chỉ những samurai mới được phép mang chúng - gần 1000 năm liền chỉ với một thời gian gián đoạn ngắn, cho đến khi Nhật hoàng thu lại đặc quyền này năm 1867và qua đó tước quyền lực của họ.

    1. Lịch sử :

    Người Nhật đã có một truyền thống rèn kiếm lâu đời. Kiếm, ngọc và gương là ba bảo vật truyền quốc, được coi như biểu chương của hoàng gia (imperial regalia), để tại đền Ise gần hoàng cung cũ ở cựu đô Nara , đó cũng là những linh vật trong thần đạo (shinto).

    Ngay từ thời đại Kofun và Nara (300-794), nước Nhật đã sử dụng kiếm nhiều nhất trong các cuộc chiến tranh . Hồi đó lưỡi kiếm thẳng , cấu trúc đơn giản và dài chừng 80 cm theo mẫu mực của Trung Hoa và Triều Tiên. Đến thế kỷ thứ 8, đầu thế kỷ thứ 9 nó đã được người Nhật cải tiến và đúc thành kiếm cán dài và uốn cong lưỡi kiếm , hoàn toàn mang đậm tính chất đặc thù của Nhật .

    Thời đại Heian sau đó (794-1185), nước Nhật bước vào một thời kỳ văn hoá khá rực rỡ. Xã hội nhiều giai cấp trong đó giới võ sĩ (samurai), giới chiến tăng (warrior monks) trở thành những lực lượng quan trọng được triều đình thuê mướn để bảo vệ lãnh thổ. Thanh kiếm không còn là một võ khí mà đã trở thành một tác phẩm, vừa thanh tú vừa mỹ thuật.

    2. Rèn kiếm (kitaeru) :



    Trường đao Katana

    Kitaeru (forge; temper) được coi như một trong những truyền thống cần phải bảo tồn cùng với nhiều bộ môn nghệ thuật khác để duy trì tinh thần đặc thù của người Nhật. Lẽ dĩ nhiên rèn không phải nói về nghề thợ rèn một cách tổng quát mà là kỹ thuật rèn kiếm, một truyền thống lâu đời được coi trọng, vì thanh kiếm không phải chỉ là một món khí giới mà còn tượng trưng cho tinh thần cao thượng của võ sĩ đạo.


    Thanh kiếm của người Nhật không phải chỉ là một lưỡi dao dài dùng làm vũ khí mà mang theo rất nhiều ý nghĩa. Trong quá trình chế tạo, người ta không những phải thử để xem nó có đủ sắc để xuyên qua nhiều lớp áo giáp bằng sắt mà có khi còn thí nghiệm ngay trên thân xác con người để coi có “ngọt” hay không

    Người Trung Hoa cũng như người Việt Nam cũng chú trọng đến kiếm nhưng quá lắm chúng ta chỉ coi như một kỹ năng cần điêu luyện, trái lại người Nhật lại nâng thanh kiếm và cách sử dụng lên hàng “đạo” – kiếm đạo, kendo – và thanh kiếm gắn liền với sinh mạng và nhân cách của người võ sĩ (samurai).

    Trong khi kiếm Âu Châu chỉ là một lưỡi thép duy nhất, kiếm Nhật bao gồm lá thép, sắt non, và thép già, mỗi loại có hàm lượng carbon khác nhau. Lõi của thanh kiếm (shingane) được rèn bằng cách pha trộn giữa sắt thô với thép lá. Sau đó mới là lớp vỏ bao bên ngoài (hadagane) cái lõi đó cũng làm bằng kỹ thuật trên nhưng dùng sắt non và thép lá. Vỏ bao có thể cần dát ra rồi gập lại 15 lần nhưng nếu nhiều hơn nữa có thể làm thép trở nên dòn và không đều. Cuối cùng lưỡi kiếm được chêm vào giữa những lớp vỏ bao, rèn cho thật liền lạc khít khao. Lớp vỏ mềm giúp cho cái lõi cứng ở bên trong, khiến cho lưỡi kiếm chịu được va chạm mạnh, dẻo dai hơn kiếm đúc theo kiểu Âu tây.

    Người Nhật cũng dùng phương pháp bao một lớp vỏ mềm bên ngoài để tạo nên những làn sóng trang điểm cho lưỡi kiếm. Khi ruột kiếm đã chèn vào giữa và hình dạng đã hoàn thành, một loại hợp chất đặc biệt gồm tro rơm và bùn đỏ được trét lên trên mặt lưỡi kiếm rồi để cho khô. Sau đó người ta dùng một thanh tre để khắc lên lớp bùn những hoa văn rồi lại để vào trong lò nung tiếp, lấy ra khắc theo mẫu lên lưỡi kiếm để đến khi chà láng những hình vẽ đó sẽ hiện ra. Trong giai đoạn này lưỡi kiếm được bao bằng đất và tro kia phải nóng đến mức có “màu của trăng tháng 2 hay tháng 8” (the colour of the moon in february or august). Lớp bùn đó chỗ dày chỗ mỏng, thường ở lưỡi kiếm thì mỏng nhất, ở các nơi khác thì dày hơn để khi nung lưỡi kiếm sẽ cứng mềm khác nhau tuỳ theo từng khu vực. Lưỡi thép, phần cứng nhất của thanh kiếm mà người ta gọi là hamon có những hạt (grain) khác nhau gọi là nie và nioi. Nie (boiling) tượng trưng cho tinh thần hùng dũng, cứng cỏi, nioi (visible fragrance) tượng trưng cho sự cao thượng, quí phái. Những hạt này có được do sự gập đi gập lại và cũng là một thứ dấu hiệu của mỗi trường vì mỗi phương pháp có những vân riêng. Nioi mắt thường không trông thấy, chỉ gợn lên một làn sương mỏng như giải ngân hà một đêm sao. Hạt nie thì to hơn, trông lấm tấm như móc buổi sáng hay một chùm tinh tú .





    Chuôi đao và tsuba


    Nét cong của thanh kiếm Nhật không phải chỉ do kỹ thuật rèn hay đập mà còn là một biểu trưng văn hoá xuất hiện trên nhiều công trình truyền thống khác, từ mái cong trên đền đài, chùa chiền, cung điện, kể cả thư pháp. Người Nhật vẫn cho rằng nếu đúc một thanh kiếm thẳng băng thì không những thô kệch mà còn quá thực dụng, không nói lên tính nghệ thuật của người võ sĩ. Chính vì thế, họ luôn luôn tạo những đường cong, uốn lên lượn xuống để biến một vũ khí chiến đấu thành một tác phẩm. Tiến trình rèn thép, các loại chất liệu trong mỗi giai đoạn đến nay vẫn còn là những bí mật nghề nghiệp không truyền ra ngoài và cũng là thước đo sự tài hoa, khéo léo cũng như “tay nghề” của các bậc sư phụ.




    Người ta cũng bắt đầu khắc tên và nơi chế tạo trên chuôi kiếm, võ sĩ cũng mang theo những thanh kiếm ngắn hơn để thay đổi. Ngoài kiếm nhiều loại chiến cụ khác cũng phát triển điển hình là cung tên, giáp trụ và nghệ thuật binh bị cũng đạt một tầm vóc mới.

    Người Nhật tìm ra cách đúc kiếm nhiều lớp, tạo được những vân thớ (jihada) khác lạ được gọi dưới những tên như itame, masame, mokume, ayasugi. Những vân đó có khi giống như mắt gỗ nhưng cũng có khi uốn lượn như làn sóng. Thanh kiếm không còn là một vũ khí mà đã thành một tác phẩm mỹ thuật.

    Các thợ rèn thuộc tỉnh Soshu và tìm ra được cách pha trộn thép mềm với thép cứng để làm lưỡi kiếm, vẫn sắc bén mà lại ít bị mẻ. Họ cũng tiêu chuẩn hoá chiều dài và cải thiện mũi kiếm để khi kiếm bị gãy vẫn có thể mài và dùng tiếp. Trước kia kiếm Nhật chỉ uốn cong nơi gần cán, sau từ từ cong đều và cũng thuôn dần ra tới tận mũi. Người Nhật cũng chế tạo loại giáp trụ nhẹ hơn để bộ binh dễ di động và phân tán, đồng thời nghiên cứu cách dùng kiếm đánh xáp lá cà thay vì dùng cung bắn từ xa.

    Trước khi rèn một thanh kiếm, bao giờ kiếm sư cũng trai giới, cầu xin thần linh phù hộ và sau đó mặc lễ phục để làm việc. Người ta nói rằng kiếm sư rèn kiếm không còn là một công việc mà là một nghi lễ, thân tâm hợp nhất và tập trung toàn bộ tinh thần từ khi bắt đầu cho tới khi hoàn tất.

    Thời kỳ nước Nhật chia thành hai gọi là Nam Bắc triều (1333-1393). Thời kỳ này đánh dấu cao điểm của thuật đúc kiếm. Lưỡi kiếm bây giờ dài đến 1 mét gọi là tachi và kiếm đúc cho đền đài có khi còn dài hơn. Kiếm dài có lợi thế cho người đi bộ và chiến đấu trong đêm tối nên thường đeo sau lưng và rút ngược lên qua vai.

    Khi ra ngoài người ta đeo trường kiếm (katana) và đoản kiếm (wakizashi) nhưng khi ở trong nhà thì chỉ đeo đoản kiếm và được tháo ra đặt ngay cạnh giường khi đi ngủ. Đối với người võ sĩ, thanh kiếm là vật bất ly thân, không rời xa trong bất cứ trường hợp nào.

    Người Âu châu đã vô cùng kinh ngạc khi thấy kiếm Nhật hơn hẳn các lưỡi kiếm của người Tây Ban Nha nổi tiếng ở Âu Châu. Bộ đại từ điển Britannica của Anh (in lần thứ 6), quyển 9 trang 37 viết là “ kiếm Nhật có thể chặt đứt một chiếc đinh lớn mà lưỡi kiếm không hề hấn gì”.

    Kunimasa Matsuba là một trong những nghệ nhân rèn kiếm Nhật giỏi nhất. Ông đã đoạt được nhiều giải thưởng cho kiếm katana. Một lưỡi kiếm cong, dài hơn 60 cmlàm từ hằng nghìn lớp thép được gấp lại.

    Ông Matsuba chỉ tự rèn lưỡi kiếm. Làm cán kiếm, vành chắn và vỏ kiếm lại là các nghệ thuật riêng biệt. Và ngay lưỡi kiếm sau khi rèn vẫn còn chưa hoàn thành, vẫn còn phải được mài bóng bằng tay 2 tuần liền với đá mài có độ mịn khác nhau.

    Đặt một thanh kiếm cũ cạnh thanh kiếm vừa được ông Matsuba rèn, một người không chuyên không thể nhận ra được khoảng thời gian nhiều thế kỷ trên lưỡi kiếm. Dường như thời gian không hề đóng một vai trò nào ở những thanh kiếm này. Chúng đã được rèn để trở thành những vật hoàn hảo.

    Một thanh kiếm katana mới do ông Matsuba rèn có giá tròn 18.000euro. Giá kiếm tuân theo những quy luật khác với các vật thể nghệ thuật khác. Một thanh kiếm cổ có thể rẻ hơn một thanh kiếm mới. Ở đây thời gian cũng không còn quan trọng. Quyết định giá cả của một thanh kiếm là nghệ thuật rèn tốt hay kém chứ không phải độ tuổi. Nếu người thợ rèn một thanh kiếm không tốt cách đây 500 năm thì thời đó nó không có giá trị gì cả - và ngày nay cũng không. Một đường rạn nứt duy nhất có thể làm cho thanh kiếm trở thành vô giá trị. Katana hiện giờ là những vật sưu tập được ưa chuộng. Thêm vào đó là đắt tiền. "Tôi còn nhớ có một thanh kiếm katana năm 1845, có giá khoảng500.000 euro", ông Karl-Heinz Peuker nói, một người sưu tầm và mua bán kiếm samurai, cũ cũng như mới.

    Lúc rèn phải hoàn toàn tối

    Có ba điều quyết định cho chất lượng của một lưỡi kiếm: hình dáng, cấu trúc bề mặt của lưỡi kiếm và hamon, đường chia cắt giữa lưỡi kiếm và sống kiếm. Cấu trúc biểu hiện người thợ rèn đã làm việc ra sao, đã gấp thép lại như thế nào. Bậc thầy Matsuba chỉ cần nhìn thoáng qua là có thể cho biết một lưỡi kiếm thuộc về nghệ nhân rèn nào và thời kỳ nào.

    Những hoa văn (hamon) đó được đặt tên, hoặc mây, sóng biển, dãy núi, hoa ... cũng giống như người Trung hoa đặt tên cho vân trên bảo kiếm của họ. Người thợ không phải chỉ đúc một thanh kiếm tốt mà còn làm sao cho mỹ thuật, đó mới thực là vấn đề





    Katana và lưỡi kiếm. Có thể nhìn thấy rõ đường vân hamon ở lưỡi kiếm

    Đường hamon hình thành trong quá trình rèn. Người thợ rèn bọc lưỡi kiếm bằng một hỗn hợp đất sét được pha trộn theo công thức bí mật. Ông ép hình dáng của hamon ở phần lưỡi kiếm vào lớp đất sét còn ướt. Khi lớp đất sét khô, lưỡi kiếm được đốt nóng trong phòng rèn không có ánh sáng. Chỉ có màu sắc của lửa tiết lộ cho nghệ nhân rèn biết được nhiệt độ cần thiết – một trong những khoảnh khắc khó khăn nhất và quyết định then chốt trong toàn bộ quá trình rèn. Khi đạt đến nhiệt độ cần thiết, nghệ nhân nhúng lưỡi kiếm vào bể nước, phần vỏ đất sét mỏng ở lưỡi kiếm nguội đi nhanh hơn, tôi lưỡi kiếm tối ưu. Đất sét ở phần còn lại dầy hơn, vì thế mà thép ở đó nguội đi chậm hơn, vẫn còn mềm dẻo hơn.

    Một phần của văn hóa Nhật

    Một thời gian dài, nghệ thuật rèn kiếm katana đã suýt bị lãng quên. Khi các samurai bị tước đoạt quyền lực và đặc quyền mang kiếm của họ bị phá vỡ, việc này cũng ảnh hưởng trầm trọng đến các lò rèn. "Thời đó chúng tôi đã đánh mất một phần của văn hóa", ông Matsuba nói. "Vì văn hóa samurai là văn hóa Nhật."

    Và chính ngay các thanh kiếm suýt tí nữa cũng bị đánh mất: Sau Thế chiến 2, quân đội Mỹ ra lệnh hủy tất cả vũ khí – trong đó có cả các thanh kiếm katana cổ xưa quý giá. May mắn là người ta đã có thể làm cho tổng chỉ huy Tướng MacArthur thay đổi ý kiến. Các thanh kiếm samurai được giữ lại nhưng phải khai báo. Từ đó, mỗi một thanh kiếm vừa rèn xong phải được đăng ký.

    National Graphics, trong chương trình Fight Science, đã đánh giá kiếm Nhật là vũ khí tuyệt vời nhất khi so sánh với kiếm thường, hay đao, côn, gậy,...


    3. Mài kiếm :


    Việc mài kiếm của một nghĩa sĩ khác hẳn công việc mài lưỡi kiếm sau khi một sư phụ đã rèn xong. Rèn kiếm mới chỉ là một chặng đường, tuy quan trọng nhưng không phải là hoàn bị mà còn nhiều công việc khác cũng cam go không kém.

    Công việc hoàn chỉnh thanh kiếm không chỉ là mài cho sắc (sharpening) mà phải gọi là “chà láng” hay đánh bóng (polishing). Đánh bóng một thanh kiếm phải qua 13giai đoạn, dùng 13 loại đá mài khác nhau và 13 động tác khác nhau và mất trung bình 120 giờ. Để mài một lưỡi kiếm, kiếm sư dùng sáu cục đá mài (whetstones) khác nhau, từ loại nhám xuống dần loại mịn hơn và sau cùng để đánh bóng. Trước khi mài, phải nghiên cứu kỹ càng “thớ” (texture) và “mẫu” (pattern) của thanh kiếm, không phải cùng một lúc mà chỉ từng khoảng3 cm một. Việc giữ sao cho tay phải và tay trái gần như cân bằng tuyệt đối (near-perfect balance) là một công tác sinh tử vì nếu hai tay chỉ lệch đi một khoảnh khắc thì có thể hỏng luôn cả lưỡi kiếm.

    Sau khi mài xong, kiếm sư kẹp hai hòn đá mài mỏng dính trên đầu ngón tay và vuốt theo lưỡi kiếm để đánh bóng. Ông cầm ngang lưỡi kiếm để cho ánh nắng soi lên từng milimét để kiểm soát công trình của mình lần cuối cùng. Không có hai thanh kiếm nào giống hệt nhau, mỗi thanh kiếm có hình dáng khác nhau và có những đặc tính khác nhau. Mài kiếm chính là làm sao cho thanh kiếm thể hiện được tối ưu cái “tinh thần” của nó, để hiển lộ cái “tận mỹ” của nó, để thoát ra cái “huy hoàng” của lưỡi thép đã hoàn thành. Kiếm mài đúng cách mới có thể hiển hiện được hết tài năng của người rèn kiếm.

    4. Bao kiếm

    Một lưỡi kiếm dù quí đến đâu nếu không được lắp vào một cán kiếm thích hợp và để trong một bao kiếm đúng cách thì vẫn không thể nào gọi là hoàn toàn. Muốn làm một bao kiếm, người kiếm sư phải làm hai mảnh vừa khít theo đường cong của lưỡi kiếm rồi dán lại với nhau. Chất keo dán là một loại hồ nấu bằng gạo rồi nghiền cho nhuyễn bằng đũa tre. Người ta không dùng các loại keo dán cực chắc (super-glue) vì e ngại sau này phải tách hai thanh gỗ ra trong trường hợp lưỡi kiếm bị sét rỉ và chỉ có hồ làm bằng gạo mới khỏi làm hư thanh gỗ. Bí mật của cách làm bao kiếm là sao cho có cảm tưởng là bao và lưỡi khít khao từ đầu đến cuối nhưng thực ra chỉ tiếp xúc với nhau ở gần cán kiếm mà thôi và lưỡi kiếm không nơi nào quá chặt vì nếu không, độ ẩm của gỗ sẽ làm cho kiếm bị rỉ.

    Tuy chỉ là một công nghệ giản dị như thế, việc làm bao kiếm đòi hỏi nghệ nhân dùng 15 loại bào (plane) khác nhau, to có, nhỏ có mỗi thứ một việc.






    Vỏ đao Nhật


    Tsuba (sword guard) là miếng chặn tay cầm, phân chuôi kiếm và lưỡi kiếm ra làm 2 phần khác nhau, người Trung Hoa gọi là kiếm cách. Tsuba cũng được coi là một nghệ phẩm và hiện nay cũng có nhiều người sưu tầm, nhiều miếng có giá cả rất cao. Tsuba được khoét ở giữa để tra lưỡi kiếm và để chặn cho kiếm của địch khỏi lướt vào tay mình.

    Tuy nhiên, người ta cũng trang trí bằng nhiều hình thức khác, cây cỏ, hoa lá, thú vật ... có ý nghĩa hay mang một nguyện vọng để được may mắn. Nguyên thuỷ, tsuba do thợ rèn kiếm hay thợ làm áo giáp sản xuất nhưng từ thế kỷ 16 trở về sau thì do những nghệ nhân thực hiện như một tác phẩm riêng biệt. Tsuba có thể làm bằng sắt thuần tuý hay nạm vàng, bạc, đồng ...

    5. Thử kiếm (tameshi-giri) :

    Để đối phó với sự sắc bén của các thanh kiếm do họ chế tạo được, người Nhật cũng đưa vấn đề che chở thân thể cho khỏi bị kiếm chém đứt thành một nghệ thuật khác. Đó là việc chế tạo một bộ áo giáp chắc chắn – bao gồm 12 món khác nhau, mặc vào rất công phu để bảo vệ tính mạng của võ sĩ. Tuy nhiên, đối với một thanh bảo kiếm trong tay một cao thủ về kiếm đạo thì bộ áo giáp kia không đủ hiệu quả. Chỉ một nhát kiếm, cả người lẫn giáp có thể xẻ làm hai. Những thanh bảo kiếm thực sự đều là của gia bảo truyền từ đời nọ sang đời kia, tham dự trong hết trận đánh này đến trận đánh khác. Những thanh kiếm đó đã được thử bằng chính sinh mạng con người.

    Tuy nhiên, trước khi được dùng để chiến đấu, kiếm Nhật sau khi hoàn tất phải được thử, thường là với một người bù nhìn làm bằng rơm. Nếu thanh kiếm có thể chặt đứt được một bó rơm, người ta sẽ thử tiếp trên thân người, thường là dùng một xác chết. Xác người được treo lên theo nhiều kiểu khác nhau để thử kiếm theo đủ mọi hướng, đủ mọi kiểu, mọi đòn. Cũng có khi thanh kiếm được thử ngay trên những tử tội. Có 16 chỗ trên thân người dùng để thí nghiệm, khó cắt nhất là chém ngang hông sao cho đứt cả hai xương đùi, dễ nhất là chém đứt cổ tay.
    Ngày nay, những võ sư vẫn huấn luyện môn đồ phương pháp dùng kiếm để chặt đứt những bó rơm ướt, lõi bằng cọc tre. Mỗi ngày người võ sĩ phải tập hàng trăm lần cho thật nhuần nhuyễn. Kiếm thử xong sẽ được các chuyên giá đánh giá và xếp hạng.


    6. Kết luận :


    Việc rèn một thanh kiếm đã được nâng lên thành một nghi lễ mang tính chất huyền bí. Người thợ rèn phải trai giới trong nhiều ngày, qua những nghi thức thanh tẩy (ritual purification) và khi làm việc họ mặc một bộ đồ trắng như thiền sư, đạo sĩ. Ngay từ thế kỷ 13, kiếm Nhật đã nổi tiếng trên thế giới mà không nơi nào sánh kịp. Người Trung Hoa cũng nói đến bảo kiếm nhưng phần lớn chỉ là truyền thuyết và huyền thoại, chỉ nghe mà không thấy. Trái lại kiếm Nhật có thật và nhiều người đã bỏ một khoản tiền lớn để đặt làm hay mua. Theo những chuyên gia về luyện kim, mãi đến thế kỷ 19, người Âu châu mới đủ trình độ để tạo được những hợp kim tốt như thép của Nhật trước đó 600 năm và cũng phần lớn là vì học hỏi được phương pháp của xứ Phù tang. Kiếm Nhật cũng nói lên một đặc tính riêng của dân tộc này, làm việc gì cũng muốn đến chỗ tận thiện, tận mỹ.


    Đây là thanh kiếm được cho là đẹp nhất mọi thời đại



    Code:
    
    
    Code:
    http://vietyo.com/

Trang 3 / 19 ĐầuĐầu 1234513 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Xôi chiên giòn
    By sophienguyen in forum Món Chính Chọn Lọc
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-19-2016, 01:30 AM
  2. Dư âm "nồi cháo lú " ....
    By giavui in forum Tranh Ảnh Hài Hước
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-21-2014, 02:26 AM
  3. Nồi Cháo Thịt - Nhật Tiến
    By khieman in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 11-19-2013, 11:31 PM
  4. Chiếc nồi đắt nhất thế giới
    By duyanh in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-23-2011, 11:08 AM
  5. ăn mừng nồi cháo lú trên 10500 điểm
    By ablue in forum Quán Ông 8 Bà 8
    Trả Lời: 6
    Bài Viết Cuối: 06-04-2011, 09:15 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •