Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc không ở thiên đình
Ở ngay bên cạnh người mình đang yêu
Florian
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 16 of 16

Chủ Đề: Zoo

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Zoo

    Zoo

    Tác giả :Osuichi


    MỤC LỤC [−]

    1. Kazari và Yoko
    2. Seven Rooms
    3. So-far
    4. Thơ của ánh dương
    5. ZOO
    6. Đi tìm máu đi
    7. Ngôi nhà trắng trong rừng sâu giá lạnh
    8. Closet
    9. Lời nguyền của chúa tể
    10. Trên máy bay sắp rơi
    11. Trong công viên buổi chiều tà hôm ấy





    Chương 1

    Kazari và Yoko
    Nếu định giết tôi, mẹ sẽ làm thế nào nhỉ? Dùng vật cứng nện vào đầu tôi như thường lệ, bóp cổ tôi như thi thoảng bà vẫn làm, hoặc đẩy tôi khỏi ban công rồi làm ra vẻ là tôi tự tử cũng nên.

    Chắc chắn là thế! Tôi cũng nghĩ sắp đặt thành vụ tự sát là cách hay nhất. Khi bạn cùng lớp và thầy cô giáo tôi hỏi đến, nhất định bà sẽ trả lời thế này, "Con bé Endo Yoko hay trầm cảm mà, chắc hết sức chịu đựng rồi nên mới tự sát?"

    Thế là chẳng ai nghi ngờ gì nữa.

    Gần đây, mẹ còn thẳng tay đánh đập nên những vết thương trên người tôi ngày một nhiều hơn. Dù gì cũng là con cái, có ghét bỏ thì chỉ nên bóng gió thôi mới phải. Thế mà mua bánh ga tô cho em gái nhưng cố tình bỏ qua tôi, mua quần áo mới cho em nhưng lại chẳng mua cho tôi thứ gì. Mẹ đó giờ toàn hành hạ tôi về tinh thần.

    "Yoko, con là chị, phải nhường em chứ?"

    Đây là câu cửa miệng của mẹ.

    Tôi và Kazari là chị em sinh đôi cùng trứng. Kazari vừa xinh xắn vừa lanh lợi, mỉm cười trông y hệt đóa hoa bừng nở. Ở trường, thầy cô và bạn học đều yêu mến em. Tôi cũng thích Kazari, vì đôi khi được em cho đồ ăn thừa.

    Mẹ thường cố ý không nấu cơm cho tôi, nên hầu như lúc nào tôi cũng đói. Nhưng hễ tôi lén mở tủ lạnh trong bếp ra là mẹ lập tức cầm gạt tàn nện tôi. Vì sợ bị đánh nên tôi chẳng dám ăn thứ gì. Có lúc tôi đói tưởng chết, Kazari bèn đẩy khay cơm thừa sang cho. Nói thực lòng, trong mắt tôi lúc ấy, em gái đúng là thiên sứ, một thiên sứ có đôi cánh màu trắng đã đặt món gratin và cà rốt bỏ mứa vào khay đem đến cho tôi.

    Nhìn thấy Kazari cho tôi đồ ăn thừa, mẹ không hề tức giận. Từ trước đến giờ, bà hầu như chưa mắng em câu nào. Đối với mẹ, Kazari chính là báu vật.

    Tôi cảm ơn em rồi ăn ngấu nghiến, bụng bảo dạ, vì đứa em gái quý báu này, dù phải giết người tôi cũng dám.

    Chúng tôi không có cha. Kể từ khi nhớ được mọi chuyện, trong nhà đã chỉ có ba người sống với nhau là mẹ, Kazari và tôi. Hiện tôi đang học lớp Tám. Cuộc sống cứ tiếp diễn như thế.

    Tôi không biết việc thiếu vắng một người cha ảnh hưởng ra sao đến cuộc đời mình. Nhưng nếu có cha, biết đâu tôi sẽ không bị mẹ bẻ răng, gí đầu thuốc lá vào người, thậm chí mẹ sẽ không bao giờ nảy ra những ý tưởng đó ấy chứ. Tôi cũng có thể vui vẻ như em Kazari. Sáng sáng, khi mẹ tươi cười bưng bánh mì nướng và trứng ốp la đến, tôi đều nghĩ vậy. Nhưng tất cả những thứ đó đều được đặt trước mặt Kazari, và chẳng bao giờ tôi có phần. Thà đừng nhìn thấy còn hơn, hiềm nỗi tôi ngủ ngay trong bếp, không muốn nhìn cũng không được.

    Mẹ và Kazari đều có phòng riêng, tôi thì không. Vì thế, đồ đạc của tôi phải nhét vào gian chứa đồ cùng máy hút bụi và các món gia dụng khác. Cũng may, ngoài đồng phục học sinh và sách vở ra, tôi gần như không có gì nên chẳng cần nhiều không gian để sống, áo quần cũng lưa thưa vài chiếc do Kazari thải ra. Thỉnh thoảng cầm sách hay tạp chí để đọc lại bị mẹ lấy đi. Tôi chỉ có độc một mảnh đệm vuông đã bẹp dí mà thôi. Nó cũng bị đặt trong bếp, bên thùng rác, còn tôi ngồi trên đó học bài, tưởng tượng linh tinh và ngâm nga một mình. Có một điều tôi phải cực kỳ chú ý: không được nhìn mẹ và Kazari. Nếu ánh mắt gặp nhau thì mẹ sẽ quăng con dao làm bếp đến ngay. Đối với tôi cái đệm là thứ quý giá vô cùng. Nằm cuộn mình trên đó như một con mèo để nghỉ ngơi, mình mẩy tôi không còn đau nữa.

    Mỗi sáng tôi đều ôm bụng đói ra khỏi nhà. Nếu cứ ngồi lì mãi đấy, mẹ sẽ nhìn tôi bằng ánh mắt căm ghét, ngụ ý "Con ranh kia sao vẫn chưa đi nhỉ?" nên tôi phải biến càng sớm càng tốt. Chỉ nấn ná một vài giây cũng có thể bị đánh bầm dập. Bất cứ việc gì tôi làm, mẹ đều moi được lỗi để trừng phạt.

    Trên đường đi học, có lúc Kazari rảo bước lên trước, tôi ngắm nhìn đầy ngưỡng mộ. Lúc nào em cũng bước đi hớn hở với mái tóc xõa bồng bềnh. Trước mặt mẹ, tôi và em gần như không trò chuyện với nhau, nhưng kể cả những lúc không có mẹ bên cạnh, chúng tôi cũng không rủ rỉ như chị em thân thiết. Ở trường, Kazari rất được mến mộ, thường đứng với vô số bạn bè tán dóc đủ thứ chuyện. Tôi ghen tị với Kazari vô cùng, tuy vậy, không bao giờ tôi có đủ can đảm để hòa nhập với mọi người.

    Tôi hầu như chẳng biết gì về phim truyền hình nhiều tập hay các ca sĩ trên ti

    vi. Hễ thấy tôi xem ti vi là mẹ nổi cơn thịnh nộ, nên những vấn đề trên truyền hình đều nằm ngoài tầm hiểu biếi. Chính vì thế tôi không đủ tự tin để tham gia vào câu chuyện của mọi người. Hậu quả là tôi không có một người bạn nào, giờ ra chơi, tôi chỉ nhoài ra bàn giả vờ ngủ.

    Sự tồn tại của Kazari là một chỗ dựa tâm hồn đối với tôi. Ai cũng yêu mến Kazari, còn tôi là ruột thịt với em, điều này khiến tôi rất đỗi tự hào.

    Tôi và Kazari trông giống hệt nhau. Là chị em sinh đôi cùng trứng, giống nhau là chuyện đương nhiên. Nhưng xưa nay chưa có ai nhầm tôi với Kazari cả. Kazari luôn hoạt bát, đầy sức sống, còn tôi lầm lũi và buồn tẻ, đồng phục thì bẩn lem nhem và bốc mùi hôi hám.

    Một hôm trên đường đến trường, tôi trông thấy một tờ giấy thông báo tìm chó lạc dán trên cột điện. Đó là một con chó sục, giống cái, tên Aso thì phải. Dưới bức hình minh họa đơn giản có dòng chữ rất đẹp: "Ai nhìn thấy xin liên hệ theo địa chỉ bên dưới. Kí tên: Suzuki."

    Tôi chỉ lướt mắt qua tờ giấy chứ không để ý. Cơ bản là tại cái cổ tay bầm tím từ mấy hôm trước vẫn đang đau nhức, ngồi trên lớp mà đau đến mức không sao tập trung học được. Tôi đành đến phòng y tế của trường. Cô bác sĩ rất kinh ngạc khi nhìn thấy vết bầm khủng khiếp trên cổ tay tôi.

    "Ôi... có chuyện gì thế này?" "Em bị ngã cầu thang ạ."

    Tôi đã nói dối. Nguyên nhân thật sự là, mẹ về nhà rất khuya, rồi đi tắm, phát hiện ra trong bồn tắm có vài sợi tóc dài, bà điên tiết đánh tôi luôn. Lúc bị đánh, tôi trượt chân ngã, đập tay vào góc bàn. Tôi thầm nguyền rủa mình quá vụng về.

    "Mẹ rất bực khi nhặt được tóc con trong bồn tắm. Con ghét mẹ chứ gì? Mẹ đi làm về muộn đã đủ mệt mỏi rồi, sao con còn cư xử như vậy?"

    Ngày trước đã từng xảy ra chuyện tương tự nên kể từ đó tôi rất thận trọng, không bao giờ tắm gội trước mẹ. Vì thế, những sợi tóc mà bà nói không phải của tôi mà của Kazari. Nhưng tóc tôi dài như tóc em, vả lại, khi mẹ đã về đến nhà rồi thì tốt nhất là nên giữ im lặng.

    "Hình như không gãy xương, nhưng nếu cứ đau mãi thì phải đến bệnh viện xem sao. Mà Endo Yoko này, có đúng là em bị ngã cầu thang không? Lần trước đến đây em cũng nói là bị ngã cầu thang?"

    Cô bác sĩ vừa băng bó cho tôi vừa hỏi. Tôi không nói gì chỉ gật đầu rồi bước ra khỏi phòng y tế. Giờ thì lý do ngã cầu thang khó mà thuyết phục được họ, tôi nghĩ thầm.

    Tôi giấu kín chuyện bị mẹ đánh. Đây là một bí mật, nếu cho ai biết bí mật này, chắc chắn tôi sẽ bị mẹ giết chết ngay lập tức.

    "Nghe cho rõ đây, mẹ phải đánh là vì con là đứa trẻ hư không dạy bảo nổi. Nhưng cấm tiết lộ với bất cứ ai. Hiểu chưa? Nếu con nghe lời thì mẹ sẽ không ấn nút máy xay nữa?"

    Bấy giờ tôi còn học tiểu học, chỉ biết mếu máo gật đầu. Mẹ bèn bỏ ngón tay ra khỏi công tắc máy xay và thôi không ấn cánh tay tôi vào thùng máy nữa. Tôi vội rút tay ra.

    "Suýt chút nữa thì tay con thành nước ép rồi đấy."

    Mẹ liếm vệt kem sô cô la vừa ăn xong còn dính bên mép, mỉm cười, nói với tôi bằng hơi thở ngọt ngào đến mức buồn nôn.

    Mẹ thuộc tuýp người không thạo giao tiếp. Dù nhe nanh múa vuốt như ác quỷ với tôi nhưng ra ngoài thì bà rất ít nói. Trừ làm việc để nuôi hai chị em tôi, bà chủ trương không giao tiếp với người khác. Cho nên về bản chất, mẹ gần với tôi. Cả tôi và bà đều vô cùng ngưỡng mộ sự hoạt bát vui tươi của Kazari. Mỗi khi mối quan hệ với mọi người ở nơi làm việc không tốt và trở về trong nỗi ấm ức, nhìn thấy tôi là bà thẳng tay đánh đập.

    "Mẹ sinh ra con, cho con sống hay chết là quyền của mẹ."

    Giá mà tôi không phải con bà, có lẽ tôi sẽ dễ chịu hơn. Mỗi khi bị mẹ túm tóc, tôi thường nghĩ thế. 

    Trong lúc trực nhật, các bạn nói chuyện với tôi. Tôi đã không trò chuyện với các bạn ba ngày và sáu giờ rồi. Ba ngày trước, cuộc đối thoại chỉ là "Endo Yoko, cho tớ mượn cục tẩy", "Xin lỗi, tớ không có", "Vậy à"?... Nhưng hôm nay thì nói nhiều hơn.

    "Endo Yoko, cậu cứ như hàng nhái của Endo Kazari lớp A ấy nhỉ? Sao hai cậu chẳng có vẻ gì là chị em với nhau thế?"

    Một cô bạn tay cầm chổi nói với tôi. Mấy cô đứng quanh nhất loạt cười ầm lên. Tôi đã quá quen với cách nói của cô ta nên chẳng lấy làm lạ và không tức giận. Nhưng tôi rất ghét điệu cười như thế ở những người khác.

    "Gay rồi! Endo Yoko giận rồi đấy!" "Xin lỗi cậu nhé, tớ không có ác ý..." "Ừ, tớ biết..."

    Tôi đáp. Nhưng vì đã quá lâu mới nói chuyện nên giọng tôi rất khẽ, hầu như không ai nghe thấy. Mọi người mau biến khỏi đây được không? Tôi vừa quét vừa nghĩ. Tuy trực nhật là luân phiên, nhưng thực tế thường chỉ có mình tôi làm.

    "Này Endo Yoko, chắc hôm nay cậu phải đến phòng y tế nữa đi. Bị bầm tím ấy! Mấy vết bầm trên người cậu chứ còn gì, tớ biết cả rồi! Vì đã trông thấy lúc mặc quần áo bơi trong giờ thể dục. Nhưng mọi người cứ không tin? Cậu cởi áo ra cho mọi người xem đi."

    Tôi chỉ im lặng, lúng túng đứng đó không biết nên làm gì. May sao đúng lúc thầy bước vào lớp nên các bạn đều tản ra và giả vờ vẫn đang quét dọn. Tôi thở phào vì được giải vây.

    Tan học, trên đường về nhà, tôi ngồi xuống ghế băng ở công viên và bỗng nhớ tới tiếng cười của các bạn. Những câu nói làm tổn thương người khác ấy khiến tôi khó chịu, cảm thấy một lần nữa lại bị họ chế giễu như một con bé đần độn. Tôi phải làm gì để có thể trò chuyện cùng các bạn giống như Kazari? Tôi cũng muốn trốn quét lớp, vo tròn giấy làm bóng và dùng chổi giả vờ chơi khúc côn cầu.

    Một con chó xuất hiện bên tôi từ lúc nào không biết. Nó đeo vòng cổ nên thoạt tiên tôi ngỡ chủ nhân của nó đang có mặt ở công viên và vẫn đang trông chừng nó.

    Năm phút sau tôi cảm thấy hình như không phải. Con chó bắt đầu khịt mũi ngửi giày tôi, tôi bèn đưa tay thử vuốt ve lưng nó. Con chó không tỏ ra sợ sệt, xem chừng đã quen với việc được vuốt ve như vậy. Hình như là chó sục, giống cái. Tôi sực nhớ đến tờ thông báo tìm chó lạc hồi sáng, có lẽ đây chính là con Aso.

    Tôi ôm con chó lên rồi đi đến địa chỉ viết trên tờ thông báo. Đó là một ngôi nhà nhỏ hoàn toàn biệt lập. Lúc này đã khoảng 7 giờ, không gian được hoàng hôn nhuộm đỏ. Tôi ấn chuông. Một bà cụ nhỏ bé, mái tóc bạc trắng bước ra.

    "Ôi! Aso! Đúng là Aso đây rồi!"

    Bà cụ mở to mắt kinh ngạc và mừng rỡ ôm Aso vào lòng. Tôi đoán bà là Suzuki, người đã dán tờ thông báo ấy.

    "Cảm ơn cháu gái! Ta đã lo cho đứa nhóc này biết bao. Nào, cháu vào nhà đi!"

    Tôi gật đầu bước vào. Nói thật, tôi đang có một ý nghĩ đáng hổ thẹn là muốn được chút thù lao, tiền hay bánh kẹo đều được. Với một người luôn đói bụng như tôi thì được cho bất cứ thứ gì, tôi cũng thích.

    Tôi bước vào phòng khách và ngồi xuống đệm vuông.

    "Cháu tên Yoko phải không? Bà là Suzuki. Mới dán thông báo một ngày đã lại được nhìn thấy chó cưng, thật không thể tin được."

    Bà Suzuki vừa vuốt ve má con Aso vừa đi vào gian trong, hình như bà sống một mình ở đây.

    Rồi bà bưng cà phê và bánh ngọt ra, Aso lẽo đẽo theo sau chủ. Bà Suzuki đặt khay xuống cái bàn thấp và ngồi đối diện với tôi. Bà muốn biết tôi đã gặp Aso như thế nào. Tuy sự việc đơn giản, không gay cấn như trong phim nhưng bà lắng nghe tôi rất chăm chú.

    Tôi thả một thanh đường và rót cả ly sữa vào tách cà phê, làm một hơi cạn sạch. Tôi ngấu nghiến bánh trái, món gì cũng ngon tuyệt. Cả đời tôi chẳng bao giờ được ăn đồ ngọt, ngoại trừ vài món tráng miệng trong nhà ăn ở trường. Còn ở nhà, tôi toàn ăn đồ thừa của Kazari, hầu như không có gì khác. Khẳng định là thế. Tôi hay băn khoăn rằng nếu sau này học lên trung học phổ thông, trường không có nhà ăn thì tôi sẽ sống ra sao? Đầu óc toàn ám ảnh bởi những vấn đề nhỏ bé tủn mủn.

    Vẫn giữ gương mặt dịu dàng, bà Suzuki rót thêm cà phê cho tôi. Lần này nên từ từ nhấm nháp mà cảm nhận hương vị của nó, bà nói, "Thực ra bà muốn cháu ở lại đây ăn cơm tối?"

    Tôi suy tính trong chớp mắt và muốn nhận lời ngay lập tức. Nhưng, mới gặp lần đầu, không nên quá thô lỗ, tôi tỉnh táo tự nhắc nhở mình.

    "Nhưng bà nói thật nhé, hôm nay không chuẩn bị món gì ra trò, vì bà toàn lo lắng cho con Aso?"

    Bà trìu mến ôm chặt con chó vào lòng. Tôi miên man nghĩ ngợi, con Aso thực hạnh phúc!

    "Tuy nhiên bà sẽ tặng cháu một món quà để cảm ơn. Thứ gì cũng được, cháu cứ chọn thoải mái. Chờ một lát nhé?"

    Bà đứng dậy, thả con Aso xuống, bước vào nhà trong.

    Liệu bà sẽ cho tôi thứ gì nhỉ? Tôi hồi hộp chờ đợi. Lớn chừng này rồi nhưng số lần tim tôi đập thình thịch rất ít, những chuyện khiến tôi thấp thỏm bất an lại càng hiếm hoi. Nếu bà cho tôi đồ ăn gì đó ngon lành, tôi sẽ ăn trên đường bởi cầm về thì bị tịch thu là cái chắc.

    Con Aso hăng hái hít ngửi tôi. Tối qua tôi không tắm, chắc người hôi lắm. Tôi nhìn khắp phòng. Có một chiếc ti vi không có đầu video, có lẽ vì bà đã già rồi nên không sử dụng tới. Nghe nói đầu video rất khó dùng. Lớn tướng như tôi mà vẫn chưa biết cách mở ti vi hoặc video.

    Trong phòng có một giá sách rất lớn, choáng hết một mặt tường. Tôi đang đưa mắt nhìn những gáy sách xếp san sát nhau thì bà Suzuki trở ra, băn khoăn nói, "Yoko ơi, bà xin lỗi. Bà vốn định tặng cháu một vật quý giá và quan trọng nhất đối với bà, nhưng bỗng quên bẵng mất, không thể nhớ nổi là đã để nó ở đâu. Bà sẽ tìm nó rồi ngày mai cháu đến đây cầm về nhé. Khi đó chúng ta cùng dùng cơm được không?"

    Tôi hứa chắc như đinh đóng cột rằng sẽ quay lại. Hẹn xong, tôi ra về. Bên ngoài trời đã tối hẳn, bà Suzuki tiễn tôi đến cửa. Với tôi, được người ta tiễn chân là một chuyện rất mới lạ. Chưa ai tiễn tôi bao giờ.

    Hôm sau tan học, trên đường trở về tôi lại rẽ vào chỗ bà Suzuki, ấn chuông cửa. Một mùi thơm nhè nhẹ bay ra.

    Rõ ràng là bà rất vui vì tôi đến. Tôi thầm nghĩ: mình đến thực đúng lúc, mình lại vào cái gian phòng hôm qua, ngồi trên cái đệm hôm qua. Con chó nhỏ Aso nhớ ra tôi. Tất cả sẽ tiếp tục như hôm qua.

    "Yoko, rất xin lỗi cháu. Món quà hôm qua bà muốn tặng cháu, vẫn chưa tìm thấy. Bà đã tìm rất lâu nhưng chẳng rõ nó đang ở chỗ nào. Thế này vậy, hôm nay chúng ta cùng ăn thôi được không? Cháu có thích hamburger không?"

    "Cháu rất thích ạ! Cháu có thể bán cả một quả thận vì hamburger ấy chứ!" Tôi trả lời. Nụ cười hiền từ in trên khuôn mặt nhìn nghiêng của bà Suzuki.

    Tôi vừa ăn vừa nghĩ ngợi lý do bà mời tôi hamburger. Hẳn là bà thích ăn món đó lắm. Không đúng, hẳn là vì bà muốn tôi vui nên mới làm hamburger cho tôi. Tôi tự thuyết phục mình rằng bà Suzuki luôn muốn những đứa trẻ được vui.

    "Yoko này, bà muốn nghe cháu kể về bản thân mình." Bà vừa ăn vừa hỏi tôi. Gay thật, tôi nên nói gì bây giờ? "Chẳng hạn như, gia đình của Yoko thế nào?"

    "Nhà cháu có mẹ và một em gái sinh đôi ạ?" "Sinh đôi?"

    Bà Suzuki có vẻ rấut m ốn nghe tiếp về chị em sinh đôi chúng tôi nhưng sự

    thật thì buồn bã tối tăm như thế...

    Không dám nhìn thẳng vào mắt bà, tôi tiếp tục nói, đúng hơn là tôi bắt đầu bịa chuyện.

    Tuy nhà không có cha nhưng ba mẹ con vẫn sống với nhau rất hạnh phúc. Mẹ rất tốt với tôi, ngày sinh nhật tôi và em gái, bà mua cho mỗi đứa một bộ quần áo rất đẹp và giống hệt nhau. Bộ đồ đó không màu mè mà rất đơn giản, y như trang phục của người lớn vậy. Vào ngày nghỉ, ba chúng tôi cùng đi chơi vườn thú, được tận mắt nhìn thấy chim cánh cụt. Hai chị em tôi vẫn ở chung một căn phòng, nhưng từ lâu tôi đã rất muốn có phòng riêng. Hồi nhỏ, tôi và em gái mở ti vi xem phim kinh dị, sợ chết khiếp, cả đêm không ngủ được; mẹ phải ngồi bên nắm tay chúng tôi. Cứ thế, tôi toàn nói những chuyện không thể xảy ra.

    "Mẹ cháu thực tuyệt vời..."

    Bà Suzuki khẽ nói, vẻ cảm động. Tôi nghe và nghĩ, giá mà những chuyện bịa

    đặt này là thật thì tốt biết mấy!

    Khi bà hỏi chuyện đi học, tôi bịa rằng mình đã từng cùng các bạn ra biển chơi. Nghe tôi kể chuyện, bà cười phấn khởi. Tôi tự nhủ, mình nhất định phải làm cho bà tin là thật. Quả đáng tội, vùng não "hư cấu" trong đầu tôi làm việc cật lực nên đã bắt đầu đình công, tôi phải nghĩ cách chuyển sang đề tài khác thôi.

    "Ôi, bà có nhiều sách quá!"

    Tôi nuốt một miếng hamburger và nhìn về phía giá sách. Bà Suzuki vui hẳn lên.

    "Cháu thích sách à? Chỗ này mới chỉ là một phần nhỏ, ở phòng bên kia còn nhiều sách lắm. Bà xem cả truyện tranh nữa đấy. Yoko thích xem truyện tranh gì?"

    "Dạ... thực ra là... cháu không hiểu lắm!" "Thế ư?"

    Khuôn mặt bà thoáng nét thất vọng. Tôi nghĩ mình phải cứu vãn ngay.

    Không hiểu sao, tôi chẳng muốn bị bà ghét chút nào.

    "Nhưng... nếu có sách gì hay, bà nói cho cháu biết với, được không ạ?" "Được chứ! Nếu thích cháu có thể mượn về mà đọc. Phải rồi, cứ như thế

    nhé. Lần sau đến đây thì đem trả bà là được."

    Bà Suzuki lấy ra một lô tiểu thuyết và truyện tranh mà bà cho là thú vị, đặt xuống trước mặt tôi. Tôi chỉ chọn một cuốn truyện tranh, rồi chào bà, ra về.

    Sở dĩ tôi chỉ chọn một cuốn, vì đọc một loáng là xong rồi, ngay ngày mai tôi có thể mang đến trả bà. Tôi còn có mong muốn ngây thơ của một nữ sinh bé nhỏ: rất có thể tôi lại được ăn món gì đó ngon ngon, lại được gặp bà Suzuki và chó Aso. Tôi thật lòng muốn nói chuyện nhiều hơn với bà. Lúc ngồi trên đệm vuông ở nhà bà, có cả con Aso ở bên, tôi chỉ muốn ngồi mãi, chẳng muốn đứng dậy nữa.

    Từ đó trở đi, tuy phải chịu nhiều chuyện khổ sở ở nhà nhưng tôi vẫn thường xuyên đến nhà bà Suzuki. Lần nào đến tôi cũng mượn của bà một cuốn sách và tất nhiên là sẽ đem trả. Tuy vậy, có vẻ như bà chưa tìm thấy thứ quý giá mà bà đã hứa sẽ cho tôi.

    Trả sách thực ra chỉ là cái cớ để tôi lui tới nhà bà Suzuki, nếu không làm thế, tôi sẽ chẳng còn gì liên quan đến bà, làm sao có thể tiếp tục gặp bà được. Bà chính là người đầu tiên tôi gặp mà hoàn toàn không phải e dè gì cả. Kể cả những lúc giữa chúng tôi không có gì để làm, bà vẫn không hề ghét bỏ khi tôi đến bên.

    Mỗi lần tôi đến, thường là bà đã chuẩn bị sẵn bữa cơm tối. Tôi kể với bà cảm nhận về từng cuốn tiểu thuyết và truyện tranh mà tôi đọc mỗi ngày. Tôi dần trở nên thân thiết với bà và con Aso. Những hôm tan học sớm, tôi sẽ dắt Aso đi dạo hoặc giúp bà vài việc vặt như thay bóng đèn điện hay gọt khoai tây...

    "Ngày nghỉ tới chúng ta cùng đi xem phim, được không?" Khi bà đưa ra đề nghị này, tôi mừng rỡ nhảy cẫng lên.

    "Nhưng thế thì không hay với mẹ của Yoko, giống như bà đang độc chiếm cháu vậy. Phải rồi, lần sau chúng ta sẽ dẫn cả em Kazari cùng đi nhé?"

    "Vâng..." Tôi gật đầu, nhưng không biết nên làm gì mới phải. Bà Suzuki rất tin những chuyện tôi đã bịa ra...

    Xem phim xong, bà và tôi vào một tiệm sushi băng chuyền. Tôi hơi e ngại nhưng bà bảo nhất định phải vào ăn. Tôi gần như chưa bao giờ được ăn sushi và chẳng biết cá nào vào với cá nào. Vì từng nghe qua quy tắc ăn sushi băng chuyền nên tôi định chọn vài món rẻ tiền thôi nhưng không biết món nào là rẻ nữa. Băng chuyền thực phẩm từ từ chạy qua trước mắt, bà Suzuki kể về gia đình bà.

    "Bà có đứa cháu ngoại, cháu gái, na ná Yoko đấy!" Khuôn mặt bà có vẻ buồn lắm.

    "Nó nhỏ hơn cháu một tuổi, là con của cô con gái bà. Nó ở cách đây không xa nhưng ba năm nay bà không gặp nó."

    "Bà không ở cùng gia đình ạ?"

    Bà không trả lời. Chắc hẳn là có nguyên do nào đó.

    "Bà cứ viết thư rằng ‘Bà rất muốn gặp và cùng cháu ăn cơm, cháu cứ tha hồ chọn món mình thích’, thì có lẽ bạn ấy sẽ đến gặp bà đấy."

    Nói xong, tôi bắt đầu nghiêm túc nghĩ xem nếu có ai đó bảo tôi "tha hồ chọn món mình thích" thì tôi nên trả lời thế nào. Nhân lúc này phải cân nhắc thật kỹ mới được, chuyện cả đời mới gặp một lần mà. Băng chuyền sushi đang từ từ đi qua...

    "Cháu là một cô bé ngoan" Bà Suzuki khẽ nói. "Thực ra bà vẫn định nói với cháu điều này: khi cháu bế con Aso về cho bà, bà nói là sẽ tặng cháu một thứ rất quý để cảm ơn. Thực ra lúc đó bà không có thứ gì quý cả, bà chỉ nói dối như vậy để có thể gặp lại cháu. Xin lỗi cháu. Để bù đắp lại thì cháu cầm lấy cái này."

    Bà Suzuki đặt một chiếc chìa khóa vào tay tôi.

    "Chìa khóa nhà bà đấy. Cháu không cần viện cớ gì khác, hãy đến nhà bà chơi bất cứ lúc nào, vì bà rất mến cháu."

    Tôi gật đầu lia lịa. Ý kiến này mới tuyệt vời làm sao. Trước đây tôi luôn hối hận vì sự ra đời của mình. Không biết bao nhiêu lần, tôi đã leo lên nóc những tòa nhà cao tầng, trèo lên hàng lưới mắt cáo, nước mũi nhỏ giọt khi hứng những cơn gió mạnh khủng khiếp đang ào tới và do dự xem có nên nhảy xuống hay không. Chưa bao giờ tôi nghĩ mình lại có ngày hôm nay.

    Kể từ nay nếu tôi gặp khó khăn gì, tôi sẽ nắm chặt chiếc chìa khóa của bà Suzuki và kiên trì chịu đựng. Chiếc chìa khóa giống như một cục pin nhỏ tiếp năng lượng cho tôi, để tôi cảm thấy "ổn rồi, hãy bước tiếp đi" Tôi luôn kẹp chiếc chìa khóa giữa những cuốn sách, coi như một chiếc thẻ đánh dấu trang. 

    Hai tuần kể từ hôm cầm chiếc chìa khóa của bà Suzuki, vào một ngày thứ Sáu, ở trường tôi xảy ra một chuyện. Giờ ra chơi, Kazari đến lớp học của tôi. Vì quên mang theo sách giáo khoa môn Toán, nên em muốn mượn tôi.

    "Em hứa sẽ đền ơn chị?"

    Lần nói chuyện trước giữa hai chúng tôi là từ lâu lắm rồi, nên tôi rất vui. Chiều nay tôi cũng có giờ Toán, nhưng Kazari hứa sẽ trả sách Toán cho tôi trước lúc đó. Tôi bèn cho em mượn.

    Nhưng đến giờ nghỉ trưa, tôi sang lớp Kazari tìm thì không thấy em đâu, đành phải học giờ Toán mà không có sách giáo khoa.

    Thầy giáo dạy Toán có vẻ là người dễ chịu, tôi và thầy chưa từng nói với nhau câu nào, nhưng có vài lần tôi trông thấy thầy và em Kazari đứng ở hành lang trò chuyện vui vẻ. Cho nên tôi định sẽ thưa với thầy nguyên nhân, để thầy châm chước.

    "Tại sao em không đem sách giáo khoa?" Ngay đầu giờ thầy đã hỏi và bảo tôi đứng lên. "Thưa thầy... em cho em gái mượn..."

    "Thật chẳng ra sao! Còn đổ lỗi cho người khác, không thể tin được mà! Em và Kazari có đúng là chị em sinh đôi không thế? Em làm ơn chú ý tư cách của mình một chút được không?!"

    Lúc thầy giáo nói, cả lớp cứ cười khúc khích. Mặt nóng bừng, tôi chỉ muốn tìm chỗ nào đó trốn biệt. Tôi biết mình đang đầu bù tóc rối, áo quần bẩn thỉu, nhưng là người phải ngủ trong bếp, tôi còn làm gì hơn được?

    Khi tan học, vừa bước chân ra khỏi lớp, Kazari đã gọi tôi.

    "Chị ơi, em có lỗi vì bây giờ mới trả sách Toán cho chị. Em muốn xin lỗi chị. Bây giờ em chuẩn bị đi ăn McDonald’s với các bạn, chị đi cùng bọn em nhé? Em sẽ mời chị ăn hamburger?"

    Em nở nụ cười đầy lôi cuốn. Đây là lần đầu tiên được mời, tôi vui vẻ ừ ngay. Tôi lấy chân phải tự giẫm lên chân trái một cú đau điếng để nhìắnchmr ằng, được nhập hội với Kazari hoàn toàn không phải một giấc mơ.

    Kazari và hai người bạn cộng với tôi là bốn cùng bước vào hiệu McDonald’s. Kazari gọi món cho mọi người. Hai đứa bạn kia lần đầu gặp tôi nên hầu như chẳng trò chuyện gì nhưng vẫn cười nói vui vẻ với Kazari.

    "Này này, cậu không có tiền thật à? Thật khó tin! Kazari được tiền tiêu vặt, tại sao cậu không được?"

    Đứng trước quầy mua hàng, một đứa bạn của Kazari hỏi tôi. Kazari trả lời thay: "Đó là cách giáo dục của mẹ tớ. Mẹ nói, nếu cho chị tớ tiền thì chị ấy sẽ tiêu hết trong tích tắc"

    Chúng tôi cầm đồ ăn bước lên tầng hai rồi ngồi xuống bên bàn.

    Nước ngọt, khoai tây chiên và bánh hamburger, đều chỉ có ba suất. Kazari và hai đứa bạn bắt đầu ăn, còn tôi thì ngồi nhìn. Tôi định hỏi "Suất của chị đâu"

    nhưng cốl kìm ại. Nói với mẹ và Kazari bằng thừa.

    "Thôi tớ không ăn nữa đâu."

    Một đứa bạn của Kazari đưa cho tôi chiếc hamburger ăn dở.

    "Yoko, cậu sẽ ăn đồ thừa của người khác thật à?" Đứa kia hỏi thêm.

    Kazari lại trả lời thay, vẻ khoái chí, "Đương nhiên rồi! Chị tớ thường hùng hục ăn các thức ăn thừa của tớ."

    Rồi ngoảnh sang tôi. "Đúng không? Lúc nào chị cũng ăn mà. Mấy đứa này cứ không chịu tin lời em, nên em thấy tốt nhất là để cho tụi nó chứng kiến tận mắt. Chị ăn cái này nữa đi."

    Kazari đẩy chiếc hamburger ăn dở đến trước mặt tôi. Hai đứa bạn tò mò dán chặt mắt lên người tôi. Tôi ngấu nghiến ăn hết luôn. Chúng vừa vỗ tay vừa đồng thanh reo hò.

    Ra khỏi cửa hàng, Kazari và hai đứa bạn vẫy tay chào tạm biệt tôi rồi rảo bước về phía khu nhà ga. Còn lại một mình, tôi bỗng cảm thấy nghẹt thở kinh khủng, thầm kêu lên "Trời ơi..."

    Đến trước cửa nhà bà Suzuki rồi, tâm trí tôi vẫn vô cùng hoảng loạn. Tôi cứ nghĩ mãi, tại sao Kazari lại gọi các bạn đến để cư xử như thế với tôi? Mà thực ra Kazari vẫn thường xuyên làm vậy, chẳng qua là chuyện ở nhà mang ra lặp lại bên ngoài thôi. Ý nghĩ đó làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn, nhưng vẫn không thể nào hít thở bình thường được, chắc là tại vừa ăn một chập hơi nhiều quá. Có lẽ vậy.

    Bà Suzuki húng hắng ho trong lúc rót cà phê cho tôi.

    "Hôm nay bà hơi bị cảm?" Bà nói, rồi lại lụ khụ. "Yoko, cháu làm sao thế?

    Hôm nay trông cháu ỉu xìu. Có chuyện gì không vui à?" "Không ạ... tại cháu ăn hơi nhiều..."

    "Ăn nhiều? Thật không?"

    Bà nói, rồi nhìn thẳng vào tôi. Mắt người già sao có thể trong trẻo như thế nhỉ? Tôi ngạc nhiên nghĩ, đưa tay áp lên vùng tim đang đập loạn.

    "Ở chỗ này... cháu thấy hơi khó thở..."

    Tôi trả lời, rồi không nói tiếp được nữa. Bà Suzuki lặng lẽ đưa tay xoa đầu tôi.

    "Chắc là đã xảy ra chuyện gì rồi...?"

    Bà dẫn tôi vào phòng ngủ, bảo tôi ngồi trước bàn trang điểm. "Cháu cười cho bà nhìn đi. Vì cháu là cô bé rất xinh."

    Bà kéo hai má tôi sang hai bên, để khuôn mặt tôi giống như đang cười.

    "Đừng, bà ơi, đừng mà. Cái bóng trong gương trông cứ như một tên hề vậy, nhưng cháu thấy dễ thở hơn rồi. Bà đừng kéo má cháu nữa..."

    "Dễ chịu rồi à? Thế thì tốt quá?"

    Bà lại bắt đầu ho. Không phải húng hắng nữa mà là tiếng ho nghe rất nặng nề. Tôi cảm thấy lo lo.

    "Bà không sao chứ ạ?"

    "Không sao đâu. À, lần sau chúng ta sẽ cùng đi du lịch nhé! Giờ Yoko là người nhà quan trọng nhất của bà mà?"

    "Đi thật xa và không bao giờ trở về nữa, được không ạ?"

    "Được, được, chúng ta sẽ đi khắp cả thế giới. Bà sẽ coi Yoko là đứa cháu ngoại của bà."

    Tôi nghĩ bụng, không biết có phải bà bị tôi ám ảnh rồi không nhỉ? Lâu nay tôi vẫn nghĩ nếu bà Suzuki là bà ngoại mình thật thì tốt biết mấy.

    Bà chỉ tay vào gương, chiếc gương phản chiếu lại hình ảnh tôi đang cười.

    Trông tôi giống hệt em Kazari.

    Ra khỏi nhà bà, tôi thử bước đi giống như em Kazari. Ngẩng cao đầu, khuôn mặt rạng ngời hạnh phúc, chân bước nhanh thoăn thoắt. Thì ra trước đây tôi toàn gù lưng xuống để bước đi.

    Về đến nhà, tôi ngồi cạnh thùng rác trong bếp, vừa học bài vừa hồi tưởng mọi chuyện ban nãy ở nhà bà Suzuki. Đúng lúc này mẹ trở về, tay xách chiếc laptop.

    Laptop là dụng cụ làm việc của mẹ, nên luôn được mẹ giữ gìn rất cẩn thận. Ngày trước, khi nó được đặt trên cái bàn trong bếp, tôi đã tranh thủ cơ hội để chạm vào nó xem sao.

    "Đừng có đụng cái tay bẩn vào đấy." Mẹ nói, cầm cái khay nướng phang vào

    đầu tôi. Từ đó tôi hiểu rằng vị trí của chiếc laptop còn cao hơn cả mình.

    Về đến nhà, mẹ có vẻ rất mệt mỏi. Vừa trông thấy tôi, ánh mắt bà cứ như đang nhìn một thứ kinh tởm. Nhưng khi nghe tiếng Kazari gọi từ phòng khách vọng tới thì nét mặt mẹ giãn ra ngay lập tức. Kazari thường về nhà trước tôi rồi vào xem ti vi ở phòng khách nơi tôi bị cấm bén mảng, cho nên cơ bản thì hai chúng tôi chẳng bao giờ nói chuyện với nhau. Nếu tôi tự ý vào phòng khách xem ti vi thì chắc chắn sẽ bị mẹ lột quần áo rồi lôi ra ngoài cho đi diễu phố.

    Mẹ đi vào phòng khách, tôi đưa tay vuốt ngực. Cuối cùng cũng trải qua được một ngày mà không có thêm vết bầm tím nào trên người, tôi lấy làm hân hoan lắm. Loáng thoáng có tiếng trò chuyện của mẹ và Kazari trong phòng khách, thế là tôi vừa làm bài tập Toán vừa dỏng tai lắng nghe.

    "Mẹ ơi, mẹ không thấy gần đây chị Yoko rất hay về nhà muộn ạ?" Giọng Kazari vừa lọt vào tai, tôi liền đặt bút chì xuống, "Hình như chị ấy kết bạn với ai thì phải. Trong số đồ đạc của chị ấy có nhiều tiểu thuyết và truyện tranh lắm. Lấy đâu ra tiền mà mua những thứ đó?"

    Tôi lạnh toát cả người. Mẹ từ phòng khách bước ra, tiến đến chỗ tôi và bắt đầu bới tung đồ đạc ở cái gian chứa đồ. Coi như tôi không tồn tại. Sau khi lôi hết sách vở ra, mẹ phát hiện trong đó có ba cuốn tiểu thuyết của bà Suzuki.

    "Những sách này là thế nào đây?"

    Mẹ hỏi nhỏ. Tôi sợ đến mức không nói nổi câu nào. Nhưng nếu không trả lời

    được, nhất định tôi sẽ bị đánh đập vô điều kiện. "Con mượn..."

    Mẹ quăng mấy cuốn sách xuống sàn.

    "Con làm gì có bạn bè nào như vậy? Con chỉ có thể bị người ta ghét mà thôi! Chắc là ăn cắp ở hiệu sách chứ gì? Mẹ ngày ngày đi làm vất vả để nuôi con, sao con còn đi gây chuyện?!"

    Mẹ ấn tôi ngồi xuống ghế, nói bằng giọng êm ái khác thường:

    "Từ trước đến giờ, lúc nào con cũng thế. Đồ bị thịt, chỉ giỏi làm bẽ mặt mẹ và Kazari?"

    Kazari đứng ở cửa phòng khách nhìn tôi, mặt thoáng nét thương hại. Em nói: "Mẹ ơi, mẹ tha cho chị đi. Chắc chị ấy chỉ trót dại mà thôi."

    "Kazari ngoan thật đấy!" Mẹ nhìn em, mỉm cười. Rồi lại quay sang tôi. "Còn

    con, so với em con xấu xa đủ bề. Kazari, con đi vào đi!"

    Kazari hơi mấp máy câu "Cố lên" với tôi, rồi giơ ngón tay cái và đi vào nhà trong, khép cửa lại. Tiếng ti vi vọng ra. Mẹ đứng sau lưng tôi, đặt hai tay lên vai tôi. Tôi ngồi bất động, nếu không sẽ bị đánh ngay.

    "Mẹ đã bao giờ gây khó dễ cho con chưa? Mẹ chỉ đánh con mấy lần, nhưng

    đều là tại con cả!"

    Bà nhè nhẹ vuốt ve sau gáy rồi bất ngờ bóp nghiến cổ tôi. "Đừng... đừng..."

    Tôi giãy giụa, miệng rên rỉ.

    "Cứ nghe cái tiếng này của mày là tao tức lộn ruột. Tao nuôi mày khôn lớn chừng này mà mày đã bao giờ kính trọng tao được chút nào chưa?"

    Tay mẹ bóp mạnh mãi lên. Dần dần tôi không thể rên thành tiếng nữa, đến thở cũng không thở nổi, càng không đủ sức van xin bà dừng lại.

    Chỉ được một lúc, tôi đã tắc thở rồi nhận ra mình đã nằm vật xuống sàn từ khi nào, miệng sùi cả bọt mép. Mẹ đứng nhìn xuống tôi như một hung thần.

    "Mày chết luôn đi cho xong, kẻo ít lâu nữa tao nhất định sẽ giết mày. Là chị em sinh đôi mà tại sao lại khác nhau xa đến thế? Cái kiểu của mày, từ nói năng cho đến đi đứng đều khiến người ta phát tởm."

    Mẹ tịch thu ba cuốn tiểu thuyết, sau đó biến mất vào phòng của mình. Chỉ còn có tôi, máu trong người dồn lên cổ lên mặt theo nhịp hít thở nặng nề, tim vẫn đập thình thịch. Tôi nằm bất động trên sàn và tự nhủ, mình dứt khoát phải trốn khỏi cái nhà này. Còn ở lại đây ngày nào còn nguy hiểm ngày đó. Chỉ cần hơi bất cẩn khiến mẹ nổi trận lôi đình thì bà sẽ cạn tàu ráo máng mà giết tôi ngay. Tôi tin rằng mình có thể cùng bà Suzuki và con chó Aso đi khỏi vùng này, đi thật xa.

    Nằm trên sàn nghĩ ngợi một hồi, tôi sực nhớ một chuyện vô cùng nghiêm trọng. Chiếc chìa khóa cửa quý giá mà bà Suzuki đưa cho đang kẹp trong cuốn sách mà mẹ lấy mất.

    Hôm sau là thứ Bảy, chúng tôi được nghỉ học ở trường. Mẹ nói có việc phải đi, khoảng 6 giờ tối mới về. Sau đó bà ra khỏi nhà, Kazari đi chơi với bạn từ trưa vẫn chưa quay về. Chỉ còn lại một mình, tôi chớp ngay cơ hội lẻn vào phòng mẹ.

    Đây là lần đầu tiên tôi đặt chân vào căn phòng này. Từ trước đến giờ, tôi tuyệt đối không vào đây, kẻo bị phát hiện ra thì sẽ hứng một trận đòn nhừ tử. Trong trường hợp xấu nhất, chắc sẽ bị đánh chết luôn. Nhưng dù nguy hiểm đến mấy tôi cũng phải lấy lại chiếc chìa khóa của bà Suzuki. Nó là mối liên hệ rất quan trọng giữa tôi và bà, mất sách thì chắc bà có thể lượng thứ cho tôi nhưng chìa khóa thì khác. Tôi không cho phép mình làm mất nó.

    Phòng của mẹ sắp xếp ngay ngắn và sạch sẽ. Trên bàn có một lọ hoa, bên cạnh là chiếc laptop. Giường rất rộng, cảm giác ngủ một mình ở đây hẳn là sung sướng không sao tưởng nổi. Bên cạnh giường có một chiếc cát-xét chạy đĩa CD, trên giá là các hộp đĩa sắp thành hàng. Tôi không có thói quen nghe nhạc, nhưng mẹ và Kazari thì thường xuyên trao đổi với nhau về âm nhạc, chủ đề tôi chẳng hiểu gì.

    Mấy cuốn sách của bà Suzuki bị ném ở một góc phòng. Tôi lấy chiếc chìa khóa ra, nắm chặt trong tay.

    Rồi nhìn khắp phòng một lượt. Có thể ra được rồi. Tôi quyết định cứ để nguyên mấy cuốn sách ở đó, nếu cầm ra thì việc tôi vào phòng sẽ lộ tẩy ngay.

    Vừa sờ tay vào nắm đấm cửa, bỗng nghe lách cách tiếng mở cổng chính. Tôi dừng ngay lại, đứng im re để không phát ra bất kỳ tiếng động nào. Ai về nhỉ? Bây giờ mà bước ra thì chắc chắn sẽ bại lộ. Tôi có thể nghe thấy người vừa mở cổng đang tiến dần về phía căn phòng này.

    Tôi nhìn xung quanh tìm chỗ để nấp. Chiếc giường kê gần bức tường, cách tường một khoảng vừa đủ cho một người nằm xuống nấp. Tôi lập tức nhào đến lách mình vào cái khe như kiểu đang nằm trên giường rồi bị ngã lăn xuống đất, chẳng khác gì bị "nhét" xuống đó. Nó vừa khít.

    Lúc nghe tiếng mở cửa phòng, người tôi đông cứng cả lại, tim đập thình thịch, tôi thầm mong nó đập chậm đi. Người nọ đẩy cửa phòng, rồi có tiếng chân bước vào. Tôi nằm dưới khe giường, mặt áp sát đất nên có thể nhìn nghiêng thấy tấm gương ở tủ áo. Tấm gương phản chiếu khuôn mặt của Kazari, thì ra người vừa vào phòng là em. Tôi dán mắt vào bóng Kazari, không biết em vào phòng mẹ làm gì nhưng chị cầu cho em đi ra sớm.

    Kazari bước đến chỗ cái giá, nhìn hàng đĩa CD. Em vừa ngâm nga trong miệng vừa lấy xuống vài cái đĩa. A hiểu rồi, em vào để mượn đĩa nhạc. Em đặt đĩa xuống mặt bàn, nhìn lên giá, chọn vài cái nữa rồi lại đặt xuống.

    Nhìn qua tấm gương, thấy tay em đụng phải lọ hoa, tôi kêu "ối...." một tiếng khi lọ hoa đổ ra bàn, nước bắn tóe lên chiếc laptop của mẹ. Hình như Kazari không nghe thấy tiếng kêu của tôi vì đúng lúc lọ hoa đổ, em cũng kêu "ối...." và dựng ngay lọ hoa lên như trước, nhưng đã quá muộn, Kazari tái mặt nhìn chiếc máy tính ướt sũng.

    Em hoang mang ngó quanh bốn phía nhưng ngay lập tức nở nụ cười, bước ra chỗ mà tấm gương không thể phản chiếu được. Nhưng tôi vẫn trông thấy hai cổ chân có đi bít tất tiến đến góc gian phòng rồi dừng lại ở chỗ để ba cuốn sách. Sách bà Suzuki cho tôi mượn. Kazari cầm sách lên.

    Sau đó em trả mấy cái đĩa CD vào vị trí cũ trên giá, xem chừng không muốn mượn nữa. Em cầm ba cuốn sách đi ra khỏi phòng mẹ. Tôi nghe tiếng chân em, vào phòng của mình hoặc ra phòng khách. Cuối cùng em dừng ở chỗ nào đó trong phòng riêng, tiếng chân lặng hẳn đi.

    Tôi hiểu ngay lý do khiến Kazari lấy ba cuốn sách. Khi mẹ về và nhìn thấy chiếc laptop bị ướt, nhất định sẽ nghĩ xem ai đã gây ra chuyện này... Nếu ba cuốn sách bị cầm đi mất thì mẹ sẽ cho rằng chính tôi vào lấy sách ra, đồng thời làm đổ lọ hoa.

    Tôi có thể hình dung ra cơn giận khủng khiếp nhất từ trước đến giờ của mẹ. Lần đầu tiên xảy ra sự việc nghiêm trọng đến thế, chắc tôi chỉ còn cách đem cái chết ra chuộc tội. Tôi chợt nhớ lại vẻ mặt mẹ ngày hôm qua. Trông như đang đội chiếc mặt nạ hung thần bằng cao su.

    Tôi thận trọng nhoài ra khỏi khe giường, nhón chân, rón rén rời khỏi căn phòng, cố gắng không để Kazari phát hiện. Tôi chuồn theo đường cổng chính rồi đi thẳng về phía nhà bà Suzuki. Được bà Suzuki nhận nuôi là con đường sống duy nhất của tôi lúc này. Nhưng khi ấn chuông, người ra mở cửa lại là một cô bé, khuôn mặt trang điểm nhẹ.

    Cô ta nhìn tôi từ đầu đến chân rồi mới hỏi: "Cậu là ai?"

    Trực giác mách bảo tôi rằng cô bé này chính là cháu ngoại của bà Suzuki. "À... Suzuki..."

    "Tôi cũng mang họ Suzuki, nhưng chắc cậu muốn nói đến bà ngoại tôi? Bà mất rồi. Sáng nay hàng xóm nghe chó sủa mãi bèn chạy sang, thì thấy bà đã ngã gục ở cửa mà chết tự bao giờ. Chắc là do bị cảm. Ôi dào, lâu lắm rồi tôi mới được một ngày nghỉ, thế mà sáng sớm ngày ra đã bị gọi tới đây... Chán quá đi mất!"

    Tôi nhớ ra rồi, đúng là hôm qua bà Suzuki nói mình bị cảm nhẹ. Bên trong, phía sau cô bé đang đứng ở cửa này, có khá nhiều người đi đi lại lại.

    "Eri ơi, ai đấy?"

    Một giọng nữ vọng ra. Cô bé ngoảnh vào, đáp, "Con không biết. Có một đứa lạ hoắc?" Rồi cô ta lại nhìn tôi, thở dài, "Tự dưng lăn đùng ra chết, phiền phức quá. Còn con chó nữa, phải làm gì với nó đây? Đưa vào trại thu gom động vật chắc?" Tôi sực nghĩ: Ông trời ơi, ông bóp chết con ranh con này ngay lập tức thì có phải tốt hơn không? Nhưng tôi chỉ biết buồn bã cúi đầu rời khỏi nhà bà Suzuki.

    Tôi ngồi trên băng ghế công viên, nơi phát hiện ra con Aso khá lâu về trước. Có rất nhiều trẻ em đang nô đùa. Chúng chơi cầu trượt, chơi đánh đu, cười như nắc nẻ. Tôi ngồi thu mình, nhắm nghiền mắt. Tôi vẫn không thể tin bà Suzuki đã không còn trên cõi đời này nữa. "Thật tàn nhẫn." Lòng tôi như đang thét lên.

    Đồng hồ ở công viên chỉ 6 giờ, mẹ sắp về nhà đến nơi. Nhận ra mình đã ngồi trên chiếc ghế này gần ba tiếng đồng hồ, tôi mới choàng tỉnh, trông thấy dưới chân có một vệt nước chảy ngoằn ngoèo, cứ ngỡ là nước mắt mình tích tụ mà thành. Nhưng nhìn kỹ thì không phải, hóa ra chỉ là vòi nước uống miễn phí ở công viên bị rỉ mà thôi.

    Tôi đứng dậy, đang quyết tâm trốn đến nơi tận cùng của cái miền đất này, thì bỗng nhìn thấy Kazari ở đằng xa. Thoạt đầu tôi tưởng mình nhìn nhầm, nhưng đúng là Kazari, em đang đi trên con đường nhỏ bên hông công viên, tay xách túi nilon của một cửa hàng tạp hóa nào đó. Chắc ra khỏi nhà để đi mua sắm gì đây. Tôi liền đuổi theo.

    "Kazari, chờ đã!"

    Em dừng lại, nhìn thấy tôi thì trợn tròn mắt.

    "Này, Kazari, em đã vào phòng mẹ, em nên thành thật xin lỗi mẹ đi." "Chị biết chuyện đó à?!"

    "Biết! Cho nên em phải nói với mẹ ngay."

    "Không! Em không muốn mẹ phải bực mình!" Em lắc đầu quầy quậy, "Cứ để mẹ cáu với chị thì hơn. Chị đã quen với chuyện này rồi còn gì? Em mà làm mẹ giận thì chẳng ra sao, em không muốn thế!"

    Tôi bỗng cảm thấy hơi thở nghẽn lại. Nếu lúc này có con dao thì tôi sẽ chọc thủng một lỗ trên ngực mình ngay lập tức, biết đâu sẽ dễ chịu hơn.

    "... nhưng, rõ ràng là em làm đổ lọ hoa." Tôi nói, giọng như nài nỉ.

    "Cái đầu chị thật ngu ngơ. Ý em là cứ coi như chị đã gây ra, chờ mẹ về thì chị ngoan ngoãn xin lỗi mẹ. Hiểu chưa?"

    "Chị...?" Tay tôi run lên, siết chặt trong túi áo. "Sao nào?" Kazari nói như trêu tức.

    Tôi nắm chặt cái chìa khóa nằm trong túi áo. "Chị...?"

    Tôi chân thành mến nó, nhưng là chuyện cách đây mười giây. Nghĩ đến đây, cảm giác bức bối trong lồng ngực bỗng tan biến, tôi hít thở bình thường.

    "Không sao. Được! Không vấn đề gì. Kazari, nghe chị nói đây..." Tôi đã quyết định. "Nhưng rất tiếc là mẹ biết cả rồi. Chị nói thật đấy. Em cầm sách ra để mẹ tưởng rằng chị đã vào phòng, nhưng sự thật đã bại lộ. Em vừa ra hiệu tạp hóa mua đồ thì mẹ trở về. Chị đứng ở ngoài cổng mà đã nghe thấy tiếng mẹ gầm lên trong phòng. Sau đó chị mới ra công viên. Chắc là mẹ đã biết em làm đổ lọ hoa đấy."

    Mặt Kazari trắng bệch.

    "Biết làm sao được!"

    "Biết chứ. Đứng ở cổng, chị nghe thấy mẹ nói: Hàng đĩa CD lệch lạc hết cả, đúng là con Kazari gây ra. Mẹ nói thế đấy. Cho nên mẹ đang chờ em về thành khẩn xin lỗi mẹ. Em liệu mà nhận lỗi đi."

    Kazari hoang mang nhìn tôi. "Tức là đã lộ hết rồi ư?"

    Tôi gật đầu.

    "Nhưng em không muốn làm mẹ nổi giận rồi bị đánh như chị!"

    Tôi giả bộ như khó nghĩ. Rồi nói với nó, "Vậy thì thế này đi: chị sẽ thay em xin lỗi mẹ?"

    "Là thế nào?"

    "Chúng ta đổi quần áo cho nhau, chỉ hôm nay thôi. Chị mặc quần áo của Kazari, Kazari mặc quần áo của chị. Sáng mai, chị sẽ sắm vai em, còn em cứ vừa đi vừa cúi gằm như chị."

    "Liệu có bị lộ không?"

    "Không đâu! Hai chúng ta giống hệt nhau. Chỉ cần em bắt chước đúng bộ dạng lầm lũi của chị là được. Cứ thế là sẽ an toàn. Cứ để mẹ tức tối, đánh đập cũng được, chị sẽ chịu đòn hộ em. Em không phải lo gì hết."

    Chúng tôi vào nhà vệ sinh ở công viên đổi quần áo cho nhau. Kazari cởi hết các thứ trên người ra, bới tóc cho rối lên. Lúc mặc quần áo bẩn thỉu của tôi vào, nó nhăn nhó, "Quần áo này bốc mùi khiếp quá!"

    Quần áo của Kazari vừa đẹp vừa mềm mại. Tôi đổi đồng hồ, đổi cả bít tất cho Kazari, rồi chải tóc cho gọn ghẽ tinh tươm. Không biết mọi chuyện có suôn sẻ hay không nhưng tôi vẫn cố nở nụ cười. Soi bóng mình trong gương nhà vệ sinh, tôi như thấy mình là Kazari tươi vui hoạt bát. Nhìn khuôn mặt này, tôi bỗng nhớ đến lúc ở nhà bà Suzuki. Tôi gí ngón tay vào mép mình. Mắt tôi ươn ướt, hình như là nước mắt hoặc thứ gì đó tương tự, tôi vốc nước vã lên mặt và chà xát thật mạnh, không để Kazari nhìn thấy.

    "Còn làm gì thế?"

    Chờ mãi không thấy tôi ra, Kazari đứng ở cửa nhà vệ sinh, hỏi đầy khó chịu.

    Rồi chúng tôi ra khỏi công viên, đi về phía khu căn hộ. Tòa nhà sừng sững trước mắt như rực lên dưới ánh hoàng hôn. Đứng dưới sân, tôi nhìn lên cửa sổ căn hộ trên tầng 10. Vừa nãy tôi nói dối Kazari rằng mẹ chúng tôi đã về, nó tin, không chút nghi ngờ.

    Thực ra tôi không thể xác định mẹ về chưa, có lẽ là rồi. Con người nghiêm chỉnh như bà chưa bao giờ trễ giờ.

    "Kazari nhớ nhé, về nhà, em phải thể hiện giống như chị mọi ngày." Nó "hứ" một tiếng, có vẻ không phục.

    "Biết rồi! Bây giờ, ai về nhà trước? Rõ ràng từ hồi lớp Hai chúng ta đã không về cùng nhau nữa còn gì? Chẳng tự nhiên gì cả!"

    Chúng tôi đành oẳn tù tì. Suốt ba mươi lần liên tục vẫn chưa phân thắng bại, có lẽ vì là chị em sinh đôi nên cách ra kéo bao búa khi oẳn tù tì của chúng tôi cũng giống nhau thì phải. Đến lần thứ ba mươi mốt thì tôi thắng: Kazari sắm vai tôi, sẽ về nhà trước.

    Tôi nhìn theo nó bước vào cổng, rồi tựa vào một gốc cây phía trước khu nhà ngắm nhìn đường phố xa xa nhuộm trong ánh hoàng hôn đỏ rực. Tay tôi xách cái túi đựng mấy món đồ mà Kazari mua ở hiệu tạp hóa, nó va vào đầu gối tôi, phát ra những âm thanh sột soạt.

    Một cậu thiếu niên đi xe đạp lướt qua, bóng cậu ta đổ dài trên mặt đường. Những áng mây lơ lửng trên bầu trời đỏ rực lên như đang phát sáng. "Kazari ơi!" Tôi nghe có người gọi, bèn ngoảnh sang thì thấy một bác gái ở cùng khu nhà. "Học hành thế nào rồi? Vẫn chăm chỉ đấy chứ?" Bác ấy hỏi. "Vâng, vẫn tốt ạ!" Tôi đáp. Ngay sau đó "huỵch" một tiếng, có thứ gì đó từ trên lầu rơi xuống, bác gái thét lên kinh hãi. Một thân hình mặc áo quần bẩn thỉu và có khuôn mặt giống hệt tôi.

    Đang nằm trên mặt đất.

    Tôi trở về nhà, thay Kazari viết một lá thư tuyệt mệnh. Đây là ý của mẹ. Bà ra lệnh cho tôi phải viết xong trong năm phút, trước khi cảnh sát đến. Tôi vâng lời. Bà nói, "Con đúng là đứa con ngoan, mẹ rất yêu con." Không biết bao nhiêu lần trong những giấc mơ lúc đêm khuya, tôi đã ước ao được nghe thấy câu này.

    Vì là thư "chị Yoko" viết trước khi chết nên tôi rất hào hứng suy nghĩ nội dung. Chỉ cần diễn tả những ý nghĩ của chính bản thân lúc muốn tìm đến cái chết là xong...

    Chẳng ai nghi ngờ gì về chuyện Endo Yoko tự sát. Khi mặt trời đã lặn về Tây, màn đêm buông xuống, đám đông xúm xít đứng xem dần tản đi hết. Cảnh sát đến nhà để lấy lời khai của tôi và mẹ, chúng tôi trả lời những điều cần thiết. Mẹ không phát hiện ra sự thật tôi là ai nhưng chẳng bao lâu nữa bà sẽ nhận ra, rồi sẽ phải chịu một cú sốc ghê gớm. Tôi quyết định đêm nay thu xếp hành lý rời khỏi nhà, đi đến một nơi thật xa.

    Cuộc đối thoại với cảnh sát kéo dài tới tận khuya, mẹ con chúng tôi đều rất căng thẳng. Tôi thật sự mệt rũ, còn mẹ thì phải diễn kịch, cho nên khi cảnh sát ra về rồi, bà mới thở phào và nói: Thế là xong xuôi. Tôi hơi bất ngờ vì mẹ không hề tỏ ra buồn bã xót thương cho cái chết của Yoko, tôi chẳng qua chỉ là một cục nợ trong mắt họ mà thôi. Đằng nào thì tôi cũng muốn thành tâm xin lỗi Kazari.

    Mẹ vào phòng của mình, tôi lủi vào phòng Kazari. Căn phòng tràn ngập những món đồ đáng yêu, không buồn tẻ chút nào, nhưng tôi vẫn cảm thấy ở cạnh cái thùng rác trong nhà bếp bình yên hơn nhiều. Khi biết chắc mẹ đã ngủ say, tôi nhét các thứ linh tinh vào cặp sách. Mảnh đệm vuông bẹp dí tôi vẫn dùng thay cho đệm nằm cũng được cật lực nhét vào nhưng vô hiệu, tôi đành bỏ quần áo của Kazari ra để có khoảng trống cho nó.

    Ra khỏi nhà, tôi chạy đến nhà bà Suzuki để đón Aso. Tôi vẫn nhớ con bé kia nói, bà chết rồi thì không ai nuôi Aso nữa, phải đưa nó vào trại thu gom động vật. Tôi lo Aso vẫn ở trong nhà nhưng khi đến nơi thì thấy nó bị buộc ngoài cổng bằng một sợi dây thừng. Chắc là con cháu bà Suzuki đang bận làm đám tang, phải ngủ lại đây đêm nay và đã đuổi Aso ra khỏi nhà. Cũng tốt, tôi và nó đều như nhau.

    Nhìn thấy tôi, con chó vẫy đuôi loạn xạ như quạt xoáy lốc. Tôi cởi dây thừng rồi bế nó đi.

    Tôi mang con chó đi thẳng về phía ga tàu cùng tâm trạng áy náy vì không thể dự đám tang của bà Suzuki và của cả Endo Yoko. Tôi không biết sau này mình sẽ sống ra sao, người không có một đồng xu nào, rất có thể sẽ chết đói. Nhưng tôi đã quá quen với việc bụng luôn rỗng tuếch và tự tin mình có một dạ dày thép, dù phải ăn cơm thiu hay những mẩu cà rốt dư thừa ở các cửa hàng ăn, tôi vẫn sẽ chịu đựng được. Tôi nắm chặt chiếc chìa khóa trong túi áo, lòng thầm hô vang, "Lên đường." Tự nhủ mình nhất định phải sống. Một luồng máu nóng rạo rực khắp người.


  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Giờ ăn trưa.

    Khi cả nhà tập trung quanh bàn ăn, có người nhắc đến những lá thư. Thư viết

    đáng sợ thật! Ta nên báo cảnh sát đi.

    "Báo cảnh sát? Mẹ cứ việc bé xé ra to! Còn chưa thấy các con mà..." "Nhưng có đúng là Ryuji đã bị giết không? Nếu sáng nay lại có thư mới thì

    phải báo cảnh sát thôi!"

    "Cha ơi, cha giữ chìa khóa sơ cua của các căn phòng, chắc cha có chìa khóa cái tủ tường trong phòng anh Ryuji chứ?"

    Fuyumi hỏi, rồi cô nhếch mép, nhìn sang chị dâu Miki.

    "Cha không có. Mà nhân đây tôi muốn nói với cả nhà: khi Ryuji ra ở riêng cách đây nửa năm, tôi đã đánh mất chìa khóa sơ cua các căn phòng rồi."

    Miki thầm kinh ngạc, cô hỏi:

    "Cả chìa khóa sơ cua phòng chú Ryuji ạ?" "Ừ, chẳng may cha sơ ý nên mất hết."

    "Cha không có chìa sơ cua, sao hôm qua cha biết Ryuji không có trong phòng?"

    "Vì sáng hôm qua cửa phòng nó đang mở nên cha mới vào xem sao." Miki tiếp tục lặng lẽ ăn cơm, ăn xong cô bảo Fuyumi:

    "Fuyumi, chị muốn nói chuyện với em. Ở phòng của Ryuji, lúc 2 giờ, chỉ hai chúng ta thôi. Được chứ?"

    Fuyumi gật đầu, vẻ thách thức.

    "Vừa khéo em có việc quan trọng muốn nói với chị."

    1 giờ 58 phút.

    Còn hai phút nữa thì đến giờ hẹn, Miki đã sang phòng Ryui, căn phòng độc lập tách rời nhà chính. Cũng như tối hôm nọ, cô ngồi trên xô pha, nhìn chằm chằm vào cái tủ tường. Tháng Mười một, nhiệt độ xuống rất thấp, phòng này lại không bật khí sưởi nên cô thở ra toàn hơi trắng.

    Đúng 2 giờ thì Fuyumi đến, sau cô còn có hai người đàn ông mặc đồng phục màu rêu.

    "Hai người này là ai?"

    "Khóa dưới của em, đang làm thêm ở công ty chuyển nhà. Nhà mình có một

    đống rác to cần chuyển đi nên em mới nhờ mấy cậu ấy giúp." "Đống rác to?"

    Fuyumi gật đầu. Một trong hai thanh niên bước đến trước cái tủ tường, bắt

    đầu đánh giá kích cỡ và hỏi Fuyumi điều gì đó.

    "Đúng là cái tủ này đấy. Phiền các cậu chuyển nó lên xe tải hộ tôi." "Em định làm gì?"

    Fuyumi cười đắc thắng.

    "Hai cậu ấy sẽ khiêng tủ lên cái xe tải em mượn sẵn, đang đậu dưới kia rồi."

    Hai người thanh niên bèn nâng hai đầu cái tủ lên. Một cậu cằn nhằn trong miệng.

    "Cái tủ này nặng thế cơ à? Hay bên trong có người? Các cậu cẩn thận nhé,

    đừng làm đổ hoặc dựng ngược!"

    Tủ đã được khiêng ra ngoài phòng. Hai người phụ nữ theo ra.

    "Chị định nói với tôi về chuyện này chứ gì? Chị chính là hung thủ giết người. Chị hiểu ý tôi chứ hả?"

    "Cô hiểu lầm rồi."

    "Không có hiểu lầm gì hết, chị nên thành thật khai ra đi!"

    Phòng của Ryuji độc lập với nhà chính, ra khỏi phòng là đến sân luôn. Một chiếc xe tải hạng nhẹ đang đỗ ngoài đó.

    "Khiêng lên xe rồi đưa đi đâu?"

    "Đưa đến sở cảnh sát. Chị đang cảm thấy thế nào?" Cái tủ bị khiêng lệch một bên.

    "Hai anh cẩn thận cho!" Miki lập tức kêu lên.

    "Chị à, hôm qua lúc ở phòng anh Ichiro, chị định mở tủ nhưng không mở được, có biết tại sao không?"

    "Cô cho là tại sao?"

    "Lúc đó chị nói là khóa hỏng nên không mở được?"

    "Sáng nay tôi kiểm tra lại, đúng là khóa hỏng. Con vít ở chốt khóa long ra." Miki thanh minh, nhưng Fuyumi phì cười.

    "Lúc đó khóa không hỏng. Sáng nay mới hỏng. Đó là... vì chị nhận ra mình

    đã sai lầm nên mới phá cho khóa hỏng thật để phù hợp với cái cớ hôm qua." "Tôi sai lầm?"

    "Chắc chị không nhận ra: cái chìa khóa lúc đó chị tra vào, không phải chìa khóa tủ của anh Ichiro, mà là chìa khóa tủ của anh Ryuji? Hai cái tủ trông giống nhau, chìa khóa màu vàng cũ rích nhưng thật ra mỗi chìa chỉ khớp với một tủ mà thôi. Hồi nhỏ hai anh ấy đã cho tôi xem hai chiếc chìa khóa tủ tường nên tôi thừa biết."

    Fuyumi và Miki đứng trước cái tủ cũ kỹ "rất đáng ngờ" đang được bốc lên xe tải.

    "Lúc đó chị đã lấy chìa của anh Ryuji để mở tủ của anh Ichiro mà không biết. Khi thấy chị không mở được, tôi liền ngờ ngợ, tại sao chị lại có chìa của anh Ryuji trong tay? Nội dung của các bức thư đã khiến tôi liên tưởng đến một cảnh tượng rất kinh hoàng."

    Hai cậu thanh niên đã dùng dây thừng buộc cái tủ cố định trên thùng xe tải. "Chị đã nhét thứ gì đó vào tủ tường của anh Ryuji, rồi khóa lại để không cho

    ai biết. Sau đó chị vơ tất cả các chìa khóa của anh ấy bỏ vào túi mình." Fuyumi ngoảnh nhìn hai thanh niên.

    "Cảm ơn hai cậu. Việc còn lại, tôi tự làm được."

    Hai người cúi đầu chào Fuyumi rồi lặng lẽ ra về. Bây giờ chỉ còn Fuyumi và Miki đứng trước tủ tường.

    "Giờ chỉ còn lại tôi và chị."

    Fuyumi khoanh tay nói. Miki thì lắc đầu phản đối. "Không phải, cả thảy có ba người!"

    Fuyumi thoáng kinh ngạc, nhưng cô lập tức mỉm cười đắc thắng.

    "Quả nhiên là thế: chị đã giết anh Ryuji rồi nhét tạm xác anh ấy vào tủ khi chưa kịp xử lý!"

    "Không phải thế! Cô hiểu lầm rồi! Đúng là tối hôm kia tôi có vào phòng chú Ryuji nhưng tôi không giết chú ấy."

    "Chị nói thế đời nào tôi tin!"

    "Chao ôi, tôi phát điên mất! Tối hôm đó tên hung thủ đã chạy mất, tôi nghĩ mình sẽ là người bị nghi ngờ trước tiên nên đành giấu xác Ryuji vào tủ tường."

    Miki nói lớn.

    "Tối hôm đó Ryuji gọi tôi vào phòng chú ấy để hỏi vài chuyện cũ của tôi. Lúc đó trong phòng mở nhạc rất to. Rồi tôi vào gian chứa đồ chừng ba phút vì Ryuji nói trong đó có để tranh của anh Ichiro, lúc trở ra phòng ngoài thì nhìn thấy Ryuji đã chết rồi."

    "Bị đập bằng cái gạt tàn, giống như bức thư kia nói?"

    "Đúng! Tôi nhìn thấy cái gạt tàn dính máu, lỡ cầm nó lên xem nên nó sẽ có dấu vân tay của tôi. Sau đó tôi đánh rơi cái gạt tàn xuống sàn, gây ra tiếng động rất lớn."

    "Chị nói, lúc anh Ryuji bị người ta giết thì chị ở trong gian chứa đồ?"

    "Bấy giờ chú ấy mở nhạc rất to nên tôi không nghe thấy tiếng động gì khác.

    Tôi đang bí thì mẹ gõ cửa nhưng lúc ấy cửa khóa, mẹ không vào được."

    "Mẹ không vào được? Cứ cho là tôi tin lời chị đi, vậy thì hung thủ đã giết anh Ryuji phải có chìa khóa phòng anh ấy! Khi chị vào gian chứa đồ thì hắn rón rén mở cửa phòng bước vào, sau đó cầm cái gạt tàn đập chết anh ấy rồi lại chuồn ra, khóa cửa lại. Nếu có chìa khóa thì hắn hoàn toàn có thể làm được điều này."

    "Nhưng chìa khóa phòng lại nằm trong túi chú Ryuji cho nên lúc đầu tôi cho rằng hung thủ là người có chìa khóa sơ cua. Bấy giờ trong phòng chỉ còn có tôi

    và chú Ryuji, tôi rất căm hận tên hung thủ đó. Nhưng tôi không muốn đến sở cảnh sát."

    Miki bưng miệng, Fuyumi nghiêng đầu nhìn cô.

    "Tại sao? Chị chỉ cần khai rõ sự thật với cảnh sát là ổn mà!" Miki hai tay ôm mặt.

    "Chắc chắn là báo ứng rồi? Tôi biết nói gì với họ đây? Tôi chỉ có thể đau khổ không bao giờ nguôi. Chắc chắn là ông trời trừng phạt tôi rồi, chính ngài đã giết Ryuji và gửi xuống những lá thư để dằn vặt tôi."

    "Chị, không sao chứ?"

    "Xin lỗi, tôi không sao. Rồi tôi sẽ giải thích với cô sau."

    Miki vừa khóc vừa nói, hai mắt cô đỏ hoe. Nhưng cô vẫn cứng rắn nhìn Fuyumi.

    "Tôi nói tiếp ý vừa nãy. Khi nghe chuyện có chìa khóa sơ cua, tôi liền nghi ngờ cha."

    "Chị nghi ngờ cha? Kể cũng phải. Tôi đã kể với chị rằng cha có chìa khóa sơ cua. Chẳng lẽ ông bịa ra chuyện mất chìa khóa để mình không bị nghi ngờ? Nhưng dù sao đi nữa, chị vẫn cho rằng có người giữ chìa khóa sơ cua trong tay, đúng không?"

    "Nhưng nghĩ kỹ thì thấy không phải. Sáng hôm qua Ryuji không đến ăn cơm, rồi cha sang gọi chú ấy. Nhưng tối hôm kia, khi ra khỏi phòng Ryuji thì tôi đã dùng chìa khóa trong túi Ryuji khóa cửa lại rồi. Nếu cha không có chìa sơ cua thì không thể vào đó. Cha thì nói rằng đã đánh mất chìa khóa sơ cua và sáng hôm qua phòng Ryuji không khóa, nhưng rõ ràng tôi đã khóa rồi, tại sao khi cha sang, cửa lại đang mở?"

    "Kể cả nếu cha có chìa khóa, không không, kể cả là cha đi chăng nữa... tại sao nửa đêm lại phải mò vào phòng anh Ryuji? Có phải để thủ tiêu các chứng cứ không? Sau đó thì quên khóa cửa?"

    "Đáp án đơn giản hơn: chẳng ai có chìa khóa sơ cua cả. Cái chìa sơ cua duy nhất đã bị cha làm mất."

    "Hả?"

    "Khi Ryuji gọi tôi vào phòng thì tên hung thủ đã nấp sẵn trong phòng rồi. Hắn rình đúng lúc tôi đi vào gian chứa đồ thì giết Ryuji. Xong xuôi hắn vẫn nấp ở chỗ nào đó không ra khỏi phòng. Đơn giản thế thôi."

    "Chị nói là hung thủ vẫn ở trong phòng cho đến khi chị rời đi?"

    "Đúng thế! Lúc ra khỏi phòng tôi đã khóa cửa rồi hung thủ có thể mở cửa từ phía trong nhưng không thể khóa lại, vì thế mà từ lúc ấy cửa phòng vẫn mở tự do."

    "Nhưng, hung thủ có thể nấp ở đâu trong phòng anh Ryuji?"

    Miki im lặng đưa mắt về phía tủ tường. Thoạt đầu Fuyumi ngớ ra, nhưng rồi cô hiểu ý chị dâu.

    "Thì ra là thế."

    "Chỉ có thể nấp trong tủ. Hắn ở trong, chờ lúc tôi bước vào gian chứa đồ thì lẻn ra cầm cái gạt tàn trên giá đập chết Ryuji, xong lại chạy vào nấp trong tủ. Sự việc là thế."

    "Tôi cứ ngỡ trong đó đang có xác anh Ryuji."

    "Tôi vốn định đưa xác chú Ryuji vào tủ. Tôi tra chìa khóa vào ổ vặn nhưng không được, hình như nó bị kẹt. Thoạt đầu tôi nghĩ là khóa hỏng, chú Ryuji đã nói đôi khi khóa bị trục trặc. Nhưng lúc vặn được rồi vẫn không mở được cửa tủ. Tôi đành nhìn khắp phòng và nhận ra cái túi du lịch của mình có thể chứa xác Ryuji, vì người chú ấy rất còi."

    "Chị nhét hung khí vào trong đó?"

    "Ừ! Vì trên gạt tàn có vân tay của tôi. Nhưng cái túi nhét đầy quần áo, tôi

    đành lôi ra vứt lại trong phòng để lấy túi chứa xác." "Đống quần áo đó là của chị? Quần áo nữ?"

    "Phải! Nếu bị phát hiện thì tôi sẽ bị nghi ngờ. Lúc đó tôi thấy ở góc phòng có sẵn một đống quần áo nên mới trộn lẫn quần áo của mình vào đó. Tôi định chờ mọi người ngủ say sẽ vào lấy ra, nhưng đêm hôm đó không được."

    "Cho nên sáng hôm sau chị vẫn mặc áo mỏng vì không có quần áo mặc thêm? Sau bữa ăn chị sang phòng anh Ryuji không phải để mượn sách mà là để lấy quần áo ra, lúc tôi cầm quần áo bề bộn định nhét vào tủ thì chị vội giật lại. Tôi đã thấy động tác của chị hơi kỳ quái, thì ra chị cuống lên vì tôi đang cầm quần áo của chị?"

    "Trong số quần áo cô đang cầm có áo lót của tôi, cái dây áo thõng xuống

    đung đưa."

    "Vậy rốt cuộc hung thủ là ai?"

    "Tôi không biết. Hôm ấy kể từ lúc anh Ichiro ra khỏi phòng cho đến lúc tôi vào, thì phòng vẫn không khóa, bởi vậy ai cũng có thể lẻn vào được."

    "Khoan đã, chị! Hôm qua, lúc tôi nói chuyện với chị ở phòng anh Ichiro, chị không tra nhầm chìa khóa à?"

    Miki gật đầu.

    "Cho nên tôi mới nghĩ là khóa tủ của anh Ichiro hỏng, nhưng thực ra nó không hỏng. Bấy giờ tên hung thủ ở đó, hắn đã nấp trong tủ nghe chúng ta nói chuyện và ghìm cánh tủ lại. Tôi không nhầm chìa khóa, tôi đã tra chìa vào ổ và xoay một cái định mở khóa, nhưng lại biến thành khóa vào. Tên hung thủ bị nhốt bên trong, phải phá hỏng khóa để thoát thân. Cô xem, tủ có hai cánh, ở giữa có khe, hắn có thể nhòm qua khe thấy chúng ta."

    Hình như Fuyumi đã hiểu ra.

    "Thì ra là thế. Hắn không biết chị đã phát hiện ra. Sáng nay chị tuyên bố rằng muốn nói chuyện với tôi, cố tình nêu cả thời gian và địa điểm để dụ hắn."

    "Chỉ có cách ấy, mới khiến hung thủ trốn vào tủ của chú Ryuji để dỏng tai nghe lỏm chúng ta."

    Tay Miki vỗ vào cái tủ tường.

    "Bây giờ trong tủ này không phải xác của Ryuji mà là tên hung thủ. Hắn muốn nghe lỏm tôi và cô nên đang ở ngay trong này."

    Fuyumi đập mạnh lên mặt tủ.

    "Hắn ở trong này thật không? Nếu đang ở trong tủ thì hãy trả lời bằng cách

    đập vào tủ một tiếng."

    Fuyumi khoanh tay trước ngực, ngẩng lên nhìn cái tủ trên thùng xe tải. Vài giây im phăng phắc trôi qua.

    Một tiếng "thình" bỗng vang ra. Hai người nhìn nhau.

    "Tiếng động phát ra từ cái tủ, tức là bên trong có người, hắn đã trả lời." Fuyumi kinh ngạc thấy rõ.

    "Ngươi đã giết anh Ryuji phải không? Nếu đúng thì gõ vào tủ hai tiếng. Nếu không thì gõ một tiếng." Fuyumi nói với người trong tủ.

    Hai tiếng gõ. Câu trả lời là khẳng định.

    Fuyumi hỏi tiếp, "Ngươi là người đưa thư đến phải không?" Lại khẳng định.

    "Ngươi viết thư, nhằm để mọi người phát hiện ra xác chết, và coi ta là hung thủ chứ gì?" Miki hỏi.

    Lần này thì phủ định.

    "Ngươi đã lên kế hoạch để giết người phải không?" Fuyumi hỏi.

    Phủ định.

    "Ngươi nhằm vào chuyện ngày trước của ta ư?" Miki đau khổ hỏi. Khẳng định.

    "Ryuji đã cho ngươi biết à?" Miki hỏi. Khẳng định.

    "Ryuji biết bí mật về ta, ngươi đã giết cậu ấy, sau đó sẽ trừng phạt ta phải không?" Miki tiếp tục hỏi.

    Khẳng định.

    "Chúng ta mở ra xem sao!" Fuyumi nói rồi, lập tức mở cửa tủ.

    Tôi lù lù đứng đó, đang đầm đìa mồ hôi nheo mắt nhìn ra ngoài qua khe tủ.

    Cô em gái và cô vợ tôi, mặt bỗng trắng bệch như người đã chết.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 9

    Lời nguyền của chúa tể


    Mẹ rất thông minh, từ nhỏ bà đã được giáo dục rất tốt và thi đỗ vào một trường đại học danh tiếng. Bà con trong khu phố rất quý mến mẹ bởi bà còn lương thiện, hay tham gia tình nguyện. Khi đứng thẳng, trông bà đàng hoàng kiêu sa như một con hạc trắng trên mặt hồ mùa đông, đôi mắt đầy trí tuệ lấp lánh sau cặp kính sáng trong.

    Khuyết điểm duy nhất của bà là không phân biệt nổi con mèo nhà nuôi và cây xương rồng cảnh. Cách đây không lâu, bà còn tóm con mèo, vùi vào chậu đất rồi tưới nước lên trong khi lại áp cây xương rồng lên mặt mình âu yếm, hậu quả là bị vô số vết xước rớm máu.

    Cha tôi và cậu em tôi không sao hiểu nổi hành vi kỳ lạ ấy, bèn hỏi bà. Người mẹ thông minh của tôi đứng im trước cây xương rồng mở hộp thức ăn mèo, coi như không nghe thấy.

    Tôi vô cùng hối hận, vì đó là lỗi của tôi.

    Từ nhỏ tôi đã được rất nhiều người khen ngợi, nói là giọng tôi rất hay. Hàng năm vào dịp lễ Obon và năm mới, chúng tôi đều về bên nhà ngoại họ hàng chẳng mấy khi gặp mặt đều xúm xít quanh tôi. Tôi vốn không thạo giao tiếp nhưng luôn tỏ ra nghe hiểu tiếng địa phương, mỉm cười tươi tắn và phụ họa vài câu khi nghe các ông chú rượu vào lời ra.

    "Cháu đúng là một đứa bé đáng yêu."

    Nghe bà bác khen, tôi liền nhoẻn cười. Thực ra tôi rất lạnh nhạt, chỉ giả vờ tỏ vẻ nhiệt tình mà thôi.

    Tôi chưa từng xúc động hoặc vui mừng trước những lời của họ, thậm chí còn cảm thấy chán, chỉ muốn tránh cho xa. Nhưng tôi không làm thế, vì tôi sợ cổ phiếu "tôi" sẽ sụt giá, bà con vây quanh sẽ bỏ chạy sạch. Tôi che giấu tâm trạng thật, tiếp tục giả vờ nghe họ nói và tiếp tục nói những lời thân thiết với họ.

    Hồi đó tôi rất ghét bản thân, luôn tự nhủ mình chỉ là đứa giả dối đóng vai con ngoan. Thật tầm thường và nông cạn.

    "Giọng em thật trong trẻo, nghe cứ như tiếng nhạc."

    Một người chị họ của tôi nói. Tôi chỉ thấy giọng mình rất chói tai, lủng củng trúc trắc cứ như con vật bắt chước tiếng người.

    Tôi nhận ra sức mạnh trong giọng nói của mình vào năm lớp Một. Dịp đó có tiết giảng dạy cách chăm sóc hoa bìm bìm, mọi người đều mang chậu hoa của mình đến bày ở một góc sân trường. Hoa tôi trồng rất tươi tốt, những dây hoa xanh mướt vươn lên thật cao, lá to và rộng đọng những giọt sương long lanh trong suốt, những cánh hoa màu tím biếc mềm mại, mong manh.

    Nhưng chậu hoa của tôi không phải là đẹp nhất lớp. Trong lớp còn có bạn trồng được những bông bìm bìm to hơn và đẹp hơn hẳn của tôi.

    Trong lớp, ngồi trước tôi ba hàng ghế là một bạn nam, có tài chạy rất nhanh, tên là Yuichi. Yuichi rất hoạt bát lém lỉnh, luôn miệng nói cười và thể hiện nhiều biểu cảm phong phú. Tôi thường xuyên nói chuyện với Yuichi, dù nội dung đơn giản nhưng tôi ưa thích khả năng biểu cảm thú vị của cậu ấy. Cũng vì khả năng này mà Yuichi được mến mộ.

    Tuy thế tôi hay dùng ánh mắt soi mói với Yuichi. Tôi muốn trở thành người hoạt bát như cậu ta, đồng thời lấy làm khó chịu vì cho rằng cậu ta nhận ra màn kịch luôn tỏ ra ngoan ngoãn và tính nhỏ nhen của tôi. Hồi đó tôi chưa ý thức được rằng mình rất tự ti trước Yuichi. Đó là một bí mật.

    Yuichi nhiệt tình trò chuyện với tôi, nhưng tôi toàn dùng giọng khôi hài để trả lời cậu ta. Điều này thường khiến các bạn cười vỡ bụng. Hễ có chuyện gì lý thú Yuichi đều gọi tôi "Này, cậu ạ..." rồi kể cho tôi biết. Còn tôi thì lại không coi cậu ta là bạn thật sự, tôi chỉ giả vờ cười và trả lời bằng những câu ngớ ngẩn đến không ngờ.

    Hoa bìm bìm do Yuichi trồng đẹp và to nhất lớp, cô giáo hơi một tí là khen ngợi còn tôi lại làm ra vẻ coi thường, giống hệt như có một con vật bẩn thỉu muốn chui ra khỏi cơ thể tôi rồi rít lên thật to vậy. Con vật ấy chính là bản tính của tôi.

    Một buổi sáng nọ, tôi đến trường sớm hơn mọi ngày, lớp học vắng tanh im

    ắng. Có thể thoải mái gỡ bỏ cái mặt nạ mà mình vẫn đeo rồi.

    Tôi lập tức nhận ra chậu hoa của Yuichi, vì nó nổi bật giữa những chậu hoa khác. Tôi chăm chú nhìn những nụ hoa xinh xắn sắp nở, vận sức mạnh đen tối trong người rồi ra lệnh:

    "Hãy mau khô héo đi. Hãy mau mục rữa đi!"

    Tôi hô lên, hai bàn tay đan nhau, lên gân khiến các thớ thịt căng cứng. Mũi tôi chợt ươn ướt, máu cam rỏ xuống nền bê tông tạo thành những đốm đỏ tung tóe giống như màu vẽ.

    Những bông hoa lìa khỏi cành rơi xuống đất giống như đầu người bị chém rụng. Vài giờ sau đó, hoa bìm bìm của Yuichi héo quắt, biến thành màu nâu xấu xí. Nhưng Yuichi vẫn không chịu ném bỏ, thế là những con bọ bắt đầu xúm vào

    chậu hoa đang bốc mùi thum thủm. Chẳng bao lâu, đất trong chậu hoa nhung nhúc dòi bọ, cô giáo phải đem vứt cả chậu làm Yuichi khóc ầm lên. Hoa bìm bìm của tôi lại trở thành chậu hoa đẹp nhất lớp.

    Nhưng tâm trạng sung sướng chỉ kéo dài được mấy chục phút, sau đó tôi không dám nhìn chậu hoa của mình nữa. Nghe mọi người khen, tôi chỉ muốn nút chặt lỗ tai lại.

    Từ khi tôi đọc "lời nguyền" dành cho hoa của Yuichi, chậu hoa đẹp đẽ kia như biến thành tấm gương phản chiếu con vật vừa bẩn thỉu vừa đáng sợ nằm trong người tôi vậy.

    Tôi vẫn không hiểu sao hoa của Yuichi lại khô héo đúng như mình mong muốn. Khi đó tôi chỉ là đứa học sinh lớp Một, không hề chú ý đến ma lực trong giọng nói của mình. Một đứa nhóc con đang rất tức giận, tôi chỉ khuyên nhủ nó một câu, nó liền lắng dịu xuống ngay. Nếu tôi đưa ra một phản đối, thì đối phương dù là người lớn cũng sẽ lập tức xin lỗi đứa trẻ con là tôi.

    Giả sử có con chuồn chuồn đang đậu trên hàng rào trong bãi cỏ, nếu ai đó định thò tay ra bắt thì nó lập tức vỗ đôi cánh gần như trong suốt của mình rồi bay đi mất nhưng tôi chỉ cần ra lệnh "Đứng im!" thì nó giống như say, cựa quậy đập cánh kiểu gì cũng không bay lên nổi.

    Kể từ khi bắt hoa bìm bìm héo tàn, tôi liên tục sử dụng "lời nguyền" có ma lực của mình với mọi người.

    Hồi học năm cuối tiểu học, gần nhà tôi có người nuôi một con chó. Nó khá to xác, thường đứng trong cửa nhà, hễ ai đi qua thì sủa ầm lên như bắn súng liên thanh.

    Cái xích to hằn sâu vào cổ khi nó nhảy bổ về phía người ta, nhưng nó vẫn muốn cắn người. Lông trên mình nó dính bết, da lở loét, ánh mắt ngùn ngụt ý chí chiến đấu. Nó khá nổi tiếng với đám trẻ con xung quanh, lũ trẻ thường thi nhau xem ai dám đứng gần con chó này nhất, và coi đó là thước đo lòng can đảm.

    Một hôm tôi đứng trước cổng nhà ấy chăm chú nhìn con chó. Nhìn thấy tôi, nó lập tức sủa ầm lên như đe dọa.

    Tôi bèn đọc một câu đầy ma lực: "Không được sủa nhặng lên với tao!"

    Con chó kinh ngạc, hai tai động đậy, sau đó nó mở to đôi mắt, không sủa nữa.

    "Phục tùng... Phải phục tùng... Phải phục tùng tao..."

    Đầu tôi như tóe lửa, máu mũi chảy ra rớt xuống mặt đường nhựa nhưng trong lòng thì vênh váo vô cùng. Tôi muốn chọc con chó đáng sợ này để được các bạn kính nể.

    Kế hoạch thành công dễ dàng. Con chó nghe lệnh tôi, nó nâng hai chân trước lên, xoay một vòng. Chỉ cần có thế, tôi đã chiếm được một vị trí trong lớp.

    Ban đầu tôi rất hứng thú nhưng dần dần lại nảy sinh cảm giác tội lỗi. Tôi chẳng hề có khả năng thuần phục động vật, chỉ muốn ra vẻ ta đây, ý nghĩ mình đã lừa dối người khác khiến tôi hết sức bất an.

    Ánh mắt con chó trước đây rất đáng sợ, từ khi nghe lệnh, nó không dám coi trời bằng vung nữa, chỉ dám len lén nhìn tôi. Tôi đã tước đoạt ý chí chiến đấu của nó. Con chó oai vệ ngày xưa giờ chỉ là con thú nhỏ đứng nhìn tôi như đang ấm ức.

    Có thể nói, ma lực trong giọng nói của tôi là vạn năng, nhưng có vài quy tắc. Ví dụ, "lời nguyền" chỉ hiệu nghiệm với động vật, thực vật và côn trùng, không có tác dụng với gỗ đá hay đồ nhựa.

    Ngoài ra, sau khi bị tôi "nguyền rủa" thì đối tượng không còn cách nào khôi phục lại trạng thái trước đó. Một hôm tôi và mẹ xảy ra chút va chạm, tôi bèn đưa ra "lời nguyền."

    "Từ nay mẹ không thể phân biệt nổi mèo và xương rồng cảnh nữa?"

    Bấy giờ tôi bị kích động, không ý thức nổi mình làm gì. Mẹ đã vào phòng dọn dẹp rồi làm vỡ chậu xương rồng của tôi. Tôi tức điên, nói rằng con rất thích nó, giống như mẹ thích con mèo cưng của mình ấy.

    Từ khi mẹ nhầm con mèo là xương rồng rồi chôn, tôi rất hối hận. Lẽ ra tôi nên kiềm chế, dù đã xảy ra chuyện khiến tôi không vừa lòng nhưng việc sử dụng ma lực bừa bãi là một tội lỗi nặng nề. Tôi rất hối hận nhưng tất cả đã muộn.

    Tôi đã đọc "lời nguyền" khác cho mẹ, nhưng bà vẫn không thể phân biệt được mèo và xương rồng.

    Ma lực trong giọng nói của tôi không chỉ có tác dụng về tinh thần mà còn hiệu quả đối với thể xác. Tôi có thể khiến thân thể động vật biến đổi như đã từng làm hoa bìm bìm héo tàn.

    Lên trung học phổ thông, tôi vẫn luôn phải lấy lòng người khác một cách đáng thương và tủi hổ vì bản thân quá e dè nhút nhát. Tôi lo những mối quan hệ xung quanh rạn nứt nên lúc nào cũng phải chú ý không để mình mất giá. Tôi luôn cho rằng khi ai đó nói chuyện tôi thì người ấy đang quan sát tôi và rất có thể, một lúc nào khác họ sẽ bàn tán về tôi với người khác rồi buông lời chế nhạo. Thật đáng sợ! Tôi phải lấy nụ cười để ngụy trang, nhưng lúc nào cũng cảm thấy tồi tệ.

    Cha tôi là giảng viên đại học, ông giống như một quả núi ở nơi hoang vu, giá lạnh, không một nhánh cây ngọn cỏ nào sống nổi. Ông luôn đánh giá xét nét hai đứa con, còn tôi thì ngẩng nhìn ông như nhìn một vị thần tiên trên trời. Đối với bất cứ việc gì, cha đều rất nghiêm khắc, sẵn sàng vứt bỏ những thứ không ưa. Hễ ai làm không đúng với kỳ vọng, ông liền tẩy chay, dù người đó xuất hiện trước mặt, ông cũng chỉ coi như con muỗi, chẳng thèm nhìn.

    Tôi lén cha mua một cái máy chơi game mini rẻ tiền chỉ nhỏ bằng lòng bàn tay, lũ học sinh tiểu học đều có. Cha rất ghét các trò chơi điện tử, nếu biết chuyện, chắc ông sẽ rất thất vọng về tôi, cho rằng ngay đứa con lớn của mình cũng phản bội mình. Thoáng nghĩ thế thôi là tôi thấy sợ.

    Em trai tôi thì khác. Nó chỉ thích làm những điều nó muốn, thích chơi game thì ra quán chơi, không thích học thì bẻ gãy luôn bút chì. Nó sống trong nỗi thất vọng của cha tôi. Nhưng tôi thì khác, tôi không muốn cha bực mình, tôi rất chăm học, ăn mặc giản dị chỉnh tề. Người khác hay đánh giá tôi là người tốt, cởi mở, trong sáng. Nhưng thực ra đó chỉ là bề ngoài, bên dưới lớp vỏ bọc lấp lánh là một tâm hồn tối tăm.

    Một hôm tôi đang lén chơi game trong phòng riêng thì cha bất ngờ đẩy cửa bước vào, chẳng khác gì cảnh sát xông vào hiện trường phạm tội. Ông giật lấy cái máy, lạnh lùng nhìn tôi.

    "Con dám làm chuyện này ư?" Giọng ông vô cùng thất vọng.

    Từ khi nhìn thấy thằng em Kazuya của tôi chơi game, ông đã ruồng bỏ nó, chỉ coi nó như một thứ đồ thừa, từ bỏ luôn ý định bồi dưỡng nó thành đứa con ngoan phù hợp với lý tưởng của ông, chính vì thế ông kỳ vọng rất lớn về thằng anh nó là tôi. Khi nhìn thấy tôi chơi game, ông còn tức hơn tôi dự kiến.

    Nếu là mọi ngày thì có lẽ tôi đã khóc và xin cha tha thứ cho, nhưng vào lúc đó, tuy phản ứng ngao ngán của ông khiến tôi bị sốc, thì tôi vẫn thấy thật vô lý: tại sao thằng em tôi được tự do chơi game còn tôi thì không? Ý nghĩ uất ức này choáng hết tâm trí tôi, chỉ vì nhìn thấy tôi chơi điện tử mà cha phủ định nhân cách của tôi á!

    Khi định thần lại, tôi thấy mình đang cố giằng chiếc máy chơi game từ tay cha. Bấy lâu nay tôi vẫn đeo cái mặt nạ gọi dạ bảo vâng, đây là lần đầu tiên tôi phản kháng. Nhưng cha vẫn quyết nắm chặt nó. Thế là tôi dồn sức mạnh vào giọng mình, nói luôn:

    "Những ngón tay này, rơi ra đi!"

    Mạch máu mũi của tôi đứt phựt. Cái máy rơi xuống đất, mấy ngón tay của cha rời ra theo rồi lăn xuống bên chân tôi, máu từ bàn tay cụt ngón của ông chảy ròng ròng đỏ lòm cả một mảng sàn, lẫn với ít máu mũi của tôi.

    Cha đau đớn kêu lên. Còn tôi thì bình tĩnh ra lệnh, "Cha hãy im lặng, trước khi con cho phép không được lên tiếng." Cha tôi im bặt, nhưng mắt ông mở rất to nhìn những ngón tay mình nằm dưới sàn nhà.

    Tôi thấy ghê ghê nhưng vẫn cố hết sức hít thật sâu để ngăn máu mũi chảy ra và nghĩ xem mình nên làm gì. Những ngón tay của cha không thể trở về bàn tay được nữa bởi lời nguyền của tôi chỉ có hiệu lực một chiều.

    Hết cách rồi, tôi đành ra lệnh "Không được tỉnh lại trước khi con gọi!" nhằm khiến ông tạm thời mất ý thức.

    Theo kinh nghiệm của tôi trước đây, lời nguyền vẫn hiệu lực đối với người đang ngủ. Tôi không dám để cha thấy tôi nguyền, nên muốn ông tạm ngất đi một lúc cho dễ bề hành động.

    Tôi ghé tai ông, nói, "Vết thương tay trái, hãy bình phục. Sau khi tỉnh lại thì quên hẳn chuyện gì đã xảy ra trong phòng này." Chỉ lát sau, các vết thương trên tay trái của cha đã kéo da kín mít, máu không chảy nữa.

    Tôi cần làm cho cha cảm thấy tay trái mình thiếu ngón là điều rất bình thường, và những ai nhìn thấy tay ông không có ngón thì cũng không lấy làm lạ.

    Tôi bèn suy nghĩ xem phải làm gì để đạt được những yêu cầu này. Tôi đã có khả năng tác động đối tượng bằng năng lực ngôn ngữ, nhưng tôi phải làm gì để khiến cho mọi người dù không nghe thấy mệnh lệnh của tôi đều cảm thấy bàn tay không ngón là chuyện bình thường?

    Tôi hạ quyết tâm, dùng giọng nói đặc biệt của mình nói ra những câu sau đây:

    "Lát nữa tỉnh lại, trông thấy tay trái của mình không có ngón, cha phải cho rằng đây là trạng thái bình thường. Tay trái của cha, phải khiến bất cứ ai nhìn vào đều cho là bình thường."

    Cách này không tác động đến những người không nghe thấy giọng nói của tôi, nhưng sẽ giúp bàn tay cha gây ấn tượng tự nhiên cho tất cả những người trông thấy nó.

    Tôi lau chùi các vết máu, dùng khăn giấy gói các ngón tay của cha lại rồi nhét vào ngăn kéo bàn học. Quần áo cha đầy máu nhưng tôi sẽ đọc "lời nguyền" để cho mọi người không nhìn thấy chúng.

    Tôi vừa dìu cha ra khỏi phòng thì chạm trán Kazuya, nó cực kỳ kinh ngạc vì chưa bao giờ nhìn thấy tôi dìu cha cả. Nó bước vào phòng tôi, bắt gặp cái máy chơi game trên sàn nhà liền "hừ" một tiếng và hình như còn cười khẩy.

    Giờ ăn tối, cha tôi ăn một cách vất vả vì tay trái không thể bưng bát lên, tuy thế sắc mặt ông vẫn rất tự nhiên, khiến tôi quên hẳn sự việc ban nãy. Bàn tay trái của ông tròn, nhẵn thín, dù chẳng ai có ý kiến gì, nhưng tôi nhận ra Kazuya đang cười thầm tôi. Tôi biết tính nó, định chế nhạo ai thì chế nhạo luôn. Tuy chúng tôi học cùng trường, nó học dưới tôi một lớp nhưng tôi không thể nào sống theo cách của nó được.

    Ở trường, nó ung dung đi đi lại lại ở hành lang cùng đám bạn, quan hệ rất rộng, còn tôi chỉ biết cô đơn đứng một góc. Đầu óc tôi bẩm sinh đã hay tính toán này khác, thầy cô giáo nói tôi hòa đồng, vui vẻ nhưng tôi chưa bao giờ có một người bạn thật sự. Có nhiều người trò chuyện thân thiết với tôi, có lẽ họ coi tôi là bạn tốt nhưng tôi không thể mở lòng với bất cứ ai, thậm chí còn nhìn họ với ánh mắt xa lạ.

    Em tôi thì trái lại, nó không như tôi - một kẻ "luôn cố thể hiện mình tốt đẹp" và phải ra sức pha trò để che đậy bản chất. Kazuya rất thẳng thắn, về điểm này thì nó lành mạnh hơn hẳn tôi.

    Nhưng tôi lại được lòng mọi người hơn thằng em, có lẽ do cái mặt nạ hiền hòa dễ chịu. Nếu Kazuya vì thế mà tự ti thì đó là lỗi của tôi. Tôi rất muốn xin lỗi nó, nhưng mối quan hệ của chúng tôi không đủ chân thành để có thể giãi bày mọi điều. Đáng buồn hơn là khi ở trường, tôi và nó thường ngó lơ nhau.

    Tất cả là tại tôi. Tôi tự biết những ý nghĩ xấu xa trong lòng mình. Tôi luôn nghe lời cha mẹ, cố gắng học để đạt điểm cao và giành được sự tín nhiệm của mọi người xung quanh. Em trai coi tôi như một thứ rác rưởi, không đáng để tiếp xúc và luôn ngầm lên án tôi.

    Mỗi khi tôi yên dạ vì đang cố lấy lòng ai đó, nó lại ngẫu nhiên đi qua và ném cho tôi ánh mắt khinh bỉ, chế nhạo bộ dạng đáng cười của tôi. Tôi bỗng cảm thấy như đất trời sụp đổ, mọi âm thanh ầm ầm dội vào tai.

    Có mấy nam sinh đang đứng chắn trước máy bán hàng tự động trong trường, họ không định mua gì, chỉ đứng đó tán chuyện. Tôi muốn mua đồ nhưng lại không muốn làm phiền họ; nếu tôi đưa ra yêu cầu, họ sẽ vui vẻ tránh ra và nhường chỗ cho tôi hay sẽ tỏ vẻ khó chịu? Bấy giờ tôi nên làm gì? Tôi đành đứng cách xa cái máy bán hàng tự động, giả bộ đọc những tờ báo tường nhạt nhẽo vô duyên.

    Lúc này Kazuya bước lại gần, nó không do dự gạt mấy cậu kia sang bên, nhét tiền xu vào máy rồi cầm lon nước uống quay ra. Thấy tôi, nó dường như thừa biết tại sao tôi lại đứng đọc báo tường, liền mỉm cười đầy ngụ ý rồi khệnh khạng bước đi.

    Đúng là Kazuya đã biết bí mật về tôi. Nó biết thằng anh rất được hoan nghênh, rất nghiêm chỉnh, cư xử rất tốt với mọi người của nó kỳ thực là một thằng giả tạo, hời hợt, rón rén vô lối, đến nỗi không đủ can đảm để mở lời với mấy cậu học sinh đang đứng chắn ngang cái máy bán hàng tự động.

    Chẳng rõ bắt đầu từ khi nào, dù ở trường hay ở nhà, hễ hai anh em chạm mặt nhau thì tôi luôn toát mồ hôi hột. Tôi sợ vì Kazuya biết bản chất của tôi. Rất có thể nó không coi tôi là anh mà chỉ là một con bù nhìn đáng khinh.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nói chung, tôi rất ít cơ hội nói chuyện với Kazuya, nhưng sáng nay, ngồi cùng bàn ăn sáng với nhau thì dạ dày tôi nhộn nhạo, lòng tôi khổ đau. Dưới ánh mắt khinh miệt của nó, tôi gần như không biết trốn vào đâu, lòng bàn tay nhớp mồ hôi không cầm nổi đũa. Nhưng như bao ngày khác, tôi vẫn giả vờ vui vẻ, tươi cười nói chuyện với cha mẹ và ăn uống ngon lành. Kỳ thực, từng miếng cơm đắng ngắt trong miệng tôi.

    Đêm đến tôi không ngủ được, luôn trằn trọc trở mình, toàn gặp ác mộng. Hễ nhắm mắt lại là tôi thấy hiện ra mấy khuôn mặt, họ đều khinh khỉnh đứng nhìn tôi như kiểu thằng em tôi, còn tôi thì dập đầu lia lịa nhận tội với họ. Những lúc tôi tỉnh dậy rồi suy nghĩ lung tung đủ thứ, tôi cảm thấy trong phòng có rất nhiều cặp mắt đang phán xét mình. Lúc này tôi chỉ ước giá như được chết luôn cho xong.

    Nếu trên đời không còn ai, tôi sẽ không còn đau khổ nữa phải không? Tôi phải lấy lòng họ bởi tôi sợ hãi sự tồn tại của họ. Bị người khác ghét, coi thường, chế nhạo, nỗi đau mà tôi không chịu đựng nổi. Để trốn tránh những điều này, tôi phải tự nuôi dưỡng trong lòng mình một con vật xấu xa. Nếu trên đời này không còn ai khác, tôi sẽ nhẹ nhõm biết mấy!

    Không, tôi không thể chịu đựng được ánh mắt châm biếm hoặc thất vọng của người khác. Không sao chịu nổi. Tôi phải nghĩ xem mình nên làm thế nào để mọi người không nhìn thấy tôi nữa.

    Tôi đã nghĩ ra một "lời nguyền" rằng, "Sau một phút nữa, hình ảnh về tôi sẽ biến mất khỏi đôi mắt anh." Sau đó tôi lại nói một lời nguyền khác, "Sau khi mắt anh không nhìn thấy tôi nữa, mọi người nhìn vào mắt anh sẽ không nhìn thấy tôi."

    Sách lược của tôi vẫn là dựa vào ma lực của giọng nói. Tôi làm cho người thứ nhất không bao giờ nhìn thấy tôi nữa, khi anh ta nhìn vào mắt người thứ hai thì mắt người này không có hình ảnh về tôi. Khi người này tiếp xúc với người

    khác thì võng mạc người ấy không thể xuất hiện hình ảnh về tôi. Tình hình này sẽ liên tục lặp lại. Mỗi khi thị giác của ai đó dính lời nguyền và nhìn vào mắt người khác độ trong suốt của tôi sẽ tăng lên. Dần dần, tôi sẽ trở thành người hoàn toàn trong suốt. Bấy giờ tôi sẽ mãi mãi yên tâm mà sống.

    Tuy nhiên, trước khi thực hiện việc này tôi cần giải quyết một vấn đề, đó là phải tách mình ra khỏi xâu chuỗi liên hoàn này, nếu không thì lúc soi gương tôi sẽ không trông thấy chính mình nữa.

    Một buổi tối, con chó ấy chết, tức là con chó mà hồi học tiểu học tôi đã đưa ra "lời nguyền" với nó nhằm đạt được chút hư vinh tầm thường. Mỗi lần nhìn thấy tôi, nó đều rất sợ hãi nên tôi chưa bao giờ yên tâm về nó.

    Nghe cha mẹ nói, tôi mới biết tin con chó ấy đã chết. Tôi lập tức đến căn nhà đó. Con chó to đùng và hung dữ ngày nào đang nằm bất động trên nền bê tông. Tôi ôm nó, bật khóc. Không hiểu sao tôi bỗng cảm thấy rất xót xa. Nhà chủ đã tránh đi để tôi ngồi lại bên con chó.

    Tôi vận hết sức lực, phát ra những âm thanh run run, ra lệnh cho con chó sống lại. Nhưng nó không động đậy, chỉ thấy mấy nhúm lông lá trên mặt đất bị gió thổi đi. Tôi muốn thể hiện nên mới đọc "lời nguyền", nhưng vô hiệu.

    Rõ ràng tôi không thật lòng thương xót con chó mà chỉ đang gắng hết sức để làm giảm nhẹ tội lỗi của mình mà thôi.

    Tôi lại nhìn mặt con chó, nhận ra hình như cuối cùng nó đã trút được gánh nặng, yên lành nhắm mắt. Thật đáng ngưỡng mộ. Cái chết, đồng nghĩa với sự giải phóng.

    Có một đêm, khi tôi tỉnh ra thì thấy mình đang đứng giữa phòng mà khóc, nắm con dao khắc gỗ trong tay, toàn thân đầm đìa mồ hôi và đang luôn miệng lặp đi lặp lại "Xin lỗi xin lỗi..." Có lẽ tôi định cứa cổ tay nhưng rồi sực tỉnh.

    Tôi nhìn cái bàn gỗ, trên mặt bàn có một vết dao rạch, dưới chân bàn có một nhúm mùn gỗ sùi lên. Tiến gần hơn thì thấy cái bàn bốc ra mùi thum thủm như mùi chuột chết.

    Tôi bèn mở ngăn kéo. Có năm ngón tay đã thối rữa gói trong tờ khăn giấy. Nhìn mấy sợi lông mọc trên đó, tôi mới nhớ ra đây là những ngón tay của cha. Hôm ấy tôi quá bối rối nên đã quẳng chúng vào ngăn kéo và quên khuấy đi mất. Vì tôi tự nhủ rằng: tay trái cha không có ngón là lẽ tất nhiên, giống như mặt trời lặn ở phía Tây vậy. Thế là tình tiết năm ngón tay cũng tan biến khỏi trí nhớ của tôi.

    Tôi đem năm ngón tay ra vườn, chôn thật sâu. Nhưng mùi thum thủm ám trên cái bàn thì không tan, trái lại còn ngày càng nồng nặc hơn. Tôi có cảm giác cái ngăn kéo có liên hệ với một thế giới khác, mùi thịt thối rữa này không ngớt bay đến từ thế giới tăm tối ấy.

    Vết dao khía trên mặt bàn ngày càng nhiều lên. Thoạt đầu là một vết, vài hôm sau thành hai vết, mấy tuần sau biến thành gần chục vết. Nhưng tôi không hề nhớ mình đã từng cầm dao rạch lên đó.

    Sáng ra thức dậy, nỗi khổ đau của tôi lại bắt đầu.

    Tôi bắt đầu có những cảm giác quái lạ. Người nấu bữa sáng cho tôi, người đặt tay trái lên tờ báo để gió không thổi lật đi mất, đều không phải người mà chỉ là con rối gỗ, lên tàu điện đi đến trường t hì người soát vé, người ngồi quanh tôi, những người tôi gặp ở sân trường, trông đều không phải là sinh vật. Tôi cảm thấy họ đều không biết suy nghĩ, giống như cái bàn đánh bi-a đã được thiết kế bóng va vào thành cao su thì sẽ bật trở lại, những phản ứng kiểu như thế không ngừng tái diễn. Da dẻ họ được thiết kế rất tinh xảo nhưng bên dưới nó là những linh kiện được chế tạo thủ công.

    Cứ như thế, tôi tươi cười với họ vì không muốn bị họ bỏ rơi. Với người nấu bữa sáng cho tôi, tôi ăn hết không bỏ thừa, đối đáp ngoan ngoãn như muốn thể hiện rằng tôi rất hiểu nỗi vất vả của người ấy. Khi đi tàu điện tôi thể hiện mình là hành khách đứng đắn mẫu mực, để thẻ ở chỗ nổi bật để các nhân viên soát vé dễ thấy. Khi đến trường, tôi thường lặng lẽ thay hoa trong lọ, như muốn nói với các bạn rằng "Lớp ta cần con người như tôi, xin các bạn đừng tẩy chay tôi". Tôi ra vẻ cắm hoa thật tự nhiên, khiến mọi người cảm thấy đây là cá tính vốn có của tôi chứ không phải tôi giả bộ làm thế.

    Càng nặn ra nhiều nụ cười tươi sáng, tâm hồn tôi càng trống vắng và ngày càng thêm sợ thằng em. Hộp sọ nhỏ bé của mọi người dù có tư duy phong phú đến mấy cũng chẳng quan tâm đến việc của tôi, chỉ riêng thằng Kazuya làm tôi hoảng loạn. Tôi thậm chí không nghe thấy hơi thở của mọi người nhưng hình ảnh của Kazuya lại hiện lên trong đầu tôi rất rõ.

    Kazuya không nói thẳng ra nhưng nó cứ nhếch mép cười khẩy, điệu cười dành cho cái nhân cách nực cười của tôi. Đây là điều tôi sợ nhất trên đời. Nét cười của nó cứ đeo bám tôi như một hồn ma, không ngừng khiển trách khiến tôi vô cùng khổ sở. Mỗi khi đi lên cầu thang trong trường, nếu xung quanh không có ai, tôi sẽ hít thở rồi đập đầu vào tường. Tôi đã làm thế mấy lần. Điều quan trọng không phải vì thằng em rất đáng ghét mà là vì chính tôi không thể tự tha thứ cho mình.

    Nhưng rõ ràng, nguồn cơn mọi đau khổ của tôi là Kazuya. Ý nghĩ này khiến tôi muốn giết nó.

    Tôi ấn nút dừng của máy ghi âm, tua lại từ đầu băng, nghe lại những nội dung vừa rồi. Người tôi run rẩy. Mắt tôi trào lệ, nhìn mọi thứ đều nhạt nhòa không rõ, cầm chặt con dao khắc và rạch mạnh thêm một vết nữa trên mặt bàn.

    Người đầm đìa mồ hôi, tôi cau mày vì một thứ mùi kinh tởm bay vào mũi, đưa đến cho tôi vô vàn tưởng tượng: có những thứ đang thối rữa bởi vô vàn vi sinh vật từ thế giới bao la vô tận ngoài kia, mùi thối tha xộc đến theo cuồng phong gào thét...

    Lòng tôi dâng trào một thứ tình cảm không thể kìm nén, tôi ngồi bên mép giường gục mặt vào hai cánh tay mà khóc, vẫn nắm chặt con dao khắc.

    ...

    Lúc tỉnh lại, tôi thấy mình ngồi bên mép giường, con dao trong tay. Tôi vẩy tay như hất bỏ một con sâu róm, con dao rơi xuống sàn. Tôi nhìn thấy trên mặt bàn có rất nhiều vết rạch. Phải đến hơn hai chục vết.

    Có thể là tôi đã rạch, nhưng tôi không nhớ ra.

    Hình như trí nhớ của tôi bị ai đó tác động và quên mất một chuyện rất quan trọng, rất đáng sợ. Tâm trạng nặng nề bất an, tôi nhìn xuống con dao khắc. Mũi dao nhuốm một thứ tà khí khiến người ta phát điên.

    Sau bữa cơm tối, Kazuya nằm ườn trên thảm trải sàn ở phòng khách xem bóng chày, một tay kê dưới đầu, tay kia cầm hoa quả nhấm nháp. Nó giơ chân lên rồi co lại duỗi ra liên tục, ngực phập phồng theo mỗi động tác.

    Phải giết nó.

    Tôi ngồi trên ghế trong phòng của mình, chờ lúc đêm khuya. Ngăn kéo bàn vẫn bốc ra mùi thịt thối. Hai bàn tay đan nhau của tôi run lên bần bật, không hề kiềm chế được.

    Tôi nhắc mình, phải giết nó, không được do dự.

    Nếu không kết liễu nó thì tôi coi như tàn đời. Ánh mắt nó xuyên thấu da thịt tôi, tiếng cười nhạo của nó văng vẳng bên tai tôi. Tôi nhắm nghiền mắt, cố hết sức bịt chặt hai tai, nhưng hình như thằng Kazuya vẫn đang chỉ vào mặt tôi, la lối vạch trần tâm địa đen tối của tôi.

    Để sống yên ổn, tôi chỉ có hai lựa chọn: hoặc là đến một miền đất hoang vu, hoặc là thằng Kazuya phải biến khỏi cõi đời này.

    Vài giờ trôi qua, đồng hồ đã chỉ gần nửa đêm. Tôi ra khỏi phòng mình, cảnh giác, rón rén đi trên hành lang, tiến về phía phòng Kazuya. Bước đến cửa phòng nó, đèn hành lang hắt bóng tôi trải dài trước mặt. Tôi nhìn bóng mình vẫn là hình người, tâm trạng rất phức tạp.

    Tôi áp tai vào cửa, xác định nó đã ngủ say liền đặt tay vào tay nắm cửa giá lạnh, hé ra một khe hẹp rồi nín thở lẻn vào trong. Phòng tối om nhưng tôi không thể bật đèn, chỉ quan sát nhờ ánh đèn hành lang.

    Đống chăn của Kazuya lùm lùm, nó đang nằm trên giường. Tôi nhẹ nhàng tiến lại bên giường, cúi nhìn thằng em đang ngủ say. Ánh sáng hắt qua khe cửa bị lưng tôi cản lại, bóng đen trùm lên người nó. Tôi ghé miệng sát tai nó, định đọc một "lời nguyền" chết chóc.

    Đúng lúc này Kazuya trở mình, cái giường phát ra tiếng kèn kẹt, còn nó thì khẽ ú ớ như sắp thức giấc. Rồi hé mắt.

    Nó nhìn ra cửa phòng đang mở và ánh đèn bên ngoài hắt vào, sau đó phát hiện ra tôi đứng bên giường.

    "Sao thế, anh?"

    Nó nghiêng đầu nhìn tôi, thân thiết hỏi. Hai tay tôi bóp chặt cổ Kazuya. Đôi vai mảnh khảnh của nó gồng cứng vì kinh ngạc. Tôi vận hết sức lực, rít to: "Mày chết đi cho tao nhờ!"

    Kazuya giơ hai tay lên như cầu cứu, mắt nó đầy sợ hãi. Nhưng có gì đó không ổn. Mọi ngày nếu tôi đưa ra "lời nguyền" thì ở sâu trong mũi tôi, mạch máu sẽ đứt "bép" một tiếng rồi máu tuôn ra. Lần này thì không.

    Tôi buông hai tay ra khỏi cổ Kazuya, kỳ lạ quá, nó không họ hàng không căn vặn gì tôi. Như không có chuyện gì xảy ra, nó lại nhắm mắt như thể vừa kết thúc một giấc mơ. Lúc bước ra khỏi phòng, tôi ngoái đầu nhìn lại, nó đã ngủ rất ngon lành.

    Một tiếng "tạch" vang lên trong đầu tôi như chiếc dây cót lên căng rồi nhả ra, tôi chạy ào về phòng mình. Nhìn lên mặt bàn, thấy chiếc máy ghi âm mini mà lúc trước tôi không để ý tới. Đó là loại máy rất rẻ tiền, bên cạnh là mấy cục pin dự phòng, giắc không cắm, có lẽ chạy bằng pin lắp sẵn trong máy. Sao tôi không chú ý đến những thứ này nhỉ? Không bình thường chút nào.

    Trong máy đang có một cuộn băng. Mình phải nghe cuộn băng này.

    Như bị ai đó ra lệnh, tay tôi vô thức ấn nút phát lại.

    Nhìn qua mặt nhựa trong suốt, băng đang quay, âm thanh đang phát qua loa là giọng nói run run vì căng thẳng của tôi.

    Sự việc bỗng trở nên phức tạp.

    Tôi không hình dung được mình đã phát cái băng này bao nhiêu lần. Người đang nghe băng này chính là tôi của vài ngày sau, hoặc vài năm sau.

    Khi nghe băng này, chắc chắn tôi đã quên những điều đã xảy ra. Nhưng tôi đã ghi âm một số "lời nguyền" cần thiết, để có thể quên hết tất cả và sống cuộc sống bình thường.

    Cuốn băng này là dành cho chính "tôi". Khi đã quên đi tất cả đã sống bình thường, tôi phải nghe lại để biết mình từng làm những chuyện gì.

    Việc anh muốn nghe băng là lẽ thường tình, vì tôi đã ghi ở cuối băng một đoạn "lời nguyền":

    "Khi định giết ai đó hoặc định tự sát, anh sẽ phát hiện thấy một chiếc máy ghi âm bỏ túi mà bấy lâu nay anh không chú ý đến, sau đó anh sẽ muốn mở cuộn băng bên trong và nghe lại."

    Có lẽ anh đang định giết người hoặc đang định tự sát bằng một cách nào đó, tôi không biết chính xác.

    Nhưng anh đang nghe băng, chứng tỏ tâm trạng của anh phù hợp với một trong những điều đó. Điều này chứng tỏ anh chưa có được cuộc sống yên ổn, vì thế mà anh buồn bã.

    Tuy nhiên tôi phải nói với anh điều này: anh không cần thiết phải giết ai khác hoặc tự sát. Lý do rất đơn giản tất cả mọi người cùng sống với anh - cha mẹ anh, em trai anh, bạn cùng lớp, thầy cô giáo và cả những người anh chưa từng gặp - không còn trên đời này nữa. Có thể chỉ còn vài người sót lại thôi, trong đó có anh.

    Ngày trước tôi từng suy nghĩ về vấn đề này, nếu hình ảnh của tôi không xuất hiện trong mọi cặp mắt trên thế giới này nữa, thì tôi nên làm gì? Chắc anh vẫn còn nhớ.

    Vào buổi sáng sau hôm con chó kia chết, tôi vẫn nặn ra nụ cười xấu xa như mọi khi. Kazuya dụi mắt, mẹ bưng đĩa trứng ốp la đặt xuống trước mặt nó. Tôi ngồi cạnh cha, cha đang cau mày đọc báo, khi giở sang trang khác thì góc tờ báo đụng vào tay tôi. Bật ti vi thì gặp ngay mục quảng cáo bột giặt thơm mát. Tôi bỗng cảm thấy không chịu đựng nổi nữa, tôi muốn giết hết tất cả mọi người.

    Và thế là, tôi đã đưa ra "lời nguyền" này:

    "Sau một giờ nữa, đầu các người sẽ lìa khỏi cổ." Kèm với một mệnh lệnh:

    "Khi đầu các người lăn xuống đất rồi, hãy truyền lại lời nguyền trên đến tất cả những ai nhìn thấy các người."

    Đương nhiên tôi phải loại trừ bản thân khỏi lời nguyền. Đồng thời tác động đến ký ức của những người bị nguyền, để họ không nhớ gì về việc đã nghe lời nguyền của tôi.

    Sau đó tôi ra khỏi nhà.

    Một tiếng đồng hồ sau khi tung ra lời nguyền, tôi đang có mặt ở trường. Lớp học của Kazuya bỗng trở nên hỗn loạn, khi chạy sang, tôi nhìn thấy đầu nó nằm dưới đất đám học sinh và các thầy cô đang vây quanh vũng máu, ai nấy mặt mày tái nhợt.

    Đó là cái đầu có ma lực, ai nhìn thấy nó thì sẽ chết sau một giờ nữa. Tôi lách khỏi đám đông đang gào thét, bước ra. Chắc lúc này tình hình xung quanh cha mẹ cũng tương tự.

    Lại một giờ nữa trôi qua. Trước xe cảnh sát và đám đông dân chúng, đầu của mấy chục người từng nhìn thấy cái đầu của Kazuya trên mặt đất đều đồng thời rụng như sung, lăn lông lốc. Cả đống đầu người đột ngột văng ra khắp nơi, không ai kịp kêu một tiếng. Số người chứng kiến cảnh này đông gấp trăm lần.

    Đám đông kinh hoàng và hỗn loạn. Máy quay phim của đài truyền hình đã đến hiện trường, những cái đầu sẽ rơi sau một giờ nữa kiểu gì cũng lọt vào chương trình phát sóng trực tiếp. "Lời nguyền" của tôi sẽ lan truyền qua màn hình để lấy đầu vô số người.

    Chập tối hôm đó, phố phường im phăng phắc, vạn vật đổ bóng thật dài dưới ánh hoàng hôn. Tôi bước đi trên con đường nhuộm tà dương đỏ rực, nồng nặc mùi máu tanh, xác người nằm la liệt khắp nơi. Lời nguyền của tôi còn có tác dụng đối với động vật, côn trùng, bởi vậy xác chó, mèo, gián không đầu nằm đầy mặt đất.

    Hình như có rất nhiều nơi xảy ra tai nạn giao thông, khói đen đang bốc lên ở bốn phương tám hướng. Hầu như toàn bộ ti vi đều mất tín hiệu, nhưng thỉnh thoảng tôi vẫn thấy một người dẫn chương trình không đầu nằm gục trên bàn.

    Chẳng mấy chốc, đèn điện trên đường phố đều tắt ngấm, chắc là nhà máy điện không còn người vận hành nữa. Toàn thế giới đều như vậy.

    Mình tôi bước đi trên đường phố tối đen. Chắc chắn ngoài tôi ra, các sinh vật khác đều đã chết sạch. Đâu đâu cũng có xác người, mặt đường bẩn thỉu vô cùng.

    Những chiếc ô tô đâm vào nhau vẫn đang nghi ngút khói đen. Trong một chiếc xe có người chết trên ghế lái, đầu vẫn liền với thân. Có lẽ người ấy chết vì tai nạn giao thông trước khi nhìn thấy đầu ai khác rơi xuống đất.

    Trên bầu trời tĩnh lặng thấp thoáng những đốm sao. Ngồi trên cầu vượt bắc ngang qua đường, tôi ngẩng nhìn bầu trời. Kỳ lạ thay, tôi chẳng hề cảm thấy lương tâm cắn rứt. Nhưng sau khi tôi gặp một phụ nữ thì khác.

    Lúc ấy, tôi bỗng nghe thấy tiếng bước chân ở đâu đó vọng đến, rất nhẹ, lẫn với tiếng kêu cứu. Tôi nhìn xuống bên dưới. Một chiếc xe gặp nạn vẫn đang bốc cháy, ánh lửa soi rõ một phụ nữ trẻ đang run rẩy bước đi.

    Không thể tin được. Tôi liền cất tiếng gọi.

    Nghe thấy âm thanh của con người, vẻ mặt cô tỏ ra yên tâm, rồi cô ta ngẩng đầu về hướng tôi đang ngồi.

    Tôi lập tức hiểu ra lý do cô vẫn còn sống. Vì cô là một người mù. Một con người bất hạnh.

    Toàn thân run bắn, tôi liền quay đầu bỏ chạy như điên. Lòng tôi ngập tràn cảm giác tội lỗi, nhưng thế giới này không thể trở lại như trước được nữa.

    Tôi đau khổ suốt một thời gian dài giữa vô vàn xác người rữa nát, không sao chịu đựng nổi.

    Rồi tôi quyết định phải quên đi tất cả. Tôi bắt mình phải sinh ra những cảm giác sai lệch để phớt lờ thực trạng, quên đi miền đất bao la chìm trong chết chóc để tiếp tục sống trong cái thế giới ngày trước. Tôi quyết định ghi vào cuốn băng này "lời nguyền" cuối cùng:

    "Mỗi khi cầm con dao khắc rạch một vết trên mặt bàn, anh sẽ cảm thấy mình đang sống trong thế giới bình thường ngày trước. Ăn, ngủ, giữ sức khỏe, duy trì hoạt động của sự sống, những điều này không ảnh hưởng đến ý thức của anh. Anh phải cho rằng mình vẫn đang sống như trước kia."

    Tôi còn tính cả đến việc loại cái bàn trong phòng tôi ra khỏi các điều kiện, nên tôi lại đưa ra "lời nguyền" như sau: "Các giác quan của anh không đánh lừa nổi cái bàn." Tức là, dù tôi sống cuộc sống ảo tưởng thì cái bàn vẫn gắn liền với thế giới hiện thực.

    Có phải khi nghe cuốn băng này, anh thấy rất hối hận và muốn quên đi tất cả một lần nữa, để trở lại chính mình trước lúc nghe băng không? Nếu đúng là thế thì anh chỉ cần rạch một vết trên mặt bàn là được.

    Cái bàn là thật chứ không phải ảo giác của anh. Anh có thể đếm những vết rạch để biết mình đã nghe băng và tự xóa trí nhớ bao nhiêu lần. Hiện nay trên mặt bàn đã có bao nhiêu vết rạch rồi?

    Phần sau của cuốn băng này còn có một đoạn tự bạch. Hình như ngày ấy tôi muốn thông qua cuốn băng để đưa ra "lời nguyền" tác động đến trí nhớ của chính mình.

    Tôi cúi sát mặt bàn rồi ngửi. Từ những vết rạch, từ trong ô ngăn kéo, bốc ra thứ mùi khắm thối ẩm ướt. Thế giới hiện thực chỉ còn là thứ mùi thum thủm phả vào thế giới mình tôi nhìn thấy.

    Tôi ngồi ở một phía đầu giường, tưởng tượng. Trong cái thế giới đầy mùi thối rữa này, chỉ có mình tôi mặc đồng phục học sinh đi học. Bước đến cửa ga tàu điện, tôi giơ cao tấm vé thể hiện mình là hành khách không gian, rồi ngồi trên tàu điện lắc lư theo đường cũ đến trường. Tôi giẫm lên vạn vật đã mục nát, lặng lẽ đi qua cổng trường.

    Tôi giả vờ tươi cười bước vào lớp học chưa quét dọn vệ sinh để không bị ai ghét bỏ. Ngồi trong lớp, tôi mơ một giấc mơ, mơ thấy các bạn đang nói cười inh ỏi, thầy giáo bực mình yêu cầu giữ trật tự. Nhưng thực tế là tôi đang ở trong một lớp học chết, ngồi đúng chỗ của mình. Đầu tóc tôi bù xù, ánh mắt trống rỗng, nhưng vẫn cố thể hiện nét mặt tươi tắn. Càng làm thế, tôi càng giống một loài động vật. Không còn là con người.

    Có người gõ cửa phòng, tôi đáp lại. Mẹ đẩy cửa, tay ôm chậu hoa bìm bìm. "Con vẫn thức à? Mau ngủ đi chứ?"

    Mẹ nói rất tự nhiên. Như thể bà vẫn đang sống, nhưng thật ra tất cả đã chết rồi.

    Trên đời này chỉ còn lạ mình tôi. Nghĩ đến đây, lòng tôi thắt lại.

    "Tay con đang lau nước mắt đấy ư? Sao vậy? Trong người khó chịu à?"

    Tôi lắc đầu, thì thầm lời xin lỗi. Tôi khóc không phải vì mệt mỏi mà vì cảm giác yên tâm. Cuối cùng tôi đã đến với thế giới chỉ có mình tôi mà đêm đêm hằng mơ thấy.

    Cõi lòng tôi tĩnh lặng trở lại.


  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10

    Trên máy bay sắp rơi



    "Này cô, cô có tin lời tiên tri của Nostradamus không?"

    Đang ngắm những làn mây trôi qua cửa sổ, nghe tiếng hỏi, tôi bèn quay lại. Người hỏi tôi là hành khách nam ngồi bên phải, trên mình là bộ âu phục màu ghi bình thường mà nếu đi ngoài phố năm phút có thể bắt gặp năm người đang mặc. Anh ta tầm 30 tuổi, trạc tuổi tôi.

    "Chắc anh đang nhắc đến lời tiên tri trái đất sẽ bị hủy diệt vào năm 1999?" Tôi hỏi lại. Anh ta gật đầu.

    "Tôi biết, hồi nhỏ tôi có nghe về nó. Hơi bất lịch sự nhưng..." Qua các khe ghế, tôi nhìn về phía đầu kia của lối đi.

    "... Nhắc đến lời tiên tri ấy lúc này có vẻ không hay ho cho lắm nhỉ?" "Giờ mới là lúc nên nói về nó."

    Máy bay bố trí ba ghế hành khách cạnh nhau. Tôi ngồi ghế sát cửa sổ, người đàn ông này ngồi ghế giữa, ghế sát lối đi thì bỏ trống. "Anh đang tán tỉnh tôi đấy à?"

    "Không, tôi đã kết hôn nhưng hai vợ chồng đang sống riêng." Anh ta hơi nhún vai.

    "Tôi từng tin lời tiên tri đó sái cổ, cứ nghĩ đến việc nhân loại sẽ diệt vong vào năm 1999, bao gồm cả mình."

    "Tôi cũng vậy, tôi đã biết lời tiên tri đó từ năm tiểu học, Tôi sợ đến mức không ngủ được. Lời sấm truyền này khiến tôi cứ tưởng tượng ra cảnh mình và cha mẹ sẽ chết trong khi trước đó, cái chết thực sự rất xa lạ. Hồi đó tôi tính chỉ sống đến năm 1999, vừa tròn 21 tuổi."

    Anh ta nhướng mày đầy ngạc nhiên y như biểu cảm của một người dẫn chương trình truyền hình.

    "À, hóa ra chúng ta bằng tuổi."

    "Vậy ư? Đó, thực ra tôi luôn nghĩ mình có thể sống đến 21 tuổi."

    "Nhưng cuối cùng thì trái đất vẫn không bị hủy diệt. Có thể là tôi hơi cường điệu nhưng tôi có cảm giác đời tôi kể từ thời điểm ấy là sống thêm." Anh ta bùi ngùi nói.

    Chúng tôi đang ngồi ở phía đuôi máy bay, bên trái tôi là ô cửa sổ hình vuông, ngoài kia là bầu trời xanh. Những tầng mây bông xốp trải rộng tựa vô số đàn cừu tụ tập trên cao thật cao, khung cảnh bình yên như thiên đường.

    "Ngồi thế này hơi mỏi."

    Anh ta mỉm cười. Từ nãy đến giờ chúng tôi toàn khom lưng về phía trước như nấp xuống dưới ghế, ngồi sát nhau nói chuyện khe khẽ. Lưng đau quá.

    "Giá mà được vươn vai một cái thì tốt."

    Anh ta tỏ ý tán thành. Anh ta ghé sát mặt vào giữa hai ghế, tiếp tục thì thầm: "Trước khi lên máy bay, tôi vẫn đang nghĩ: những đứa trẻ ra đời sau năm 1999 sẽ nghĩ thế nào về cái chết? Có lẽ quan niệm về sống chết của chúng khác

    với chúng ta. Sau khi chúng ta trưởng thành, dù thời thơ ấu hạnh phúc đến mấy vẫn có cảm giác mình phải chịu đựng lời nguyền, bị lời tiên tri ám ảnh. Kể cả có cho rằng trái đất không thể bị hủy diệt thì vẫn có mối lo "lỡ vẫn xảy ra sao." Còn những đứa trẻ sinh sau năm 1999, tôi nghĩ chú chẳng có thì giờ để nghĩ đến những chuyện như kiểu trái đất bị hủy diệt và mình sẽ chết."

    "Không hẳn. Hiện nay tai nạn giao thông tràn lan, môi trường bị phá hủy nghiêm trọng, kể cả không ép chúng suy nghĩ về chết chóc theo lời tiên tri Nostradamus thì trong quá trình trưởng thành, tự nhiên chúng vẫn nghĩ đến cái chết. Tôi mong chúng tư duy nhiều hơn."

    Anh ta nhìn tôi.

    "Vâng, có lẽ cô nói đúng."

    Dứt lời, anh ta lại nhìn qua khe giữa các ghế, quan sát tình hình phía trước. Rồi anh mỉm cười như tự chế nhạo mình. Máy bay bỗng hơi nghiêng đi, có thể nghe thấy tiếng những lon đồ uống rỗng lăn lông lốc. Chúng cứ lăn lạch cạch mỗi lúc máy bay nghiêng.

    "Nhưng tôi chưa từng nghĩ mình sẽ chết vì máy bay rơi. Cô đã nghĩ đến bao giờ chưa? Trong khoảng một giờ nữa, có thể máy bay sẽ rơi ở đâu đó."

    "Thế thì gay nhỉ. Tôi còn nhiều việcl phải làm ắm, tôi không muốn chết."

    Tôi nhún vai, rồi ngẩng đầu lên, nhìn tình hình phía trước qua khe hở giữa các lưng ghế.

    Nếu đang là dịp năm mới hoặc lễ Obon thì máy bay sẽ kín chỗ, nhưng lúc này chỉ một nửa số ghế có người ngồi.

    Tên tội phạm vẫn cầm súng đứng ở lối đi hẹp giữa hai hàng ghế.

    Cách đây nửa giờ, máy bay cất cánh, ngay sau đó bị không tặc khống chế. Một thanh niên trông có vẻ là sinh viên đang ngồi bỗng đứng lên mở khoang hành lý lấy đồ. Thấy vậy, một nữ tiếp viên bước đến nhắc nhở anh ta, "Làm thế rất nguy hiểm, mời anh ngồi xuống ghế." Người khách bèn lấy ra một thứ trông như khẩu súng chĩa vào cô.

    "Mặc kệ tôi, mặc kệ tôi. Tôi... tôi..."

    Người khách nói năng ấp úng chẳng đâu vào đâu. Anh ta mặc chiếc áo len cũ sần sùi, khoác chiếc áo khoác trắng bẩn thỉu, tóc có những nếp xoăn tự nhiên rất rỡ, bù xù như vừa ngủ dậy, có sợi dựng đứng như ăng ten. Bàn tay cầm súng run bần bật, nhưng khẩu súng thì rất giống súng phun nước.

    "Tôi không thể mặc kệ, vì đây là chức trách của tôi."

    Hình như cô tiếp viên coi đó là khẩu súng đồ chơi nên không thèm bận tâm mà vẫn rất kiên quyết. Anh chàng có phần nao núng, chuẩn bị ngồi xuống. Nhưng cô tiếp viên không chịu buông tha. Cô nói với tư thế của người chiến thắng:

    "Anh nên xem lại mình đi, tín hiệu thắt dây an toàn vẫn bật thì anh đã đứng lên, tôi không hiểu nổi nữa. Còn quần áo của anh, chắc anh nên đọc vài quyển tạp chí thời trang mà học tập đi. Trông luộm thuộm quá thế!"

    Nghe cô tiếp viên phê bình, mọi người trong khoang đều ném cho anh ta cái nhìn chế nhạo. Anh ta ngượng nghịu cúi đầu, nhìn áo quần của mình, sau đó chĩa súng vào cô tiếp viên, bóp cò. Một tiếng nổ đanh gọn, cô tiếp viên gục xuống lối đi. Toàn bộ hành khách bỗng tái nhợt mặt, ngồi bất động trước sự việc bất ngờ. Anh chàng trông như sinh viên ấy đi về phía buồng lái.

    "Cấm nhúc nhích, nếu không tôi sẽ nổ súng. Bây giờ tôi có chút việc cần nói với cơ trưởng rồi sẽ quay lại. Xin lỗi vì đã làm phiền!"

    Anh ta vừa đi vừa nói, đầu cúi gằm, trông có vẻ bất an. Đúng lúc này một người đàn ông ngồi hàng ghế trên đứng lên, ông ta đóng bộ âu phục rất phẳng phiu nghiêm chỉnh.

    "Cậu chờ đã."

    Giọng ông ta sắc bén, có sức mạnh hơn hẳn cô tiếp viên vừa nãy. Anh "sinh viên" sửng sốt, nghi hoặc đứng lại.

    "Có, có việc gì à?"

    "Lại là cậu gây chuyện! Ở lễ hội pháo hoa, cậu dọa dẫm phục vụ viên, còn chưa thèm xin lỗi người ta."

    "Tôi chẳng hiểu anh nói gì." Anh "sinh viên" trả lời người đàn ông nghiêm nghị ấy, và trầm trồ. "Bộ com lê của anh rất chuẩn, chắc anh đã học đại học rồi vào làm ở một công ty lớn chứ gì?"

    Người đàn ông khẽ "hừ" một tiếng, đưa tay nắn chỉnh cổ áo, "Phải, rõ ràng là thế. Tôi tốt nghiệp đại học T, có biết đại học T không? Đại học Tokyo ấy?"

    Anh "sinh viên" bắn luôn ông ta, sau đó ngoảnh lại nhìn một lượt, hỏi ở đây còn ai tốt nghiệp đại học T, nhưng không thấy ai nhúc nhích. Sau khi anh ta đi vào buồng lái, khoang hành khách ồn ào như chợ vỡ. Lát sau anh ta trở ra, tất cả lại im phăng phắc.

    "Các vị hãy yên lặng nghe tôi nói. Hành khách trên chuyến bay này đều đang đi về quê hoặc đi du lịch, tôi biết tôi đã gây phiền phức cho các vị. Bây giờ, điểm đến của máy bay này không phải sân bay Haneda mà là đại học T."

    Anh ta ngừng lại như chờ cho mọi người tiếp nhận thông tin rồi tiếp tục nói: "Tính từ lúc này, còn khoảng một tiếng rưỡi nữa máy bay sẽ lao xuống. Tôi mong mọi người sẽ chết cùng tôi. Tôi đã thi đại học T năm lần nhưng đều thất bại. Bây giờ tôi chỉ còn một con đường chết mà thôi!"

    Thì ra anh chàng trông có vẻ giống sinh viên này không phải sinh viên mà chỉ là một gã vô công rỗi nghề.

    Đám hành khách chúng tôi sắp trở thành những kẻ bị chôn theo trong vụ tự sát của hắn.

    Lại một tiếng súng nữa, tôi và người khách mặc âu phục bình dân ngồi bên cạnh cùng nhìn lên phía trước. Tên không tặc cầm súng đang nhăn nhó nhìn cái xác.

    "Chết thật, tôi đã nói là cấm động đậy, sao anh lại động đậy?"

    Nói xong, hắn nhìn khắp lượt hành khách đang bịt tai trước tiếng súng, ngượng nghịu nói "Xin lỗi." Có không ít hành khách đang định thừa cơ xông ra tước đoạt khẩu súng trong tay hắn, họ đã nhổm dậy chuẩn bị tấn công hắn từ phía sau lưng. Còn hắn thì rậm rịch tiến lui ở lối đi, vẻ không yên tâm, dù bộ dạng thì hùng hổ như muốn nói "Các người thử làm gì ta xem?" Ai cũng cho rằng rất dễ hạ gục hắn, ngay một người mảnh khảnh như tôi còn nghĩ thế. Xem ra hắn có đặc tính của một kẻ hay bị bắt nạt, kiểu hung hăng rởm này rất đáng bị ăn đòn.

    Nhưng không hiểu sao, những người định nhào vào hắn, mỗi lần đứng lên đều giẫm phải một cái lon rỗng và trượt chân, cuối cùng ăn đạn của hắn rồi ngã gục.

    Hễ máy bay hơi nghiêng thì những cái lon đồ uống rỗng không lại lăn ra lối

    đi làm người ta trượt ngã rồi lăn vào một gầm ghế nào đó. "Thằng nhãi này có thần hộ mệnh thì phải?"

    Một hành khách nấp sau lưng ghế hàng trên nói. Để tránh đạn lạc, phần lớn hành khách đều cúi thấp đầu xuống.

    "Tại sao ai cũng giẫm phải lon đồ uống thế? Chắc là đang mải liều mạng cho nên không chú ý..."

    Nếu tên không tặc kia nhìn thấy hai chúng tôi đang nấp ở đây thì thầm, hắn sẽ làm gì nhỉ? Nhưng chỉ cần cúi đầu nấp sau lưng ghế thì chắc sẽ không bị hắn phát hiện ra.

    "Giẫm lên lon rỗng mà không trượt chân, hóa ra là hồn ma không chân à?!

    Một thằng cha tự sát mà kéo theo cả đống người, rõ thật là..." "Liệu máy bay này có bị rơi thật không?"

    "Nếu ở trong tiểu thuyết thì cuối cùng nhân vật chính sẽ tung chưởng đánh bại thằng cha kia!"

    "Liệu chúng ta có được cứu không?"

    "Chịu. Nếu đưa vào truyện ngắn thì không có kết cục mỹ mãn thế đâu, chúng ta sẽ chết sạch! Toàn bộ hành khách sẽ được trải nghiệm nỗi kinh hãi tuyệt vọng khi máy bay lao xuống trường đại học T."

    Nói xong anh ta giơ ngón tay trỏ vào trán mình, lắc đầu vẻ bế tắc. Động tác này trông hơi hài hước. Tôi thở dài. Vì có mục đích nên tôi mới lên chuyến bay này, nào ngờ lại gặp không tặc.

    Chết vì máy bay rơi! Thật đáng ghét! Từ bé tôi vẫn mơ ước được chết an lành yên ổn, thậm chí khi nhìn thấy sao băng, tôi còn cầu nguyện, "Cầu mong con được chết nhẹ nhàng, không kết hôn cũng được..."

    "Tôi không muốn chết như thế đâu. Nên làm gì bây giờ?"

    "Ừ, đúng! Máy bay rơi thì đau đớn lắm. Hộp sọ sẽ vỡ tan, tim gan phèo phổi văng tung tóe, có khi còn bị cháy thui. Chẳng dễ chịu chút nào."

    "Ít nhất thì chết cũng nhanh, chỉ trong nháy mắt là được giải thoát." "Cô nghĩ đơn giản thế!"

    Giọng anh ta rất chắc chắn nhưng vẫn chỉ là nói thầm, tên kia không thể nghe thấy.

    "Không có chuyện đó đâu. Chúng ta còn chưa biết chuyện gì sẽ xảy ra. Có thể tất cả sẽ bình an vô sự, mà có thể chúng ta sẽ bị một cái cọc xuyên thủng bụng, rồi nằm phơi thây hấp hối vài tiếng đồng hồ."

    Tưởng tượng ra những cảnh hành hạ đau đớn đó, tôi vã mồ hôi, suýt nữa thì nôn ọe.

    "Nếu được chết một cách êm ái thì tốt quá."

    Nghe tôi lẩm bẩm đến đây, anh ta khẽ búng ngón tay thằng cha kia vẫn không nghe thấy, rồi mỉm cười.

    "Tôi vẫn chờ câu nói này của cô!"

    Tôi ngồi nhích ra xa anh ta một chút, căn vặn:

    "Anh làm trò gì thế? Tự nhiên đang yên đang lành lại búng tay!"

    "Xin lỗi, tôi còn chưa nói xong mà! Thực ra tôi làm nghề tiếp thị." Anh ta lục túi áo vét lấy ra một thứ gì đó, rồi xáp lại gần tôi.

    "Cô nhìn cái này đi!"

    Tay anh ta cầm một bộ kim tiêm, trong ống tiêm có một thứ nước trong vắt. "Chỉ cần tiêm thuốc là chết ngay lập tức, không hề đau đớn. Hàng chỉ còn một mũi duy nhất, cô có mua không?"

    Hình như lại có người nhào lên cướp súng của tên không tặc. Trong khoảng hành khách lại có tiếng lon lăn lạch cạch và tiếng súng nổ.

    "Trong này... là thuốc chết êm ái?"

    "Cô nói đúng. Tiêm mũi thuốc này tự sát trước khi máy bay lao xuống, thế là chết luôn, khỏi phải sợ hãi gì hết. Thuốc này rất thích hợp với tình thế hiện giờ của cô. Nếu định mua thì mua luôn đi!"

    "Sao phải thế?"

    "Vì tiêm xong ba mươi phút thuốc mới có tác dụng. Giả sử một tiếng nữa máy bay rơi, thì cô nên mua trong khoảng ba mươi phút sau đây, rồi tiêm vào người. Chậm trễ quá thuốc chưa phát huy tác dụng thì cô đã lao cùng máy bay xuống đại học T rồi, vì thế cô nên quyết định sớm đi."

    "Anh là thần chết hay gì gì đó à?"

    "Tôi chỉ là một nhân viên tiếp thị bình thường thôi, nhưng chắc cô thắc mắc, tại sao một người như tôi lại có thuốc này đúng không? Để tôi nói cô nghe: thực ra tôi định dùng cái này để tự sát."

    Anh ta lại cất bộ bơm tiêm vào túi áo vét. Rồi, chậm rãi kể cho tôi nghe với ánh mắt bâng khuâng xa vắng...

    "Từ thời niên thiếu tôi đã ao ước được làm nghề tiếp thị, nghe rất kỳ quái phải không? Thầy giáo cũng từng bảo tôi kỳ quái đấy. Hễ ai hỏi làm tiếp thị có gì hấp dẫn, tôi đều trả lời: Được nói chuyện với mọi người, rồi bán hàng cho họ, khiến tôi hạnh phúc."

    "Và ước mơ trở thành hiện thực, anh theo nghề nhân viên tiếp thị?" Anh ta gật đầu, nhưng vẻ mặt không mấy nhẹ nhõm.

    "Tuy là thế nhưng năng lực của tôi lại rất kém cỏi. Tôi đã làm việc suốt mười năm nhưng những người vào nghề sau đều vượt qua tôi, vị trí của tôi trong công ty còn thấp hơn cả nhân viên mới. Vợ tôi chán quá nên bỏ về nhà mẹ đẻ ở Tokyo."

    "Và anh tuyệt vọng, quyết định tự sát?"

    Anh ta gật đầu, "Tôi đã bỏ ra số tiền khá để mua thuốc của một người quen làm bác sĩ."

    "Tay bác sĩ ấy thực quá đáng!"

    "Ông ta già rồi nên hơi lẩm cẩm. Sau khi mua được thuốc, tôi lên chuyến bay này để tìm nơi tự sát."

    "Tức là, xuống máy bay rồi, anh sẽ đến một nơi nào đó để tiêm thuốc này?" "Tôi định tự sát trước cửa nhà mẹ vợ, tôi muốn chơi khăm cô vợ tôi. Khi cô ta ra ngoài, nhìn thấy xác tôi chắc sẽ rất kinh hãi. Nhưng hơi mất mặt, nhất định những người xung quanh sẽ chế nhạo tôi."

    "Sao anh nỡ gây phiền hà cho người ta như thế?"

    "Kệ tôi, đừng nhúng mũi vào chuyện của tôi. Nhưng kế hoạch đã bị đổ bể vì cái thằng không tặc kia. Hiện giờ tôi chỉ có bộ bơm tiêm này trong áo vét. Cô nghĩ xong chưa, có muốn mua không? Sự thể đã đến nông nỗi này, nguyện vọng cuối cùng của tôi là làm một người tiếp thị bán được hàng cho người khác. Cô có thể mua để giúp tôi thỏa mãn nguyện vọng cuối cùng không?"

    Giọng nài nỉ như một con chó nhỏ ướt sũng nước mưa của anh ta làm tôi ái ngại. Tôi suy nghĩ, rồi cảm thấy mua cũng chẳng sao.

    "Nhưng chắc đắt lắm nhỉ? Bao nhiêu tiền?" "Ví cô có bao nhiêu?"

    Tôi thận trọng rút ví ra, cố không để đầu bị nhô lên, rồi mở ví cho anh ta xem.

    "Ba tờ một vạn yên, còn lại toàn tiền lẻ. À, thẻ ngân hàng nữa, trong này có bao nhiêu?"

    "Xấp xỉ ba triệu yên."

    "Tức là có ba triệu và ba vạn?"

    "Thế thì quá đắt! Đây là toàn bộ tài sản của tôi."

    "Cô sắp chết rồi, giữ tiền để làm gì? Đưa tôi tấm thẻ này được không? Cả mã thẻ nữa."

    "Thì ra là thế. Tôi hiểu rồi. Anh và tên không tặc kia là đồng bọn? Các người cướp máy bay, rồi rao bán thuốc tự tử với giá cắt cổ!"

    Anh nhân viên tiếp thị không nhịn được cười. "Để lừa bán thuốc mà phải giết cả người ư?"

    Anh ta hất hàm về phía xác cô tiếp viên gục giữa lối đi.

    "Thôi được, tôi tin anh. Nhưng liều thuốc này không đáng giá toàn bộ tài sản của tôi. Bán một vạn yên thì tôi mua. Mà thế là hơi đắt rồi đấy."

    Thực ra trong thâm tâm tôi rất muốn có ngay liều thuốc này. Đã chết rồi thì tiền chỉ như tờ giấy lộn. Kể cả có đưa thẻ thì anh ta cũng đâu còn cơ hội thoát khỏi chiếc máy bay sắp đâm xuống đất mà đi rút tiền nữa? Nhưng tôi rất cố chấp.

    "Ba triệu lẻ ba vạn yên là món tiền quá lớn!"

    "Trong tình thế này mà cô còn định ép giá à? Dám trả có một vạn! Nếu bán cho cô thì tôi chết không nhắm mắt."

    "Tôi không bận tâm anh chết có nhắm mắt hay không. Ý nghĩa cuộc sống của tôi là mặc cả! Ngày nào tôi cũng mặc cả từ hàng rau quả đến quầy thịt cá. Đây là thú vui duy nhất của tôi. Mỗi ngày mở miệng tôi đều mặc cả. Tôi viện cớ rau có sâu, thịt mỏng, cá nhỏ... và cả đống nhược điểm để bắt người ta hạ giá."

    "Thế thì cuộc sống của cô ảm đạm quá! Ở nơi làm việc, cô không nói chuyện với ai à?"

    "Không! Tôi làm thêm ở quán cà phê truyện tranh, nhưng dù có ai hỏi tôi cũng phớt lờ, tính tôi nó thế. Tôi cảm thấy ai cũng đáng sợ, cho nên đã ngần này tuổi rồi mà vẫn độc thân."

    "Thực đáng tiếc, sao lại thế nhỉ? Trông cô rất xinh." "Tôi biết tại sao đấy."

    "Vậy mà không nói."

    "Thực ra tôi từng bị vết thương tinh thần, từ đó tôi rất sợ người khác, nhất là nam giới. Ngày trước tôi đã bị một gã đối xử rất tồi tệ."

    "Đối xử tồi tệ?"

    "Phải! Rất tồi tệ. Tôi từng do dự xem có nên viết thành sách hay không."

    Anh ta có vẻ tò mò, thế là tôi thấp giọng kể cho anh ta nghe chuyện mình bị ngược đãi thời học phổ thông. Cho đến giờ tôi vẫn nhớ như in cả họ tên lẫn bộ dạng của kẻ đã gây tổn thương thể xác và tâm hồn tôi.

    Nghe xong, trán anh tiếp thị lấm tấm mồ hôi, tay bưng miệng như sắp nôn ra đến nơi còn mắt thì đỏ hoe.

    "Tàn nhẫn quá! Có một cuốn tiểu thuyết kinh dị chính cống, trong đó kẻ tội phạm là một cô gái trẻ, cô ta phạm tội để trả thù việc bị cưỡng bức. Câu chuyện của cô tăm tối y như cuốn tiểu thuyết đó vậy."

    "Vậy sao? Thực ra mấy hôm trước thám tử đã giúp tôi dò ra nơi ở của tên đó.

    Nghe nói hiện nay gã đang ở Tokyo." "Cô tìm gã làm gì?"

    "Còn phải hỏi à? Đương nhiên là để trả thù. Thám tử nói hiện nay gã đã có vợ con, tôi đâu thể cho phép gã sống hạnh phúc ung dung như vậy? Thế nên tôi mới lên chuyến bay này, xuống sân bay Haneda rồi tìm đến tận nhà, hành hạ con gã trước mặt gã."

    "Cô làm thế mới là gây phiền hà cho người khác."

    "Kệ tôi, đừng nhúng mũi vào chuyện của tôi."

    Trong khoang máy bay lại có tiếng lon đồ uống và tiếng súng. Chúng tôi không thò đầu lên nhưng thừa biết chuyện gì đã xảy ra. Lại có ai đó định nhào ra cướp súng của tên không tặc nhưng giẫm phải cái lon rỗng, trượt chân, sau đó bị hắn bắn chết.

    "Nhưng tôi phải nhắc lại: kể cả cô thích mặc cả đi chăng nữa thì một vạn cũng quá bèo."

    "Sắp hết đời rồi, tôi không muốn mua trong tình thế bị người ta thừa cơ lợi dụng. Lão bác sĩ kia bán cho anh bao nhiêu tiền?"

    "Tôi phải chi cho lão lẩm cẩm ấy ba triệu? Thuốc này là hàng cấm nên mới đắt khiếp như thế! Nhưng nó vừa khít với số tiền trong thẻ ngân hàng của cô, hai bên trao đổi cho nhau là công bằng."

    "Làm sao tôi tin anh được? Có thể anh chỉ mua ba trăm bạc nhưng nói vống lên là ba triệu."

    Tôi nhìn vào mắt anh tiếp thị, muốn xác định xem có nói khoác không. Anh ta lập tức né tránh ánh mắt của tôi, giống như đứa trẻ đã cắp mấy đồng tiền lẻ trong ví của mẹ, có tật giật mình.

    "Nhưng, phát giá hơi cao một tí thì vẫn tốt chứ sao?" Anh ta quay mặt đi lẩm bẩm, vẫn không chịu lùi bước.

    Tôi bắt đầu suy nghĩ xem mũi tiêm này đáng giá bao nhiêu. Chắc càng sợ chết do máy bay rơi thì anh ta hét giá càng cao. Nhưng giá trị của mũi tiêm đâu phải chỉ dựa vào điều này?

    "À này, tại sao anh không dùng thuốc này cho chính mình?"

    "Vào lúc cuối đời tôi muốn tìm kiếm chút cảm giác thành tựu. Thế thôi."

    Tôi vừa tiếp tục suy nghĩ vừa nhìn về phía tên không tặc. Hắn đứng giữa lối đi, đang lóng ngóng lắp đạn vào ổ. Có hai người đàn ông đầy vẻ nghĩa khí thừa cơ chạy lên tấn công, nhưng họ trượt ngã vì giẫm phải lon đồ uống. Sau hai tiếng súng nổ, không khí yên tĩnh trở lại.

    "Chuyện chúng ta đang bàn, nên nói là một canh bạc thì đúng hơn là vụ mua bán."

    Tôi đã tỉnh táo trở lại, ngoảnh sang nói với anh tiếp thị ngồi bên cạnh. Anh ta rất kinh ngạc.

    "Anh vừa nói là thuốc này sau ba mươi phút mới có tác dụng, tôi nên sớm quyết định và tiêm trước đó mới tránh được nỗi sợ chết vì máy bay rơi. Nhưng mấu chốt là: nhỡ tiêm vào xong, tên không tặc kia lại bị người ta khống chế, máy bay vẫn đến sân bay Haneda thuận lợi, thế thì..."

    Anh tiếp thị cúi gằm, giả vờ ho khan mấy tiếng, có vẻ bối rối.

    "... Tức là tôi tiêm thuốc và chết mà không biết rằng máy bay vẫn an toàn, thậm chí không biết mình đã thiệt mạng vô ích. Còn anh thì sống sót, đến ngân hàng rút tiền của tôi tha hồ chi dùng. Anh sẽ lãi to. Anh chỉ bỏ ra trăm bạc mua thuốc từ lão bác sĩ, rồi kiếm được 2.999.900 yên!"

    "Điều này chỉ là một khả năng, nghe cô phân tích tôi mới nghĩ đến." "Nói phét!"

    "Thôi được, cứ cho là đúng như giả thuyết của cô, máy bay không rơi.

    Nhưng cô thử nhìn thằng cha kia xem: tư thế cầm súng rất thộn, có khi sắp bắn cả vào chân mình nhưng thần hộ mệnh lại che chở cho hắn nên đến giờ vẫn chưa có ai khống chế nổi. Hắn vẫn sẽ cướp máy bay. Cứ đà này thì chỉ ít phút nữa máy bay sẽ lao xuống đại học T."

    "Đừng nói bừa nữa! Anh chẳng qua chỉ muốn bán thuốc cho tôi mà thôi.

    Thực ra trong thâm tâm anh tin chắc sẽ có người khống chế hắn thành công." "Điều này thì..."

    Anh ta mỉm một nụ cười, vẻ mặt tinh quái y hệt một con cáo già.

    "Ý cô là tôi đang moi tiền chứ gì? Được thôi. Hiện giờ tôi biết tỏng suy nghĩ của cô rồi. Tức là, nếu thằng cha kia vượt qua mọi yếu tố cản trở và tự sát thành công thì cô sẽ mua, đằng nào cũng chết thì chết êm ái vẫn sướng hơn là chết do rơi máy bay. Và nếu hắn xôi hỏng bỏng không thì cô không mua, vì máy bay không rơi mà cô lại chết quá ngu ngốc."

    "Anh đúng là kẻ chẳng ra gì, cái trò bán hàng này rất hạ lưu." Tôi nhìn ra cửa sổ, ngoài kia vẫn là trời xanh và mây trắng.

    "Tuy nhiên, rất thú vị. Mua hay không mua, tôi phải quan sát tên không tặc

    kia một lúc nữa rồi tính sau. Không thể lãng phí thì giờ, lúc này chúng ta nên xác định giá cả rõ ràng đã."

    "Ừ, đúng. Vừa rồi hai bên vẫn đang mặc cả. Thực nó không phải chuyện lớn, vấn đề là ở chỗ cô có cho biết mật mã thẻ ngân hàng không."

    Anh ta nói thế khiến tôi ý thức ra rằng, sau khi tôi chết thì anh ta cứ việc lục ví tiền của tôi mà lấy ba vạn trong ví. Nhưng mật mã thẻ của tôi mới là giá của liều thuốc. Nếu có mật mã, anh ta sẽ hưởng tổng cộng ba triệu lẻ ba vạn thay vì ba vạn.

    "Chắc cô không đặt mã là ngày sinh nhật đâu nhỉ? "Thế thì sao?"

    Anh ta nhướng mày, vẻ kinh ngạc, "Cô không sợ bị lộ à? Vừa nãy tôi thấy bằng lái xe trong ví cô, nên tôi biết ngày sinh của cô. Tức là cô nhất trí giá trên ba triệu yên chứ gì?"

    "Phải! Đằng nào thì cũng sắp hết đời đến nơi." Tôi cười, trả lời. Anh ta nhe răng ra cười. "Này... Hai người có vẻ nhàn nhã nhỉ?"

    Tôi và anh tiếp thị đang ghé sát vào nhau nói chuyện thì bỗng có tiếng người vang lên trên đầu chúng tôi.

    "Từh từ, an đừng chen vào. Bọn tôi đang đàm phán một chuyện quan trọng,

    sắp sửa kết thúc."

    Anh tiếp thị ngẩng lên đáp luôn, nhưng khi nhận ra người đó là ai thì anh ta ú ớ, "Ối, xin lỗi..."

    "Không có gì, tôi làm phiền rồi. Hai người cứ tiếp tục đi!"

    Tôi dán mắt vào họng súng trên tay hắn. Người vừa lên tiếng và đang đứng giữa lối đi chính là tên không tặc!

    Bỗng ở ghế gần chỗ chúng tôi có một hành khách đứng bật dậy, người ấy cao to như một võ sĩ Judo, có vẻ như định tấn công tên không tặc. Tôi và anh tiếp thị đều ngây như phỗng, tôi tưởng tượng ra cuộc giao đấu giữa võ sĩ Judo và tên cướp máy bay còm nhom kia. Nhưng anh võ sĩ lại giẫm phải lon đồ uống chẳng rõ từ đâu lăn tới, thế là trượt chân, đầu đập trúng góc ghế và ngã đùng ra bất động. Tên không tặc đưa tay sờ vào cổ võ sĩ xem có phải đã chết rồi không.

    "Từ nãy tôi đã chú ý đến hai người rồi."

    Hắn ngồi xuống chiếc ghế bỏ trống bên cạnh anh tiếp thị. Bây giờ ba ghế liền nhau từ trái sang phải là tôi, anh tiếp thị và hắn. Tôi nhìn đồng hồ, kể từ lúc bị không tặc đến giờ, khoảng bốn mươi lăm phút đã trôi qua.

    "Tôi thấy hai người nấp ở đây nói chuyện. Thoạt đầu tôi tưởng hai người đang bàn cách cướp súng của tôi, hoặc chế nhạo đầu tóc quần áo, hoặc mỉa mai biệt hiệu các bạn tôi gán cho tôi... Nhưng sau khi quan sát kỹ, tôi thấy thái độ của hai người không giống như các hành khách khác." "Thế à? Anh cảm thấy không giống ở điểm nào?"

    Tôi hơi nhô người về phía trước và ngó hắn qua phía trước mặt anh tiếp thị để hắn nhìn thấy tôi. Hắn đưa tay trái không cầm súng lên vuốt tóc rồi kéo các sợi tóc dựng lên như ăng ten râu.

    "Những người khác đều rất sợ hãi, những kẻ không muốn chết và định đánh lén tôi thì vẻ mặt căng thẳng. Có nhiều người đang khóc hoặc mặt mũi trắng bệch. Nhưng hai người thì thoải mái, cứ như đang nói chuyện gia đình. Hai người không sợ khẩu súng trong tay tôi à? Hai người đang nghĩ một kẻ thi trượt đại học T thì không thể cướp máy bay, có phải thế không?"

    "Không không... chúng tôi rất sợ, ví dụ..."

    Anh tiếp thị vừa lắp bắp vừa nhìn những sợi tóc dựng đứng của tên không tặc.

    "Hình như anh có tâm lý tự ti nặng nề, có vẻ còn hơi có bệnh, rất đáng sợ..." "Tâm lý tự ti? Tôi không quen nói quá lên. Tôi chỉ cảm thấy mình luôn bị

    thiên hạ chế nhạo, cảm thấy tất thảy, kể cả những con chó gặp ngoài đường hoặc các nữ sinh trung học phổ thông trên ti vi đều đang cười nhạo tôi vì thi trượt đại học."

    "Điều này..." Anh tiếp thị ấp úng, đưa mắt nhìn tôi, ngụ ý "Tên này nguy hiểm thật, rồi giả bộ hiền hòa ôn tồn nói, "Thực ra chỉ vì anh nhạy cảm quá..."

    Tôi nhìn xung quanh. Mọi hành khách đều rất căng thẳng, đúng như tên này nói. Tuy không có ai ngoảnh xuống nhưng họ đều rất chú ý đến phía cuối khoang, nơi chúng tôi đang ngồi. Mấy người ngồi gần thì dỏng tai lên nghe ngóng. Tôi lại nhìn tên không tặc, nói:

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Thực ra hai chúng tôi không lo lắng thấp thỏm như những người khác là vì chúng tôi chẳng còn gì để mất nữa."

    Hắn nghiêng đầu như rất muốn nghe tiếp.

    "Chết vì máy bay rơi quả là đáng sợ, nhưng chúng tôi dễ dàng đón nhận cái chết hơn họ."

    Tôi chỉ vào anh tiếp thị, nói rằng anh ta chuẩn bị tự sát, còn tôi thì từng bị ngược đãi, đang đi tìm kẻ ngược đãi mình để trả thù. Nghe xong câu chuyện của tôi, tên không tặc đưa tay lên bưng miệng, hệt như anh tiếp thị lúc nãy.

    "Kể từ đó tôi không tin cánh đàn ông nữa." Tôi chốt lại.

    Tên không tặc nhìn tôi bằng đôi mắt đỏ hoe. Do dự một lát, hắn hỏi: "Cô có định giết cái thằng đã tàn nhẫn với cô không?"

    "Có! Tôi muốn giết gã. Tôi muốn gã bị giày vò đến chết. Nếu không, tâm lý tôi làm sao cân bằng lại được? Tôi và cả anh này đều không hạnh phúc, dù có chết theo máy bay thì cũng là do cuộc đời đến đây là hết, thế thôi."

    "Cho nên hai người mới ngồi tán gẫu, coi như không có chuyện gì xảy ra?" Tên không tặc gật gù vẻ thấu hiểu. Hắn trầm ngâm một lúc rồi bảo:

    "Cô rất cứng cỏi, bị ngược đãi như thế mà cô không nghĩ đến cái chết. Còn tôi, tôi sống đến bây giờ chỉ để trả thù."

    "Nhưng xem chừng tôi sắp chết còn gì!"

    Nghe câu này của tôi, anh tiếp thị ngồi bên bật cười, "Ha ha ha... cô thật thông minh."

    Tôi hơi ghé đầu sang nhìn tên không tặc đang cúi gằm mặt, làm hắn kinh ngạc ngồi ngả hẳn ra sau.

    "Nói cho tôi biết nhé, anh có thực sự muốn cướp máy bay không?"

    Tôi hỏi. Từ tên không tặc, anh tiếp thị đến mấy người ngồi gần đang nghe ngóng, tất cả đều ngỡ ngàng.

    "Cô nói gì thế?" Anh tiếp thị ấn vai tôi, ép tôi ngồi thẳng lưng trở lại.

    "Chờ đã! Đây là việc rất quan trọng. Ý chí hành động của anh ta mạnh đến đâu là căn cứ để tôi quyết định có mua thuốc hay không."

    "Ừ, chính xác." Anh tiếp thị tán thành.

    "Thuốc à? Hai người đang nói gì thế?" Tên không tặc lấy làm lạ.

    Tôi và anh tiếp thị nhìn nhau, phân vân không biết có nên nói cho hắn biết chuyện cái chết êm ái không. Nhưng rồi tôi vẫn kể chuyện thuốc men, chuyện tôi định mua và chuyện anh tiếp thị sẽ được hưởng lợi ra sao khi vụ cướp máy bay thất bại...

    "Tức là cô đang cân nhắc xem có mua bộ bơm tiêm của anh này hay không à?"

    Tôi gật đầu. Anh tiếp thị ho khan mấy tiếng, rồi hỏi tên không tặc:

    "Anh biết để làm gì chứ? Tâm trạng anh thế nào khi nổ súng? Sao anh phải bắt bọn tôi chết theo anh?"

    Điều bất ngờ là tên không tặc nhìn chằm chằm vào mắt anh tiếp thị, khiến anh ta chột dạ co người lại.

    "Bởi vì tôi rất hận." Hắn trả lời. "Ngay từ hồi nhỏ, cha mẹ đã bắt tôi phải gánh nghĩa vụ thi đỗ vào đại học T. Tôi cứ thế mà lớn lên, không còn lựa chọn nào khác. Mẹ bảo, nếu không thi đỗ đại học T thì tôi không phải là người nữa! Cứ thế, tôi coi việc thi đỗ đại học T là mục tiêu của đời mình."

    "Tốt nghiệp xong đại học thì sao?" Anh tiếp thị hỏi.

    "Anh nói gì? Sau đó, đương nhiên là quãng đời tôi được sống thêm. Chỉ cần thi đỗ đại học T là được, các chuyện tiếp theo không thành vấn đề. Cho nên tôi học như điên, trong khi những người khác chơi game hoặc vui vẻ với các cô gái, tôi vẫn học cật lực."

    "Ngoài học ra, anh làm những việc gì?" Tôi hỏi. "Muối dưa."

    Câu trả lời quá bất ngờ khiến tôi và anh tiếp thị đưa mắt nhìn nhau.

    "Tôi rất thích muối rau củ. Dưới bàn học của tôi luôn đặt vò vại muối các loại rau dưa, vại khá sâu."

    Rồi hắn nói cho chúng tôi biết về cách thái các loại rau quả, vấn đề khẩu vị, thời gian ướp, và cả lượng muối cần thiết nữa. Khi đó, ánh mắt hắn sáng ngời.

    "Một mình âm thầm cặm cụi muối dưa, khiến tâm trạng tôi rất nhẹ nhõm. Tôi đã làm như thế từ hồi học tiểu học."

    "Từ hồi học tiểu học tên này đã tương đối nguy hiểm." Anh tiếp thị nói thầm với tôi.

    "Hình như học sinh trong trường đều chế nhạo rằng tôi ăn mặc rất thộn. Thế là tôi đâm sợ, không dám bước chân vào hiệu quần áo nữa vì sợ người khác chê cười. Nếu ăn mặc tử tế, chắc nhìn tôi ngớ ngẩn lắm, nên tôi chỉ toàn mặc quần áo mẹ mua và tự mua sách bút. Khi những đứa khác cầm tiền đi sắm đĩa CD thì tôi để dành tiền tiêu vặt mua bút máy. Vì chúi mũi vào học nên tôi chẳng được bạn bè ở trường để ý, không bao giờ nói được một câu chuyện ra hồn. Mọi người đều bàn tán sau lưng rằng tôi là một thằng "bốc mùi", thực ra ngày nào tôi cũng tắm."

    "Kiểu nói xấu nhạt nhẽo nhỉ." Tôi nhận xét và nghĩ bụng, có khi vì người hắn ám mùi dưa nên họ mới nói vậy.

    "Mẹ và họ hàng đều cho rằng tôi nhất định sẽ đỗ đại học T, nhưng tôi không thế."

    "Vì sao?" Anh tiếp thị hỏi.

    "Vì người ta không cho tôi vào."

    "Tại sao lại thế? Chẳng lẽ mấy năm liền, hễ đi thi là anh trúng gió à?" "Không phải thế."

    "Hay là anh đến muộn giờ thi vì giúp đỡ trẻ em bị lạc, cứu trẻ em bị ngã xuống nước, hoặc an ủi trẻ em bị u não sắp chết?" Anh tiếp thị nói một hơi về tất cả những khả năng khiến tên không tặc thi cử thất bại, nhưng hắn chỉ buồn bã lắc đầu.

    "Tôi chẳng biết là nguyên nhân gì, nhưng tôi không thể chấp nhận kết quả như thế, bèn hỏi thầy giáo xem tại sao tôi bị đánh trượt. Thầy nói: Người như cậu thì không thể học đại học T, cả đời không thể, hãy từ bỏ đi thôi."

    Thì ra chỉ là tại học lực kém. Không hành khách nào trong khoang nói ra nhưng dường như ai cũng cho là thế. Còn không tặc thì nghẹn ngào "Thật quá đáng!" rồi nước mắt rơi lã chã.

    "Cả cha mẹ và họ hàng đều coi thường tôi. Các người có hiểu cảm giác đó không? Tôi phải nói thế nào thì các người mới hiểu được? Tôi đi thi năm lần trượt cả năm, tôi đành thừa nhận mình không thể đỗ nổi đại học T. Tôi biết làm gì đây? Hai mươi ba năm qua tôi sống thế nào? Mẹ chỉ cho tôi một con đường sống duy nhất là học đại học T, giờ đây chính tôi cảm thấy mình là đồ vô tích sự, quá ư bẽ mặt. Đi đến đâu người ta cũng chê cười tôi."

    Hắn gục xuống, người sấp về phía trước, đưa tay trái lên ôm mặt. "Rất đáng hận."

    Giọng hắn như tiếng rên rỉ, rất trầm, cứ như muốn cưa đứt mặt sàn. Tôi chỉ nghe được lời than thở chứ không nhìn được vẻ mặt khuất dưới bàn tay của hắn.

    "Tôi có thể nghe thấy tiếng cười nhạo của mọi người, của các bạn trong lớp. Ai cũng chế giễu đầu tóc tôi... chế giễu tôi chưa từng nắm tay con gái... Chế giễu không ngừng... Tôi không chịu nổi... Xin đừng làm như thế, tôi thật sự không chịu nổi nữa... ôi... Tôi muốn giết tất cả mọi người trên đời... Đã đến nước này, ai đó hãy giúp tôi... Tôi rất hận, rất rất hận..."

    Tên không tặc đang bưng lấy mặt, đây là cơ hội tốt để cướp súng nhưng không ai hành động cả, mọi người đều kinh hãi trước bộ dạng của hắn. Những tâm sự tăm tối nhất trong lòng hắn lan đến mọi người thông qua những tiếng nấc khiến da thịt ai cũng căng ra như sắp nứt.

    "Hận thù, căm hờn, là cảm giác của tôi đối với tất cả mọi người. Tôi hận tất cả, tôi muốn giết tất cả, tôi muốn các người phải nếm trải cảm giác tuyệt vọng, tôi muốn toàn nhân loại đều phải nếm trải cảm giác tuyệt vọng."

    Hắn bỏ tay ra, hướng đôi mắt đỏ hoe ráo hoảnh về phía tôi. Vẻ mặt vẫn bình thường mà đôi mắt như tóe lửa.

    "Nhưng tôi không thể giết toàn bộ thế giới, nên tôi mới lên chuyến bay này. Tôi đã thành công. Toàn bộ hành khách ở đây đều vô tội nhưng sắp phải bỏ mạng cùng máy bay lao xuống đại học T. Rồi cả thế giới sẽ chấn động. Đây là nguyện vọng của tôi. Thời gian qua dưa muối tôi rao trên mạng bán rất đắt hàng, một năm có thể kiếm được ba triệu yên."

    "Thu nhập cao hơn cả tôi." Anh tiếp thị nói nhỏ.

    "Nhưng mục tiêu của cả đời tôi là đại học T chứ không phải là tiền, nên tôi đã bỏ tiền ra mua khẩu súng này." "Mua ở đâu?"

    "Trong một con hẻm. Người ấy chỉ nói được vài câu tiếng Nhật, có lẽ anh ta là người Trung Quốc hay gì đó. Cuối câu nào cũng thêm ‘Thế đấy’..."

    Có người Trung Quốc như thế thật à? Tôi ngờ ngợ nhưng không nói gì. "Tôi mua súng ngắn và đạn của người đó rồi lên máy bay."

    "Sao anh qua được các khâu kiểm soát?"

    "Tôi đưa cho nhân viên kiểm soát một tập tiền, thế là anh ta nhắm mắt làm ngơ."

    "À, ra thế..."

    Sức mạnh của đồng tiền thật kinh khủng. "Sự việc sau đó thì các vị đều biết."

    Hắn nhìn đồng hồ.

    "Thời gian trôi nhanh thật, chừng ba mươi lăm phút nữa sẽ đến đại học T." Hắn nhìn tôi.

    "Nếu máy bay không rơi, tâm lý tôi không thể cân bằng. Tôi muốn mọi người đều đau khổ, tôi muốn toàn thế giới đều biết tin các người chết oan."

    Hắn không còn run rẩy nữa, ánh mắt đầy quyết tâm. Tôi bèn nói với anh tiếp thị:

    "Tôi quyết định mua thuốc. Máy bay chắc chắn sẽ rơi, tôi phải chết trước đã."

    "Cô có chắc không?" Anh tiếp thị vẫn muốn một lời khẳng định của tôi. "Chắc."

    Tôi nhìn khoang hành khách và mấy cái xác nằm ở lối đi.

    "Ánh mắt của tên không tặc này rất kinh khủng. Tôi cam đoan là máy bay sẽ rơi và tất cả mọi người sẽ phải nếm trải nỗi đau đớn như ở địa ngục."

    "Cái cô này, cô nói gì thế?!" Anh tiếp thị có vẻ không chịu nổi câu nói của tôi.

    "Thế nên tôi quyết rồi, tôi phải mua liều thuốc này."

    Tôi mở túi lấy ví đưa cho anh tiếp thị. Tiền nong hay thẻ ngân hàng tôi không lưu luyến.

    Anh ta liền sờ túi áo vét lấy ra bộ bơm tiêm. Trong xi lanh chứa một chất lỏng trong suốt. Tôi, tên không tặc và mọi người ngồi dãy ghế bên cạnh lối đi đều dán mắt vào bộ bơm tiêm.

    "Cái nước trong xi lanh bé tẹo này là thứ có thể kết thúc cuộc đời à?" Không tặc hỏi.

    "Nhưng cách kết thúc này rất nhẹ nhàng, không đau đớn."

    Tôi thận trọng chìa cả hai tay đón lấy bơm tiêm từ anh tiếp thị. Nó nhẹ bỗng khiến tôi không hề có cảm giác về trọng lượng. Tôi giơ ống tiêm lên, nhìn xuyên qua đó. Các sự vật đều trở nên méo mó vì khúc xạ ánh sáng. Mọi người nhìn tôi, có người nhổm cả dậy.

    "Các vị cứ nhìn thế này thì tôi chết sao được?"

    Tôi lên tiếng, thế là mọi người húng hắng ho và quay mặt đi. "Nên tiêm luôn đi, vì ba mươi phút sau thuốc mới có tác dụng."

    Tôi đang mặc áo dài tay nên phải vén ống tay áo lên, "Tôi chưa bao giờ tự tiêm cho mình, nên tiêm thế nào nhỉ?"

    "Bác sĩ nói cắm kim vào đâu cũng được, bảo đảm là sẽ chết."

    Anh tiếp thị động viên. Tôi bóc túi nilon bọc ngoài bộ bơm tiêm, mũi kim tiêm nhọn hoắt lộ ra. Tôi hết nhìn mũi kim lại nhìn sang tên không tặc.

    "Tôi đã khẳng định anh có thể cướp máy bay rồi nhé. Anh cứ thế mà làm, cứ việc đẩy mọi người vào tận cùng của nỗi sợ hãi!"

    Hắn phấn chấn gật đầu.

    "Tôi sẽ không để cô phải phí tiền đâu."

    "Nãy giờ cô nói mấy câu hơi quá đáng rồi đấy."

    Anh tiếp thị có vẻ bức xúc, nhưng tôi chẳng bận tâm. Tôi ấn pít tông bơm tiêm, đẩy một chút chất lỏng và bọt khí trào ra ngoài rồi đâm mũi kim tiêm vào bắp thịt gần khuỷu tay. Mũi kim cắm vào da thịt đau nhói. Tôi ấn mạnh hơn, bơm thuốc vào cơ thể. Cảm giác mát lạnh lan dần.

    Tiêm xong, tôi rút ra. Anh tiếp thị cầm lấy bộ bơm tiêm đã hết thuốc. Tôi thả ống tay áo xuống rồi nói "Thế là xong!" và nhắm mắt lại. Bóng tối nặng nề loang ra trước mắt tôi.

    "Kìa, cô ấy bất động luôn rồi à?"

    "Tôi nói ba mươi phút sau thuốc mới có tác dụng là nói dối đấy. Thực tế là có tác dụng ngay lập tức, tay bác sĩ ấy đã nói với tôi như vậy."

    "Sao anh lại nói dối người ta?"

    "Vì tôi muốn cô ấy mua cho sớm, nếu không, giao dịch chưa kịp hoàn tất thì có khi anh đã bị khống chế rồi."

    "Anh suy nghĩ chu đáo quá nhỉ? Anh mong có người khống chế tôi lắm chứ gì?"

    "Nếu thế thì tôi vớ bẫm. Tôi sẽ có được toàn bộ số tiền cô ta dành dụm. Thực ra, tay bác sĩ ấy đã cho không tôi thuốc này, miễn phí, tức là tôi chẳng mất gì. Tôi sẽ dùng món tiền này để bắt đầu một cuộc sống mới, hoặc ăn chơi ít lâu đã rồi mới tự sát. Ây da, một cuộc sống mới... Anh đã bao giờ nghĩ sẽ làm lại cuộc đời chưa?"

    "Kể cả có sống tiếp thì hận thù của tôi cũng quá sâu đậm rồi. Sống cuộc sống mới trong khi tâm hồn đã chết, đối với tôi điều đó quá khó. Bây giờ tôi có một yêu cầu: anh và toàn bộ hành khách hãy đứng lên và ngồi vào các hàng ghế trên. Có những ghế bỏ trống từ đầu, có những ghế giữa chừng bỏ trống nên thừa nhiều chỗ; các vị nên ngồi tập trung ở phía trên để tôi dễ quan sát."

    "Đổi chỗ cũng được, nhưng nếu tất cả dồn lên trên thì liệu máy bay có bị lệch rồi rơi luôn không?"

    "Không sao đâu, sớm muộn gì chẳng rơi." "Còn cô kia thì sao?"

    "Cứ để cô ta ở đó. Cả những ai nằm trên lối đi cũng mặc. Mau lên, tôi ra lệnh đấy! Các người không thèm nghe lệnh của người chưa học đại học T hay sao?!"

    Cảm thấy mình đã chết rồi, tôi bèn mở mắt ra, vươn vai, vặn vẹo cổ, xoa nắn và nhìn sang ô cửa sổ bên trái. Thì ra tôi đã biến thành vong hồn và vẫn đang trên máy bay.

    Anh tiếp thị và tên không tặc không còn ở bên cạnh nữa, chúng tôi đã trò chuyện trước khi tôi chết. Tên không tặc đã tập trung hành khách lên phía trên để tiện giám sát.

    Vong hồn của tôi đứng lên, băng qua lối đi giữa các hàng ghế. Phía trên toàn thấy gáy các hành khách ngồi sát nhau, khoảng giữa khoang trở xuống phía đuôi thì bỏ trống lạnh lẽo.

    Quanh chỗ tôi ngồi chỉ có một số thi thể bất động nằm gục, tức là nửa trên của máy bay thuộc về người sống, nửa dưới thuộc về người chết.

    Tôi nhận ra mái tóc có những sợi dựng đứng, chính là tên không tặc. Để tiện theo dõi hành khách, hắn ngồi một mình ở phía sau, trong không gian của người chết.

    Trông hắn rất cô đơn.

    Khoang máy bay im phăng phắc, chỉ có tiếng động cơ ầm ĩ. Tôi bước trên lối đi, cố gắng bước thật nhẹ, rồi từ từ tiếp cận không tặc. Tôi rất thận trọng, không vấp vào các xác chết, không giẫm phải các lon đồ uống lăn ra đề phòng trượt chân.

    Bây giờ tôi đã đứng hơi chếch phía sau chỗ không tặc ngồi, tay đặt lên lưng ghế, nhìn xuống đầu hắn. Không tặc ngồi cứng đơ, nhìn thẳng về phía trước, nhất cử nhất động của hành khách không qua nổi mắt hắn. Tôi còn cảm nhận được cả sự căng thẳng của hắn lan trong không gian.

    Tôi đụng ngón tay vào sợi tóc ăng ten nhưng hắn không có phản ứng gì. Thì ra hồn ma có thể sờ vào những thứ mình muốn mà không bị ai phát hiện. Tôi khoái trá khi nghĩ đến việc gõ vào cái đầu hói của ai. Hóa ra làm hồn ma cũng hay. Tìm kiếm một hồi, tôi phát hiện ra một ông khách hói đầu. Da đầu ở đó có màu như các vùng da khác nhưng bóng loáng vì ánh sáng phản chiếu. Tôi định bước đến sờ vào cái đầu hói.

    Đúng lúc đó, tên không tặc bỗng vươn vai, khẩu súng ngắn đang đặt trên mặt ghế bên cạnh. Tôi hiếm khi trông thấy súng ngắn nên cầm nó lên xem. Nặng thật, nếu gõ ngón tay lên sẽ gãy mỏng như chơi. Đúng là súng xịn rồi. Phát hiện hồn ma có thể cầm vật nặng làm tôi rất hứng thú. Tôi chĩa súng.

    "Ơ, kìa, sao cô lại đứng đây?"

    Không tặc vươn vai xong, ngoảnh lại, rất ngạc nhiên khi nhìn thấy "nữ cảnh sát." Hắn nhìn chằm chằm khiến tôi ngạc nhiên.

    "Anh nhìn thấy tôi à? Chắc anh có khả năng đặc biệt."

    Mọi hành khách đều quay lại nhìn. Có một người đứng lên, thì ra là anh tiếp thị. Anh ta há hốc mồm, "Sao cô lại sống lại?"

    Tôi không giả bộ làm cảnh sát nữa, lúng túng trả lời, "Tôi... tôi cảm thấy mình đã chết rồi mà!"

    "Không! Cô chưa chết. Cô thử nhìn mình xem, chân cô kia kìa!"

    Tôi nhìn xuống chân mình. Đúng, hai chân của tôi. Rốt cuộc tôi đã hiểu ra: Tôi chưa chết. Tiêm thuốc rồi mà không thể chết. Tôi chĩa súng vào anh tiếp thị: "Anh lừa tôi, làm quái gì có thuốc chết êm ái? Anh dám bán thuốc giả cho tôi!"

    Anh ta lập tức ngồi thụp xuống tránh họng súng rồi mới dám từ từ ló đầu lên lưng ghế nhìn tôi. Mọi người xung quanh đều kêu thét lên và tránh xa anh ta. Cả khoang hành khách bỗng hỗn loạn.

    "Cô hãy khoan, nghe tôi nói đã! Tôi không biết nó lại thế này." Anh tiếp thị phân trần, vẻ ngơ ngác, rồi hình như sực nghĩ ra điều gì. "Hay là tay bác sĩ bán cho tôi thứ thuốc vô tác dụng?"

    Tôi vẫn chĩa súng vào anh ta, ngón trỏ đặt nơi cò súng.

    "Thế thì tại sao anh lại bán cho tôi? Không được chết êm ái thì tôi sẽ phải chết vì máy bay rơi."

    Anh tiếp thị nấp sau lưng ghế, hốt hoảng lắc đầu:

    "Khoan đã, khoan đã. Cô hãy bình tĩnh. Cô có biết mình đang cầm thứ gì không?"

    "Đương nhiên là biết, đừng tưởng tôi là đồ ngớ ngẩn."

    "Nếu đã biết, cớ gì cô còn chĩa súng vào tôi? Sao không chĩa vào hắn kìa?" Anh tiếp thị chỉ vào tên không tặc đứng bên tôi, "Chĩa vào hắn, khuyên hắn đầu hàng đi."

    "Sao tôi phải bảo anh ta đầu hàng? Tôi tin chắc anh ta sẽ làm cho máy bay lao xuống!"

    "Rõ ràng cô là đồ ngớ ngẩn!"

    Nghe anh tiếp thị kêu lên như thế, các hành khách cũng tỏ ra bất mãn với tôi. Tôi bình tĩnh nghĩ ngợi, rồi hiểu ra ý của họ: Mất khẩu súng nghĩa là tên kia hết cả cướp máy bay.

    Tôi liền chĩa súng vào tên không tặc. Anh tiếp thị tỏ ra yên tâm. "Xin lỗi nhé! Lúc nãy tôi ủng hộ anh nhưng giờ thì..."

    Tôi đã nói "Xin lỗi" hẳn hoi, nhưng dường như hắn không bận tâm đến họng

    súng đang chĩa vào mình, chỉ điềm nhiên lắc đầu:

    "Không sao." Rồi hắn nhún vai, thò tay phải vào trong áo khoác. "Vì tôi còn một khẩu súng nữa."

    Cả khoang hành khách bỗng căng thẳng, vẻ mặt mọi người cứng đơ, không ai ho he hoặc nhúc nhích gì. Vẻ mặt tên không tặc thì rất nhẹ nhõm, tay vẫn đặt giữa lớp áo vét và áo len, hắn nhìn thẳng vào tôi.

    "Trong túi áo này còn một khẩu súng, tôi sẽ rút ra và bắn cô." Tay phải của hắn vẫn đặt sau áo, tất nhiên không ai nhìn thấy. "Cứ để nguyên tay phải ở đó, cấm động đậy!"

    "Nếu cô không muốn bị tôi bắn chết thì cô bắn trước đi!" Nói xong, hắn nhếch mép cười. Vẫn rất bình tĩnh.

    "Tôi mải miết học tập giữa những đêm đông, rồi trời sáng lúc nào không biết. Tôi mở cửa sổ, không khí lạnh tràn vào phòng, miệng tôi thở ra hơi trắng xóa. Buổi sớm sương mù đọng thành những hạt băng, lấp lánh dưới ánh mặt trời. Thật hạnh phúc, tôi thầm nghĩ, mình đã học rất chăm chỉ. Sáng tinh mơ là thời khắc tôi yêu thích vô cùng. Nhưng tôi sắp trở thành kẻ giết rất nhiều người, tôi không còn được ngắm cảnh đẹp sớm mai nữa rồi!"

    Nói xong hắn rút bàn tay phải ra chĩa vào tôi, tôi lập tức bóp cò. Súng giật, thúc vào lòng bàn tay tôi, một luồng không khí tạt vào mặt. Mọi hành khách đều nằm rạp xuống. Tên không tặc đổ vật giữa lối đi, tay phải cầm một chiếc bút máy.

    Ánh hoàng hôn nhuộm đỏ bầu trời, tôi ngồi trong nhà gã, vừa ôm đứa con gã trên đùi vừa xem ti vi. Đó là một cô con gái đang tuổi đi nhà trẻ, ở nhà một mình. Con bé không sợ người lạ, nó rất quấn tôi. Hai chúng tôi cùng ngồi xem bản tin thời sự mãi, nó vừa mới ngủ thiếp đi.

    Chiếc ti vi trong góc phòng đang phát về vụ cướp máy bay xảy ra trưa nay. Rất nhiều cảnh ngắn nối nhau, có cảnh máy bay vừa hạ cánh, cảnh hành khách xuống máy bay, cảnh đưa thi thể đi, có cảnh quay cảnh sát vào khoang máy bay. Trong số hành khách được hộ tống ra, tôi thoáng nhìn thấy mặt anh tiếp thị và tôi.

    "Ôi, chuyến đi tồi tệ nhất từ trước đến giờ!" Tôi còn nhớ câu anh ta nói khi vừa xuống máy bay. Hai chân anh ta chà lên mặt đất để chắc chắn rằng mặt đất vững chắc chứ không chao đảo. "Bây giờ tôi không nghĩ đến chuyện tìm đến cái chết nữa."

    Tôi được khiêng lên xe cứu thương và chở đến bệnh viện vì cần kiểm tra xem chất lỏng tôi đã tiêm vào tay là gì. Một số hành khách chóng mặt ngất xỉu được đưa đến bệnh viện.

    Tất cả như một giấc mơ.

    Lúc này đứa bé đang ngủ trên đùi tôi khẽ động đậy rồi áp mặt vào ngực tôi, vẻ hài lòng sung sướng. Nhà này là một căn hộ chung cư trên tầng ba, ánh mặt trời chiếu vào qua cửa sổ hướng Nam, cả căn phòng bừng sáng. Trên cửa sổ đặt một chậu hoa, tôi đang nhìn chậu hoa thì nghe thấy tiếng mở cửa.

    "Anh về rồi đây!"

    Giọng của người đàn ông ấy, tôi từng nghe hồi học phổ thông, bây giờ tôi vẫn nhận ra. Sau đó là tiếng chân bước ở hành lang, tiếp đó là cửa phòng khách mở toang.

    Gã dừng lại ở bậu cửa, nhìn thấy tôi đang ngồi trên sàn nhà và bế đứa con gái. Bốn mắt gặp nhau. Khuôn mặt gã hệt như trong trí nhớ của tôi. Tuy tôi chưa kể rõ chuyện giữa chúng tôi, nhưng đến giờ, vết thương gã để lại vẫn hằn sâu trong tâm hồn và thể xác tôi.

    "Anh về đấy à?" Tôi nói.

    Gã kinh ngạc nhìn tôi. Trong tích tắc nhận ra khuôn mặt tôi, gã giật lui mấy bước.

    "Sao cô lại ở đây?"

    "Tôi nhờ người điều tra được."

    Tôi trả lời, đồng thời cầm con dao bên cạnh lên.

    "Có điều trên đường đến nhà anh, tôi gặp chuyện tồi tệ lắm. Máy bay bị không tặc, tôi còn bắn chết người nữa."

    "Vợ tôi đâu?"

    Gã đứng đó, liếc nhìn con dao trong tay tôi. "Hình như đi mua hàng, để con bé ở nhà."

    Tôi kề con dao vào cổ đứa bé đang ôm trong lòng.

    Nghe ti vi nhắc đến tên mình, tôi ngoảnh sang nhìn màn hình. Ảnh tôi được phóng to. Họ nói tôi là một hành khách được cứu, nhưng đã tự ý ra khỏi bệnh viện, hiện đi đâu không rõ. Tôi nhớ lại lúc chiều nay, cảnh sát ở bên ngoài chờ lấy lời khai nhưng tôi chỉ nói một câu "Tôi phải đi vệ sinh đã" rồi chạy ra khỏi bệnh viện.

    Gã nhìn hình ảnh tôi trên ti vi rồi lại nhìn tôi đang cầm dao. "Tại sao cô lại làm vậy với tôi?"

    "Gieo nhân nào gặt quả nấy. Anh không bao giờ nghĩ chuyện như thế này sẽ xảy ra à?"

    "Tôi xin cô, hãy tha cho con gái tôi."

    Gã quỳ sụp xuống sàn, vừa khóc vừa xin lỗi về những ngày gã và đồng bọn hành hạ tôi ở trường phổ thông. Tiếng khóc nghẹn ngào. Lát sau, cánh cửa lại mở ra. Vợ gã xách túi đồ bước vào rồi đứng sững ở cửa phòng khách. Đứa con gái vẫn đang áp mặt vào ngực tôi. Không ai nhúc nhích, không ai lên tiếng. Cả ba người đứng im một lúc lâu. Tôi vừa kề dao vào cổ con bé vừa nhìn ti vi.

    Lúc này màn hình xuất hiện bộ mặt của tên không tặc. Giọng người dẫn chương trình rất rành rọt. Hắn đã giết một nữ tiếp viên hàng không và không ít hành khách. Tôi bỗng nhớ đến những lời của kẻ đã chết dưới tay tôi, câu chuyện về buổi sáng tinh mơ sương mù bao phủ. Tôi nhấc con dao ra khỏi cổ con bé rồi đứng lên.

    "Tôi không thể giết hai người trong một ngày."

    Tôi bế đứa bé, bước ra cửa chính, đi lướt qua cô vợ. Gã không hề ngoảnh lại, vợ gã thì vẫn bất động nhìn tôi như thể đang sống trong một cơn mê.

    Tôi rời khỏi khu chung cư. Mặt trời sắp lặn, bầu trời đỏ rực. Tôi chạy trên vỉa hè, thỉnh thoảng va vào khách bộ hành. Chính tôi cũng không biết mình đang chạy đi đâu nhưng tôi vẫn tiếp tục chạy.


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11

    Trong công viên buổi chiều tà hôm ấy



    Hồi tiểu học, gần nhà tôi có một công viên rất nhỏ, vây kín bởi những tòa nhà cao tầng. Khi ngày tàn, nơi đây vô cùng yên tĩnh, không còn âm thanh của xe cộ và người qua lại nữa. Đôi lúc có chiếc giày trẻ em đánh rơi. Công viên này là thế.

    Đến giờ ăn tối, lũ bạn cùng đến công viên nô đùa với tôi đã về nhà cả rồi, riêng tôi vẫn nán lại chờ đến lúc cha mẹ trở về.

    Chơi đánh đu chán, ma xui quỷ khiếhn t ế nào tôi lại chạy đến chỗ bãi cát.

    Bãi cát ở góc công viên đó hay bị lãng quên vì mọi người thường ham đánh đu hoặc chơi cầu trượt.

    Lúc hoàng hôn, ánh mặt trời lách qua khe hở giữa các tòa nhà, nhuộm đỏ thắm cả khoảnh đất im ắng này. Mình tôi lặng lẽ ngồi nghịch cát bên cạnh cái xô nhựa màu vàng ai đó bỏ quên. Tôi cởi giày, đắp cát lên hai bàn chân. Những hạt cát nhỏ li ti lọt qua các kẽ ngón chân rơi xuống, cảm giác man mát rất dễ chịu.

    Tôi thường duỗi thẳng cánh tay thọc xuống cát để đo xem cát sâu đến đâu. Chưa thấy đáy đâu mà cả cánh tay tôi lút vào bằng hết. Tôi kể chuyện này với cha nhưng ông không tin, "Bãi cát ấy phải có đáy, chứ không thể sâu thế được."

    Chắc cha nhầm rồi, mấy lần thọc tay xuống, cát đều ngập hết cánh tay tôi.

    Tôi không nhớ đây là lần thứ mấy tôi làm việc này. Ở góc công viên có một cái cây, dưới nắng chiều, bóng lá hắt xuống trông như một bức tranh đen trắng. Lúc tay phải lút đến nách thì đầu ngón tay tôi chạm phải một vật. Đó là một thứ mềm và mát được chôn dưới cát. Tôi tò mò ra sức thọc xuống sâu hơn nữa. Khi đầu ngón giữa gắng gượng đụng được vào nó, tôi cảm nhận được sự mềm mại và đàn hồi. Tôi muốn nắm lấy để lôi lên nhưng không làm được. Tôi còn có cảm giác có thứ gì đó bám vào đầu ngón tay.

    Tôi rút tay lên để nhìn, thì ra là mấy sợi tóc khá dài. Tuy dính cát lem nhem nhưng vẫn nhận ra được đây là những sợi tóc của con gái.

    Tôi lại thọc tay xuống, định sờ vào cái vật bị chôn ở dưới. Nhưng lần này thì dù quờ quạng thế nào, ngón tay cũng không đụng phải thứ gì cả. Tiếc ơi là tiếc!

    Các tòa nhà cao tầng bao quanh công viên với những ô cửa sổ đóng im ỉm chìm trong không gian đỏ ối, trông như những bức tường lớn vây kín tôi và bãi cát ở giữa.

    Tôi lại thọc tay xuống cát, lần này thì đụng phải thứ gì đó, giống như một con cá vừa đớp vào tay.

    Rồi cổ tay tôi đột nhiên bị tóm lấy và ghì thật chặt. Tôi định rút tay lên nhưng bị ghìm giữ, không thể cựa quậy. Xung quanh không có ai cả, dù kêu cứu thì cũng chỉ có tiếng vọng đáp lại, vì bốn bề đều là nhà cao tầng.

    Tôi đành nắm bàn tay phải lại, nhưng bị một sức mạnh nào đó gỡ các ngón tay ra. Có một ngón tay nhỏ đụng vào lòng bàn tay tôi, ngón tay ngọ nguậy như đang viết chữ.

    Cho tôi ra khỏi đây.

    Người nằm dưới cát đã viết mấy chữ này vào lòng bàn tay tôi. Tôi bèn thọc nốt tay trái xuống cát, dùng móng tay viết lên cổ bàn tay đang giữ chặt tay tôi hai chữ:

    Không được.

    Người nằm dưới cát đành tiếc nuối buông tay ra, tôi rút cả hai tay lên rồi đi về nhà. Kể từ lần ấy, tôi không dám đến gần bãi cát nữa. Về sau, công viên bị phá bỏ để xây một chung cư. Tôi bèn đến nhìn lại bãi cát, và nhận ra rằng nó rất nông, không thể chôn thứ gì bên dưới được.



    Hết

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •