(tiếp theo)
Chương 9
ở Thornfield Hall


Thật khó mà tưởng tượng được sự thể xảy ra có dễ chịu cho một nữ gia sư khi đến nhận việc không . Khi tôi đến Thornfield Hall sau một cuộc hành trình dài thì trời đã tối. Ngôi nhà thấp, dài chìm trong bóng tối, trên một khu đất rộng yên tĩnh, chỉ có một ánh đèn chiếu ra từ một cửa sổ có che màn. Tôi được dẫn vào trong một căn phòng có bà Fairfax đang ngồi đan cạnh một lò sưởi lung linh ánh lửa hồng, một con mèo lớn đang ngồi nghiêm trang dưới chân bà.

Bà có dáng dấp qúy phái, đứng tuổi, nhỏ nhắn, rất sạch sẽ đúng như tôi đã tưởng tượng ra. Bà đội chiếc nón góa phụ và mặc áo dài đen. Bà tiến lên chào tôi thân ái, rồi mời tôi ngồi vào chỗ bà. Bà gọi một tớ gái, đưa cho chị ta chùm chìa khóa của phòng chứa đồ, bảo chị ta mang trà nóng đến cho tôi, và cắt cho tôi mấy miếng bánh sandwich. Bà nói nhanh:

- Chắc là cô lạnh lắm, phải không cô? Ngồi gần lò lửa đi. Cô có mang theo hành lý, phải không?Tôi thây nó đã được mang lên phòng cô rồi.

Tôi nghĩ: "Bà ta xem mình như khách. Mình chưa khi nào nghe ai đối xử với nữ gia sư như vậy! Mình cứ tưởng người ta sẽ lạnh lùng khó khăn chứ!"

Bà Fairfax thân hành rót trà mới tôi, nói chuyện rất thân ái và tôi cảm thấy bối rối khi bà lưu tâm đến tôi qúa nhiều , ngoài sức mong đợi của tôi. Tôi hỏi:

- Thưa Bà, tối nay tôi gặp cô Fairfax chứ?

- Cô Fairfax à? ồ cô muốn nói cô Varens chứ gì? Tên học trò của cô đấy.

- Ồ thế em không phải là con gái của bà à?

- Không, tôi không có gia đình. Tôi rất vui mừng có cô đến đây. Thornfield là một ngôi nhà cổ , đẹp, đã bị bỏ quên từ lâu, mặc dù Leah và các gia nhân khác đều dễ thương, mình cũng không thể nói chuyện bình đẳng được, cho nên rất cô đơn ở đây vào mùa đông. Tuy nhiên, cháu Adele Varens đã đến vào đầu mùa thu với cô giữ trẻ, và cháu nhỏ đã làm cho ngôi nhà sinh động lên liền. Nhưng đã mười hai giờ rồi, chắc cô đi đường xa mệt. Tôi chỉ phòng cho cô, nó ở cạnh phòng tôi. Phòng nhỏ, nhưng tôi chắc cô sẽ thích hơn các phòng lớn ở đằng trước. Những phòng này có đồ dùng đẹp hơn, nhưng trông buồn và cô quạnh lắm.

Tôi cám ơn lòng tốt của bà và theo bà lên lầu. Bậc thang và tay vịn toàn bằng gỗ sồi. Cửa sổ ở thang lầu cao và có gắn kính. Nhiều cửa trong các phòng ngủ mở ra phía một hành lang dài, trông có vẻ như một nhà thờ cao rộng hơn là nhà ở, và khi đi dọc theo hành lang, kích thước dài rộng của nó đã gây cho tôi một ấn tượng mạnh.

Tôi hài lòng được ở trong một phòng nhỏ và thoải mái. Màn cửa sổ màu xanh và nền nhà trải thảm, thật khác xa sàn gỗ để trần của Lowood, đến nỗi lòng tôi tràn ngập hạnh phúc và lòng biết ơn. Tôi cảm thấy cuối cùng thì một chương đời mới tốt đẹp hơn đang mở rộng trước mắt tôi, tôi đi ngủ lòng biết ơn vô cùng.

Sáng hôm sau , tôi thức dậy, mặc áo quần cẩn thận. Mặc dù áo quần mới của tôi đơn giản bình thường, nhưng bản chất của tôi luôn luôn muốn sạch sẽ. Thỉnh thoảng tôi ước mình cao lên và nghiêm nghị, đôi má hồng đào, có đôi môi hình trái anh đào thay vì nhỏ con, xanh xao va xấu xí! Tôi không lưu tâm qúa đến bề ngoài. Tuy nhiên, sáng nay, khi tôi chải mướt mái tóc của mình, mặc áo dài màu đen có cổ trắng nhỏ, tôi nghĩ rằng mình trông đáng kính để làm hài lòng bà Fairfax, và để cô học trò mới của tôi khỏi phải sợ sệt.

Khi tôi xuống lầu , mọi thứ trông có vẻ trang nghiêm và to lớn, nhưng tôi lại ít quen thuộc với những gì to lớn. Hôm ấy là sáng tháng mười đẹp đẽ, tôi bước ra khỏi cánh cửa mở một nửa để ra ngoài bãi cỏ, ngước mắt nhìn lên chỗ ở mới của tôi. Ngôi nhà cao ba tầng: phần chính xây bằng đá, bao lơn màu xám chạy quanh tầng trên, trông rất lộng lẫy. Có bầy qụa khoang trong đám cây ở sau nhà, chúng bay trên bãi cỏ, trên sân đất để rồi đáp xuống ở trên đồng cỏ mênh mông. ở đây tôi có thể thấy những cây gai cao to lớn như những cây sồi, do đó vùng này mới có tên gọi là "Đồng gai". Xa hơn nữa , là những dãy đồi không cao như quanh vùng Lowood, một làng nhỏ men theo các sườn đồi, nhà cửa nép mình dưới những hàng cây. Người ta có thể thấy một tháp chuông nhà thờ gần cái cổng ngăn các lãnh điạ Thronfield với đường cái.
Tôi đang ngẫm nghĩ một ngôi nhà to lớn như vậy mà chỉ có một bà già như bà Fairfax sống , thì bà liền xuất hiện trên ngưỡng cửa chào tôi:

- Chào cô Eyre, qủa cô là người thức dậy qúa sớm. Cô có thấy thích Thornfield không?

Tôi nói với bà là tôi thích lắm. Bà bảo:

- Vâng, đây là một nơi xinh đẹp, nhưng tôi sợ nó sẽ lộn xộn mất, trừ khi ông Rochester quyết định sống luôn ở đây. Những ngôi nhà rộng rãi, những đất đai, cần phải có mặt của chủ nhân.

Tôi thốt lên:

- Ông Rochester! Ông ta là ai vậy?

Bà đáp:

- Chủ nhân của Thornfield. Thế cô không biết tên ông ta à?

Dĩ nhiên là tôi không biết. Tôi chưa bao giờ nghe tên ông ta, nhưng bà già cứ ngỡ là ai cũng biết đến ông ta. Tôi nói:

- Tôi cứ nghĩ Thornfield là của bà đấy.

- Của tôi à? Mong Ơn trên gia hộ cho tôi, ý nghĩ hay qúa! Tôi chỉ là quản gia mà thôi. Thực ra thì tôi có bà con với nhà Rochester bên mẹ tôi, nhưng tôi chỉ xem mình như một người quản gia bình thường mà thôi.

- Thế còn cô bé học trò của tôi?

- Ông Rochester là người giám hộ của cô ta. Ông ta yêu cầu tôi tìm cho cô ấy một nữ gia sư. Kìa cô bé đây rồi, có cả chị giữ trẻ nữa đấy.

Một cô gái nhỏ khoảng tám tuổi chạy băng qua bãi cỏ, tóc bé uốn quăn xõa xuống lưng. Bà Fairfax nói:

- Chào cô Adela. Đến chào cô giáo dạy cháu đi, cô ấy sẽ giúp cháu một ngày nào đó trở thành người thông minh lanh lợi.

Tôi nghe cô bé nói tiếng Pháp với chị giữ trẻ. Khi họ đi về phía chúng tôi, tôi hỏi:

- Cả hai đều là người ngoại quốc à?

- Cô giữ trẻ là người Pháp và Adela sinh ra ở lục địa, chỉ bỏ đấy về đây mới có sáu tháng. Khi lần đầu cô ấy đến đây, cô không nói được một chữ tiếng Anh nào. Tôi không hiểu lắm vì cô ấy thường pha tiếng Pháp vào. Tôi chắc là cô rồi cũng thế thôi.

May thay tôi hiểu Adela không khó khăn lắm, và khi chúng tôi ăn điểm tâm, cô bé bắt đầu nói tiếng Pháp, kể cho tôi nghe chuyện vượt eo biển Anh quốc vào mùa thu

Cô bé bảo:

- Cháu bệnh, Sophie và cả ông Rochester cũng vậy. Giường cháu như cái kệ và cháu gần văng ra khỏi giường.

Bằng thứ tiếng Pháp lưu loát, cô bé kể cho tôi nghe về tuần lễ tuyệt diệu họ sống ở Luân Đôn sau đó.

Bà Fairfax hỏi tôi:

- Cô bé nói nhanh như vậy cô có hiểu không? Cô hỏi bé về gia cảnh của bé ra sao.

Cô bé trả lời:

- Cháu ở với má lâu rồi. Má thường dạy cháu khiêu vũ, hát và ngâm thơ. Rất nhiều các ông các bà htường đến thăm má và cháu nhảy với họ, ngồi trên đầu gối họ. Bây giờ cô muốn nghe cháu hát không?

Bé đã ăn xong điểm tâm, cho nên tôi để bé xuống ghế. Nó đến đứng bên tôi, nắm hai bàn tay bé bỏng lại với nhau, ngước mắt nhìn trần nhà khi bắt đầu hát một bài trong các vở nhạc kịch. Bài hát kể một câu chuyện về một thiếu nữ bị tình phụ - tập cho một em bé còn nhỏ hát một bài như vậy thì thật qúa kỳ lạ. Rồi bé ngâm một bài thơ tiếng Pháp. Vào tuổi của bé mà có nhiều tài như thế qủa cũng hiếm, điều này chứng tỏ bé được luyện tập khá kỹ càng. Tôi bèn hỏi bé:

- Có phải má em đã dạy cho em không?

- Dạ phải, rồi em đến ở với ông bà Federic. Nhà bà ấy không đẹp bằng nhà má, và em ở đó không lâu.Ông Rochester hỏi em có muốn đến ở với ông ở nước Anh không. Em nói muốn. Em biết ông trước cả bà Federic, ông thường cho em áo quần đẹp và đồ chơi. Nhưng ông lại bỏ đi mất tiêu, và em chưa bao giờ gặp lại ông ấy cả.

Sau buổi điểm tâm, Adela và tôi đến thư viện, nơi đây đã trở thành phòng học. Tất cả những cái gì ở đây chúng tôi cũng có thể dùng cho bài học hết, và cũng có một chiếc đàn dương cầm và một cái giá để vẽ. Tôi quyết định buổi sáng đầu tiên chúng tôi phải được thoải mái, cho nên tôi cho Adela về nghỉ với chị giữ trẻ vào khoảng mười hai giờ trưa.

Khi tôi đi lên lầu để lấy giá vẽ và bút chì, thì bà Fairfax đang đứng trong phòng gần thư viện gọi tôi. Tôi bước vào.

- Phòng đẹp qúa! - Tôi thốt lên

Tôi chưa bao giờ thấy một cái phòng đẹp như thế. Nó rất rộng , rất bề thế, ghế dựa và màn đều màu tím, một tấm thảm Thổ Nhĩ Kỳ, các bức tường đều trang hoàng hình trái hồ đào, một cửa sổ lớn bằng kính màu sặc sỡ, trần nhà cao, thiết kế thật qúy phái.

Bà Fairfax đứng bên chiếc bàn dài đẹp đẽ ở giữa phòng . Bà nói với tôi:

- Đây là phòng ăn. Tôi vừa đến để mở cửa cho không khí và ánh sáng lùa vào một chút, kẻo cái phòng lâu ngày không dùng tới, đồ đạc ẩm mốc hết. Cái phòng khách bên cạnh y như cái nhà kho, tôi cũng phải đến để mở cửa sổ ra cho thoáng.

Bà đưa tay chỉ một cửa tò vò rộng. Chúng tôi bước tới gần hai bậc cấp rộng để bước qua cửa. Tôi thấy bên kia cửa là một căn phòng qúa đẹp, những tấm thảm màu trắng có thêu những chùm hoa, giường ghế trong phòng màu đỏ sẫm, những đồ trang hoàng bằng kính xứ Bohemian màu đỏ hồng. Giữa nhiều cửa sổ trong phòng là những tấm kính rộng phản chiếu vẻ huy hoàng của căn phòng toàn màu trắng và màu đỏ.

Tôi nói với bà:

- Thưa bà Fairfax, bà đã giữ gìn những căn phòng này đẹp đẽ qúa!

Bà giải thích cho tôi nghe:

- Tôi luôn luôn chuẩn bị những căn phòng này sẵn sàng như thế, bởi vì khách hay đến thăm ông Rochester rất đột xuất, rất bất ngờ. Ông yêu cầu phòng ốc thật đẹp và phải sẵn sàng như vậy.

- Thế bà có mến ông ấy không? Mọi người có mến ông ấy không?

- Dĩ nhiên là ai cũng mến ông ấy, nhưng xem ra thì ông ấy cũng hơi đặc biệt. thường thường mình không chắc được ông ta đang đùa hay thật, không chắc ông vừa ý hay hài lòng, nhưng nói chung thì ông ấy là một ông chủ nhà rất tốt.

Dó là tất cả những gì tôi biết về ông chủ của bà Fairfax và của tôi. Thế rồi tôi không nghĩ đến nữa.

Khi chúng tôi bước ra khỏi phòng ăn, Bà ấy đi lên lầu, tôi đi theo bà, thầm phục ngôi nhà qúa đẹp và qúa ngăn nắp. Tôi nhận ra những phòng ngủ ở phía trước ngôi nhà thật qúa lớn, một số phòng ở tầng ba lại rất hấp dẫn, vì chúng trông có vẻ cổ kính. Có phòng kê những chiếc giường xưa đến hàng trăm năm, và có những chiếc tủ chạm trổ lâu đời bằng gỗ sồi và gỗ hồ đào. Có những chiếc ghế dựa và ghế đẩu bọc nệm, lót vải thêu trên chỗ ngồi đã lâu năm, nét thêu rất tinh vi và vẫn còn rõ nét. Tất cả những đồ cổ này tạo cho tầng ba của Thornfield Hall không khí của một viện bảo tàng.

Tôi hỏi bà quản gia:

- Gia nhân đều ngủ theo dọc hành lang này ư?

Bà Fairfax đáp:

- Không, họ ngủ trong mấy cái phòng nhỏ hơn ở đằng sau. Ai lại đi ngủ ở đây.Người ta cứ đồn đại rằng có ma ở Thornfield Hall. Chắc những cái phòng này đã ám ảnh họ đấy.

Tôi đồng ý với bà:

- Tôi cũng nghĩ như vậy. Làm gì có ma. Mà...thực không có chuyện ma qủy chứ , thưa bà?

- Tôi thì không tin , mặc dù họ cứ bảo nhau dòng họ Rochester một thời từng ác liệt lắm. Cô có muốn lên sân thượng để ngắm cảnh không?

Tôi đi theo bà lên một cầu thang hẹp đến gác lửng, rồi leo một cái thang, chui qua một cánh cửa sập, bước ra ngoài một sân thượng là mái bằng suốt toàn bộ ngôi nhà

Chúng tôi ở cao ngang tầm giang sơn của loài qụa. Tôi có thể nhìn thấy tổ của chúng trong những cây du. Tựa người trên bao lơn bằng đá, tôi nhìn xuống , thấy vườn tược, ruộng nương trải dài bất tận trước mắt tôi như một bản đồ.

Bãi cỏ non chạy đến tận các bức tường màu xám của ngôi nhà, đồng ruộng lác đác những cây cổ thụ, một lối đi chia cánh rừng làm hai đầy rêu xanh. Nhà thờ màu xám ở ngay cổng nhà, con đường uốn khúc, bên kia là những ngọn đồi yên tĩnh- tất cả tạo thành một bức tranh nhiều màu sắc thanh bình dưới ánh mặt trời mùa thu, bức tranh chạy mãi đến tận chân trời xanh ngắt tuyệt đẹp.

Quen với ánh sáng ngoài trời, khi tôi quay lại thì lối đi xuống bỗng trở nên tối thui. Tôi phải đứng đợi bà Fairfax trong hành lang dài và tối của tầng ba, trong khi bà buộc lại cánh cửa ở gác lửng.

Trong lúc tôi bước đi nhẹ nhàng theo dọc hành lang của những phòng bỏ trống, tôi bỗng nghe có tiếng cười, tiếng cười khô khan, gay gắt. Tôi dừng lại, tiếng cười lại nổi lên lớn hơn, tạo thành tiếng vang trong các phòng khác ở hai bên hành lang tối tăm, nhưng tôi đoán chắc tiếng cười chỉ xuất phát ở trong một phòng mà thôi

Tôi gọi bà quản gia vì tôi nghe tiếng chân bà sau lưng tôi.:

- Bà Fairfax ơi! Bà có nghe tiếng cười đó không? Ai vậy thưa bà?

Bà đáp:

- Tuồng như một gia nhân nào đấy. Có lẽ là chị Grace Poole. Chị ấy may vá trong một phòng nào đấy. Thỉnh thoảng Leah hay đến chơi với chị và họ làm ồn lên thế đấy.

Tiếng cười cứ lập đi lập lại và hình như sau tiếng cười ấy có tiếng càm ràm nho nhỏ.

Bà Fairfax kêu lên:

- Chị Grace!
Tôi chẳng thấy ai trả lời, bởi vì tiếng cười nghe rất bất thường. Tiếng cười chỉ xảy ra giữa ban đêm chứ không phải ban ngày, cho nên tôi cảm thấy cứ rờn rợn trong người. Thế rồi một cánh cửa gần chỗ chúng tôi bật mở, khiến tôi rất ngạc nhiên. Một gia nhân xuất hiện. Chị ta khoảng bốn mươi: người chị vuông vắn, chắc nịch, mặt mày xấu xí, rắn rỏi. Thật khó tưởng tượng lại có người xấu hơn ma như vậy!

Bà Fairfax bảo:

- Này chị Grace, ồn lắm đấy nhé. Hãy nhớ lệnh mà làm chứ!

Chị ta vâng lời, quày qủa bước vào phòng.

Bà Fairfax nhìn tôi nói tiếp:

- Chúng tôi mướn chị ấy may vá và giúp Leah làm việc nhà. Nhân tiện xin hỏi cô, sáng nay cô đã tìm hiểu học trò mới sao rồi?

Khi chúng tôi đến những phòng bên dưới, tôi mới thấy mình yên ổn và vui sướng, và Adela vội chạy đến đón chúng tôi. Bữa ăn tối đã dọn sẵn chờ chúng tôi.


Chương 10
Người Cưỡi Ngựa Không Quen Biết

Thornfield Hall cứ gợi mãi cho tôi những ấn tượng ban đầu. Bà Fairfax vẫn là một người đàn bà tốt bụng , trầm tĩnh như tôi đã gặp hôm đầu tiên. Cô học trò của tôi là một cô bé sinh động, vì được nuông chiều nên hư, nhưng chẳng bao lâu bé đã bỏ được những tật xấu và trở nên biết vâng lời, dễ dạy, có tiến bộ.

Tháng Mười, tháng Mười Một rồi tháng Chạp trôi qua êm ả, tôi rất hài lòng ở đây. Thỉnh thoảng tôi đi bách bộ một mình hay lên sân thượng ngắm cảnh vật bao la. Tóm lại tôi được mọi người quan tâm đến và được an toàn ở Thornfield Hall.

Tuy nhiên, ngoài giờ dạy, tôi thường sống một mình, tôi phải cố gắng hết sức để quen với cuộc sống đều đặn ở đây. Những người khác trong nhà thì cũng dễ thương đấy, nhưng tôi ít chú ý đến. Bác John, người đánh xe cùng vợ là đầu bếp, chị Leah, coi sóc việc nhà, chị Sophie cô giữ trẻ người Pháp: tất cả đều bận bịu với công việc của họ. Thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng cười của chị Grace Poole, rồi tôi lại nghe tiếng càm ràm của chị ta sau cánh cửa. Thỉnh thoảng chị ta ra khỏi phòng, tay bê cái khay có cái tô lớn hay cái đĩa, nhưng dáng dấp của chị làm cho ta phải nản, khiến tôi rất chú ý đến chị. Chị lại là người ít nói. Chỉ còn lại bà Fairfax và Adele là những người bạn tâm đắc nhất của tôi mà thôi.

Một buổi chiều tháng giêng giá lạnh, bà Fairfax định gửi một bức thư vừa viết xong, tôi liền nhận đi gửi dùm cho bà ở Hay, một cái làng ở trên đồi. Đi bộ hai dặm đường vào mùa đông qủa là một buổi chiều thú vị đối với tôi.

Mặt đất rắn lại vì băng giá, rải rác vài nơi trên mặt đường đã có nước đá. Khi tôi đi ngang dưới tháp chuông nhà thờ, đồng hồ điểm ba tiếng. Trên đỉnh đồi, ánh mặt trời chiếu lấp lánh và từng đám khói xanh từ các ngôi nhà trong làng đang lờ lững bay trong không gian giá lạnh.

Tôi bước đi thật nhanh cho ấm, rồi đến một cái hàng rào gỗ gần đỉnh đồi, tôi ngồi nghỉ trên một thanh ngang. Tôi đang ở trên một con đường nhỏ dẫn tới Hay, nơi đây vào mùa hè thì đầy hoa hồng dại, mùa thu lại lắm hạt dẻ và dâu tây, nhưng bây giờ thì cây cối hai bên đường trắng xóa vì tuyết. Những cánh đồng hai bên hàng rào lặng yên, vắng bóng trâu bò gặm cỏ trong cảnh mùa đông gía lạnh này.

Bỗng có tiếng động đâu đây phá tan bầu không khí tĩnh mịch, tôi lắng nghe và nhận ra đó là tiếng vó ngựa đang gõ đều trên lối đi đều đặn. Tôi nhìn đoạn đường rẽ để chờ xem con ngựa xuất hiện, thì một con chó thật bự, lông đen trắng đang lặng lẽ chạy ngang qua tôi gần hàng rào. Rồi con ngựa xuất hiện, một con ngựa cao, có người đang cưỡi nó.Chỉ là một khách nhàn du đến Millcote chơi, chứ đâu phải một bóng ma cưỡi ngựa như trí tưởng tượng đã làm cho tôi lo sợ.

Bỗng tôi nghe có tiếng trượt chân bên dưới, khi tôi vừa quay lại định đi lên đồi, thì tôi nghe tiếng đổ ầm. Tôi thấy cả người lẫn ngựa ngã nhào xuống đất, ngựa đã trượt chân trên băng của lối đi.

Con chó liền quay lại, chạy quanh người và ngựa sủa vang lên rồi chạy đến bên tôi. Tôi vội bước đến người cưỡi ngựa, ông ta đang gượng đứng dậy. Tôi hỏi ông ta:

- Thưa ông , ông có bị thương không? ông cần tôi giúp gì không?

Ông ta đáp:

- Cô làm ơn tránh sang một bên

Trước hết ông dùng đấu gối để ngồi dậy, rồi từ từ đứng lên, ông khuyến khích con ngựa đứng dậy, có tiếng kêu lẻng kẻng, rồi chú ngựa từ từ cố gắng đứng lên. Con chó vẫn sủa vang, ông ta nạt:

- Thôi im đi, Pilot!

Đoạn ông cúi xuống sờ mó xem bàn chân, ống chân mình, ông khập khiễng đi đến xà ngang của hàng rào và ngồi xuống nghỉ. Tôi muốn làm cái gì đó để giúp ông , tôi bảo:

- Nếu ông bị thương và cần giúp đỡ, tôi chạy lên Hay tìm người giúp ông nhé!

- Xin cám ơn cô, tôi không bị gãy xương, chỉ sái khớp xương thôi

Ông ta lại đứng lên và bước thử, nhưng ông lại nhăn nhó kêu đau.

Tôi nhìn ông qua ánh trăng vừa mọc. Ông ta mặc áo quần cưỡi ngựa. Mặt ông nghiêm nghị, có vẻ đàng hoàng, và luôn luôn tôi thấy ông chau mày. Dáng người trung bình, ông ta cỡ ba mươi lăm tuổi. Nếu ông ấy còn trẻ và đẹp, thì chắc là tôi đã không dám đề nghị giúp đỡ ông. Nét chau mày của ông, vẻ người cục mịch của ông khiến tôi an tâm.

Tôi nói:

- Thưa ông, trường hợp như thế này, tôi không thể để ông một mình cho đến khi ông đã ngồi yên trên lưng ngựa được.

Nghe tôi nói vậy, ông ấy nhìn tôi , ông bảo:

- Tôi cứ ngỡ là giờ này cô đã ở nhà rồi chứ. Vậy cô ở đâu?

- Tôi ở ngay dưới đây thôi. Tôi không sợ phải về trễ vì trời có trăng. Tôi muốn lên Hay chơi- thật ra tôi đi gửi một cái thư

- Cô ở ngay dưới đây à? Cái nhà ấy phải không?

Ông đưa tay chỉ về phía Thornfield, ngôi nhà bây giờ chỉ còn thấy thấp thoáng trong lùm cây.Tôi đáp:

- Dạ vâng, đúng tôi ở đấy đấy.

- Cô có biết ngôi nhà đó của ai không?

- Dạ thưa của ông Rochester

- Thế cô có biết ông Rochester không?

- Dạ không. Tôi chưa bao giờ gặp ông ấy.

- Chắc cô không phải là gia nhân chứ. Cô là...

Ông dừng lại, có vẻ phân vân không biềt tôi làm gì ở đấy.

- Thưa , tôi là nữ gia sư ở đấy.

- A, nữ gia sư!

Ông lặp lại, rồi nhìn tôi và nói tiếp:

- Tôi quên mất, cô nữ gia sư ạ!

Sau đó, ông đứng dậy , vẻ đau đớn ra mặt khi ông cố thử di động. Ông lại nói:

- Tôi không nhờ cô tìm ai giúp hết, nếu cô tốt, xin cô giúp tôi một chút. Cô có cái ô cho tôi mượn để làm cái gậy không?

- Tôi không có, thưa ông.

- Vậy thì cô hãy nắm dây cương con ngựa và dẫn nó đến đây giúp tôi . Cô có sợ nó không?

Nếu một mình thì chắc là tôi sợ nó lắm, nhưng khi nghe ông ta nói vậy, tự nhiên tôi vâng lời ngay. Tôi tháo bít tất ra để trên xà ngang hàng rào, rồi bước đến con ngựa cao lớn. Nhưng nó là một con vật thông minh, cho nên nó không chịu để tôi đến gần nó. Tôi cố thử nhiều lần đều vô ích, đồng thời tôi lại cảm thấy qúa lo, vì hai chân trước của nó cứ chồm lên chồm xuống.

Cuối cùng ông khách bật cười, ông vẫn còn đứng cạnh thanh ngang hàng rào. ông nói:

- Thôi , xin cô vui lòng đến đây. Thật cần qúa tôi mới nhờ cô giúp đấy nghe!

Ông đặt một bàn tay lên vai tôi, tựa người thật nặng lên tôi, ông khập khiễng đi đến con ngựa. Khi đã nắm được dây cương rồi, ông điều khiển con ngựa đứng thẳng, rồi phóng người lên yên, mặt ông nhăn lại vì gắng sức, vì cái bàn chân bong gân đã làm ông đau đớn.

Ông bảo tôi:

- Thôi, bây giờ cô lấy giúp cây roi ngựa cho tôi. Nó ở dưới hàng rào.

Tôi đi tìm cây roi, rồi đưa cho ông. Ông lại nói:

- Cám ơn cô. Bây giờ cô đi gửi thư nhanh lên , cố mà về nhà cho sớm.

Ông lấy gót chân thúc ngựa, nó phi nhanh tới trước, con chó phóng theo sau và cả ba mất hút sau con đường nhỏ.

Tôi nhặt lấy tất tay và đi lên làng. Sự việc xảy ra làm cho cuộc sống đơn điệu của tôi trở nên sinh động đôi phần, và tôi rất thích thú khi được giúp đỡ ai điều gì. Cái khuôn mặt cũng hay hay. Đi đến Hay và gửi cái thư, tôi cứ thấy mãi khuôn mặt chờn vờn trước mắt tôi, và tôi vẫn còn thấy nó khi tôi đi nhanh xuống đồi về nhà. Khi tôi đến cái thanh ngang chắn hàng rào, tôi bèn dừng lại một lát, mong tìm lại dấu chân ngựa trên mặt đường và bóng dáng con chó to lớn giống Newfoundland đang lướt nhanh xuống đồi.

Tôi trở lại Thornfield và miễn cưỡng về phòng. Chuyến đi ngắn ngủi vẫn còn gây trong tôi nỗi hồi hộp lâng lâng. Tôi chạnh nghĩ đến sự buồn tẻ chán chường khi trải qua một tối mùa đông dài với bà Fairfax.

Khi tôi về nhà thì trong phòng khách người ta đã nhóm lò sưởi, ngọn lửa vui tươi, qua hai lần cửa của phòng ăn, tôi cũng thấy được ngọn lửa cháy sáng trong lò, chiếu ánh sáng lên các vật dụng sáng bóng trong phòng. Tôi thoáng thấy nhiều người ngồi gần lò sưởi, tôi nghe thấy tiếng nói cười vui vẻ của họ trước khi các cửa đóng lại.

Tôi vội đi đến phòng bà Fairfax. ở đây cũng đã đốt lò sưởi, nhưng không có ánh sáng và cũng không có bà Fairfax. Thay vì như mọi khi bà ngồi đơn độc, thẳng băng trên tấm thảm, trang nghiêm nhìn ngọn lửa, thì bây giờ tôi chỉ thấy con chó lông trắng đen mà tôi đã gặp trên con đường đồi khi nãy.

Tôi tiến lên và nói với nó:"Pilot ư!" tức thì nó tiến lại tôi, phe phẩy cái đuôi thật lớn. Nó là con vật kỳ lạ đáng cho mình bầu bạn với nó. Tôi muốn có một cây đèn cầy để lên lầu, tôi rung chuông. Chị Leah liền đến. Tôi hỏi chị:

- Con chó của ai vậy chị?

- Nó đến với chủ nó đấy mà

- Với ai?

- Với chủ- ông Rochester ấy- Ông ấy vừa đến đấy.

- Vậy ư? Chắc bà Fairfax đã đến gặp ông ấy.

- Vâng, và cả cô Adela nữa. Họ ở trong phòng ăn. John đã đi mời bác sĩ. Ông chủ gặp tai nạn, ngựa ông trượt chân té, khiến ông bị bong gân ở mắt cá chân.

- Ôi thôi! Tôi xin chị cho tôi cây đèn cầy đi , chị Leah!

Chị Leah mang đèn cầy đến vừa lúc bà Fairfax bước vào, nhắc lại những tin tôi vừa nghe, rồi bà nói thêm rằng bác sĩ đang khám cho ông Rochester. Rồi bà vội vã ra đi để ra lệnh pha trà. Tôi từ từ lên lầu thay quần áo.
(còn tiếp)