Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc sẽ tự mất đi khi nào người ta tự thỏa mãn về nó. Hạnh phúc sẽ chỉ bền vững khi người ta luôn luôn vươn tới và hoàn toàn khát vọng.
K.G. Paustopski
Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123
Results 21 to 26 of 26

Chủ Đề: Ngày Mai

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ngày Mai

    Ngày Mai

    Tác giả :Guillaume Musso

    Người dịch: Phúc Chi Nhi







    MỤC LỤC [−]



    Phần một: Tình cờ gặp gỡ

    1. Giữa những bóng ma
    2. Miss Lovenstein
    3. Thông điệp
    4. Strangers in the night 1
    5. Giữa hai người họ
    6. Gặp gỡ tình cờ


    Phần hai: Những đường song song

    7. Những đường song song
    8. Phục sinh
    9. Những lữ khách của thời gian


    Phần ba: Những vẻ bề ngoài

    10. Bàn tay đưa nôi
    11. Một kiểu chiến tranh
    12. The other woman
    13. Cuộc đi xuyên gương
    14. Ekaterina Svatkovski
    15. Những vết thương của sự thật


    Phần bốn: Người phụ nữ chẳng thuộc về nơi đâu

    16. Hoàng tử Đen
    17. Cậu nhóc với những chiếc màn hình
    18. Trung úy Lovenstein
    19. Nữ thần Pê ru bất tử


    Phần năm: Lựa chọn cái ác

    20. Ký ức sống
    21. A girl on the run
    22. Nhóm Helsinki
    23. Đường tình

    Phần sáu: Phía bên kia ranh giới

    24. Anh hùng và kẻ ác
    25. Trong thung lũng của các linh hồn
    26. Một năm sau….




    Giới thiệu
    Emma tìm kiếm trong vô vọng người đàn ông của đời mình.

    Matthew vừa mất vợ sau một tai nạn khủng khiếp.

    Cả hai thấy như cơ hội một lần nữa lại mở ra với mình khi tình cờ gặp nhau trên mạng.

    Họ hẹn nhau tại một nhà hàng.

    Vào cùng một ngày, cùng một giờ, họ cùng đẩy cửa bước vào cùng một nhà hàng, bước tới cùng một bàn nhưng - lại không gặp nhau.

    Một trò đùa? Hay một màn lừa đảo? Đây không đơn gỉản là một cuộc hẹn bị lỡ. Giữa họ là thời gian ngăn cách: cô ở quá khứ còn anh thuộc tương lai.

    Trong cuộc rượt đuổi giành giật với thời gian, Emma không biết rằng cô sẽ khám phá ra bí mật khủng khiếp vốn vẫn núp sau lá bài tình yêu.

    Một cuộc phiêu lưu đầy bí hiểm.

    Một cốt truyện điêu luyện gần chạm tới mức siêu thực.

    Một cái kết bất ngờ, nghẹt thở, độc đáo



    Nhận định
    "Một cuốn trinh thám kiểu Mỹ thực thụ."

    - Terrafemina

    "Một câu chuyện tình thách thức các quy luật của thời gian, một cốt truyện phức tạp, bất ngờ đến phút chót."

    - Le Figaro litteraire

    "Một cuốn tiểu thuyết để ngốn trong vài giờ."

    - France 3

    "Musso đã tài tình hòa trộn giữa các thể loại, dệt nên một cốt truyện trinh thám trên nền một chuyện tình tay ba."

    - Métro

    "Đảm bảo thành công!"

    RTL



    Tác giả
    Guillaume Musso là nhà văn trẻ người Pháp, sinh năm 1974 tại Antibes, thị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh lại theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được những tín hiệu tốt từ giới phê bình. Và tác phẩm thứ hai Rồi sau đó (2004) đã đưa tên tuổi Musso đến với công chúng và dần trở thành cái tên ấn tượng của văn học lãng mạn đương đại.



    Tình yêu nếu không bước đi được sẽ tự khắc bò trườn.
    - William SHAKESPEARE

    Phần một: Tình cờ gặp gỡ
    Ngày thứ nhất

    1. Giữa những bóng ma
    Ta không phải kẻ ta soi thấy trong gương.
    Ta là kẻ đang ánh lên trong cái nhìn thiên hạ.
    - Tarun J. TEJPAL


    Đại học Harvard

    Cambridge

    19 tháng Mười hai 2011

    Giảng đường đang chật ních người nhưng yên ắng.

    Những chiếc kim trên mặt khắc độ bằng đồng của chiếc đồng hồ treo tường cổ kính chỉ 14 giờ 55. Bài giảng môn Triết do Matthew Shapiro đứng lớp đang đi tới những phút cuối.

    Ngồi ở hàng ghế đầu, Erika Stewart, hai mươi hai tuổi, đang chăm chú nhìn giảng viên của mình không rời mắt. Từ một giờ đồng hồ qua, cô tìm cách thu hút sự chú ý của anh nhưng vô ích, cô nghe như nuốt lấy từng lời anh giảng, gật đầu tán thưởng sau mỗi lần anh nhận xét. Mặc dù những sáng kiến của cô chỉ vấp phải thái độ thờ ơ nhưng thầy giáo ngày càng khiến cô si mê đắm đuối hơn.

    Gương mặt trẻ trung, mái tóc cắt ngắn và hàng ria lún phún mang lại cho thầy giáo một vẻ quyến rũ khôn cưỡng làm đám sinh viên nữ không khỏi xao xuyến. Trong trang phục quần jean mài, áo len cổ lọ và đôi giày ống bằng da cũ kĩ, Matthew giống một chàng sinh viên cao học hơn là một số nam đồng nghiệp với dáng vẻ chỉn chu và khắc khổ mà người ta thường gặp trong khuôn viên trường. Nhưng trên cả diện mạo điển trai, tài hùng biện mới chính là thứ tạo nên sức hút của anh.

    Matthew Shapiro là một trong những giảng viên nổi tiếng bậc nhất của trường. Anh đứng lớp tại Cambridge đã được năm năm và qua mỗi năm các giờ giảng của anh lại khiến một lớp sinh viên mới say mê. Tiếng lành đồn xa, chỉ riêng học kỳ này đã có tới hơn tám trăm sinh viên đăng ký theo học lớp của anh, và hiện tại giờ giảng của anh đang chiếm cứ giảng đường lớn nhất của tòa Sever Hall.

    TRIẾT HỌC CŨNG BẰNG THỪA NẾU

    KHÔNG DIỆT ĐƯỢC NỖI ĐAU TINH THẦN

    Được viết nắn nót trên bảng, câu nói của Épicure chính là điểm mấu chốt trong bài giảng của Matthew.

    Những bài giảng triết học của anh dễ tiếp nhận và không bị mắc mớ bởi những khái niệm khó hiểu. Tất cả những lập luận của anh đều được liên hệ với thực tế. Mỗi bài tham luận đều được Shapiro mở đầu bằng cách xuất phát từ cuộc sống thường nhật của sinh viên, từ các vấn đề cụ thể mà họ phải đối đầu: nỗi lo thi trượt, quan hệ tình cảm tan vỡ, sự bạo ngược trong ánh mắt kẻ khác, ý nghĩa cần mang lại cho việc học... Một khi vấn đề được đặt ra, anh liền viện tới Platon, Sénèque, Nietzche hay Schopenhauer. Và nhờ có sự linh hoạt trong cách giới thiệu của anh, những nhân vật vĩ đại này mới tạo được cảm giác họ tạm rời khỏi cuốn giáo trình đại học để trở thành những người bạn thân thiết và gần gũi, có thể cho những lời khuyên hữu ích và động viên tinh thần.

    Với sự thông minh và hóm hỉnh, Mathew cũng lồng ghép vào bài giảng của mình một mảng văn hóa đại chúng rộng lớn. Những bộ phim, những ca khúc, những cuốn truyện tranh: tất cả đều là cái cớ để triết lý. Ngay cả những loạt phim truyền hình cũng tìm được chỗ đứng cho riêng mình trong giờ giảng của anh. Dr House minh họa cho suy luận thực nghiệm, những nạn nhân đắm tàu trong Lost mang đến một suy tưởng về khế ước xã hội, trong khi những người làm quảng cáo theo chủ nghĩa nam quyền trị trong Mad Men lại mở ra một cánh cửa để nghiên cứu quá trình vận động của mối quan hệ giữa hai giới nam và nữ.

    Nếu như thứ triết học thực dụng này đã góp phần biến anh thành một “ngôi sao sáng” của trường đại học, thì nó cũng xui nên thái độ ganh ghét và khó chịu ở các đồng nghiệp vốn thấy nội dung giảng dạy của anh thật nông cạn. May sao, thành công mà các sinh viên của Matthew đạt được trong các kỳ thi lớn nhỏ cho đến giờ vẫn củng cố thêm uy tín cho anh.

    Một nhóm sinh viên thậm chí đã ghi hình các bài giảng của anh và tải lên YouTube. Bước khởi xướng đó đã khiến một phóng viên tác nghiệp cho Boston Globe tò mò rồi viết thành bài báo. Sau khi bài báo được đăng lại trên The New York Times, Shapiro được đề nghị viết một dạng “phản biện giáo trình” triết học. Ngay cả khi cuốn sách bán rất chạy, người giảng viên trẻ tuổi vẫn không để mình ngây ngất bởi danh tiếng mới có và vẫn sẵn lòng giúp đỡ các sinh viên cũng như quan tâm đến thành công của họ. Nhưng câu chuyện đẹp đẽ đã vấp phải một biến cố bi thảm. Mùa đông năm ngoái, Matthew Shapiro đã mất đi người vợ trong một vụ tai nạn xe hơi. Một sự mất mát đột ngột và tàn khốc để lại trong anh lòng dạ rối bời. Mặc dù vẫn tiếp tục đứng lớp nhưng người giảng viên đầy đam mê và được si mê đã đánh mất lòng nhiệt huyết tạo nên nét riêng biệt ở anh.

    Erika nheo mắt để ngắm thầy giáo kĩ hơn. Từ khi diễn ra tấm thảm kịch, điều gì đó đã vỡ vụn trong Matthew. Những đường nét của anh đanh lại, ánh mắt anh đã mất đi vẻ nồng nàn; tuy nhiên, nỗi đau tang tóc và sầu muộn đã mang lại cho anh một vầng sáng âm u và bi thương khiến anh càng quyến rũ trong mắt cô gái trẻ.

    Cô sinh viên khép hờ mắt rồi buông mình theo chất giọng trầm ấm và khoan thai đang cất lên trong hội trường. Một chất giọng đã đánh mất chút màu nhiệm nhưng vẫn khiến tâm trí người nghe dịu lại. Những tia nắng xuyên qua ô cửa kính, sưởi ấm căn phòng rộng lớn và khiến cả gian giữa chói lóa. Erika cảm thấy khoan khoái, như được ru êm bởi thứ âm sắc bảo bọc này.

    Nhưng khoảnh khắc gia ân đó không kéo dài. Cô giật mình khi nghe thấy tiếng chuông báo hết giờ. Cô thu dọn sách vở không chút vội vã rồi chờ cho đến khi giảng đường váng tanh vắng ngắt mới rụt rè tiến lại gần Shapiro.

    - Em làm gì ở đây thế Erika? - Matthew ngạc nhiên khi trông thấy cô. - Em đã học xong tín chỉ này từ năm ngoái rồi mà. Em không cần có mặt trong giờ giảng của tôi nữa.

    - Em tới vì câu nói của Helen Rowland mà thầy vẫn thường trích dẫn.

    Matthew nhướng mày tỏ ý không hiểu.

    - “Những hành động điên rồ mà ta hối tiếc nhất là những hành động điên rồ ta không thực hiện khi có cơ hội.”

    Rồi cô thu hết can đảm để tỏ bày.

    - Để không phải hối tiếc, em muốn thực hiện một hành động điên rồ. Đây ạ, thứ Bảy tuần tới là sinh nhật em và em muốn... Em muốn mời thầy ăn tối.

    Matthew mở to mắt và ngay lập tức cố gắng thuyết phục cô sinh viên:

    - Em là một cô gái thông minh, Erika, vậy nên em thừa biết có ít nhất hai trăm năm mươi lý do để tôi từ chối lời mời của em.

    - Nhưng thầy vẫn muốn đi chứ ạ?

    - Xin em đừng cố nài, - anh ngắt lời cô.

    Erika cảm thấy nỗi xấu hổ dâng lên mặt. Cô vẫn ấp úng vài lời xin lỗi trước khi rời khỏi giảng đường.

    Matthew vừa thở dài vừa khoác áo măng tô và quàng thêm khăn rồi cũng rời khỏi giảng đường.

    ° ° °

    Với những thảm cỏ rộng rãi, những tòa nhà gạch nâu uy nghiêm và những tiêu ngữ bằng tiếng Latin gắn trên các trán tường, Harvard mang vẻ sang trọng và vĩnh hằng của các trường đại học Anh quốc.

    [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

    Ngay khi ra đến bên ngoài, Matthew liền cuộn một điếu thuốc, châm lửa hút rồi nhanh chóng rời khỏi Sever Hall. Túi quai chéo đeo trên vai, anh băng qua Yard, khoảng sân cỏ rộng thênh thang nơi khởi đầu một mê cung các lối mòn uốn lượn trên nhiều cây số dẫn tới các phòng học, các thư viện, các bảo tàng và ký túc.

    Khuôn viên trường chìm trong thứ ánh sáng mùa thu mỹ lệ. Từ mười ngày nay, thời tiết đặc biệt ấm áp so với lệ thường và ánh nắng chan hòa tặng cho người dân New England một quãng thời gian cuối thu vừa muộn màng vừa dễ chịu.

    - Thầy Shapiro! Cẩn thận!

    Matthew ngoảnh về phía giọng nói vừa gọi mình. Một quả bóng bầu dục đang rơi nhằm thẳng hướng anh. Anh bắt được quả bóng vừa kịp lúc và ném trả cho thủ quân đang ra hiệu xin lại bóng.

    Máy tính xách tay mở sẵn đặt trên đầu gối, sinh viên đã ngồi kín tất cả các băng ghế ở sân Yard. Trên thảm cỏ, những tràng cười loang ra và những cuộc trò chuyện đang hồi sôi nổi. Ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, các quốc tịch trộn lẫn với nhau hòa hợp, và sự pha trộn về văn hóa được xem như một tài sản. Vả chăng, đỏ rượu vang và xám, hai màu hộ mệnh của ngôi trường đại học nổi tiếng, vẫn hiển thị trên các áo khoác, áo nỉ và túi thể thao: tại Harvard, tinh thần thuộc về một cộng đồng vượt lên trên mọi khác biệt.

    Matthew vừa rít thuốc vừa đi qua trước Massachusetts Hall, khối nhà đồ sộ với kiểu kiến trúc phong cách Georgia bên trong là hệ thống văn phòng điều hành và cả ký túc xá sinh viên năm nhất. Đứng nơi bậc thềm, cô Moore, trợ lý hiệu trưởng, đang quắc mắt nhìn anh, ánh mắt giận dữ kèm theo một lời khiển trách (“Anh Shapiro, tôi phải nhắc anh bao nhiêu lần nữa đây về quy định cấm hút thuốc trong trường...”) rồi một bài diễn văn về các tác hại của thuốc lá.

    Mắt nhìn không chớp và nét mặt thản nhiên, Matthew lờ cô ta đi. Trong giây lát ngắn ngủi, anh định trả lời cô ta rằng cái chết là quá nhỏ nhoi so với những nỗi ưu tư của anh, nhưng anh đổi ý và rời khỏi khuôn viên trường đại học qua lối cổng lớn dẫn ra quảng trường Harvard.

    ° ° °

    Ồn ĩ như một tổ ong, quảng trường trên thực tế là một khu đất rộng thênh thang bao quanh là cửa hàng cửa hiệu, hiệu sách, các nhà hàng nhỏ và các quán cà phê có sân hiên nơi sinh viên và giáo viên tán chuyện trên trời dưới bể hoặc tiếp tục giờ học của họ. Matthew lục túi lấy ra bản đồ tàu điện ngầm. Anh vừa tiến vào lối dành cho người đi bộ để tới trạm chữ T - red line đảm bảo giao thông tới khu vực trung tâm Boston trong chưa đầy mười lăm phút - thì một chiếc Chevrolet Camaro cũ kĩ với tiếng động cơ vang rền lao ra góc đường nơi đại lộ Massachusetts giao với phố Peabody. Thầy giáo trẻ giật mình và bước lùi lại phía sau để không bị chiếc xe hai cửa màu đỏ rực tông phải, nó dừng lại ngang tầm anh trong tiếng lốp nghiến sào sạo.

    Cửa kính trước hạ xuống để lộ ra mái tóc màu hung của April Ferguson, người sống chung nhà với anh kể từ ngày vợ anh qua đời.

    - Xin chào, anh chàng tóc nâu đẹp trai, em chở anh về nhé?

    Tiếng vù vù của động cơ V8 lạc lõng trong không gian sinh thái chỉ hòa hợp với những tính năng của xe đạp và các loại phương tiện sử dụng năng lượng điện.

    - Anh muốn về bằng phương tiện giao thông công cộng hơn, - anh từ chối. - Em lái xe cứ như đang chơi trò chơi điện tử ấy!

    - Thôi nào, đừng có tỏ ra sợ sệt thế chứ. Em lái rất chuẩn và anh biết như thế mà!

    - Đừng cố nài. Con gái anh đã mất mẹ. Anh muốn tránh cho con bé cái cảnh mồ côi cả bố lẫn mẹ vào lúc bốn tuổi rưỡi.

    - Ôi, thôi nào! Anh đừng nói quá lên thế chứ! Đi nào, chàng nhát gan, khẩn trương lên! Em đang gây tắc nghẽn giao thông rồi đây này!

    Bị những tiếng còi xe thúc giục, Matthew thở dài rồi nhẫn nhịn ngồi vào chiếc Chevrolet.

    Anh vừa kịp gài dây an toàn thì chiếc Camaro đã bất chấp tất cả các quy định an toàn mà thực hiện một cú vòng xe nguy hiểm để phóng như bay về mạn Bắc.

    - Boston ở hướng kia cơ mà! - Anh vừa cự lại vừa bám vào cửa xe.

    - Em chỉ vòng qua Belmont một lát thôi. Cách có mười phút chạy xe. Anh đừng lo cho Emily. Em đã nhờ cô trông trẻ ở lại thêm một tiếng nữa rồi.

    - Mà thậm chí không nói qua cho anh biết ư? Anh báo trước, anh...

    Cô gái mau chóng sang hai số rồi bất thần tăng tốc khiến Matthew phải ngừng lời. Một khi đã đạt vận tốc ổn định, cô nàng quay sang anh rồi đưa cho anh một kẹp tài liệu đựng các bức vẽ.

    - Anh cứ hình dung là có lẽ em đã tìm được khách hàng cho tranh in bằng bản khắc gỗ của Utamaro, - cô nói.

    April đang điều hành một gallery nghệ thuật trong khu Soulh End: một địa điểm triễn lãm chuyên về nghệ thuật tình dục. Cô nàng thực sự có tài trong việc tìm ra những tác phẩm còn chưa được đánh giá đúng mức để bán lại chúng và thu về những khoản lợi nhuận đáng kể.

    Matthew gạt dây chun ra và thấy một lớp bọc bằng chiffon nguyên chất bảo vệ bức tranh in tay của Nhật. Một bức shunga 1 có niên đại từ cuối thế kỉ XVIII tái hiện một kĩ nữ và một trong số khách hàng của nàng đang miệt mài thực hiện một màn giao cấu vừa dâm dục vừa điêu luyện. Tính chất sống sượng của cảnh tượng được tiết giảm nhờ vẻ duyên dáng của nét khắc và độ phong phú của các họa tiết vải. Gương mặt của nàng geisha duyên dáng và thanh thoát đến mê hồn. Cũng là chuyện dễ hiểu nếu sau đó thể loại tranh khắc này có ảnh hưởng sâu rộng đến thế tới Klimt cũng như Picasso.

    - Em có chắc mình muốn xa bức tranh này không?

    - Em đã nhận được một lời đề nghị khiến người ta không thể từ chối, cô tuyên bố, bắt chước giọng Marlon Brando trong Bố già.

    - Của ai thế?

    - Một nhà sưu tập có số má người châu Á ghé qua Boston để thăm con gái. Có vẻ như ông ta đã sẵn sàng tiến hành thương vụ, nhưng chỉ còn lưu lại thành phố một ngày. Một cơ hội như thế này có lẽ không sớm lập lại...

    Chiếc Chevrolet đã rời khu phố đại học. Nó đi theo đường tắt chạy dọc Fresh Pond – hồ lớn nhất của Cambridge – trên nhiều cây số trước khi tới Belmont, một khu đô thị nhỏ ở phía Tây Boston. April nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS rồi đi theo chỉ dẫn tới tận một khu phố sang trọng và ấm cúng: một ngôi trường cây cối bao quanh nằm kề một khu vui chơi ngoài trời, một công viên và các sân thể thao. Thậm chí ở đó còn có một người bán kem dạo như bước thẳng từ thập niên 1950 ra. Bất chấp biển báo cấm rõ rành, chiếc Camaro vượt xe buýt chở học sinh rồi đỗ trong một con phố yên tĩnh có nhà cửa hai bên.

    - Anh đi cùng em chứ? - Cô vừa hỏi vừa lấy lại tập tranh.

    Matthew lắc đầu.

    - Anh thích ngồi trong xe đợi em hơn.

    - Em sẽ cố gắng xong việc thật nhanh, - cô hứa trong lúc chỉnh lại tóc trong gương chiếu hậu, để lại một lọn tóc quăn che mắt phải theo kiểu Veronica Lake.

    Rồi cô lấy từ túi xách ra một thỏi son, mau chóng trang điểm lại trước khi hoàn thành tác phẩm người phụ nữ quyến rũ mê hồn bằng cách chỉnh lại chiếc áo khoác da màu đỏ ôm sát lấy chiếc áo phông cổ khoét sâu.

    - Em không sợ làm hơi quá đà sao? - Anh chọc cô.

    - “Em đâu có xấu, em chỉ bị vẽ thành thế này thôi.”, cô nũng nịu bắt chước giọng nói và lời đáp của Jessica Rabbit.

    Rồi cô duỗi đôi chân dài miên man được quần legging ôm sát để ra khỏi xe.

    Matthew nhìn cô đi xa dần rồi bấm chuông ngôi nhà bề thế nhất phố. Xét trên thang bậc gợi tình, April không xa nấc thang cao nhất - số đo các vòng hoàn hảo, vòng eo thắt đáy lưng ong, bộ ngực nở nang đáng mơ ước, nhưng hiện thân của những ảo tưởng dành cho nam giới này lại chỉ thích phụ nữ và công khai đề cao sở thích tình dục đồng giới của bản thân.

    Vả chăng, đây chính là một trong những lý do để Matthew chấp nhận cho cô thuê chung nhà, vì biết rằng giữa họ sẽ không bao giờ có một sự nhập nhằng nào dù nhỏ nhất. Thêm nữa, April lại hài hước, thông minh và tinh nghịch. Dĩ nhiên cô nàng có tật xấu, giọng lưỡi thì hoa mỹ và khi giận dữ cũng ghê gớm, nhưng hơn ai hết cô nàng biết làm nụ cười hiện hữu trở lại trên môi con gái anh, và đối với Matthew thì điều đó quả là vô giá.

    Còn lại một mình, anh liếc sang phía bên kia con phố. Một bà mẹ cùng hai đứa con đang trang trí vườn nhà nhân dịp lễ. Anh chợt nhận ra rằng chưa đầy một tuần nữa là tới Giáng sinh và ghi nhận này nhấn chìm anh trong một cảm giác lẫn lộn giữa buồn phiền và hoảng loạn. Anh hãi hùng nhìn thấy hiện ra trước mắt ngày giỗ đầu của Kate: cái ngày 24 tháng Chạp năm 2010 bi thảm ấy đã khiến cuộc sống của anh lộn nhào xuống vực thẳm đớn đau rã rời.

    Ba tháng đầu sau vụ tai nạn, nỗi đau không để anh ngơi nghỉ chút nào, nó tàn phá anh từng giây: một vết thương hở toác, vết cắn của một con ma cà rồng hẳn đã hút sạch sự sống trong anh. Để chấm dứt khổ hình này, anh đã nhiều lần bị một giải pháp trệt để cám dỗ: gieo mình qua cửa sổ, thắt cổ bằng dây thừng, tu một ly cocktail pha thuốc ngủ, tự bắn vào đầu... Nhưng mỗi lần như thế, viễn cảnh về nỗi đau mình sẽ gây ra cho Emily lại ngăn anh biến suy nghĩ thành hành động. Đơn giản là anh không có quyền tước đi người cha của con gái mình và hủy hoại đời con bé.

    Tiếp đó, cuộc nổi dậy của những tuần đầu đã nhường chỗ cho một đường hầm dài sầu muộn. Cuộc sống đã dừng lại, đã ngưng đọng trong nỗi chán nản, đã đóng băng trong cảnh khốn cùng dài hạn. Matthew không gây chiến nữa, anh đơn giản là bị hạ gục, bị cảnh tang tóc nghiền nát, bị cấm cung với cuộc đời. Nỗi mất mát vẫn không thể chấp nhận nổi. Tương lai không còn tồn tại.

    Tuy thế anh vẫn cố gắng ghi danh vào một nhóm hỗ trợ theo lời khuyên của April. Anh đi tham dự một buổi, cố gắng bày tỏ nỗi đau của mình thành lời và chia sẻ nó với những người khác, nhưng anh không bao giờ đặt chân tới đó nữa. Chạy trốn lòng trắc ẩn ngụy tạo, những câu nói sáo rỗng hay những bài học về cuộc sống, anh tách mình ra, lang thang trong cuộc sống của mình như một bóng ma, để mình trôi dạt trong hàng tháng trời, không dự định, rã rời.

    Tuy nhiên, kể từ vài tuần nay, không thể nói rằng anh “như sống lại” được, nhưng dường như nỗi đau dịu lại trong anh. Mỗi sáng thức dậy vẫn khó khăn, nhưng một khi tới Harvard, anh vẫn gạt thiên hạ bằng cách đảm bảo các giờ giảng, tham gia các cuộc họp định hướng với đồng nghiệp, dĩ nhiên là ít hào hứng hơn trước nhưng vẫn trụ vững.

    Như thế không phải là anh tự vực dậy mà đúng hơn là anh dần dần chấp nhận tình trạng của bản thân, bằng cách dùng chính một vài khái niệm trong bài giảng của mình. Thấm nhuần thuyết định mệnh khắc kỉ và vô thường của đạo phật, từ đây anh nhìn nhận cuộc sống như nó vẫn có: điều gì đó rất mực mong manh và bất định, một tiến trình thường xuyên biến động. Không có gì bất biến, hạnh phúc lại càng không. Hạnh phúc vốn mong manh như thủy tinh, có lẽ chỉ kéo dài một khoảnh khắc, ta không nên coi nó như một thành quả.

    Anh dần lấy lại niềm ham sống qua những điều nhỏ nhặt: một cuộc dạo chơi dưới nắng cùng Emily, một trận bóng đá cùng các sinh viên, một câu đùa đặc biệt duyên dáng của April. Những tín hiệu an ủi đã khuyến khích anh giữ khoảng cách với nỗi đau và xây dựng một con đê ngăn chặn nỗi buồn.

    Nhưng khoảng tạm lắng này rất mong manh. Nỗi đau luôn rình rập, sẵn sàng thộp lấy họng anh. Chỉ cần một việc không đâu cũng đủ để nó bất ngờ túm được anh, phát cuồng và đánh thức những ký ức tàn khốc: một người phụ nữ gặp trên phố phảng phất mùi nước hoa giống Kate hoặc thậm chí là mặc áo khoác ngoài giống cô, một ca khúc nghe trên đài nhắc nhớ những ngày tháng hạnh phúc, một bức ảnh kẹp trong sách nay tìm lại được...

    Những ngày gần đây thực khó nhọc, báo hiệu một cơn tái phát. Gần đến ngày giỗ Kate, những đồ trang trí và bầu không khí sôi động gắn với công việc chuẩn bị cho các dịp lễ cuối năm, mọi thứ đều nhắc anh nhớ đến vợ.

    Từ một tuần nay, đêm nào anh cũng giật mình tỉnh giấc, tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, lần nào cũng bị cùng một ký ức đó ám ảnh: cảnh tượng giống như cơn ác mộng về những giây phút cuối đời của vợ anh. Matthew đã có mặt khi Kate được đưa tới bệnh viện nơi các đồng nghiệp của cô - cô vốn là bác sĩ - không thể giúp cô hồi sinh. Anh đã chứng kiến cái chết tàn nhẫn cướp đi của anh người phụ nữ anh yêu dấu. Họ mới chỉ có được bốn năm hạnh phúc viên mãn. Bốn năm thấu hiểu nhau sâu sắc, quãng thời gian chỉ vừa đủ để đặt cột mốc cho một câu chuyện mà họ sẽ không được trải nghiệm. Anh dám chắc một cuộc gặp gỡ như thế chỉ đến duy nhất một lần. Và anh không thể chịu nổi ý nghĩ đó.

    Mắt ngân ngấn nước, Matthew nhận ra anh đang xoay chiếc nhẫn cưới mình vẫn đeo ở ngón áp út. Ngay lúc này, anh đang vã mồ hôi còn tim anh nện thình thịch trong lồng ngực. Anh hạ cửa kính chiếc Camaro xuống, tìm một vỉ thuốc chống trầm cảm trong túi quần jean rồi đặt viên thuốc bên dưới lưỡi. Viên thuốc tan dần, mang lại cho anh một trợ lực hóa học làm dịu đi nỗi bồn chồn của anh sau khoảng vài phút. Anh nhắm mắt, day day mí rồi hít thở sâu. Để hoàn toàn bình tĩnh lại, anh cần hút thuốc. Anh ra khỏi xe, chốt cửa lại rồi tản bộ vài bước trên vỉa hè trước khi châm một điếu thuốc lá rồi rít một hơi dài.

    Vị đắng của chất nicotin phủ lên họng anh. Tim anh đập đều đặn trở lại và anh đã cảm thấy dễ chịu hơn. Anh thưởng thức điếu thuốc với hai mắt nhắm nghiền, mặt ngước lên đón cơn gió nhẹ cuối thu. Thời tiết ôn hòa. Anh nắng chiếu xuyên qua những tán cành. Không khí êm dịu gần như đáng ngờ. Anh đứng bất động như thế vài phút trước khi mở mắt. Ở đầu phố, một đám đông đã tụ lại trước một ngôi nhà. Anh tò mò tiến lại gần ngôi nhà đồng quê điển hình cho phong cách New England: một cơ ngơi rộng rãi trang trí rườm rà bằng gỗ lát, tô điểm bằng phần mái kiểu giáo đường với quá nhiều cửa sổ. Trên bãi cỏ trước nhà, người ta đang tổ chức một dạng chợ trời. Một kiểu “tổng thanh lý dọn nhà” đặc thù của xứ sở này nơi người dân chuyển chỗ ở trung bình hơn mười lăm lần trong đời.

    Matthew hòa mình vào đám đông hiếu kỳ đang săm soi bãi cỏ rộng khoảng một trăm thước vuông. Dẫn dắt cuộc bán chác là một người đàn ông trạc tuổi anh, hói đầu và đeo cặp kính nhỏ vuông vức, vẻ mặt nhăn nhó và ánh mắt lẩn lút. Mặc đồ đen từ đầu đến chân, anh ta trông cứng đờ và khắc khổ như một tín đồ phái Giáo hữu. Bên cạnh anh ta là một con chó giống Shar-pei màu vàng cát đang mài răng với một khúc xương nhựa.

    Đến giờ tan học, thời tiết thuận lợi đã thu hút đông người đến tìm những món hời. Các quầy đầy ắp những đồ tạp nham: mái chèo bằng gỗ, túi đựng gậy gôn, gậy và găng bóng chày, đàn ghi ta cũ hiệu Gibson... Dựng tựa vào một hàng giậu, chiếc xe đạp BMX, món quà Giáng sinh không thể thiếu hồi đầu thập niên 1980, rồi xa hơn nữa, những đôi giày patin và ván trượt. Matthew lục lọi giữa các gian hàng một lúc, tìm ra một loạt đồ chơi nhắc anh nhớ lại thời thơ ấu: cái yo yo bằng gỗ sáng màu, khối rubic, Hà mã ham ăn, bảng giải mã Mastermind, đĩa bay Frisbee, hình nhồi bông E.T người ngoài hành tinh, tượng nhỏ các nhân vật trong Chiến tranh giữa các vì sao... Giá thì rẻ như bèo; rõ ràng người bán muốn tống khứ thật nhanh càng nhiều đồ càng tốt.

    Matthew đang chuẩn bị rời khỏi khu chợ trời thì bỗng trông thấy một chiếc máy vi tính. Đó là một mẫu máy tính xách tay: một chiếc MacBook Pro, màn hình mười lăm inch. Không phải phiên bản mới nhất của mẫu này mà là phiên bản trình làng trước đó hoặc trước nữa. Matthew tiến lại gần và xem xét kĩ toàn bộ chiếc máy tính. Phần vỏ nhôm của máy đã được người chủ cũ để lại dấu ấn bằng một tấm đề can nhựa cứng dán phía sau màn hình. Tấm dán thể hiện một dạng nhân vật kiểu Tim Burton 2: một nàng Eva cách điệu hóa và gợi cảm dường như đang cầm trong tay biểu tượng hình quả táo của nhãn hiệu máy tính lừng danh. Bên dưới bức tranh minh họa, ta có thể đọc thấy chữ ký “Emma L.” nhưng không mấy rõ chữ ký đó thuộc về người nghệ sĩ vẽ tranh hay người chủ cũ của chiếc máy tính.

    Tại sao lại không nhỉ? Anh vừa nghĩ vừa nhìn nhãn giá. Chiếc Powerbook cũ của anh vừa đi tong hồi cuối hè. Đúng là ở nhà anh có một chiếc máy tính để bàn, nhưng anh cũng cần một chiếc máy tính xách tay mới để dùng riêng. Thế mà từ ba tháng nay, anh cứ không ngừng trì hoãn khoản tiêu pha này.

    Mức giá đề xuất cho chiếc máy tính xách tay là 400 đô. Một khoản tiền anh cho là hợp lý. Thật đúng lúc: vào thời điểm này, anh không dư dả gì cho cam. Tại Harvard, mức lương giảng viên của anh khá thoải mái, nhưng sau khi Kate qua đời, anh muốn bằng mọi giá giữ lại căn nhà của họ trên Beacon Hill, ngay cả khi anh thực sự không còn đủ khả năng tài chính. Anh quyết tâm tìm một người thuê chung, nhưng ngay cả khi đã có thêm khoản tiền thuê April trả cho, những khoản nợ phải hoàn trả đã ngốn hết ba phần tư thu nhập của anh nên anh phải lựa bề xoay xở đủ đường mới đủ chi tiêu. Thậm chí anh còn buộc phải bán đi chiếc xe mô tô cổ: một chiếc Triumph đen 1957 vốn là niềm hãnh diện của anh.

    Anh lại gần người bán rồi chỉ cho anh ta chiếc MacBook.

    - Chiếc máy tính kia còn chạy tốt chứ?

    - Không, đó chỉ là một vật trang trí thôi... Dĩ nhiên nó vẫn chạy, nếu không tôi đã chẳng bán với giá đó! Đó là máy tính xách tay cũ của em gái tôi, nhưng chính tôi đã định dạng lại ổ cứng và cài đặt lại hệ điều hành. Giờ nó như mới vậy.

    - Nhất trí, tôi sẽ mua, - Matthew quyết định sau vài giây lưỡng lự.

    Anh lục ví. Anh chỉ mang theo có 310 đô. Dù ngại anh vẫn cố mặc cả, thế nhưng người đàn ông kia lại từ chối hết sức kiên quyết. Phật lòng, Matthew nhún vai. Anh đang định quay gót thì nhận ra giọng nói hồn nhiên vui tươi của April vang lên ngay sau lưng.

    - Để em mua tặng anh! - Cô nói rồi ra hiệu giữ người bán lại.

    - Em không cần phải làm thế đâu!

    - Để ăn mừng em bán được bản tranh khắc kia mà!

    - Em bán được với giá dự kiến chứ?

    - Vâng, nhưng không phải dễ dàng gì. Gã đó nghĩ là với mức giá ấy, gã cũng phải được hưởng một trong các tư thế Kamnsutra cơ đấy!

    - “Đàn ông bất hạnh đều là do không biết dừng lại nghỉ ngơi trong một phòng ngủ.”

    - Woody Allen hả?

    - Không, Blaise Pascal.

    Người bán hàng đưa cho anh chiếc máy tính anh ta vừa đóng vào hộp bìa đi kèm. Matthew gật đầu cảm ơn anh ta trong khi April thanh toán khoản tiền như đã hứa. Rồi họ khẩn trương ra xe.

    Matthew nài nỉ xin được lái xe. Trên đường quay về Boston, kẹt trong những đám tắc đường, anh không ngờ rằng món đồ vừa mua sẽ vĩnh viễn thay đổi cuộc đời mình.

    --------------------------------
    1 Tranh tình dục khắc gỗ của Nhật Bản. (Chú thích của tác giả)
    2 Timothy Walter Burton (1958): đạo diễn, nhà sản xuất, biên kịch tài năng, nổi danh với những bộ phim như: Người dơi, Hành tinh khỉ, Charlie và nhà máy sô cô la, Cô dâu ma, Alice lạc vào xứ sở thần tiên… (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:43 PM.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    21. A girl on the run
    Ta chuyển hóa bàn tay mình bằng cách
    đặt nó vào một bàn tay khác.
    - Paul ELUARD


    Boston

    Tháng Mười hai 2010

    9 giờ 43

    - Đừng động vào cái máy tính đó!

    Khi họ về tới phòng khách sạn, nhân viên tạp vụ đang trao đổi với người quản lý, bà ta vừa báo với quản lý về hệ thống máy tính kỳ lạ của Romuald.

    - Thưa bà, tôi thành thực lấy làm tiếc, nhưng những ổ cắm điện của khách sạn không được thiết kế để tải được toàn bộ những thiết bị này, - người phụ trách tầng nói với Emma, tay chỉ vào mớ chằng chịt những dây điện và ổ cắm nối dài. - Tôi buộc phải yêu cầu quý khách vui lòng…

    - Chúng tôi sẽ rút điện toàn bộ đám máy móc này, - Emma vừa hứa hẹn vừa đẩy hai người phụ nữ ra khỏi phòng.

    Cô đóng cửa lại rồi ấn lên công tắc kích hoạt chế độ “Miễn làm phiền”.

    - Được rồi, cậu giải thích tôi xem nào? - Cô hỏi trong lúc tới chỗ cậu nhóc đang ngồi đằng sau bức tường màn hình của mình. Kate làm cách nào có thể kiếm được chừng ấy tiền?

    Romuald kết nối Internet để cho hiển thị hộp thư điện tử của mình lên màn hình lớn.

    - Chị còn nhớ trang blog của Kate không: Những gian truân của một phụ nữ Boston?

    - Dĩ nhiên là nhớ.

    - Đúng theo yêu cầu của chị, tôi đã phân tích kĩ lưỡng trang web đó, nhưng không tìm ra điều gì đủ làm bằng chứng thuyết phục. Tôi gửi hú họa đường link cho Jarod để nhờ cậu ta lưu tâm tới vấn đề này.

    - Anh chàng chuyên gia tin học bạn cậu ấy hả?

    - Đúng đấy. Tôi đã hứa là chị sẽ trả 1.000 đô nếu cậu ta lần ra điều gì đó…

    - Câu hoang phí tiền của người khác thế không biết, - cô ranh mãnh đáp. - Nhưng cậu làm tốt đấy.

    - Thoạt tiên, cậu ta đã quan sát thấy rằng các bức ảnh chụp dường như hơi nặng đối với dạng blog này.

    - Và tiếp đó?

    - Chuyện đó xui khiến cậu ta chuyển các tệp ảnh vào các phần mềm giải mã khác nhau.

    - Để giải mã cái gì chứ? - Emma hỏi trong lúc ngồi ghé lên bậu cửa sổ.

    Romuald xoay ghế về phía cô.

    - Chị đã nghe nói đến kĩ thuật giấu thư chưa?

    - Kĩ thuật giấu thư á?

    - Kĩ thuật giấu thư. Đó là kĩ thuật cho phép giấu một hình ảnh trong một hình ảnh vô nghĩa khác.

    Emma nheo mắt.

    - Khoan đã, tôi mang máng hiểu ra rồi đấy… Gần đây người ta có nhắc đến vấn đề này trên các kênh thông tin đúng không?

    - Phải, đây là một trong những kĩ thuật được mười gián điệp người Nga đã bị bắt giữ tại Mỹ mùa hè năm ngoái sử dụng. Nhờ có Internet, họ đã gửi những tài liệu tuyệt mật tới Matxcơva bằng cách mã hóa chúng, giấu sau những bức ảnh chụp trong kỳ nghỉ. Người ta cũng nhắc đến kĩ thuật giấu thư sau những vụ khủng bố hôm 11 tháng Chín. FBI luôn bóng gió ám chỉ rằng quân của Bin Laden phối hợp các cuộc tấn công của chúng bằng cách trao đổi những bức ảnh mã hóa trên các diễn đàn thảo luận dưới vẻ bề ngoài vô hại.

    - Toàn bộ những thứ này thực sự không nhìn thấy được bằng mắt thường sao?

    - Hoàn toàn không thể lần ra.

    - Nhưng làm sao có thể thế được? Làm sao người ta có thể chèn một hình ảnh vào bên trong một hình ảnh khác.

    - Chuyện này không phức tạp lắm. Có nhiều phần mềm cho phép thao tác. Nhìn chung, kĩ thuật này nằm ở chỗ thay đổi giá trị mỗi pixel của hình ảnh sao cho không thể nhận ra.

    Emma vớ lấy chiếc ghế rồi ngồi xuống cạnh cậu nhóc.

    - Tôi chẳng hiểu gì cả. Cậu nói rõ hơn chút đi.

    - Được rồi, chị có biết một pixel là gì không?

    - Những ô vuông be bé tạo nên các hình ảnh chứ gì?

    Cậu nhóc gật đầu xác nhận rồi tiếp tục giải thích.

    - Mỗi pixel được tạo thành từ ba byte: một byte cấu thành màu đỏ, một byte cấu thành màu lục và một byte cấu thành màu lam. Mỗi màu trong ba màu này có sẵn 256 sắc thái. Suy ra chúng ta có tổng cộng 256x256x256, nghĩa là hơn mười sáu triệu màu, chị vẫn theo kịp đấy chứ?

    Cô hơi bỡ ngỡ nhưng vẫn cố gắng không để lộ ra. Romuald tiếp tục:

    - Một byte được tạo nên từ 8 bit. Vậy mánh là ở chỗ sử dụng một bit trong mỗi byte tạo nên mỗi pixel của hình ảnh. Ở mức độ này, bằng cách thoái biến một bit, ta sẽ làm hình ảnh thay đổi hết sức nhẹ nhàng mà mắt thường không thể nhận biết…

    Emma đã hình dung ra.

    - Và người ta sử dụng không gian đã thông thoáng để lưu trữ những dữ liệu khác.

    Cậu nhóc huýt sáo ngưỡng mộ.

    - Không tồi, đối với một người vẫn thường sử dụng cẳng tay làm sổ ghi chép! - Cậu nhóc vừa nói vừa nở một nụ cười hài lòng khiến gương mặt rạng rỡ.

    Cô phát vào vai cậu rồi tiếp:

    - Nhưng chuyện này thì quan hệ gì tới Kate?

    - Kate sử dụng trang blog của mình như một hộp thư chết 1. Mọi bức ảnh chị ta đăng trên trang web riêng đều được mã hóa.

    - Nhưng để che giấu điều gì nhỉ?

    - Rồi chị sẽ thấy, đáng kinh ngạc lắm đấy. - Romuald cho hiển thị hình ảnh đầu tiên.

    - Chị nhìn thấy bức ảnh này chứ? Kate đã đăng lên để minh họa cho bài viết về một tiệm bánh ngọt thuộc khu North End.

    Emma vẫn nhớ bức ảnh chụp mặt tiền cửa hàng trưng bày nhiều loại bánh ngọt đủ màu sắc.

    Romuald ấn một nút trên bàn phím và một cửa sổ khác xuất hiện trên màn hình máy tính.

    - Đây là thứ xuất hiện một khi ta tách ra hình ảnh bị giấu.

    Bấy giờ hiện lên màn hình không phải một bức ảnh đúng nghĩa, mà đúng hơn là một dạng bản đồ được thêm những công thức toán và những dòng mã tin học. Emma nhăn mặt.

    - Cái gì thế này?

    - Theo tôi thì đây là một nguyên mẫu. Sơ đồ của một phát minh trước khi chế tạo, nếu chị muốn hiểu như vậy. Có lẽ là của một bộ cảm biến chuyển động. Nhưng điều thú vị hơn cả là đây.

    Cậu nhóc zoom vào bức ảnh và tăng độ tương phản để làm xuất hiện một logo có hình kỳ lân cách điệu.

    - Tài liệu này thuộc về Fitch Inc.! - Emma thốt lên. - Cậu nghi Kate thực hiện nhiệm vụ gián điệp công nghiệp chăng?

    Với sự giúp đỡ của Jarod, họ dành phần thời gian còn lại của buổi sáng để giải mã ảnh của trang blog. Những bức ảnh cũ nhất liên quan tới những bản phác thảo của các kĩ sư làm việc cho Fitch Inc. về một bộ cảm biến chuyển động mang tính cách mạng có khả năng tương tác với màn hình máy tính thông qua một cử động đơn giản của những ngón tay.

    - Giống như Tom Cruise trong Minority Report, - Romuald đùa.

    Những tệp khác liên quan đến một phiên bản bêta của một phần mềm có khả năng dịch tức thời tất cả các dạng tài liệu âm thanh. Những thiết bị nhạy cảm nhất được giấu trong những bức ảnh chụp xuất hiện gần đây nhất. Đó đơn giản là những dữ liệu từng phần của hệ thống kiểm soát các máy bay chiến đấu của Mỹ MQ1 Predator và MQ9 Reaper: những vũ khí tinh vi nhất của quân đội Mỹ. Các vũ khí hiện được sử dụng trong những trận đánh tại Afghanistan.

    Những bí mật về công nghệ và quân sự.

    Emma cảm thấy dạ dày mình quặn thắt.

    Rõ ràng Kate đã tận dụng mối quan hệ thân mật của mình với Nick Fitch để đánh cắp từ anh ta những bí mật công nghiệp mà hẳn cô nàng phải bán lại với giá đắt ngang vàng cho một công ty đối thủ hoặc cho một nhà nước mong muốn biết vài bí mật quân sự của Mỹ.

    - Những lời bình luận để lại trên blog chắc cũng nhằm mục đích đó! - Romuald đoán như thể đọc được ý nghĩ của cô. - “Chẳng có gì thú vị”, “Thú vị đấy, chúng tôi rất muốn biết thêm”… Điều này định hướng cho nữ bác sĩ ngoại khoa tìm kiếm. Bảo cho chị ta biết thông tin nào hữu ích, thông tin nào không. Xúi chị ta đào bới thêm theo nhiều hướng bằng cách cung cấp những tài liệu khác.

    Emma nhìn cậu nhóc bằng ánh mắt lo lắng. Cả hai cảm thấy adrenalin dâng lên theo độ nguy hiểm. Như thể hai người là nhân vật chính trong một bộ phim phiêu lưu mạo hiểm, “cuộc điều tra” của họ mở rộng tới những phạm vi bất ngờ. Những lĩnh vực mà họ hẳn sẽ không bao giờ mạo hiểm dính vào.

    Khỉ thật…

    Đột nhiên thấy sợ, cô nhắm mắt rồi đan tay thành hình tam giác dưới cằm.

    Làm thế nào cô tới được đây nhỉ? Cách đây năm ngày, cô chỉ đơn giản trả lời mail của một thầy giáo dạy Triết mà cô phải lòng. Tất cả những gì cô muốn, đó là tìm ra cho mình một người đàn ông! Và mong muốn đó đã dẫn cô đến chỗ mắc mớ vào một mối nhằng nhịt tàn khốc hoàn toàn vượt quá tầm kiểm soát của cô. Đằng sau vẻ bề ngoài của cuộc sống ngăn nắp đâu ra đấy của Matthew và Kate, cô đã phát hiện ra một hiện thực làm nên từ những dối trá và những bí mật nguy hiểm. Cho tới giờ, cô đã gặp may, nhưng càng điều tra sâu thêm, cô càng đoán biết được mối nguy hiểm đang rình rập.

    - Toàn bộ chuyện này không thực sự giúp chúng ta tiến xa hơn, - Romuald nhận xét. - Kate hẳn phải chấp nhận những rủi ro cực lớn để kiếm được những tài liệu này. Thế mà tất cả những gì chúng ta biết được về Kate cho thấy chị ta không phải một phụ nữ dễ mua chuộc. Tiền không phải là động cơ của chị ta, đó là một phương tiện để kiếm ra thứ gì đó khác.

    - Thứ gì đó trị giá nửa triệu đô… - Emma thì thào. Cái mà chúng ta phải tìm ra, đó là Kate sẽ làm gì với số tiền này.

    Emma vừa nói hết câu thì Romuald vớ lấy cặp kính.

    - Tôi nghĩ chúng ta sắp biết ngay thôi, - cậu ta kêu lên, tay chỉ vào một trong các màn hình.

    Bấy giờ là gần một giờ chiều. Kate đã kết thúc hai cuộc phẫu thuật.

    Mắt họ lướt từ màn hình này sang màn hình khác để dõi theo nữ bác sĩ ngoại khoa từ phòng phẫu thuật ra tới hành lang bệnh viện. Họ nhìn nữ bác sĩ dừng bước trước ngăn để đồ cá nhân rồi lấy ra chiếc túi du lịch.

    - Để tôi tới đó! - Emma kêu lên, mặc áo khoác vào.

    - Nhưng…

    Cô vớ lấy ba lô, điện thoại rồi lao ra khỏi phòng.

    - Chớ rời mắt khỏi chị ta! - Cô ra lệnh cho Romuald trước khi đóng sập cửa.

    ° ° °

    Nhanh hơn nữa nào!

    Emma chạy thật nhanh tới bệnh viện. Ra khỏi khách sạn, cô rẽ phải sang phố Charles, một trong những tuyến đường giao thông huyết mạch của thành phố, ngăn cách Boston Common và Công viên Thành phố, hai khoảng không gian xanh của thành phố. Cái lạnh chụp lấy cô ngay từ những giây đầu tiên. Cô phơi mặt ra trước gió nên thấy rát buốt. Mỗi lần hít thở, hai cánh mũi, khí quản, phế quản của cô lại có cảm giác như vừa hít vào toàn băng giá.

    Cô tiếp tục chạy tăng tốc hai trăm mét nữa. Với hi vọng tiết kiệm thời gian, cô rẽ phải rồi tiến thẳng vào công viên để ngược lên phía Đông theo đường chéo. Cô thấy khó chịu. Mọi cơ bắp đau nhức. Phổi cô gào réo đòi thứ ôxy mà cô không thể cung cấp nổi cho nó nữa. Tệ hơn nữa, đế giày của cô còn trơn tuột và chiếc quần jean bó khiến bước chạy vướng víu. Chiếc ba lô cô đang đeo trên lưng lại còn nặng, mỗi cử động của cơ thể lại khiến vỏ laptop đập vào vùng thắt lưng.

    Nhanh hơn nữa nào!

    Ra tới phố Joy, cô mất vài giây mới xác định được vị trí. Cô muốn sải bước chạy nhanh hơn nữa, nhưng cô đã kiệt sức. Đầu óc cô quay mòng mòng, khí lạnh châm chích mắt cô và lồng ngực cô như có lửa đốt. Cô lảo đảo vấp phải mép vỉa hè.

    Chớ có dừng lại! Không phải bây giờ…

    Sắp kiệt sức, bất chấp cơn đau nhói đang lan tỏa trong lồng ngực, cô vẫn tiếp tục chạy được. Cô biết nếu dừng ở đây, cô sẽ không kịp tìm ra Kate.

    Ba trăm mét còn lại ngăn cách cô với lối vào bệnh viện chính là những mét khó khăn nhất. Khi tới phố Cambridge, cô rút điện thoại ra. Cô buồn nôn. Một cơn váng vất khiến mắt cô mờ đi.

    - Cô ta đâu rồi, Romuald? - Cô áp điện thoại di động vào tai rồi hét lên.

    Cô bật ho. Cô những muốn nằm dài ra trên vỉa hè.

    - Tôi mất dấu chị ta rồi! - Cậu nhóc nói như xin lỗi. - Kate đã rời khỏi bệnh viện. Chị ta không còn trong phạm vi quan sát của camera nữa!

    - Khỉ thật! Cô ta rời bệnh viện bằng lối nào?

    - Phố Blossom, đoạn Holiday Inn, vừa mới cách đây hai phút thôi.

    Emma đảo mắt nhìn quanh. Cô nhìn thấy đoạn đầu phố, thậm chí chưa đầy trăm mét. Kate đang ở rất gần. Cô cảm thấy thế.

    - Cô ta ăn mặc thế nào?

    - Chị ta vẫn mặc áo blouse, cầm theo áo khoác dài.

    Thở không ra hơi, hai tay chống lên đầu gối, Emma đang cố gắng thở đều, trong khi những cuộn hơi nước thoát ra từ miệng cô.

    Một chiếc áo blouse, một chiếc áo khoác dài màu xám nâu nhạt…

    Cô cố gắng định vị những trang phục đó trong đám người đi bộ đang chen chúc trên vỉa hè, nhưng vào tầm giờ này, các bác sĩ, y tá và hộ lý đang lũ lượt đi ăn trưa trong các nhà hàng và các tiệm ăn nhanh khu vực xung quanh bệnh viện.

    Áo blouse trắng, pyjama xanh nhạt, đồng phục hồng…

    Cô lau những giọt mồ hôi đang tụ lại ở mắt. Bỗng nhiên, trong một thoáng chớp mắt, cô nhìn thấy một chấm đỏ đằng trước mình chừng năm chục mét, trong đám đông ồn ào đang đổ dồn về phía Whole Foods Market.

    Chiếc túi du lịch…

    Nỗi phấn khích gần như ngay lập tức xóa tan cơn mệt và Emma huy động chút sức lực cuối cùng để bước tới đại siêu thị.

    - Giữ lên lạc nhé, đầu đất! Tôi tìm ra Kate rồi!

    ° ° °

    Emma bước vào siêu thị rồi sải bước tiến về phía nữ bác sĩ ngoại khoa. Kate đang đứng một mình và vẫn đeo chiếc túi du lịch trên vai. Vẫn để ý giữ Kate trong tầm quan sát, Emma lẫn vào đám đông. Cung ứng vô số các sản phẩm bio, Whole Foods nhắm đến phân khúc khách hàng nói đúng ra là khá giả và có ý thức bảo vệ môi trường. Chỉ còn vài tiếng nữa là đến đêm Thánh, những ca khúc Giáng sinh được phát đi phát lại và siêu thị đông nghịt người. Ở lối vào, một khu vực rộng rãi được bố trí như quán cà phê để khách có thể thưởng thức đồ uống hoặc ăn trưa ngay tại chỗ bằng cách tự phục vụ trong các quầy buffet hoặc các quầy bán đồ ăn nóng, sushi và bánh vòng.

    Chỉ còn cách nữ bác sĩ vài mét, Emma theo sát Kate từng bước. Cô đứng vào hàng người xếp trước quầy xa lát, cầm một đĩa nhựa, tự lấy hỗn hợp rau quả sống và hạt mầm, chọn một chai trà nấm thủy sâm rồi thanh toán tiền tại một trong các quầy thu ngân chuyên dụng.

    Cô tiếp tục theo chân Kate đến căn phòng dài của tiệm ăn nhanh nơi các khách hàng có thể vừa thưởng thức bữa trưa vừa quan sát đường phố náo nhiệt qua ô kính rộng.

    Căn phòng đông nghịt người. Người ta chen lấn xô đẩy để tìm được một chỗ ngồi tại những chiếc bàn dài kê thêm ghế gỗ.

    Bầu không khí như trong một căng tin cao cấp. Mọi người đứng lên và tự mình đi hâm nóng đồ ăn trong dãy lò vi sóng sẵn dùng với vẻ thích thú hơi quá đà. Tuy thế, ở đây thời gian thật quý báu. Người ta ăn nhanh: một bữa ăn nhẹ cho qua bữa trong tiếng ồn ào vui tai trước khi quay trở lại làm việc trong bệnh viện hoặc trong các căn phòng thuộc khu West End. Một nơi lý tưởng để không bị ai nhận ra.

    Nhìn Kate luồn lách giữa các bàn, Emma hiểu ra rằng cô ta có một cuộc hẹn. Kate ngồi xuống đầu bàn, trên chiếc ghế mà một người đàn ông đã giữ trước bằng cách để áo khoác lên. Emma tìm cách lại gần, nhưng chỗ duy nhất còn trống cách đó chừng sáu mét. Hai chiếc bàn dài ngăn cách, và tiếng ồn xung quanh biến hi vọng nghe được cuộc trò chuyện giữa họ thành vô vọng.

    Đen thế không biết!

    Cô ngồi xuống rồi nheo mắt để nhìn cho kĩ nhân vật mới xuất hiện. Một người đàn ông chừng năm mươi tuổi, tóc muối tiêu cắt ngắn, mặc một bộ com lê sẫm màu kẻ sọc ôm sát. Ánh mắt của ông ta, màu lơ xám, lạnh lẽo, trong suốt, sánh đôi hoàn hảo với khuôn mặt cứng đờ như thể tạc trong đá.

    - Cậu có nghe thấy tôi nói không đầu đất?

    Emma thông báo vắn tắt tình hình cho Romuald.

    - Mẹ kiếp! Cô ta sắp đưa cái túi cho lão đấy! Nhất định tôi phải nghe được họ nói gì với nhau!

    - Chị chỉ việc lại gần thôi, - Romuald đáp từ đầu dây bên kia.

    Cô nổi cáu.

    - Đầu óc cậu tối tăm thế nhỉ! Tôi đã giải thích với cậu là tôi KHÔNG THỂ rồi mà! Vả lại Kate đã gặp tôi hôm Chủ nhật và sáng hôm qua. Cô ta sẽ nhận ra tôi mất.

    - OK, chị đừng có cáu chứ… - cậu nhóc phật ý.

    - Romuald, đây không phải lúc chơi trò thiếu niên hờn dỗi đâu nhé, cậu phải giúp tôi! Tới đây thì họ đã nói được cả đống chuyện rồi. Nếu cậu có ý tưởng gì thì đây chính là lúc đấy!

    Cậu nhóc im lặng ba giây rồi kêu lên:

    - Điện thoại của chị! Để nó xuống sàn rồi đá nó về phía họ. Tôi sẽ ghi âm lại.

    Cô lắc đầu.

    - Cậu đúng là đầu óc không bình thường! - Cô rít lên qua kẽ răng. - Sao mà làm thế được hả?

    Cô lo lắng gặm móng tay. Nhưng trong lúc tuyệt vọng cô vẫn làm theo lời khuyên của cậu nhóc tín đồ tin học. Cô để điện thoại xuống sàn gỗ màu vàng, vờ như đang buộc lại dây giày, rồi dùng chân đá điện thoại như chơi đánh đáo.

    Chiếc điện thoại trượt trên những tấm ván tráng thủy tinh, băng qua dưới các băng ghế và các cẳng chân buông thõng, rồi dừng lại dưới chiếc bàn rộng nơi Kate đang ăn trưa cùng người đàn ông lạ mặt.

    Cờ bạc đãi tay mới…

    Căng thẳng và co rúm trên ghế, Emma uống hai ngụm đã hết chai trà lên men, thầm cầu nguyện để không ai nhận ra chiếc điện thoại. Lời cầu nguyện của cô nhanh chóng chấm dứt, bởi chưa đầy ba phút sau, Kate và người đàn ông lạ mặt đã đứng dậy cùng một lượt.

    Đến lượt cô cũng đứng dậy, kín đáo lấy lại điện thoại trước ánh mắt sững sờ của những người khác vẫn đang ngồi bàn đó, rồi bám theo họ.

    ° ° °

    Emma nhanh chóng rời khỏi siêu thị.

    - Cậu hiểu được điều họ nói với nhau chứ Romuald?

    - Không, không thực hiểu lắm, - cậu nhóc nói như xin lỗi. - Lời họ trò chuyện bị tiếng ồn của đám đông át mất. Tôi phải lọc tiếng bản thu đã.

    - Vậy cậu mau tiến hành đi nhé! - Cô vừa ra lệnh vừa ngang nhiên dập máy.

    Trong khi nữ bác sĩ ngoại khoa quay về bệnh viện, người đàn ông lạ mặt đi theo hướng ngược lại. Emma muốn theo chân người đàn ông đã cầm chiếc túi đỏ chứa 500.000 đô.

    Cô đã quan sát, ông ta và Kate, trong suốt cuộc trò chuyện, và chắc chắn rằng không có gì đổi chác trong đó: người đàn ông cầm tiền mà không đưa lại cho Kate thứ gì.

    Người đàn ông này là ai? Ông ta hứa hẹn gì với Kate để đổi lấy số tiền kia?

    Người đàn ông đi dọc phố Cambridge hết vài trăm mét. Emma không rời ông ta lấy nửa bước nhưng vẫn giữ khoảng cách hợp lý. Đám đông dày đặc. Boston rung lên theo nhịp chuông Giáng sinh. Đại lộ lớn được trang trí hàng trăm lồng đèn. Không thân cây nào, không cột đèn đường nào là không giăng tràng hoa, không một mặt tiền nhà nào không giăng vòng cây nhựa ruồi hay một búi tầm gửi. Tay xách nách mang, nhiều người bộ hành mang vẻ mặt hân hoan và để mặc niềm phấn khích mùa lễ hội xâm chiếm. Ngay đến làn gió lạnh băng cũng tham gia vào không khí hội hè tươi vui này theo lối riêng, bằng cách cuốn theo mùi thông, mùi quế và hạt dẻ nướng.

    Khi tới trạm Bowdoin, Emma cứ ngỡ người đàn ông sẽ đi tàu điện ngầm, nhưng tới đó rồi, ông ta lại băng qua phố và leo lên chiếc xe buýt số 18. Emma cũng kịp lên xe vào phút cuối, sử dụng LinkPass, thẻ giao thông mà hôm qua cô đã mua trên đường về khách sạn sau cuộc gặp với Joyce Wilkinson.

    Trong lúc chiếc xe buýt khởi hành, cô tìm được một chỗ tách biệt, cách người đàn ông cô đang theo dõi ba ghế về phía sau. Ông ta ngồi im suốt quãng đường, chăm chú quan sát qua cửa kính xe khung cảnh đô thị đang lướt qua trước mắt.

    Chiếc xe lượn một vòng cung lớn để ra phố Park. Nó đi dọc theo Boston Common và mạn Bắc Công viên Thành phố, rồi chạy về phía Tây trên đại lộ Commonwealth. Xe vừa chạy được hơn một cây số trên đại lộ rộng lớn hai bên trồng dẻ và du thì người đàn ông đứng dậy, tiến về phía cửa sau.

    Tại điểm dừng trên phố Gloucester, Emma nhìn thấy ông ta xuống xe rồi tranh thủ chuyển động của đám đông để tới lượt mình cũng xuống xe mà không bị phát hiện. Cô theo ông ta bén gót, đi bộ chừng trăm mét về phía Nam để tới phố Boylston.

    Phố Back Bay nơi có những khách sạn sang trọng…

    Người đàn ông bước vào đại sảnh của St. Francis, khách sạn có mặt tiền ốp kính và gạch kết hợp vẻ sang trọng thời thượng với nét duyên dáng của phong cách Victoria đặc trưng cho các công trình kiến trúc của Boston. Nhất là nhà hàng của khách sạn, hồi năm ngoái đã được Michelin tặng cho ngôi sao thứ ba. Cô theo chân người đàn ông lạ mặt tới dãy thang máy rồi bước vào buồng thang máy cùng với ông ta đúng vào phút cuối. Cô để ông ta quẹt thẻ riêng – để mở khóa an toàn của buồng thang máy ốp kính – rồi ấn nút tầng bốn.

    - Cùng tầng với tôi, - cô phân trần.

    Ông ta nhìn cô không đáp, nhưng săm soi cô từ đầu tới chân.

    Lần này thì mình toi thật rồi…

    Buồng thang máy ốp kính mở ra một hành lang lót thảm dạ. Người đàn ông thậm chí còn không nhường lối cho cô theo phép lịch sự. Ông ta không ngần ngừ rẽ ngay sang phải. Emma bước vài bước theo hướng ngược lại rồi ngoảnh lại chừng nửa giây trước khi cánh cửa phòng đóng lại. Cô lấy số phòng rồi gọi thang máy xuống tầng tiền sảnh.

    Đúng lúc cánh cửa thang máy khép lại, cô bỗng nảy ra một mẹo để khám phá danh tính của “người đàn ông bí hiểm.”

    ° ° °

    Nhà hàng của khách sạn St. Francis là một hộp đựng nữ trang thực sự, đồ đạc bày biện theo phong cách hoàn toàn hiện đại. Tất cả những chi tiết trang trí đều thuộc tông kem và ánh bạc, từ những tấm bình phong bằng xa tanh, tới bốn góc phòng, tới những mép diềm bằng kim loại buông xuống từ các thanh treo rèm. Ngay cả bộ đèn chùm khổng lồ, trang hoàng bằng pha lê đẽo gọt, cũng phát ra những ánh phản chiếu màu ngà.

    - Chào mừng quý khách, quý khách đã đặt bàn chưa? - Quản lý nhà hàng hỏi Emma.

    - Tôi không tới dùng bữa. Tôi có một thông báo khẩn muốn gửi tới người quản lý rượu chỗ các vị, Mickaël Bouchard.

    - Chị vui lòng đợi.

    Emma chờ chưa đầy một phút đã thấy anh chàng quản lý rượu trẻ tuổi tới gặp mình.

    - Lovenstein ư? Chị làm gì ở đây vậy? - Anh chàng đồng nghiệp người Québec hỏi cô.

    Họ không phải bạn bè thân thiết nhưng thường xuyên gặp nhau tại các hội thảo chuyên đề, các buổi nếm rượu và các cuộc thi.

    - Chào Mickaël. Tôi cần nhờ anh giúp một việc.

    - Tôi đang trong ca làm việc. Chị biết thế nghĩa là sao rồi đấy. Chúng ta uống một ly sau nhé? - Anh chàng đề xuất.

    Cô lại gần anh ta rồi năn nỉ:

    - Xin lỗi vì đã thúc bách anh, nhưng chuyện này thực sự khẩn cấp.

    - OK, vậy chị nói nhanh đi.

    - Anh có thể hỏi danh tính khách ở phòng 321 không?

    - Chị đùa chăng? Chị đang làm gì với vấn đề bảo mật khách hàng của chúng tôi vậy? Đối với khách hàng ở Thống Soái chị cũng làm như vậy sao?

    - Anh làm ơn đi, Mickaël, chuyện này hết sức quan trọng. Hãy gọi cho lễ tân hoặc gác cổng.

    - Nhưng làm vậy tôi mất việc như chơi đấy!

    - Đừng nói quá lên thế chứ, tôi chỉ nhờ anh cho biết tên của vị khách đó thôi!

    - Và đổi lại tôi được gì trong chuyện này nào?

    - Tôi không biết. Anh muốn gì? Một màn kèn trống ngay sau đó, đằng kia, sau cửa bếp nhé?

    Cô cố tình cao giọng và một vài thực khách trong nhà hàng ngoái lại.

    Anh chàng người Canada tái nhợt, anh ta kéo Emma ra đại sảnh.

    - Chị phiền phức quá đấy, Lovenstein! Chị đúng là bệnh hoạn!

    - Ra quầy lễ tân và tìm cho tôi tên vị khách thuê phòng 321. Làm ơn đi mà!

    Anh ta làm theo vẻ cáu kỉnh. Cuộc trò chuyện diễn ra ngắn ngủi. Chưa đầy hai phút sau, anh chàng đã trở lại chỗ Emma rồi thốt lên:

    - Vị khách đó đăng ký dưới tên Oleg Tarassov. Chị vừa lòng chưa?

    Cô rút ra từ trong túi hông ba lô ra một chiếc bút.

    - Cảm ơn đã hợp tác, bạn đồng nghiệp thân mến, - cô nói rồi ghi lại cái tên lên cẳng tay.

    - Chị biến đi, Lovenstein. - Mickaël vặc lại rồi quay bước.

    ° ° °

    Mắt Romuald sáng trưng trước các màn hình. Cậu nhóc vừa mã hóa đoạn ghi âm trên máy tính và chuẩn bị lọc sạch nó bằng cách loại bỏ tạp âm.

    Cậu nhóc khởi động một phần mềm thích hợp, chương trình mở ra một cửa sổ sao chép một cấu hình bàn dựng. Cậu lắng nghe bản ghi âm để tách một đoạn khi âm thanh nền phát liên tục và dai dẳng. Cậu dùng đoạn mẫu ấy để lập tham số “biến dạng” của âm thanh bằng cách xác định chính xác tần số và âm lượng. Sau đó, cậu lựa chọn toàn bộ để tiến hành lọc âm thanh.

    Cậu nhóc nghe lại đoạn đầu của file âm thanh, nhưng chưa hài lòng với kết quả.

    Trong các loạt phim truyền hình thì dễ hơn rồi…

    Không nản chí, cậu hí hoáy với các tần số giọng trong khoảng mười lăm phút nữa, chơi đùa với biên độ âm thanh để cho ra một kết quả vừa ý hơn.

    Rồi cậu nghe lại bản thu một lần nữa.

    Và những gì nghe thấy khiến cậu lạnh sống lưng…

    ° ° °

    Emma ngồi ở quầy bar khách sạn St. Francis trên một băng ghế gần lối vào để có thể quan sát đại sảnh phòng khi Tarassov quyết định ra ngoài. Cô gọi một ly caipiroska, rồi lấy máy tính ra, kết nối với wifi của khách sạn.

    Tâm trí cô hết sức tỉnh táo. Hiện tại, cô đang hoàn toàn đắm chìm vào cuộc điều tra. Cô chưa bao giờ cảm thấy như thế này. Lượng adrenalin và cơn phấn khích gạt đi mọi phòng tuyến, khiến cô táo bạo hơn bao giờ hết.

    Cô gõ “oleg tarassov” vào công cụ tìm kiếm. Có rất nhiều kết quả: profile Facebook, LinkedIn, VK… 2 Cô nhấp chuột vào “Google image” và vô cùng ngạc nhiên khi gần như tức khắc nhìn thấy một trong những bức ảnh của Oleg Tarassov mà cô tìm kiếm. Trên ảnh, ông ta trẻ hơn chừng chục tuổi, nhưng vẫn là gương mặt không biểu lộ chút cảm xúc ấy, như thể được đúc khuôn thạch cao. Hình ảnh dẫn tới trang web được coi là kinh thánh điện ảnh trực tuyến: trang web Internet Movie Database. Căn cứ theo thông tin từ IMDb, Oleg Tarassov là một “diễn viên đóng thế” và “điều phối viên đóng thế” trong nhiều phim hành động những năm 1990. Phần lớn không phải là kiệt tác điện ảnh, còn xa mới được như vậy: các phim truyền hình, các sản phẩm hạng B, những bộ phim kinh dị không được đầu tư ngay từ thời đó đã phải ra trực tiếp dưới dạng VHS hoặc DVD. Ông ta hầu như lúc nào cũng làm việc cùng anh trai mình, Vassili, và chuyên môn của hai anh em họ dường như là diễn viên đóng thế các pha nguy hiểm với mô tô. Sự nghiệp “nghệ thuật” của họ đã kết thúc chừng chục năm trước, nhưng chỉ bằng vài cú nhấp chuột, Emma đã lần ra dấu vết của họ tại Los Angeles nơi có vẻ như họ tái xuất trong lĩnh vực an ninh cá nhân. Theo website của hãng, giờ hai anh em nhà Tarassov làm việc trong lĩnh vực giám sát và bảo vệ các yếu nhân.

    Cô đang chuẩn bị rút điện thoại ra để báo cho Romuald thì cậu nhóc tín đồ tin học đã gọi trước. Thậm chí cô không chờ hết hồi chuông đầu tiên đã bắt máy.

    - Cậu đã tìm được gì chưa hả đầu đất?

    - Rồi, - cậu nhóc trả lời bằng giọng không chút âm sắc.

    - Cậu vừa nhìn thấy ma hay sao thế?

    - Tôi đã lọc đoạn băng ghi âm, - cậu ta mở lời.

    - Tốt rồi, thì sao?

    - Tôi để chị tự nghe nhé. Đáng… sợ lắm.

    Emma nhướng mày. Cô áp điện thoại vào tai phải, bịt tai trái lại để không nghe sót điều gì trong cuộc hội thoại.

    Kate: Tiền để trong túi đó. Tôi đã làm đúng như cam kết: một khoản thanh toán 500.000 đô nữa. Năm trăm thếp đặc mệnh giá 100 đô.

    Oleg: Vậy phần còn lại thì sao?

    Kate: Ông sẽ nhận được một khi tôi biết chắc công việc đã được thực hiện chính xác theo chỉ dẫn của tôi.

    Oleg: Vậy thì tối nay?

    Kate: Đúng, nhưng ông nhất định phải chờ cuộc gọi của tôi rồi mới được tiến hành. Và không được trước 21 giờ. Nếu tôi không liên lạc thì ông cũng thôi đấy nhé, ông hiểu chứ?

    Oleg: Còn địa điểm?

    Kate: Tôi đã làm một bản lưu ý gửi ông trên usb này. Nơi đó gọi là “sườn treo”. Đó là một đoạn đường bê tông dốc và hẹp, một chiều, đằng sau ga Jackson Square tại Jamaica Plain. Nó giúp tránh đoạn nút thắt cổ chai và đèn giao thông, nhưng mọi người không muốn đi lối đó vì sợ những kẻ sống ngoài lề xã hội, đám nghiện hút và thành phố cũng đã có lệnh cấm.

    Oleg: Cô chắc chắn là sẽ không có ai chứ?

    Kate: Ta không bao giờ chắn chắc được điều gì, nhưng trời lạnh thế này, cả lũ bán lẻ ma túy và nghiện hút cũng sẽ chết gí ở nhà chúng thôi. Tôi không phải nhắc lại với ông phương thức tiến hành chứ?

    Oleg: Không, tôi hiểu mà.

    Kate: Ông ghi lại địa chỉ chưa?

    Oleg: Rồi, tôi ghi rồi.

    Kate: Như chúng ta đã thống nhất: nếu ông không thực hiện chính xác quy trình, thỏa thuận giữa chúng ta coi như vô hiệu lực.

    Oleg: Tôi đã bảo là tôi nắm được rồi mà. Một câu hỏi sau cùng: người tôi phải thủ tiêu là ai vậy?

    Kate: Là người đàn ông trên bức ảnh này. Anh ta tên là Matthew Shapiro. Chồng tôi.

    --------------------------------
    1 Trong ngôn ngữ gián điệp, một hộp thư chết là một địa điểm được sử dụng để bí mật trao đổi những tài liệu mà không buộc phải đến tận nơi gặp mặt. (Chú thích của tác giả)
    2 VKontakte, mạng xã hội phổ biến nhất tại Nga. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:53 PM.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    22. Nhóm Helsinki
    Cái chết là món nợ mà ta chỉ trả một lần
    - William SHAKESPEARE


    Tim Emma nện thình thịch trong lồng ngực. Cô lặng đi mất vài phút, sửng sốt không nói nên lời khi nghe đến đó.

    Kate thuê một sát thủ để khử Matt…

    Nhưng vì lẽ gì cơ chứ? Bởi lẽ cô ta không còn yêu Matt và muốn chung sống với Nick ư? Không thể được, người ta không giết người vì kiểu lý do đó. Chỉ cần ly hôn là xong. Để độc chiếm con gái? Lý do này cũng không hợp lý. Vì tiền? Theo những gì cô biết, Matthew không có nhiều tài sản còn Nick là một trong những người giàu nhất nước. Vậy thì là gì đây? Một cuộc trả thù chăng?

    Emma cố thử sắp xếp lại suy nghĩ. Cô chắc chắn được điều gì đây? Kate chưa bao giờ ngừng yêu mối tình thời trẻ của mình, Nick Fitch. Sau một thời gian dài chia cách, rõ ràng cô ta muốn nối lại quan hệ với hắn, nhưng cô ta cũng tận dụng mối thân tình này để đánh cắp từ người tình những thông tin mật và hình như đã bán lại với giá trên trời để có thể tự thuê sát thủ và loại bỏ người chồng.

    Một câu chuyện điên rồ hết sức…

    Nhất định phải có mối liên hệ giữa tất cả những sự kiện này, nhưng ngay lúc này, cô còn chưa tìm ra. Emma đưa tay ôm đầu. Gáy cô cứng đơ, hai chân và lồng ngực đau nhói.

    Một câu hỏi khác xoáy vào cô. Tại sao năm 2011 Matt vẫn còn sống? Tại sao rốt cuộc tay diễn viên đóng thế kia lại không thể trừ khử anh?

    - Cậu vẫn ở đầu dây đấy chứ, Romuald? Cho tôi nghe lại đoạn băng đi nào.

    Cậu nhóc làm theo. Emma dừng lại ở câu này:

    “(…) ông nhất định phải chờ cuộc gọi của tôi rồi mới được tiến hành. Và không được trước 21 giờ. Nếu tôi không liên lạc thì ông cũng thôi đấy nhé, ông hiểu chứ?”

    Cô chợt nhớ ra lời kể của Matthew. Tài xế xe tải chở bột đã tông vào xe của vợ anh, buổi tối hôm Kate qua đời, đã khẳng định lúc đó Kate đang cầm điện thoại di động trên tay. Và Matthew đã hình dung rằng Kate đang định gọi cho anh để báo rằng chiếc Madza của cô cuối cùng đã khởi động được. Nhưng trên thực tế, Kate đã tìm cách liên lạc với sát thủ cô thuê để bật đèn xanh cho lão ta. Một cuộc gọi mà nhờ vụ tai nạn, thật may là không bao giờ kết nối được với người nhận.

    Matt chỉ có thể sống sót bởi vợ anh đã chết trước khi kịp thực hiện cuộc gọi chết chóc kia.

    Một cái chết đổi lấy một mạng sống…

    Vừa liếc trông chừng về phía đại sảnh khách sạn, cô vừa chia sẻ lý giải của mình với Romuald, cậu nhóc chăm chú lắng nghe. Hiện tại họ đã có nhiều chi tiết, đầu mối, bằng chứng, nhưng họ vẫn chưa hiểu được điều chính yếu: động cơ của Kate. Đó là mắt xích còn thiếu, mắt xích sẽ soi sáng cho họ ý nghĩa của toàn bộ sự việc rùng rợn này.

    - Thế còn Kate? Tình hình thế nào rồi? - Cuối cùng Emma hỏi.

    - Như dự kiến, chị ta lấy xe rồi vừa tới bệnh viện Nhi Jamaica Plain.

    - Không có gì khác sao?

    - Có một chuyện, có lẽ không quan trọng… - cậu nhóc mở lời.

    - Cứ nói đi.

    - Khi từ Whole Foods về, Kate vội vàng check hộp mail công việc và bức mail duy nhất chị ta đã mở và in ra, đó là bức mail liên quan đến những phân tích huyết học của chồng mình.

    - Những phân tích Matthew đã tiến hành sáng nay trong chiếc xe tải của hội Chữ thập Đỏ sao?

    - Đúng vậy. Thật lạ khi kết quả được gửi tới cho chị ta phải không?

    - Tôi không rõ. Tôi đâu có thạo quy trình. Cậu có đọc được nội dung bức mail đó không?

    - Tôi có thể đọc được toàn bộ thư từ của tất cả cán bộ công nhân viên trong bệnh viện kia mà, - cậu nhóc nhắc nhở, không khỏi có chút tự hào.

    - Vậy thì hãy gửi bức mail đó sang hòm thư của tôi nhé.

    ° ° °

    Kết quả phân tích huyết học của Matthew dài hai trang giấy. Dù chẳng biết gì về lĩnh vực này, Emma vẫn mải miết đọc và cố gắng gom góp chút kiến thức ít ỏi để định hướng giữa những danh từ ngoại lai và những con số phức tạp. Đứng đầu danh sách là công thức máu: hồng cầu, huyết cầu tố, dung dịch hồng cầu, VGM, bạch cầu, bạch huyết bào, tiểu cầu, vận tốc lắng đọng, sắt, nồng độ ferritine…

    Cô gái lướt từ dòng này sang dòng khác, hi vọng tìm thấy một hướng tìm kiếm bằng cách so sánh các tỷ lệ của Matthew với mức tối đa cho phép đi kèm với mỗi nghiên cứu.

    Cô tiếp tục đọc sang công thức sinh hóa: đường huyết, creatinin, acid uric, enzyme, Gamma GT, men chuyển hóa amin, TSH, cholesterol tốt, cholesterol xấu…

    Gan, tuyến giáp, thận… Mọi thứ dường như đều bình thường…

    Cô đọc lại tổng thể kết quả mà không nhận ra điều gì đặc biệt… ngoại trừ một khung nhỏ ở góc phải của tài kiệu ghi rõ:

    Kiểu hình hồng cầu hiếm

    - Nhóm Helsinki -

    Emma ngồi thẳng dậy.

    Nhóm Helsinki ư? Nghĩa là sao?

    Cô nhìn chằm chằm vào màn hình, chờ đợi một ý nghĩ lóe lên mà không thấy. Những ngày gần đây thật cam go, nhưng chúng đã giải thoát cô khỏi nỗi sợ và buộc cô phải bước ra khỏi lớp vỏ bảo vệ để chứng tỏ sự can trường. Tuy nhiên, đến đây thì cô bí. Có lẽ cô cần sự giúp đỡ của một nhà sinh vật học hoặc một bác sĩ, nhưng cô không quen ai làm hai nghề đó.

    Cô ngoảnh ra phía cửa sổ, thở dài. Ánh nắng đầu chiều khiến con phố sáng rực, phản chiếu lên nhiều ụ tuyết nằm rải rác trên vỉa hè.

    Ngay cả khi cơn đau nửa đầu đang chớm tra tấn cô thì tâm trí cô vẫn hết sức tỉnh táo. Thầm điểm lại danh bạ của mình, cô chợt nhớ ra chồng của nữ bác sĩ điều trị tâm lý cho mình đang quản lý một phòng thí nghiệm phân tích y khoa thuộc khu Upper West Side. Phòng thí nghiệm của anh ta nằm trong cùng tòa nhà với phòng khám của vợ, nhưng Emma mới chỉ thăm hỏi qua loa nhân một buổi tối vợ chồng họ tới dùng bữa tại Thống Soái. Vấn đề là Margaret Wood lại đang đi nghỉ ở Aspen. Emma có số di động của chị ta nhưng nữ chuyên gia trị liệu tâm lý không bao giờ trực tiếp trả lời những cuộc gọi của bệnh nhân, vào thời gian nghỉ ngơi lại càng không. Tuy vậy cô vẫn thử nhưng không chút ngạc nhiên khi gặp ngay tin nhắn hộp thư thoại, đành để lại một tin nhắn năn nỉ chị ta gọi lại cho mình càng sớm càng tốt: “vấn đề sống còn”, cô đã nói rõ như vậy. Nữ bác sĩ tâm lý hẳn phải tin rằng cô đang chuẩn bị nhảy cầu Brooklyn bởi chị ta tức khắc liên lạc lại với cô. Emma xin lỗi rồi giải thích rằng cô đang cần gấp một thông tin quan trọng mà chỉ chồng chị ta mới có thể cung cấp cho cô.

    - Tôi đang ở đỉnh núi Aspen, chân đi giày trượt tuyết, nhưng nếu cô vẫn muốn gặp George thì anh ấy vẫn đang dưới chân đuờng trượt để nhấm nháp rượu bourbon ở Ajax Tavern. Tôi gửi cho cô số điện thoại di động của anh ấy nhé.

    ° ° °

    - Anh Wood phải không?

    - Tôi nghe.

    - Ngại quá vì làm phiền anh giữa kì nghỉ thế này, nhưng tôi gọi cho anh theo lời dặn của vợ anh.

    - Ừm ừm… - người đàn ông làu bàu bằng giọng không mấy hào hứng.

    - Có lẽ anh còn nhớ tôi: Emma Lovenstein. Tôi chính là người quản lý rượu trong một bữa ăn hồi năm ngoái tại nhà hàng Thống Soái.

    Nghe đến đây, giọng George đã hứng thú hơn.

    - Tôi còn nhớ rất rõ. Một buổi tối thú vị. Vả lại được như vậy một phần là nhờ cô. Cô đã khuyên tôi uống một ly porto ngon tuyệt đi kèm pho mát roquefort.

    - Chính xác đấy ạ.

    - Một ly Quinta do Noval, nếu tôi không lầm.

    - Phải rồi, một ly Quinta do Noval Nacional Vintage 1987.

    - Hình như loại rượu cùng tên niên hiệu 1964 còn ngon hơn nữa.

    - Chính xác hơn là 1963, - Emma chữa lại. - Đó là một niên hiệu huyền thoại, nhưng chỉ còn vài chai. Nếu anh thích, tôi sẽ cố gắng tìm cho anh một chai. Anh Wood à, tôi có vài câu hỏi muốn nhờ anh giải đáp, nếu anh không thấy phiền.

    - Dĩ nhiên rồi, cô gái, cô muốn gì cũng được.

    Emma cúi xuống nhìn màn hình để không phát âm sai.

    - Thế nào thì được gọi là “kiểu hình hồng cầu hiếm” vậy?

    - À, máu thì không mê hoặc bằng rượu vang rồi, phải không? Lại thêm một điểm nữa cho thấy nghề nghiệp của chúng ta không mấy cách biệt: “Tất cả các người hãy uống đi, bởi đây là máu ta…” như ông bạn của chúng ta vẫn thường nói!

    Thích thú với câu đùa của mình, anh ta bật cười ha hả:

    - Thế còn một “kiểu hình hồng cầu hiếm”? - Emma nhắc lại, cố che giấu nỗi sốt ruột của mình.

    - Đơn giản là một thuật ngữ được các nhà sinh học sử dụng khi nhắc đến một nhóm máu hiếm.

    - Hiếm như thế nào?

    George Wood đằng hắng.

    - Ừm, cô biết nguyên lý của các nhóm máu chứ Emma?

    - Có, rốt cuộc thì như tất cả mọi người thôi. Tôi biết có bốn nhóm máu chính: A, B, AB, O. Cũng như nguyên lý về các nhóm Rh dương tính hoặc âm tính.

    - Đó là kiến thức cơ sở thôi, nhưng thực tế phức tạp hơn thế nhiều. Ít người biết điều này, tuy nhiên có một vài cá nhân không thuộc nhóm máu A, không phải B, không phải AB, cũng chẳng phải O.

    - Thật sao?

    - Đúng thế, nhóm máu của họ được gọi là “Bombay”, tên thành phố của Ấn Độ nơi các nhà khoa học lần đầu tiên phát hiện ra đặc tính này. Có những người không thuộc nhóm Rh dương tính cũng không thuộc nhóm Rh âm. Vậy thì chúng ta nói đến kiểu hình Rh không. Và đây chỉ là hai thí dụ trong nhiều thí dụ. Để đơn giản hơn, một nhóm máu được gọi là hiếm khi thiếu một hoặc nhiều kháng nguyên thường thấy trong các hệ thống của các nhóm khác.

    Giọng giáo sư Wood đã hứng khởi trở lại. Rõ ràng là anh thích thú với việc chia sẻ kiến thức.

    - Đặc trưng của các kiểu hình này dẫn chúng tới chỗ sản xuất ra một dạng kháng thể nào đó có nguy cơ gây ra thí dụ như những phản ứng đào thải trong trường hợp truyền máu hoặc cấy ghép. Đặc biệt là những người thuộc nhóm “Bombay” chỉ có thể được truyền bằng loại máu có cùng đặc tính.

    Cô gái sốt ruột cũng đặt ra câu hỏi cứ chực vọt ra khỏi miệng nãy giờ.

    - Thế còn “nhóm Helsinki”, anh có biết về nhóm đó không?

    Nhà sinh học bật ra một tiếng cười rinh rích hài lòng.

    - À, nhóm Helsinki, dĩ nhiên rồi! Một nhóm còn hiếm hơn những chai rượu porto niên hiệu 1963 của cô! Người ta xếp trong nhóm có tên này những người tổ hợp nhiều kiểu hình hồng cầu cực hiếm. Theo tôi biết, trên lãnh thổ Hoa Kỳ chỉ thống kê được chừng mươi mười hai người thuộc nhóm này.

    Và Matthew là một trong số đó…

    Emma cảm thấy nỗi phấn khích xâm chiếm. Cơn đau nửa đầu đã biến mất. Cô còn chưa biết chính xác bằng cách nào, nhưng cô chắc chắn chìa khóa của bí ẩn nằm ở nhóm máu cực hiếm của Matthew.

    - Một câu hỏi sau cùng, thưa giáo sư, rồi sau đó tôi sẽ để anh tận hưởng kỳ nghỉ: người ta thường phát hiện ra mình mang một kiểu hình hiếm trong những trường hợp nào?

    - À thì chuyện đó có thể bất ngờ xảy đến trong nhiều dịp lắm chứ: sau khi mang bầu, đào thải trong quá trình truyền máu, một kiểu hình hơi phức tạp ở một bệnh nhân cho máu. Khi một phòng thí nghiệm phát hiện ra một nhóm hiếm, phòng thí nghiệm đó phải báo cáo trên một tập tin dùng cho toàn quốc.

    - Cảm ơn anh rất nhiều, giáo sư, anh đã giúp đỡ tôi hết sức hiệu quả.

    - Vậy nhờ cô tìm giúp chai rượu porto kia nhé, - anh ta nhắc lại với vẻ nửa nghiêm túc nửa đùa cợt.

    - Tôi sẽ không quên đâu.

    ° ° °

    Emma lại cảm thấy tim đập dồn. Cô đã phát hiện ra thông tin cất công tìm kiếm ngay từ đầu! Nếu còn chưa hiểu từ đầu chí cuối thì cô cũng đã chắc chắn được rằng việc Matthew thuộc nhóm Helsinki chính là tâm điểm của bí mật bao trùm quanh Kate.

    Bình tĩnh nào…

    Để sắp xếp lại suy nghĩ cho có đầu có cuối, Emma tập trung sự chú ý vào những ánh phản chiếu xà cừ và rượu absinthe mà nắng làm ánh lên nơi đáy ly. Cô quyết định tổng kết lại những gì biết về Kate và Matthew. Cô bắt đầu bằng cách lập lại hành trình gặp gỡ của họ. Cô gợi lại những kỉ niệm, nhớ lại lời của Sarah, người vợ đầu của Shapiro.

    Mùa thu 2006: Matt tới bệnh viện sau khi bị kéo làm vườn cắt phải tay. Tại phòng cấp cứu, anh gặp Kate đang có ca trực ngày hôm đó. Họ có cảm tình với nhau, cô chăm sóc anh, khâu cho anh vài mũi.

    Và dĩ nhiên là lấy máu nữa…

    Cô gái đẩy suy luận của mình ra xa hơn: nếu Kate đã tiến hành xét nghiệm máu, cô sẽ nhờ vào kết quả mà phát hiện ra Matthew thuộc nhóm máu cực kỳ hiếm: nhóm Helsinki. Vài ngày sau, cô hẹn hò với anh và chỉ vài tháng sau ngày gặp gỡ, cô cưới anh làm chồng.

    Nhưng để làm gì nhỉ?

    Emma ngẩng lên và dòng suy nghĩ bị cắt ngang bởi cô trông thấy “diễn viên đóng thế”. Oleg Tarassov vừa trả thẻ cho lễ tân và đang tiến về phía lối ra.

    Cô thu mình trên ghế, hi vọng ông ta không để ý tới mình rồi dõi theo ông ta đi ra xa.

    Điện thoại áp trên tai, cô rời quầy bar rồi rảo bước rời khỏi khách sạn St. Francis.

    - Romuald à? Tarassov đang rời khách sạn rồi. Tôi sẽ cố gắng bám theo lão ta, cậu giữ liên lạc nhé. Tôi đã phát hiện ra một chuyện rất khó tin.

    - Tôi cũng vậy, đang có chuyện muốn kể với chị đây.

    - Để sau đi, tôi… Khỉ thật!

    - Xảy ra chuyện gì thế?

    - Tôi nghĩ lão lên xe rồi!

    Cô khum tay lên mắt che nắng để nhìn cho rõ. Trái với mong đợi, nhân viên trông xe của khách sạn vừa lái tới một chiếc xe tải màu đỏ đun, hình dáng thô kệch của tấm chắn trước khổng lồ hình chữ thập trang trí hình chòm sao Bạch Dương ánh bạc. Anh ta giao chùm chìa khóa chiếc xe tải khổng lồ cho Tarassov, ông ta lập tức ngồi vào sau tay lái.

    Bị bất ngờ, Emma nhìn xung quanh một cách vô vọng hòng tìm một chiếc taxi. Cô nhờ nhân viên trông xe tìm giúp, nhưng chiếc xe tải đã lẫn vào trong dòng xe cộ, dần biến mất trước tầm mắt.

    Chó chết thật!

    - Tôi đã mất dấu lão già rồi, Romuald! Lão ta chạy xe về phía công viên.

    - Trên phố Boylston?

    - Đúng vậy.

    - Lão chạy xe gì?

    - Một chiếc Dodge to đùng màu boóc đô, nhưng…

    - Tôi thì vẫn có thể theo dõi lão đấy!

    - Không! Cậu huyên thuyên gì thế? Đừng có mà…

    ° ° °

    Cậu nhóc khoác thêm chiếc áo phao cổ rộng to sụ rồi nhét điện thoại vào túi áo. Cậu khẩn trương rời khỏi phòng, lao nhanh xuống cầu thang bộ như thể mạng sống của mình phụ thuộc cả vào chuyện này. Trong lúc phi vào đại sảnh của khách sạn hạng sang, cậu suýt xô ngã một bà cụ đang khó nhọc tiến bước bằng cách bám vào bộ khung vịn gắn bánh lăn, vấp phải chú chó xù giống Địa Trung Hải rồi va phải một anh chàng phục vụ tầng đang bê một khay chất đầy những cốc cao dùng để uống sâm banh.

    Xin lỗi, làm ơn cho qua, xin lỗi, tôi…

    Cậu nhóc chạy ùa ra sân trước khách sạn Bốn Mùa. Tới đó, cậu nhìn thấy một nhân viên gác cửa, bó chặt trong bộ đồng phục sẫm màu trang trí những chiếc cúc mạ vàng đang giúp một gia đình dỡ hành lý khỏi xe.

    Một lần thôi, đừng tự đặt ra cho mày những câu hỏi nhé…

    Động cơ xe vẫn chạy. Trong một tích tắc, Romuald ngồi vào ghế lái rồi đột ngột tăng tốc. Nhân viên gác cửa đóng cửa lại trong khi chiếc SUV để lại vài vệt miết lốp trên mặt đường trong tiếng lốp rít.

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:54 PM.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    23. Đường tình
    Ai có thể không run rẩy khi nghĩ đến những nổi bất hạnh
    mà duy nhất một mối quan hệ nguy hiểm có thể gây ra.
    - CHODERLOS DE LACLOS


    Vừa đến đại lộ, Romuald đã nhìn thấy chiếc xe tải. Cậu nghe thấy vang lên từ túi áo tiếng lạo xạo những câu gào thét của Emma, vẫn giữ liên lạc nãy giờ. Cậu lại áp điện thoại lên tai.

    - Cậu cho xe dừng lại rồi quay về khách sạn ngay! - Emma quát.

    Cô đang rảo bước, xô đẩy khách bộ hành qua lại trên phố Boylston để về khách sạn.

    - Cậu hiểu tôi nói gì không?

    - Đây là hướng điều tra cụ thể duy nhất của chúng ta!

    - Cậu đang lái một chiếc xe ăn cắp, và cậu còn chẳng biết lái xe nữa kìa!

    - Có chứ, tôi biết!

    - Cậu sẽ gây ra tai nạn rồi bị bỏ tù đấy!

    - Không thể bỏ qua cơ hội này được.

    Lần này thì chính Romuald ngắt máy mà không để cô kịp nói thêm điều gì.

    Lần đầu tiên kể từ khi họ gặp nhau, Emma thực sự ý thức được những hiểm nguy mà cô bắt cậu nhóc phải đối mặt. Cô chỉ nghĩ đến bản thân mình khi kéo cậu nhóc vào cuộc điều tra này. Lúc này, cô mới thấy hoảng với sự vô ý thức của mình, nhưng đã quá muộn: cô đã hoàn toàn mất kiểm soát với cậu nhóc người Pháp.

    Cô bước vào đại sảnh khách sạn Bốn Mùa rồi tiến về phía dãy thang máy. Cô cần bình tĩnh lại. Cần trấn tĩnh. Cần nối lại liên lạc với cậu nhóc. Cô bấm số cậu nhóc lần nữa. Cậu nhóc bắt máy.

    - Cậu đấy hả đầu đất? Tốt rồi, nghe này, tôi đồng ý. Cậu cứ bám theo lão già. Nhưng tôi ra lệnh cho cậu lái xe cẩn thận và không để mình bị phát hiện, kể cả lão già lẫn cảnh sát. Cậu đừng mạo hiểm gì và trong bất cứ tình huống nào cũng không được ra khỏi xe, hiểu chứ?

    - Vâng, thưa má.

    - Mà không bao giờ được ngắt máy đột ngột khi đang nói chuyện với tôi nữa đâu đấy!

    Điện thoại của Romuald phát ra một tín hiệu âm thanh chói tai. Cậu nhóc nhìn màn hình: biểu tượng chỉ tình trạng pin hiển thị chỉ còn 7%.

    Cậu nhóc muốn vò đầu bứt tóc. Làm sao chính cậu, người sống trên đời chỉ biết đến có điện thoại và máy tính, lại có thể bất cẩn đến vậy?

    - Điện thoại tôi sắp hết pin rồi, cậu xin lỗi. Tôi sẽ gọi lại cho chị ngay khi có tin mới.

    ° ° °

    Emma lập tức thấy giận bản thân phát điên, bị giày vò bởi cảm giác tội lỗi và bất lực. Ngoại trừ cầu nguyện, cô không thể làm gì khác để giúp đỡ Romuald.

    Cô đấu tranh để không bị cảm xúc nhấn chìm. Cậu nhóc mê tin học đã vội vã rời khỏi phòng, vẫn để các màn hình bật sáng với các ứng dụng đang hoạt động. Cô ngồi vào ghế của cậu nhóc và nhìn màn hình trước mặt. Trước lúc rời khỏi phòng, Romuald đang lục tìm trong dữ liệu lưu trữ của tờ Wall Street Journal. Trên một cửa sổ, cậu nhóc đã mở một trong vô số các bài viết mà tờ nhật báo kinh tế này dành để nói về Nick Fitch. Bài báo không phải mới được đăng tải gần đây: xuất hiện từ năm 2001, bài báo có độ dài không khác gì một mẩu tin, nhưng nội dung thì thú vị.

    Vụ Nick Fitch

    Trong khi sản phẩm nổi tiếng của mình, Unicorn, đạt được hết thành công này đến thành công khác, công ty Fitch Inc. liệu có còn một người thuyền trưởng lèo lái con thuyền?

    “Nick Fitch đang gặp phải chuyện gì?” Câu hỏi này đang trở thành đề tài bàn tán khắp thung lũng Silicon. Quả thật sự vắng mặt kéo dài của người đồng sáng lập và cổ đông đầu tiên tại trụ sở của công ty này bắt đầu gây tò mò.

    Tệ hơn nữa: từ hai tháng nay, như một cậu học trò lười, Fitch quả là đã “cúp cua” ở các buổi họp hội đồng quản trị cũng như những buổi giới thiệu sản phẩm mới với các lập trình viên.

    Một sự vắng mặt bất thường đối với nhân vật ham công tiếc việc này đã làm dấy lên nỗi lo ngại ở các nhà đầu tư và khiến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán giảm sút.

    Khi được hỏi về chủ đề này, tùy viên báo chí của tập đoàn đã khẳng định trong một thông cáo ngắn gọn rằng “mọi chuyện đều ổn” trong cuộc sống của Nick Fitch, rằng nhân vật này chỉ đang bị viêm phế quản nặng và chỉ nay mai anh sẽ quay trở lại với công việc.

    Emma nhấp chuột vào những đường link khác của trang web. Có vẻ như đúng là chỉ vài ngày sau, Fitch đã quay trở lại với công việc thật. Giá cổ phiếu của công ty trên thị trường chứng khoán lại tăng chóng mặt và thông tin này dần phai nhòa trong ký ức của mọi người cũng như trong các ngóc ngách của thế giới mạng.

    Emma đọc lại đoạn cuối bài báo.

    Bị viêm phế quản nặng ư? Nói thế nào ấy chứ…

    Cô lắc đầu rồi nhắm mắt lại để tập trung.

    Thế nếu đúng là Nick bị bệnh thật thì sao?

    Dần dần, một vài khoảng trắng được tự điền.

    Bệnh tật, máu y học, sức khỏe…

    Chừng ấy yếu tố, như những viên ngọc quý, từ đây thêm vào sợi dây dẫn hướng dần dần đưa cô tới giải pháp cho cuộc điều tra của mình.

    Emma mở mắt rồi nhìn những màn hình khác.

    Mạng nội bộ của bệnh viện…

    Cô lại gần bàn phím và chụp lấy con chuột. Cô mất chừng năm phút cùng nhiều thao tác mới hiểu được cách truy cập vào các hồ sơ bệnh án rồi bắt đầu tiến hành một tìm kiếm thông qua từ khóa.

    Thoạt tiên cô gõ “Nick Fitch”.

    Không có kết quả nào.

    Mày đang mơ hay sao, cô gái…

    Thế nên cô thử một cụm từ khóa khác: “Nhóm + Helsinki”.

    Hồ sơ của một bệnh nhân nam hiển thị lên màn hình.

    Cô cảm thấy tim mình đập dồn. Cô chưa bao giờ tới gần sự thật như lúc này.

    Đó là một gã P. Drake nào đó, hiện tại đang nhập viện tại khoa Tim ở chi nhánh của Jamaica Plain.

    Cô nhấp chuột để mở file. Ngay khi đọc tên của bệnh nhân, những mảnh ghép hình bắt đầu vào vị trí trong tâm trí cô. Người đàn ông này tên là Prince Drake.

    Prince Dark, Dark Prince: Hoàng tử Đen…

    Đó là Nick Fitch. Doanh nhân này hiện đang nằm viện tại Boston trong khoa Tim mạch nơi Kate làm việc!

    Bàng hoàng trước phát hiện này, vừa phấn khích vừa bồn chồn, Emma bắt đầu chăm chú đọc lướt bệnh án. Cô mất thời gian vào việc đó, nhưng đã hiểu ra điều chính yếu. Và điều suy luận được khiến cô sững sờ.

    Fitch được sinh ra với duy nhất một buồng tim: một dị tật tim bẩm sinh nghiêm trọng ngăn không cho máu của anh ta tiếp nhận đủ ôxy, biến anh ta lúc chào đời thành một “trẻ sơ sinh xanh lơ”: một đứa trẻ mắc chứng xanh tím không bao giờ sống sót được đến tuổi trưởng thành.

    Năm lên tám, anh ta đã trải qua một cuộc phẫu thuật can thiệp tạm thời để cải thiện lượng ôxy trong máu, tiếp theo đó là hai cuộc phẫu thuật mở tim lần nữa lần lượt bảy năm và mười năm sau.

    Những cuộc phẫu thuật này giữ lại mạng sống cho anh ta, nhưng chúng cũng chỉ có thể trì hoãn thời hạn cuối cùng: sớm hay muộn, để tiếp tục sống, anh ta vẫn cần được ghép một quả tim mới. Một ca ghép tạng hầu như bất khả nếu xét đến nhóm máu đặc biệt hiếm của anh ta, nhóm Helsinki. Sống được đến tuổi bốn mươi hai, Nick Fitch đúng là đã được hưởng phép mầu. Trong nhiều năm liền, trong mức độ bảo mật cao nhất, anh ta được chăm sóc y tế kĩ lưỡng. Dĩ nhiên là anh ta đã bấu víu được vào sự sống với một ý chí thép và rất nhiều may mắn. Nhưng hôm nay, trái tim anh ta đang dần buông lơi.

    Emma nhấp chuột cảm ứng để đọc lướt tới cuối. Những ghi chú cuối cùng chỉ ra rằng Fitch đã được nhập viện từ hai mươi tư giờ qua để chờ ghép tim.

    Lần này thì vị doanh nhân đã chơi bài ngửa: hoặc là ghép tim hoặc là cái chết.

    ° ° °

    Romuald tập trung lái xe. Cậu nhóc được một phen chết khiếp khi chiếc SUV “của cậu” đột ngột dừng lại trước đèn đỏ trên phố Beacon. Cậu mất thời gian khởi động lại xe và, trong một lúc, cậu ngỡ đã mất dấu tay diễn viên đóng thế. Nhưng cậu đã tìm ra chiếc xe tải đỏ chói trên đường cao tốc đang rẽ sang hướng Tây Bắc vào trung tâm thành phố.

    Dòng xe cộ bỗng dưng di chuyển chậm lại vì một nút thắt cổ chai ở đoạn đường gom dẫn ra quốc lộ 93. Lần này, trong khi các ô tô đang chạy san sát nối đuôi nhau, cậu nhóc chú ý để không nhầm lẫn trong việc điều khiển hộp số. Ở Pháp, cậu đã bắt đầu một khóa học lái kèm cùng bố, nhưng cậu chưa từng nghĩ đến việc mình lại sớm tự cầm lái đến thế này.

    Dòng xe cộ nhanh chóng lưu thông trở lại. Cậu giữ chiếc xe tải màu đỏ đun trong tầm ngắm, cố gắng để không bị phát hiện. Hiện tại, chiếc Dodge đang chạy nhanh về phía Bắc. Trong khoảng mười lăm phút, họ băng qua khu bảo tồn Middlesex Fells, bao quanh là những rặng sồi, thông trắng và hồ đào, rồi chiếc xe tải rẽ về hướng Đông khoảng chục cây số trước khi lại nhằm hướng Bắc theo các đường nhánh.

    Trong lúc ngược về phía Lowell – một thành phố công nghiệp xưa kia từng phồn thịnh, cậu nhóc cố gắng chạy xe ở khoảng cách hợp lý so với “mục tiêu”. Cảnh vật đẹp đến ngạt thở. Mặt trời là là nơi đường chân trời, rạch bầu trời thành những dải vàng và cam hợp nhất trong một đường diềm viền quanh một quầng sáng chói lọi. Những bề mặt rộng lớn không tì vết và trắng như sữa trải dài ngút tầm mắt điểm ánh lấp lánh của một hồ hoặc dòng chảy ánh bạc của một con sông.

    Đúng lúc Romuald ít ngờ nhất, chiếc xe tải đột ngột rẽ phải tiến vào con đường hẹp của một vạt rừng thông.

    Nhưng lão ta đi đâu vậy nhỉ?

    Cậu nhóc đỗ xe bên vệ đường rồi gọi cho Emma để thông báo vị trí của mình.

    ° ° °

    Tại Boston, mặt trời vừa biến mất sau những đám mây. Trong ánh sáng lờ mờ của căn phòng, Emma ngồi yên lặng hồi lâu. Xung quanh cô, thời gian đã ngưng đọng. Bất chấp những bằng chứng rõ ràng, tâm trí cô vẫn khó lòng chấp nhận sự thật kinh khủng mà cô vừa phát hiện: Kate lên kế hoạch giết chồng để lấy quả tim ghép cho người tình.

    Tâm trí cô sôi sục, nhưng dần dà, mọi thứ trở nên sáng rõ một cách khủng khiếp. Những thông tin thu nhập được từ một tuần nay móc nối vào nhau tạo thành màng lưới của một cái bẫy đáng sợ. Chân dung một phụ nữ hiện lên trong hình dung của cô. Một người phụ nữ, yêu đến điên cuồng, đã dùng trí thông minh của mình để vạch ra một kế hoạch quái gở.

    Một bộ phim tái hiện trong đầu Emma. Những hình ảnh, những cảnh tượng mà cô chưa từng chứng kiến, cô có thể dựng lại, không mấy chi tiết, nhưng chân thực.

    Giữa những năm 1990. Kate và Nick đang cơn yêu đương nồng thắm. Hai con người đó sinh ra là để dành cho nhau và yêu thương nhau. Vẻ đẹp hấp dẫn kỳ lạ, tuổi trẻ, trí tuệ sắc bén. Người này lóa mắt trước người kia. Câu chuyện tình của họ mãnh kiệt và đặc biệt. Nó nảy sinh trong cuộc gặp gỡ đầu tiên mà Joyce Wilkinson đã kể cô nghe, một ngày tuyết rơi, trong phòng ăn của một trạm phục vụ ven đường. Một câu chuyện tình mà Kate hẳn phải đề cao hơn tất thảy: cái ngày cuộc đời cô chuyển hướng, cái ngày họ gặp nhau, cái ngày Nick đã ra tay cứu vớt cô…

    Nhưng Nick có một bí mật: căn bệnh tim mà anh ta biết là trí mạng và giấu giếm từ thời trẻ. Có lẽ bởi anh ta không muốn bị thương hại, chắc chắn bởi anh ta không muốn mất quyền kiểm soát công ty. Anh ta biết mình có thể chết bất cứ lúc nào và không muốn bắt Kate phải chịu đựng gánh nặng cũng như nỗi đau này. Thế nên anh ta giữ khoảng cách, khiến cô đau khổ để buộc cô phải rời xa anh. Kate tuyệt vọng. Cô mất tự tin vì không hiểu nổi tại sao Nick lại cự tuyệt mình, tới mức tiến hành một cuộc phẫu thuật thẩm mỹ với hi vọng chinh phục lại anh ta.

    Bấy giờ xảy ra chuyện gì? Hẳn là Nick hiểu ra rằng mình đã lầm, mình nên tiết lộ sự thật với người yêu. Một tiết lộ mà cô gái kia đón nhận và cảm thấy có phần nhẹ nhõm. Không chỉ là Nick vẫn yêu cô, mà từ nay cô còn có cơ hội đến lượt mình cứu mạng anh. Một tiết lộ đẩy cô tới chỗ đột ngột bỏ ngang kỳ nội trú chuyên khoa thần kinh để chuyển sang chuyên khoa phẫu thuật tim. Khởi đầu của một cuộc sống mới, toàn tâm toàn ý chuyên chú học hành, nghiên cứu y khoa và theo dõi sức khỏe của Nick. Những nghiên cứu của cô đều xuất sắc và khai thác nhiều hướng – điều trị ức chế miễn dịch, thay đổi chủng loại của các nhóm máu…, nhưng không tìm ra điều gì có thể giúp Nick trong ngắn hạn. Bởi cô luôn vấp phải cùng một chướng ngại vật: chỉ một ca ghép tim mới có thể cứu mạng người đàn ông mà cô yêu, thế nhưng cô biết nhóm máu đặc biệt của Nick sẽ dẫn đến sự đào thải tất cả những nội tạng đến từ một người hiến không thuộc nhóm Helsinki.

    ° ° °

    Tình yêu có thể đưa con người đi đến đâu?

    Xa.

    Rất xa.

    Nhưng có một giới hạn mà ít người sẵn sàng mạo hiểm vượt qua.

    Kate đã vượt qua giới hạn đó.

    Cô ta đã lật đổ giới hạn đó bằng cách nào nhỉ? Đâu là thời điểm ra quyết định? Lại một lần nữa, nhờ một khả năng bắt chước kỳ lạ, Emma hầu như có thể “chứng kiến” cảnh tượng như đang ngồi trước màn hình chiếu phim.

    Mùa thu năm 2006. Giữa một ca trực dài dằng dặc, một bệnh nhân nam quyến rũ hơn các bệnh nhân khác có mặt tại phòng cấp cứu của bệnh viện. Anh vừa sử dụng kéo làm vườn và cắt phải tay mình. Đó là một thầy giáo dạy Triết trẻ tuổi. Một anh chàng thực sự dễ thương, thông minh và vui tính. Kate phụ trách việc cấp cứu và khâu cho anh ta vài mũi. Cô cảm thấy anh ta thích mình, nhưng anh chàng có vẻ đứng đắn. Tuy nhiên, anh ta không thể ngăn mình bước vào trò chơi quyến rũ. Với cô, tất cả đàn ông đều xử sự như vậy. Mặc dù không cảm thấy vẻ vang gì, cô biết mình có sức hấp dẫn mà người khác không có. Cô không vui tính gì, cũng không yên tâm với chuyện đó. Bấy lâu nay, cô đang theo đuổi một trận đấu khác. Một cuộc chiến khác.

    Tuy thế, buổi chiều nay, điều gì đó trong cô chùng xuống. Thực sự đã xảy ra chuyện gì nhỉ? Có lẽ ngày vừa qua đã khó khăn và Matthew đã khiến cô bật cười, có lẽ cô cảm nhận được con người nho nhã trong anh, có lẽ chỉ vì anh không tìm cách quyến rũ cô và cô không cảm thấy mình rơi vào vòng nguy hiểm. Thế nên cô nhận lời đi uống một lon Coca cùng anh.

    Bấy giờ là đầu tháng Mười. Đang độ cuối thu. Một vầng mặt trời vàng rực soi chiếu bãi đỗ xe của bệnh viện nơi đậu chiếc xe tải quyên máu của hội Chữ thập Đỏ. Cả hai người họ đang ngồi đó uống soda. Vì đã quen làm vậy với tất cả mọi người, Kate cố gắng thuyết phục bệnh nhân của mình hiến máu. Cô tuyên truyền, giải thích với anh rằng chính cô đang quản lý hoạt động này, sẽ rất tuyệt nếu anh đồng ý tham gia. Anh lắng nghe cô mà chẳng để tâm. Anh nhìn cô vén gọn một lọn tóc vàng ra sau tai. Anh nghĩ tới Grace Kelly trong những bộ phim kinh điển của Hitchcock. Anh tự hỏi liệu có gã đàn ông nào đã may mắn sáng nào cũng được thức dậy bên người phụ nữ này. Rồi anh lập tức thấy ghen. Chưa gì anh đã tìm cách để có cơ hội gặp lại cô. Anh thấy chuyện cô nài nỉ để anh hiến máu thật thú vị. Anh đáp anh không kiêng rượu bia thuốc lá gì. Cô bảo điều đó không quan trọng. Anh đáp lại rằng anh sợ kim tiêm. Cô đề nghị đi cùng anh. Anh hân hoan nhượng bộ.

    Rồi mỗi người lại quay trở về với cuộc sống thường nhật của mình. Có lẽ họ đã cho nhau số điện thoại, nhưng cũng không chắc chắn có chuyện đó. Trong tâm trí Kate, ký ức này sẽ không lưu trữ lâu. Nó đã bắt đầu tan biến thì bỗng, hai ngày sau, cô nhận được kết quả phân tích máu.

    Thoạt tiên, cô không tin vào mắt mình và đề nghị phòng thí nghiệm tiến hành phân tích lại trên một mẫu thử khác. Kết quả được khẳng định: Matthew đúng là thuộc nhóm Helsinki! Matthew sinh cùng năm với Nick. Anh có cùng hình thái. Anh là “người hiến tạng lý tưởng”.

    Khó mà phủ nhận rằng đó không phải một điềm báo? Một cơ may khó tin sẽ không bao giờ xảy ra lần nữa.

    Điều gì đã diễn ra trong đầu Kate tại thời khắc đó? Cô cảm thấy gì khi hiểu ra rằng cách duy nhất để cứu mạng người mình yêu là trở thành một kẻ sát nhân?

    Làm thế nào người ta vượt qua ranh giới giữa tình yêu và sự điên cuồng?

    ° ° °

    Điện thoại đổ chuông trong thinh không nhiều giây trước khi Emma bừng tỉnh khỏi dòng suy nghĩ.

    - Ừ, Romuald. Cậu đang ở đâu thế?

    - Cách phía Nam Lowell chừng chục cây số. Chiếc xe tải của lão diễn viên đóng thế vừa tiến vào một con đường rừng.

    - Nhất trí. Hẳn là lão có một túp lều hoặc một dạng hầm trú ẩn trong đó. Giờ thì chúng ta biết lão ẩn náu ở đâu rồi, cậu mau về khách sạn đi.

    Cậu nhóc ngập ngừng. Emma nghe thấy tiếng động cơ chiếc SUV tiếp tục chạy.

    - Quay về thôi, Romuald. Tôi có rất nhiều chuyện để kể cậu nghe. Chúng ta cần phải ra quyết định.

    Nhưng cậu nhóc không lắng nghe cô.

    - Romuald, xin cậu đấy!

    Cậu nhóc lau kính. Lúc này cậu không thể dừng lại giữa chừng được. Không biết điều gì ở cuối con đường đối với cậu sẽ là dũng khí, một thất bại cá nhân.

    Cậu cho xe tiến về phía trước.

    - Tôi sẽ đi xem sao, - cậu nói với Emma. - Tôi sẽ giữ liên lạc.

    Cậu liếc nhìn vạch pin - “3 %” - rồi tiến thẳng vào rừng. Con đường mòn phủ một lớp tuyết dày, nhưng những bánh xe to của chiếc Dodge san tuyết mở lối rất hiệu quả.

    Xe càng tiến sâu vào rừng, trời càng tối. Mặt trời đã biến mất, ẩn mình sau những tán lá kim ken dày. Cậu lái xe ngoằn ngoèo như vậy trong ánh sáng lờ mờ suốt nửa cây số đường.

    Ở đầu dây bên kia, Emma đang vô cùng lo lắng.

    - Cậu vẫn ở đó chứ, đầu đất?

    - Ừ, nhưng tôi đang đi vào ngõ cụt rồi.

    Cậu nhóc co quắp hai bàn tay trên vô lăng. Cuối đường mòn, chiếc Dodge đã quay đầu và đối diện với cậu.

    - Chiếc xe tải đỗ ở đây, nhưng…

    Cậu nhóc nheo mắt.

    - Nhưng sao?

    - Tôi nghĩ chẳng còn ai ngồi sau tay lái.

    - Romuald, quay lại đi, khốn thật!

    - Phải đấy, như thế cẩn trọng hơn, - cậu thừa nhận.

    Hiện tại, cậu thực sự thấy sợ. Trong vài giây, khu rừng trở nên mờ đục và dường như khép lại xung quanh cậu. Cậu sẽ điều khiển cho xe lùi lại, nhưng con đường mòn rất hẹp và chiếc xe lại đang sa lầy trong tuyết.

    Mẹ kiếp…

    Mồ hôi lấm tấm khắp trán cậu. Cậu đạp phanh rồi cho xe lùi lại trong giá lạnh. Một lớp vỏ thinh lặng bao bọc lấy khu rừng. Vài bông tuyết rời khỏi cành cây và xoay tít trong không trung.

    - Có ai đó không? - Cậu hỏi, giọng run rẩy.

    Không ai đáp lời.

    Cậu tiến vài bước để lại gần chiếc xe tải rồi nhìn qua cửa kính xe. Không có ai.

    Cậu nhận thấy cửa xe không khóa. Cậu đang định mở cửa thì nghe thấy tiếng bước chân lạo xao trên tuyết. Cậu quay phắt lại và trong chớp mắt đã nhìn thấy một bóng đen nhảy xổ vào mình.

    Cậu mở miệng để thét lên, nhưng báng một khẩu súng đã phang thẳng vào đầu cậu.

    Rồi cậu bất tỉnh.

    Emma nghe thấy một loạt những âm thanh trầm đục bèn phát hoảng.

    - Đầu đất? Cậu nghe tôi nói chứ? - Cô hỏi, giọng đầy lo lắng. - Nói tôi biết vừa xảy ra chuyện gì đi, Romuald! Tôi van cậu đấy!

    Mắt ầng ậc nước, cô không thể tiếp tục thỉnh cầu. Chỉ còn vang lên tiếng tút tút kéo dài.

    Liên lạc đã gián đoạn.


  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần sáu: Phía bên kia ranh giới

    24. Anh hùng và kẻ ác
    Đáng thương cho những ai sợ hãi bởi những
    nỗi khiếp sợ do họ tự tạo ra.
    - Stephen KING


    Màn đêm đã buông khi chiếc xe tải màu đỏ đun tới vùng phụ cận công nghiệp New Hartland, giữa Nashua và Salem, vùng giáp ranh giữa New Hampshire và Massachusetts.

    Thoạt nhìn, nơi này được bảo vệ, khi thì bằng hàng rào dây thép, khi thì bằng hàng giậu gỗ, nhưng không đủ đối với những ai thực sự muốn xâm nhập. Chiếc Dodge ngang qua trước lối vào chính, đi vòng qua phần nhô ra trên đường cái rồi chầm chậm ngược lên một lối đi rải sỏi kín đáo hơn để tới trước một cánh cổng kim loại nặng trịch khóa bằng một sợi dây xích. Lão diễn viên đóng thế phanh xe gấp, xuống khỏi chiếc xe, tay cầm một chiếc xà beng và một chiếc kéo cắt kim loại. Trong ánh sáng đèn pha, lão chỉ mất vài giây để mở hai cánh cổng. Lão lại leo lên khoang lái của chiếc xe tải rồi tiếp tục cho xe chạy.

    Kẹt giữa dòng sông và một đường sắt cũ kĩ, nơi này dần dần bị bỏ hoang vào giữa những năm 2000. Chiếc xe tải chạy xuyên qua một khung cảnh nhớp nhúa trải rộng suốt nhiều héc ta: những nhà kho và lán hàng bỏ không, những nhà máy với các khung cửa sổ bị xây bít lại, những khoảng đất hoang.

    Ngồi sau tay lái chiếc xe tải, Oleg Tarassov tiến vào dọc một nhà kho xưa kia từng là dãy lò mổ của hạt Hillsborough. Cơ sở này là cơ sở cuối cùng trong vùng đóng cửa hẳn cách đây ba năm và một phần của nó, được một nhà đầu tư mua lại, vẫn được cung cấp điện.

    Hội đồng thị chính đã cố gắng khôi phục nơi này bằng cách xây dựng, cùng những nhà đầu tư cá nhân, những dự án phân lô và những không gian hoạt động văn hóa giải trí, nhưng do khủng hoảng kinh tế, chưa vụ án nào được thực hiện. Đất đai vẫn bị bỏ hoang, những trụ sở bị cải dụng và những tòa nhà đổ nát, trước sự vui sướng của đám dân vô gia cư, du thủ du thực và nghiện hút.

    Tarassov nhảy xuống xe rồi gạt cầu dao. Một thứ ánh sáng chập chờn yếu ớt chiếu sáng nhà kho.

    Không chút nể nang, lão kéo lê Romuald trên mặt đất rồi giáng cho cậu mấy cái tát để cậu tỉnh lại.

    Không thành công.

    Tarassov thấy lo. Lão đã chăm chú xem xét cuốn hộ chiếu tìm thấy ở túi quần thằng nhóc: nó là người nước ngoài và vẫn chưa thành niên. Nó đã theo lão từ St. Francis tới đây làm gì nhỉ? Chuyện này có liên quan gì tới hợp đồng lão phải thực hiện đêm qua không? Lão nhẩm lại diễn biến của ngày vừa qua trong đầu. Lão nhăn mặt khó chịu khi nhớ tới ả đàn bà đã đi chung thang máy với lão trong khách sạn. Giờ thì lão nhớ ra rồi, lão đã chắc chắn: ả ta có lối cư xử thật kỳ lạ. Cả ả cũng theo dõi lão sao? Nhưng để làm gì? Tuy nhiên lão đã tuân thủ tất cả các nguyên tắc cẩn trọng. Như thường lệ, mắt xích yếu của hợp đồng là kẻ ra lệnh. Lão không biết có nên gọi cho Kate Shapiro hay không, nhưng thỏa thuận đã nêu rất rõ ràng: không gọi điện, không liên lạc, không để lại dấu vết. Đơn giản là làm theo những gì đã thỏa thuận. Lão tự hỏi liệu món tiền được hứa hẹn có bõ công tiếp tục không. Rồi lão kết luận là có. Người đàn bà đó đã giữ lời hứa. Cô ta đã giao cho lão hai đợt 500.000 đô. Lão không biết cô ta làm thế nào để kiếm ra số tiền đó, nhưng đó đâu phải việc của lão, cô ta có tiền mặt. Rất nhiều tiền mặt. Và những tờ tiền này không bị đánh dấu. Còn một triệu đô nữa phải thu về. Vậy nên lão quyết định sẽ thực hiện hợp đồng này đến cùng.

    Trong lúc chờ để có thể tra khảo thằng nhóc vẫn đang nằm sóng soài bất tỉnh trên mặt đất, lão diễn viên đóng thế chụp lấy một chiếc ghế dựa bằng sắt cũ, phủi bớt mạng nhện rồi ngồi vào một cái bàn kim loại. Lão đưa một điếu thuốc lên miệng, châm thuốc rồi đặt hộp diêm lên bàn. Vừa nhả ngụm khói đầu tiên, lão vừa lấy một chiếc notebook ra khỏi túi đựng, mở nó ra rồi tra cứu hồ sơ chi tiết trong đó lão đã kiên nhẫn tổng kết tất cả những thông tin liên quan đến người lão phải thủ tiêu.

    ° ° °

    Romuald bắt đầu nhìn thấy một luồng sáng màu cam chập chờn trước mắt. Đầu cậu có tiếng ù và cùng lúc, cơn đau dữ dội xoáy vào sọ. Cậu đang nằm trên mặt đất cứng đơ và lạnh ngắt. Cậu cố gắng ngồi dậy, nhưng nhận ra rằng hai tay mình đang bị trói nghiến bởi một sợi dây ni lông.

    Nhưng mình đang ở đâu thế này?

    Khi thực sự tỉnh lại, cậu nhận ra mình đang ở trong một nhà kho tường bê tông thô được chiếu sáng bằng một thứ ánh sáng màu xanh lục. Cậu giằng mạnh để thoát khỏi sợi dây trói, nhưng sợi dây ni lông càng thít chặt vào da thịt. Cậu nhăn mặt vì đau và hiểu rằng mình không thể tự giải thoát cho bản thân.

    Trong khi mắt ngân ngấn nước, cậu nhận thấy một người đàn ông đang bước dứt khoát về phía mình. Cậu cố gắng ngồi dậy, thậm chí cố gắng đứng lên, nhưng chiếc giày ống Tarassov đi dưới chân đã đè nghiến lên ngực cậu.

    - Cấm nhúc nhích!

    Cậu nhóc khiếp sợ đến nỗi không dám ngẩng nhìn lên.

    - Mày theo dõi tao để làm gì? - Lão già vừa hỏi vừa dận giày lên ngực cậu nhóc.

    Romuald nhắm mắt, co rúm người lại.

    - ĐỂ LÀM GÌ HẢ? - Tarassov hét lên, to đến mức khiến cậu nhóc bật khóc nức nở.

    Giận điên, lão già người Nga tung chân đá vào mạng sườn cậu. Romuald thở không ra hơi, rồi một khi đã lãnh trọn cú đá, cậu bật ho một tràng dài.

    Với một sức mạnh đáng gờm, Tarassov tóm lấy áo phao của cậu nhóc mà kéo lê sang một căn phòng không có cửa sổ, bốn bề tường và trần đều ốp kim loại. Lão diễn viên đóng thế thả Romuald ra khiến cậu đổ phịch xuống đất, rồi khép cánh cửa lại sau lưng. Cậu nhóc không mất nhiều thời gian đã hiểu ra mình đang ở đâu. Một cơn gió lặng băng quét qua mặt cậu. Cậu ngước mắt nhìn lên. Không khí lạnh thoát ra từ những ống xoắn của một máy sấy khổng lồ. Cậu đang bị nhốt trong một phòng đông lạnh.

    ° ° °

    Boston

    Tiệm tạp hóa, Zellig Food

    Matthew đẩy chiếc xe chở hàng, cố gắng mở đường tới quầy rau quả.

    - Nhanh lên, bố ơi, nhanh nào! - Emily rúc rích trong lúc lại gần chỗ xe chở hàng.

    Matthew vuốt má con gái rồi lấy một mớ mùi, một bó lá ngải thơm, hành, hẹ.

    Vòng qua quầy, cuối cùng anh cũng nhìn thấy chúng: loại khoai tây giống Noirmoutier mà vợ anh mê mẩn. Anh đã đi khắp phân nửa số hàng rau củ trong thành phố mà không thể kiếm ra loại đặc sản này. Tối nay, anh muốn mọi thứ phải thật hoàn hảo. Anh đã công phu chế biến một bữa tiệc bao gồm tất cả những món Kate thích nhất. Bất chấp giá cao ngất ngưởng, anh vẫn mua một lượng lớn khoai tây, kiểm tra xem danh sách còn thiếu thứ gì nữa không rồi chạy lại quầy thu ngân.

    - Bố ơi, mình quên đồ uống dành cho ông già Noel rồi! - Emily kêu lên.

    - Ừ, con nói phải đấy, - anh vừa nói vừa quay bước.

    Đến quầy đồ uống, hai bố con cùng nhau chọn một bịch sữa gà 1.

    - Chúng ta sẽ thêm một cốc đầy rượu bourbon nữa. Ông già Noel sẽ thích lắm đây, bởi vì trời lạnh thế này, món đồ uống ấy sẽ không gây hại gì cho ông ấy đâu, anh vừa nói thêm vừa nháy mắt với con gái.

    - Ý hay đấy bố! - Cô nhóc cười vang.

    Matthew cũng bật cười theo con, thầm ghi nhớ để không quên uống cốc rượu trước khi Emily xuống tới phòng khách vào sáng hôm sau.

    ° ° °

    Cái lạnh khiến cơ thể Romuald cứng đơ. Nằm cuộn tròn, đầu gối co lại tì vào ngực, cậu nhóc vùi mặt vào phần mũ lông của áo phao. Cậu nhìn đồng hồ đeo tay. Cậu nằm trong căn phòng đông lạnh này đã hơn hai mươi phút. Những kệ gỗ gãy chất đống trong một góc phòng. Cậu nhanh chóng quay lại. Những bức tường phủ đầy nấm mốc và gỉ sét. Không thể dừng chiếc máy sấy trong phòng. Không thể mở then cửa.

    Cậu nhóc tuyệt vọng thổi vào hai bàn tay để cố gắng giữ ấm. Cậu run lập cập, hai môi run run, răng va vào nhau. Tim cậu đập nhanh hơn, như sau một hồi dài gắng sức. Ban đầu, cậu cọ bàn chân này vào bàn chân kia để khỏi bị lạnh cóng tại chỗ, nhưng cái lạnh còn mạnh hơn, khiến mọi thứ đờ ra, xuyên qua quần áo cậu, khiến tứ chi cậu nổi da gà.

    Bỗng nhiên, đúng lúc câu không còn tin vào điều đó nữa, một âm thanh giảm áp lẫn với tiếng ro ro của phòng lạnh. Cánh cửa bật mở và lão diễn viên đóng thế chậm rãi tiến về phía cậu, một tay cầm dao, tay kia cầm calip.

    - Cái lạnh thật khủng khiếp phải không? - Lão nói, đoạn cúi xuống cậu nhóc. - Trước khi trải qua nó, người ta không hình dung được sự tra tấn có thể đạt tới mức độ nào.

    Bằng một nhát dao, lão khía đứt sợi dây ni lông đang làm bầm tím hai cổ tay Romuald. Cậu nhóc rời khỏi phòng đông lạnh bằng cách hầu như bò lết.

    Tarassov dõi theo cậu. Lão biết những thương tổn gây ra do thay đổi nhiệt đột ngột. Romuald thở hồng hộc. Cậu ho sù sụ, xoa xoa hai vai, cánh tay, mặt, nhưng cậu hầu như vẫn lạnh như trước. Chỉ những hớp không khí lớn nóng hơn mà cậu đang hít vào tiếp cho cậu thêm chút sinh lực.

    Tarassov chỉ để cho cậu vài phút ngơi nghỉ.

    - Tao sẽ không hỏi đi hỏi lại cả chục lần đâu, - lão báo trước. - Lựa chọn đơn giản thôi: hoặc mày trả lời tao ngay, hoặc là mày quay lại phòng đông lạnh để không bao giờ ra khỏi đó nữa.

    Mắt nhắm nghiền, Romuald tiếp tục thở dốc. Tarassov lại đe dọa:

    - Mày tin rằng thứ mày vừa trải qua là địa ngục, nhưng mày nhầm rồi. Đó chỉ là món khai vị thôi. Nghĩ cho kĩ đi: mày đang giữa chốn đồng không mông quạnh. Mày muốn kêu to thế nào tùy ý, sẽ chẳng ai nghe thấy đâu. Nếu không chịu khai, mày sẽ chết một mình, chậm rãi và theo cách tồi tệ đấy.

    Romuald mở mắt, liếc quanh xung quanh. Không có lối ra nào hòng hi vọng trốn thoát. Không có nơi nào để ẩn náu.

    Lão người Nga đứng như trời trồng trước mặt cậu.

    - Tao hỏi mày lần cuối: mày theo dõi tao nhằm mục đích gì?

    Cậu nhóc bật ho một tràng nữa. Tarassov sốt ruột túm lấy tóc cậu.

    - Mày có trả lời không thì bảo?

    Gom hết toàn bộ năng lượng, Romuald bất thần cúi đầu rồi húc một cú vào ngực kẻ tấn công mình.

    Bị bất ngờ, lão người Nga hứng trọn đòn tấn công. Cậu nhóc tranh thủ thời cơ đó để chạy đi, nhưng lão diễn viên đóng thế đã kịp ngăn đà chạy của cậu nhóc bằng một cú đá.

    - Mày tính đi đâu trong tình trạng này?

    Romuald nặng nề đổ xuống chiếc bàn kim loại nơi Tarassov để đồ đạc.

    Trong một giây, tên sát thủ lao tới cậu rồi nện cho cậu một trận ra trò. Những cú đấm thẳng vào bụng, những cú đấm móc, thúc khuỷu tay vào mạng sườn: trận đòn trút xuống tới tấp không ngớt. Trận đòn vẫn tiếp tục bằng chân khi Romuald đã ngã lăn ra đất.

    Khi cơn dông tố đã qua, cậu nhóc, phải hứng trọn trận đòn thù, đã không còn sức để đứng dậy. Tarassov túm chiếc áo phao của cậu nhóc rồi kéo lê cậu một lần nữa tới tận phòng đông lạnh.

    - Иди к черту 2! - Lão vừa hét vừa đóng cánh cửa kim loại lại.

    Lão kiểm tra xem cánh cửa đã được khóa kĩ chưa rồi quay về nhà kho chính. Lão dựng lại chiếc bàn mà cậu nhóc đã làm đổ, nhặt lại máy tính, bao thuốc và chùm chìa khóa. Lão xác nhận chiếc notebook không bị vỡ rồi cất nó vào trong túi đang để trên ghế cạnh lái của chiếc xe tải. Lão lấy ra một điếu thuốc rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

    Để sau đi, lão nghĩ bụng và cất điếu thuốc vào bao.

    Lão tiến về phía cuối nhà kho mở ra một dãy các ô có cửa chính bằng kim loại. Lão mở ô đầu tiên có dựng một chiếc mô tô mang dáng dấp của mẫu Chopper những năm 1970: một chiếc Harley Davidson “Fat Boy” bình xăng màu vàng lửa, thân xe mạ crôm.

    Lão dắt chiếc mô tô ra khỏi “ga ra” rồi lái nó ra chỗ sáng hơn: đó là một chiếc xe có bình xăng lớn, bánh to, càng bánh trước to kềnh và vành bánh đục lỗ.

    Lão kiểm tra để chắc chắn khẩu Glock vẫn nằm trong bao, bên ngực phải, rồi nhét thêm một khẩu súng khác, nhỏ hơn, vào túi đựng ở mắt cá. Lão đội mũ bảo hiểm và mặc thêm một chiếc áo khoác dày trước khi ngồi lên con ngựa thép.

    Lão tăng ga rồi kích hoạt bộ thu GPS trên bảng điều khiển để nhập vào đó dữ liệu chính xác của ngôi nhà nơi Matthew Shapiro sinh sống. Gần như ngay lập tức, hệ thống định vị tính toán các lộ trình để tới Beacon Hill. Tarassov chọn lộ trình ngắn nhất. Lão xỏ găng, nhìn đồng hồ đeo tay lần nữa rồi tiến tới tận lối vào nhà kho. Tới đó, lão gạt cầu dao tắt điện rồi rời khỏi khu lò mổ cũ.

    ° ° °

    Chiếc mô tô rời khỏi những con đường ngoằn ngoèo bao quanh Windham rồi phóng trên đường quốc lộ 93 nhằm hướng Boston. Mặt bạt gió, Oleg Tarassov để hở kính mũ mà lái xe, để mình ru theo âm thanh của động cơ hai xi lanh. Đường thông thoáng đến đáng ngạc nhiên. Với tốc độ này, lão sẽ vào đến thành phố trong vòng chưa đầy bốn mươi phút nữa.

    Vẫn tập trung vào đường đi, lão điểm lại bản hợp đồng kỳ lạ mà lão phải thực hiện. Sẽ đơn giản hơn nhiều nếu găm một viên đạn vào đầu Matthew Shapiro hoặc cắt cổ hắn ta bằng một nhát dao găm. Nhưng Kate Shapiro đã nói rất rõ: cô ta không muốn sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào. Bởi một khẩu súng hoặc một con dao chắc chắn sẽ kéo theo một cuộc điều tra của cảnh sát. Và cô ta nhất quyết muốn cảnh sát tránh xa “vụ” này.

    Chiều nay vẫn thế, cô ta nhắc lại với lão rằng việc giao nốt số tiền còn lại phụ thuộc vào việc kế hoạch có diễn ra chính xác như cô ta dự kiến không: chồng cô ta phải chết trong một vụ tai nạn tàn khốc. Một vụ tai nạn sẽ khiến anh ra bị chấn thương não, kéo theo hiện tượng xuất huyết não.

    Oleg nuốt nước bọt. Kate đã chọn lão bởi hồi còn trẻ ở Nga, lão đã bắt đầu học Y rồi làm công việc y tá một thời gian. Vậy nên lão không gặp khó khăn gì trong việc hiểu chính xác những chỉ dẫn của nữ bác sĩ ngoại khoa: phá hủy trọn vẹn và không thể cứu chữa hệ thống thần kinh trung ương trong hộp sọ của Matthew Shapiro, nhưng không động đến phần còn lại của cơ thể. Nói cách khác, làm giả một vụ tai nạn để phá hủy não của anh ta, nhưng bảo toàn các bộ phận khác. Trong trường hợp chết não, tim vẫn có thể tiếp tục đập trong hơn hai mười tư giờ nữa, máy móc hồi sức cấp cứu có thể duy trì được lượng ôxy trong máu.

    Tarassov có nguyên tắc không bao giờ tìm hiểu động cơ của các khách hàng. Lão cũng không phán xét các động cơ đó. Ai cũng có lý do của mình. Bất chấp nguyên tắc đó: kế hoạch xảo quyệt do người đàn bà này nghĩ ra khiến lão lạnh sống lưng. Cô ta đã lên kế hoạch chi tiết tới mức tự mình gợi ý cho lão địa điểm gây tai nạn. Đó là một ý tưởng tuyệt vời…

    “Sườn treo” là một đoạn đường dốc và hẹp bằng bê tông, nằm không phải ở sườn vách đá, mà trên một mặt đứng của khoảnh đất cho phép vòng tránh một nút giao thông. Nếu biết đến sự tồn tại của nó, bạn sẽ tiết kiệm được thời gian quý báu bằng cách đi tắt từ đại lộ Connoly tới phố Rope, một phố nhỏ nằm sau ga Jamaica Plain.

    Mặc dù địa hình đường không cho phép phóng nhanh nhưng hai năm gần đây, đã có ba người đi mô tô thiệt mạng. Lỗi là ở những thanh chắn an toàn bằng kim loại viền hai bên đường và các hiệp hội người sử dụng mô tô đã cảnh báo nguy hiểm này. Nguyên nhân là khoảng cách từ mặt đất đến thanh chắn ngang: một khoảng trống năm chục xăng ti mét có thể dễ dàng biến thành một máy chém nếu sau một cú trượt, người điều khiển xa mô tô vô tình lọt xuống dưới thanh chắn. Chỉ cách nhau vài tháng, hai người đàn ông đã kinh hoàng chứng kiến mũ bảo hiểm của họ kẹt trong khe thanh chắn, trong khi một người khác đã va trực diện phải một trong số cọc của những thanh chắn nhằm đảm bảo an toàn này. Ba vụ tai nạn chết người tại cùng một địa điểm đã gây quan ngại cho giới chức thành phố. Từ đó đã nổ ra một cuộc tranh luận để tìm cách cải thiện mức độ an toàn của đoạn đường này. Trong khi chờ đợi, hội đồng thành phố đã rũ bỏ trách nhiệm bằng cách cấm xe mô tô đi qua đoạn đường này.

    Nhưng ai thực sự tuân thủ lệnh cấm này kia chứ?

    Theo Kate, chồng cô ta sẽ không làm vậy…

    Oleg hạ kính chắn trên mũ bảo hiểm xuống. Lão liếc nhìn vào kính chiếu hậu rồi chuyển làn để vượt một dãy xe tải. Một loạt biển chỉ dẫn cho thấy thành phố đang ở rất gần. Lão căng mắt chăm chú nhìn đường để không bỏ lỡ lối ra số 26 theo hướng Storrow Drive. Như thiết bị GPS đang chỉ dẫn, lão di chuyển trên đường cao tốc chạy dọc sông Charles tới tận ngã tư phố Beacon. Lão nhằm thẳng hướng quảng đường Copley, qua phố Mount Vernon rồi tới quảng trường, nhấc mũ bảo hiểm ra rồi đưa một điếu thuốc lên môi. Lão lộn trái các túi nhưng không thể tìm ra hộp diêm. Bực bội vì không thể châm điếu thuốc, lão gườm gườm nhìn khung cửa sổ mà Kate Shapiro đã chỉ cho.

    Qua ô cửa kính, lão nhìn thấy bóng một người đàn ông, rồi một bé gái.

    Thật tiếc cho anh ta, nhưng chưa đầy hai mươi phút nữa, người đàn ông này sẽ chết.

    ° ° °

    - Mấy bức tranh con vẽ đẹp không bố? - Emily hỏi, chìa cho bố xem ba bức tranh vẽ trên giấy bìa.

    Matt chăm chú nhìn: giữa một bản giao hưởng các màu sắc ấm nóng từ ngòi bút dạ, có thể thấy rõ bầy tuần lộc đang kéo xe của ông già Noel, ngồi trên xe là ông già tuyết và một nàng công chú. Đúng ra thì không hề tệ đối với một cô nhóc mới ba tuổi rưỡi.

    - Đẹp lắm, con yêu! - Anh hào hứng khen rồi xoa đầu con gái. - Mẹ sẽ hài lòng nếu thấy con minh họa cho thực đơn của nhà mình. Con sẽ bày các món ăn ra bàn chứ?

    Emily gật đầu rồi chạy vào gian phòng ăn, leo lên chiếc ghế đẩu và lần lượt để vào ba chiếc đĩa tờ thực đơn của buổi tối đặc biệt, toàn những món mẹ cô nhóc yêu thích:

    Gỏi sò Saint-Jacques ướp lạnh kèm trứng cá muối

    Xúp actisô kèm bánh nhồi nấm củ

    Hàu Rockefeller

    Tôm hùm Maine kèm khoai tây Noirmoutier

    Bánh kem mứt hạt hồ đào và sô cô la

    - Cẩn thận kẻo ngã đấy con! - Matthew vừa dặn vừa trông chừng con gái từ xa.

    Anh đang lau tay vào tạp dề, nhẩm ôn lại những thành phần của nhân nhồi để trang trí món hàu Rockefeller: tỏi, bơ, mùi, ngải thơm, hẹ, thịt hun khói, vỏ bánh mì nghiền vụn, dầu ô liu, tiêu Cayenne…

    Matt nhìn đồng hồ treo tường. Giờ này Kate đã sắp về. Anh kiểm tra xem chai sâm banh dành riêng cho dịp này đã được ướp lạnh chưa, tự hỏi liệu anh có nên bật lò cho nóng trước, nấu khoai tây…

    - Bố ơi, con đói! - Emily mè nheo.

    Anh ngước mắt nhìn lên. Cô nhóc đã quay ra chơi dưới chân cây thông.

    - Vài phút nữa nhé, con yêu, - anh nói chắc.

    Những tràng hoa nhấp nháy chuyển sắc hồng, bạc và xanh lơ, tạo ra một quầng sáng huyền ảo xung quanh con gái anh đang đóng giả làm một nàng công chúa.

    - Bố sẽ chụp ảnh con đứng cạnh cây thông nhé, rồi bố sẽ gửi ảnh cho mẹ để giục mẹ mau về, - anh quyết định.

    Đúng lúc anh cầm đến điện thoại di động thì nó rung lên trong tay anh. Là vợ anh.

    --------------------------------
    1 Một hỗn hợp đồ uống gồm sữa, kem, đường và lòng đỏ trứng ướp hương quế hoặc hạt nhục đậu khấu. Món đồ uống truyền thống của người Pháp trong buổi tối Giáng sinh.
    2 Tiếng Nga trong nguyên bản: Xuống địa ngục đi!

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    25. Trong thung lũng của các linh hồn
    Nghịch cảnh, như một cơn gió dữ, ngăn chúng ta tới nơi
    chúng ta muốn đến, tước đoạt của chúng ta và để mặc
    chúng ta đối diện với con người thật của chúng ta, chứ
    không phải con người mà chúng ta hằng nghĩ
    - Arthunr GOLDEN


    24 tháng Mười hai 2010

    Jamaica Plain (ngoại ô Boston)

    20 giờ 59

    Phòng bệnh ngập trong thứ ánh sáng trắng. Trong lúc chờ ghép tim, Nick Fitch chìm trong hôn mê. Kể từ giờ, mạng sống của vị doanh nhân chỉ còn phụ thuộc vào máy thở nhân tạo cắm điện bên cạnh giường. Kate nheo mắt, kiểm tra mớ dây truyền, các hằng số và tiến triển ổn định của điện tim đồ. Rồi cô nghiêng người đặt một nụ hôn phớt lên môi người tình.

    Hẹn anh lát nữa nhé. Anh đừng lo. Em sẽ phụ trách từ đầu chí cuối.

    Cô nhắm mắt lại để lấy thêm năng lượng, rồi hít vào thật sâu, cởi chiếc áo blu trắng và rời khỏi phòng.

    Nhất định không được nao núng. Làm theo đúng kế hoạch.

    Cô đi thang máy xuống tầng trệt, chào các đồng nghiệp hiếm hoi gặp trong hành lang dẫn tới khoa Cấp cứu.

    Đừng phí phạm thời gian nữa.

    Đúng như cô trông đợi, bệnh viện đang yên tĩnh. Ngoại trừ những vết thương do dao chuyên dùng để ăn hàu gây ra, buổi tối Giáng sinh luôn kém náo nhiệt hơn tối giao thừa 31 tháng Mười hai. Ngay đến phòng nghỉ, dù được trang hoàng cẩn thận, vẫn có vẻ hơi uể oải.

    Kate lấy từ trong ngăn tủ ra áo măng tô, túi xách và điện thoại di động. Cuộc gọi đầu tiên dành cho chồng cô. Cô vừa tiếp tục bước đi vừa nói chuyện với anh, ngược hành lang dài trong mờ dẫn tới bãi đỗ xe, sắm trọn vai người vợ kiểu mẫu, hoàn toàn đón trước được từng phản ứng của Matt.

    - Chào anh yêu. Em đang rời khỏi bệnh viện đây, nhưng xe của em vẫn chết gí trong bãi đỗ xe! - Cô nói dối. - Anh vẫn có lý như thường lệ: đúng là em nên đổi chiếc xe cà khổ này thôi.

    - Anh đã bảo em cả nghìn lần rồi… - Matthew nhận xét.

    - Nhưng em gắn bó với chiếc Mazda hai cửa cũ kĩ này lắm! Anh cũng biết đây là chiếc xe đầu tiên em có thể tậu cho mình từ thời sinh viên còn gì!

    - Cưng à, hồi đó là thập niên 1990, mà lúc em mua nó đã là xe qua sử dụng rồi mà…

    - Em sẽ thử bắt tàu điện ngầm.

    - Em đùa hay sao? Giờ này ở khu đó nguy hiểm lắm. Để anh đi mô tô tới đón em.

    - Không, trời đang lạnh lắm, vừa mưa vừa tuyết nữa chứ, đi mô tô không an toàn đâu Matt!

    Cô thừa biết anh sẽ cố nài. Cô để mặc anh đóng vai người đàn ông luôn dang rộng cánh tay chở che trước khi “nhượng bộ” anh.

    - Đồng ý, nhưng anh phải cẩn thận đấy nhé! Em chờ anh, - cô nói trong lúc bước qua cánh cửa đóng mở tự động.

    Cô tắt máy rồi bước ra bãi đổ xe.

    Cái lạnh châm chích trên mặt, nhưng cô không cảm thấy lạnh.

    ° ° °

    21 giờ 03

    Sameer Naraheyem xoay chìa khóa điện chiếc xe tải-bồn rồi rời khỏi nhà máy bột All Wheat nằm ở phía Tây khu công nghiệp Jamaica Plain.

    Ông đang thực hiện chuyến giao hàng cuối cùng trước khi về nhà gặp vợ, Sajani. Ngày làm việc thật dài và chật vật. Thường thì Sameer không phải làm việc vào buổi tối Giáng sinh, nhưng ông chủ đã bất ngờ gọi điện cho ông vào đầu buổi sáng để yêu cầu ông thay chân một tài xế vắng mặt. Mặc dù ông cùng vợ đã dự định dành cả ngày để tụ họp gia đình, Sameer vẫn không dám từ chối “lời đề nghị” của ông chủ. Với cơn khủng hoảng kinh tế và chuyện bầu bí của Sajani, giờ không phải lúc mạo hiểm đánh mất việc làm.

    Mặc dù vậy, đây đúng là chuyện cực chẳng đã…

    Ông nhìn đồng hồ trên bảng điều khiển.

    Mình không nên kề cà nữa!

    Ông phải giao chuyến hàng bột này tới một nhà máy tại Quincy, phía Nam Boston, trước 22 giờ.

    Sameer gạt nhẹ cần tăng tốc, chớm chạm mức tốc độ giới hạn.

    Ông không hình dung nổi rằng, chỉ vài phút nữa thôi, ông sẽ lái chiếc xe tải này cán chết một người…

    ° ° °

    21 giờ 05

    Kate tiến bước giữa các ô của bãi đỗ xe ngoài trời để tới chỗ xe mình. Khi tới trước chỗ đỗ số 66, cô sững sờ khi thấy nó trống không. Chiếc xe hai chỗ của cô đã bị đánh cắp!

    Không thể thế được!

    Cô đã đỗ chiếc xe ở chỗ quen thuộc khi đến bệnh viện vào đầu giờ chiều, cô chắc chắn điều đó!

    Cô cảm thấy cơn giận xâm chiếm và ngập ngừng không biết làm gì tiếp theo. Cô phải gọi cho lão sát thủ để hạ lệnh cho lão trước khi Matt rời khỏi nhà. Nhưng kế hoạch của cô cũng chỉ thành công nếu cô là người đầu tiên có mặt tại hiện trường vụ “tai nạn”.

    Cô muốn bằng mọi giá giám sát thời điểm bên cấp cứu xuất hiện và khéo léo tận dụng việc bên đó thiếu nhân lực vào dịp Giáng sinh. Đầu tiên, cô tính sẽ đóng vai trò kép, vừa là bác sĩ vừa là vợ của nạn nhân. Cô sẽ đòi giữ xác Matthew “dưới sự trông nom” đến tận bệnh viện, khẩn trương thực hiện chụp X quang mạch hẳn sẽ chứng nhận tình trạng chết não của anh, chính cô sẽ lo toan để tim anh được duy trì nhân tạo ở trạng thái hoạt động, rồi sẽ nhanh chóng giải quyết những vấn đề về đồng ý hiến tạng. Sáng hôm đó, cô đã quên kiểm tra xem trong ví của chồng có tấm thẻ hiến tạng mà cô đã thuyết phục anh lấy từ ba năm trước hay không. Cô biết rằng đội ngũ nhân viên y tế sẽ hỏi chính cô và yêu cầu cô đưa ra một quyết định: chồng cô duy trì mối quan hệ xa cách với bố mẹ đang sống tại Florida và không có họ hàng thân thuộc nào khác tại Boston.

    Kế hoạch của cô sẽ thành công với điều kiện mọi sự diễn ra cực nhanh. Một khi nguyên tắc trích mẫu bệnh phẩm được ghi, phòng thí nghiệm sẽ tiến hành một bản tổng kết huyết thanh học và lập tình trạng các cơ quan nội tạng nhờ phim chụp. Chừng ấy cuộc kiểm tra sẽ hướng họ về phía những người nhận tiềm năng và tương thích. Nick sẽ xuất hiện trên danh sách ưu tiên, “danh sách đỏ” và sẽ được xác định ngay lập tức. Từ hai tháng nay, cô vẫn theo dõi bảng phân công ê kíp trực, và vì không thể tự mình phẫu thuật cho Nick, cô đã đảm bảo bác sĩ phẫu thuật tim trực đêm nay là một trong những người tay nghề xuất sắc nhất bệnh viện.

    Từ không biết bao lâu nay, cô đã lên kế hoạch mọi thứ.

    Trừ có điều chiếc xe của cô đã bị đánh cắp khỏi cái bãi đỗ xe khốn kiếp này…

    Đừng có mất bình tĩnh.

    Kate chưa tính tới khó khăn này, nhưng cô phải giữ bình tĩnh. Như trong lúc chơi cờ vậy. Cô nhớ lại câu nói của Tartacover, một bậc thầy chơi cờ. Chiến thuật nằm ở chỗ biết điều cần làm khi có việc gì đó cần làm. Chiến lược nằm ở chỗ biết điều cần làm khi không có việc gì để làm.

    Cô chạy tới chòi gác của nhân viên bảo vệ phụ trách trông giữ bãi đỗ xe rồi thông báo xe mình bị mất trộm.

    - Không thể thế được, cô à. Tôi nhận ca từ giờ trưa. Tôi thuộc làu chiếc xe hai chỗ của cô ấy chứ, và tôi có thể đảm bảo rằng nó chưa ra khỏi khuôn viên bệnh viện này.

    - Thế nhưng ông có thể thấy rõ là nó không còn đậu ở đó nữa!

    - Vậy thì chỉ có thể là cô đã đỗ xe ở chỗ khác thôi! Chuyện đó ngày nào chẳng xảy ra. Tuần trước bác sĩ Stern cũng nghĩ chiếc Porsche của mình bị trộm trong khi ông ấy đi làm bằng taxi!

    - Nhưng rốt cuộc, tôi đâu có điên!

    - Tôi không nói là cô điên, bác sĩ ạ. Để tôi thử nhìn qua các tầng hầm xem sao, - ông ra vừa khẳng định vừa chỉ các màn hình máy quay giám sát.

    Thế đấy…

    Kate vừa quay bước thì nhân viên bảo vệ gọi giật cô lại.

    - Xe của cô ở đây này. Tầng hầm thứ 3, ô 125! - Ông ta vừa thông báo vừa chỉ màn hình, gương mặt rạng ngời nụ cười chiến thắng, vẻ như muốn nói: Cái đám bác sĩ này, dở hơi cả lũ…

    Kate bỏ qua thang máy rồi lao vào cầu thang bộ dẫn xuống bãi đỗ xe ngầm.

    Tay bảo vệ ngu ngốc kia nói đúng. Chiếc Mazda hai chỗ đỗ ở tầng hầm sâu nhất. Làm sao có chuyện này được? Cô có một chỗ đậu riêng ở bãi đỗ ngoài trời. Cô chưa từng đậu xe ở đây. Ai đó đã di chuyển xe của cô, đó là điều chắc chắn. Nhưng nhằm mục đích gì? Điều này có liên quan đến chùm chìa khóa cô đánh mất hồi đầu tuần không? Hàng loạt câu hỏi chen chúc trong đầu cô, nhưng cô chọn cách lờ chúng đi.

    Cô nhìn điện thoại: “hệ thống chưa sẵn sàng”. Cũng bình thường thôi, cô đang ở tầng hầm mà.

    Cô mở cửa xe, mở chìa khóa điện rồi rời khỏi bãi đỗ ngầm. Lên tới mặt đất rồi, cô phóng tới lối ra. Trước khi lái ra đường, cô gọi một cuộc ngắn cho Oleg Tarassov để bật đèn xanh cho lão ta hành động.

    Khi ra đến đường, cô nhìn thấy trong gương chiếu hậu một chiếc xe tải bồn đang rẽ nơi góc đại lộ, ngược chiều với xe cô.

    ° ° °

    Khu công nghiệp cũ thuộc Windham

    21 giờ 08

    Phòng đông lạnh chìm trong bóng tối.

    Romuald phung phí thêm một que diêm nữa lấy từ hộp diêm cậu đã lấy cắp được của tay sát thủ khi lão ra đòn với cậu. Cậu ngây thơ nghĩ rằng thứ này có thể giúp ích cho mình, nhưng trong căn phòng kho đông lạnh này chẳng có gì thể đốt. Những kệ gỗ ván xếp trong kho quá ẩm ướt nên không thể bắt lửa.

    Que diêm cháy lên, tạo thành một luồng sáng yếu ớt chỉ lấp lóa được vài giây.

    Rồi căn phòng lại chìm trong bóng tối dày đặc.

    Cái lạnh chí tử bao quanh cậu nhóc, chụp lấy cổ họng cậu, khiến khuôn mặt cậu đông cứng, khiến mũi và tai cậu tê liệt. Một luồng khí lạnh băng quất vào hai tay cậu, luồn lách khắp cơ thể cậu rồi thấm vào tận xương tủy. Một kẻ thù vô hình mà cậu không thể chiến đấu chống lại.

    Sau khi thoạt tiên đã tăng nhanh, nhịp tim của cậu lúc này lại chậm đi. Những đợt run và nỗi sợ kèm với một cơn mệt khủng khiếp. Cậu cảm thấy sức lực dần dần rời bỏ mình. Cậu kiệt sức. Để khỏi rơi vào trạng thái ngủ lịm, cậu tự đặt ra cho mình mục tiêu, cứ chừng mười phút lại đánh một que diêm và cậu bấu víu vào nghi lễ này. Hai bàn chân và cẳng chân cậu cứng đờ, như bị chuột rút. Trong giờ Sinh, cậu đã học được rằng, để khắc phục hiện tượng giảm nhiệt, máu thường rời các đầu mút cơ thể để bảo toàn hai bộ phận quan trọng nhất là tim và não.

    Tâm trí cậu đã rối tinh, gần như mất nhận thức. Có lẽ cậu không thể mở miệng ra hay thốt nên lời nữa, rồi suy nghĩ cũng chậm lại. Phế quản tắc nghẹn nhưng thậm chí cậu không còn sức mà ho nữa. Chỉ còn chút ít sức lực để tiếp tục thở.

    Trong mọi cơn ác mộng chưa khi nào cậu lại nghĩ cái lạnh có thể dữ dội đến thế. Và lão diễn viên đóng thế đã nhìn nhận đúng: điều khủng khiếp nhất chính là ý thức được rằng sẽ chẳng ai đến cứu mày hết. Biết rằng mày sẽ chết một mình, trong bóng tối, bị một nỗi đau kinh hoàng cuốn theo.

    ° ° °

    Boston, Beacon Hill

    21 giờ 09

    Chưa đầy một phút sau khi tắt máy, Oleg Tarassov nhìn thấy Matthew Shapiro đang xuống bậc thềm. Lão người Nga đội mũ bảo hiểm và xỏ găng, mắt không rời khỏi thầy giáo trẻ. Lão quan sát anh ngồi lên mô tô và con mắt nhà nghề của lão nhận ra ngay mẫu xe: một chiếc Triumph Tiger Club sản xuất cuối những năm 1950, được đại tu tài tình với đèn pha tròn, yên thấp và những bộ phận bằng thép crôm sáng loáng.

    Lão để cho Shapiro xuất phát trước một lúc, rồi vít ga chiếc Harley bám theo.

    ° ° °

    21 giờ 11

    Vội đi đón vợ, Matthew điều khiển chiếc xe chạy xuyên qua thành phố. Một khu phố anh đã thuộc làu như lòng bàn tay, một hành trình anh đã đi hàng trăm lần. Phố Charles, phố Beacon, phố Arlington… Bất chấp làn mưa lất phất lẫn với tuyết, chiếc xe mô tô cổ của anh vẫn bám đường. Đến Columbus, con đường rộng thênh thang nối trung tâm South End, Roxbury và phía Đông Jamaica Plain, anh còn tăng tốc hơn nữa. Ánh đèn trang trí chồng lên ánh đèn bạc công sở và các cửa hàng cửa hiệu. Những thiên thần ánh bạc treo trên các cột đèn đường, những tràng sao lấp lánh rực rỡ và những hình dạ quang kỳ lạ quấn quanh những thân cây tạo nên một bầu không khí vị lai.

    Khi tới gần các khu phố ngoại vi, đèn đuốc xuất hiện mỗi lúc một thưa đi. Matthew cảm thấy chiếc mô tô của mình đảo bánh trong lúc phóng vụt qua ngã đường hồi chuyển nằm trên đầu ga Jackson Square. Anh dễ dàng điều chỉnh nó, rồi anh vòng qua ga để tiến vào “sườn treo”, đoạn đường dốc đổ bê tông nối phố Rope với đại lộ Conoly, con phố có bệnh viện của Kate. Về mặt lý thuyết, đoạn đường tắt này cấm mô tô, nhưng anh chưa bao giờ nhìn thấy cảnh sát nào lập biên bản tại nơi này. Tuy thế, anh vẫn chạy xe cẩn thận vì mặt đường chênh vênh. Ngay trước khi tiến vào khúc cua gấp, anh nhìn thấy trong gương chiếu hậu một người điều khiển mô tô khác đang đi hơi quá gần mình, vắt vẻo trên một chiếc Harley to đùng đã độ.

    Ánh đèn pha khiến anh lóa mắt.

    Chẳng muốn đua làm gì, anh nghĩ bụng rồi giảm tốc độ và đi sát vào bên phải để nhường đường. Chiếc mô tô kia chuyển làn vượt lên, nhưng vào phút cuối lại tạt mạnh vào. Bánh trước của chiếc Harley va mạnh vào bánh sau của chiếc Triumph và khiến nó mất thăng bằng. Bất ngờ với cú sốc, Matthew mất lái.

    Trong phản xạ cuối cùng, anh ngoặt tay lái rồi khóa bánh sau để chiếc mô tô nằm nghiêng ra, trượt trên mặt đường ướt sũng rồi tới nằm gọn dưới thanh chắn ngang bằng kim loại. Bị hất khỏi chiếc Triumph, Matthew lăn trên mặt đất. Chiếc mũ bảo hiểm của anh đập xuống mặt đường và một trong hai cẳng chân của anh va theo chiều ngang vào cây cọc chống thanh chắn ngang trước khi nằm bất động. Mất chừng mười giây anh mới hiểu được bản thân đang gặp phải chuyện gì. Vẫn nằm trên mặt đường, anh tìm cách đứng dậy, nhưng đã thét lên vì đau. Hẳn là chân phải của anh đã gãy. Anh vịn vào thanh chắn ngang, cởi bỏ mũ bảo hiểm, Nhấc mũ ra khỏi đầu rồi, Matthew nhìn thấy người điều khiển chiếc Chopper đang lao đến chỗ mình, cầm theo một chiếc gậy bóng chày.

    Gã đàn ông ấy đã vung gậy lên, chuẩn bị đập vỡ sọ anh…

    ° ° °

    Hai ngòi của một khẩu súng điện Taser chích vào sau gáy của lão người Nga, phát ra một luồng điện khiến lão đờ ra. Lão đổ gục xuống như bị sét đánh.

    Mặc quần áo đen, áo khoác da, Emma tranh thủ lúc tay đâm thuê chém mướn tê liệt để tước vũ khí của hắn.

    - Anh có sao không? - Cô hỏi trong lúc chạy vội về phía Matthew.

    Anh nhìn người phụ nữ đội mũ trùm sẫm màu vừa đột ngột xuất hiện và cứu mạng anh.

    - Nhưng… đang xảy ra chuyện gì vậy?

    - Chính là vợ anh! - Emma hét lên. - Cô ta tìm cách giết anh đấy!

    - Gì kia? Cô nói mê sảng gì thế! Cô là ai?

    Emma không kịp trả lời.

    Hai luồng đèn pha tròn trĩnh và sáng rực xuyên thủng màn đêm. Chiếc Mazda hai chỗ của Kate đỗ lại cạnh chiếc Harley Davidson. Nữ bác sĩ ngoại khoa ra khỏi xe rồi lạnh lùng quan sát và đánh giá tình hình.

    Chẳng điều gì diễn ra như dự kiến.

    - Em yêu! - Matthew gọi.

    Kate thậm chí còn không nhìn anh. Cô chỉ tự hỏi người phụ nữ trông như Miêu Nữ vừa phá hỏng kế hoạch của mình là ai.

    Giải quyết lần lượt từng vấn đề một.

    Cô cúi nhìn Tarassov và nhận ra hai vệt chích của súng điện Taser cắm trên gáy lão. Hệ thống thần kinh tê liệt, lão sát thủ nằm sóng soài trên mặt đường, khó khăn lắm mới tỉnh lại được. Lục túi trong áo khoác của Oleg, cô thấy thứ mình tìm kiếm: một khẩu Glock 17 chất liệu polymer đã nạp đạn. Kate lên cò khẩu súng tự động rồi nhắm thẳng hướng Emma mà bắn, để buộc cô phải bỏ chạy. Tay chĩa thẳng, vuông góc với cơ thể, những ngón tay quặp trên cò súng, Kate tiến về phía chồng.

    Mình vẫn có thể cứu Nick. Một viên đạn vào đầu Matthew sẽ giết chết anh ta, nhưng sẽ bảo toàn được quả tim.

    - Kate, em làm gì vậy, em yêu? Em đang…

    - Im đi! - Cô hét lên. - Đừng gọi tôi là em yêu! Anh không quen tôi. Anh không biết gì về tôi cả. KHÔNG GÌ HẾT!

    Mình sẽ ngồi tù chung thân, nhưng Nick sẽ sống…

    Gương mặt của bác sĩ ngoại khoa xinh đẹp đã biến đổi. Nó đã mất đi nét quyến rũ và vẻ đẹp để chỉ còn là một chiếc mặt nạ sứ, trắng xóa và lạnh lẽo. Chỉ có đôi mắt là rực lửa, bùng cháy một ngọn lửa căm giận. Như một người máy, cô ta tiếp tục tiến về phía chồng.

    - Tôi muốn giải thích với anh, Matt ạ, nhưng anh sẽ không thể hiểu được đâu.

    Emma co mình trên vệ đường đối diện. Nheo mắt lại, cô nhìn thấy lão diễn viên đóng thế đang cố gắng đứng dậy mà không thể. Chính vào lúc đó cô nhận ra bao đựng súng có khuy bấm đeo ở mắt cá chân Tarassov. Đầu cô lóe lên một ý tưởng. Cô bò lại chỗ lão rồi giật lấy khẩu Smith & Wesson 36 từ bao đựng. Cô nắm tay quanh báng súng rồi dang thẳng cánh tay để nhằm vào Kate.

    Không còn thời gian để tự vấn.

    Nòng khẩu Glock do Kate cầm trong tay đang chĩa thẳng vào đầu chồng cô ta, Emma thì chĩa súng về phía cô bác sĩ ngoại khoa. Hai người phụ nữ đều đang sẵn sàng nổ súng.

    Emma cầu nguyện để không run tay.

    Cô là người đầu tiên nhấn cò.

    ° ° °

    Lĩnh đạn vào ngực, Kate ngã ngửa về phía sau. Cơ thể cô ta lăn qua thanh chắn ngang rồi rơi xuống sườn treo dốc đứng.

    ° ° °

    Một khoảng lặng dài, gần như vô thực, tiếp sau tiếng súng.

    Bị hất văng xuống mặt đường bởi sức giật của phát súng, Emma nằm đó run rẩy, choáng váng, không nói nên lời mất một lúc.

    Oleg Tarassov đã khó nhọc đứng dậy được và hiểu rằng mình nên rời khỏi đây. Vẫn để đầu trần, lão ngồi lên chiếc Harley, vít ga rồi tháo chạy theo hướng ngược lại khi tới.

    Được khoảng năm chục mét, tại ngã rẽ, chiếc xe tải chở bột do Sameer Narahayem lái đã tông trực diện vào lão.

    ° ° °

    Emma đã hoàn hồn. Cô nhìn thấy Matthew, cách đó vài mét, bơ phờ, choáng nặng. Nhưng vẫn sống.

    Romuald!

    Cô chạy tới tận phần còn lại của chiếc mô tô rồi giật thiết bị GPS được cố định bằng một mảng khóa dán lồng thêm một giác mút to. Rồi cô quay bước và leo lên xe của Kate.

    ° ° °

    Ngồi bên trong khoang lái, cô cởi mũ trùm ra rồi tra cứu hệ thống định vị. Đúng như cô hi vọng, thiết bị vẫn lưu trữ trong bộ nhớ những hành trình gần nhất mà tay sát thủ đã thực hiện. Cô khởi động thiết bị rồi rời khỏi “sườn treo” trong tiếng lốp miết xuống mặt đường.

    Boston vắng tanh. Cô tới phía Bắc đường quốc lộ 93 rồi chạy trên xa lộ bất chấp mọi quy định an toàn và cẩn trọng. Cô mặc kệ các biển giới hạn tốc độ, những tổ tuần tra, mặc kệ hiểm nguy. Chẳng điều gì quan trọng nữa, ngoài trừ Romuald.

    Miễn sao cậu ấy không gặp phải chuyện gì…

    Cô tiếp tục lái không hề đạp phanh suốt nửa giờ nữa rồi rời khỏi xa lộ ở đoạn Windham, vùng giáp ranh giữa Massachusetts và New Hampshire. Cô để thiết bị GPS dẫn đường, đi theo những tuyến đường gom cho tới khi gặp phải hàng rào của một khu công nghiệp cũ.

    Bây giờ tính sao đây?

    Emma nhìn màn hình chỉ dẫn: vạch mốc cho thấy điểm đến không còn xa, nhưng không thể lái ô tô mà tiếp cận được. Cô để đèn pha bật sáng rồi xuống xe. Phần này của con đường đã hoàn toàn chìm trong bóng tối. Cô không nhìn thấy gì nhiều, ngoại trừ một hàng rào cao ngất sừng sững trước mặt. Cô quyết định tay không leo qua hàng rào dây thép gai. Khi sang đến bên kia hàng rào mắt cáo, một đầu dây thép, sắc nhọn như một lưỡi dao, đã rạch một vết dài ít nhất năm xăng ti mét trên cẳng tay cô.

    Cơn đau khiến cô lảo đảo. Cô cảm thấy máu chảy bên dưới áo len và áo khoác, nhưng không buồn ái ngại cho bản thân. Cô buông tay rồi ngã lăn xuống đất. Rồi cô đứng dậy, chạy để leo lên đỉnh một sườn dốc nơi cô có thể nhìn rõ thành phố ma. Những nhà máy cũ và những cái kho cải dụng trải dài đến hút tầm mắt. Nơi này thật siêu thực. Một cảnh trí phim kinh dị thực sự. Một vài toa tàu han gỉ nằm dọc đoạn đường sắt cũ. Gió gào rít khiến những bộ khung kim loại kêu kèn kẹt. Đằng sau mỗi căn lán là những cái bóng méo mó chực lao vụt ra. Một thung lũng của những bóng ma hẳn phải trải rộng trên năm hoặc sáu héc ta.

    Làm thế nào tìm thấy được Romuald trong mê cung tôn và sắt vụn này?

    - Romuald! Romuald! - Cô gọi không ngừng, nhưng gió và tuyết mang tiếng thét gọi của cô vào hư không.

    Cô đưa mắt tìm một dấu hiệu hoặc một chi tiết có thể giúp cô định hướng, nhưng tầm nhìn chỉ được chừng ba mét.

    Gạt những bông tuyết vương trên mặt, dùng điện thoại di động để soi đường như đèn pin, cô chạy đến hụt hơi, đối diện với gió, ngược về phía Đông Bắc của khu công nghiệp. Chắc chắn Tarassov đã tìm nơi xa nhất so với đường cái để đậu tạm ô tô. Bỗng nhiên, một âm thanh khiến cô dừng bước. Cô vừa bước trên sỏi. Cô nín thở soi sáng mặt đất.

    Một lối đi dẫn tới một nhà kho lớn.

    Cô tiến vài bước tới soi sáng một tấm biển đã gỉ hoen:

    KHU LỒ MỔ

    HẠT HILLSBOROUGH

    Cô tiếp tục chạy tới tòa nhà chính. Đến đây, cô nhận ra vết lốp xe vừa mới bị tuyết phủ lên. Tim cô nhảy thót lên trong lồng ngực. Nơi này vừa có người lai vãng.

    Cô dồn hết sực lực đẩy cánh cửa trượt cao ngất dẫn vào tòa nhà rồi khép nó lại đằng sau để gió khỏi lùa.

    - Romuald!

    Nơi này chìm trong bóng tối, nhưng có tiếng của hệ thống sưởi hoặc điều hòa không khí đang kêu vù vù.

    Emma gạt cầu dao và một thứ ánh sáng nhợt nhạt tỏa lan, làm hiện lên một nhà kho gần như trống rỗng với bốn bề tường bằng bê tông thô.

    Giữa nhà kho, cô nhận ra chiếc xe tải màu đỏ đun của lão diễn viên đóng thế.

    Cô lại gần chiếc xe tải rồi nhìn vào trong.

    Không có ai.

    Cô tiếc vì không đem theo bên mình khẩu súng nhỏ của lão diễn viên đóng thế.

    - Romuald?

    Cuối căn phòng chính, một hành lang hình khuỷu tay dẫn tới một dãy các cửa sắt cũ kĩ. Cánh cửa đầu tiên dẫn vào một phòng trống. Những cánh cửa khác đều chốt kĩ. Cô nhắm mắt, nhưng thái độ chán nản ấy kéo dài chưa đến một giây.

    Khi bỏ đi, tên sát thủ đã cẩn thận tắt mọi thứ. Chỉ trừ có…

    Luồng hơi của máy phát!

    Cô quay bước để cố gắng xác định nguồn âm thanh. Tiếng vù vù phát ra từ một phòng lạnh. Cô gõ vào bức vách kim loại.

    - Romuald?

    Không, không thể được. Không phải trong đó…

    - Romuald? Là tôi, Emma đây, cậu nghe tôi nói chứ?

    Cô thử mở cửa nhưng không được. Khi cúi xuống, cô nhận ra một bộ phận bằng thép được rập dạng bánh lái. Cô xoay nó hết cỡ và cánh cửa phòng đông lạnh bật mở.

    Cô ùa vào bên trong, đối mặt với luồng khí lạnh cóng.

    - Romuald!

    Nhờ ánh sáng hắt ra từ điện thoại, cô nhìn thấy phần mũ viền lông chiếc áo phao của cậu nhóc giữa bóng tối mịt mùng.

    Cô chạy vội về phía cậu. Cậu đang nằm bất động. Cô gom chút sức lực còn lại để kéo cậu ra khỏi căn phòng đông lạnh chết người và đưa cậu trở lại với không khí thoáng đãng. Cô bật điện thoại loa ngoài, gọi 911 và yêu cầu xe cấp cứu khẩn trương tới đón một người bệnh bị giảm nhiệt.

    Trong lúc chờ cấp cứu, cô tìm một hơi thở từ cậu nhóc mà không thấy, cô muốn tìm mạch của cậu ta mà căng thẳng quá nên cũng không tìm ra. Da Romuald tái nhợt, phơn phớt xanh, trông như đã chết.

    Khốn kiếp!

    Cô không có lấy một tấm chăn để ủ ấm cho cậu. Bấy giờ những động tác hồi sức cấp cứu cô học được cách đó vài tháng, trong một kỳ thực tập mà mọi nhân viên của nhà hàng Thống Soái đều phải dự, trở lại trong tâm trí cô. Một kỳ thực tập mà vào thời điểm nó diễn ra, cô từng thấy thật ngớ ngẩn và vô dụng, vì không giây phút nào hình dung được rằng một ngày nào đó nó sẽ trở nên hữu ích. Thật may, những thao tác cô đã thực hành trên một hình nộm lúc này đã trở lại sống động trong tâm trí cô. Cô đặt cậu nhóc nằm thẳng, quỳ gối ngồi bên cạnh lồng ngực cậu nhóc, vén áo len của cậu lên rồi đặt lòng bàn tay phải lên phần xương ức dưới. Cô chồng thêm bàn tay kia lên đó. Hai cánh tay giơ thẳng, cô ấn xuống bằng toàn bộ trọng lượng của mình, ấn sâu hai bàn tay vào ngực Romuald, rồi, đứng dậy trước khi lặp lại chu trình ấn rồi thả để giúp máu trong cơ thể cậu nhóc lưu thông.

    Và một và hai và ba! Một và hai và ba!

    Cô đếm ba mươi lần ấn, rồi hà hơi thổi ngạt trực tiếp cho cậu nhóc hai lần.

    Đừng chết nhé!

    Cô điên cuồng lặp lại chu trình xoa bóp tim, cố gắng duy trì nhịp độ đều đặn

    Và một và hai và ba…

    Mỗi lần ấn xuống lồng ngực, cô mạo hiểm với nguy cơ làm gãy xương sườn cậu nhóc.

    Và một và hai và ba…

    Thời gian đã ngừng trôi. Emma đang ở một nơi chốn khác. Cô đang theo đuổi một trận chiến. Trận chiến nơi sự sống chống lại cái chết.

    Đừng chết, Romuald! Đừng chết!

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Một năm sau….
    Replay
    Nếu đúng là chúng ta chỉ có thể sống một phần của
    tất cả những gì tồn tại trong chúng ta, vậy thì
    điều gì sẽ xảy ra với phần còn lại?
    - Pascal MERCIER


    Đại học Harvard

    Cambridge

    19 tháng Mười hai 2011

    Giảng đường đang chật ních người nhưng yên ắng.

    Những chiếc kim trên mặt khắc độ bằng đồng của chiếc đồng hồ treo tường cổ kính chỉ 14 giờ 55. Bài giảng môn Triết do Matthew Shapiro đứng lớp đang đi tới những phút cuối.

    Tiếng chuông vang lên, sinh viên tản về. Matthew thu dọn đồ dùng, mặc áo khoác, quàng khăn rồi rời khỏi giảng đường. Ngay khi ra đến bên ngoài, Matthew liền cuộn một điếu thuốc rồi băng qua Yard.

    Khuôn viên trường chìm trong thứ ánh sáng mùa thu mỹ lệ. Từ mười ngày nay, thời tiết đặc biệt ấm áp so với lệ thường và ánh nắng chan hòa tặng cho người dân New England một quãng thời gian cuối thu vừa muộn màng vừa dễ chịu.

    - Thầy Shapiro! Cẩn thận!

    Matthew ngoảnh về phía giọng nói vừa gọi mình và ngẩng lên nhìn theo linh cảm. Một quả bóng bầu dục đang rơi nhắm thẳng hướng anh.

    Anh bắt được quả bóng vừa kịp lúc và ném trả cho thủ quân đang ra hiệu xin lại bóng.

    Rồi anh rời khỏi khuôn viên trường đại học qua cánh cổng lớn dẫn ra quảng trường Harvard.

    Anh vừa dợm bước trên lối dành cho người đi bộ để ra bến tàu điện ngầm thì một chiếc Chevrolet Camaro cũ kĩ với tiếng động cơ vang rền lao ra góc đường nơi đại lộ Massachusetts giao với phố Peabody. Thầy giáo trẻ giật mình và bước lùi lại phía sau để không bị chiếc xe hai cửa màu đỏ rực tông phải, nó dừng lại ngang tầm anh trong tiếng lốp nghiến sào sạo.

    Cửa kính hạ xuống để lộ ra mái tóc màu hung của April Ferguson, người sống chung nhà với anh kể từ ngày vợ anh qua đời.

    - Xin chào, anh chàng tóc nâu đẹp trai, em chở anh về nhé?

    Tiếng vù vù của động cơ V8 lạc lõng trong không gian sinh thái chỉ hòa hợp với những tính năng của xe đạp và các loại phương tiện sử dụng năng lượng điện.

    - Anh muốn về bằng phương tiện giao thông công cộng hơn, anh từ chối. Em lái xe cứ như đang chơi trò chơi điện tử ấy!

    - Thôi nào, đừng có tỏ ra sợ sệt thế chứ. Em lái rất chuẩn và anh biết như thế mà!

    - Đừng cố nào. Con gái anh đã mất mẹ. Anh muốn tránh cho con bé cái cảnh mồ côi cả bố lẫn mẹ vào lúc bốn tuổi rưỡi.

    - Ôi, thôi nào! Anh đừng nói quá lên thế chứ! Đi nào, chàng nhát gan, khẩn trương lên! Em đang gây tắc nghẽn giao thông rồi đây này!

    Bị những tiếng còi xe thúc giục, Matthew thở dài rồi nhẫn nhịn ngồi vào chiếc Chevrolet.

    Anh vừa kịp gài dây an toàn thì chiếc Camaro đã bất chấp tất cả các quy định an toàn mà thực hiện một cú vòng xe nguy hiểm để phóng như bay về mạn Bắc.

    - Boston ở hướng kia cơ mà! - Anh vừa cự lại vừa bám vào cửa xe.

    - Em chỉ vòng qua Belmont một lát thôi. Cách có mười phút chạy xe. Anh đừng lo cho Emily. Em đã nhờ cô trông trẻ ở lại thêm một tiếng nữa rồi.

    - Mà thậm chí không nói qua cho anh biết ư? Anh báo trước, anh…

    Cô gái mau chóng sang hai số rồi bất thần tăng tốc khiến Matthew phải ngừng lời. Một khi đã đạt vận tốc ổn định, cô nàng quay sang anh rồi đưa cho anh một kẹp tài liệu đựng cái bức vẽ.

    - Anh cứ hình dung là có lẽ em đã tìm được khách hàng cho tranh in bằng bản khắc gỗ của Utamaro, - cô nói.

    Chiếc Chevrolet đã rời khu phố đại học. Nó đi theo đường tắt chạy dọc Fresh Pond – hồ lớn nhất của Cambridge – trên nhiều cây số trước khi tới Belmont, một khu đô thị ở phía Tây Boston. April nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS rồi đi theo chỉ dẫn tới tận một khu phố sang trọng và ấm cúng: một ngôi trường cây cối bao quanh nằm kề một khu vui chơi ngoài trời, một công viên và các sân thể thao. Bất chấp biển báo cấm rõ rành, chiếc Camaro vượt xe buýt chở học sinh rồi đỗ trong một con phố yên tĩnh có nhà cửa hai bên.

    - Anh đi cùng em chứ? - Cô vừa hỏi vừa lấy lại tập tranh.

    Matthew lắc đầu.

    - Anh thích ngồi trong xe đợi em hơn.

    - Em sẽ cố gắng xong việc thật nhanh, - cô hứa trong lúc soi gương chiếu hậu để trang điểm lại.

    - Em không sợ làm hơi quá đà sao? - Anh chọc cô.

    - “Em đâu có xấu, em chỉ bị vẽ thành thế này thôi”, cô nũng nịu bắt chước giọng nói và lời đáp của Jessica Rabbit.

    Rồi cô duỗi đôi chân dài miên man được quần legging ôm sát để ra khỏi xe.

    Còn lại một mình, anh liếc sang phía bên kia con phố. Một bà mẹ cùng hai đứa con đang trang trí vườn nhà nhân dịp lễ. Anh chợt nhận ra rằng chưa đầy một tuần nữa là tới Giáng sinh và ghi nhận này nhấn chìm anh trong một cảm giác lẫn lộn giữa buồn phiền và hoảng loạn. Anh hãi hùng nhìn thấy hiện ra trước mắt ngày giỗ đầu của Kate: cái ngày 24 tháng Chạp năm 2010 bi thảm ấy đã khiến cuộc sống của anh lộn nhào xuống vực thẳm đớn đau và rã rời.

    Kể từ khi bị vợ ám sát hụt, cuộc đời anh chỉ còn là một cơn ác mộng. Phản ứng thế nào đây khi biết rằng người phụ nữ đã chung sống cùng ta suốt bốn năm trời, mẹ của con gái ta, lại chỉ kết hôn cùng ta nhằm mục đích sát hại ta? Sát hại ta với mục đích duy nhất là lấy đi quả tim của ta để ghép sang cho người tình của ả nhằm cứu sống hắn. Làm thế nào có thể sống tiếp? Làm thế nào tiếp tục đặt lòng tin vào con người? Làm thế nào dám nghĩ tới chuyện chung sống với phụ nữ thêm lần nữa?

    Matthew thở dài. Duy có con gái đã ngăn anh chìm đắm trong điên loạn hoặc tung hê mọi thứ. Khi sự việc vỡ lỡ, ngay sau khi Nick Fitch qua đời, anh đã phải chiến đấu để bảo vệ Emily khỏi sự tò mò của báo giới. Đã từng có thời điểm hết sức khó khăn khi truyền thông quyết không buông tha anh. Các nhà sản xuất đề nghị mua lại câu chuyện của anh với số tiền khổng lồ, Hollywood muốn chuyển thể thảm kịch của đời anh. Để trốn chạy những vị khách không mời này, bấy giờ anh đã nghiêm túc nghĩ đến việc rời bỏ Massachusetts, nhưng anh quá gắn bó với Boston, với ngôi nhà của anh và các sinh viên. Vài tuần trở lại đây, vụ việc đã bắt đầu lắng xuống. Điều đó không hề giúp anh bớt đau khổ, nhưng ít ra, anh cũng cảm thấy được giải thoát khỏi gánh nặng của một tai tiếng.

    Anh dần lấy niềm ham sống qua những điều nhỏ nhặt: một cuộc dạo chơi dưới nắng cùng Emily, một trận bóng đá cùng các sinh viên, một câu đùa đặc biệt duyên dáng của April.

    Nhưng khoảng tạm lắng này rất mong manh. Nỗi đau luôn rình rập, sẵn sàng thộp lấy họng anh, nhắc đi nhắc lại cùng những câu hỏi không có lời đáp đó. Làm thế nào có thể chấp nhận rằng những năm tháng tươi đẹp nhất trong đời ta thực ra chỉ là một sự trả giá? Làm thế nào lấy lại tự tin sau khi bị lừa dối như thế? Làm thế nào tìm ra lời lẽ để giải thích tình cảnh này với Emily?

    Matthew đang vã mồ hôi và tim anh đang nện thình thịch trong lồng ngực. Anh hạ cửa kính chiếc Camaro xuống, tìm một vỉ thuốc chống trầm cảm trong túi quần jean rồi đặt viên thuốc dưới lưỡi. Viên thuốc tan dần, mang lại cho anh một trợ lực hóa học làm dịu đi nỗi bồn chồn của anh sau khoảng vài phút. Anh nhắm mắt, day day mí rồi hít thở sâu. Để hoàn toàn bình tĩnh lại, anh cần hút thuốc. Anh ra khỏi xe, chốt cửa xe lại rồi tản bộ vài bước trên vỉa hè trước khi châm một điếu thuốc lá rồi rít một hơi dài.

    ° ° °

    Anh thưởng thức điếu thuốc với hai mắt nhắm nghiền, mặt ngước lên đón cơn gió nhẹ cuối thu. Thời tiết ôn hòa. Ánh nắng chiếu xuyên qua những tán cành. Anh đứng bất động như thể vài phút trước khi mở mắt. Ở đầu phố, một đám đông đã tụ lại trước một ngôi nhà. Anh tò mò tiến lại gần ngôi nhà đồng quê điển hình cho phong cách New England: một cơ ngơi rộng rãi trang trí rườm rà bằng gỗ lát, tô điểm bằng phần mái kiểu giáo đường với quá nhiều cửa sổ. Trên bãi cỏ trước nhà, ngưởi ta đang tổ chức một dạng chợ trời.

    Matthew hòa mình vào đám đông hiếu kỳ đang săm soi bãi cỏ rộng khoảng một trăm thước vuông. Điều khiển cuộc bán chác là một cô gái tóc nâu xinh đẹp với gương mặt tươi tắn dịu dàng. Bên cạnh cô là một con chó giống Shar-pei màu vàng cát đang mài răng với một khúc xương nhựa.

    Giữa đống đồ thập cẩm, Matthew nhìn thấy một chiếc máy tính xách tay: một chiếc MacBook Pro, màn hình mười lăm inch. Không phải phiên bản mới nhất của mẫu này mà là phiên bản trình làng trước đó hoặc trước nữa. Matthew tiến lại gần và xem xét kĩ toàn bộ chiếc máy tính. Phần vỏ nhôm của máy đã được người chủ cũ để lại dấu ấn bằng một tấm đề can nhựa cứng dán sau màn hình. Tấm dán thể hiện một dạng nhân vật kiểu Tim Burton: một nàng Eva cách điệu hóa và gợi cảm dường như đang cầm trong tay một biểu tượng hình quả táo của nhãn hiệu máy tính lừng danh. Bên dưới bức tranh minh họa, ta có thể đọc thấy chữ ký “Emma L.” nhưng không mấy rõ chữ ký đó thuộc về người nghệ sĩ vẽ tranh hay người chủ cũ của chiếc máy tính.

    Tại sao lại không nhỉ? Anh vừa nghĩ vừa nhìn nhãn giá. Chiếc Powerbook cũ của anh vừa đi tong hồi cuối hè. Đúng là ở nhà anh có một chiếc máy tính để bàn, nhưng anh cũng cần một chiếc máy tính xách tay mới để dùng riêng. Thế mà từ ba tháng nay, anh cứ không ngừng trì hoãn khoản tiêu pha này.

    Mức giá đề xuất cho chiếc máy tính xách tay là 400 đô. Một khoản tiền anh cho là hợp lý.

    Anh lại gần người phụ trách bán rồi chỉ cho cô thấy chiếc MacBook.

    - Chiếc máy tính kia còn chạy tốt chứ?

    - Dĩ nhiên. Đó là máy tính xách tay cũ của tôi. Đã định dạng lại ổ cứng và cài đặt lại hệ điều hành. Giờ nó như mới vậy!

    - Tôi không rõ lắm… - anh ngập ngừng.

    - Anh nghĩ tôi đang cố lừa anh sao? - Cô chọc anh.

    Matthew cười đáp lại. Cô đưa cho anh tấm danh thiếp.

    - Nghe này, tôi đề nghị với anh thế này nhé: nếu trong vòng sáu tháng tới, chiếc máy tính này gặp bất cứ trục trặc nào, tôi hứa sẽ bảo hành cho anh. Bạn thân của tôi rành món tin học này lắm.

    Matthew nhìn tấm danh thiếp:

    Emma Lovenstein.

    Quản lý quầy rượu

    Nhà hàng Thống Soái, 30 Rockefeller Plaza New York,

    NY 10020

    - Cô làm việc tại nhà hàng Thống Soái sao?

    - Đúng vậy, anh từng dùng bữa tại đó à?

    - Trong một cuộc đời khác, - anh tránh né, xua đi một kỉ niệm nhắc anh nhớ lại cuộc hôn nhân với Kate.

    Chú chó giống Shar-pei tới dụi mõm vào chân anh rồi sủa ăng ẳng mừng rỡ.

    - Nó tên Clovis và trông nó có vẻ mến anh! - Emma hào hứng nhận xét.

    Matt vuốt ve con vật. Mặt trời làm ánh lên những luồng bụi giữa các tán cành.

    - Con gái tôi vẫn mơ được nuôi một chú chó nhỏ như thế này, - anh mỉm cười.

    - Cô bé mấy tuổi rồi?

    - Bốn tuổi rưỡi.

    Emma gật đầu.

    - Cô có con chưa? - Anh hỏi.

    - Chưa.

    Anh cảm thấy mình đang hỏi vào chuyện riêng tư bèn dừng ngay lại.

    - Vậy ra, cô đang sống ở New York…

    - Mà vài tiếng nữa tôi sẽ quay lại đó đây, - cô nói rồi nhìn đồng hồ đeo tay. - Tôi tới giúp anh trai một tay, nhưng không nên vì thế mà lỡ chuyến bay.

    Matthew lưỡng lự thêm vài giây trước khi quyết định.

    - Đồng ý, tôi lấy nó, - anh khẳng định, tay chỉ chiếc laptop.

    Anh lục tìm trong ví. Anh chỉ mang theo người 310 đô. Anh ngại không dám mặc cả, nhưng cô gái đã giúp anh thấy thoải mái.

    - Được rồi, tôi để lại cho anh với giá đó!

    - Cô thật tử tế, - anh nói rồi đưa tiền cho cô.

    Từ xa, anh ra hiệu cho April vừa đi đến bãi cỏ. Emma đưa cho anh chiếc laptop cô đã bọc trong hộp bìa đi kèm.

    - Vậy nếu chiếc máy tính này không hoạt động, tôi sẽ không ngần ngại gọi cho cô đấy nhé, - Matthew kết luận, tay vẫy vẫy tấm danh thiếp.

    - Nếu tình cờ anh muốn gọi tôi từ trước, thì anh đừng nghĩ là buộc phải đến khi máy tính hỏng nhé, - cô đánh bạo nói.

    Anh mỉm cười để che giấu nỗi ngạc nhiên, rồi lại chỗ April.

    Họ ra xe. Matthew nằn nì để được lái xe rồi họ quay về Boston, kẹt cứng trong đám tắc đường. Không một giây nào anh ngừng nghĩ tới cô gái mang tên Emma Lovenstein đó.

    ° ° °

    Boston

    Khu Beacon Hill

    20 giờ

    Matthew viền lại chăn cho Emily và tắt hết đèn, chỉ để lại ngọn đèn ngủ treo nơi đầu giường. Trước khi khép hờ cánh cửa, anh hôn con gái lần cuối, hứa với con rằng April sẽ ghé qua chúc con bé ngủ ngon.

    Rồi anh xuống cầu thang dẫn tới phòng khách. Tầng trệt của căn nhà chìm trong thứ ánh sáng dìu dịu. Anh nghiêng người qua cửa sổ và ngắm nhìn hồi lâu những tràng hoa điện treo trên hàng rào công viên đang nhấp nháy. Rồi anh bước vào bếp, lấy ra một lốc bia vàng. Anh khui một chai rồi đang định lấy thêm một viên thuốc chống trầm cảm khác.

    - Này, anh chàng bảnh trai, cẩn thận với hỗn hợp đó nhé, nó có thể gây nguy hiểm đấy! - April gọi anh.

    Vắt vẻo trên đôi giày cao đến chóng mặt, cô chưng ra với một vẻ tự nhiên khiến người ta phải bối rối một tổng thể kỳ quặc nhưng thanh lịch, theo xu hướng bái vật giáo. Cô búi tóc, dùng phấn nền màu ngọc trai tôn bật màu son đỏ như máu.

    - Anh không muốn cùng đi với em sao? Em tới Gun Shot, quán rượu mới khai trương gần kè đấy. Món thủ lợn rán của họ quả là ngon hết chỗ chê. Còn cocktail mojito thì không lời nào tả hết. Thời điểm này quán đang là nơi quy tụ những cô nàng xinh đẹp nhất thành phố đấy.

    - Vậy là, em đang đề nghị anh bỏ mặc đứa con gái mới được bốn tuổi của anh để đi uống mojito trong một quán bar dành cho những nàng les quỷ quyệt hay sao?

    April bực bội chỉnh lại chiếc vòng ống khắc những đường lượn màu tía đeo nơi cổ tay.

    - Trước hết, Gun Shot không phải quán bar dành cho dân les, - cô nổi cáu. - Vả lại, em nói nghiêm túc đấy Matt, anh cần phải ra ngoài, gặp gỡ mọi người, cố gắng chinh phục phụ nữ, làm tình trở lại.

    - Nhưng em nghĩ thế nào mà lại muốn anh yêu trở lại nhỉ? Vợ anh…

    - Em không tìm cách phủ nhận chấn thương tâm lý mà anh từng biết đến với Kate, Matt ạ, nhưng nếu muốn vượt qua thử thách này thì phải tiến lên, anh phải phấn chấn lên, phải tự cho mình ít ra là một cơ may để tìm lại niềm vui sống.

    - Anh vẫn chưa sẵn sàng, - anh khẳng định.

    - Thôi được rồi, em không cố nài nữa, - cô đầu hàng, cài cúc áo cardigan rồi đóng sập cửa lại đằng sau.

    Còn lại một mình, Matthew lục tìm trong tủ lạnh rồi lấy ra một hộp các tông phủ giá. Anh bỏ chiếc bánh pizza vào lò, đặt hẹn giờ rồi quay về trường kỉ. Anh cần được ở một mình. Anh không tìm ai hiểu mình, không tìm ai an ủi mình. Anh chỉ muốn rũ bỏ khổ đau, cùng những người bạn đồng hành duy nhất là viên thuốc trung thành và chai bia Corona thân thiết.

    Tuy nhiên, ngay khi nhắm mắt, hình ảnh cô gái ở buổi “tổng thanh lý dọn nhà” lại hiện lên trong tâm trí anh, rõ ràng đến kinh ngạc. Mái tóc lượn sóng của cô, ánh mắt tươi cười của cô, những nốt tàn nhang của cô, nụ cười tinh nghịch của cô, giọng nói láu lỉnh khi cô bảo anh:

    Nếu tình cờ anh muốn gọi tôi từ trước, thì anh đừng nghĩ là buộc phải đợi đến khi máy tính hỏng nhé.

    Bỗng nhiên, anh nhìn ra lẽ hiển nhiên: anh rất muốn gặp lại cô gái ấy.

    Anh đứng dậy rồi ngồi cạnh quầy bếp bằng gỗ nơi anh để chiếc ví bên trong có tấm danh thiếp của cô:

    Emma Lovenstein… Liệu mình có nên gọi cho cô ấy ngay bây giờ để mời cô ấy đi ăn nhà hàng không nhỉ?

    Anh ngập ngừng giây lát. Hẳn là cô đang trên chuyến bay trở về New York, nhưng dẫu sao anh vẫn có thể để lại tin nhắn cho cô.

    Anh bấm những con số đầu tiên trong số điện thoại của cô rồi ngừng phắt lại. Hai bàn tay anh run lên.

    Tiếp tục thì có ích gì? Anh tự hỏi, luôn bị tấn công bởi cùng những nghi ngại ấy. Không cần nhọc công huyễn hoặc bản thân làm gì. Anh không còn tin vào chuyện đôi lứa, vào sự đồng cảm, vào những cảm xúc được sẻ chia. Anh cảm thấy nỗi căm giận dâng lên trong người.

    Bốn năm trời…

    Anh đã sống bốn năm cùng một người đàn bà xa lạ, một kẻ tội phạm, một ả đàn bà hung ác đã thao túng anh như một con rối.

    Một giờ trước khi ả dự kiến sát hại anh, anh vẫn còn đang nấu những món ả ưa thích! Anh không phải là nạn nhân của Kate, anh là một gã khờ đáng thương, một kẻ ngây ngô tội nghiệp đã ngu ngốc tự rúc đầu vào rọ. Anh không chỉ xứng đáng với những gì gặp phải, mà còn phải gánh lấy nỗi đau nảy sinh từ đó cho đến khi từ giã cõi đời!

    Điên dại, anh ném điện thoại vào tường, nuốt chửng mấy viên thuốc cùng một ngụm rượu lớn rồi quay lại nằm dài trên trường kỉ.

    ° ° °

    New York

    Ngày hôm sau

    21 tháng Mười hai 2011

    - Này!

    Ngồi trên một băng ghế của công viên Washington Square, Emma vẫy tay ra hiệu cho Romuald. Chàng trai tới gặp cô, ôm hôn rồi chìa cho cô một túi giấy bồi.

    - Tôi đã ghé tiệm Mamoun’s mua viên bột đậu rán đây. Chị nếm thử đi, ngon lắm đấy!

    Cậu ngồi cạnh cô rồi họ mở sandwich ra ăn.

    Trong vòng một năm, Romuald đã thay đổi hoàn toàn. Cậu nhóc người Pháp tròn xoay đã trở thành một anh chàng đẹp trai, ga lăng, sinh viên năm nhất của đại học New York. Sau chuyến phiêu lưu khó tin họ đã cùng nhau trải qua, Emma và cậu đã được nối kết chặt chẽ và gặp nhau nhiều lần mỗi tuần. Emma đã giúp Romuald trong việc ổn định tại Manhattan và hết sức chăm chút đến việc học của cậu.

    - Cậu vẫn tiếp tục suy nghĩ về định hướng ngành học đấy chứ? - Cô hỏi trong lúc nhai bánh pita. Chuyện hôm kia cậu nói với tôi chỉ là một trò đùa thôi đúng không?

    - Không hề, tôi muốn trở thành bác sĩ tâm lý mà. Hoặc cảnh sát.

    - Cậu á?

    - Đúng vậy, tôi nghĩ là con người nhất định đáng quan tâm hơn máy tính. Những câu chuyện tình của họ, nhưng xung năng trả thù và bạo lực…

    Cô mỉm cười đồng tình với cậu.

    - Ngon tuyệt, món bánh sandwich của cậu ấy, - cô nói, miệng vẫn nhồm nhoàm.

    - Tôi cứ nghĩ chị sẽ mang rượu vang cơ đấy, - cậu đùa. - Bánh này mà chiêu với một ly bourgogne thì bá cháy!

    Cô nháy mắt với cậu. Cậu tiếp lời:

    - Chị quay tôi thế là đủ rồi đấy! Chuyến đi tới Boston của chị thế nào?

    - Không chính xác như tôi hi vọng, - cô gái nhăn mặt.

    - Chị đã gặp lại Matthew chứ?

    - Phải rồi, anh ấy đúng là có đến buổi bán hàng thanh lý dọn nhà và cũng đã mua chiếc laptop của tôi. Tôi xúc động lắm, thật kỳ lạ khi gặp lại anh ấy sau ngần ấy thời gian.

    - Vậy hai người đã nói chuyện với nhau!

    - Ngắn ngủi thôi.

    - Anh ấy không nhận ra chị à?

    - Không, nhưng như thế lại tốt hơn! Đã một năm trôi qua, ngày đó anh ấy lại chỉ nhìn thấy tôi có vài phút, tôi lại còn đội mũ trùm nữa.

    - Chị có để lại cho anh ấy địa chỉ liên lạc không?

    - Có chứ, nhưng chưa thấy anh ấy gọi.

    - Anh ấy sẽ gọi thôi, - Romuald nói chắc.

    - Tôi không nghĩ thế, - cô đáp. - Vả chăng, có lẽ như vậy lại tốt hơn.

    - Nhưng sao chị không kể cho anh ấy nghe sự thật?

    - Không thể như thế được, cậu thừa biết còn gì. Thoạt tiên là bởi sự thật khó tin, vả lại…

    - Gì kia?

    - Cậu có hình dung được cảnh cậu yêu người phụ nữ đã giết mẹ của con gái cậu không?

    - Nhưng chị cũng đã cứu mạng anh ấy, Emma à!

    Cô gái nhún vai và quay mặt đi để Romuald không nhận thấy rằng mắt cô rực sáng.

    Nỗi bối rối của cô không kéo dài. Cô đã quay sang hỏi cậu bạn về chuyện tình cảm của cậu. Mỗi ngày Romuald đều có bước tiến mới trong công cuộc chinh phục Erika Stewart, nữ sinh viên Triết của Harvard, hơn cậu ba tuổi. Cậu gặp cô tại hội chợ nông sản trên quảng trường Union một tháng trước và đã đem lòng yêu cô say đắm. Ban đầu, cô sinh viên không để ý gì đến cậu: cô không đời nào chấp nhận hẹn hò với một chàng trai kém tuổi. Romuald đã tìm ra địa chỉ của cô, và theo lời khuyên của Emma, đã bắt đầu viết cho cô mỗi ngày một bức thư. Một bức thư “đích thực”, viết bằng bút lông trên giấy chiffon. Bởi nghệ thuật quyến rũ qua thư không phải thế mạnh của chàng trai trẻ, Emma, giống như Cyrano de Bergerac, thường xuyên cầm bút viết thay cho cậu. Và chiến thuật chinh phục “kiểu cổ điển” này đã mang lại kết quả. Erika không chỉ bị cuốn vào cuộc chơi, mà cô còn vừa nhận lời mời của Romuald: bữa tối tại nhà hàng Thống Soái vào thứ Bảy tuần tới.

    - Cậu cũng biết đấy, để đặt bàn trong nhà hàng này phải đợi khoảng ba tháng, - Emma lưu ý với cậu bằng giọng nghiêm trọng.

    - Phải, tôi biết, - cậu đáp với vẻ bực bội. - Nhưng tôi cứ nghĩ là…

    - Dĩ nhiên tôi sẽ giúp cậu có được bàn! Một bàn vị trí đẹp bên cửa sổ nhìn ra tòa Empire State!

    Cậu nồng nhiệt cảm ơn cô rồi cô tiễn cậu, đi bộ tới khuôn viên trường đại học.

    ° ° °

    Boston

    13 giờ

    Matthew kết thúc buổi chạy thể dục khi đã hụt cả hơi.

    Anh đã chạy hơn một giờ, chạy trọn vẹn một vòng quanh khu vực sông Charles, chạy dấn lên tòa nhà trụ sở MIT trước khi quay trở lại Công viên Thành phố.

    Hai tay chống lên đầu gối, lưng cúi, anh cố gắng thở đều trước khi dạo bước xuyên qua bãi cỏ của Boston Common.

    Hai cẳng chân run run và bụng quặn lại, anh không thể kìm nhịp tim trong lồng ngực. Anh đang gặp phải chuyện gì thế này?

    Chuyện này chẳng có gì liên quan tới việc gắng sức cả. Từ lúc anh thức dậy tới giờ, một cảm giác mới mẻ tràn ngập trong anh; một cảm giác ngây ngất và bất ngờ đã xâm chiếm anh. Bất kể anh làm gì, đi đâu, Emma Lovenstein vẫn không rời khỏi suy nghĩ của anh. Không thể chạy trốn khỏi cô. Không thể thoát khỏi cô. Và sự hiện diện này biến anh thành một con người khác. Một người đàn ông được giải thoát khỏi lớp vỏ bọc và rốt cuộc đã có thể lao về phía ngày mai. Điều hiển nhiên hiện ra trước mắt anh…

    Anh đang ngồi trên một băng ghế, quan sát bầu trời màu xanh ánh kim loại, những tia phản chiếu của nắng trên mặt hồ, và ngẩng mặt hứng làn gió nhẹ.

    Xung quanh anh, lũ trẻ đang chơi đùa.

    Cuộc sống lại về quanh đây.

    ° ° °

    Sau khi tạm biệt Romuald, Emma bắt một chiếc taxi để quay về nhà hàng Thống Soái rồi dành đầu giờ chiều cùng ê kíp điểm lại danh sách rượu vang sẽ gợi ý cho khách hàng trong các bữa tối Giáng sinh và Năm mới.

    Lúc 15 giờ, điện thoại của cô rung lên trong túi. Cô kín đáo kiểm tra.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstenin

    Chủ đề: Fair-play

    Emma thân mến,

    Tôi đang viết cho cô từ máy tính cũ của cô. Nó hoạt động rất tốt. Vì muốn tìm một cái cớ để liên lạc với cô, quả thực tôi đã nghĩ tới chuyện phá hỏng nó, nhưng tôi đã thôi ngay ý định nói dối đó vì muốn chơi trung thực. Vậy thì thế này, tôi có một lời đề nghị dành cho cô, Emma ạ.

    Tôi biết một nhà hàng nhỏ chuyên đồ Ý trong khu East Village – nhà hàng Số 5 – phía Nam công viên Tompkins Square. Nhà hàng do Vittorio Bartlotti cùng vợ anh ấy điều hành, cả hai đều là bạn thời niên thiếu với tôi. Mỗi lần tới New York, tôi đều ghé qua chỗ họ ăn tối.

    Đối với một người quản lý rượu dày dặn kinh nghiệm, tôi không biết thực đơn các loại rượu vang của họ đáng giá ngần nào, nhưng nếu cô thích món cơm viên chiên arancini kiểu Bolagna, món mì dẹt lasagna bỏ lò, món mì tươi tagliatelle nấu ra gu và món bánh cannoli kiểu Sicile, vậy thì địa chỉ ẩm thực này hẳn sẽ khiến cô hài lòng. Cô nhận lời tới đó dùng bữa tối nay với tôi chứ? Lúc 20 giờ?

    Matt.

    [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

    Emma cảm thấy tim mình nảy tưng tưng trong lồng ngực. Cô lập tức hồi âm:

    Tôi rất vui, Matthew ạ.

    Vậy hẹn gặp anh tối nay.

    P.S: Tôi mê mì dẹt lasagna và bánh giòn gạo chiên arancini lắm… Và cả bánh tiramisu nữa!

    ° ° °

    - A lô, đầu đất hả?

    - Tôi đang trong giờ học, Emma… - Romuald thì thào.

    - Cậu phải giúp tôi. Cậu truy cập website của Akahiko Imamura nhé.

    - Nhà tạo mẫu tóc ấy hả? Lại nữa sao?

    - Đúng thế, tôi cần một cuộc hẹn trong hai giờ nữa.

    - Nhưng tôi đã chọn giải pháp án binh bất động và thôi không hack…

    - Hoặc là thế hoặc là cậu vĩnh biệt bàn đặt tại Thống Soái để ăn tối cùng Erika nhé.

    ° ° °

    Bị cuốn theo cảm giác khoan khoái dễ chịu, Emma rời khỏi Rocketfeller Plaza rồi ngược lên đại lộ số 5 tới tận cửa hàng Bergdorf Goodman.

    Cô có cảm giác như một nữ diễn viên đang quay lượt hai, nhưng lần này, cô hi vọng có thể thay đổi đoạn kết phim. Lờ những nữ nhân viên bán hàng đi, cô lang thang dạo bước giữa những gian hàng của cửa hàng lớn nhất New York. Ngay cả khi thời trang đó có phần thay đổi kể từ năm ngoái, cô vẫn tìm được thứ muốn tìm: một chiếc áo măng tô dài hoẵng non kết hợp vải lụa được tôn lên bằng những hình ảnh vẽ ghim vàng và bạc, cùng một đôi giày cao gót da trăn với những ánh phản chiếu màu tím và đôi gót cao chót vót.

    Một khi đã mua sắm xong xuôi, cô rời khỏi cửa hàng, rồi vì trời đang đẹp, cô đi bộ tới salon chăm sóc tóc của Akahiko Imamura.

    Sau hai giờ, cô đã có chính xác cùng kiểu tóc với hồi năm ngoái: tóc được bới lên thành một búi xoắn khiến gương mặt cô rạng rỡ, làm nổi bật đôi mắt sáng và vẻ nữ tính của cô.

    Cô vẫy một chiếc taxi tới khu East Village. Ngồi trong xe, cô nhận thấy hai tay mình run run. Cô lấy túi đồ trang điểm ra rồi hoàn thiện vẻ ngoài của mình bằng chút phấn hồng phớt, một lớp phấn phủ vàng rực nơi mí mắt và son môi màu xà cừ.

    Trong khi tài xế dừng lại trước nhà hàng Số 5, nỗi nghi ngại và lo lắng lại xuất hiện. Và nếu như cả lần này nữa, Matthew cũng không có ở đó thì sao?

    Emma nhớ lại một năm trước rồi cân nhắc quãng đường đã qua.

    Người ta có thể chơi khăm số phận đến mức nào mà không bị trừng phạt? Cái giá phải trả sẽ là gì để có thể thách thức với các quy luật của thời gian và thoát khỏi định mệnh?

    Chẳng bao lâu nữa cô sẽ được biết. Cô thanh toán tiền cước taxi, xuống khỏi xe rồi đẩy cửa bước vào nhà hàng Ý.

    Tim đập dồn, cô bước qua trước quầy lễ tân mà không dừng lại. Nhà hàng ấm cúng và thân thiện, chính xác như trong ký ức của cô. Cô leo lên các bậc cầu thang gỗ dẫn tới gác lửng trần hình vòm cuốn. Tới nơi rồi, cô tiến về phía chiếc bàn bên hiên nhô ra bên trên phòng ăn chính.

    Matthew đang ngồi đó.

    Anh đang đợi cô.


    Cảm ơn

    Ingrid,

    Estelle Touzet, quản lý rượu tại Meurice.

    Tiến sĩ Sylvie Angel và tiến sĩ Alexandre Labrosse.

    Bernard Fixot, Édith Leblond và Catherine de Larouzière.

    Valérie Taillefer, Jean-Paul Campos, Bruno Barbette, Stéphanie Le Foll và

    Isabelle de Charon.

Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123

Chủ Đề Tương Tự

  1. Thiên Đường
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 77
    Bài Viết Cuối: 04-05-2019, 12:39 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-29-2017, 12:06 PM
  3. Thiên Đàng Du Kí
    By giavui in forum Audio Tôn Giáo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2016, 06:40 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-14-2016, 01:11 PM
  5. Thiên Đường Sụp Đổ
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-20-2014, 12:30 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •