Chương 3

Tam Thiên Bạch Phát
Sau khi Tề Truy Thành rời đi, Đỗ Tứ thu bức vẽ đó lại,đưa mắt nhìn quanh bốn phía, trầm tư suy nghĩ hồi lâu, trên khuôn mặt xuất hiện vẻ kiên nghị. Uống liền mấy ngụm "Thiêu", lão bất ngờ tung chưởng, một chưởng hóa thành bốn, đánh vào bốn cây cột ở bốn góc quán trọ. Trong làn khói bụi mịt mù, quán trọ ầm ầm đổ sụp.

Mấy người cùng lao nhanh ra ngoài, lúc này trời đã tối. Đỗ Tứ bước tới tìm kiếm và nhặt lấy cành cây đã khắc được một nửa từ trong đống tan hoang đổ nát, sắc mặt đầy vẻ âu sầu, dường như có chút không nỡ.

Nhìn thấy khuôn mặt Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều xuất hiện vẻ khó hiểu, Đỗ Tứ chậm rãi cất tiếng giải thích: "Hứa tiểu huynh hiện giờ đã là người mà Minh Tướng quân nhất định phải giết. Hai kẻ kia tuy không làm được việc gì nhưng sẽ tiết lộ hành tung của Hứa tiểu huynh, đại quân của Minh Tướng quân ắt chẳng bao lâu sau sẽ đuổi tới. Chúng ta cần lập tức đi tới Tiếu Vọng sơn trang." Thấy Dương Sương Nhi muốn nói gì đó mà lại thôi, lão liền bổ sung thêm một câu bằng giọng hiền từ: "Lâm thúc thúc của cháu không muốn gặp người của Minh Tướng quân, vừa rồi đã truyền âm nói với ta là sẽ đợi chúng ta trên đường."

Hứa Mạc Dương thấy Đỗ Tứ đánh sập quán trọ, lại nghe nhắc tới cái tên Tiếu Vọng sơn trang, trong đầu liền hiện lên muôn vàn suy nghĩ, định cất tiếng nói đôi lời cảm ơn nhưng Đỗ Tứ lại dùng ánh mắt ngăn y lại. Dường như lão đã hiểu rõ tâm ý của y, nói: "Xảo Chuyết và ta kết bạn với nhau đã mấy chục năm, chỉ một chút chuyện nhỏ này Hứa tiểu huynh bất tất phải để trong lòng!"

Hứa Mạc Dương thừa dịp bèn nói: "Trước lúc lâm chung, Xảo Chuyết đại sư có dặn dò tại hạ tới Tiếu Vọng sơn trang tìm Binh Giáp truyền nhân, không ngờ lại gặp được tiền bối ở nơi này?"

Đỗ Tứ không thừa nhận cũng không phủ nhận, chỉ khẽ gật đầu. "Đi theo ta!"

Nói đoạn, lão liền cất bước đi vào sa mạc. Hai người Hứa, Dương thoáng đưa mắt nhìn nhau rồi chỉ biết đi theo.

Dưới ánh trăng mờ mờ, Đỗ Tứ thi triển thân pháp dẫn Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đi nhanh về hướng bắc trên vùng sa mạc tưởng chừng như vô biên vô tận. Họ dần tiến sâu vào trong sa mạc, khi nước mắt nhìn đã có thể thấp thoáng thấy được những đường nét của một dãy núi nhấp nhô.

Thấy Đỗ Tứ suốt dọc đường không nói một lời, đoán chừng lão còn đang thương tâm vì cái chết của người bạn là Xảo Chuyết đại sư. Tuy trong lòng còn đầy nghi vấn nhưng y không dám tùy tiện cất tiếng hỏi.

Buổi đêm trong sa mạc không nóng nực như ban ngày, nhiệt độ hạ xuống rất nhanh, chỉ mặt cát vẫn còn nóng bỏng, những giọt nước mưa đọng lại dưới đất sâu bị cái nóng làm cho bốc hơi lên, càng khiến người ta cảm thấy khó chịu. Ba người đi liền một mạch mấy dặm đường. Dương Sương Nhi tuy là con gái nhưng xuất thân từ chốn danh môn, từ nhỏ đã luyện võ nên cũng không cảm thấy gì. Còn Hứa Mạc Dương bị hơi nóng hắt vào người trong một thời gian dài thì không khỏi cảm thấy buồn nôn, các vết thương khắp cơ thể như muốn phát tác. Tuy y đã cố cắn răng chịu đựng nhưng tốc độ vẫn bị chậm lại.

Đỗ Tứ tay không nhìn hai người phía sau nhưng vẫn phát hiện ra, bèn giảm tốc độ, đi tới bên cạnh Hứa Mạc Dương, nhẹ nhàng đặt một bàn tay lên bờ vai y, hơi nhấc y lên. Hứa Mạc Dương thầm cảm kích, lén đưa mắt nhìn sang bên cạnh, chỉ thấy Đỗ Tứ vẫn chăm chú nhìn con đường phía trước, trên khuôn mặt tràn ngập vẻ kiên định, hoàn toàn chẳng còn vẻ già nua, lọm khọm như lúc y mới gặp. Vừa rồi, khi thấy Đỗ Tứ vung chưởng phá hủy quán trọ mà bản thân lão đã cư ngụ suốt mấy năm trời, hành động quyết liệt, dứt khoát không chút do dự, y liền biết người này quyết không phải hạng đơn giản, có lẽ trước đây lão cũng là một nhân vật khét tiếng trên giang hồ. Xảo Chuyết đại sư bảo y đến tìm lão, không biết bước tiếp theo sẽ phải làm như thế nào?

Lại đi thêm một lát nữa, Đỗ Tứ thấy hơi thở của Hứa Mạc Dương dồn dập, biết y bị thương nặng khó có thể chịu đựng thêm, bèn dừng chân cho y nghỉ ngơi hồi sức. Bản thân lão thì ngồi xổm trên một gò cát nhỏ, ngẩng đầu nhìn bầu trời đêm, nét mặt đăm chiêu như đang suy nghĩ điều gì. Dương Sương Nhi tuy từ nhỏ đã được nuông chiều nhưng cũng là một nữ tử tinh ý, chỉ lẳng lặng đứng bên cạnh hai người họ, không nói một lời.

Hứa Mạc Dương chậm rãi điều chỉnh nhịp thở, vô số nỗi nghi hoặc trong lòng không biết phải bắt đầu hỏi từ đâu. Nhớ đến quãng thời gian bảy năm ròng ở bên Xảo Chuyết đại sư, y không khỏi cảm thấy buồn thương vô hạn. Đã mấy lần định cất tiếng nói chuyện nhưng bao nhiêu cảm xúc chất chứa trong lòng khiến y khó có thể thốt thành lời.

Cuối cùng, Đỗ Tứ lại là người lên tiếng trước: "Hứa tiểu huynh đã từng nghe kể câu chuyện về Can Tương, Mạc Tà chưa?"

Hứa Mạc Dương thoáng ngẩn người. Tuy y sang ở vùng Tái Ngoại từ nhỏ nhưng lại mang dòng máu của người Hán, đối với văn hóa Trung Nguyên cũng từng tìm hiểu khá nhiều, tất nhiên biết rõ câu chuyện Can Tương, Mạc Tà rèn kiếm cho Sở Vương, chỉ là y có chút khó hiểu khi Đỗ Tứ đột nhiên nhắc tới

chuyện này. Nhưng y biết đối phương là bậc tiền bối võ lâm, mỗi lời nói ắt đều có thâm ý nên lập tức kính cẩn thưa rằng đã từng nghe.

Đỗ Tứ khẽ gật đầu, nói: "Vợ chồng Can Tương, Mạc Tà rèn kiếm cho Sở Vương, mất ba năm mới rèn được hai thanh Thư kiếm và Hùng kiếm. Can Tương biệt Sở Vương ắt sẽ không để cho mình về núi rèn thêm kiếm tốt, trước khi vào cung đã biết trước là tất phải chết rồi. May mà khi đó Mạc Tà đã có thai, vì thế Can Tương chỉ dâng lên cho Sở vương một thanh kiếm, dặn Mạc Tà rằng sau này nếu sinh được con trai thì hãy bảo nó trả thù cho mình..." Giữa sa mạc trống trải, giọng nói trầm thấp của Đỗ Tứ nghe như vọng ra từ nơi sâu thẳm trong chốn hồng hoang, chậm rãi kể lại câu chuyện cũ tìm hơn ngàn năm trước.

Tuy cả Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều biết thân điển cố lưu truyền thiên cổ này nhưng giờ đây, được nghe lại lần nữa ở giữa vùng hoang mạc trống trải, vô cùng vô tận thì không khỏi cảm thấy máu nóng sôi trào, trong lòng bất giác nảy sinh một phen cảm ngộ khác.

Dương Sương Nhi không kìm được, tiếp lời: "Sau đó, Sở Vương quả nhiên đã giết chết Can Tương. Mạc Tà sinh được con trai, đặt tên là Xích, đứa bé đó khi trưởng thành muốn đi hành thích Sở Vương nhưng lại không có cơ hội. Về sau, có người nói với Xích rằng có thể giúp y trả thù nhưng lại cần tới cái đầu của y. Y không chút do dự vung kiếm tự vẫn. Người đó quả nhiên đã dâng đầu Xích bên cho Sở Vương được Sở Vương tin tưởng. Sau đó y liền xúi giục Sở Vương dùng chiếc vạc nấu canh để luộc đầu Xích, sau đó nhân lúc không người nào đề phòng liền chém rụng đầu Sở Vương, cuối cùng bản thân y cũng của cố tự vẫn..."

Đỗ Tứ lại nói tiếp: "Hơn nữa, thủ cấp của ba người đều rơi vào trong vạc, bị nấu đến nát nhừ, khó có thể phân biệt được. Quần thần nước Sở đành mai táng ba người chung một chỗ. Mối huyệt thù rốt cuộc đã được trả, đồng thời tấm lòng tráng liệt nguyện chết vì nghĩa kia cũng được truyền tụng trên thế gian, người đời sau không ai là không thương tiếc..."

Hứa Mạc Dương lòng sinh xúc cảm, không kìm được thở dài một tràng. Y không muốn để người khác nhận ra bản thân mình ôm chí báo thù, buồn bã nói: "Can Tương, Mạc Tà đều là thần khí thời cổ, có ai ngờ bên trong đó lại ẩn chứa một câu chuyện đẫm máu và nước mắt như vậy!"

Dương Sương Nhi thì lại nghĩ đến một chuyện khác. Đúng thế, Can Tương đã chết, con trai ông cũng liều thân trả thù, như vậy thuật rèn kiếm e là cũng thất truyền rồi."

Đỗ Tứ cười rộ, nói: "Cháu gái nhầm rồi, Xích tuy đã tự vẫn mong trả thù cho cha nhưng vẫn lưu lại một đứa con, giao cho Mạc Tà nuôi nấng nên người. Mạc Tà thấy cả chồng và con mình đều gặp tai họa vì rèn kiếm, không muốn truyền

lại thuật rèn kiếm cho con cháu đời sau, liền đổi sang truyền thụ thuật chế tạo áo giáp. Chẳng ngờ Xích vẫn lưu lại một cuốn sách viết về thuật rèn kiếm, hậu nhân của ông liền vừa rèn binh khí vừa chế tạo áo giáp, đó chính là tổ sư khai sơn Vân Kỳ Tử của phái Binh Giáp bọn ta!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đều giật mình bừng tỉnh, thì ra Đỗ Tứ muốn nhờ câu chuyện này để kể về nguồn gốc của phái Binh Giáp với bọn họ.

Binh Giáp truyền nhân ngày đêm chìm đắm trong thuật chế tạo binh giáp, sự hiểu biết về vũ khí không người nào có thể so sánh được. Chẳng trách Chích Lôi kiếm của Tề Trưa Thành tuy là một món vũ khí kỳ dị nhưng vừa gặp phải vị tổ sư binh khí như Đỗ Tứ liền tan rã thành từng mảnh vụn chỉ sau nháy mắt.

Dương Sương Nhi cúi đầu ngẫm nghĩ một hồi, chợt thấp giọng nói: "Cháu từng nghe phụ thân nhắc tới phái Binh Giáp. Ông nói đó là một môn phái thần bí nằm bên bờ sông Lưu Mã ở vùng Giang Bắc, mỗi đời chỉ có hai truyền nhân, một người rèn vũ khí, một người chế tạo áo giáp. Mỗi môn nhân cả đời chỉ được chế tạo tối đa ba món thần khí nhưng những vật được chế tạo ra đều là thần binh hay bảo giáp lừng danh một thời."

Đỗ Tứ ngẩng đầu nhìn trời, thở dài. "Thực ra cũng không hẳn như vậy. Nếu là thần binh, bảo giáp thật sự thì cả đời chỉ cần chế tạo được một món cũng đã là niềm tự hào lớn nhất đối với môn đồ bản phái rồi. Huống chi nếu không có chiến tranh, giáp trụ sẽ trở nên vô dụng, cho nên phái Binh Giáp rốt cuộc đã chia ra làm hai phe, một phe toàn tâm toàn ý rèn vũ khí, một phe dốc sức chế tạo áo giáp, sau mấy đời phân tranh, thực lực của bản phái ngày càng đi xuống.

Khi xưa ta cũng chỉ vì một khối Côn Luân thần thiên ngàn năm mà sinh lòng tranh hơn thua với sư đệ Đấu Thiên Kim, cho nên mới tới vùng Tái Ngoại xa xôi này mong tìm được nguyên liệu tốt để chế tạo áo giáp. Ôi, thợ giỏi dễ kiếm, thần phẩm khó tìm, phái Binh Giáp bọn ta đã gần mười đời nay chưa thể chế tạo được một món thần khí thật sự rồi..." Giọng nói của lão càng lúc càng thấp, bên trong như chứa chan nỗi buồn thương vì sự sa sút của sư môn.

Tới lúc này Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi mới biết, thì ra trong phái Binh Giáp lại có nhiều vấn đề rắc rối như vậy mà nghe khẩu khí của Đỗ Tứ thì lão hẳn là người thuộc phe chế tạo áo giáp. Nhưng muốn chế tạo thần binh, bảo giáp thì thứ đầu tiên phải có chính là nguyên liệu tốt, cũng giống như việc thợ ngọc muốn gọt giũa được một món danh khí truyền đời thì trước tiên phải có một viên ngọc đẹp không tì vết. Côn Luân thần thiên ngàn năm mà Đỗ Tứ vừa nói tới là một loại sắt, hẳn nhiên không thích hợp để chế tạo áo giáp, chẳng trách lão không tranh được với vị sư đệ một lòng rèn binh khí kia.

Hứa Mạc Dương thấy Đỗ Tứ nhíu chặt đôi mày thì muốn khuyên nhủ mấy câu nhưng lại không biết phải nói thế nào, trong lòng bỗng nảy ra một tia cảm ngộ, buột miệng nói: "Thực ra việc chế tạo binh khí và áo giáp cũng giống như

rất nhiều việc khác trong thiên hạ, phải dựa theo điều kiện của bản thân mà làm mới là đúng đắn nhất. Nếu không để ý tới chủng loại của vật phẩm mà miễn cưỡng làm bừa, chỉ e dù nguyên liệu có tốt đến mấy thì cuối cùng cũng chẳng thể làm nên chuyện."

Trong mắt lóe nên ánh tinh quang, Đỗ Tứ ngạc nhiên đưa mắt nhìn qua phía Hứa Mạc Dương. "Ngươi có thể nói được đạo lý như vậy, ắt đã nhận được không ít chân truyền của Xảo Chuyết đại sư."

Dương Sương Nhi vẫn mang tâm tính của một thiếu nữ, nói năng vốn chẳng cố kỵ. "Mặc kệ là rèn binh khí hay chế tạo áo giáp, Đỗ bá bá tốt nhất hãy tìm một ít nguyên liệu tốt về rèn một thanh binh khí ngàn năm khó gặp, chọc cho cái tên Đấu Thiên Kim gì đó kia tức chết..." Chợt nhớ ra vị Đấu Thiên Kim kia là sư đệ của Đỗ Tứ, tính ra dù sao cũng là trưởng bối của mình, gọi thẳng tên như vậy thực là bất kính, Dương Sương Nhi bèn lè lưỡi vẻ tinh nghịch.

Đỗ Tứ lại chẳng hề để tâm tới việc Dương Sương Nhi nói năng vô lễ, chỉ như đang ngẩn ngơ suy nghĩ điều gì, rồi lão thở dài một tiếng, hai hàng lệ lã chã tuôn rơi. "Xảo Chuyết ơi là Xảo Chuyết, ta nhất định sẽ không phụ sự khổ tâm của ông!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đưa mắt nhìn nhau, trong lòng không kìm được nhớ đến cây cung tràn đầy sát khí trên cuộn vải kia.

Đỗ Tứ lại thở dài thêm tiếng nữa. "Xảo Chuyết và ta quen nhau từ hai mươi năm trước, hai bên kết mối sinh tử chi giao. Chín năm trước, lão trở mặt với tên phản đồ Minh Tông Việt của Hạo Không môn, sau đó bỏ đi biệt tích, đến ta cũng chẳng thể tìm thấy lão. Sáu năm trước, lão bất ngờ đến tìm ta, nói là đã có kế hoạch đối phó với kẻ đó rồi. Cả đời lão hiếm khi cầu xin người khác, vậy mà lão lại xin ta hãy ở lại nơi này, chờ một người cầm theo tín vật của lão tới..."

Hứa Mạc Dương vô cùng ngạc nhiên. "Chẳng lẽ từ sáu năm trước, Xảo Chuyết đại sư đã biết là ta sẽ đến tìm tiền bối sao?" Từ đáy lòng y bỗng trào dâng một suy nghĩ hoang đường rằng vận mệnh tay không do con người khống chế nhưng Xảo Chuyết đại sư dường như lại biết trước tương lai sẽ xảy ra những chuyện gì. Đầu óc y nhất thời trở nên ngớ ngẩn, không thể nói tiếp lời nào.

Đỗ Tứ chăm chú nhìn Hứa Mạc Dương. "Ngay từ khoảnh khắc ngươi bước chân vào cửa quán, ta đã nhận ra cây phất trần của Xảo Chuyết rồi, chỉ là việc xảy ra đột ngột nên không thể không thận trọng. Chẳng ngờ sáu năm trước chia tay Xảo Chuyết, từng lời nói vẫn như vang vọng bên tai, vậy mà giờ đây đã âm dương xa cách..." Nói rồi lão lại không kìm được thổn thức.

Dương Sương Nhi cảm thấy vô cùng hứng thú. "Ý Đỗ bá bá là Xảo Chuyết đại sư có thể đoán trước được việc xảy ra trong mấy năm sau sao?"

Đỗ Tứ không trả lời thẳng vào câu hỏi, chỉ nói: "Tuy ta không biết gì về Thiên Mệnh bảo điển nhưng đó là một trong hai đại thần công của Hạo Không môn, sự huyền diệu, tinh túy bên trong quyết không phải là thứ mà người ngoài có thể tưởng tượng. Có lẽ những môn kỳ công diệu thuật bên trong có thể đạt tới cảnh giới như vậy."

Dương Sương Nhi tỏ vẻ khó hiểu. "Mệnh trời khó đoán, muốn thật sự nhìn thấu thiên cơ há lại là việc dễ dàng?"

"Không hẳn." Đỗ Tứ khăng khăng nói. "Xảo Chuyết cả đời nghiên cứu huyền cơ của trời đất, tác phong hành sự của lão, bọn phàm phu tục tử chúng ta không thể nào hiểu được."

Tới lúc này, Hứa Mạc Dương mới loáng thoáng hiểu ra ngọn nguồn câu chuyện chẳng trách ở bên rìa sa mạc lại có một quán trọ kỳ quái như thế. Đỗ Tứ vì lời hứa với bạn mà một mình cô độc ở lại sa mạc này suýt sáu năm trời, khi nhàn rỗi không có việc gì làm chắc hẳn chỉ biết điêu khắc cành cây để giết thời gian. Nghĩ thế, Hứa Mạc Dương liền sinh lòng kính trọng đối với lão già tướng mạo thì hung ác nhưng thực ra lại vô cùng lương thiện và thủ tín này.

Dương Sương Nhi đại hỏi: "Xảo Chuyết đại sư có nói với Đỗ bá bá là nếu đợi được người mà ông ấy phái tới rồi thì phải làm gì tiếp theo không?"

Đỗ Tứ khẽ lắc đầu, đáp: "Ngày đó, ta và Xảo Chuyết chỉ gặp nhau một lát, lão nói còn có một số chuyện cần phải suy nghĩ kỹ càng rồi mới đưa ra quyết định được." Sau đó lão lại nhìn qua phía Hứa Mạc Dương. "Liệu Hứa tiểu huynh có thể nói ra những điều mình biết để mọi người cùng suy nghĩ chăng?"

Hứa Mạc Dương liền kể lại việc bảy năm trước Xảo Chuyết đã quen biết mình thế nào, dặn dò sau khi thành Đông Quy bị phá hãy lên núi ra sao, sau đó lại kể lại những lời đối đáp khiến người ta như hiểu như không của lão với Minh Tướng quân, cả việc lão nhìn một cái rồi dùng cây phất trần truyền công cho y khiến bây giờ trong đầu y tồn tại những suy nghĩ kỳ quái. Cuối cùng y kể việc Xảo Chuyết đại sư dùng thần công ném y ra khỏi vòng vây trùng trùng của kẻ địch, đồng thời truyền âm dặn dò y tới Tiếu Vọng sơn trang tìm Binh Giáp truyền nhân.

Ban đầu, khi y nói tới cảm giác về ánh mắt đó còn có chút ngẩn ngơ, nhưng về sau càng nói càng nhanh hơn, dường như những việc xảy ra trong mảnh ký ức của Xảo Chuyết đại sư đều là những việc từng xảy ra trong cuộc đời của y vậy...

Hứa Mạc Dương càng nói lại càng kinh hãi, mơ hồ cảm thấy Xảo Chuyết đại sư sớm đã an bài mọi việc. Chẳng hạn lão sớm đã biết thành Đông Quy sắp bị công phá, cho nên khi y nhìn thấy lão thì lão đang vận huyền công, dường như để chuẩn bị sẵn sàng cho ánh mắt kinh thiên động địa ngay sau đó cùng với quá trình truyền công và khai thông kinh mạch cho y. Nhưng y không sao hiểu được, nếu Xảo Chuyết đại sư thật sự đoán trước được tương lai, thậm chí đoán trước được sự sống chết của bản thân mình, vậy tại sao lại không né tránh tai họa ngay từ sớm...

Đỗ Tứ nghe Hứa Mạc Dương kể lại những ảo giác xuất hiện trong tâm trí khi nhìn vào ánh mắt đó của Xảo Chuyết liền hú dài một tiếng, nhìn Hứa Mạc Dương bằng ánh mắt đầy thâm ý. "Hứa tiểu huynh cơ duyên xảo hợp, gặp được kỳ ngộ này, nhất định phải sử dụng cho tốt, ngày sau ắt sẽ có thành tựu lớn"

Đến khi nghe Hứa Mạc Dương kể lại, Xảo Chuyết đại sư từng chỉ ra ngày mùng Bảy tháng Tư sáu năm về trước là thời khắc bất lợi nhất của Minh Tướng quân, Đỗ Tứ hơi cau mày, lẩm bẩm: "Chẳng lẽ chính vì thế nên sáu năm trước Xảo Chuyết mới tới tìm ta sao?" Còn Hứa Mạc Dương thì lại nghĩ đến cuộn vải giấu trong cây phất trần cùng với cây cung có kiểu dáng kỳ lạ, đầy sát khí kia, tâm trạng vô cùng bình tĩnh, đột nhiên hiểu ra một số điều. "Ta biết rồi, chính là ngày mùng Bảy tháng Tư sáu năm trước, Xảo Chuyết đại sư đã vẽ ra cây cung đó!"

Mặt mày Dương Sương Nhi ngẩn ngơ, nàng ta kể lại: "Phụ thân nói bốn năm trước, ông đã định ước hẹn với một đạo nhân, rằng trước tháng Tư năm nay sẽ phái một người tinh thông võ công của thành Vô Song đến Tiếu Vọng sơn trang ở nơi này. Bây giờ nghĩ lại, vị đạo nhân đó có lẽ chính là Xảo Chuyết đại sư, nhưng chẳng lẽ từ bốn năm trước đại sư đã biết được những biến cố xảy ra bấy giờ? Và chẳng lẽ ngày mùng Bảy tháng Tư năm nay sẽ xảy ra chuyện gì đó hay sao?"

Cả ba người cùng im lặng, trong lòng trào dâng một nỗi sợ hãi khó diễn tả bằng lời, nhưng mỗi người cũng có những suy nghĩ riêng.

Dương Sương Nhi hỏi: "Đỗ bá bá có biết Tiếu Vọng sơn trang nằm ở nơi nào không?"

Đỗ Tứ nói: "Đi tiếp về phía bắc hơn mười dặm nữa sẽ tới dãy núi Cách Vân, nơi cửa vào của nó có tên gọi là U Minh cốc. Đi qua U Minh cốc thêm hơn mười dặm thì tới Độ Kiếp cốc, Tiếu Vọng sơn trang nằm trên đỉnh Chư Thần trong Độ Kiếp cốc."

Hứa Mạc Dương tò mò hỏi: "Tại sao tại hạ chưa từng nghe nói tới cái tên Tiếu Vọng sơn trang?"

Đỗ Tứ đáp: "Trong Độ Kiếp cốc toàn là những thứ kỳ hoa dị thảo, mãnh thú độc trùng, nghe nói còn có loại cây có thể giết người, vô cùng nguy hiểm, cho nên mời có lời đồn rằng đi qua cốc giống như là độ kiếp. Cũng vì thế Tiếu Vọng sơn trang xưa nay vẫn luôn hiếm có bóng người, tên của nó chẳng được mấy ai biết đến."

Dương Sương Nhi không biết đang nghĩ đến điều gì, bỗng cắn chặt môi, hỏi: "Vậy trong Tiếu Vọng sơn trang có người nào không?"

Trên khuôn mặt Đỗ Tứ thoáng qua một tia dị thường. "Cư ngụ trong Tiếu Vọng sơn trang dường như là quý tộc lưu vong của nước nào đó, trên dưới tổng cộng có mấy trăm người, các trang đinh đều được huấn luyện bài bản, sức chiến đấu rất mạnh. Trang chủ của bọn họ là Dung Tiếu Phong, tuy không có danh tiếng trên giang hồ nhưng võ công cục kỳ lợi hại. Tứ Tiếu thần công mà y tự sáng tạo ra vốn hiếm khi xuất hiện trong mắt người đời, có điều thực sự là một môn kỳ công đi theo lối đi riêng và rất có thành tựu."

Hứa Mạc Dương không kìm được tò mò, cất tiếng hỏi: "Tiếu Vọng sơn trang bí ẩn như vậy, cớ sao Đỗ tiền bối lại biết rõ thế?"

Đỗ Tứ cúi đầu nhìn bàn tay phải của mình, giống như đang nhớ đến chuyện xưa, sau đó lại chậm rãi đưa bàn tay phải đến trước mặt hai người, giọng nói trở nên khàn khàn, trầm thấp. "Mấy năm trước, ta từng vì một việc mà thường xuyên tới Tiếu Vọng sơn trang, còn giao đấu một chưởng với Dung Tiếu Phong, hai người hãy xem đi!"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi cùng đưa mắt nhìn về phía bàn tay to lớn, sần sùi những khớp xương đó, chỉ thấy giữa lòng bàn tay có những đường nét hoa văn hết sức kỳ lạ. Chúng chạy ngang qua bàn tay, hõm xuống ở giữa và cong lên ở hai bên trái phải, dường như tạo thành một khuôn mặt cười, quỷ dị tới cực điểm.

"Đây là cái gì?" Dương Sương Nhi kinh hãi kêu lên.

Đỗ Tứ mỉm cười, nói: "Võ công của Dung Tiếu Phong chắc hẳn được truyền lại từ Sát Viễn đại quốc sư của Mông Cổ năm xưa, chuyên dùng ý để phá lực, dùng niệm để di động, khác hẳn với lộ số của võ học Trung Nguyên. Sau khi ta giao đấu với y một chưởng, lòng bàn tay chẳng hiểu sao lại xuất hiện hoa văn hình khuôn mặt cười này."

Hứa Mạc Dương tỏ vẻ thận trọng, hỏi: "Như vậy là giữa tiền bối và Dung Tiếu Phong có hiềm khích, lần này chúng ta đi tới Tiếu Vọng sơn trang liệu có..."

Đỗ Tứ ngạo nghễ cười, nói: "Dung Tiếu Phong tuy là người ngoại tộc nhưng cũng thông tình đạt lý, cuộc tranh chấp năm xưa thực ra có nguyên do riêng,

huống chi sau khi giao đấu một chưởng đó, hai người bọn ta chẳng ai làm gì được ai, tính ra ta và y không những không thể coi là kẻ đối đầu, ngược lại còn có cảnh giác quý trọng nhau. Cái đạo của võ học mênh mông như biển cả, nếu có thể tìm được một người võ công không phân cao thấp với mình để thử chiêu thì thực là một điều rất có ích cho việc tu hành, tin rằng từ chưởng đó, ta và y đều nhận được không ít lợi ích."

Hứa Mạc Dương nghe thấy những lời này, trong lòng nảy sinh rất nhiều cảm xúc. Đỗ Tứ tuy đã ẩn cư nơi biên thùy mấy năm nhưng bất kể là về võ công, trí tuệ hay kiến thức đều hết sức phi phàm, lời nói không nhiều nhưng mỗi câu đều có thể khiến người ta bừng tỉnh ngộ.

Dương Sương Nhi rốt cuộc không kìm được, cất tiếng hỏi: "Chúng ta cứ thế này mà tới Tiếu Vọng sơn trang sao? Đỗ bá bá không phải đã nói trong Độ Kiếp cốc gì đó còn có loài cây có thể giết người à?" Nói rồi nàng ta đưa tay lên khẽ vuốt ngực, thì ra trong lòng nàng ta vẫn luôn lo lắng chuyện này.

Hứa Mạc Dương cười, nói: "Dương cô nương gia học uyên thâm, ngay đến kẻ xấu như Tề Truy Thành cũng không sợ, không lẽ lại sợ một cái cây? Nói ra thực khiến người ta khó có thể tin được."

"Hì hì!" Dương Sương Nhi lè lưỡi vẻ tinh nghịch. "Phụ thân chỉ dạy tiểu muội cách dùng võ công để đánh kẻ xấu, nhưng lại không dạy cách ra tay với một cái cây. Chẳng lẽ Hứa huynh có bản lĩnh tìm được huyệt đạo của cây cối sao?" Câu nói này thực khiến Hứa Mạc Dương dở khóc dở cười. Dương Sương Nhi vốn mang tâm tính của người trẻ tuổi, lúc mới gặp hãy còn hơi rụt rè nhưng bây giờ, khi đã quen thuộc thì cũng dám trêu chọc y rồi.

Đỗ Tứ thì lại đưa mắt nhìn những đường nét mơ hồ của ngọn núi nhấp nhô trong màn đêm mịt mờ phía trước, trên khuôn mặt thoáng hiện vẻ lo lắng. "Địa thế dãy Cách Vân này cực kỳ đặc biệt, vách núi hai bên gần như dựng đứng, tuyệt đối không thể leo trèo, cho nên muốn tới được Tiếu Vọng sơn trang trong Độ Kiếp cốc thì nhất định phải đi xuyên qua sơn cốc chứ không còn cách nào khác. Tạm chưa nói tới Độ Kiếp cốc, ngay đến cửa ải đầu tiên khi đi vào dãy Cách Vân là U Minh cốc chúng ta cũng đã không thể né tránh được rồi."

Hứa Mạc Dương thấy sắc mặt Đỗ Tứ có chút khác thường, bèn hỏi: "Trong U Minh cốc có gì sao?"

"Cốc này vốn không có tên, bây giờ được gọi là U Minh cốc chẳng qua là vì bên trong đó xuất hiện một ngôi mộ..."

Dương Sương Nhi dù sao cũng là nữ giới, nghe tới đây thì kinh hãi kêu lên: "Mộ? Là mộ của ai vậy? Đỗ bá bá đừng dọa cháu nhé!"

"Mộ chỉ có một ngôi nhưng bên trên lại để tên của rất nhiều người." Trên khuôn mặt xuất hiện một tia kỳ quái, Đỗ Tứ khẽ cười với Dương Sương Nhi, giải thích: "Cháu gái đừng sợ, chúng ta đợi đến bình minh, khi mà quỷ khí yếu hơn thì sẽ đi vào U Minh cốc."

Hứa Mạc Dương vốn cảm thấy khó hiểu khi Đỗ Tứ bất chấp mối nguy hiểm bị truy binh của Minh Tướng quân đuổi kịp mà dừng chân nghỉ lại đây, tới lúc này mới hiểu rõ nguyên cớ. Nghe giọng điệu của lão, U Minh cốc tuyệt đối không chỉ đơn giản là có một ngôi mộ như vậy. Y bèn lập tức dò hỏi bằng ánh mắt, chờ những lời tiếp theo của lão.

Quả nhiên Đỗ Tứ lại chậm rãi nói tiếp: "Trong mộ không có quan tài. Điều kỳ quái nằm trên bia mộ."

"Kỳ quái thế nào?"

"Mộ này thực sự rất đặc biệt, chỉ chôn người sống, không chôn người chết."

Đỗ Tứ cất giọng nặng nề. "Người nào chết rồi thì sẽ được xóa tên khỏi bia mộ."

"Đó là những người nào?".

"Đều là những bậc hào cường nổi tiếng một phương trên giang hồ. Cái tên nào càng nằm phía trên thì lại càng là của các nhân vật ghê gớm." Trên khuôn mặt Đỗ Tứ thoáng qua một tia dị thường. "Hai người thử đoán xem cái tên nằm ở vị trí đầu tiên trên bia mộ là của ai?"

Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi đưa mắt nhìn nhau, đồng thời hô lên: "Minh Tướng quân?".

Đỗ Tứ cười rộ, nói: "Không sai, tuy có rất nhiều người coi khinh những việc mà Minh Tông Việt đã làm nhưng bất kể là ai cũng không thể không thừa nhận, hắn đích thực là một nhân vật..." Lão dừng lại một chút rồi khẽ thở dài. "... một nhân vật khiến người ta không thể không sợ, cũng không thể không khâm phục!".

Sau khi nghỉ ngơi chừng hai canh giờ, ba người lại tiếp tục lên đường. Đi thêm hơn mười dặm nữa, bọn họ rốt cuộc đã đi ra khỏi sa mạc, phía trước mặt chính là dãy núi Cách Vân.

Dãy núi Cách Vân được chia ra làm hai nửa chạy song song với nhau, ở giữa là một khe núi rất dài. Trong khe núi, mây mù lởn vởn suốt cả ngày nhưng lại bị vách núi cao vút hai bên chặn lại bên trong, cái tên Cách Vân chính là bắt nguồn từ đó. Cửa vào của khe núi là U Minh cốc, một nơi mà ngay đến những bậc cao nhân đầy kinh nghiệm trên giang hồ như Đỗ Tứ cũng phải thầm kinh sợ.

Vừa mới đi vào U Minh cốc, Hứa Mạc Dương đột nhiên có một cảm giác quái dị.

U Minh cốc nằm ở cửa vào của dãy núi Cách Vân, vừa mới bước chân vào trong cốc, sương mù đã lớn vởn xung quanh. Hơn nữa ở đây còn mọc rất nhiều loại cây không rõ tên gọi, so với mảng cát vàng mênh mông không có bên bờ ngoài kia thực sự là hoàn toàn khác biệt, tựa như một cõi đất riêng.

Lúc này đã là bình minh. Dưới vầng trăng treo cao trên trời, cảnh vật trong sơn cốc thoáng ẩn thoáng hiện giữa làn sương mù mờ mịt, tuy không ngăn nắp chỉnh tề nhưng rất thú vị.

Ở đây có giả sơn, có hành lang, thậm chí còn có cả một cây cầu đá cong cong. Dưới chân cầu tuy không có nước nhưng được thay bằng thảm cỏ xanh, kênh mương thì được thay bằng các khe rãnh. Những tảng đá kỳ dị nhiều vô kể, kết hợp một cách hoàn hảo với khung cảnh núi non dựng đứng xung quanh, cho dù là trong nội cung ở thành Đông Quy có lẽ cũng không có được cảnh sắc tao nhã thế này.

Đỗ Tứ lẩm bẩm: "Ba năm trước, khi ta tới thì nơi này chỉ có một ngôi mộ, không ngờ bây giờ lại xuất hiện thêm nhiều cảnh sắc thế này!"

Bốn phía xung quanh tĩnh lặng không một bóng người, chẳng rõ những cảnh sắc trong sơn cốc hoang vu này là do người nào tạo ra. Tuy thấp thoáng đã có ánh ban mai chiếu xuống, tất cả đều vô cùng bình yên nhưng dường như vẫn có những luồng quỷ khí rợn người lớn vởn quanh đây. Dù Đỗ Tứ từng tới nơi này nhưng giờ đây cảnh vật đã hoàn toàn khác khiến lão không khỏi có chút ngẩn ngơ. Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi lại càng căng thẳng, một bàn tay của Dương Sương Nhi không kìm được nắm chặt lấy ống tay áo của Đỗ Tứ.

Ba người cùng bước bên cây cầu đá. Cây cầu dẫn thẳng tới một ngôi đình nhỏ màu trắng. Dưới làn ánh sáng lờ mờ của buổi bình minh, những chữ lớn được để trên ngôi đình đột nhiên đập vào mắt: "Thiên địa bất nhân."

Trong đình không có bàn ghế, chỉ có duy nhất một ngôi mộ màu xanh sẫm.

Dưới mái hiên của ngôi đình còn treo một chùm chuông gió màu bạc, nó nhẹ nhàng đung đưa trong làn gió sớm, càng khiến không khí nơi đây toát lên vẻ thần bí và quỷ dị.

Ngôi mộ được xây bằng vô số tảng đá lớn màu xanh, chất đá cổ xưa, màu sắc thanh nhã. Phía trước ngôi mộ có dựng một tấm bia lớn, rộng chừng bốn thước.

Chữ viết bên trên tấm bia đó chắc hẳn là do bậc cao nhân khắc ra, mỗi nét đều ăn sâu vào đá. Cho dù ba người còn ở cách tấm bia hơn mười trượng nhưng Hứa Mạc Dương đã có thể nhìn thấy rõ phía trên cùng của tấm bia mộ có khắc ba chữ lớn: Anh Hùng chủng 1 phía bên dưới còn khắc chi chít những chữ nhỏ li ti.

Một cảm giác bi thương đột nhiên trào dâng trong lòng Hứa Mạc Dương. Y cảm thấy cho dù là những đại anh hùng, đại nhân vật từng ngạo nghễ trong thiên hạ, lưu danh sử xanh thì đến cuối cùng cũng chỉ còn là một nắm đất trở về với cát bụi.

Mấy chục năm nay, Hứa Mạc Dương vẫn luôn tung hoành nơi Tái Ngoại, với bản tính hào sảng, phóng khoáng, y nào đã có cảm giác bi lụy như thế bao giờ. Nhưng lúc này, đầu tiên là nhìn thấy bốn chữ "Thiên địa bất nhân" đầy khí thế bên ngoài ngôi đình, sau lại nhìn thấy ba chữ "Anh Hùng chủng" ở đây, y bỗng cảm thấy vạn sự đều là không. Có câu rằng: "Thiên địa vô thường mệnh do trời định", tức là tất cả mọi chuyện đều nằm trong sự không chế của ông trời, cho nên có làm việc gì thực ra cũng chẳng hề quan trọng.

Hứa Mạc Dương hiểu rõ nhất định là ánh mắt đó của Xảo Chuyết đại sư đã làm thay đổi rất nhiều suy nghĩ của mình nhưng vẫn không sao kìm được nỗi bi thương. Lúc này, trên mặt y, lệ rơi nhạt nhòa, trái tim chấn động, thêm vào đó là vết thương cũ còn chưa khỏi, y suýt thì há miệng phun ra một ngụm máu tươi.

Dương Sương Nhi ở bên cạnh thì lại đang nhớ về phụ thân ở tận Giang Nam xa xôi. Chuyến đi tới Tiếu Vọng sơn trang lần này thực ra là nàng ta lén trốn ra ngoài, trên đường gặp được vị Lâm thúc thúc xưa nay vốn là người tiêu sái phóng khoáng nhất trong nhà, bèn dựa vào tâm tính trẻ con đòi đi một mạch lên Tái Ngoại để du sơn ngoạn thủy. Lúc này nàng ta mới nhớ ra mình rời đi như vậy, phụ thân ở nhà nhất định sẽ nhớ mong, lại nghĩ mình xưa nay vẫn quen thói điêu man, chưa từng hiếu kính với song thân bao giờ, còn thường xuyên làm phụ thân tức giận, nỗi bi thương trong lòng cũng bất giác trào dâng.

Hai người Hứa, Dương đột nhiên cảm thấy lòng ấm áp, những suy nghĩ buồn thương trước đó đột nhiên nguôi ngoai đi rất nhiều.

Thì ra Đỗ Tứ đã dùng hai tay trái phải đặt lên vai Hứa Mạc Dương và Dương Sương Nhi, truyền huyền công vào trợ giúp bọn họ gạt bỏ tâm ma. Chỉ thấy Đỗ Tứ tập trung tâm trí, sắc mặt nặng nề chưa từng có. Nhìn ánh bình minh đằng chân trời phía đông đang dần xua đi màn đêm, lão nói chậm rãi từng chữ: "Binh Giáp truyền nhân Lưu Mã hà Đỗ Tứ tới bái phỏng U Minh cốc!" Âm thanh vang vọng trong sơn cốc trống trải càng làm sự quỷ dị và thần bí tăng thêm bội phần.

Trong cốc vẫn không thấy xuất hiện một bóng người, cũng chẳng có tiếng động nào.

"A..." Giữa màn sương mù tịch mịch đột nhiên thấp thoáng vọng ra một tiếng kêu kinh hãi. Ba người lần theo hướng phát ra âm thanh, đi được mấy bước liền nhìn thấy một khung cảnh quỷ dị tới cực điểm.

Một hòa thượng hai tay múa may cây thiền trượng dài chừng tám thước đang đi tới từ phía trước với vẻ rất vội vàng. Gã hòa thượng múa cây thiền trượng rất nhanh, gần như đã hình thành một tấm lưới màu đen che chắn trước thân thể.

Phía trên của gã treo lửng lơ một thứ gì đó. Thứ đó thuần một màu trắng, không ngừng đung đưa qua lại, theo sát trên đỉnh đầu nhưng dường như gã chẳng hay biết, cứ ra sức chạy như bay về phía trước, miệng không ngừng kêu ầm ĩ, giống như vừa gặp phải một chuyện gì đó vô cùng đáng sợ.

"Quỷ!" Dương Sương Nhi không kìm được sợ hãi, thốt lên một tiếng, vội vàng đưa tay lên bụm miệng.

Một tiếng "keng" vang lên, thanh trường kiếm của Hứa Mạc Dương đã rời khỏi vỏ, chỉ về phía gã hòa thượng kia. Đó không phải ai khác, chính là Thiên Nạn đầu đà dưới trướng Minh Tướng quân.

Sau khoảnh khắc, Thiên Nạn đã chỉ còn cách ba người chừng hơn một trượng nhưng vẫn có vẻ chẳng hay biết gì, miệng không ngừng kêu lớn, đôi tay ra sức múa may cây thiền trượng nặng tới mấy chục cân đó.

Thiên Nạn càng múa càng chậm, thứ màu trắng trên đỉnh đầu gã đột nhiên hạ xuống, va mạnh vào cây thiền trượng. Chỉ nghe "choang" một tiếng, Thiên Nạn lại quát lớn thêm lần nữa, thôi thúc chân nguyên múa thiền trượng nhanh hơn.

Cứ nhìn tình hình này, chỉ e gã chẳng múa thêm được bao lâu thì sẽ kiệt sức mà chết.

Tiếng va chạm vừa rồi tay rất nhẹ nhưng lọt vào tai Hứa Mạc Dương lại khiến màng nhĩ y chấn động liên hồi, hệt như nghe thấy tiếng chuông đồng vang vọng giữa vùng sơn cốc trống trải. Sau một hồi lâu, vùng ngực vẫn cảnh thấy vô cùng khó chịu, y đoán chừng Thiên Nạn đang ở ngay gần nơi phát ra âm thanh chắc sẽ càng khó chịu hơn. Thiên Nạn tuy là tử địch của y nhưng nhìn thấy kẻ thù có võ công cao cường tỏ ra kinh hãi, còn có vẻ sắp kiệt sức đến nơi, trong lòng y không kìm được cảm thấy có chút thương hại.

Vật màu trắng kia nhẹ nhàng hạ xuống trước mặt ba người họ, không ngờ lại là một lão già vận chiếc áo rộng màu trắng. Râu và lông mày của lão già này đều đã bạc phơ, có lẽ đã bảy, tám chục tuổi, vậy nhưng khuôn mặt vẫn ánh lên nét hồng hào. Lúc này lão đang cười toe toét, thân hình lại thấp nhỏ, cao không đầy năm thước, cho nên dáng vẻ chẳng khác gì một đứa bé không hiểu sự đời.

Điều khiển người ta cảm thấy kinh ngạc nhất là mái tóc trắng của lão, nó buông xõa tới tận đầu gối, gần như bao trùm toàn thân, lại kết hợp với chiếc áo trắng rộng kia, khi đi giữa làn sương mù thì đúng là thoắt ẩn thoắt hiện. Chẳng trách vừa rồi ba người họ chỉ nhìn thấy một cái bóng màu trắng.

Lão già cười nhăn nhở với ba người họ, giống như một đứa bé chẳng có chút tâm cơ nào. "Mới sớm như vậy mà đã có khách tới rồi!" Sau đó lại nghênh

ngang xoay người nhìn Thiên Nạn, cười hề hề, nói: "Tên hòa thượng ngươi thực quá ngoan cố, gàn dở! Ta chẳng qua chỉ muốn xem thứ kia của ngươi thôi, vậy mà ngươi cứ coi nó như bảo bối, đúng là một tên hòa thượng ngốc, cần tiền không cần mạng."

Tóc của Thiên Nạn buông xõa qua vai, khuôn mặt đầy vẻ kinh sợ. Nhìn thấy mấy người Hứa Mạc Dương, hắn càng lộ vẻ tuyệt vọng nhưng vẫn không dám dừng múa thiền trượng, như thể sợ lão già áo trắng kia đột nhiên ra tay.

Lão già vỗ tay, cười nói: "Ngươi nghĩ ta thật sự không cướp được bảo bối của ngươi sao? Chẳng qua ta thấy cái chong chóng của ngươi xoay hay quá nên mới chơi đùa với ngươi một lát mà thôi. Bây giờ ta có khách rồi, ngươi hãy xem thủ đoạn của ta đây!"

Vẻ sợ hãi trong mắt lại càng đậm hơn nhưng Thiên Nạn vẫn liều mạng múa thiền trượng. Có điều lúc này động tác của gã đã có phần rối loạn, chỉ bảo vệ được phần bụng, phần ngực và phần đầu, không thể che chắn toàn thân như trước nữa.

Hứa Mạc Dương cảm thấy hết sức ngạc nhiên. Trong cuộc hỗn chiến khi thành Đông Quy bị phá, y đã từng nhìn thấy sự dũng mãnh và tàn độc của Thiên Nạn, có mấy huynh đệ của y còn chết trong tay gã, vậy mà lúc này lão già tóc dài kia tuy có vẻ thấp bé hơn Thiên Nạn rất nhiều nhưng lại khiến cho gã vô cùng sợ hãi, chắc hẳn vừa rồi gã đã phải chịu thua thiệt rất nhiều.

Lão già tóc dài vừa dứt lời đã bất ngờ bay từ dưới đất lên với tốc độ cực nhanh, cả thân thể giống như một thanh kiếm vừa rèn qua lửa nóng, thoáng nhìn có cảm giác ánh lên những tia sáng màu trắng xanh, lao thẳng vào bức màn phòng thủ kín kẽ mà Thiên Nạn tạo ra bằng cây thiền trượng. Thân pháp của lão nhanh vô cùng nhưng người ta vẫn có thể nhìn thấy rõ từng động tác, thêm vào đó, mái tóc trắng dài kia múa lượn không ngừng nên trông lão hệt như một con chim lớn dũng mãnh khiến ba người Hứa Mạc Dương nhìn mà trợn tròn mắt, há hốc miệng.

Lại một tiếng va chạm trầm đục nữa vang lên, Thiên Nạn loạng choạng lùi liền hai mươi bước, sau đó ngã phịch, sắc mặt trở nên trắng bệch. "Cạch" một tiếng, cây thiền trượng rơi xuống đất, lúc này gã đã không còn sức để chiến đấu tiếp nữa.

Trên tay lão già tóc dài đã xuất hiện thêm một thứ gì đó có hình ống, lão cầm nó lật qua lật lại, ngắm nghía kĩ càng. Hứa Mạc Dương tinh mắt, nhận ra thứ đó có vẻ giống một cây pháo hoa, chỉ là nó được làm hết sức tinh xảo, khác hẳn những cây pháo hoa bình thường.

Đỗ Tứ nhìn thấy vật hình ống trong tay lão già tóc dài, sắc mặt trở nên vô cùng nghiêm trọng. "Đỗ mỗ cùng bằng hữu muốn mượn đường qua đây, xin lão huynh tạo thuận lợi cho!"

Lão già tóc dài đó ngúng nguẩy lắc đầu. "Muốn đi qua đường này thì để lại tiền mãi lộ. Còn về "thuận lợi" thì không có đâu, ngươi có thứ gì tốt hãy lấy ra cho ta xem nào!" Nói rồi, dường như lão lại nhớ đến điều gì đó, bèn nhìn qua phía Thiên Nạn, giơ thứ có hình ống trong tay lên, cười ha hả, nói: "Tên hòa thượng ngươi sớm giao thứ này cho ta chẳng phải là xong rồi sao, bây giờ thì ngay đến đi lại cũng khó."

Thiên Nạn thấy kẻ thù Hứa Mạc Dương đang ở ngay trước mặt mà mình lại chẳng còn sức để động thủ nữa, chỉ có thể mặc người ta chém giết, trong lòng nôn nóng vô cùng. Hắn cố nhắm mắt vận công nhưng lúc này làm sao mà tĩnh tâm cho được, từ trong miệng lập tức phun ra một ngụm máu tươi.

Dương Sương Nhi nhìn thấy thảm trạng của Thiên Nạn thì có chút không nhẫn tâm, bèn nói với lão già tóc dài kia: "Lão bá bá võ công cao cường như vậy, xin đừng làm khó vị hòa thượng này nữa?"

"Võ công? Ngươi nhìn ra được võ công của ta sao?" Lão già tóc dài ngẩn người, đưa tay vỗ đầu nói lớn mà dáng vẻ lại như đang lẩm bẩm một mình: "Hỏng rồi, ta đã quyết tâm quên đi võ công của mình, bây giờ lại không cẩn thận khoe khoang tuyệt học của bản môn ra trước mặt khách nhân như thế, chưởng môn nhất định sẽ không chịu thu nhận ta về sư môn nữa." Lão càng nói càng nôn nóng, cuối cùng khóc váng lên.

Đỗ Tứ và hai người Hứa, Dương đưa mắt nhìn nhau, trong lòng vừa kinh ngạc lại vừa tức cười. Võ công của lão già này cao thâm tột độ, vậy mà tác phong hành sự lại giống hệt một đứa trẻ con, chẳng lẽ một chiêu kinh thiên động địa vừa rồi của lão chỉ là để khoe khoang với người khác? Thực là khiến người ta không sao hiểu được.

Lão già tóc dài vừa khóc vừa quay sang nói với Thiên Nạn: "Nể tình tiểu cô nương xinh đẹp này cầu xin cho ngươi, ngươi mau cút đi! Có điều ngươi phải lập lời thề, sau này quyết không được nói ra là ta đã làm ngươi bị thương!"

Thiên Nạn đầu đà dường như rất sợ lão già tóc dài, vội vàng vâng lời, nói ngay: "Lão nhân gia yên tâm, nếu tại hạ nói với một người nào về việc ngài thân mang võ công tuyệt thế, nhất định sẽ chết không toàn thây!" Lão già tóc dài cười hô hô, nhường đường cho hắn rời đi.

Hứa Mạc Dương chĩa mũi kiếm về phía Thiên Nạn, trong lòng dâng lên hào khí ngút trời. "Tuy ta và ngươi không đội trời chung nhưng lúc này ngươi đã

không còn sức đánh tiếp, ta cũng tạm tha cho ngươi một mạng. Sẽ có một ngày ta tự tay chém đầu ngươi để trả thù cho các chiến sĩ Đông Quy."

Thiên Nạn cũng không nói gì thêm, bước thấp bước cao kéo lê cây thiền trượng rời khỏi sơn cốc.

Dương Sương Nhi tâm tư tinh tế, nhận ra lời thề của Thiên Nạn không chân thành nhưng cũng không nhẫn tâm làm khó hắn nữa. Đợi sau khi Thiên Nạn đã đi xa, nàng ta mới cười nói với lão già tóc dài kia: "Lão gia gia trúng kế rồi. Vị hòa thượng kia thề rằng sẽ không nói với một người về việc ông biết võ công, nhưng nếu hắn nói với hai người, ba người thì sẽ không tính là trái với lời thề.".

Lão già tóc dài ngẩn ra rồi lập tức cả giận. "Không ngờ tên hòa thượng thối tha này lại dám gạt ta! Đợi đó, để ta đi tìm hắn tính sổ, lần này ta nhất định phải cắt lưỡi hắn, xem hắn còn dùng cái gì để nói chuyện nữa!"

Dương Sương Nhi vội nói: "Hắn nhất định đã trốn rồi, sa mạc rộng như vậy, ông không tìm được hắn đâu! Hơn nữa ta cũng chỉ nói thế thôi, hắn đã bị ông dọa cho sợ chết khiếp, nhất định sẽ không dám nói với ai đâu! Cho dù ông có cắt lưỡi hắn thì hắn vẫn có thể dùng tay để viết cho người khác biết, ông chẳng thể bên cạnh hắn cả ngày đúng không!"