Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Ái tình và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vệ thì hạnh phúc sẽ thành sự thật, ngườc lại nếu không biết bảo vệ thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có.
Pascal
Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 41

Chủ Đề: Mười Hai Chiếc Ghế

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Mười Hai Chiếc Ghế

    Mười Hai Chiếc Ghế

    Tác giả: Ilya Ilf Và E.petrov

    Dịch giả: Lê Khánh Trường





    MỤC LỤC

    PHẦN I: SƯ TỬ STARGOROT

    1. Bejentruc Và "Nimfa"
    2. Mađam Petukhova Lìa Đời
    3. Tấm Gương Của Kẻ Tội Đồ
    4. Chất Thơ Của Những Chuyến Đi Xa
    5. Vua Mánh
    6. Khói Kim Cương
    7. Dấu Vết Thuốc Nhuộm Titanik
    8. Kẻ Cắp Quý Phái
    9. Mái Tóc Xoăn Của Cha Đâu Rồi?
    10. Ông Thợ Nguội, Con Vẹt Và Mụ Thầy Bói
    11. Vần Chữ Cái "Tấm Gương Của Cuộc Sống"
    12. Ước Mơ Của Nhà Thơ
    13. Hãy Thở Sâu Hơn Bạn Đang Hồi Hộp Đấy
    14. Liên Minh Lưỡi Kiếm Và Lưỡi Cày


    PHẦN II: Ở MÁTXCƠVA

    15. Giữa Biển Ghế
    16. Nhà Tập Thể Mang Tên Tu Sĩ Bertol’D Shvartsa
    17. Hãy Tôn Trọng Những Cái Đệm Giường Hỡi Bà Con!
    18. Bảo Tàng Đồ Gỗ
    19. Bầu Cử Kiểu Tây Âu
    20. Từ Sêvilia Đến Grênađa
    21. Nhục Thể
    22. Elloska Ăn Người
    23. Avessal Vlađimirovich Iznurenkov
    24. Câu Lạc Bộ Những Tay Chơi Ô-Tô
    25. Nói Chuyện Với Viên Kỹ Sư Ở Truồng
    26. Hai Cuộc Viếng Thăm
    27. Cái Lẵng Tuyệt Diệu Của Người Tù
    28. Ả Gà Mái Và Chú Gà Trống Thái Bình Dương
    29. Tác Giả Khổ Thơ Bất Hủ
    30. Nhà Hát Kolumbo


    PHẦN III: KHO BÁU CỦA MAĐAM PETUKHOVA

    31. Đêm Huyền Diệu Trên Sông Volga
    32. Hai Kẻ Gian
    33. Đuổi Khỏi Thiên Đường
    34. Cuộc Đấu Cờ Liên Hành Tinh
    35. Và Vân Vân
    36. Thắng Cảnh Vũng Nước Xanh
    37. Dưới Những Đám Mây
    38. Động Đất
    39. Kho Báu


    LỜI TỰA


    Mười hai chiếc ghế" của hai nhà văn Liên Xô I.Ilf và E.Petrov là một kiệt tác của nền văn học Liên Xô thuộc thể loại tiểu thuyết trào phúng, được xếp vào hàng các tác phẩm kinh điển khi các tác giả còn sống.

    Ra mắt bạn đọc Liên Xô từ trước chiến tranh thế giới lần thứ 2, đến nay "Mười hai chiếc ghế" đã được in đi in lại hàng chục lần, được dựng thành phim 3 lần (lần thứ 3 vào năm 1982), được tất cả các tầng lớp nhân dân yêu mến, có nhiều người đọc thuộc lòng cả tác phẩm (!) và tên sách được lấy làm tiêu đề cho trang 16 (trang cuối cùng) trên tuần báo "Văn Nghệ" cơ quan ngôn luận của mọi nhà văn Liên Xô. Một hiện tượng văn học độc đáo.
    "Mười hai chiếc ghế" tập trung phê phán các thói xấu của con người và nhiều hiện tượng tiêu cực hoặc bất hợp lý trong xã hội.

    Sự việc trong tác phẩm diễn ra vào năm 1927 ở Liên Xô, thời kỳ Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới vừa trải qua muôn vàn gian khổ của những ngày đầu sau cách mạng tháng Mười, của cuộc nội chiến khốc liệt, của sự can thiệp do bọn đế quốc bên ngoài gây nên, vừa trải qua chế độ cộng sản chủ nghĩa thời chiến và chính sách kinh tế mới. Trong cái giai đoạn trứng nước, còn nhiều ấu trĩ ấy của cách mạng, khi xã hội đầy ắp những biến động dồn dập, có nơi có lúc rối loạn, thì bên cạnh những cố gắng vượt bậc của nhân dân lao động cùng chính quyền Xô viết thiết lập một trật tự xã hội mới, xây dựng một cuộc sống mới theo những tiêu chuẩn chính trị, đạo đức tiến bộ, vẫn còn rơi rớt nhiều tàn dư của quá khứ, vẫn còn một bộ phận nhỏ những người lạc lõng, phần thì do bản chất giai cấp đối kháng với nhân dân lao động, phần thì do ngây thơ, ấu trĩ, trình độ nhận thức non kém, phần thì do không khắc phục nổi những thói hư tật xấu có tính chất phổ biến của xã hội loài người - cái bộ phận nhỏ ấy lại tiến hành những hoạt động tội lỗi hoặc phi đạo đức, cản trở tiến bộ xã hội. Trong bộ phận ấy, có bọn chủ mưu, cố ý (thuộc giai cấp bóc lột), nhưng cũng có người vô ý thức, hoặc chỉ là nạn nhân đáng thương và bị lợi dụng làm phương tiện cho kẻ xấu.

    Bằng ngôn ngữ trào lộng, sinh động, dí dỏm, tinh tế, ngòi bút sắc sảo của hai tác giả đã chĩa mũi nhọn vào hàng loạt thói xấu tệ hại và hiện tượng tiêu cực của xã hội. Nào là ước mong làm giàu một cách bất chính, chạy theo ảo ảnh giàu sang, phú quý, hưởng lạc lỗi thời, sằn sàng dùng mọi thủ đoạn tội lỗi, từ nhỏ đến lớn, kể cả giết người để đạt tới mục đích của mình (Ippolit, Ostap, cố đạo Fêđor). Nào là tệ ăn cắp, bòn rút của công, lợi dụng chức quyền (chủ nhiệm nhà dưỡng lão - Alkhen, phụ trách phòng lưu trữ hồ sơ - Varfolomei). Nào là hoạt động kinh doanh trái phép, gian dối, buôn lậu, làm hàng "dỏm" (chủ nhiệm hợp tác xã Kisliarski, dược sĩ Leopold). Nào là thói đam mê bói toán (Êlêna, Gritsasueva). Nào là bệnh chạy theo mốt, đua đòi rởm (Elloshka), định cạnh tranh về cách ăn mặc và giải trí với con gái nhà tỉ phú Mỹ. Nào là sự ngây thơ đến ngu ngốc về chính trị của một số thương gia và các phần tử bất mãn với chế độ mới, tin vào tổ chức giả danh giải phóng, để đến nỗi bị móc túi một cách công khai (liên minh "Lưỡi kiếm và lưỡi cày"). Nào là thủ đoạn giả đò ăn mày. Nào là bệnh hình thức và ấu trĩ trong công tác tuyên truyền, báo chí, phim ảnh (tại lễ khánh thành đường tàu điện mà có tới sáu diễn giả nói về tình hình thế giới, kể cả "tình hình thế giới của nước ta" (!!!), diễn kịch cổ điển của Gôgôn mà xen vào những câu chuyện đả kích quốc hội Anh và Sămbéclanh; tật nói dai, nói dài, không đi vào thực chất vấn đề, cái lối nêu khẩu hiệu tùy tiện, ngớ ngẩn "Ăn thịt có hại cho sức khỏe"). Nào là vô số những sự bất hợp lý trong cách tổ chức sinh hoạt công cộng (các rạp hát và chiếu bóng, sân vận động chỉ mở một cửa nhỏ để dân chúng phải chen chúc khổ sở khi ra vào, dựng các thứ chướng ngại vật ngăn cách người tới liên hệ công tác...)

    Nhân vật trung tâm là Ippolit và Ostap. Ngài cựu đô thống quý tộc dưới thời Sa hoàng ở thành phố Stargorot, sau cách mạng đã trốn đến thị trấn N làm nhân viên phòng hộ tịch, rồi theo lời trối trăn của bà mẹ vợ về những viên kim cương giấu trong ruột một trong 12 chiếc ghế; đã bỏ công tác để đi tìm kho báu ấy. Ngày đầu tiên săn tìm kim cương, Ippolit đã gặp Ostap, một tay đại bợm, một ông vua mánh. Ostap là con trai một nữ công tước thời trước (kết quả tằng tịu giữa bà ta với một gã công dân Thổ Nhĩ Kỳ), một thanh niên thông minh, đầy sức sống. Nhưng toàn bộ óc thông minh và sức sống mãnh liệt của hắn bị hướng vào hoạt động lừa đảo, bịp bợm. Điều thú vị là Ostap biết chớp lấy thời cơ, chỉ nhằm vào chỗ yếu, chỉ lợi dụng mọi sơ hở, mọi thói hư tật xấu và sự cả tin đáng yêu của những người khác. Thành thử, nên trong hai nhân chính này (hai kẻ lúc nào cũng ở bên nhau), Ippolit, vị đại diện của giới quý tộc nước Nga cũ, tỏ ra lỗi thời, xấu xa, ngu xuẩn, hèn hạ, bần tiện đến thảm hại, gây nên cảm giác khinh bỉ, ghê tởm ở bạn đọc đối với hắn; thì Ostap vẫn còn giành được phần nào thiện cảm của người đọc, luôn luôn gợi tiếng cười thoải mái, tiếng cười châm biếm qua những hành động quay quắt, lối ngụy biện giàu tính hài hước, thái độ tự tin, lạc quan của hắn.

    Ở phần kết, Ippolit giết Ostap để định độc chiếm kho báu. Không phải ngẫu nhiên mà bạn đọc đã viết thư đề nghị hai tác giả cho Ostap được sống lại. Và thể theo nguyện vọng ấy, hai nhà văn đã cho Ostap hồi sinh, trở thành nhân vật chính trong cuốn tiểu thuyết thứ hai cũng nổi tiếng không kém "CON BÊ VÀNG".

    Toàn bộ cuốn truyện toát ra sự phê phán rất thâm thúy, sắc bén, nhưng rất nhẹ nhàng, thú vị, đối với các thói hư tật xấu của con người.
    Xã hội Xô viết ngày nay đã trở thành một xã hội tốt đẹp nhất thế giới, nhân dân Liên Xô đang xây dựng chủ nghĩa xã hội phát triển. Đương nhiên, cái thời kỳ được miêu tả trong tác phẩm "MƯỜI HAI CHIẾC GHẾ" đã là quá khứ gần sáu mươi năm về trước ở Liên Xô. Nhiều điều bây giờ đọc lại, ta chỉ còn lắc đầu nhè nhẹ và mỉm cười tủm tỉm. Thế nhưng, điều đáng buồn là một số thói hư tật xấu lại mang tính chất phổ biến đối với loài người. Cho nên cuộc đấu tranh khắc phục chúng ta đã, đang và sẽ còn diễn ra lâu dài, ở mọi lúc, mọi nơi, và trong cuộc đấu tranh ấy, tiếng cười châm biếm, phê phán là một vũ khí hiệu nghiệm của chúng ta.
    LÊ KHÁNH TRƯỜNG

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 10: ÔNG THỢ NGUỘI, CON VẸT VÀ MỤ THẦY BÓI
    Nhà No7 phố Pereleshin không phải là loại nhà đẹp nhất ở Stargorot. Hai tầng nhà của nó xây dựng theo kiểu đệ nhị đế chế, trang trí bằng những cái mõm sư tử đập vỡ, giống hệt bộ mặt của nhà văn Artsaybashev, ngang với số cửa sổ nhìn ra phố, các mõm sư tử ấy được đặt ở phía trên mỗi cửa sổ.
    Ngôi nhà còn có hai vật trang trí nữa, nhưng chúng đã mang tính chất kinh doanh thuần túy. Một phía treo tấm biển màu xanh da trời.
    HỢP TÁC XÃ
    BÁNH MÌ VÒNG ODESSA
    BÁNH MÌ VÒNG MÁTXCƠVA
    Trên tấm biển vẽ một thanh niên đeo cà-vạt, mặc quần sooc Pháp. Một tay gã cầm cái tù và huyền thoại 1, từ đó trôi ra hàng loại bánh mì vòng Mátxcơva mà người ta vẫn đem phân phát cho kẻ nghèo khó và thay cho loại bánh mì vòng Odessa. Gã thanh niên mỉm cười dịu dàng. Phía trên kia, văn phòng bao bì "đóng gói nhanh" quảng cáo cho khách hàng kính mến biết về mình bằng một tấm biển nền đen, chữ vàng tròn trịa.
    Mặc dù có sự khác nhau rõ rệt về các tấm biển quảng cáo và quy mô vốn lao động, song cả hai hợp tác xã ấy cùng làm một việc là buôn lậu tất cả các loại vải vóc: len dạ, vải bông, và nếu gặp hàng tơ, lụa màu đẹp, hoa tươi, thì họ bao luôn cả tơ lụa.
    Vượt qua hai cánh cổng đen và ẩm ướt như trong tun-nen, ngoặt sang phải, bước vào sân có cái giếng xi măng, có thể nhìn thấy hai cửa ra vào không cánh, trông thẳng ra lớp đá nhọn ngoài sân. Ở cửa bên phải có một miếng đồng xỉn màu, khắc tên họ:
    V.M. POLESOV
    Cửa bên trái gắn một mảnh tôn trắng
    MỐT THỜI TRANG VÀ MŨ
    Cả hai thứ đó cũng chỉ là vẻ bề ngoài.
    Trong lòng cái xưởng "Mốt thời trang và mũ": không thấy một thứ ma-nơ-canh cụt đầu, có gù vai sĩ quan nào, cũng chẳng thấy có cái móc nào để treo những thứ mũ nón kiều diễm của các bà các cô. Thay vì các thứ trang trí phải có ấy, trong căn xưởng rộng ba phòng liền này chỉ thấy một con vẹt trắng tuyền mặc si-líp màu đỏ. Con vẹt bị lũ bọ chét đốt dữ, nhưng nó không thể hiện khiếu nại với ai, bởi lẽ nó không nói được tiếng người. Suốt ngày nọ sang ngày kia, con vẹt nhâm nhi nhúm hạt và nhổ vỏ hạt qua thanh đan lồng nhốt nó xuống tấm thảm. Nó chỉ còn thiếu mỗi cái kèn Ac-mô-ni-ca và đôi giày mới là đủ để giống hệt một tay thợ thủ công cá thể kém may mắn. Trên cửa sổ, các tấm rèm cháo lòng khẽ lay động. Trong căn hộ này, màu nâu sẫm chiếm ưu thế. Phía trên Piano treo một phiên bản bức ảnh "Đảo tử sĩ" của Bekhin, đặt trong cái khung bằng gỗ sồi màu xanh thẫm, lồng kính hẳn hoi. Một góc kính đã bay mất hồi nào, phần tranh trơ ra bị ruồi bâu nhiều đến mức trở nên hoàn toàn đồng màu với khung. Điều gì xảy ra ở góc "Đảo tử sĩ" này, chẳng ai còn có thể biết được nữa.
    Trong buồng ngủ, nữ chủ nhân đang ngồi trên giường, tì khuỷu tay xuống mặt bàn hình bát giác trải một chiếc khăn nhem nhuốc, thoăn thoắt bày cỗ bài. Đối diện với chủ nhân là góa phụ Gritsasueva choàng tấm khăn len sẫm màu.
    Chủ nhân nói:
    - Này tiểu thư, tôi cần báo trước cho cô biết rằng, mỗi lần xem cô phải trả cho tôi ít nhất năm chục cô-pếch đấy.
    Góa phụ là người bất chấp mọi trở ngại trên con đường tìm cho được tấm chồng mới, đồng ý trả công theo giá quy định.
    - Có điều xin thầy nói rõ hậu vận cho, - góa phụ van nài.
    - Phải bói cho cô theo con chuồn.
    Góa phụ phản đối:
    - Từ xưa đến giờ bao giờ em cũng là con đầm kia mà.
    Nữ chủ nhân thản nhiên đồng ý và bắt đầu tráo bài. Chỉ vài phút sau, số mệnh của góa phụ đã được giải đoán. Nàng sẽ gặp những chuyện rủi ro lớn và nhỏ, nhưng trong tim nàng đang có một chú ách chuồn rất hợp với cô đầm rô.
    Tiếp đến đoán chỉ tay. Chỉ tay của góa phụ Gritsasueva rõ ràng, đậm nét và không chê vào đâu được. Sinh đạo chạy dài đến cả tận mạch cổ tay, và nếu đường chỉ ấy nói đúng sự thật, thì góa phụ sẽ sống đến ngày tận thế. Trí đạo và đường nghệ thuật cho phép hy vọng rằng góa phụ sắp bỏ nghề bán kẹo bánh và chắc chắn sẽ bán cho nhân loại những kiệt tác bất hủ trong bất cứ ngành khoa học nào. Gò kim tinh của góa phụ giống như núi đồi Mãn Châu Lý và bộc lộ những trữ lượng yêu thương vô bờ bến.
    Thầy bói giảng giải tất cả những điều đó cho góa phụ nghe bằng ngôn ngữ của tướng số, của thuật xem chỉ tay và của bọn lái buôn ngựa.
    - Cảm ơn thầy lắm lắm - góa phụ nói - bây giờ thì em biết vua chuồn là ai rồi. Cả đầm rô cũng vậy. Thế vua chuồn và đầm rô đồng hoa chứ ạ?
    - Đồng hoa đấy, thưa tiểu thư.
    Góa phụ ra về lòng lâng lâng như mọc cánh. Còn thầy bói thì ném cỗ bài vào ngăn kéo, há cái miệng của người đàn bà ngũ tuần ra ngáp rồi đi vào bếp. Bà ta xử lý bữa ăn trưa được hâm lại trên bếp dầu hỏa nhãn hiệu "Grets", lau tay vào tạp dề cho sạch thức ăn, rồi xách chiếc xô bong men nham nhở đi ra sân lấy nước.
    Bà bước nặng nề ì ạch trên sân. Gò ngực nhẽo thõng xuống cứ uể oải đung đưa trong cái áo nhuộm lại. Trên đầu nổi lên một khoanh tóc bạc. Một bà già ăn ở bẩn thỉu, nhìn ai cũng thấy nghi ngờ và rất ưa ngọt. Ví thử Ippolit gặp bà lúc này thì ông không sao nhận ra đấy là Êlêna Bour, người tình cũ của ông, lớp người đã được một viên mõ tòa làm thơ ca ngợi rằng "nàng gọi những cái hôn, nàng thanh thoát như thiên thần". Cạnh cái giếng nước, bà Bour được ông láng giềng Vikor Mikhailovich Polesov chào hỏi. Polesov là một ông thợ nguội trí thức, ông đang lấy nước vào chiếc bi-đông đựng xăng. Polesov có bộ mặt của con quỷ Opera mà người ta vẫn xoa bồ hóng thật cẩn thận trước khi thả nó ra sân khấu.
    Chào hỏi xong, hai vị láng giềng bắt đầu nói về những chuyện đang khiến cả thành phố quan tâm.
    Polesov giễu cợt:
    - Đời thuở nhà ai hôm qua tôi chạy khắp cả thành phố mà không mua được một cái bàn ren ba tấc tám. Không có. Không có! Mà này, sắp khánh thành đường tàu điện đấy bà ạ.
    Êlêna Bour hiểu về cái bàn ren ba tấc tám cũng hệt như một cô nữ sinh trường múa mang tên Leonacdo De Vinci hiểu biết về nông nghiệp (cô nàng cho rằng phó mát tươi làm từ bánh mằn thắn) song vẫn tỏ vẻ thông cảm:
    - Hàng với chả quán gì bây giờ! Bây giờ chỉ có xếp hàng thôi, chứ chẳng thấy cửa hàng đâu. Ngay đến tên cửa hàng nghe cũng phát khiếp. Stargico!...
    - Nhưng thế còn khá đấy, bà Êlêna ạ! Loại mô-tơ của "Công ty điện phổ dụng" mới gớm ghiếc làm sao. Nghĩa là khốn khổ! Khốn nạn! Loại mô-tơ làm ở Kharkov cũng thế nốt. Do cái công ty gì mà tên dài lằng ngòa lằng ngoằng "Công ty kim loại màu công nghiệp quốc doanh - contikilomaconghicudo" sản xuất ấy. Tôi thấy...
    Ông thợ nguội ngừng lời. Bộ mặt đen nhẻm của ông bóng lên dưới ánh nắng. Lòng trắng mắt của ông màu vàng. Trong đám thợ thủ công có mô-tơ đầy rẫy ở Stargorot, Polesov là tay chậm chạp nhất và hay lâm vào tình thế khó xử nhất. Tất cả là do cái bản tính sôi sục của ông ta. Một ông vua lười sôi sục. Ông thường xuyên sủi bọt. Trong căn xưởng của chính ông nằm ở cái sân thứ hai của ngôi nhà No7 trên phố Pereleshin, không ai hòng bắt gặp được ông. Cái bể lò rèn nguội lạnh đứng trơ trọi giữa chái nhà kho bằng đá, trong góc kho vứt chỏng chơ những cái ruột xe thủng, những cái mặt vỏ xe "tam giác", những cái chìa khóa rỉ, to đến mức có thể khóa các thành phố, - những cái can mềm đựng chất đốt có in chữ "Indian" và "Wanderer", một cái xe nôi lò xo, một cái loa đã tịt tiếng vĩnh viễn, những cái dây thắt lưng da đã mủn, túm sợi gai tẩm dầu, tờ giấy cáo hết cát, cái lưỡi lê Áo và vô số thứ lặt vặt, linh tinh, méo mó. Khách hàng không tìm ra Polesov. Ông đang chỉ huy ở nơi nào đó. Ông không bụng dạ nào nghĩ đến công việc. Ông không thể bình thản nhìn một chiếc xe chở hàng chạy vào sân nhà mình hay sân nhà người khác. Nếu thấy, ông sẽ lập tức chạy ra sân, chắp hai tay sau đít, khinh bỉ nhìn động tác của người đánh xe, cuối cùng trái tim ông không nín được.
    - Đứa nào cho xe vào đây thế? - Ông hét tướng lên - Quay ra!
    Người đánh xe sợ hãi cho ngựa quay ra.
    - Mày quay đi đâu thế, đồ ngựa cái - Polesov phát vào mông ngựa - ngày xưa thì mày chết với tao rồi.
    Sau khi chỉ huy như thế chừng nửa giờ, Polesov đã định vào xưởng, nơi chiếc bơm xe đạp hỏng đang chờ ông, thì cuộc sống bình an của thành phố lại bị phá vỡ bởi một sự lầm lẫn nào đấy. Khi thì ở ngoài đường hai chiếc xe ngựa bị móc trục vào nhau và Polesov phải chỉ bảo cách gỡ chúng ra thế nào cho nhanh; khi thì người ta thay cột điện thoại, và Polesov phải kiểm tra độ vuông góc của nó với mặt đất bằng chính cái quả dọi của ông được lôi từ trong xưởng ra; khi thì chiếc xe cứu hỏa ngựa kéo chạy qua, và Polesov hồi hộp vì tiếng kèn và lo lắng cho đám cháy, phải chạy theo một quãng xem sao.
    Thế nhưng thỉnh thoảng Polesov cũng có hành động tự phát thật sự. Ông trốn trong xưởng mấy ngày và lặng lẽ làm việc. Trẻ con tha hồ chạy nhảy hò hét ngoài sân, những chiếc xe ngựa muốn rẽ vào đây quay đầu bao nhiêu vòng tùy thích, những chiếc xe khác nói chung ngừng móc trục vào nhau, và xe cứu hỏa lăn bánh cô đơn ngoài đường - Polesov đang bận làm việc. Một hôm, sau đợt làm việc liên tục như vậy, Polesov dắt ra sân - như thể đang nắm sừng dắt cừu - một chiếc xe mô tô lắp từ các mẩu mảnh ô tô, bình cứu hỏa, xe đạp và máy chữ. Động cơ một mã lực rưỡi vốn của hãng "Wanderer" bánh xe của hãng "Davidson", còn các bộ phận quan trọng khác thì đã mất nhãn từ lâu. Từ trên yên xe, một sợi dây treo lòng thòng mảnh các-tông đề chữ "chạy thử". Người xem đông dần. Polesov thượng lên yên xe và chiếc xe lao vọt như điên, đưa ông bay qua cánh cổng, ra đến giữa đường thì sững lại đột ngột như bị ăn đạn. Polesov đang định xuống xe kiểm tra cái máy bí hiểm của mình, thì bỗng dưng nó chạy giật lùi, đưa nhà sáng chế trở về đúng vị trí xuất phát, gầm gầm gừ gừ, đoạn rú lên mấy tiếng thất thanh và nổ tung. Polesov lành lặn như nhờ có phép màu. Ông thu nhặt các mẩu mảnh và trong kỳ mải mê làm việc đó, ông tạo ra một cái động cơ tĩnh tại trông hệt như động cơ chính cống, chỉ tội không chạy được.
    Đỉnh cao hoạt động khoa học của ông thợ nguội - trí thức là thiên sử thi liên quan đến cái cổng sắt của nhà No5 bên cạnh. Ban quản trị ngôi nhà ấy có ký với Polesov một hợp đồng, theo đó Polesov có nghĩa vụ sửa chữa nghiêm chỉnh hai cánh cổng sắt của họ và sơn cho nó một cái màu kinh tế nào đó tùy ý. Còn bên kia là ban quản trị thì có nghĩa vụ là lập tổ nghiệm thu và khi nhận bàn giao phải trả cho V.M Polesov hai mươi mốt rúp bảy mươi lăm cô-pếch. Tiền mua tem thuế trừ vào bên sửa chữa.
    Polesov dùng đến sức lực của Samson mới đưa được hai cánh cổng về xưởng và ông hăng hái bắt tay vào việc. Riêng khoản tháo rời từng bộ phận đã tốn mất hai ngày. Các chiếc móc bằng gang được để vào chiếc xe nôi, mấy tấm sắt và thanh nhọn thì để dưới bàn thợ. Thêm mấy ngày nữa để nghiên cứu những chỗ hỏng hóc. Sau đó trong thành phố xảy ra một sự cố trầm trọng: một khúc đường ống dẫn nước chính bị vỡ. Thành thử mấy ngày còn lại trong tuần Polesov phải đến đứng cạnh nơi xảy ra sự cố, mỉm cười giễu cợt, quát lác các công nhân sửa chữa và chốc chốc lại ngó vào ống vỡ.
    Khi nhiệt tình tổ chức của Polesov lắng xuống đôi chút, ông lại tiếp tục xem xét cái cổng sắt, nhưng đã muộn: lũ trẻ đã lôi những cái móc bằng gang và những thanh sắt nhọn đi chơi. Trông thấy vẻ mặt hung hãn của ông thợ nguội, lũ trẻ sợ hãi vứt bỏ các thứ ấy và lủi mất sạch. Thiếu hẳn một nửa số móc và không tìm đâu ra nữa. Sau đó, Polesov hoàn toàn lạnh nhạt với cái cổng sắt.
    Trong khi ấy ở ngôi nhà No5 thông thống vì không có cổng, xảy ra những sự kiện khủng khiếp. Quần áo ướt phơi trên gác bị mất cắp và một buổi tối thậm chí kẻ cắp dám nẫng đi ngay cả một cái ấm samova đang sôi sùng sục ở ngoài sân. Polesov đích thân tham gia. Tên trộm, mặc dù hai tay hắn giơ thẳng ra phía trước, bưng cái ấm đang sôi sùng sục và đỏ lửa, vẫn chạy rất tỉnh và còn quay lại nói những lời thiếu sạch sẽ với người dẫn đầu đoàn đuổi bắt phía sau là Polesov. Nhưng đau nhất là tay lao công nhà No5. Cha này bị mất hẳn khoản tiền kiếm được hằng đêm: không có cổng, chả còn gì để mở, và những kẻ đi chơi khuya về chẳng biết cho tiền vì lý do gì nữa. Ban đầu me-xừ lao công sang hỏi Polesov xem sắp chữa cổng xong chưa, rồi cầu chúa Ki-tô phù hộ và cuối cùng phải lên tiếng đe dọa. Ban quản trị bèn gửi cho Polesov một bức thư nhắc nhở. Chuyện có vẻ ra tòa đến nơi. Tình hình ngày một thêm căng thẳng.
    Bên giếng nước, mụ thầy bói và ông thợ nguội - trí thức vẫn đang tiếp tục trò chuyện. Polesov nói oang oang:
    - Nếu không có những thanh tà-vẹt ngâm tẩm thì chẳng còn là tàu điện, mà chỉ là bể khổ thôi!
    - Đến bao giờ mới hết cái cảnh này không biết. Chúng ta sống như bọn mọi rợ! - bà Êlêna Bour nói.
    - Còn là lâu... À, bà biết sáng nay tôi gặp ai không? Gặp Ippolit Matveevich Vorobjaninov.
    Êlêna Bour tựa người vào thành giếng ngạc nhiên, tiếp tục giữ cân cho cái gầu đầy nước.
    - Tôi đến sở công trình công cộng để gia hạn hợp đồng thuê xưởng nguội. Tôi đi dọc hành lang. Bỗng có hai người tiến lại. Tôi thấy nhang nhác quen, ai như ngài Ippolit Matveevich. Họ hỏi tôi: "Bác ơi, cơ quan nào đóng ở tòa nhà này hồi trước hở bác?" Tôi bảo hồi xưa là trường trung học con gái, sau đó là phòng nhà đất. "Thế hai vị hỏi vậy làm gì?" tôi hỏi họ. Họ chỉ cám ơn rồi đi tiếp. Lúc ấy tôi nhìn rõ rằng, đích thị ngài Ippolit, dù không để râu. Ông ấy từ đâu về nào? Cái người đi chung với ông ấy trông ra dáng lắm. Chắc chắn là sĩ quan thời Sa Hoàng. Tôi liền nghĩ rằng...
    Vào lúc ấy, Polesov nhận ra một hiện tượng bất thường gì đó. Ông chộp vội chiếc bi-đông của mình và lẫn ngay vào phía sau thùng rác. Me- xừ lao công nhà No5 chậm rãi bước vào sân, dừng chân bên cạnh giếng và bắt đầu ngắm bốn phía. Không thấy Polesov đâu, lão ra xịu mặt xuống.
    - Bà có thấy thằng cha thợ nguội Polesov đâu không? - Lão ta liền hỏi Êlêna Bour.
    - Dào ôi, tôi chẳng biết gì hết - mụ thầy bói đáp - tôi chẳng biết gì hết.
    Đoạn bà vội vã quay về phòng trong tâm trạng vô cùng xúc động, làm xô nước sóng sánh cả ra ngoài.
    Me-xừ lao công xoa xoa thành giếng xi măng rồi bước về phía xưởng nguội. Hai bước sau tấm biển:
    LỐI VÀO
    XƯỞNG NGUỘI
    Lại có tấm biển thứ hai
    XƯỞNG NGUỘI
    VÀ SỬA CHỮA BẾP DẦU
    Ngay bên dưới có một cái ổ khóa tổ bố. Me-xừ lao công đá một cú thật mạnh vào cái khóa và giận dữ nói:
    - Đồ ôn dịch!
    Me-xừ lao công còn đứng trước cửa xưởng ba phút nữa với những tình cảm ghê gớm nhất, đoạn lão giật mạnh tấm biển, bắt đầu chửi:
    - Nhà No7 của chúng mày toàn một lũ trộm cắp! - Lão hét to - Rặt bọn lưu manh! Có bằng trung học mà vẫn khốn nạn!... Tao thì nhổ toẹt vào cái học thức của nó!... Quân ôn dịch khốn nạn!...
    Trong lúc ấy quân ôn dịch khốn nạn có bằng trung học đang ngồi trên cái bi-đông nấp sau thùng rác, vẻ buồn bã.
    Tiếng cửa sổ mở sầm sầm, những chủ hộ vui tính ló mặt ra cửa. Những người tò mò từ ngoài phố thong thả kéo vào. Thấy công chúng, me-xừ lao công càng hăng máu.
    - Thằng cha thợ nguội khốn nạn! Đồ quý tộc chó má!
    Những câu diễn văn nghị viện được me-xừ lao công pha trộn thoải mái với những từ ngữ mà cơ quan kiểm duyệt gạch xóa, song lão thì lại rất thích. Đám phụ nữ bám đen trên các cửa sổ rất giận me-xừ lao công, nhưng vẫn cứ đứng nghe.
    - Đ... mẹ thằng khốn nạn! - me-xừ lao công chồm lên - trí thức cứt gì nó?
    Khi xì-căng-đan tới đỉnh điểm, một chiến sĩ công an xuất hiện và lặng lẽ lôi me-xừ lao công về đồn. Mấy thanh niên ở hợp tác xã "Đóng gói nhanh" giúp vào đó một tay.
    Me-xừ lao công ngoan ngoãn ôm lấy cổ anh công an và khóc sụt sùi.
    Nỗi nguy hiểm đã qua.
    Từ sau thùng rác, lúc ấy Polesov mới nhảy ra vì ngồi mãi cũng tê chân. Công chúng rộn lên.
    - Đồ lưu manh! - Polesov hét với theo đoàn diễu hành - Đồ lưu manh! Rồi tao sẽ cho mày biết tay! Quân thối tha!
    Me-xừ lao công đang cay đắng sụt sùi đâu có nghe thấy lời hăm dọa ấy. Người ta điệu lão ta về đồn, kèm theo tấm biển "Xưởng nguội và sửa chữa bếp dầu" làm tang chứng.
    Polesov còn chửi bới hồi lâu.
    - Quân chó má - ông ta nói, hướng về phía người xem - Ra cái vẻ ta đây! Đồ lưu manh!
    - Ông Polesov ơi - từ trên cửa sổ, bà Êlêna Bour gọi - Mời ông lên tôi hỏi cái này một chút với!
    Bà ta đặt trước mặt Polesov một cốc nước hoa quả và vừa đi đi lại lại trong phòng, vừa hỏi hết câu này đến câu kia.
    - Thì tôi đã bảo bà rằng đích thực là ông ấy, tuy không để râu, nhưng đúng là ông ấy mà - Polesov nói to như quát theo thói quen của ông ta - tôi biết ông ta quá rõ! Ippolit, không chệch vào đâu được!
    - Trời ơi, xin ông nói khẽ chứ! Ông ấy về đây làm gì nhỉ? Ông nghĩ sao?
    Trên bộ mặt đen nhẻm của Polesov nở một nụ cười mỉa mai.
    - Dù sao thì cũng không phải về để ký hợp đồng với bọn bonsevich.
    - Ông nghĩ rằng Ippolit ở trong tình thế nguy hiểm ư?
    Trữ lượng mỉa mai mà Polesov tích lũy trong mười năm sau cách mạng quả là vô tận. Ông ta cho nở ra hàng loạt nụ cười có sức mỉa mai và hoài nghi khác nhau.
    - Ai sống ở nước Nga Xô viết mà chẳng gặp nguy hiểm, nói chi đến một người vốn có địa vị như Ippolit Matveevich kia chứ? Không phải bỗng dưng người ta cạo sạch râu ria đi đâu, bà Êlêna Bour ạ.
    - Ông ấy được phái từ ngoại quốc về à? - bà Êlêna Bour nói, suýt nữa bị nghẹn thở.
    - Lẽ cố nhiên - ông thợ nguội thiên tài trả lời.
    - Ông ấy về đây làm gì nhỉ?
    - Bà chớ giả bộ ngây thơ nữa.
    - Gì thì gì tôi cũng phải gặp ông ấy.
    - Bà có biết nguy hiểm đến thế nào không?
    - Mặc kệ! Sau mười năm xa cách, tôi không thể không gặp lại Ippolit Matveevich.
    Quả thực bà ta cứ tưởng số phận đã chia cắt họ đúng vào lúc hai người yêu đang yêu nhau.
    - Tôi van ông, ông hãy đi tìm ông ấy cho tôi! Ông hãy cố lần ra chỗ ông ấy ở! Ông hãy có mặt ở khắp nơi! Ông làm việc đó dễ thôi! Ông hãy bảo Ippolit rằng tôi mong gặp ông ấy lắm lắm! Ông nghe rõ chứ?
    Con vẹt mặc si-líp đỏ đang ngủ gà ngủ gật trong lồng, chợt giật mình sợ hãi tiếng người nói to. Nó lộn đầu xuống dưới và lặng đi trong tư thế đó.
    Lão thợ nguội ngập ngừng đứng dậy, hai tay áp ngực nói: "Bà Êlêna Bour, tôi sẽ tìm ông ấy và sẽ bắt liên lạc".
    - Có lẽ ông muốn ăn mứt hoa quả đấy nhỉ? - mụ thầy bói xúc động hỏi.
    Polesov ăn hết đĩa mứt, giảng giải tỉ mỉ về kiểu cấu tạo dốt nát của chiếc lồng vẹt rồi chia tay với Êlêna Bour sau khi dặn bà ta giữ kín tất cả mọi chuyện vừa rồi.
    Chú thích
    1.Kiểu như cái nồi thạch sanh trong truyện cổ tích Việt Nam.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 11: VẦN CHỮ CÁI “TẤM GƯƠNG CỦA CUỘC SỐNG”
    Ngày hôm sau, hai bên ký kết hợp đồng tin rằng sống thêm trong căn hầm của lão quét vườn là không tiện. Lão Tikhôn thì luôn miệng lầm bà lầm bầm, hoàn toàn ngớ người ra sau khi nhìn ông chủ cũ đầu tiên có bộ ria đen, tiếp đến ria xanh và cuối cùng thì không tóc, không ria. Ngủ, chẳng có chỗ nào. Căn nhà hầm lại nồng nặc mùi phân ngựa do đôi ủng mới của Tikhôn đưa từ ngoài vào. Đôi ủng cũ vứt ở góc nhà cũng tỏa mùi khăn khẳn, trong khi không khí hoàn toàn tù đọng.
    - Tôi cho rằng buổi dạ hội kỷ niệm sự gặp gỡ đã đến lúc kết thúc - Ostap nói - cần phải chuyển đến ở khách sạn.
    Ippolit Matveevich giật mình.
    - Làm thế nào được.
    - Vì lẽ gì?
    - Đến khách sạn phải đăng ký tạm trú.
    - Thẻ căn cước của ông có vấn đề à?
    - Không, thẻ căn cước là thật, nhưng ở thành phố này người ta biết rõ tên họ của tôi. Sẽ lắm chuyện.
    Hai kẻ đồng hội đồng thuyền im lặng ngẫm nghĩ.
    - Thế ông có thích cái tên Mikhelson không? Đột nhiên Ostap hỏi.
    - Mikhelson nào? Nghị sĩ à?
    - Không, ủy viên công đoàn ngành thương nghiệp Liên Xô kia.
    - Tôi chưa hiểu ý anh.
    - Tại vì ông chưa có kỹ xảo kỹ thuật đó thôi. Đừng có ra vẻ ngây thơ 1.
    Ostap rút từ trong túi áo vét xanh ra tấm thẻ đoàn viên công đoàn và chìa cho Ippolit.
    - Konđrlôvich Mikhelson, bốn mươi tám tuổi, không đảng phái, chưa vợ, đoàn viên công đoàn từ năm 1921, đạo đức tư cách vào loại cực kỳ, là người quen của tôi, hình như là bạn của trẻ con... Nhưng ông có thể không cần kết bạn với trẻ con, vì công an không đòi hỏi điều đó ở ông.
    Ippolit ngần ngại:
    - Liệu có tiện không?
    - So với dịch vụ của chúng ta, hành động giả mạo này tuy đã bị dự kiến trong bộ luật hình sự, song nó chỉ là trò trẻ con vô tội mà thôi.
    Ippolit vẫn thấy lo lo.
    - Ông duy tâm quá, ông Konđrlôvich Mikhelson ạ, vậy là còn may đó, có khi, ông hãy tưởng tượng, ông phải trở thành Đức giáo hoàng hoặc một quan chức cỡ bự nào đó nữa kia!
    Tiếp đó là sự đồng ý nhanh chóng, và hai thành viên hợp đồng không buồn chia tay với lão Tikhôn, bước ngay ra đường.
    Họ dừng lại ở khách sạn "Sorbonna". Ostap làm cho toàn bộ biên chế ít ỏi của ô-ten, cuống quít cả lên. Đầu tiên hắn đi xem tất cả các phòng cho thuê với giá bảy rúp, nhưng hắn vẫn không hài lòng về cách bày trí đồ đạc ở đây. Cách bày trí của những phòng giá năm rúp khiến y thích hơn, nhưng thảm ở đây tã quá và tỏa mùi khó chịu. Các phòng ba rúp thì tất cả mọi thứ đều đạt, trừ các bức tranh.
    - Tôi không thể sống trong một căn phòng treo tranh phong cảnh, - Ostap nói.
    Đành phải thả neo ở căn phòng cho thuê với giá một rúp tám mươi cô-pếch. Tại đây không treo tranh phong cảnh, không trải thảm, còn đồ đạc thì cực kỳ giản tiện: Chỉ có hai chiếc giường và một cái táp-đơ-nuy.
    - Phong cách thời đại đồ đá đây rồi! - Ostap nhận xét với vẻ hài lòng. - Thế đệm giường có nuôi các động vật thời tiền sử không đấy?
    - Cái đó còn tùy mùa - nhân viên trực hành lang ranh mãnh trả lời - Giả dụ có kỳ đại hội nào đó của tỉnh, thì dĩ nhiên là không có, bởi vì khách rất đông. Cho nên trước đó phải dọn vệ sinh cật lực. Còn những lúc khác thì quả là có, những đấy là chúng bò từ khách sạn "Livađia" bên cạnh sang.
    Ngay hôm ấy hai thành viên ở hợp đồng đến sở công trình công cộng và nhận được những tin tức cần biết. Thì ra phòng nhà đất đã bị giải thể từ năm 1921 và số tài liệu lưu trữ phong phú của nó đã nhập vào khối tài liệu lưu trữ của sở công trình công cộng.
    Vua mánh bắt tay vào việc. Chiều tối, hắn đã biết địa chỉ gia đình viên chủ nhiệm kho lưu trữ Varfolmei Korobeinikov, nguyên đổng lý văn phòng tòa thị chính, nay là cán bộ văn phòng.
    Ostap thắng chiếc áo gi-lê đen, đập chiếc áo vét vào thành giường để phủi bụi, đòi Ippolit đưa một rúp hai mươi cô-pếch để làm lễ ra mắt và đi gặp viên chủ nhiệm kho lưu trữ. Ippolit ở lại ô-ten "Sorbonna" và hồi hộp, bồn chồn đi đi lại lại giữa hai chiếc giường. Buổi tối xanh và lạnh hôm nay sẽ quyết định số phận toàn bộ dịch vụ này. Nếu kiếm được bản sao các phiếu phân phối số đồ gỗ lấy ở biệt thự nhà Ippolit thì có thể coi như công chuyện đã thắng lợi một nửa. Tiếp đó sẽ gặp những khó khăn và dĩ nhiên là ngoài sức tưởng tượng, nhưng dẫu sao cũng lần được sợi chỉ trong tay.
    Ippolit buông người xuống giường, thì thầm:
    - Chỉ mong kiếm được các tấm phiếu! Chỉ cần kiếm được các bản sao!...
    Lò xo của cái đệm rách cắn ông như rệp đốt. Ông chẳng cảm thấy điều đó. Ông chưa hình dung rõ sự việc sẽ ra sao sau khi kiếm được các tấm phiếu ấy, nhưng tin rằng tất cả sẽ trơn tru như được lau mỡ: "Mà có mỡ thì mới nổi đình đám được", - Chả hiểu sao tự nhiên ông nghĩ như vậy.
    Say sưa với ước mơ màu hồng, Ippolit cứ trở mình từ bên này sang bên kia. Lò xo cắn ông ghê quá.
    Ostap phải vượt sang đầu kia của thành phố, Korobeinikov sống ở khu Gusisa tận ngoại ô thành phố. Dân ở đây phần đông là thuộc ngành đường sắt. Đôi khi, trên tuyến đường xe lửa cao hơn các mái nhà, có một cái hàng rào bê tông mỏng ngăn cách, một đầu máy xe lửa chạy giật lùi. Lò lửa ở đầu máy soi sáng các mái nhà trong giây lát. Đôi khi có những toa rỗng chạy qua, đôi khi có tiếng pháo lệnh nổ lục bục. Giữa các dãy lán tạm thời nổi lên dãy tường gạch dài của những ngôi nhà ẩm ướt xây dựng theo phương thức góp vốn.
    Ostap đi qua một hòn đảo sáng, đó là câu lạc bộ đường sắt, giở mảnh giấy kiểm tra địa chỉ và dừng chân cạnh ngôi nhà nhỏ của viên chủ nhiệm kho lưu trữ. Hắn giật cái dây chuông có đề mấy chữ "Hãy giật chuông".
    Sau nhiều câu căn dặn "gặp ai", "để làm gì" người ta mở cửa cho hắn bước vào một căn phòng tối, kê tủ la liệt. Trong bóng tối có ai đó thở vào mặt Ostap, nhưng không nói gì cả.
    - Ở đây ai là ông Korobeinikov thế? - Ostap hỏi.
    Kẻ thở hổn kia cầm lấy tay Ostap dẫn vào phòng ăn có ánh đèn dầu treo dọi sáng. Ostap thấy trước mặt mình là một lão già loắt choắt có cái lưng mềm dẻo lạ thường. Không còn nghi ngờ gì nữa, lão già này đích là công dân Korobeinikov. Chẳng đợi mời mọc, Ostap kéo ghế và ngồi xuống.
    Lão già mạnh bạo nhìn vị khách quá đỗi tự nhiên, lão im lặng. Ostap lịch sự lên tiếng trước.
    - Tôi đến gặp bác có chút việc. Bác làm ở kho lưu trữ của sở công trình công cộng phải không ạ?
    Cái lưng của lão già vận động, cúi gập xuống ra hiệu: đúng thế.
    - Còn ngày trước bác làm ở phòng nhà đất?
    - Tôi làm ở khắp mọi nơi - lão già vui vẻ đáp.
    - Thậm chí cả văn phòng tòa thị chính thời xưa?
    Đồng thời Ostap mỉm cười duyên dáng. Cái lưng của lão già uốn éo hồi lâu, cuối cùng mới dừng lại ở tư thế chứng tỏ rằng việc phục vụ ở tòa thị chính là xưa quá rồi và rằng bây giờ khó mà nhớ hết mọi việc.
    - Cho phép tôi được biết anh cần gì chứ? - Chủ nhà thích thú nhìn khách, hỏi.
    - Được, tôi cho phép - khách đáp - tôi là con của Ippolit Matveevich Vorobjaninov.
    - Ippolit nào nhỉ? Có phải ngài đô thống không?
    - Đúng thế.
    - Ngài còn sống ư?
    - Mất rồi, ông Korobeinikov ạ, yên giấc rồi.
    - Phải, một sự kiện đáng buồn - lão già nói không có vẻ gì đáng buồn cả - nhưng hình như ngài đô thống làm gì có con?
    - Không có con thật - Ostap lịch thiệp đáp lời.
    - Anh bảo sao?...
    - Không sao cả. Tôi là con riêng, ngoài hôn thú.
    - Có phải con của bà Êlêna Bour không?
    - Vâng, chính thế.
    - Sức khỏe bà mẹ anh ra sao?
    - Bà bô khuất núi lâu rồi.
    - Chà, chà, buồn quá nhỉ!
    Và lão già còn nhìn Ostap hồi lâu với mấy giọt nước mắt thông cảm, mặc dù vừa mới sáng nay lão còn nhìn thấy Êlêna Bour ngoài chợ, ở dãy hàng thịt.
    - Rồi ai cũng chết thôi - lão nói - Dầu sao cũng xin anh cho biết, anh đến đây có việc gì, à mà tôi vẫn chưa rõ tên anh là...
    - Voldemar - Ostap thông báo.
    - Vlađimia Ippolitovich? Hay lắm. Vậy tôi nghe anh đây, anh Vlađimia Ippolitovich.
    Lão già ngồi xuống bên chiếc bàn phủ vải sơn và nhìn vào tận mắt Ostap.
    Ostap dùng những lời lẽ có lựa chọn để diễn tả nỗi buồn nhớ của mình đối với cha mẹ. Hắn rất lấy làm tiếc, rằng phải đường đột giữa lúc đêm hôm, đến thăm nhà của viên chủ nhiệm đáng kính và làm phiền ông ta. Nhưng hắn hy vọng rằng vị chủ nhiệm kho lưu trữ đáng kính sẽ tha thứ cho hắn, nếu biết tình cảm nào đã thôi thúc hắn tới đây. Đoạn hắn kết luận, với muôn vàn tình yêu của một đứa con trai:
    - Tôi muốn tìm được một vật gì đó trong số đồ gỗ của cha tôi để mãi mãi tường nhớ người. Thưa bác, bác có biết số đồ gỗ của cha tôi được trao cho ai không?
    - Phức tạp đây - lão già nghĩ một lát rồi trả lời - chỉ người nào khá giả mới đủ sức... Còn anh, xin lỗi, anh làm nghề gì?
    - Nghề tự do. Tôi có một lò sát sinh và một ac-ten ướp lạnh ở Xamara.
    Lão già ngờ vực nhìn những thành công quá sớm của gã con trai Ippolit, song lão không bác bỏ. "Một thằng hợm hĩnh", lão nghĩ.
    Lúc này Ostap cũng đã quan sát xong Korobeinikov, hắn nghĩ thầm: "Lão già là một tên đốn mạt".
    - Thế đó - Ostap nói.
    - Thế đó - vị chủ nhiệm kho lưu trữ nói - khó đấy, nhưng có thể làm được...
    - Cũng phải tốn kém chứ gì? - Thủ trưởng lò sát sinh nói đỡ.
    - Cũng chả nhiều nhặn gì...
    - Lợi ích sát sườn, nói như Môpatxăng. Sẽ có tiền công thích đáng.
    - Vậy thì anh cho tôi bảy chục rúp.
    - Sao nhiều thế, lúa mạch hồi này lên giá hay sao?
    Lão già uốn éo, không phải chuyện đùa...
    - Thôi được, bố già ạ. Tiền đổi lấy chứng từ. Bao giờ có thể lại nhà bác.
    - Anh có mang theo tiền không?
    Ostap lập tức vỗ đồm độp vào túi áo.
    - Thế thì có thể làm ngay bây giờ - Korobeinikov trịnh trọng tuyên bố.
    Lão châm nến và dẫn Ostap sang phòng bên cạnh. Ở đây, ngoài chiếc giường rõ ra là nơi ngủ của chủ nhà, có một chiếc bàn viết bày la liệt các sổ sách kế toán, một cái tủ văn phòng dài có nhiều ngăn. Mỗi ngăn dán một chữ cái in A, B, C... cho đến Y. Trong ngăn đựng hàng bó phiếu, chứng từ được buộc dây cẩn thận.
    - Ái chà chà! Cả một kho lưu trữ ngay tại nhà đây! - Ostap thốt lên thán phục.
    - Đủ hết, - vị chủ nhiệm kho lưu trữ khiêm tốn trả lời - Anh biết không, tôi lấy về đề phòng bất trắc... Sở công trình công cộng cần gì đến chúng đâu, còn tôi, chúng có thể giúp tôi lúc về già... Anh biết đấy, chúng ta cứ như đang sống trên núi lửa... Mọi chuyện đều có thể xảy ra... lúc ấy người ta mới quáng quàng bỏ đi tìm đồ đạc của mình. Tủ của tôi! Giường của tôi! Ghế của tôi đâu rồi? Thì ở đây chứ ở đâu nữa, thưa các vị! Ai giữ gìn, ai bảo quản hồ sơ giỏi thế? Korobeinikov chứ ai! Các vị sẽ cảm ơn lão già này và sẽ giúp đỡ... mà tôi thì chả cần nhiều - mỗi tấm phiếu xin mười đồng xu thôi, khổ chủ cũng cám ơn rối rít... Không thì cứ ra giữa đồng mà tìm gió 2. Thiếu tôi thì có thánh cũng chẳng lần ra.
    Ostap thán phục nhìn lão già:
    - Văn phòng hay thật! Cơ giới hóa toàn bộ! Bác đúng là anh hùng lao động!
    Vị chủ nhiệm kho lưu trữ phổng mũi, bắt đầu kể cho khách nghe mọi chi tiết của sự nghiệp mà lão ưa thích. Lão giở những tập sách kiểm kê và phân phối dày cộp. Lão nói:
    - Tất cả đều ở trong này. Toàn bộ thành phố Stargorot! Toàn bộ đồ gỗ! Tịch thu của ai, chia cho ai! Còn đây là cuốn sổ theo vần chữ cái, tấm gương của cuộc sống đấy! Anh muốn biết đồ đạc của ai? Của thương gia Angelôp tiền bạc như nước ư? Xin mời! Hãy xem vần A, A, AK, AM, AH, Angelôp đây rồi. Số mấy? Số 82742 đây. Bây giờ giở sổ kiểm kê ra. Trang 142, Angelôp đâu? Angelôp đây. Tịch thu đồ đạc nhà Angelôp vào ngày 18 tháng 12 năm 1918. Một đàn dương cầm "Bekher" No 97012, một cái ghế đẩu mềm mềm kèm theo đàn, hai bàn buy-rô, bốn tủ đựng quần áo (hai chiếc làm bằng gỗ hồng sắc), một tủ buýp-phê v.v... Thế chia cho ai? Thì giở sổ phân phối ra thôi. Vẫn số 82742. Tủ buýp-phê chia cho thị đội, ba cái tủ quần áo chuyển cho trường nội trú "Sơn ca"... Còn một tủ quần áo cấp cho ông trưởng ty lương thực. Thế đàn dương cầm? Đưa đến nhà dưỡng lão No2. Bây giờ nó vẫn kê ở đó.
    "Sao mình không thấy cây đàn "Bekher" ở đàng ấy nhỉ?" - Ostap nghĩ thầm và nhớ lại vẻ mặt bẽn lẽn của Alkhen.
    - Hoặc giả dụ muốn tìm đồ đạc của ông thị trưởng cũ, ngài Murin... giở vần M, sẽ thấy hết. Đã bảo cả thành phố mà. Ở đây ghi đủ cả, nào dương cầm, nào bàn, nào ghế, nào tủ, nào đi-văng, nào đèn chùm, thậm chí cả bộ đồ ăn cũng có tuốt...
    - Phải đúc tượng kỷ niệm cho bác mới được. Nhưng thôi, ta hãy vào việc của ta đi. Bác tìm vần V xem nào.
    - Có ngay - Korobeinikov sẳn sàng hưởng ứng - đây là VM, VR, Vêrisski, Vôrôbjaninôp, No2 48238. Ippolit Matveevich thân phụ của anh, cầu chúa phù hộ vong linh ông cụ, một con người hảo tâm... Đàn Piano "Bekher" No 54809, lọ cổ của Tàu có nhãn hiệu - 4 cái, thảm trải Obuysson - 8 tấm, thảm treo - 2 tấm, thảm Tekin - 2 tấm, thảm Horosan - 1 tấm, gấu nhồi - 1 con, giường - 12 chiếc, bộ bàn ăn đủ cho sáu người, bàn ghế tiếp khách đủ cho 14 người, làm bằng gỗ hồ đào, theo kiểu Hambx...
    - Chia cho ai? - Ostap nóng ruột hỏi.
    - Có ngay. Gấu nhồi đưa cho đồn công an quận 2. Một tấm thảm treo đề tên "Chàng chăn cừu" - chuyển cho bảo tàng mỹ thuật, tấm thảm treo đề tên "Nàng chăn cừu" - phát cho câu lạc bộ đường thủy. Các tấm thảm còn lại chuyển lên bộ dân ủy ngoại thương. Giường ngủ chia cho hội thợ săn, bộ bàn ăn phát cho công ty chè Stargorot. Bộ bàn ghế tiếp khách thì phân phối lẻ. Chiếc bàn ghế tròn và một chiếc ghế cho nhà dưỡng lão No2, đi-văng chân cong - phòng nhà đất (hiện vẫn kê ở tiền sảnh, lớp da bị bọn khốn lột mất rồi), một chiếc ghế cho đồng chí Gritsasuep là thương binh trong cuộc chiến tranh đế quốc, phát theo đơn xin của đồng chí ấy, có chữ ký duyệt của trưởng phòng nhà đất là đồng chí Burkin. Mười cái ghế chuyển lên Mátxcơva, vào bảo tàng nghệ thuật đồ gỗ theo thư thông tri của Bộ dân ủy giáo dục... Mấy chiếc lọ cổ của Tàu thì...
    - Xin khen ngợi bác - Ostap hoan hỉ - Hợp ý tôi lắm. Bây giờ được xem chứng từ thì tốt.
    - Có ngay, có chứng từ đây. Số No 48238, chữ V.
    Vị chủ nhiệm đi lại bên chiếc tủ, kiễng chân lấy bó phiếu cần lấy.
    - Đây, toàn bộ đồ gỗ của thân phụ anh ở trong này. Anh muốn có đủ mọi chứng từ à?
    - Tôi lấy tất cả làm gì... Để kỷ niệm thời thơ ấu... chỉ cần bộ bàn ghế tiếp khách thôi... Tôi nhớ hồi bé tôi thường chơi đùa ở phòng khách, chạy trên tấm thảm Horosan, ngắm tấm thảm treo "Nàng chăn cừu"... Thời thơ ấu hoàng kim mới tuyệt làm sao... Vậy là ta chỉ giới hạn ở đồ gỗ tiếp khách thôi, bố già ạ!
    Vị chủ nhiệm bắt đầu trịnh trọng giở bó phiếu màu xanh, lấy ra các chứng từ cần thiết. Năm phiếu cả thảy. Một tờ ghi 10 chiếc ghế, hai tờ ghi mỗi cái một chiếc ghế, một tờ ghi cái bàn tròn và một tờ ghi tấm thảm treo "Nàng chăn cừu".
    - Anh có xem lại không? Tất cả đều đầy đủ. Cái nào, ở đâu, rất rõ ràng. Bên dưới ghi rõ địa chỉ và có chữ ký người nhận. Nghĩa là không ai chối cãi được. À, mà anh có muốn tìm bộ bàn ghế của bà tướng Pôpôva không? Tuyệt lắm nhá. Cũng làm theo kiểu Hambx.
    Nhưng Ostap chỉ yêu quý cha mẹ mình thôi, hắn chộp lấy năm tờ phiếu, nhét vào tận đáy túi áo trong và từ chối việc tìm kiếm bộ bàn ghế của bà tướng Pôpôva.
    - Tôi có cần viết giấy biên nhận tiền cho anh không? - Vị chủ nhiệm kho lưu trữ uốn thẳng lưng hỏi.
    - Có chứ bác - Ostap lịch sự đáp - Xin bác viết thật rõ cho. Nhất trí!
    Họ trở lại phòng thứ nhất. Korobeinikov nắn nót viết giấy biên nhận tiền và mỉm cười trao cho khách. Vị giám đốc kỹ thuật cung kính giơ hai ngón tay phải nhận tờ giấy và cất nó vào đúng chiếc túi đang đựng năm tấm phiếu quý giá!
    - Thôi, tạm biệt - Ostap nheo nheo mắt - Hình như tôi đã làm phiền bác hơi lâu. Không dám quấy quả thêm. Nào, xin bắt tay người nguyên đổng lý văn phòng.
    Vị chủ nhiệm kho lưu trữ sửng sốt, uể oải bắt bàn tay của khách.
    - Tạm biệt - Ostap nhắc lại và đi ra cửa. Korobeinikov chả hiểu gì nữa. Lão thậm chí ngó xuống bàn xem ông khách có đặt tiền ở đó không, nhưng làm gì có xu nào. Lúc ấy, lão mới hỏi khẽ:
    - Thế còn tiền?
    - Tiền gì cơ? - Ostap vừa hỏi vừa mở cửa - Hình như bác vừa hỏi món tiền gì thì phải?
    - Chứ sao! Tiền công tìm đồ gỗ! Tiền đổi phiếu!
    - Bác ơi, xin thề trước vong linh thân phụ quá cố của tôi, vì mừng quá, tôi đã quên rút tiền ở ngân hàng.
    Lão già giật thót người, giơ vội bàn tay khẳng khiu của mình ra đàng trước, định giữ khách lại.
    - Khẽ chứ, đồ ngốc - Ostap hăm dọa - Người ta đã nói tiếng Nga với lão, rằng sáng mai trả là sáng mai trả. Thôi, tạm biệt! Nhớ viết thư cho mình nhé...
    Cửa đóng sập ngay lại. Korobeinikov vội mở cửa và chạy ra đường, nhưng Ostap đã mất hút. Hắn rảo bước qua cầu. Một cái đầu máy xe lửa chạy ngang qua rọi ánh lửa vào người hắn và xì ra một đám khói.
    - Băng đã trôi rồi! - Ostap thét to với người thợ lái đầu máy. Băng đã trôi rồi, thưa các ngài bồi thẩm chí tôn chí kính!
    Người thợ lái đầu máy không nghe rõ, chỉ vẫy vẫy tay và tăng ga mạnh hơn cho chiếc đầu máy vọt đi.
    Korobeinikov đứng thêm hai phút ngoài gió lạnh, chửi mấy câu thậm tệ rồi quay vào nhà. Một nỗi cay đắng ghê gớm trào lên. Lão đứng sững giữa phòng và giận dữ đá liền mấy cái vào chiếc bàn. Cái gạt tàn thuốc lá hình chiếc giày có dòng chữ đỏ "tam giác" nẩy lên cành cạch còn chiếc ly thì cụng mấy lần vào chiếc bình đựng nước.
    Chưa bao giờ Varfôlômei Korobeinikov bị lừa đau đớn như thế. Lão có thể lừa ai cũng được, đàng này lão lại bị mắc bẫy, một cái bẫy đơn giản đến cùng cực. Thành thử lão cứ đứng đực người ra bên chiếc bàn ăn mà hậm hực.
    Ở khu vực Gusisa này người ta chỉ đến gặp lão trong trường hợp vạn bất đắc dĩ. Lão cầm đồ và cho vay tiền với tỉ lệ lãi cắt cổ. Lão làm việc ấy đã mấy năm nay và chưa hề thua thiệt lần nào vậy mà tối nay lão mất trắng một dịch vụ hứa hẹn bao lời lãi cho tuổi già sau này của lão.
    - Hắn đùa ư?! - Lão hét to khi nhớ lại năm tờ phiếu mất trắng - bây giờ thì phải xì tiền trước đã. Tự tay mình đem dâng bộ bàn ghế tiếp khách có ngu không chứ! Riêng tấm thảm treo "Nàng chăn cừu" đã vô giá rồi! Dệt bằng tay kia mà...
    Cái dây chuông "Hãy giật chuông" đã bị một bàn tay rụt rè của ai đó lắc lắc từ lâu, và Korobeinikov chưa kịp nhớ ra là cửa vẫn bỏ ngỏ, thì phòng ngoài vang lên một tiếng "Rầm" và có tiếng người gọi lẫn trong dãy tủ kê la liệt:
    - Vào lối nào đây ạ?
    Korobeinikov bước ra, kéo chiếc áo bành tô của ai đó (trong tối chỉ sờ thấy nham nháp) dẫn vào phòng ăn: thì ra là cha Fêđor,
    - Xin bác thứ lỗi - cha Fêđor nói.
    Sau mười phút đôi bên chủ khách trao đổi qua lại những câu nói nửa chừng và khôn khéo, mới rõ được rằng quả thực công dân Korobeinikov đang có những tài liệu nhất định về món đồ gỗ của Ippolit Matveevich Vorobjaninov, còn cha Fêđor thì sẵn sàng trả tiền mua các tài liệu ấy. Ngoài ra, vị chủ nhiệm kho lưu trữ rất chi hài lòng về chuyện khách chính là em ruột của ngài đô thống xưa kia và ấp ủ nguyện vọng tha thiết được lưu giữ kỷ niệm về ông anh bằng cách tìm kiếm bộ bàn ghế tiếp khách làm từ gỗ hồ đào. Thời niên thiếu của hai anh em Vorobjaninov quyện chặt với bộ bàn ghế ấy.
    Korobeinikov đòi một trăm rúp. Khách thì đánh giá kỷ niệm về ông anh trai thấp hơn nhiều, khoảng vài ba chục rúp là cùng. Họ thỏa thuận với nhau ở cái giá năm chục rúp.
    - Xin ông cho tiền trước - vị chủ nhiệm tuyên bố - cái tật của tôi như thế.
    - Tôi đưa tiền vàng, theo giá một ăn mười được chứ? - Cha Fêđor vội lần mép áo, nói.
    - Tôi chỉ nhận nếu tính đổi đúng giá. Một đồng vàng ăn chín rúp rưỡi. Giá chiều nay đấy.
    Cha Fêđor lấy ra năm đồng vàng, thêm hai đồng bạc và đưa dúm tiền ấy cho vị chủ nhiệm kho lưu trữ. Korobeinikov đếm đi đếm lại hai lần, nắm chặt trong tay, đề nghị khách chờ một lát để lão đi lấy phiếu. Trong văn phòng bí mật của mình, lão chẳng nghĩ ngợi gì lâu, giở ngay cuối vần chữ cái - tấm gương của cuộc sống, lấy vần P, nhanh chóng tìm ra số hiệu, rồi lục tìm bó phiếu của bà tướng Pôpôra. Lão rút ra một tờ phiếu phân phối có ghi chia cho đồng chí Bruns, địa chỉ: 34, phố Vinôgrat, mười hai chiếc ghế hồ đào kiểu Hambx. Ngạc nhiên về sự lãng trí rất tháo vát của mình, vị chủ nhiệm kho lưu trữ mỉm cười, đem tờ phiếu sang phòng bên cho khách.
    - Tất cả đều ở cùng một chỗ ư? - Người mua reo lên.
    - Tất, tất cả đều ở một chỗ. Bộ bàn ghế này hết ý. Không chê vào đâu được. Mà khen với ông cũng bằng thừa! Ông còn lạ gì nó!
    Cha Fêđor sung sướng lắc lắc bàn tay vị chủ nhiệm kho lưu trữ hồi lâu, rồi sau không biết bao nhiêu lần vấp vào dãy tủ la liệt ở phòng ngoài, cha chạy thẳng vào bóng đêm.
    Korobeinikov thì cứ đứng cười theo vị khách hàng đần độn. Lão đặt những đồng tiền vàng thành một dãy trên bàn và ngắm nghía chúng bằng cặp mắt ngái ngủ.
    "Tại sao chúng nó lại đổ đi tìm đồ gỗ nhà Ippolit Vorobjaninov nhỉ?" - lão nghĩ thầm - Thật là mấy thằng mất trí.
    Lão với quần áo, cầu kinh cho qua lệ, nằm xuống giường có chân chật hẹp và thiếp đi mơ màng.
    Chú thích
    1.Nguyên văn: Đừng có làm con bọ dừa.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 12: ƯỚC MƠ CỦA NHÀ THƠ, NGƯỜI ĐÀN BÀ HĂNG HÁI
    Cái giá rét của ban đêm đã phải trốn biệt. Trời trở nên ấm áp đến mức những người ra đường sớm thấy nhức buốt cả chân. Bầy chim sẻ ríu rít cãi nhau. Ngay đến con gà mái từ trong bếp chạy ra sân khách sạn cũng cảm thấy dồi dào sức lực, thử gáy to hơn một chút. Vài đám mây mỏng manh trên trời. Thùng rác bốc lên mùi cây đông thảo và mùi súp peizan. Gió lùa qua khe cửa sổ, chú mèo nằm ườn trên mái nhà nheo nheo mắt nhìn xuống sân, e ngại cho anh chàng Alexsanđr trực lầu đang bưng giỏ quần áo và chạy dưới đó.
    Các hành lang của ô-ten "Sorbonna" nhộn nhịp hẳn lên. Từ các huyện, nhiều phái đoàn về đây dự lễ khánh thành đường xe điện. Cả một tốp đông được đổ xuống trước cửa ô-ten "Sorbonna".
    Mặt trời tỏa ánh nắng gay gắt. Cửa sắt các nhà hàng được kéo lên rầm rầm. Cán bộ nhân viên đi làm, nếu mặc những chiếc áo bông, thì giờ đây nực người lên vì gánh nặng của mùa xuân.
    Ở phố Kooperativ, một chiếc xe vận tải chở quá nặng của công trường Melstroi bị gãy nhíp, và Viktor Mikhailovich Polesov kịp thời có mặt ở nơi xảy ra sự cố đang đưa ra những lời khuyên bảo.
    Trong phòng khách sạn được bày biện xa xỉ nhưng thực tế (hai chiếc giường và một cái táp-đơ-nuy), có tiếng thở và tiếng phun phì phì như ngựa: Ippolit Matveevich đang vui vẻ rửa mặt và thông mũi. Vua mánh thì nằm trên giường đang xem các vết vẹt đế giày. Hắn nói:
    - Này, yêu cầu ông thanh toán dứt điểm khoản nợ ngày hôm qua cho.
    Ippolit Matveevich ló mặt ra khỏi khăn tay và nhìn Ostap bằng cặp mắt lồi không mang kính.
    - Cái gì mà ông nhìn tôi như lính thấy rệp thế? Ông ngạc nhiên về cái gì? Về khoản nợ à? Phải rồi! Ông nợ tiền tôi. Hôm qua tôi quên nói ông biết rằng theo sự ủy nhiệm của ông, tôi đã trả bảy mươi rúp để mua năm tờ phiếu. Có giấy biên nhận kèm theo. Xin ông quẳng cho tôi ba mươi lăm rúp. Tôi hy vọng hai bên ký kết hợp đồng cùng tham gia trên cơ sở bình đẳng chứ?
    Ippolit đeo kính kẹp mũi, đọc tờ giấy biên nhận và nhăn nhó giao tiền. Nhưng thậm chí điều đó cũng không làm ông mất hứng. Tài sản đã nắm trong tay đây rồi. Hạt bụi ba mươi lăm rúp biến mất ngay trong ánh hào quang của quả núi kim cương.
    Ippolit mỉm cười rạng rỡ, bước ra đi dạo ngoài hành lang. Kế hoạch của một cuộc sống mới, được xây dựng trên nền đá quý, đã an ủi ông. "Còn lão cố đạo? - Ông chửi thầm - Thật ngu như chó. Nó sẽ không bao giờ nhìn thấy những cái ghế ấy".
    Đến cuối hành lang, Ippolit quay lộn lại. Cái cửa trắng, nứt nẻ ở phòng No13 mở ra, và cha Fêđor mặc chiếc áo va-rơi xanh, có sợi dây màu đen rách tua tủa thắt ngang lưng, tiến thẳng về phía ông. Khuôn mặt đôn hậu của cha hân hoan sung sướng. Cha cũng ra hành lang để dạo mát. Hai đối thủ chạm mặt nhau mấy lần, đôi bên đắc thắng nhìn nhau rồi lại bước tiếp. Niềm hứng khởi dâng lên trong ngực Ippolit. Cha Fêđor cũng có cảm giác hệt như vậy. Cả hai đều thấy thương hại cho đối phương thất thế. Cuối cùng, ở lần chạm mặt thứ năm, Ippolit không dừng được nữa.
    - Chào cha - ông nói giọng ngọt ơi là ngọt.
    Cha Fêđor tập trung toàn bộ sự châm biếm cay độc mà chúng cho phép cha sử dụng, đáp lời:
    - Chào ông Ippolit.
    Hai đối thủ lại xa nhau. Lần gặp sau, Ippolit buông một câu:
    - Bữa trước tôi có làm cho cha bị chấn thương không đấy?
    - Không, có sao đâu, tôi rất vui lòng gặp mặt ông hôm ấy.
    Rồi cả hai lại đi về hai bên đầu hành lang khác nhau. Bộ mặt của cha Fêđor bắt đầu làm cho Ippolit khó chịu.
    - Cha không ở nhà làm lễ thánh nữa ư? - Ông hỏi khi đôi bên gặp lại.
    - Làm lễ thánh sao được, khi mà con chiên bỏ đi lung tung sang các thành phố khác để tìm báu vật.
    - Xin cha lưu ý: báu vật của họ! Của họ!
    - Báu vật của ai không biết, chỉ biết là họ bỏ đi tìm.
    Ippolit muốn nói một câu gớm ghiếc nào đó và đã há miệng ra, nhưng không nghĩ được câu gì, đành bực bội trở về phòng của mình. Một phút sau, từ đó bước ra gã con trai của vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ, tức Ostap Benđer, mình mặc gi-lê xanh, dây giày lòng thòng dưới chân nên cứ bị chân giẫm phải. Ostap tiến về phía cha Fêđor. Những bông hồng trên má cha Fêđor héo hẳn đi và biến thành màu tro.
    - Ông mua đồ cũ phải không? - Ostap hỏi, giọng dọa nạt - Ghế cũ? Súc vật chết? Hay xi đánh giày?
    - Anh muốn gì? - cha Fêđor hỏi nhỏ.
    - Tôi muốn bán chiếc quần thủng đít cho ông.
    Vị cố đạo lạnh xương sống lùi dần.
    - Sao ông cứ câm lặng như đức giáo chủ trong bữa tiệc chiêu đãi thế?
    Cha Fêđor lui dần về phòng ở của mình.
    - Mua lại đồ cũ, ăn cắp đồ mới đa-đa-ây! - Ostap dài giọng với theo.
    Cha Fêđor rụt đầu rụt cổ dừng chân ở cửa phòng mình. Ostap tiếp tục công kích:
    - Thưa đức chăn chiên chí kính, ngài mua chiếc quần thủng đít của tôi chứ ạ? Tôi còn có đôi tay áo gi-lê và đôi tai của con lừa chết nữa kia. Bán luôn cả bộ thì lấy giá rẻ hơn. Mà lại có ngay chứ không cất giấu ở trong vỏ ruột ghế, khỏi tốn công đi tìm! Xong chưa nào?!
    Cha Fêđor tót vào phòng và đóng cửa lại.
    Ostap hài lòng đi về phòng mình, chân này giẫm lên dây giày chân kia. Khi cái thân xác vạm vỡ của hắn đã ở khoảng cách khá xa, cha Fêđor thò đầu rất nhanh ra ngoài cửa và rít lên vì cơn giận bị kềm chế quá lâu:
    - Mày là đồ khốn nạn thì có!
    - Cái gì? - Ostap chạy bổ trở lại, nhưng cửa đã đóng sập và ổ khóa kêu tách một cái.
    Ostap cúi xuống ổ khóa, cong bàn tay đưa lên miệng làm loa và nói rõ từng tiếng:
    - Thuốc phiện đối với nhân dân. 1
    Không thấy bên trong trả lời.
    - Đức cha ơi, người là quân đốn mạt! - Ostap gào to.
    Ngay lúc ấy từ trong ổ khóa, một cây bút chì phóng ra nhưng bị mắc kẹt ở đó; cha Fêđor định dùng đầu nhọn của cây bút để hạ thủ đối phương. Ostap tránh kịp và túm lấy một đầu cây bút. Hai kẻ thù bị cánh cửa ngăn cách, cố kéo cây bút chì về phía mình. Thắng lợi thuộc về tuổi trẻ, và cây bút từ từ chui ra bên ngoài như một cái dằm miễn cưỡng bứt khỏi da thịt. Ostap trở về phòng với món chiến lợi phẩm đó. Hai thành viên hợp đồng được mẻ cười thích thú.
    - Kẻ thù đã phải rút lui, rút lui, rút lui!... Ostap nói như hát.
    Hắn dùng dao nhíp, khắc một chữ tục lên thân cây bút, chạy ra hành lang nhét cây bút vào phòng qua lỗ khóa, rồi quay luôn về phòng mình.
    Hai ông bạn mang năm tờ phiếu ra chỗ sáng và bắt đầu nghiên cứu thật kỹ, Ippolit nói.
    - Tôi mua tấm thảm treo "Nàng chăn cừu" này tại một hiệu đồ cổ ở Mátxcơva đây.
    - Vứt mẹ nó đi! - Ostap xé vụn tờ phiếu.
    - Còn cái bàn tròn thì hình như...
    - Đưa tờ phiếu cái bàn tròn cho tôi. Vứt cha nó đi cho khỏi bận mắt!
    Còn hai tờ phiếu phân phối, một tờ ghi 10 chiếc ghế chuyển lên bảo tàng nghệ thuật đồ gỗ ở Mátxcơva, tờ kia ghi cấp một chiếc ghế cho đồng chí Gritsasuev ở Stargorot, phố Plekhanov, số nhà 15.
    - Chuẩn bị tiền đi - Ostap nói - có lẽ phải đi Mátxcơva.
    - Nhưng ở thành phố này cũng có một chiếc cơ mà.
    - Xác xuất một trên mười. Toán học thuần túy. Biết đâu công dân Gritsasuev lại chẳng đem cái ghế đi nhóm bếp rồi.
    - Anh đừng đùa kiểu ấy.
    - Không sao, không sao, đồng chí thủ lĩnh công đoàn tự do Konđrat Karlovich Mikhelson ạ, chúng ta sẽ tìm thấy thôi! Sự nghiệp này thiêng liêng lắm! Chúng ta sẽ có tất len để đi và kem Margo để chén.
    - Không hiểu sao tôi có cảm giác rằng kho báu phải để trong chính chiếc ghế ấy, - Ippolit nhận định.
    - Ái chà chà! Ông có cảm giác à? Ông còn có cảm giác gì nữa nào? Không ư? Thôi được. Ta sẽ làm việc theo kiểu mác-xít, thực tế hơn. Hãy trả bầu trời cho loài chim, còn ta thì quay về với những chiếc ghế. Tôi đang nóng lòng muốn gặp đồng chí thương binh của cuộc chiến tranh đế quốc, công dân Gritsasuev, phố Plekhanov, nhà số 15. Ta đi ngay thôi, ông Mikhelson! Kế hoạch cụ thể sẽ vừa đi vừa bàn.
    Ngang qua cửa phòng cha Fêđor, đứa con trai để bụng thù vặt của vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ còn đá vào cửa một cái thật mạnh. Từ bên trong vọng ra tiếng lẩm bẩm yếu ớt của đối thủ bị đầu độc.
    - Chỉ ngại nó theo gót chúng mình! - Ippolit nói.
    - Sau cuộc gặp gỡ giữa các ngài bộ trưởng trên thuyền buồm vừa rồi thì khó có sự tiếp xúc nào nữa. Nó sợ vãi đái ra rồi.
    - Gần tối chúng mới quay về. Ippolit đăm chiêu. Ostap thì mặt mày rạng rỡ. Hắn diện đôi giày mới lắp đế cao su, đi đôi tất kẻ sọc kiểu bàn cờ, ô xanh cạnh ô đen, đầu đội chiếc mũ cát-két màu kem sữa, cổ quàng một chiếc khăn Rumani.
    Ippolit phân vân khi nhớ lại lúc đến nhà góa phụ Gritsasueva:
    - Ghế thì đúng nó rồi đấy. Nhưng làm cách nào bây giờ? Phải mua à?
    - Chứ sao, đấy là chưa nói đến khoản chi phí hoàn toàn phi sản xuất đó, - Ostap trả lời - làm không khéo, dễ gây lời ong tiếng ve lắm.
    - Vậy anh bảo phải làm thế nào?
    Ostap sung sướng ngắm cái đế giày mới.
    - Siêu mô-đéc đấy, - hắn nói - làm thế nào à? Khỏi lo, ông chủ tịch ơi, tôi nhận làm vụ này cho. Không một chiếc ghế nào có thể đứng vững trước đôi giày siêu mô-đéc này.
    - Anh biết không, - Ippolit sôi nổi hẳn lên, - lúc anh nói chuyện với bà Gritsasueva về nạn lụt lội, tôi ngồi thử xuống cái ghế của chúng ta và, thú thật, tôi cảm thấy có cái gì cưng cứng ở dưới. Lạy chúa, đúng nó rồi... lạy chúa, tôi cảm thấy rõ ràng mà...
    - Chớ có xúc động quá, ông Mikhelson.
    - Đêm nay ta phải đánh cắp nó! Phải đánh cắp nó!
    - Một vị đô thống quý tộc mà hành động nhỏ mọn quá. Vả lại ông nắm được kỹ thuật đánh cắp chưa nào? Trong va li của ông có chùm móc sắt mở các loại ổ khóa chứ? Xin ông vứt bỏ cái ý nghĩ ấy đi cho tôi nhờ! Lấy cắp đồ của một góa phụ nghèo! Sang trọng chưa?!
    Ippolit Matveevich sực tỉnh.
    - Thì tôi chỉ muốn công việc mau hoàn tất, - ông nói như van vỉ.
    - Chỉ có lũ mèo mới đẻ nhanh thôi! - Ostap lên giọng dạy đời. - Tôi sẽ cưới mụ ta.
    - Mụ nào?
    - Mađam Gritsasueva.
    - Để làm gì?
    - Để khai phá chiếc ghế mà không gây chuyện om sòm.
    - Nhưng như thế là anh gắn bó suốt đời với mụ ta hay sao?
    - Vì lợi ích của bản hợp đồng này, phỏng còn tiếc nuối cái gì!
    - Trời ơi, gắn bó suốt đời! - Ippolit rên rỉ.
    Ippolit vung tay cực kỳ kinh ngạc. Cái miệng trên bộ mặt không râu ria của ông há ra, để lộ những chiếc răng màu xanh không được chải kể từ hôm rời thị trấn N.
    - Gắn bó suốt đời! - Ippolit thì thầm! - Đây là một sự hy sinh lớn.
    - Cuộc đời! Hy sinh! - Ostap nói. - Ông thì biết gì về cuộc đời và sự hy sinh? Ông tưởng rằng, nếu ông bị đuổi ra khỏi biệt thự, thì ông biết rõ cuộc đời ư? Và nếu người ta đưa về bảo tàng những cái lọ Tàu giả, thì đó là sự hy sinh chăng? Cuộc đời, thưa các vị bồi thẩm đáng kính, là một mớ phức tạp, nhưng thưa các vị bồi thẩm đáng kính, cái món phức tạp ấy lại dễ mở toang ra như ta mở tủ. Chỉ cần biết cách mở thôi. Kẻ nào không mở được, thì kẻ đó chết. Ông đã nghe chuyện ngài kỵ sĩ quý tộc đi làm thầy tu khổ hạnh chưa?
    Ippolit chưa nghe chuyện ấy bao giờ.
    - Ông chưa nghe tên Bulasov bao giờ sao? Người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc ấy mà? Vậy để tôi kể cho mà nghe.
    Đoạn Ostap Benđer kể cho Ippolit Matveevich nghe câu chuyện mà đoạn mở đầu kỳ lạ của nó làm cả thành phố Pê-ter-burg xúc động, còn đoạn kết còn kỳ thú hơn của nó thì bị lẫn đi, không được ai để ý trong thời gian mấy năm vừa qua.
    CHUYỆN KỴ SĨ QUÝ TỘC
    ĐI LÀM THẦY TU KHỔ HẠNH
    Đúng như lời kể của Ostap Benđer, ngài kỵ sĩ quý tộc tuấn kiệt, bá tước Aleksei Bularov, quả là người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc. Tên tuổi của anh chàng kỵ sĩ và tay ăn chơi khét tiếng ấy không ngớt được kể đi kể lại từ miệng những người sống trong các lâu đài tuyệt mỹ ở phố bờ sông Anglish và trên các cột báo thời ấy. Trên các tạp chí minh họa thường xuất hiện ảnh chụp chàng kỵ sĩ điển trai mặc chiếc áo blu-dông bằng lông cừu, có hai món tóc mai vắt vẻo và cái mũi ngắn đắc thắng.
    Bá tước Bularov nổi tiếng là kẻ tham gia nhiều vụ đấu súng bí mật dẫn đến kết cục bi thảm, vô số khối tình công khai với những mađam kiều diễm nhất, khó tính nhất của giới thượng lưu, hàng loạt trò nghịch ngợm điên rồ quấy phá những nhân vật đáng kính trong xã hội, và là tác giả của những cuộc truy hoan thâu đêm suốt sáng, bao giờ cũng chấm dứt bằng trò đập phá chai ly.
    Bá tước đẹp trai, trẻ trung, giàu sang, may mắn trong tình yêu, may mắn trong cờ bạc và trong việc thừa kế tài sản. Những người ruột thịt của bá tước bay lên thiên đàng đến nỗi tư sản của bá tước tăng lên vùn vụt tuy đã chất cao như núi.
    Bá tước là người hết sức táo tợn, quả cảm. Chàng đã giúp hoàng đế Abisini trong cuộc chiến tranh của ông ta với Italia. Chàng ngồi dưới những ngôi sao sáng chói của sứ Abisini, mình khoác chiếc áo Ả-rập, mắt nhìn chiếc bản đồ địa hình trải rộng. Ánh đuốc bập bùng tạo thành những vệt đen di động chập chờn bên hai món tóc mai cong vút của chàng. Ngồi bên chân chàng là một người bạn mới - chú bé Vaska người Abisini.
    Sau khi tiêu diệt quân đội của vua Italia, bá tước trở về Pê-ter-burg cùng với chú bé Vaska. Pê-ter-burg chào đón người anh hùng bằng hoa thơm và rượu sâm banh. Bá tước lại chìm đắm vào biển lạc thú vô tư, theo cách nói của giới quý phái thời ấy. Người ta lại tiếp tục bàn tán về chàng với thái độ thán phục gấp đôi, các thiếu phụ thi nhau giành giật chàng, cánh đàn ông ghen tị với chàng. Chiếc xe ngựa của bá tước thường phóng như bay trên đường phố Million, và đứng trên bậc xe bao giờ cũng là chú bé Abisini mà nước da đen nhánh và thân hình mảnh mai của chú luôn luôn làm sửng sốt khách bộ hành.
    Rồi đột nhiên tất cả chấm dứt. Bá tước Bularov biến mất tăm. Nữ công tước Belorussko-Baltiskaia, tình nhân cuối cùng của chàng, trở nên rầu rĩ, không gì an ủi được. Sự kiện bá tước biến mất gây ra bao lời bàn tán. Báo chí đầy ắp những lời phỏng đoán. Các quan chức cảnh sát lúng túng, chạy nháo cả lên. Nhưng vô ích, không sao lần ra dấu vết ngài bá tước.
    Khi chuyện om sòm đã lắng hẳn, thì có một bức thư từ hoang mạc Averkiev gửi về giải thích mọi sự. Chàng bá tước tuấn kiệt, người anh hùng của Pê-ter-burg quý tộc, Valtasar của thế kỷ XIX, đã nhập dòng tu khổ hạnh. Người ta truyền cho nhau những chi tiết rùng rợn. Người ta bảo ngài bá tước-thầy tu lê chiếc xiềng nặng bốn, năm chục ký, rằng một trang công tử quen dùng các món ăn Pháp tinh tế như chàng, nay chỉ sống bằng vỏ khoai tây. Lại hàng loạt phỏng đoán được tung ra. Người ta bảo bá tước nằm mê thấy bà mẹ quá cố hiện về.
    Các thiếu phụ khóc than. Hàng dãy xe ngựa sang trọng đậu trước nhà nữ công tước Belorussko-Baltiskaia. Nữ công tước cùng với chồng tiếp khách khứa đến chia buồn. Lại có những tin đồn mới. Người ta chờ bá tước quay trở về. Người ta bảo đấy chỉ là tình trạng mất trí tạm thời do tôn giáo gây ra. Người thì bảo bá tước bỏ chạy để trốn nợ. Người thì bảo tất cả chỉ xuất phát từ một mối tình bất hạnh.
    Thực ra, bá tước kỵ sĩ đi tu là để nhận thức cuộc sống. Chàng không quay trở lại. Dần dần người ta cũng quên chàng. Nữ công tước Belorussko-Baltiskaia đã kết bạn với một ca sĩ Italia, còn chú bé Vaska thì trở về tổ quốc Abisini của chú.
    Tại tu viện, bá tước Aleksei Bularov đổi tên thành Evpl, đang dốc lòng dốc sức lập những công tích vĩ đại. Quả là chàng có đeo xiềng, nhưng chàng thấy như vậy vẫn chưa đủ để hiểu cuộc sống. Chàng liền phát minh cho mình một cái mũ tu sĩ đặc biệt, có lưỡi trai hẳn hoi, che gần kín mặt và một cái áo cà sa cứ quấn vào chân mỗi lúc bước đi. Chàng được tu viện trưởng cho phép ăn vận như vậy. Sau đó, vốn dòng kiêu hãnh, chàng lánh vào một khu rừng và bắt đầu sống trong một chiếc quan tài gỗ sồi.
    Công tích của tu sĩ Evpl làm cho cả tu viện bái phục. Chàng chỉ ăn những miếng bánh khô mà cứ ba tháng người ta mới tiếp tế thêm một lần.
    Hai mươi năm cứ thế trôi qua. Evpl cho rằng cuộc sống của mình rất chi sáng suốt, đúng đắn, và duy nhất đúng đắn. Cuộc sống của ông trở nên thanh thản lạ thường, và các ý nghĩ của ông cứ trong vắt như pha lê. Ông đã nhận thức rõ cuộc sống và hiểu rằng không thể sống khác được.
    Một hôm, ông ngạc nhiên nhận ra rằng ở cái chỗ mà suốt hai chục năm nay ông vẫn quen lấy những cái bánh khô, bây giờ chẳng có gì hết. Bốn ngày liền ông bấm bụng nhịn đói. Sang ngày thứ năm có một cụ già ăn mặc rách rưới mà ông không hề quen mặt, đến gặp ông và báo tin rằng những người bôn-sê-vích đã đuổi các tu sĩ ra khỏi viện và lấy đó làm trụ sở nông trường quốc doanh. Sau khi để lại cho ông một ít bánh khô, lão già ra về, nước mắt nước mũi ròng ròng. Tu sĩ Evpl chưa hiểu lão già. Với những ý tưởng trong sáng và bình lặng, ông cứ nằm trong chiếc quan tài mà vui sướng nhận thức cuộc sống. Lão già nông dân thỉnh thoảng lại tiếp tế bánh khô cho ông.
    Lại mấy năm nữa cứ thế trôi qua không làm bất cứ ai bận tâm.
    Một hôm cửa lều mở toang ra, và mấy người khom lưng bước vào. Họ đến bên chiếc quan tài và lặng lẽ nhìn ông tu sĩ già. Đấy là những người vạm vỡ, đi ủng có đóng cá, mặc áo galifê và đeo những khẩu mô-de dắt trong bao gỗ được đánh vec-ni láng bóng. Tu sĩ nằm trong quan tài, đặt tay lên ngực, nhìn tốp người mới đến bằng cặp mắt sáng quắc. Bộ râu trắng dài phủ kín cả nửa chiếc quan tài. Tốp người lạ mặt nhún vai, lặng lẽ bỏ đi và còn cẩn thận khép lại cửa lều.
    Thời gian trôi qua. Cuộc sống đã mở ra trước ông tu sĩ toàn bộ sự ngọt ngào của nó. Vào một đêm nọ nối tiếp cái ngày mà ông tu sĩ hiểu đến tột cùng rằng mọi thứ trong ý thức của mình đều sáng sủa, ông bỗng giật mình tỉnh giấc. Ông ngạc nhiên lắm. Có bao giờ ông thức giấc vào ban đêm đâu. Trong lúc đang nghĩ xem vì sao mình tỉnh giấc, ông lại thiếp đi, rồi lại tỉnh ra ngay vì cảm thấy cực kỳ ngứa ngáy ở sau lưng. Nhận thức rõ nguyên nhân sự ngứa ngáy ấy, ông cố thiếp đi, nhưng không được. Có cái gì đó cản trở ông. Ông thức luôn đến sáng. Đêm hôm sau lại bị con gì đó làm ông tỉnh giấc. Ông trằn trọc đến sáng, miệng khẽ rên và không để ý rằng hai tay ông phải gãi gãi nhè nhẹ. Ban ngày ông tình cờ nhòm kỹ chiếc quan tài. Bấy giờ ông đã hiểu tất cả: bốn góc chiếc giường cáu bẩn của ông lúc nhúc toàn rệp là rệp. Ông tu sĩ rùng mình ghê tởm.
    Ngày hôm đó, lão già nông dân đem bánh khô đến tiếp tế. Và vị tu sĩ im lặng đã hai mươi lăm năm, nay phải lên tiếng. Ông xin người trần đem lại cho ông một ít dầu hôi. Nghe thấy tiếng nói của vị đạo sĩ câm lặng vĩ đại, lão già nông dân giật bắn cả người. Tuy nhiên lão vẫn mang chai dầu tới, tuy phải giấu giếm ngượng nghịu. Lão già vừa ra về, vị đạo sĩ run run tay rót dầu vào mọi kẽ ván của chiếc quan tài. Lần đầu tiên sau ba ngày qua, Evpl ngủ thiếp đi yên lành, không bị cái gì quấy phá. Những ngày sau ông cũng rót dầu vào quan tài. Nhưng hai tháng sau thì ông hiểu rằng không thể dùng dầu hôi để tống cổ lũ rệp đi. Đêm đêm, ông cứ phải trở mình luôn xoành xoạch và cầu kinh rất to, nhưng các bài kinh cầu nguyện còn kém tác dụng hơn cả dầu hôi.
    Nửa năm trôi qua trong những sự hành hạ khó nói nên lời, trước khi vị đạo sĩ lại phải xin xỏ lão già một lần nữa. Yêu cầu thứ hai làm cho lão già sửng sốt hơn nữa: vị đạo sĩ nhờ ông ra thành phố mua loại thuốc bột "Aragat" chống rệp. Nhưng cả thuốc "Aragat" cũng vô hiệu. Rệp sinh sản nhanh lạ thường. Tấm thân cường tráng của đạo sĩ mà hai mươi lăm năm nhịn đói không thể quật ngã, nay sút cân trông thấy. Một cuộc sống tối tăm, tuyệt vọng bắt đầu. Đạo sĩ Evpl thấy chiếc quan tài trở nên gớm ghiếc và bất tiện. Ban đêm, theo lời khuyên của lão nông dân, ông đốt rệp bằng đóm. Rệp chết la liệt, nhưng vẫn không chịu đầu hàng.
    Sau đó phải dùng đến loại thuốc cuối cùng là các sản phẩm hóa chất đặc biệt. Đó là một chất lỏng màu da cam có mùi đào thối nhãn hiệu "Klopin". Nhưng cũng chẳng kết quả gì. Tình hình càng xấu đi. Hai năm sau kề từ lúc bắt đầu cuộc vật lộn vĩ đại, đạo sĩ tình cờ nhận ra rằng ông đã hoàn toàn ngừng suy ngẫm về ý nghĩa của cuộc sống, bởi vì suốt ngày đêm chỉ chuyên lo giết rệp.
    Bấy giờ ông mới hiểu rằng mình đã lầm. Cuộc sống vẫn tăm tối và bí ẩn như hai mươi lăm năm về trước. Né tránh những nỗi lo toan trần tục đâu có được. Không thể nào xác thịt ở dưới đất, linh hồn lại bay bổng trên trời.
    Thế là ông già đứng dậy, lanh lẹn chui ra khỏi lều, ông đứng giữa một cánh rừng xanh âm u. Đang là đầu mùa thu khô hanh. Ngay cạnh lều, từ lòng đất chồi lên cơ man nào là những cây nấm to tròn. Một con chim lạ đậu trên cành cây đang hót líu lo. Văng vẳng tiếng một đoàn tàu chạy qua. Đất rung rung. Cuộc sống đẹp quá. Ông già bước thẳng về phía trước, đầu không ngoảnh lại.
    Hiện nay ông làm xà ích ở đoàn xe ngựa của sở công trình công cộng Mátxcơva.
    Sau khi kể cho Ippolit Matveevich nghe câu chuyện có ý nghĩa giáo huấn cao cả đó, Ostap dùng tay áo vét lau chùi hai cái đế giày màu huyết dụ của mình, huýt sáo một điệu nhạc từ biệt và ra đi.
    Gần sáng hắn mò về phòng, cởi giày, đặt nó lên mặt chiếc táp-dơ-nuy, xoa xoa vuốt vuốt mãi lớp da giày bóng bẩy và dịu dàng nói:
    - Ôi, hai anh bạn bé bỏng của tôi.
    - Anh đi đâu về thế? - Ippolit hỏi, giọng ngái ngủ.
    - Đi thăm góa phụ, - Ostap đáp khẽ.
    - Sao? - Ippolit nhỏm dậy - Và anh sẽ lấy chị ta chứ?
    Cặp mắt Ostap ánh lên tinh quái.
    - Bây giờ thì tôi phải cưới thật, cưới như một người có danh dự.
    Ippolit thấy ngượng ngùng.
    - Người phụ nữ ấm nóng là mơ ước của nhà thơ, - Ostap nói.
    - Tính thẳng thắn của tỉnh lẻ. Trên trung ương, cái món cá nhiệt đới này đã không có từ lâu, nhưng ở vùng ngoại vi và các địa phương thì vẫn còn.
    - Bao giờ làm lễ cưới?
    - Ngày mốt. Mai không được! Mồng một tháng năm - tất cả đều nghỉ.
    - Thế còn công việc của chúng mình? Anh lấy vợ, trong khi có lẽ chúng mình sẽ phải đi Mátxcơva.
    - Thì có gì mà ông phải lo? Phiên họp vẫn tiếp tục như thường.
    - Còn vợ?
    - Vợ ư? Góa phụ kim cương ư? Vấn đề cuối cùng! Một chuyến công tác gấp theo giấy triệu tập của trung ương. Phải lên báo cáo ở Bộ Tiểu Dân Ủy. Cảnh chia tay và món gà luộc đem đi ăn đường. Ta sẽ khởi hành với đầy đủ tiện nghi. Thôi, ông cứ ngủ đi. Mai là ngày nghỉ của chúng ta.
    Chú thích
    1.Dựa theo danh ngôn: "Tôn giáo là thuốc phiện đối với nhân dân".

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 13: BẠN HÃY THỞ SÂU HƠN, BẠN ĐANG HỒI HỘP ĐẤY
    Sáng sớm ngày mồng một tháng năm, bị thôi thúc bởi khát vọng hoạt động quen thuộc, Viktor Mikhailovich Polesov chạy ra đường phố và phóng về trung tâm. Ban đầu các tài năng đa dạng của ông không được xử dụng đúng thích đáng, bởi vì dân chúng thưa thớt và các lễ đài có chiến sĩ công an cưỡi ngựa canh gác vẫn còn vắng vẻ. Nhưng khoảng chín giờ sáng thì các đường phố khác nhau, các dàn nhạc đã cất tiếng rộn rã, náo nhiệt. Các bà nội trợ từ trong nhà túa ra.
    Một đội nhạc, mặc áo cổ bẻ, không rõ bằng cách nào len vào giữa đoàn diễu hành của công nhân đường sắt, cứ quẩn vào chân và làm phiền họ.
    Chiếc xe vận tải khoác đầu máy xe lửa che kín phía ngoài, làm bằng ván sơn xanh, theo sêri, cứ luôn luôn thúc vào sau lưng đội nhạc. Từ trong bụng đầu máy vang ra tiếng nói rất to, hướng về tốp nhạc công cầm sáo và kèn ôboa:
    - Ai chỉ huy các anh? Đoàn các anh đi đường khác kia mà. Các anh có thấy các anh len vào đây làm nghẽn cả đường hay chưa?
    Lúc ấy, tai hại thay cho đội nhạc công, Viktor Mikhailovich Polesov lên tiếng can thiệp:
    - Dĩ nhiên, các anh phải rẽ vào cái ngõ cụt này! Ngày hội mà cũng không biết cách tổ chức! - Polesov quát to: - Rẽ vào đây! Rẽ vào đây! Chẳng còn ra thể thống gì cả!
    Xe vận tải của sở công trình công cộng và công trường Melstroi chở đầy trẻ em. Những em bé nhất đứng ngoài thành xe, những em lớn hơn đứng ở giữa. Các chiến sĩ tương lai ưỡn ngực, cố đi đều bước. Chật chội, ồn ào, nóng nực. Chốc chốc, đoàn người bị tắc nghẽn, rồi lại tản thông ngay. Để giết thời gian lúc phải đứng chờ, người ta bế các cụ già và các cán bộ cốt cán tung lên. Các cụ ông kêu lí nhí như các cụ bà. Các cán bộ cốt cán thì bay lên lặng lẽ với vẻ mặt nghiêm túc. Ở một tốp người vui tính nọ, lúc Viktor Polesov lách ngang qua đấy, mọi người tưởng lầm ông ta là vị chỉ huy, bèn hò nhau tung ông ta lên. Polesov giãy giụa chân tay như một gã hề.
    Người ta khiêng hình nộm của bộ trưởng Sămbéclanh của nước Anh, một công nhân bắp tay cuồn cuộn dùng một cái búa bằng các-tông nện liên tục vào hình nộm.
    Ba đoàn viên Com-xô-mon mặc áo đuôi tôm, đeo găng tay trắng ngồi trên ô tô đi qua. Họ ngượng nghịu nhìn đám đông.
    - Vaska! - Người đứng trên hè phố gọi to - đồ tư sản! Quẳng cái dây đeo quần xuống đây!
    Các cô gái cất tiếng hát. Trong đoàn cán bộ bảo hiểm xã hội, Alkhen đi với chiếc băng đỏ to tướng trên ngực và trầm ngâm kéo dài giọng hát:
    Nhưng từ rừng Taiga đến bờ biển nước Anh
    Hồng quân, hồng quân mạnh hơn tất cả!...
    Đoàn vận động viên thể dục thể thao hô to mấy câu gì đó theo lệnh.
    Tất cả xe và người đều đổ về đề-pô xe điện mới, mà từ đó, vào đúng một giờ trưa hôm nay, toa xe điện đầu tiên ở Stargorot phải chạy ra.
    Không ai biết chính xác khi nào người ta bắt đầu xây dựng đường xe điện ở Stargorot.
    Ấy là vào năm hai mươi, khi bắt đầu những ngày lao động cộng sản chủ nghĩa, anh chị em công nhân xưởng đề-pô và nhà máy dây cáp đã tới khu Gusisa trong tiếng nhạc rộn ràng và đã suốt ngày đào những chiếc hố gì đó.
    Họ đào rất nhiều hố to và sâu.
    Một đồng chí đội chiếc mũ lưỡi trai kỹ sư chạy đi chạy lại giữa những người đang làm việc. Mấy tay tổ trưởng thi công cầm những cái sào sơn nhiều màu khác nhau bám theo viên kỹ sư. Ngày lao động cộng sản chủ nghĩa tiếp sau, họ lại làm việc ở chính chỗ cũ. Hai cái hố đào không đúng nơi quy định buộc phải lấp đi. Đồng chí kỹ sư quát tháo với các tay tổ trưởng và yêu cầu họ giải thích nguyên nhân. Những cái hố mới được đào sâu hơn và rộng hơn.
    Sau đó người ta chở gạch đến, và xuất hiện những công nhân xây dựng thực thụ. Họ bắt đầu đào móng. Sau đấy chẳng thấy làm gì nữa. Đồng chí đội mũ kỹ sư thỉnh thoảng có tới công trường vắng bóng người và đi đi lại lại hồi lâu dưới lòng hố móng lát gạch, miệng lẩm bẩm:
    - Hạch toán kinh tế đây.
    Ông dùng gậy gõ gõ, chọc chọc xuống nền móng rồi chạy về nhà, về nội thành, hai tay đưa lên che hai cái tai rét cóng.
    Viên kỹ sư tên là Treukhov...
    Cái ga xe điện, mà việc xây dựng nó bị đình lại khi mới làm xong nền, được Treukhov nghĩ ra từ lâu. Hai năm sau, Treukhov lại mở đợt đột phá tòa thị chính lần nữa, nhưng chiến tranh bùng nổ. Sau chiến tranh, đến cách mạng ngăn trở. Và bây giờ thì nó bị ngăn trở bởi chính sách kinh tế mới, bởi hạch toán kinh tế và nguyên tắc tự hoàn vốn. Cái nền mọc đầy hoa cỏ vào mùa hè, còn mùa đông thì trẻ con đắp lên đó những núi băng nho nhỏ.
    Treukhov mơ ước một sự nghiệp lớn. Ông chán ngấy cái cảnh làm việc ở sở công trình công cộng Stargorot, sửa chữa các vỉa hè và lập dự toán xây dựng các bệ áp-phích. Nhưng sự nghiệp lớn chả thấy đâu. Bản thiết kế đường xe điện lại được đưa ra nghiên cứu, xét duyệt ở các cấp cao nhất của tỉnh, được thông qua rồi lại bị bác bỏ, được gửi lên trung ương phê chuẩn, nhưng dù được thông qua hay không, thì nó vẫn nằm đấy, phủ đầy bụi bặm, bởi vì chả ai cấp kinh phí cho nó.
    - Dã man, thế là dã man! - Treukhov quát vợ. - Không có tiền à? Thế tốn bao nhiêu tiền để trả cho bọn xe thồ chở hàng ra ga thì có ư? Bọn xe thồ lột da của người sống lẫn người chết! Đúng là độc quyền ăn cướp! Thì cứ thử vác một bao hàng đi bộ năm cây số ra ga xem nào!... Làm đường xe điện thì chỉ sáu năm sau là hoàn đủ số vốn bỏ ra thôi!
    Bộ ria lốm đốm bạc của ông vểnh lên giận dữ. Cái mũi hếch phập phồng. Ông rút từ ngăn kéo bàn ra một tờ giấy xanh vẽ đồ án thiết kế và cáu kỉnh chìa vào mặt vợ có đến hàng ngàn lần. Nào bản vẽ ga tàu điện, nào bản vẽ đề-pô và mười hai tuyến đường xe điện.
    - Ừ thì mặc xác mười hai tuyến! Sau hẵng hay! Nhưng chỉ cần ba, ba tuyến thôi. Không có ba tuyến xe điện, thành phố sẽ không còn là thành phố nữa.
    Treukhov chép miệng và đi xuống bếp chẻ củi.
    Toàn bộ công việc nội trợ đều do ông đích thân đảm nhiệm. Ông đã thiết kế và xây dựng một cái nôi cho con và một cái máy giặt. Ban đầu, ông tự giặt lấy, vừa giặt vừa giảng giải cho vợ cách điều khiển chiếc máy ấy như thế nào. Ít nhất thì một phần năm tiền lương của Treukhov cũng bị tiêu tốn vào việc đặt mua sách báo kỹ thuật nước ngoài. Để khỏi sa vào cảnh nghèo đói, ông đã cai thuốc lá.
    Treukhov lôi cả bản thiết kế của mình lên gặp vị giám đốc mới của sở công trình công cộng Stargorot là đồng chí Gavrilin mới chuyển công tác từ Samarkand đến. Vị giám đốc mới này da ngăm ngăm vì ánh nắng xứ Turkestan, nghe Treukhov hàng tiếng đồng hồ, nhưng không có vẻ chú ý lắm. Anh ta lơ đễnh xem lại tất cả các bản vẽ; rồi nói:
    - Ở vùng Samarkand của tôi chả cần gì tàu điện cả. Ở đấy mọi người đều cưỡi lừa. Mỗi con lừa giá ba rúp, rẻ ơi là rẻ. Thế mà thồ được hàng tạ!... Con vật bé bỏng mà khỏe lạ lùng!
    - Thế mới được gọi là châu Á! - Treukhov giận dữ nói. - Con lừa giá ba rúp, nhưng nuôi nó tốn những ba chục rúp một năm.
    - Thế ba chục rúp mà đi tàu điện của ông thì được bao nhiêu lần? Ba trăm lần. Nghĩa là trong một năm, không phải này nào cũng được đi tàu điện.
    - Thì ông hãy đặt mua một lũ lừa cho mình đi! - Treukhov nói to và chạy ra khỏi phòng, đóng cửa cái sầm.
    Từ ngày ấy ông giám đốc mới có thói quen là mỗi khi gặp Treukhov, ông lại hỏi đùa:
    - Thế nào, ông kỹ sư, ta đặt mua lừa hay là xây dựng tàu điện?
    Mặt Gavrilin trông giống một củ cải gọt vỏ nhẵn nhụi. Cặp mắt nheo nheo tinh quái.
    Hai tháng sau, Gavrilin gọi Treukhov đến gặp mình và nghiêm trang nói:
    - Tôi đã vạch một kế hoạch nhỏ. Tôi biết rõ một điều là không có tiền, rằng tàu điện không phải ngang giá một con lừa, ba rúp không mua nổi tàu điện. Phải có cơ sở vật chất. Vậy giải quyết bằng cách nào? Hội cổ phần! Cách nào nữa? Đi vay trả lãi. Sau mấy năm thì tàu điện được hoàn vốn?
    - Tính từ ngày đưa vào sử dụng ba tuyến đường đầu tiên thì mất sáu năm.
    - Thôi, ta cứ coi là sau mười năm. Bây giờ bàn về hội cổ phần. Ai sẽ tham gia? Tơ-rớt chăn nuôi gia cầm này. Công ty bơ này. Nhà máy làm dây cáp có cần tàu điện không? Có chứ! Ta sẽ dùng tàu điện chở hàng ra tận ga xe lửa cho họ. Nghĩa là cả nhà máy làm dây cáp! Bộ dân ủy giao thông có thể sẽ cho ta ít tiền. Rồi ban chấp hành Xô viết thành phố cho một ít. Chắc chắn như vậy. Khi ta khởi công, ngân hàng nhà nước sẽ cho vay tín dụng. Đó, kế hoạch nhỏ của tôi là như thế đấy. Thứ sáu này đoàn chủ tịch ban chấp hành Xô viết tỉnh sẽ bàn. Nếu được thông qua là ta bắt tay làm luôn.
    Tối hôm ấy Treukhov xúc động giặt giũ quần áo đến khuya và giảng giải cho bà vợ nghe những ưu việt của giao thông bằng tàu điện so với việc dùng súc vật kéo.
    Hôm thứ sáu, vấn đề được thông qua. Và những nỗi đau khổ bắt đầu. Vất vả lắm mới lập được cái hội cổ phần. Bộ dân ủy giao thông lúc thì tham gia, lúc lại không. Tơ-rớt chăn nuôi gia cầm tìm mọi cách từ chối đóng góp 15% cổ phần và chỉ nhận 10%. Cuối cùng thì toàn bộ số cổ phần cũng được phân chia xong, dù rằng không tránh khỏi một cuộc xung đột. Vì chuyện gây sức ép, Gavrilin đã bị gọi lên ủy ban thanh tra tỉnh. Song mọi việc đều trót lọt. Chỉ còn việc khởi công.
    - Nào, đồng chí Treukhov, - Gavrilin nói - bắt đầu đi. Ông có cảm thấy ông xây dựng được không đấy? Này, không dễ như chuyện mua lừa đâu nhé.
    Treukhov lao vào công việc. Đã bắt đầu cái sự nghiệp vĩ đại mà bao năm nay ông hằng mơ ước. Ông viết các bản dự toán, lập kế hoạch thi công, thảo các đơn đặt hàng. Các khó khăn như nảy sinh ở chỗ mà người ta ít chờ đợi chúng hơn cả. Stargorot không có thợ đổ bê tông lành nghề, phải mời số thợ ấy từ Lêningrat về. Gavrilin thúc giục, nhưng các nhà máy hứa rằng phải một năm rưỡi sau mới có thể cung cấp máy móc. Mà chậm nhất là sau một năm đã phải có máy móc rồi. Đành phải dọa rằng sẽ đặt mua máy của nước ngoài, họ mới chịu theo ý mình. Tiếp đến những chuyện bực mình nhỏ hơn. Khi thì không tìm đâu ra loại sắt có kích thước cần dùng, khi thì người ta chở đến những thanh tà vẹt chưa được ngâm tẩm. Treukhov phải đích thân đến xí nghiệp chế tạo tà vẹt và chứng minh cho họ thấy rằng 60% tà vẹt thuộc loại phế phẩm. Loại bằng gang thì thủng lỗ chỗ, loại bằng gỗ thì còn ẩm nguyên. Đường ray tốt đấy, nhưng cung cấp chậm hàng tháng trời. Gavrilin thường đáp chiếc xe "Fiat" cũ kỹ, ọc à ọc ạch của mình đến công trường xây dựng đề-pô. Tại đây Gavrilin và Treukhov hay to tiếng với nhau.
    Trong thời gian xây dựng đề-pô và lắp đặt xưởng làm xe điện, dân chúng Stargorot tha hồ buông lời giễu cợt.
    Trên tờ báo "Sự thật Stargorot", nhà văn châm biếm nổi tiếng khắp thành phố là Prints Đatski, với bút danh "Bánh Lái", chuyên viết tiểu phẩm về các vấn đề xe điện. Ít nhất ông viết ba bài mỗi tuần về tiến trình xây dựng. Cột thứ ba của tờ báo cứ nhan nhãn những cái tít đầy hoài nghi: "Chẳng thấy hơi hướng câu lạc bộ", "Những điểm yếu kém", "Kiểm tra cũng cần đấy, nhưng có nên kéo bầu đoàn thê tử hay không?", "Tốt và... xấu", "Ta mừng cái gì và không mừng cái gì", "Chặn tay những kẻ phá rối nền giáo dục", "Đã đến lúc chấm dứt biển giấy tờ", nay bắt đầu tặng độc giả những cái tít mới đầy nhuệ khí của "Bánh Lái" như: "Chúng ta xây dựng như chúng ta đang sống", "Công trình khổng lồ sắp hoạt động", "Người xây dựng khiêm tốn", vân vân và vân vân.
    Treukhov run run giở số báo ra và với cảm giác ghê tởm những người anh em làng báo, ông đọc những dòng sảng khoái viết về mình:
    "Tôi leo lên các vì kèo. Gió thổi lùng bùng trong lỗ tai. Đứng trên cao là ông ta, người kỹ sư xây dựng xí nghiệp tàu điện khổng lồ của chúng ta, một kẻ hình dáng xấu xí, mũi hếch, gầy nhom, đầu đội một chiếc mũ nhếch nhác.
    Tôi chợt nhớ đến câu thơ: "Anh đứng trên bờ sóng sa mạc, với ngập tràn những suy ngẫm vĩ đại".
    Tôi tiến lại gần. Không một làn gió nhẹ. Cái vì kèo chả chịu rung rinh gì hết.
    Tôi hỏi:
    - Các anh có hoàn thành nhiệm vụ được không?
    Bộ mặt xấu xí của nhà xây dựng, kỹ sư Treukhov, sinh động hẳn lên.
    Ông ta bắt tay tôi và nói:
    - Bảy chục phần trăm nhiệm vụ đã được hoàn thành.
    Và bài báo kết thúc như sau:
    Ông ta bắt tay tôi lúc chia tay... Những cái vì kèo kêu vo vo.
    Công nhân đi đi lại lại.
    Ai có thể quên được không khí sôi sục của một công trường xây dựng, quên được hình dáng cặm cụi của người thợ xây dựng của chúng ta.
    "Bánh Lái"
    Rất may cho Treukhov là ông không có thời gian đọc báo và đôi khi có thể bỏ qua các bài viết của đồng chí "Bánh Lái"
    Một lần Treukhov không chịu nổi nữa, đã viết lời phủ nhận với nội dung cay độc, sau nhiều phút suy nghĩ kỹ lưỡng. Ông viết:
    "Dĩ nhiên, cái bu-lông không thể gọi là cái trục truyền động, nhưng đó là sự nhầm lẫn chỉ của những kẻ không hiểu tí gì về công tác xây dựng. Sau nữa, tôi muốn lưu ý đồng chí "Bánh Lái", rằng các vì kèo chỉ rung rinh và kêu vo vo khi nào công trình xây dựng sắp đổ sụp mà thôi. Không dưng vô vớ mà tả như vậy thì chẳng khác gì bảo rằng cây đàn vi-ô-lông có thể đẻ con. Xin đồng chí "Bánh Lái" phát ngôn thận trọng cho."
    Sau bài này, nhà báo Prints Đatski thôi không đến công trường, nhưng những bài ký của ông ta vẫn tiếp tục tô điểm cho cột thứ ba của tờ báo và nổi bật với những cái tít đại loại như: "15000 rúp đang han rỉ", "Những túp lều - nhà ở", "Vật liệu than khóc", "Chuyện tức cười và giọt nước mắt".
    Việc xây dựng sắp hoàn thành. Các đường ray được hàn liền với nhau theo phương pháp hàn lửa không còn tí kẽ hở nào suốt một đoạn dài từ ga xe lửa đến lò sát sinh và từ chợ trời đến nghĩa trang.
    Ban đầu lễ khánh thành đường ray xe điện được dự định làm vào dịp kỷ niệm chín năm cách mạng tháng Mười, nhưng nhà máy chế tạo toa xe viện cớ thiếu sắt, không cung cấp các toa xe đúng hạn. Đành phải lùi buổi lễ đến dịp mồng một tháng năm, đến ngày ấy thì tất cả mọi thứ đều đã xong xuôi.
    Hai thành viên của hợp đồng tha thẩn cùng với đoàn diễu hành đi tới Gusisa. Cả Stargorot đã tụ tập về đây. Tòa nhà mới của đề-pô được viền xung quanh bằng những cây lá nhọn, những lá cờ bay phần phật, gió đùa giỡn trên các băng khẩu hiệu. Một chiến sĩ công an cưỡi ngựa phi nước đại đến chỗ gã bán kem đầu tiên, - gã này chẳng hiểu bằng cách nào lọt vào khoảng đất trống do một hàng rào nhân viên ngành xe điện canh gác. Giữa hai cánh cổng lớn của đề-pô nổi cao lên một lễ đài, nói đúng hơn là một diễn đàn tạm bợ, được gắn một chiếc loa phóng thanh. Các đại biểu tiến lại bên lễ đài. Dàn nhạc khí của sở công trình công cộng và nhà máy dây cáp đang thử sức bộ phổi của mình. Một chiếc trống đặt nằm dưới đất.
    Trong khu vực đề-pô sáng sủa, nơi có mười toa xe điện màu xanh nhạt, được đánh số từ 701 đến 710, một phóng viên từ Mátxcơva về, đầu đội mũ cát-két dạ, đang thong thả đếm bước. Trên ngực đeo một chiếc máy ảnh mà cứ chốc chốc anh ta lại chăm chú nhòm vào đó như lúc soi gương. Phóng viên đang tìm kỹ sư trưởng để phỏng vấn mấy câu về đề tài xe điện. Mặc dù trong đầu đồng chí phóng viên, bài ký về lễ khánh thành đường xe điện kèm theo đề cương các bài diễn văn sắp đọc đã chuẩn bị xong xuôi, song anh ta vẫn tiếp tục quan sát và thấy rằng ở đây chỉ có một thiếu sót là không có căng-tin.
    Đám đông ca hát, kêu thét ầm ĩ và gặm nhấm các thứ quả có hột trong khi chờ đợi tàu điện ra mắt.
    Đoàn chủ tịch ban chấp hành Xô viết tỉnh bước lên lễ đài. Prints Đatski ấp úng trao đổi vài câu với đồng nghiệp từ Mátxcơva về. Mọi người đang chờ mong nhóm quay phim thời sự của thủ đô.
    - Thưa các đồng chí! - Gavrilin nói - Xin tuyên bố khai mạc buổi mít tinh trọng thể nhân dịp khánh thành tàu điện Stargorot.
    Những chiếc kèn đồng chao qua chao lại, thở dồn dập và thổi liền ba lần bài "Quốc tế ca".
    Gavrilin nói to:
    - Xin giới thiệu đồng chí Gavrilin lên báo cáo!
    Prinst Đatski-"Bánh Lái" - và vị khách Mátxcơva không ai bảo ai, cùng ghi vào sổ tay của mình.
    "Buổi mít tinh trọng thể được mở đầu bằng bản báo cáo của giám đốc sở công trình công cộng Stargorot, đồng chí Gavrilin. Công chúng lắng nghe".
    Hai phóng viên là những người hoàn toàn khác nhau. Vị khách Mátxcơva còn trẻ, chưa vợ, Prinst-"Bánh Lái" thì đã có một gia đình đông con, đã sang cái tuổi ba mươi từ lâu. Một người luôn luôn sống ở Mátxcơva, người kia chưa đến Mátxcơva bao giờ. Một người thích bia, còn "Bánh Lái" thì ngoài rượu vốt-ca, không uống loại nào khác. Song mặc dù có sự khác nhau ấy về tính nết, thói quen, tuổi tác và sự giáo dục, ấn tượng của cả hai phóng viên đều được đúc kết bằng những câu văn sáo rỗng, nhàm chán. Ngòi bút của họ ngoáy lia lịa, và trong sổ tay hiện lên dòng chữ mới: "Trong ngày hội này, đường phố Stargorot dường như rộng thêm ra..."
    Gavrilin mở đầu bài diễn văn của mình một cách đơn giản và hấp dẫn.
    - Xây dựng tàu điện - Gavrilin nói - đó không phải là chuyện mua lừa.
    Trong đám đông đột nhiên nổ ra tiếng cười ha hả của Ostap Benđer. Hắn đánh giá cao câu nói ấy. Phấn khởi vì được hưởng ứng, Gavrilin bỗng dưng nói về tình hình thế giới, chính anh cũng chẳng hiểu vì sao mình làm như vậy. Đã mấy lần anh ta cố đưa bản báo cáo chạy trên đường ray tàu điện, nhưng đều kinh hãi nhận ra rằng mình không tài nào làm nổi việc đó. Những câu nói, tự chúng, trái với ý muốn của diễn giả, hóa thành những câu mang tầm cỡ quốc tế. Sau Sămbéclanh (kẻ được Gavrilin dành cho nửa tiếng), thì nghị sĩ Bôra của nước Mỹ bước ra vũ đài quốc tế. Công chúng sững sờ. Hai phóng viên đồng loạt ghi chép "Bằng những câu nói đầy hình ảnh, diễn giả miêu tả tình hình quốc tế của Liên bang Xô viết chúng ta...". Hăng máu lên, Gavrilin tung ra những nhận định xấu xa về bọn đại điền chủ ở Rumani, rồi chuyển sang Mussolini. Mãi đến cuối bài diễn văn anh ta mới khắc phục được cái bản tính quốc tế thứ hai của mình để quay về với những lời nói thực tế dễ lọt tai:
    - Thưa các đồng chí, cho nên tôi nghĩ rằng chuyến tàu điện đầu tiên sắp từ đề-pô chạy ra là nhờ công lao của ai? Thưa các đồng chí, dĩ nhiên là nhờ các đồng chí, nhờ tất cả những người công nhân thực sự làm việc không phải vì sợ roi vọt, mà vì lương tâm, các đồng chí ạ. Ngoài ra, thưa các đồng chí, còn nhờ một chuyên gia Xô viết trung thực, ấy là kỹ sư trưởng Treukhov. Xin cám ơn cả Treukhov nữa!...
    Mọi người đổ xô đi tìm Treukhov, nhưng không thấy. Đại diện các nhà máy bơ, một người sốt ruột chờ đến lượt mình phát biểu từ lâu, lén ra lan can của lễ đài, vung tay và nói rất to về tình hình thế giới. Khi bài diễn văn của vị này chấm dứt, cả hai phóng viên dỏng tai nghe mấy tiếng vỗ tay lẹt đẹt, đã ghi rất nhanh vào sổ: "... tiếng vỗ tay rầm rộ nổi lên như sóng cồn...". Sau đó hai người cầm bút nghĩ lại về mấy chữ "nổi lên như sóng cồn"... ngại rằng viết như thế hơi quá tay chăng. Anh phóng viên Mátxcơva bèn quả quyết xóa mấy chữ ấy đi. "Bánh Lái" thì thở dài không xóa.
    Mặt trời đã xế chiều. Trên diễn đàn, các đại biểu vẫn chúc mừng. Dàn nhạc chốc chốc lại nổi lên nhạc chào. Ánh nắng sắp tắt, mà buổi mít tinh vẫn tiếp diễn. Cả người nói lẫn người nghe đều cảm thấy đã xảy ra chuyện gì trục trặc, cuộc mít tinh đã quá lâu, phải mau chóng cho tàu điện ra mắt. Nhưng mọi người đã quen nói đến mức không thể ngừng lại được.
    Cuối cùng người ta tìm thấy Treukhov lấm lem dầu mỡ. Trước khi bước ra diễn đàn, ông phải rửa mặt mũi chân tay khá lâu trong văn phòng.
    Gavrilin vui mừng báo tin:
    - Mời đồng chí kỹ sư trưởng Treukhov lên phát biểu! Nào, ông nói đi, kẻo tôi cứ nói toàn chuyện đâu đâu, - câu sau anh ta nói nhỏ với Treukhov.
    Treukhov muốn nói nhiều điều. Nói về những ngày lao động cộng sản chủ nghĩa, về công việc nặng nhọc, về tất cả những gì đã làm và còn có thể làm. Mà những việc có thể làm được thì không ít: nào giải phóng thành phố khỏi cái thứ chợ trời hay lây, nào xây dựng các chợ có mái che, nào xây dựng chiếc cầu cố định thay thế cho chiếc cầu tạm bợ mà năm nào cũng bị băng cuốn trôi, cuối cùng có thể thực hiện các dự án thiết kế một lò mổ lớn có thiết bị ướp lạnh.
    Treukhov há miệng, ngập ngừng nửa phút, rồi nói:
    - Thưa các đồng chí, tình hình thế giới của nước ta...
    Tiếp đó, ông tuôn ra hàng tràng những chân lý sơ đẳng khiến cho đám đông đã nghe năm bài diễn văn về tình hình thế giới đành phải tỏ thái độ lạnh nhạt. Phát biểu xong, Treukhov mới sực hiểu rằng ông chưa nói lời nào về tàu điện cả. "Vớ vẩn thật, - ông nghĩ thầm, - quả thật chúng ta không biết nói năng, tuyệt đối không biết".
    Rồi ông nhớ lại lời phát biểu của một người cộng sản Pháp mà ông được nghe tại một cuộc họp ở Mátxcơva. Người ấy nói về báo chí tư sản. "Những diễn viên hào lộn ấy, những chuyên gia tung hứng ấy, những cái máy rôtatíp ấy..." Phần đầu bài phát biểu người Pháp dùng nốt la, phần thứ hai dùng nốt đô và phần kết, phần bi tráng nhất thì hạ xuống nốt mi. Điệu bộ của anh ta rất khoan thai và đẹp mắt.
    "Còn ta thì nói năng vớ vẩn, - Treukhov tự phê phán, - lẽ ra chẳng nên đăng đàn làm gì."
    Trời đã tối hẳn thì đồng chí chủ tịch ban chấp hành Xô viết tỉnh mới cầm kéo cắt chiếc băng đỏ chăng ngang của đề-pô. Anh em công nhân và đại biểu các tổ chức xã hội bắt đầu ồn ào leo lên các toa tàu điện. Mấy tiếng chuông rung leng keng, rồi toa tàu thứ nhất do đích thân Treukhov lái chạy ra khỏi đề-pô giữa tiếng reo hò của công chúng và tiếng rền rĩ của dàn nhạc. Những toa tàu sáng rực hơn cả ánh sáng ban ngày. Chúng nối đuôi nhau chạy qua dưới gầm chiếc cầu xe lửa ở khu Gusisa, nhẹ nhàng chạy vào nội thành và ngoặt sang đại lộ Đại Puskin. Dàn nhạc ngồi ở toa số hai, các nhạc công chĩa kèn ra ngoài cửa sổ, tấu hài hành khúc Budiônưi
    Gavrilin mặc chiếc áo tu-giua-ca của người soát vé, chiếc xà cột có dây vắt qua vai, nhảy từ toa này sang toa kia, mỉm cười thân ái, rung chuông không đúng lúc và trao cho hành khách những chiếc vé mời.
    VÉ MỜI ĐI DỰ DẠ HỘI TRỌNG THỂ
    Ngày 1 tháng 5 vào lúc 9 giờ tối
    Tại câu lạc bộ sở công trình công cộng
    tổ chức kèm theo chương trình sau đây:
    1- Báo cáo của đồng chí Mosin
    2- Sở công trình công cộng tặng bằng khen.
    3- Phần liên hoan: ca nhạc và liên hoan mặn thân mật.
    Ở bậc lên xuống của toa cuối cùng, Viktor Mikhailovich Polesov đang đứng đó, không rõ bằng cách nào ông ta lọt được vào số hành khách danh dự của chuyến tàu này. Polesov ngửi ngửi cái động cơ và cực kỳ kinh ngạc vì thấy nó không chỉ đẹp về hình thức mà còn chạy tốt. Kính cửa không hề rung. Nhìn kỹ, Polesov mới nhận ra rằng đó là nhờ cửa kính có đệm cao su.
    Ông ta đã lên tiếng góp ý mấy lần với nhân viên phụ trách toa và được công chúng coi là một chuyên gia về tàu điện ở phương tây.
    - Phanh không khí làm việc tồi lắm - Polesov vừa tuyên bố, vừa đắc thắng nhìn hành khách, chả thấy "ăn" gì cả.
    - Không ai hỏi ý kiến ông, - người phụ trách toa nói, - Ăn hay không còn tùy.
    Sau khi chạy một tua trong thành phố, các toa tàu trở về đề-pô nơi công chúng vẫn đứng chờ. Người ta công kênh Treukhov dưới ánh sáng rực rỡ của các ngọn đèn điện. Người ta cũng công kênh cả Gavrilin, nhưng vì anh ta nặng đến sáu pút 1, không bay cao được, nên lát sau họ buông anh ta ra. Người ta công kênh đồng chí Mosin, các cán bộ kỹ thuật và công nhân. Viktor Polesov lại được công kênh, đây là lần thứ hai trong ngày. Lần này ông ta không khua khoắng hai chân nữa mà nghiêm trang và chăm chú hướng lên bầu trời đầy sao, người bay bổng trong bóng tối. Đang chuẩn bị kế hoạch bay một lần nữa, thì Polesov nhận ra rằng người đang túm chân ông ta và cười khùng khục chẳng phải ai khác, mà chính là ngài cựu đô thống Ippolit Matveevich Vorobjaninov. Polesov bèn nhẹ nhàng gỡ tay Ippolit ra, lánh sang một bên, nhưng mắt thì dán chặt vào ngài cựu đô thống. Thấy Ippolit cùng với một người lạ mặt trẻ tuổi, chắc hẳn là sĩ quan quân đội cũ, bỏ ra về, Polesov liền thận trọng bám theo họ.
    Khi tất cả đã xong xuôi và Gavrilin đã ngồi trong chiếc xe Fiat màu tím của mình chờ kỹ sư Treukhov đang ra những mệnh lệnh cuối cùng, để cùng về câu lạc bộ, thì một chiếc xe Pho nửa du lịch, nửa vận tải, chở các nhà quay phim thời sự, chạy vào cổng đề-pô.
    Từ trong xe một người đàn ông đeo kính gọng sừng thập nhị giác, mặc chiếc áo da cộc tay rất điệu, khéo léo nhảy ra. Bộ râu dài và nhọn của ông ta mọc thẳng từ yết hầu ra. Người đàn ông thứ hai lễ mễ bưng ra chiếc máy quay phim, anh ta quàng một chiếc khăn phu-la dài loằng ngoằng theo cái kiểu mà Ostap Benđer quen gọi là "siêu mô-đéc". Tiếp đó, từ trong xe chui ra các vị trợ lý, nhân viên phụ trách đèn pha và mấy cô gái.
    Cả tốp làm phim í ới chạy bổ vào đề-pô.
    - Chú ý! - Người đàn ông mặc áo da, râu nhọn hét to - Kôlia, rọi đèn pha đi!
    Treukhov ngập ngừng tiến về phía các vị khách đến muộn.
    - Các đồng chí xưởng phim phải không? - Ông hỏi - Sao các đồng chí không đến lúc ban ngày?
    - Thế lễ khánh thành dự kiến vào lúc mấy giờ?
    - Làm lễ xong cả rồi.
    - À, à, chúng tôi bị chậm một chút. Chả là thời tiết đẹp quá mà. Công tác lại nhiều. Cảnh hoàng hôn đẹp tuyệt trần! Nhưng không sao, bọn tôi biết cách chu đáo. Nào, Kôlia! Rọi đèn pha đi! Bánh xe đang quay! Chiếu đèn rộng nữa ra! Những bước chân rầm rập của đám đông! Rộng nữa ra! Linda đâu! Mila đâu! Bước qua chỗ ống kính đi! Kôlia! Nào, rọi đèn đi! Các cô bước cho hùng dũng xem nào! Đi đi, đi đi, đi đi... Được rồi. Cám ơn. Bây giờ ta sẽ quay hình ảnh nhà xây dựng. Đồng chí Treukhov? Nào, xin đồng chí Treukhov làm ơn giúp bọn tôi một tay! Không, không, thế này kia. Ngẹo đầu một chút nữa! Thế... thế, dịch sang phải để lấy nền tàu điện... Kôlia! Rọi đèn đi! Đồng chí nói cho vài câu đồng chí Treukhov!...
    - Tôi ấy à, nó cứ mất tự nhiên thế nào ấy!...
    - Tuyệt, tuyệt vời! Hay quá! Đồng chí nói nữa đi! Bây giờ đồng chí hãy nói với nữ hành khách đầu tiên nhé... Linda! Bước lại gần ống kính đi! Thế. Thở sâu vào nào, các bạn đang hồi hộp quá đấy! Kôlia!... Rọi đèn xuống chân! Quay đi! Thế... thế... cám ơn lắm! Stốp!
    Gavrilin nặng nề chui ra khỏi chiếc Fiat nổ máy từ lâu, để gọi ông kỹ sư lề mề. Ông đạo diễn có yết hầu đầy râu phấn chấn hẳn lên.
    - Kôlia! Lại đây! Cảnh này mới tuyệt đây! Công nhân đâu! Hành khách đâu! Xin các vị thở sâu cho. Các vị đang xúc động đấy. Các vị chưa từng đáp tàu điện mà lại! Nào! Thở cho sâu vào!
    Gavrilin khó chịu hít một hơi dài.
    - Tuyệt đỉnh!... Mila, lại đây, cô em! Thay mặt cho đoàn Com-xô-môn chúc mừng đi!... Thở cho sâu nào!... Các bạn đang xúc động quá đấy. Thế!... Hay lắm. Kôlia, xong rồi!
    - Thế có quay toa tàu không ạ? - Treukhov ngập ngừng hỏi.
    - Đồng chí thấy đấy, - vị đạo diễn mặc áo da ấp úng, - điều kiện ánh sáng không cho phép... phải về quay cảnh tàu điện ở Mátxcơva vậy. Cám ơn!
    Tốp làm phim biến mất trong chớp mắt.
    - Thôi, ta đi nghỉ thôi, anh bạn, - Gavrilin nói - Sao, ông lại hút thuốc lá đấy hả?
    - Vâng, lại nghiện mất rồi - Treukhov đáp - không cai nổi.
    Tại buổi liên hoan mặn, kỹ sư Treukhov đói meo và hút nhiều thuốc lá nên mới uống ba ly rượu vốt-ca đã say mèm. Ông hôn tất cả mọi người và mọi người đều hôn ông. Ông muốn nói một lời dịu dàng với vợ, nhưng lại chỉ cười ha hả. Sau đó ông lắc lắc mãi bàn tay của Gavrilin và nói:
    - Anh lạ lắm! Anh nên học thiết kế các cầu xe lửa, Gavrilin ạ. Đấy là một khoa học tuyệt diệu. Và cái chính là nó rất đơn giản, tuyệt đối đơn giản. Một chiếc cầu bắc qua sông Gutzon,...
    Nửa tiếng sau, Treukhov đã say hoàn toàn, ông cất giọng tố cáo giới báo chí tư sản:
    - Những lực sĩ tung hứng ấy, những chuyên gia nhào lộn ấy, những diễn viên Rô-ta-típ ấy,... - ông hét lên.
    Vợ ông phải thuê xe ngựa dìu ông về nhà.
    - Tôi muốn đi tàu điện cơ! - Ông bảo vợ - sao bà không thông cảm với tôi nhỉ? Nếu đã có tàu điện, thì phải đi tàu điện chứ!... Tại sao? Thứ nhất là nó rẻ...
    Polesov bám sát hai thành viên của hợp đồng, cố kìm lòng mãi, chờ tới lúc không còn ai xung quanh, mới tiến lại gần Ippolit Matveevich.
    - Chào ngài đô thống ạ! - Ông ta cung kính nói.
    Ippolit chết sững.
    - Tôi không có hân hạnh quen biết ông, - Ippolit đáp.
    Ostap khuỳnh vai phải, bước tới ông thợ nguội quý phái.
    - Sao, hắn nói, - ông muốn gì ở ông bạn của tôi?
    Polesov ngó quanh, nói nhỏ:
    - Xin hai ngài đừng lo, tôi được bà Êlêna Bour cử đến...
    - Sao? Bà ấy ở đây à?
    - Vâng, và rất mong gặp ngài.
    - Để làm gì? - Ostap hỏi - Thế ông là ai?
    - Tôi, xin ngài đô thống đừng nghĩ xấu về tôi. Ngài không biết tôi, chứ tôi nhớ ngài rõ lắm.
    - Kể ra tôi cũng muốn gặp Êlêna Bour - Ippolit ngập ngừng nói.
    - Bà ấy khẩn khoản mời ngài đến đấy ạ.
    - Nhưng làm sao bà ấy biết tôi về?...
    - Tôi gặp ngài ở hành lang sở công trình công cộng và cứ nghĩ mãi: khuôn mặt quen quá. Rồi tôi nhớ ra. Xin ngài đô thống đừng nghi ngại chi hết! Tất cả sẽ hoàn toàn bí mật.
    - Bà ta là chỗ quen biết hả? - Ostap nghiêm trang hỏi.
    - Vâng, người quen cũ.
    - Thế thì có lẽ ta ghé lại nhà người quen cũ ăn tối chăng? Bụng tôi đang đói cồn cào lên đây, mà quán ăn nào cũng đóng cửa cả rồi.
    - Có lẽ...
    - Thì đi, nào, người lạ mặt bí hiểm. Hãy dẫn chúng tôi đi.
    Polesov đưa hai thành viên của hợp đồng đi tắt qua các sân. - vừa đi vừa ngoảnh lại phía sau xem có ai theo dõi không - đến nhà mụ thầy bói ở Pereleshin.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 14: LIÊN MINH LƯỠI KIẾM VÀ LƯỠI CÀY
    Khi người đàn bà trở về già, nhiều chuyện khó chịu có thể xảy ra với bà ta: răng có thể rụng, tóc có thể bạc và thưa dần, có thể khó thở, có thể phì nộn, có thể gầy teo, nhưng giọng nói sẽ không thay đổi. Nó vẫn trong trẻo như ngày còn là cô nữ sinh trung học, là vợ chưa cưới hoặc nhân tình của một tên du đãng.
    Bởi vậy, khi Ippolit gõ cửa và Êlêna Bour hỏi vọng ra "Ai đấy?" thì Ippolit lặng tim đi. Giọng nói của người tình của ông vẫn hệt như năm một ngàn chín trăm lẻ chín, trước ngày khai trương hội chợ triển lãm ở Pari. Nhưng khi bước vào phòng và nheo mắt vì ánh sáng, Ippolit Matveevich thấy rằng vẻ đẹp ngày xưa không để lại chút dấu tích nào.
    - Chị thay đổi ghê quá, bất giác ông nhận xét.
    Bà Êlêna gục vào ngực ông.
    - Cám ơn anh, - bà nói - em biết rằng anh phải liều mình ra sao khi đến thăm em. Anh vẫn là chàng hiệp sĩ cao cả ngày xưa. Em không hề hỏi anh từ Pari về đây làm gì? Anh thấy chưa, em đâu phải là kẻ tò mò.
    - Nhưng có phải tôi từ Pari về đâu! - Ippolit bối rối nói.
    - Tôi và ông nhà đây ở Béc-lin về đấy, - Ostap bóp khuỷu tay của Ippolit, nói chữa, - xin chớ nói cho ai biết điều đó.
    - Ôi, em mừng xiết bao khi gặp anh! - Mụ thầy bói reo lên - Nào, mời anh sang phòng bên này... Còn ông Polesov, xin lỗi, độ nửa tiếng nữa ông hãy quay lại được không?
    - Ô! - Ostap nhận xét - cuộc gặp gỡ đầu tiên mà lại! Những phút giây khó nói! Xin phép cho tôi cũng được lui ra. Thưa ông Polesov đáng yêu, tôi đi cùng ông được chứ?
    Lão thợ nguội mừng rơn, kéo Ostap đến phòng mình. Tại đó, Ostap ngồi trên các mảnh cánh cổng của nhà số No5 cùng phố, bắt đầu vẽ ra trước mắt lão thợ nguội cá lẽ, sững sờ, những tư tưởng mê hoặc ngả theo chiều hướng cứu quốc.
    Một giờ sau, họ quay trở lại nhà Êlêna Bour và thấy hai kẻ già nua trở nên đờ đẫn.
    - Mình vẫn nhớ chứ, Êlêna? - Ippolit hỏi.
    - Anh vẫn nhớ đấy chứ, Ippolit? - Êlêna cũng hỏi.
    "Có lẽ đã đến thời điểm tâm lý của bữa tối rồi đây", - Ostap nghĩ bụng. Hắn ngắt lời Ippolit lúc này đang gợi lại kỳ bầu cử vào hội đồng dân biểu thành phố.
    - Ở Béc-lin có một tập quán rất lạ: người ta dùng buổi tối muộn đến nỗi chẳng hiểu đấy là ăn tối sớm hay ăn trưa muộn nữa.
    Êlêna Bour sực tỉnh, rời cặp mắt thỏ khỏi Ippolit và lê bước vào bếp.
    - Bây giờ phải hành động, hành động và hành động! - Ostap nói và hạ giọng xuống nước bí mật tuyệt đối.
    Hắn kéo tay Polesov.
    - Bà ta có đáng tin cậy không? Không phản bội chứ?
    Polesov chắp tay cung kính.
    - Tín đồ chính trị của ông phải không?
    - Thưa vâng, bà ấy luôn luôn làm theo tôi, - Polesov đáp.
    - Hy vọng ông là người theo phái Kirill chú?
    - Dạ, đúng thế, - Polesov đứng thẳng người lại.
    - Nước Nga sẽ không quên ông! - Ostap nói rành rọt.
    Ippolit tay cầm chiếc bánh ngọt, ngơ ngác nhìn Ostap, nhưng không dám ngăn hắn lại. Hắn đã bốc lên rồi. Ông vua mánh cảm thấy hứng khởi, bất chấp nguy cơ bị tố giác. Hắn đi đi lại lại trong phòng như một con hùm.
    Êlêna Bour khệ nệ bưng cái ấm xamôva từ trong bếp ra, bắt gặp hắn đang trong tâm trạng hứng khởi ấy. Ostap lịch sự bước lại gần mụ ta, đỡ lấy chiếc ấm đặt xuống bàn. Cái ấm reo ri ri. Ostap quyết định hành động.
    - Thưa bà, - hắn nói, - chúng tôi sung sướng coi bà là đại diện...
    Hắn chưa biết hắn sung sướng coi Êlêna Bour đại diện cho ai. Đành phải nhắc lại câu ấy. Trong số tất cả những câu nói xã giao quen thuộc của chế độ Sa hoàng, hắn chợt nhớ mấy tiếng "xin đại nhân cho phép". Nhưng cái này không hợp. Bởi vậy, hắn chuyển ý với nét mặt nghiêm trang.
    - Bí mật nghiêm ngặt! Bí mật quốc gia!
    Ostap chỉ Ippolit.
    - Theo bà, ông già khỏe mạnh này là ai? Thôi, bà đừng trả lời, bà không thể biết được đâu. Đấy là nhà tư tưởng khổng lồ, là cha đẻ của nền dân chủ Nga, là nhân vật kế cận Hoàng thượng.
    Ippolit đứng dậy tạo vẻ oai vệ cho cái vóc dáng tuyệt đẹp của mình và bối rối nhìn quanh. Ông chẳng hiểu mô tê gì hết, chỉ biết qua kinh nghiệm, rằng Ostap Benđer không bao giờ nói điều gì phi chủ đích, cho nên ông cứ ngậm miệng ăn tiền. Tất cả cảnh tượng này khiến cho Polesov run bắn người lên. Ông ta đứng đó, cằm hếch lên trần nhà, trong tư thế của một kẻ sẳn sàng tham gia lễ diễu binh, Êlêna Bour thì ngồi xuống ghế, sợ sệt nhìn Ostap.
    - Người của ta ở thành phố này có nhiều không? - Ostap hỏi thẳng - Tinh thần họ ra sao?
    - Khi có sự thiếu... - Polesov bắt đầu giải bày các tai họa của mình một cách lẫn lộn. Nào chuyện gã lao công bên nhà No5 đã gọi ông là đồ chó má, nào là chuyện không có cái bàn ren ba tấc tám, nào chuyện tàu điện, và vân vân.
    - Thôi được! - Ostap ngắt lời - Bà Êlêna! Chúng tôi muốn nhờ bà bắt liên lạc với những nhân vật ưu tú của thành phố mà số phận độc ác đã đẩy họ vào hoạt động bí mật. Có thể mời ai đến họp ở nhà này?
    - Có thể mời ai nhỉ? Makxim Pêtrôvich và vợ ông ta chăng?
    - Không mời vợ, - Ostap sửa lại, - Không đem theo vợ! Bà sẽ là trường hợp ngoại lệ duy nhất. Còn ai nữa?
    Qua cuộc thảo luận mà Polesov hăng hái tham gia, họ đi đến kết luận rằng có thể mời Makxim Pêtrôvich Chasushnikov, nguyên phát ngôn viên của viện Đuma thành phố, hiện đã chui được vào hàng ngũ cán bộ Xô viết, rồi đến ông chủ hợp tác xã "Đóng gói nhanh" là Điadep, rồi ông chủ nhiệm Ác-ten "Bánh vòng Odessa" "Bánh vòng Mátxcơva" là Kisliarski và hai gã trẻ tuổi không rõ họ gì, nhưng hoàn toàn đáng tin cậy.
    - Vậy tôi đề nghị mời họ đến đây hội ý ngay lập tức. Phải giữ bí mật tuyệt đối.
    Polesov nói:
    - Tôi chạy đến nhà Makxim Pêtrôvich, Nikesha và Vlađei, còn Êlêna thì nhờ bà chịu khó chạy sang tìm ông Điađep và Kisliarski.
    Polesov lao đi ngay. Mụ thầy bói say đắm nhìn Ippolit rồi cũng ra theo.
    - Thế là nghĩa gì? - Ippolit hỏi.
    - Nghĩa là ông là kẻ quá lạc hậu, - Ostap đáp.
    - Tại sao?
    - Tại vì... Xin lỗi hỏi ông một câu khốn nạn: Ông có bao nhiêu tiền?
    - Tiền gì cơ?
    - Tiền bạc. Tiền giấy, kể cả tiền làm bằng bạc và bằng đồng.
    - Ba mươi lăm rúp.
    - Và với số tiền ấy ông định trang trải toàn bộ khoản chi tiêu cho dịch vụ của chúng ta ư?
    Ippolit im lặng.
    - Thế này nhé, thưa ông chủ ngớ ngẩn. Tôi chắc ông chẳng hiểu nổi tôi đâu. Trong khoảng một giờ, ông hãy tạm sắm vai nhà tư tưởng khổng lồ, một nhân vật kế cận Hoàng thượng.
    - Để làm gì?
    - Tôi với ông cần có tư bản lưu động. Ngày mai tôi cưới vợ. Tôi không phải kẻ ăn mày. Tôi muốn mở tiệc chiêu đãi mừng cái ngày đáng ghi nhớ đó.
    - Vậy tôi phải làm gì? - Ippolit rên rỉ.
    - Ông phải câm lặng. Thỉnh thoảng phồng má lên cho có vẻ oai.
    - Nhưng như thế là lừa dối.
    - Ai nói vậy nhỉ? Bá tước Tônstôi nói thế chăng? Hay là Đácuyn? Không. Tôi nghe câu ấy từ cửa miệng một kẻ mà tối hôm qua thôi còn định đang đêm đột nhập vào phòng góa phụ Gritsasueva để ăn cắp ghế. Xin ông đừng nghĩ ngợi cho tôi nhờ. Hãy im lặng và chớ quên phồng má đấy.
    - Ngoắc vào cái chuyện tày đình này làm gì? Họ có thể tố giác ta.
    - Ông khỏi lo. Tôi đã bắt mạch là trúng phóc. Sự việc sẽ diễn biến tuyệt đến nỗi chẳng ma nào hiểu gì hết. Thôi, uống trà đi.
    Trong lúc hai thành viên hợp đồng uống và ăn, còn con vẹt nhằn hạt hướng dương, thì khách khứa lần lượt bước vào phòng.
    Nikesha và Vlađei cùng đến với Polesov. Lão thợ nguội không dám giới thiệu hai gã trẻ tuổi với nhà tư tưởng khổng lồ. Hai gã khép nép ngồi ở góc phòng và quan sát vị cha đẻ của nền dân chủ Nga xài món thịt bê nguội. Nikesha và Vlađei là hai kẻ vụng về, ngớ ngẩn. Cả hai đều ngót nghét ba mươi. Chắc hai đứa đều thích thú vì được mời đến luận bàn việc đại sự.
    Nguyên phát ngôn viên của nghị viện Duma thành phố, lão già Chasushnikov béo phục phịch, thì cứ lắc lắc mãi bàn tay của Ippolit Matveevich và nhìn vào mắt nhà tư tưởng khổng lồ. Dưới sự giám sát của Ostap, các vị cao niên của thành phố bắt đầu ôn lại quá khứ. Sau khi để họ hàn huyên chán chê, Ostap hướng về phía Chasushnikov.
    - Trước kia ngài phục vụ ở trung đoàn nào?
    Chasushnikov lúng túng:
    - Tôi... tôi, nói chung là chưa tòng ngũ, bởi vì tôi được xã hội tín nhiệm, được đề cử vào...
    - Ngài dòng dõi quý tộc chứ?
    - Vâng, có thể ngày xưa...
    - Tôi hy vọng ngày nay ngài vẫn là quý tộc. Hãy giữ vững tinh thần. Sẽ cần đến sự giúp đỡ của ngài. Polesov đã nói với ngài chưa? Nước ngoài đang giúp đỡ chúng ta. Phải nắm chắc dư luận xã hội. Tổ chức phải tuyệt đối bí mật. Chú ý!
    Ostap bảo Polesov ngồi tách ra khỏi chỗ hai gã trẻ tuổi, đoạn nghiêm khắc hỏi:
    - Hai anh trước đây ở trung đoàn cận vệ nào? Các anh sắp được phục vụ tổ quốc rồi. Hai anh thuộc dòng dõi quý tộc chứ? Hay lắm. Phương Tây sẽ viện trợ cho ta. Hãy giữ vững tinh thần. Các khoản đóng góp, nghĩa là tổ chức ấy, phải tuyệt đối giữ bí mật. Chú ý.
    Ostap lại hứng lên. Công việc xem ra trót lọt. Sau khi được bà Êlêna Bour giới thiệu với chủ nhiệm Ác-ten "Đóng gói nhanh". Ostap kéo ông ta vào một góc phòng, dặn ông ta giữ vững nhuệ khí. Hỏi ông ta ngày trước ở trung đoàn cận vệ nào, hứa hẹn ngoại bang sẽ giúp đỡ và bảo phải tuyệt đối giữ bí mật cho tổ quốc. Cảm giác đầu tiên của vị chủ nhiệm "Đóng gói nhanh" là nguyện vọng mau chóng rời khỏi căn nhà chứa đựng mưu mô xảo quyệt này. Ông ta cho rằng hãng của mình có thừa chững chạc và chắc ăn, chẳng dại gì chui đầu vào thứ áp-phe liều lĩnh này. Nhưng khi ngắm kỹ thân hình dẻo dai của Ostap, ông ta do dự và lưỡng lự: "Biết đâu đấy!... dẫu sao, tất cả còn lệ thuộc vào chỗ bàn tiệc sẽ được bày ra theo kiểu nào".
    Cuộc hội ý thân mật trở nên sôi nổi sau bàn trà. Những người tham gia đều nuôi giữ ý đồ bí mật thiêng liêng và chỉ nhắc đến các tin tức mới nhất trong thành phố.
    Người đến sau cùng là công dân Kisliarski, một kẻ hiện giờ là quý tộc và chưa từng bao giờ phục vụ ở một trung đoàn cận vệ, sau vài giờ trao đổi với Ostap đã nhận thức rõ tình thế.
    - Hãy giữ vững tinh thần, - Ostap lên lớp cho lão già Kisliarski.
    Lão già hứa hẹn. Ostap tiếp.
    - Ngài là đại diện của tư bản tư nhân, ngài chớ nên làm ngơ trước tiếng rên siết của tổ quốc.
    Kisliarski lộ vẻ buồn rầu thông cảm.
    - Ngài có biết ai ngồi kia không? - Ostap chỉ tay về phía Ippolit Matveevich.
    - Có chứ, - Kisliarski đáp - đó là ngài Ippolit.
    - Đấy là, - Ostap trịnh trọng, - nhà tư tưởng khổng lồ, người cha của nền dân chủ Nga, một nhân vật kế cận Hoàng thượng.
    "Ít nhất thì việc có mặt ở đây cũng xơi hai mươi năm tù như chơi", - Kisliarski nghĩ thầm, người run bắn lên, - "Mình tới đây làm cái quái gì nhỉ?"
    - Liên minh bí mật giữa lưỡi kiếm và lưỡi cày - Ostap thì thào hăm dọa.
    "Mười năm tù mất", - ý nghĩ ấy lóe lên trong óc lão già.
    - Ngài muốn bỏ về cũng được, nhưng xin cảnh cáo trước, tổ chức chúng tôi có thể vươn tay đến bất cứ nơi nào!
    "Tao sẽ cho mày biết tay, đồ chó đẻ" - Ostap nghĩ thầm, - "Tao phải bắt mày chi ra ít nhất một trăm rúp mới được về"
    Kisliarski hóa đá. Vừa chiều nay lão ta còn thưởng thức một bữa ăn ngon lành và bình yên. Có món gà hầm, súp đậu, chẳng biết gì về "liên minh lưỡi kiếm và lưỡi cày" đáng sợ. Lão đành ngồi lại vì mấy chữ "có thể vươn tay đến bất cứ nơi nào" đã gây nên một ấn tượng bất lợi cho lão.
    - Thưa các vị - Ostap khai mạc phiên họp, - cuộc sống đặt ra những quy luật của nó, những quy luật nghiệt ngã. Tôi sẽ không nói về mục đích phiên họp của chúng ta, vì các vị đều đã rõ. Một mục đích thiêng liêng. Chúng ta nghe tiếng rên siết vang lên từ khắp mọi nơi. Cả đất nước rộng lớn của chúng ta đang kêu cứu. Chúng ta phải giơ tay giúp đỡ, và nhất định sẽ chìa tay giúp đỡ. Một số vị ngồi đây được ăn bánh mì phết bơ, một số vị khác đi kiếm ăn ở nước ngoài. Nhưng cả hai loại đều được ngủ trên những chiếc giường có chăn ấm nệm êm. Chỉ riêng những đứa trẻ đáng thương, những đứa trẻ mồ côi là không nơi nương tựa. Chúng là những bông hoa của đường phố, hay như những người vô sản lao động trí óc vẫn gọi, chúng là những nhành hoa trên đường nhựa, chúng đáng được hưởng một cuộc sống an nhàn. Chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, được hưởng một cuộc sống an nhàn. Chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, chúng ta phải giúp đỡ chúng. Và chúng ta, thưa các ngài bồi thẩm đáng kính, chúng ta sẽ giúp đỡ chúng.
    Bài diễn văn của ông vua mánh gây cho thính giả những cảm xúc khác nhau.
    Polesov không hiểu nổi anh bạn mới của mình, - chàng sĩ quan cận vệ trẻ nữa.
    "Bọn trẻ nào?" - Ông ta nghĩ - "Sao lại bọn trẻ nhỉ?"
    Ippolit thì cố gắng không suy nghĩ gì hết. Ông đã mặc kệ từ lâu và chỉ ngồi im, thỉnh thoảng lại phồng má lên.
    Êlêna Bour sụt sịt.
    Nikesha và Vlađei say sưa ngắm cái áo gi-lê màu xanh của Ostap.
    Chủ nhiệm "Đóng gói nhanh" hết sức hài lòng "Bày bàn được lắm" - lão nghĩ, - "bày bàn kiểu này thì mất tiền cũng đáng. Nếu thành công thì mình vẻ vang! Thất bại cũng chẳng hại gì đến tôi. Tôi chỉ giúp đỡ trẻ mồ côi thôi!".
    Chasushnikov treo đổi cái nhìn đấy ý nghĩa với Điadep và tiếp tục nặn các viên bi bánh mì cho chúng lăn trên bàn: ông ta bái phục tài ăn nói bí mật của báo cáo viên.
    Kisliarski thì mừng rơn.
    "Những ý kiến vàng ngọc" Lão nghĩ. Lão có cảm giác chưa bao giờ mình yêu quý bọn trẻ lang thang như bây giờ.
    - Các đồng chí, - Ostap tiếp - Phải giúp đỡ ngay không chần chừ. Chúng ta phải cứu các em nhỏ khỏi móng vuốt của phố phường, và chúng ta sẽ cứu được. Chúng ta sẽ giúp các em. Chúng ta sẽ nhớ kỹ rằng trẻ con là những bông hoa của cuộc sống. Tôi mời các đồng chí đóng góp ngay bây giờ để kịp giúp đỡ các em, chỉ giúp đỡ các em thôi, chứ không giúp ai khác. Các đồng chí hiểu ý tôi chứ?
    Ostap rút trong túi quần ra một quyển hóa đơn.
    - Đề nghị các vị đóng góp. Ngài Ippolit sẽ xác nhận thẩm quyền của tôi.
    Ippolit phồng má và cúi đầu. Lúc này thì ngay đến hai gã Nikesha và Vlađei ngớ ngẩn, cũng như ông thợ nguội trí thức đều hiểu rõ ngụ ý bí ẩn của Ostap.
    - Kính lão đắc thọ, thưa các vị - Ostap nói - ta hãy bắt đầu từ này Makxim Pêtrôvich đáng kính.
    Makxim Pêtrôvich ngọ ngoạy và cố đóng góp ba chục rúp.
    - Khi nào tình hình khá hơn, tôi sẽ đưa thêm! - lão tuyên bố.
    - Tình hình sắp khá hơn rồi - Ostap nói - Nhưng kể ra điều này không liên quan gì đến bọn trẻ mà bây giờ tôi đang đại diện.
    Nikesha và Vlađei góp tám rúp.
    - Ít thế, hai đồng chí.
    Hai đồng chí đỏ mặt.
    Polesov chạy về nhà và đem đến năm mươi rúp.
    - Tuyệt lắm, kỵ sĩ ạ! - Ostap khen - đối với một kỵ sĩ độc thân có mô tơ, lần thứ nhất thế này là đủ. Giới thương gia sẽ đóng góp sao đây?
    Diadep và Kisliarski cò kè hồi lâu và so bì kẻ ít người nhiều.
    Ostap nghiêm mặt.
    - Trước mặt ngài Ippolit đây mà xử xự như thế là thiếu tế nhị.
    Ippolit gật đầu. Hai thương gia đóng góp mỗi vị hai trăm rúp để cứu giúp trẻ em.
    - Xong - Ostap thốt lên - cả thảy bốn trăm tám mươi tám rúp! Chà! Thiếu mười hai rúp nữa là được con số chẵn.
    Êlêna Bour ngồi im từ nãy liền đứng dậy, đi sang phòng ngủ và cầm chiếc xắc đến giao đúng mười hai rúp cho tròn con số tổng cộng.
    Phần còn lại của phiên họp không có nội dung rõ rệt và thiếu phần long trọng. Ostap thì tỉnh dần. Êlêna Bour lại mê mẩn hơn. Khách khứa lục tục ra về sau khi kính cẩn chia tay với những người tổ chức.
    - Về ngày họp sau, các vị sẽ được thông báo riêng - Ostap nói lúc chia tay - bí mật tuyệt đối. Sự nghiệp cứu giúp trẻ em phải là bí mật tuyệt đối... Mà khỏi phải nói nhiều, điều đó liên quan trực tiếp đến quyền lợi riêng của các vị đấy.
    Nghe mấy lời đó, Kisliarski định góp thêm năm chục rúp nữa để khỏi phải đến dự bất cứ cuộc họp nào. Lão phải cố lắm mới kềm chế được ý muốn sôi sục đó.
    - Thôi, kết thúc ở đây - Ostap nói - Ngài Ippolit, tôi hy vọng ngài sẽ không khước từ lòng mến khách của bà Êlêna và sẽ ngủ với bà. Vả lại, để đảm bảo bí mật, tôi với ngài nên tạm xa nhau một đêm. Tôi đi đây.
    Ippolit tuyệt vọng nháy nháy mắt với Ostap, nhưng hắn làm ra vẻ không để ý, cứ bước thẳng ra sân.
    Đi được một quảng, hắn sực nhớ trong túi hắn có năm trăm rúp hắn vừa kiếm được bằng sức lao động chân chính.
    - Ê xe! - Ostap gọi xà ích - đền tiệm ăn "Feniks"
    - Được! - người đánh xe trả lời.
    Ông ta thong thả chở Ostap đến cái tiệm ăn đã đóng cửa.
    - Sao? Đóng cửa rồi à?
    - Nghỉ lễ mà.
    - Ô, vớ vẩn! Có tiền mà chẳng có chỗ chơi! Vậy hãy đưa tôi đến phố Plêkhanôp. Bác biết đường chứ?
    Ostap quyết định đến nhà vợ chưa cưới của mình.
    - Thế ngày trước gọi là phố gì ạ? - Người đánh xe hỏi.
    - Không biết.
    - Thế thì đi đường nào? Tôi cũng chả biết đâu.
    Chiếc xe lăn lọc cọc chừng một tiếng rưỡi giữa thành phố vắng ngắt, vừa đi vừa hỏi đường những người gác đêm và các chiến sĩ công an. Một anh công an làm bộ quan trọng hồi lâu, mới chịu nói rằng phố Plêkhanôp chính là phố Gubernator ngày trước.
    - Nào, đi Gubernator! Tôi biết phố ấy lắm. Tôi đã chạy xe ở đó hai mươi bốn năm liên tục.
    - Thì đi đi!
    Họ đến phố Gubernator cũ nhưng hóa ra bây giờ nó là phố Các Mác, chứ không phải Plêkhanôp.
    Ostap tức giận lại bảo xe đi tìm phố Plêkhanôp lần nữa. Nhưng vẫn không kết quả.
    Ánh bình minh nhợt nhạt chiếu vào khuôn mặt kẻ đau khổ sẵn tiền mà không có chỗ giải trí.
    - Chở ta đến khách sạn "Sorbonna"! - Hắn quát - Cũng đòi làm xà ích! Có cái phố Plêkhanôp cũng đếch biết.
    °
    Ngôi nhà của góa phụ Gritsasueva sáng trưng. Ngồi chủ bàn tiệc là ông vua cơ - con trai của vị công dân quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ. Hắn lịch thiệp và ngà ngà say. Khách khứa chuyện trò rôm rả.
    Cô dâu không còn trẻ nữa. Ít ra cũng không dưới ba mươi lăm tuổi. Thiên nhiên ban phát cho chị ta rất hào phóng. Nào bộ ngực đồ sộ, nào cái mũi hình lưỡi rìu, nào hai gò má phúng phính và cái gáy thật bự. Chị ta say mê và sợ hãi người chồng mới. Bởi vậy chị ta không gọi hắn bằng tên, vả lại chị ta cũng không biết tên hắn là gì, mà cứ gọi bằng họ: đồng chí Benđer.
    Ippolit Matveevich lại thượng lên chiếc ghế thiêng liêng của mình. Suốt tiệc cưới, ông cứ nhún nha nhún nhẩy trên ghế để thử vật cứng dưới nệm ghế. Đôi khi ông cảm thấy có cái gì cưng cứng thật. Lúc ấy ông thích tất cả quan khách, và ông bắt đầu hét tướng lên "Đắng quá! Đắng quá" 1.
    Ostap thì luôn miệng chuyện trò, chúc rượu. Mọi người nâng cốc chúc mừng nền giáo dục nhân dân và công trình thủy lợi của Uzơbêkistăng. Sau đó khách khứa lục tục ra về. Ippolit đứng lại ở bên cửa sổ và nói nhỏ với Ostap.
    - Anh khẩn trương lên nhé. Chính nó rồi đấy.
    - Ông hám giàu quá - Ostap say rượu, trả lời - cứ về khách sạn đợi tôi. Đừng đi đâu cả. Tôi có thể về bất cứ lúc nào. Trả tiền khách sạn trước đi. Chuẩn bị sẳn sàng nhổ neo. Amen! Tạm biệt ngài thống chế! Hãy chúc tôi ngủ ngon đi chứ!
    Ippolit chúc Ostap ngon giấc, đoạn về khách sạn "Sorbonna" để mà hồi hộp.
    Năm giờ sáng thì Ostap xách chiếc ghế về đến nơi. Ippolit mừng rơn. Ostap đặt cái ghế giữa phòng và ngồi xuống.
    - Làm thế nào mà lấy được nó vậy? - Cuối cùng Ippolit hỏi.
    - Rất đơn giản, người trong nhà mà lại. Góa phụ đang ngủ say và nằm mơ. Đánh thức dậy thì thương "Chớ đánh thức nàng vào lúc rạng đông". Than ôi, đành phải để lại mấy chữ dành cho người yêu: "Anh đi Novokhopersk báo cáo. Đừng chờ anh về ăn trưa. Suslik 2 của em". Chiếc ghế này tôi lấy ở phòng ăn. Sáng sớm tàu điện chưa chạy, dọc đường tôi vẫn ngồi nghỉ trên cái ghế này.
    Ippolit reo mừng đâm bổ lại chỗ chiếc ghế.
    - Khẽ chứ, - Ostap nói - phải hành động thật nhẹ nhàng.
    Hắn rút trong túi ra một cái kìm dẹt, và công việc bắt đầu.
    - Ông khóa cửa lại chưa? - Ostap hỏi.
    Hắn gạt Ippolit nôn nóng sang một bên, cẩn thận mở mặt ghế, cố không làm rách miếng vải hoa Ăng-lê.
    - Loại vải này bây giờ đào đâu ra, phải giữ gìn nó. Biết làm thế nào, đói hàng hóa mà lại.
    Tất cả những cái đó khiến Ippolit nóng ruột vô cùng.
    - Xong rồi, - Ostap nói khẽ.
    Hắn khẽ lật tấm vải bọc ra rồi thọc cả hai tay vào giữa các lò xo. Trán hắn nhăn lại.
    - Sao? - Ippolit nhắc đi nhắc lại câu hỏi theo âm sắc khác nhau - Sao? Sao?
    - Sao với chả sáo, - Ostap bực bội đáp - xác xuất thành công một trên mười một. Và lần này...
    Hắn lại thọc tay tìm tiếp, rồi kết luận:
    - Và lần này thành công chưa đến với ta.
    Hắn đứng thẳng dậy và phủi hai khuỷu tay. Ippolit vồ lấy chiếc ghế.
    Không thấy kim cương. Hai tay Ippolit thõng thượt. Nhưng Ostap vẫn ung dung.
    - Bây giờ khả năng thành công của ta đã tăng lên.
    Hắn đi vài bước trong phòng.
    - Không hề gì! Cái ghế này làm cho góa phụ thiệt thòi hơn chúng mình.
    Ostap rút từ trong túi quần ra một cái vòng vàng, nửa tá thìa vàng và một cái lọc bã trà bằng bạc.
    Vì đau khổ, Ippolit thậm chí không ngờ rằng ông đã trở thành tòng phạm trong một vụ ăn trộm thông thường.
    - Kể ra hơi đểu - Ostap nhận định - nhưng ông phải thừa nhận rằng tôi không thể từ giã người đàn bà yêu quý mà không để lại cho nàng chút kỷ niệm nào. Nhưng thôi. Đừng phí thời gian nữa. Công việc mới chỉ mở đầu. Phần kết thúc ở Mátxcơva kia. Mà bảo tàng đồ gỗ thì không dễ tính như góa phụ đâu. Sẽ khó hơn đấy.
    Hai thành viên của hợp đồng nhét các mảnh ghế vào gầm giường, điểm lại số tiền (cùng với khoản quyên góp cứu giúp trẻ mồ côi, được cả thảy năm trăm ba mươi lăm rúp), rồi ra ga đáp tàu đi Mátxcơva.
    Họ phải thuê xe ngựa đi đến tận đầu kia của thành phố.
    Ở đường Kooperativ, họ thấy Polesov đang cắm đầu cắm cổ chạy trên vỉa hè như một con báo bị săn đuổi. Rượt theo sau là tay lao công nhà No5 phố Pereleshin. Đã quành vào một góc phố, hai thành viên hợp đồng còn nhìn thấy tay lao công đuổi kịp Polesov và bắt đầu đấm ông ta túi bụi. Polesov kêu ầm ĩ "Cứu tôi với!" và "Đồ lưu manh".
    Ostap và Ippolit ngồi trong nhà xí cho đến lúc tàu chạy vì sợ vợ mới cưới của Ostap bắt gặp.
    Con tàu đưa hai người bạn đến trung tâm ồn ào. Cả hai dán mắt vào cửa sổ.
    Các toa tàu lướt qua khu vực ngoại ô Gusisa.
    Đột nhiên Ostap chụp tay Ippolit, nói rối rít:
    - Xem kìa, xem kìa! Đấy, đấy, thằng cha Alkhen đấy, đồ chó đẻ!...
    Ippolit nhìn xuống phía dưới. Ven đường tàu, một gã trẻ tuổi rậm râu đang kéo một chiếc xe nhỏ, trên đặt cây đàn hoàng cầm và năm bộ khung cửa gỗ. Người công dân mặc áo màu lông chuột bẽn la bẽn lẽn.
    Mặt trời xuyên thủng các đám mây đen. Cây thánh giá trên nóc nhà thờ lấp lánh.
    Ostap vừa cười hô hố vừa thò đầu ra ngoài cửa sổ, hét to:
    - Pasha! Ra chợ trời đấy hả?
    Pasha Emilevich ngẩng lên, nhưng chỉ thấy cái đầu sau của toa tàu cuối cùng và càng rảo bước hơn.
    - Ông thấy chưa? Ostap vui vẻ hỏi - Đẹp ơi là đẹp! Người ta làm ăn thế đấy!
    Ostap vỗ vào lưng ông bạn đường buồn rầu.
    - Không sao! Cha nội ơi! Chớ có thất vọng! Phiên họp tiếp tục. Tối mai chúng mình đã ở Mátxcơva rồi!

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    PHẦN II: Ở MATXCƠVA - CHƯƠNG 15: GIỮA BIỂN GHẾ
    Ngành thống kê biết hết mọi điều.
    Người ta đã thống kê chính xác diện tích đất cày ở Liên Xô, có chia ra từng loại đất đen, đất sét pha và đất vàng. Mọi công dân của thành phố của cả hai giới đều được ghi chép rõ trong những quyển sách dày mà Ippolit Matveevich Vorobjaninov biết rất rành - đó là các quyển sổ hộ khẩu. Có số liệu thống kê một người công dân của nước cộng hòa ăn trung bình bao nhiêu thực phẩm trong một năm. Có số liệu thống kê cho biết mỗi người uống trung bình bao nhiêu lít vốt-ca và với ngần nào món nhắm. Người ta cũng biết trong nước có bao nhiêu diễn viên ba lê, thợ săn, máy tiện rêvolve, bao nhiêu chó các giống, bao nhiêu xe đạp, đài kỷ niệm, bao nhiêu cô gái, đèn biển và máy khâu.
    Có bao sức sống, nhiệt tình, ham muốn tư tưởng nhìn chúng ta từ các biểu bảng thống kê!
    Người công dân hai má hồng hào, khăn ăn cài ngược, đang ngồi bên bàn say sưa món súp nghi ngút khói ấy là ai? Xung quanh anh ta có cả một đàn bò tí xíu nằm phủ phục. Những con lợn mỡ màng tụ vào một góc biểu bảng. Trong hồ nước thống kê bơi lội tung tăng những chú cá tầm, cá lo-ta và cá palecus. Những ả gà mái đậu trên vai, trên đầu và trên tay vị công dân ấy. Những chú ngỗng, vịt và gà tây, bay trên các đám mây có cánh. Hai con thỏ nấp dưới gầm bàn. Ở chân trời nổi lên các kim tự tháp và vườn treo Babilon nặn bằng bánh mì. Pháo đài mứt có dòng sông sữa bao quanh. Trái dưa chuột to như tháp Bidanti đứng sừng sững ở chân trời. Rượu vang, rượu mạnh và bia hùng dũng diễu binh trên các chiến lũy đắp bằng muối và ớt. Các chai nước suối, nước chanh chen nhau lộn xộn dọc tuyến hậu bị.
    Người công dân má đỏ hây hây ấy là ai? Là kẻ háu ăn, ưa nhậu hay hảo ngọt? Gargantua hay vua Ba Tư? Lực sĩ Ioss? Anh lính Áo Đỏ huyền thoại? Hay Lukull?
    Không, không phải Lukull. Đó là Ivan Ivanôvich Siđôrov hoặc Siđor Siđorôvich Ivanôp 1, một người dân trung bình trong toàn bộ cuộc đời mình ăn hết tất cả số thực phẩm trung bình ghi trong biểu bảng thống kê. Đó là người tiêu dùng các loại calori và vitamin theo định mức, là người sống độc thân, bốn mươi tuổi, làm việc tại cửa hàng bán tranh hoặc bán vải.
    Bạn đừng hòng né tránh ngành thống kê. Nó có số liệu chính xác chẳng những về số nha sĩ, thợ làm xúc xích, ống tiêm, lao công, đạo diễn điện ảnh, gái điếm, mái tranh, góa phụ, xà ích và chuông, mà nó còn biết rõ trong nước có bao nhiêu nhân viên thống kê.
    Vậy mà có một thứ nó không biết.
    Nó không biết ở Liên Xô có bao nhiêu chiếc ghế.
    Ghế thì nhiều vô kể.
    Đợt thống kê dân số gần đây nhất đã cho biết tổng số dân của nước công hòa trong liên bang là một trăm bốn mươi ba triệu người. Nếu gạt ra chín mươi triệu nông dân, là những người thích ngồi các thứ không phải là ghế (chẳng hạn ở phía đông họ ngồi trên thảm hoặc phản), thì dẫu sao cũng còn năm chục triệu người mà trong sinh hoạt gia đình của họ cái ghế thuộc loại vật dụng tối cần thiết. Nếu trừ hao cả sai số trong tính toán và thói quen của một số công dân Liên Xô ngồi giữa hai cái ghế, thì sau khi giảm hẳn một nửa tổng số để phòng xa, ta vẫn còn thấy trong nước phải có ít nhất hai mươi sáu triệu rưỡi chiếc ghế. Để chính xác hơn, ta bỏ hẳn sáu triệu rưỡi đi. Hai mươi triệu còn lại sẽ là con số tối thiểu.
    Giữa cái biển ghế được làm bằng gỗ hồ đào, gỗ sồi, gỗ facaranđa, gỗ fracinus, gỗ hồng sắc và gỗ bạch dương Kareli ấy, giữa cái biển ghế làm bằng gỗ thông, gỗ tùng ấy, hai nhân vật trong cuốn tiểu thuyết của chúng ta phải tìm cho ra chiếc ghế gỗ hồ đào chân cong làm theo kiểu Hambx chứa đựng trong cái bụng bọc vải hoa Ăng-lê của mình cả kho báu của mađam Petukhova.
    Hai thành viên hợp đồng nằm ở tầng trên xà còn ngủ say trong lúc đoàn tàu thận trọng vượt qua sông Oka, rồi lao nhanh về ngoại ô Mátxcơva.
    Chú thích
    1.Hai tên họ phổ biến nhất ở Nga.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 16: NHÀ TẬP THỂ MANG TÊN TU SĨ BERTOL’D SHVARTSA
    Ippolit Matveevich và Ostap ép người vào nhau đứng bên cửa sổ mở rộng của toa cứng và chăm chú nhìn đàn bò thong thả rời khỏi đường tàu, nhìn những cây thông, những ngôi nhà gỗ ở ngoại ô.
    Tất cả những câu chuyện tiếu lâm đã được kể hết ở dọc đường. Tờ "Sự thật ở Stargorot" ra hôm thứ ba đã được đọc đến tận mục quảng cáo, thông báo và đã thấm các vết bơ loang lổ. Tất cả những quả trứng, con gà và trái cây đã nằm gọn trong dạ dày.
    Còn phần đường mệt nhất là khoảng thời gian sắp tới Mátxcơva.
    Từ các cánh rừng thưa, những ngôi nhà nhỏ ở ngoại ô chạy vội về phía đoàn tàu. Trong số ấy có những lâu đài bằng gỗ lấp lánh cửa kính hàng hiên và những cái mái tôn mới sơn. Có cả những ngôi nhà đơn giản dựng bằng gỗ cây, cửa sổ vuông vuông nhỏ xíu, những cạm bẫy thật sự đối với người đi nghỉ ở ngoại ô.
    Trong lúc hành khách với vẻ mặt sành sỏi đang ngắm đường chân trời và điểm lại trong ký ức những diễn biến của trận đánh gần Kalka, kể cho nhau nghe quá khứ và hiện tại ở Mátxcơva thì Ippolit Matveevich ra sức hình dung viện bảo tàng đồ gỗ. Ông tưởng tượng viện bảo tàng là một hành lang dài hàng cây số, với những chiếc ghế kê thành dãy hai bên tường. Ippolit thấy mình đang đi nhanh giữa hai dãy ghế ấy.
    - Chưa biết ở viện bảo tàng đồ gỗ sẽ ra sao đây? Liệu có xong không? - Ông lo ngại nói.
    - Ông đô thống, phải đưa ông đi bệnh viện chạy điện mất thôi. Đừng có lên cơn động kinh quá sớm. Nếu ông không thể không lo lắng, thì ông hãy để cái lo trong bụng thôi.
    Đoàn tàu nẩy lên các khúc ghi. Các cột đèn tín hiệu nhìn nó há hốc miệng. Số đường ray mỗi lúc một nhiều thêm. Cảm thấy sắp tới một đầu mối đường sắt khổng lồ. Cỏ biến mất, chỉ còn thấy xỉ. Những đầu máy dồn tàu kéo còi ầm ĩ. Các công nhân bẻ ghi huýt còi. Tiếng ầm ầm tăng lên. Đoàn tàu chạy vào đoạn đường giữa hai dãy toa rỗng và lượn vòng như một cái cửa quay, bắt đầu điểm lại từng toa xe.
    Các con đường nhiều gấp đôi.
    Đoàn tàu chạy ra khỏi hành lang giữa hai dãy toa rỗng. Ánh nắng chan hòa. Những chiếc đèn ghi chạy tán loạn sát mặt đất, trông như những cái rìu nhỏ. Khói xả mù mịt. Đầu tàu thở hồng hộc, xì ra một cụm khói trắng như tuyết. Có tiếng quát to ở khúc đường quành. Các công nhân đề-pô đang kéo đầu máy về một ngăn riêng.
    Bộ xương của đoàn tàu kêu răng rắc vì phanh gấp. Tất cả mọi vật rung chuyển, và Ippolit tưởng chừng mình lạc vào vương quốc của bệnh đau răng. Đoàn tàu đỗ lại cạnh tuyến ke rải nhựa.
    Đến Mátxcơva rồi. Đây là ga Riazan, ga mới nhất trong số tất cả các nhà ga ở Mátxcơva.
    Không một ga nào trong số tám ga còn lại của Mátxcơva có những dãy nhà cao rộng như ở ga Riazan này. Toàn bộ ga Iaroslap với những chóp nhọn giả Nga, với những quốc huy hình con gà của nó, có thể nằm lọt thỏm trong cái tiệm ăn khổng lồ của ga Riazan này.
    Các nhà ga của Mátxcơva là cửa ngỏ của thành phố. Mỗi ngày chúng đón vào và tiễn ra ba mươi ngàn hành khách. Đi vào Mátxcơva qua ga Alêchsandrôp là người ngoại quốc đi dép đế cao su, mặc quần áo đánh gôn (quần thể thao và những đôi tất len dày). Từ ga Kursk đi vào Mátxcơva là người dân Capkaz đội mũ lông cừu có nhiều lỗ thủng thông gió và người vùng sông Vônga râu cứng như rễ cây. Từ ga Oktiabrơ nhảy ra anh cán bộ nửa quan trọng nửa không, tay xách chiếc cặp lạ lùng bằng da lợn. Anh ta từ Lêningrát tới thủ đô để lo chuyện liên hệ, phối hợp công tác và nắm tình hình cụ thể. Các đại biểu của Kiep và Ođecxa thì tới Mátxcơva qua ga Briansk. Mới đến ga sa mạc Tikhônôp, những người dân Kiép đã bắt đầu mỉm cười miệt thị. Họ hiểu rất rõ rằng Kresatik là đường phố tuyệt diệu nhất trên trái đất. Những người dân Ođecxa xách theo những cái lẵng và những cái hộp đựng cá nục xông khói. Họ cũng biết đâu là đường phố tuyệt diệu nhất hành tinh. Nhưng dĩ nhiên đó không phải là phố Kresatik, mà là phố Lassal, trước kia có tên phố Đeribas. Từ Saratôp, Atkarsk, Tambôp, Rtitsep và Kôzlôp, người ta đến Mátxcơva theo ngã nhà ga Pavelets. Số khách tới thủ đô qua ga Savelôp là ít hơn cả. Đó là những người thợ làm đế giày ở Talđom, những người dân thành phố Đmitrôp, công nhân xưởng thủ công vùng Iakhrom hoặc những người sống cả mùa đông lẫn mùa hè ở ga Khlepnikovo ngoại ô. Từ đó đến Mátxcơva chẳng xa xôi gì. Có xa nhất thì cũng chỉ một trăm ba mươi voocxơta 1. Đến thủ đô qua ga Iaroslap là những người từ Vlađivostok, Khabarôpsk, Chita, từ các thành phố xa và lớn.
    Tuy nhiên, lạ nhất là các hành khách ở ga Riazan. Đấy là những người Uzơbếch đội khăn xếp trắng, mặc áo thụng hoa, những người Tadzik, Turmêni, Khivins và Bukhar, nơi quanh năm suốt tháng chan hòa ánh nắng mặt trời.
    Hai nhân vật của chúng ta vất vả len ra đến cửa ga và thấy mình đang đứng trên quảng trường Kalanstrep. Bên phải họ nổi lên những quốc huy hình con gà của ga Iaroslap. Ngay trước mặt họ là nhà ga Oktiabrơ được quét sơn hai màu. Chiếc đồng hồ của nó chỉ mười giờ năm phút. Còn đồng hồ của ga Iaroslap chỉ đúng mười giờ. Nếu ngó về phía cái đồng hồ màu xanh thẩm, vẽ huy hiệu Zođiak của ga Riazan, thì hành khách sẽ thấy mới có mười giờ kém năm.
    - Thật tiện lợi cho các cuộc hẹn hò! - Ostap nói - bao giờ cũng có mười phút trừ hao.
    Gã xà ích đánh môi phát ra tiếng hôn. Chiếc xe ngựa chạy bên dưới một chiếc cầu, và trước mắt hai người bạn đường trải ra toàn cảnh hùng vĩ của thủ đô.
    - Này, ta đi đâu thế? - Ippolit hỏi.
    - Đến chỗ những người tốt - Ostap đáp - ở Mátxcơva có rất nhiều người tốt. Và tất cả đều là người quen của tôi.
    - Ta ở lại chỗ họ được chứ?
    - Đó là khu tập thể. Nếu không có nhà người này thì ở nhà người kia. Thế nào cũng tìm được chỗ.
    Cảnh chợ Okhot nhốn nháo. Các vị tiểu thương không có môn bài, đội các mẹt hàng rong chạy tán loạn như vịt. Đằng sau họ, một chiến sĩ công an thong thả bước. Bọn trẻ mồ côi tụ tập cạnh một thùng nhựa đường và đang thưởng thức mùi nhựa sôi.
    Chiếc xe chạy ra quảng trường Arbat, dọc theo đại lộ Prechisten, quẹo phải, rồi đỗ lại ở hẻm Sivev Vraznek.
    - Nhà gì đây thế? - Ippolit hỏi.
    Ostap nhìn ngôi nhà nhỏ màu hồng có tầng nóc, đáp:
    - Nhà tập thể của sinh viên khoa hóa mang tên tu sĩ Bertold Shvartsa.
    - Tu sĩ ư?
    - Không, nói đùa tí chơi đấy thôi. Mang tên Semashko.
    Cũng như mọi nhà tập thể sinh viên bình thường ở Mátxcơva, ngôi nhà của các sinh viên khoa Hóa cũng đã từ lâu chật ních những người bà con họ hàng khá xa với môn hóa học. Số lượng sinh viên biến động luôn luôn. Một số đã tốt nghiệp, đi nhận công tác ở các địa phương. Một số bị buộc thôi học vì bị điểm kém. Chính số sinh viên này mỗi năm một đông thêm, tạo nên trong ngôi nhà màu hồng này một thứ hội không ra hội, phường chẳng ra phường. Những sinh viên mới cố gắng chui vào nhà tập thể này đến mấy cũng chỉ uổng công vô ích. Những nhà siêu hóa học tỏ ra có những sáng kiến lạ thường và đánh bật được mọi đợt tấn công. Người ta đành bỏ mặc ngôi nhà này. Nó trở thành một thứ nhà hoang và biến mất khỏi mọi kế hoạch của ban quản lý nhà đất Mátxcơva. Dường như không có ngôi nhà ấy nữa. Trong khi nó vẫn sừng sững ở đấy, và có không ít người sống ở đấy.
    Hai thành viên hợp đồng theo cầu thang lên tầng hai và sa vào một hành lang tối như bưng.
    - Ánh sáng và không khí - Ostap nhận xét.
    Bỗng trong bóng tối, ngay cạnh khuỷu tay của Ippolit, vang lên tiếng ngáy của ai đó.
    - Đừng sợ, - Ostap nói - không phải ở ngoài hành lang đâu. Ở sau vách đấy. Vách gỗ, theo như môn vật lý chứng minh, là vật truyền tiếng động cực tốt. Cẩn thận! Ông hãy túm lấy áo tôi! Chỗ này phải có một cái két sắt mới đúng.
    Tiếng "ối" do Ippolit phát ra vì vấp nhực vào một góc nhọn bằng sắt chứng tỏ rằng quả thật ở chỗ này có một cái tủ sắt.
    - Đau lắm à? - Ostap hỏi - Như thế chưa ăn thua gì. Đó mới là nỗi đau đớn về thể xác. Ở đây còn vô số nỗi đau đớn về tinh thần kia - nhớ lại đã sởn gáy. Ngay cạnh đây có treo một bộ xương, là tài sản của thằng cha sinh viên Ivanopulo. Hắn mua bộ xương ở Sukharevoa, nhưng không dám treo trong phòng. Nghĩa là khách tới đây trước hết vấp phải cái két sắt, sau đó sẽ cụng trán vào bộ xương khô. Đám đàn bà chửa rất khó chịu về món đó.
    Theo cầu thang xoáy trôn ốc, hai thành viên hợp đồng đi lên tầng nóc. Một căn phòng rộng ở trên tầng nóc được ngăn bằng ván thành năm ngăn, mỗi ngăn rộng hai ácsin 2. Các ngăn ấy giống hệt các hộp bút, chỉ khác là ở đây ngoài bút chì, bút mực còn có người và bếp dầu hỏa.
    Ostap dừng lại ở ngoài cửa ngăn giữa, hỏi khẽ:
    - Câu có nhà không, Kôlia?
    Đáp lại câu hỏi ấy, cả năm hộp bút đều rậm rịch, lao xao:
    - Có đấy, - Tiếng trả lời vang lên sau cánh cửa.
    - Khách khứa lại mò đến nhà thằng ngốc sớm thế! - Một giọng nói phụ nữ thì thầm ở hộp bút cuối cùng bên trái.
    - Để người ta ngủ với chứ! Hộp bút No2 lầu bầu.
    Hộp bút thứ ba thì mừng rỡ:
    - Công an đến thăm thằng cha Kôlia về khoản đánh cắp cửa kính hôm qua đấy.
    Hộp bút thứ năm không nói gì. Ở đấy chỉ nghe tiếng reo của bếp dầu hỏa và tiếng người hôn nhau.
    Ostap dùng chân đẩy cửa. Toàn bộ công trình bằng ván rung chuyển, và hai thành viên lọt vào ngăn-hộp của Kôlia.
    Cảnh tượng đập vào mắt Ostap thật đáng sợ, tuy bề ngoài là vô tội. Trong phòng, về đồ đạc chỉ có một cái đệm sọc đỏ, kê trên bốn hòn gạch. Đồ đạc của Kôlia thì hắn biết tỏng từ lâu. Bản thân Kôlia ngồi thu cả hai chân lên đệm cũng không khiến Ostap ngạc nhiên. Nhưng ngồi bên cạnh anh ta lại là thiên thần, thành thử Ostap lập tức trở nên ngán ngẫm. Những cô gái loại này không bao giờ là người quen đến liên hệ công việc - để là người như vậy, họ có đôi mắt quá xanh và cái cổ quá trắng. Đây là các cô nhân tình, và tệ hơn nữa, là các bà vợ, mà lại là vợ yêu mới chết chứ. Và quả vậy, Kôlia gọi thiên thần ấy là Lida, và đang đùa giỡn thân mật với cô ta.
    Ippolit Matveevich bỏ chiếc mũ quả dưa của mình ra. Ostap gọi Kôlia ra hành lang. Hai người thì thầm với nhau hồi lâu.
    - Sáng nay trời đẹp tuyệt, tiểu thư ạ, - Ippolit nói.
    Tiểu thư mắt xanh cười và nói một điều chẳng có liên quan gì tới nhận xét vừa rồi của Ippolit: cô ta bảo ngăn bên cạnh toàn là mấy thằng cha ngớ ngẩn.
    - Họ cố ý đốt bếp dầu hỏa để người ta khỏi nghe tiếng họ hôn hít nhau. Nhưng ông thấy đấy, làm như thế là ngu. Tất cả chúng ta đều nghe rõ. Chỉ riêng họ là không nghe thấy vì bị tiếng đèn reo át đi. Nếu ông muốn, tôi sẽ chứng minh cho ông thấy. Ông hãy nghe này.
    Rồi cô vợ của Kôlia, người đã nắm vững mọi bí mật của bếp dầu hỏa, nói to:
    - Này bọn ngốc ơi!
    Bên kia ván, chỉ nghe thấy tiếng réo phừng phừng của bếp dầu hỏa và tiếng hôn hít.
    - Ông thấy chưa? Họ chả nghe thấy gì hết. Đúng là một lũ ngu ngốc và mắc bệnh tâm thần. Ông thấy chưa?
    - Thấy rồi, - Ippolit nói.
    - Còn vợ chồng tôi chả dùng bếp dầu hỏa. Để làm gì kia chứ. Chúng tôi ăn ở nhà tập thể chay tịnh, tuy rằng tôi phản đối cái lối kiêng cá thịt. Nhưng hồi cưới tôi, anh Kôlia mơ ước rằng chúng tôi sẽ cùng nhau đi ăn tập thể. Thế là bây giờ chúng tôi ăn chay ở đó. Tôi đặc biệt thích ăn thịt. Nhưng ở đấy người ta lại dùng mì ống giả làm cốt-lết. Có điều ông đừng nói gì với Kôlia nhé...
    Lúc ấy Kôlia và Ostap quay vào
    - Thôi, nếu nhất thiết không ở chỗ cậu được thì bọn này lại chỗ Pantelei vậy.
    - Đúng đấy, hai bạn ạ! - Kôlia nói to - Hai bạn xuống chỗ Ivanopulo mà ở.
    - Hai bạn hãy đến nhà chúng tôi chơi luôn nhé; - vợ Kôlia nói, - chúng tôi rất hân hạnh được đón tiếp.
    - Lại còn mời khách đến nhà chơi nữa chứ! - Những người ở ngăn cuối cùng bực tức. - Làm như họ ít khách lắm không bằng.
    - Các người ngu lắm, các người mắc bệnh tâm thần cả rồi, đừng dính mũi vào việc nhà khác. - Vợ Kôlia nói không hề cao giọng.
    - Anh nghe rõ chưa, anh Ivan Andreevich, - ở ngăn cuối cùng vang lên tiếng nói, - người ta làm nhục vợ anh mà anh cứ làm thinh.
    Các nhà bình luận vô hình ở các ngăn khác cũng lên tiếng. Cuộc đấu khẩu nổ ra. Hai nhân vật của chúng ta đi xuống phía dưới, xuống phòng Ivanopulo.
    Anh chàng sinh viên này không có nhà. Ippolit bật diêm, một mẫu giấy gài ở cửa: "Tôi sẽ về nhà sớm nhất là 9 giờ, Pantelei"
    - Chả sao, - Ostap nói - Tôi biết chỗ cất chìa khóa.
    Hắn lần mò dưới gầm chiếc két sắt, lấy được chìa khóa và mở cửa.
    Phòng của sinh viên Ivanopulo Pantelei cũng có kích thước hệt như Kôlia, nhưng được cái góc cạnh hẳn hoi. Một phía tường bằng đá, điều này khiến anh chàng Ivanopulo rất tự hào. Ippolit rầu rĩ nhận thấy ở đây đến nệm cũng không có nốt.
    - Ở đây sẽ rất tuyệt, - Ostap nói - ở Mátxcơva được chỗ này cũng lịch sự chán. Nếu cả ba ta cùng nằm dưới đất, thì thậm chí còn thừa một ít diện tích. Mà thằng cha Pantelei này đúng là đồ chó đẻ! Nó nhét cái đệm giường đi đâu nhỉ?
    Cửa sổ nhìn ra hẻm. Một anh công an đang đi đi lại lại ngoài ấy. Trong ngôi nhà nhỏ phía đối diện được xây dựng theo kiểu Gô-tích là sứ quán của một cường quốc nhỏ xíu. Sau tấm lưới sắt, người ta đang chơi ten-nít. Quả bóng trắng bay vun vút. Những tiếng kêu ngắn vang lên.
    - Ồ, chơi cũng thường thôi - Ostap nhận xét - nhưng ta nghỉ ngơi cái đã.
    Hai thành viên hợp đồng trải giấy báo ra sàn, Ippolit rút ra chiếc gối gấp mà ông luôn mang theo bên mình.
    Ostap nằm đè lên các bức điện và thiếp đi, Ippolit đã ngáy khò khò.
    Chú thích
    1.Đơn vị đo chiều dài cũ của Nga, bằng 1,06km.
    2.Đơn vị đo lường cũ của Nga, bằng 0,71m.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 17: HÃY TÔN TRỌNG NHỮNG CÁI ĐỆM GIƯỜNG HỠI BÀ CON!
    Lida ơi, ta đi ăn trưa thôi!
    - Em không muốn, Em ăn trưa từ hôm qua rồi.
    - Anh chưa hiểu ý em.
    - Em chả đi ăn thịt thỏ dỏm đâu.
    - Ngốc nghếch quá!
    - Em không thể xài món xúc xích không có thịt.
    - Hôm nay em sẽ được ăn món sarlotka.
    - Em chả thiết.
    - Nói khẽ chứ. Họ nghe thấy thì phiền.
    Thế là cặp vợ chồng trẻ chuyển sang nói thầm.
    Hai phút sau, lần đầu tiên trong ba tháng chung sống, Kôlia hiểu rằng người vợ yêu thích món xúc xích làm bằng cà rốt, khoai tây và đậu ít hơn hẳn anh ta.
    - Nghĩa là em thích ăn thịt chó hơn ăn chay hả? - Kôlia nói to - vì nóng nảy, anh ta đã quên những tay láng giềng hay nghe trộm.
    - Nói khẽ chứ! - Lida quát to. - Sau nữa là anh đối xử với em quá tồi. Em thích ăn thịt! Đôi khi thôi. Như thế có gì là xấu.
    Kôlia đớ người. Câu chuyện xoay chuyển bất ngờ đối với anh ta. Món thịt sẽ phá vỡ toàn bộ kế hoạch chi tiêu của anh ta. Vừa đi dạo dọc chiếc đệm trên đó Lida nổi nóng đang ngồi, anh chồng trẻ vừa nhẩm tính một cách tuyệt vọng.
    Việc can-ke các bản vẽ ở văn phòng công ty "Teknosila" đem lại cho Kôlia Kalachov vào tháng nào may mắn nhất cũng không quá bốn mươi rúp. Về khoản thuê nhà thì Kôlia khỏi phải trả. Trong cái hẻm hoang vu này không có ban quản trị, còn tiền nhà ở đây chỉ là một khái niệm trừu tượng. Mười rúp chi cho việc Lida đi học lớp cắt may tổ chức tại trường trung cấp xây dựng. Một suất ăn hai người (món thứ nhất: canh suông và món thứ hai: thịt thỏ dỏm hoặc mì ống thật) mà hai vợ chồng chia đều mỗi người ăn đúng nửa suất ở nhà ăn tập thể kiêng cá thịt (nhà ăn này mang tên "Đừng biển thủ") cũng đã bứt ra khỏi ngân sách gia đình của Kôlia mười ba rúp một tháng. Số tiền còn lại biến đi đâu không rõ, khiến Kôlia lúng túng tự hỏi. "Tiền đi đâu nhỉ" - anh ta vừa nghĩ thầm trong lúc kéo dài cây bút kẻ màu da trời để kẻ một đường dài và mảnh. Trong tình hình như vậy mà chuyển sang chế độ ăn thịt tức là tự hủy diệt. Vì thế, Kôlia thấy hăng máu lên:
    - Em thử nghĩ, ai lại đi ăn thịt những cái xác súc vật bị giết chết bao giờ! Chỉ có những kẻ ăn thịt, người mạo danh văn hóa, mới làm như vậy. Tất cả các căn bệnh đều xuất phát từ thịt.
    - Đương nhiên, - Lida rụt rè chế giễu, - chẳng hạn bệnh viêm họng...
    - Đúng, đúng, bệnh viêm họng! Em tưởng không phải thế sao? Cơ thể con người bị mệt mỏi, suy yếu vì ăn thịt suốt đời làm sao còn khả năng chống nhiễm trùng được nữa.
    - Ngốc quá nhỉ!
    - Như thế mới hơi ngốc thôi. Ngu nhất là những kẻ chỉ cố tọng cho đầy dạ dày, chẳng quan tâm gì đến số lượng vitamin.
    Kôlia chợt dừng lời. Kôlia thấy hoa mắt vì các thứ mì ống, cháo, vỏ khoai tây đã bị một khối cốt-lết thịt lợn to tướng nổi lên choán mất. Hình như tảng thịt này vừa mới nhảy từ trong chảo ra. Nó đang sôi lép bép và bốc thơm nghi ngút. Mẩu xương của tảng cốt-lết lòi ra như cán khẩu súng lục ngày xưa.
    - Em nên nhớ rằng - Kôlia nói to, mỗi miếng cốt-lết thịt lợn làm người ta tổn thọ một tuần!
    - Tổn thọ cũng được! - Lida nói - Món thịt thỏ dỏm làm người ta tổn thọ hẳn nửa năm kia. Hôm qua, lúc chúng mình ăn món cà rốt rán, em cảm thấy như đang hấp hối. Có điều là em chả muốn nói cho anh biết.
    - Sao em không muốn nói?
    - Em kiệt sức rồi. Lúc ấy em chỉ sợ khóc òa lên.
    - Thế bây giờ em hết sợ à?
    - Bây giờ thì em chả sợ quái gì nữa.
    Lida khóc nấc lên.
    - Lép Tônstôi, - Kôlia run run giọng, - cũng không ăn thịt.
    - Vâng, - Lida nói, giọng ngạt vì nước mắt, - bá tước ăn măng tây.
    - Măng tây không phải là thịt.
    - Nhưng hồi viết "Chiến tranh và hòa bình", ông ấy đã ăn thịt! Đã ăn, đã ăn, đã ăn! Và dạo viết "Anna Karenina" cũng đã xơi, đã xơi, đã xơi món thịt!
    - Im đi!
    - Xơi! Xơi! Xơi!
    - Thế hồi viết "Bản Xônát Kreiser", văn hào cũng xơi thịt chắc? - Kôlia hỏi một cách nham hiểm.
    - "Bản Xônát Kreiser" là một tác phẩm rất ngắn. Ví thử ông ấy ăn món xúc xích dỏm, liệu có viết nổi "Chiến tranh và hòa bình" không?
    - Cuối cùng thì tại sao cô cứ đem ông Tônstôi của cô mà móc vào tôi?
    - Tôi móc ông Tônstôi vào anh thật chứ? Tôi? Ai giơ ông Tônstôi ra trước?
    Đôi bên đã hết xưng hô "anh anh, em em" với nhau. Các hộp bút bên cạnh tha hồ hoan hỉ. Lida vội kéo chiếc mũ đan màu xanh từ sau gáy lên phía trán.
    - Cô đi đâu vậy?
    - Mặc tôi. Đi có việc chứ đi đâu.
    Đoạn Lida chạy ra.
    "Cô ấy có thể đi đâu nhỉ" - Kôlia nghĩ và dỏng tai nghe.
    - Chính quyền Xô viết để cho chị em phụ nữ nhiều dân chủ quá! - Hộp bút cuối cùng bên trái lên tiếng.
    - Chắc đi ra sông tự tử! - Hộp bút thứ ba bình phẩm.
    Hộp bút thứ năm châm bếp dầu lên và hôn nhau như lệ thường.
    Lida xúc động chạy ra ngoài phố.
    Đây là cái giờ trong ngày chủ nhật, khi những người hạnh phúc chở những cái đệm giường mua ở chợ đi trên phố Arbat.
    Những đôi vợ chồng mới cưới và những người Xô viết có năng lực trung bình là khách hàng chủ yếu mua những tấm đệm lò xo. Họ chở chúng về nhà. Họ dựng chúng trên xe và dựng cả hai tay mà ôm giữ chúng. Làm sao họ lại không ôm giữ chúng, ôm giữ cái nền tảng hạnh phúc, bọc vải hoa màu xanh của mình kia chứ.
    Hỡi bà con! Hãy tôn trọng cái đệm lò xo bọc vải hoa màu xanh! Đó là tổ ấm gia đình, là phần mở đầu và kết thúc của các thứ đồ đạc cần trang trí, là cái chung và cái hoàn chỉnh của không khí ấm cúng trong gia đình, là cơ sở của tình yêu, cha đẻ của cái bếp dầu! Ngọt ngào thay khi nằm ngủ trong tiếng kêu dân chủ của bộ lò xo dưới lưng! Đẹp đẽ thay giấc mơ của người nằm ngủ trên lớp vải màu xanh của đệm giường! Một sở hữu chủ của đệm giường được kính nể xiết bao!
    Người bị mất đệm giường thật đáng thương. Anh ta không tồn tại nữa. Anh ta không nộp thuế, không có vợ, những người quen không cho anh ta vay tiền theo kiểu "Bao giờ trả cũng được", các lái xe taxi ném theo anh ta những câu xúc phạm, các cô gái chế nhạo anh ta; các cô không ưa những anh chàng mơ tưởng hão huyền, những anh chàng duy tâm!
    Người bị mất đệm giường phần đông viết những câu thơ đại loại:
    Bura thoải mái nằm nghĩ trong nôi
    Giữa tiếng chuông đồng hồ thánh thót.
    Hoa tuyết bay ngoài trời
    Và quạ bay như những niềm mơ ước!
    Anh đứng trước ghi-sê điện báo mà sáng tác, làm cho những sở hữu chủ đứng đắn của đệm giường tới đây đánh điện phải tốn công chờ đợi.
    Đệm giường làm đổ vỡ cả một đời người. Trong lớp bọc và bộ lò xo của nó ẩn giấu một sức mạnh nào đó có sức hấp dẫn cao và đến nay vẫn chưa được nghiên cứu. Người và đồ đạc cứ đổ xô đến theo tiếng vẫy gọi của lò xo đệm giường. Nhân viên phòng tài chính và các cô gái kéo đến. Họ muốn kết bạn với các sở hữu chủ đệm giường. Nhân viên phòng tài chính đến để kiểm tra pháp chế tài chính, vì lợi ích quốc gia. Còn các cô gái thì đến một cách vô tư, chỉ phục tùng các quy luật của tự nhiên.
    Tuổi thanh xuân bắt đầu nở hoa. Anh nhân viên phòng tài chính, một khi thu thuế, như con ong hút nhụy hoa xuân, vo ve mừng rỡ bay về tổ của mình đặt ở quận nào đó. Người vợ và chiếc bếp dầu đã thay thế những cô gái bị đánh bật trở lui.
    Đệm giường thật tham ăn. Nó đòi hỏi nhiều thứ lễ vật. Đêm đêm nó phát ra âm thanh của quả bóng rơi. Nó cần cái giá. Nó cần cái bàn đặt trên chiếc đế thô. Vì tiếng cọt kẹt của lò xo, nó đòi hỏi phải có rèm che, màn gió và bát đĩa. Nó thúc vào lưng con người và giục anh ta:
    - Này ông, đi mua cối xay thịt và trục cán bột đi chứ!
    - Này ông ơi, tôi xấu hổ thay cho ông đấy, đến bây giờ nhà ông vẫn chưa có thảm!
    - Làm việc đi chứ! Tôi sắp giúp ông đẻ con cái! Ông cần có tiền sắm tả lót và xe nôi.
    Đệm giường nhớ tất cả và làm tất cả theo ý riêng của nó.
    Ngay đến nhà thơ cũng không thể thoát khỏi số phận chung. Kìa nhà thơ đang chở cái đệm giường vừa mua ngoài chợ về, đang sợ hãi ôm chặt lấy cái bụng mềm của cái đệm.
    - Ta sẽ bẻ gãy đức kiên trì của ngươi, thi sĩ ạ! - Đệm giường nói. - Ngươi sẽ không cần chạy ra bưu điện làm thơ nữa. Và nói chung có đáng làm thơ không kia chứ? Bây giờ phục vụ đi! Và sai ngạch sẽ luôn luôn có lợi cho ngươi. Ngươi hãy nghĩ đến vợ con ngươi.
    - Tôi chưa có vợ! - Nhà thơ quát to và lui bước trước ông thầy lò xo.
    - Ngươi khắc có! Và ta không bảo đảm rằng đó sẽ là cô gái đẹp nhất trần gian. Thậm chí ta cũng không biết nàng có hiền hay dữ. Ngươi hãy chuẩn bị tinh thần. Ngươi sẽ có con.
    - Tôi không thích trẻ con!
    - Ngươi sẽ thích chúng!
    - Bà dọa tôi đấy, bà đệm giường ạ!
    - Im đi, đồ ngốc! Ngươi chưa biết hết mọi sự đâu! Rồi đây ngươi còn mua chịu đồ đạc ở cửa hàng đồ gỗ Mátxcơva cho mà xem.
    - Tôi sẽ giết bà, hỡi bà đệm giường!
    - Đồ chó con! Nếu ngươi dám làm điều đó, láng giềng của ngươi sẽ tố giác ngươi với ban quản trị nhà ở.
    Vậy là mỗi ngày chủ nhật, những người hạnh phúc cứ đi tới đi lui trong thành phố Mátxcơva giữa tiếng reo hò của những cái đệm giường.
    Nhưng dĩ nhiên, không riêng số người ấy thấy ngày chủ nhật ở Mátxcơva đẹp. Chủ nhật còn là ngày của các viện bảo tàng.
    Ở Mátxcơva có một loại người đặc biệt. Họ chẳng hiểu gì về hội họa, họ không quan tâm đến kiến trúc và không ưa các hiện vật cổ xưa. Loại người này đến các viện bảo tàng chỉ vì đấy là các tòa nhà tuyệt đẹp. Họ lang thang trong các căn phòng sáng trưng, đưa cặp mắt ghen tị nhìn những cái trần nhà trang trí đẹp mắt, sờ tay vào những thứ "cấm sờ", miệng không ngừng lẩm bẩm:
    - Chà chà! Xưa kia người ta sống mới sướng chứ!
    Họ chẳng cần biết các bức tường được trang trí bởi bàn tay nhà họa sĩ Pháp Puvi De Shavannei. Họ cần biết người chủ cũ tốn bao nhiêu tiền để xây biệt thự này. Họ leo cầu thang, nơi có các bức tượng đá cẩm thạch ở thềm nghỉ, và hình dung ngày xưa có bao nhiêu đầy tớ đứng đây, tiền công hàng tháng và tiền puộc-boa mà mỗi đầy tớ được nhận là bao nhiêu. Trên bệ lò sưởi có đặt đồ sứ, nhưng họ chả để ý đến nó, họ chỉ nghĩ rằng lò sưởi là thứ bất lợi và tốn kém quá nhiều củi. Ở phòng ăn, nơi thường được bọc ốp gỗ sồi, họ không thèm chú ý tới những vật chạm trổ tuyệt diệu. Họ bị dằn vặt bởi ý nghĩ: lão thương gia chủ nhà này ngày xưa đã ăn những món gì và hết bao nhiêu tiền tính theo thời giá đắt đỏ bây giờ.
    Ở bất cứ viện bảo tàng nào cũng có thể tìm thấy những kẻ như vậy. Trong lúc các đoàn tham quan đi xem kiệt tác này đến kiệt tác kia, thì loại người này cứ đứng giữa phòng, chẳng nhìn cái gì, cứ rầu rĩ lẩm bẩm.
    - Chà chà! Ngày xưa người ta sống mới gớm chứ!
    Lida vừa chạy ngoài phố, vừa nuốt nước mắt. Các ý nghĩ đuổi cô dồn dập. Cô nghĩ đến cuộc sống hạnh phúc và nghèo đói của mình.
    "Giá như có thêm một cái bàn và hai chiếc ghế, thì thật là đầy đủ. Và cả bếp dầu cũng phải có. Phải tổ chức cuộc sống chứ."
    - Thật chẳng ra thể thống gì hết! - Cô nói lên thành tiếng.
    Cái đói nổi lên cồn cào.
    - Được, được lắm. Chính mình đã biết mình phải làm gì rồi.
    Đoạn Lida đỏ mặt mua của bà bán rong một cái bánh mì kẹp giò. Dù cô đói đến mấy đến mấy, song ăn ngay ngoài đường cũng bất tiện. Gì thì gì chứ cô cũng là một sở hữu chủ đệm giường và cũng hiểu chân tơ kẽ tóc của cuộc sống. Cô ngoảnh mặt lại đàng sau rồi rẽ vào cổng một cái biệt thự hai tầng. Ở đây, với cảm giác cực kỳ thích thú, cô bắt đầu xử lý cái bánh vừa mua. Miếng giò hết ý. Một đoàn tham quan đi vào cổng. Lúc ngang qua chỗ Lida đứng bên tường, đoàn người cứ nhìn nhìn cô.
    "Kệ cho họ nhìn!" - Lida nổi cáu nghĩ thầm.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 18: BẢO TÀNG ĐỒ GỖ
    Lida lấy khăn mùi xoa lau miệng và phủi những vụn bánh dính ở áo. Cô thấy vui lên. Cô đang đứng trước tấm biển.
    BẢO TÀNG NGHỆ THUẬT ĐỒ GỖ.
    Về nhà bây giờ không tiện. Cũng chẳng có ma nào để đến chơi. Trong túi chỉ còn hai mươi cô-pếch. Lida bèn quyết định mở đầu cuộc sống tự lập của mình bằng việc vào xem bảo tàng. Sau khi kiểm lại số tiền đang có, Lida bước vào tiền sảnh,
    Ở đây cô vấp ngay phải một người rậm râu. Ông ta hầm hầm nhìn cái cột đá khổng tước, miệng lẩm bẩm qua bộ râu:
    - Ngày xưa họ sống giàu sang ghê!
    Lida trân trọng nhìn chiếc cột và đi lên lầu.
    Ở những phòng nhỏ hình vuông, trần thấp, đến mức mỗi người bước vào đó đều trở nên người khổng lồ, Lida đi lang thang chừng mười phút.
    Đấy là những phòng trang trí theo kiểu cổ đại, bọc gỗ hồng sắc và bạch dương, Karel - đồ gỗ ở đây trang nghiêm, đầy tính thượng võ. Hai cái tủ vuông mà cửa kính của chúng có hai ngọn lao đặt chéo nhau, được kê đối diện với bàn viết. Cái bàn to ơi là to. Ngồi bên chiếc bàn ấy chẳng khác gì ngồi bên quảng trường Teatral, và Nhà Hát Lớn với dãy cột và bốn con ngựa bằng đồng chở Apôlông đến xem buổi biển diễn đầu tiên vở "Hoa mào gà đỏ" sẽ chỉ nhỏ như cái lọ mực trên chiếc bàn ấy. Ít ra thì đó cũng là cảm tưởng của Lida, một người được nuôi dưỡng bằng cà rốt như một chú thỏ con. Góc phòng có những chiếc ghế bành cao, đầu ghế uốn lại kiểu sừng cừu. Ánh nắng đang rọi vào lớp vải hồng bọc ghế.
    Cô muốn ngồi ngay xuống chiếc ghế bành như thế, nhưng không được phép ngồi.
    Lida tưởng tượng khung cảnh sẽ ra sao, nếu đặt chiếc ghế kiểu cổ đại của vua Pavel cạnh tấm đệm giường sọc đỏ của cô. Thấy cũng bình thường. Cô đọc tấm biển nhỏ gắn trên tường có lời thuyết minh về căn cứ khoa học và tư tưởng của phong cách vua Pavel, rồi bực dọc về chuyện vợ chồng cô không có một phòng ở lâu đài này, cô bước ra một cái hành lang vừa bất ngờ gặp phải.
    Phía tay trái, ngay sát nền nhà, có một dãy cửa sổ hình bán nguyệt. Nhìn qua đó, Lida thấy phía dưới một phòng lớn màu trắng có hàng cột. Ở đấy cũng có đồ gỗ và khách tham quan đi lại. Chưa bao giờ cô nhìn thấy một căn phòng dưới chân mình.
    Ngạc nhiên và thán phục, cô cứ đứng nhìn mãi xuống bên dưới. Bỗng cô thấy ở dưới đó, hai người quen sáng nay của cô là Benđer và ông bạn đồng hành đầu trọc đang đi từ chỗ kê ghế bành đến chỗ kê chiếc bàn to.
    - Hay lắm! - Lida nói, - đỡ buồn rồi.
    Cô mừng rỡ chạy xuống phía dưới và bị lạc đường ngay lập tức. Cô lạc vào một phòng khách màu hồng trưng bày tới bốn mươi hiện vật. Đấy là loại ghế gỗ hồ đào chân cong. Từ phòng khách không có lối ra. Đành chạy ngược lại căn phòng tròn có ánh sáng trên trần hắt xuống, là nơi hình như chỉ có mấy chiếc gối hoa.
    Cô chạy ngang qua những chiếc ghế bọc gấm vóc từ thời phục hưng Italia, những chiếc tủ Hà Lan, ngang qua chiếc giường lớn kiểu gô-tích, có diềm, bốn chân hình xoắn, màu đen. Người nằm trên chiếc giường này trông sẽ chỉ bằng hạt đậu là cùng.
    Cuối cùng Lida nghe thấy tiếng ồn ào của một tốp người tham quan lơ đãng nghe ông trưởng đoàn vạch trần tham vọng đế quốc chủ nghĩa của Ekatêria đệ nhị qua việc bà nữ hoàng quá cố say mê đồ gỗ kiểu Loui Sez.
    Đây chính là cái phòng lớn có hàng cột lúc nãy Lida muốn xuống. Cô đi sang góc phòng đối diện, nơi đồng chí Benđer quen thuộc với cô đang hăng hái đối thoại với ông bạn đồng hành đầu trọc của mình.
    Tới gần, Lida nghe rõ giọng âm vang:
    - Đồ gỗ theo kiểu siêu Mô-đéc. Nhưng hình như không phải là thứ ta cần.
    - Đúng, nhưng rõ ràng ở đây còn có các phòng khác. Ta phải đi xem tất cả một cách có hệ thống.
    - Xin chào, - Lida nói.
    Hai gã đàn ông quay lại và cùng nhăn mặt.
    - Chào đồng chí Benđer. May quá, tôi gặp được anh ở đây, chứ một mình thì buồn chết. Nào, ta cùng đi xem với nhau cho vui nhé.
    Hai gã đàn ông nhìn nhau. Ippolit lấy lại tư thế cho chững chạc, mặc dù ông ta khó chịu về chuyện Lida có thể gây trở ngại cho công việc quan trọng là tìm chiếc ghế chứa kim cương.
    - Chúng tôi là dân tỉnh lẻ vớ vẩn, - Ostap nóng ruột nói, - mới vào đây. Còn cô hẳn là dân Mátxcơva chính cống cũng chịu vào xem chỗ này à?
    - Hoàn toàn tình cờ thôi. Tôi mới cãi nhau với Kôlia.
    - Thế nào? - Ippolit hỏi.
    - Thôi, ta rời khỏi phòng này thôi. - Ostap nói.
    - Nhưng tôi chưa xem! Mà phòng này đẹp ghê.
    - Bắt đầu đấy! - Ostap nói nhỏ vào tai Ippolit. Đoạn hắn quay sang phía Lida, nói tiếp - ở đây hoàn toàn chẳng có gì đáng xem. Phong cách suy đồi. Thời kỳ Kêrenki.
    - Người ta bảo tôi ở đâu gần đây có trưng bày đồ gỗ kiểu Hambx, - Ippolit nói, - có lẽ ta sang phòng khác xem.
    Lida đồng ý, cô khoác tay Ippolit (cô cảm thấy ông ta là một học giả hết sức đáng yêu) đi ra cửa. Mặc dù toàn bộ tính chất nghiêm trọng của tình hình và giờ phút quyết định trong việc tìm kiếm kho báu đã điểm, song Ostap đi sau cặp trai gái ấy vẫn không nhịn được cười. Hắn thấy tức cười trước cảnh vị đô thống sắm vai tình lang.
    Lida gây rắc rối cho hai thành viên hợp đồng này quá thể. Khi họ chỉ nhìn thoáng qua đã biết trong phòng không có thứ đồ gỗ cần thiết, muốn đi tuốt sang phòng khác, thì Lida lại thong thả xem kỹ từng hiện vật. Cô đọc thành tiếng toàn bộ lời giới thiệu dán trên hiện vật, cô đưa ra những lời bình phẩm gay gắt về khách tham quan. Bất giác cô tưởng tượng mỗi thứ đồ gỗ ở đây nếu đem về kê ở phòng "hộp bút" của mình thì sẽ ra sao. Cô hoàn toàn không thích chiếc giường kiểu gô-tích. Nó quá to. Ví thử có phép màu nào đó khiến Kôlia được phân phối một căn phòng rộng ba sagien 1 vuông chăng nữa, thì các hiện vật thời trung cổ ấy cũng không kê vừa trong phòng. Tuy vậy, Lida vẫn đi vòng quanh chiếc giường mấy lần, dùng bước chân để đo diện tích thật sự của nó. Lida rất vui. Cô không để ý đến bộ mặt nhăn như bị của hai ông bạn đường, mà tính cách hiệp sĩ của hai vị đó không cho phép họ cắm đầu đi thẳng sang phòng trưng bày đồ gỗ của nghệ dân lừng danh Hambx.
    - Chịu đựng chút nữa vậy, - Ostap nói nhỏ với Ippolit, - mấy chiếc ghế không chạy đâu mất mà sợ. Còn ngài đô thống này, xin ngài ôm eo cô ả vừa vừa thôi, tôi ghen đấy.
    Ippolit mỉm cười, vẽ tự mãn.
    Nhiều phòng trưng bày quá, tưởng chừng đi mãi vẫn không hết. Đồ gỗ thời đại Aleksanđr có bao nhiêu bộ mà kể. Kích thước tương đối nhỏ của chúng khiến Lida vô cùng thích thú.
    - Ô, xem này, xem này! - cô reo lên và kéo áo Ippolit, - ông có thấy cái bàn buy-rô này không? Cái bàn này mà kê ở phòng của tôi thì hết ý. Đúng thế không ông?
    - Tuyệt diệu! - Ostap giận dữ nói - Chỉ tội nó được làm ra vào thời đại suy đồi.
    - Tôi đã xem phòng này rồi, - Lida nói khi bước vào phòng khách trưng bày gỗ hồng sắc, - theo tôi, chả nên dừng ở đây.
    Lạ thay, cô thấy hai ông bạn đường này giờ đứng sững ở cửa như hai người lính gác.
    - Sao vậy? Ta đi tiếp chứ. Tôi mỏi chân rồi.
    - Hượm đã, - Ippolit gỡ tay Lida ra, - cô em chờ một chút nhé.
    Căn phòng lớn trưng bày toàn đồ gỗ. Những chiếc ghế kiểu Hambx kê dọc bức tường và xung quanh chiếc bàn. Chiếc đi-văng ở góc phòng cũng có một hàng ghế bao quanh. Những cái chân cong và những cái lưng ghế tiện lợi mới quen thuộc với Ippolit làm sao. Ostap nhìn ông ta dò xét, Ippolit đỏ mặt lên.
    - Tiểu thư mỏi chân rồi, - ông ta bảo Lida - tiểu thư hãy ngồi nghỉ ở đây một chút, để tôi và anh bạn xem phòng này đã. Có vẻ lý thú đây.
    Hai thành viên hợp đồng ấn Lida ngồi xuống và lách ra phía cửa sổ.
    - Chúng đấy hả? - Ostap hỏi.
    - Hình như là thế. Phải xem kỹ hơn.
    - Đủ cả mười chiếc chứ?
    - Để tôi đếm đã. Xin hãy chờ một phút...
    Ippolit bắt đầu đưa mắt từ chiếc ghế nọ đến chiếc ghế kia. Cuối cùng ông ta nói:
    - Xin lỗi, những hai chục cái. Không thể như vậy được. Mười cái thôi mới đúng.
    - Thì ông cứ nhìn cho kỹ. Có thể đây không phải là loại ghế ấy chăng.
    Hai người bắt đầu đi xem từng chiếc ghế.
    - Thế nào? - Ostap giục.
    - Hình như lưng ghế khác với loại của tôi.
    - Nghĩa là loại khác?
    - Vâng.
    - Có lẽ tôi ký hợp đồng với ông chỉ uổng công vô ích. Ostap hoàn toàn cụt hứng.
    - Thôi được, - Ostap nói, - phiên họp tiếp tục. Cái ghế không phải là cây kim. Sẽ tìm ra. Ông hãy đưa mấy tấm phiếu cho tôi. Đành phải tiếp xúc bất đắc dĩ với ban phụ trách viện bảo tàng. Ông hãy ra ngồi với con bé kia, để tôi đi một lát lo chuyện đó.
    - Sao ông buồn thế? - Lida hỏi. - Ông mệt rồi hả?
    Ippolit im lặng.
    - Ông có nhức đầu không?
    - Có, hơi hơi thôi. Lo nghĩ mà. Không có phụ nữ săn sóc nên lắm lúc sống rất cực.
    Lida đầu tiên hơi ngạc nhiên, sau đó nhìn kỹ ông bạn trọc đầu và cảm thấy ông ta đáng thương thật. Cặp mắt ông ta đầy vẻ đau khổ. Chiếc kính kẹp mũi không che được hai quầng mắt thâm sâu. Việc đột ngột chuyển từ cái lối sinh hoạt an nhàn của một nhân viên phòng hộ tịch thị trấn sang lối sinh hoạt bất tiện, bận rộn của một gã thợ săn kim cương, một gã phiêu lưu, có cái giá của nó. Dưới sự giám sát nghiêm ngặt của Ostap, Ippolit mất hết cả thể diện và nhanh chóng bị hòa tan vào cái trí tuệ ghê gớm của gã con trai vị công dân mang quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ. Giờ đây, ông muốn được ngồi riêng với nữ công dân kiều diễm Lida Kalachôva, ông muốn thổ lộ với nàng tất cả những đau khổ và xúc động của mình, nhưng ông không dám làm như vậy.
    - Vâng - ông nói và đắm đuối nhìn người đối thoại, - công việc nó thế đấy. Còn cô em sống thế nào, Lida?
    - Này, tên ông là gì nhỉ?
    Đôi bên nói rõ họ tên nhau cho biết.
    "Chuyện cổ tích tình yêu" - Ippolit vừa nhìn khuôn mặt giản dị của Lida, vừa nghĩ thầm. Lão đô thống quý tộc già bỗng khao khát thèm muốn sự vuốt ve của phụ nữ mà sự thiếu vắng của nó đã khiến ông sống rất cực. Ông bèn nắm chặt bàn tay của Lida trong bàn tay nhăn nheo của mình và bắt đầu say sưa kể chuyện Paris. Ông muốn trở nên giàu sang, muốn tiêu xài hoang phí. Ông muốn uống rượu sâm banh với một mỹ nhân ở một buồng riêng trong tiếng nhạc êm dịu do dàn nhạc nữ phát ra. Ông nói điều đó với cô bé Lida, một cô bé dĩ nhiên không biết gì về những khoản đó và do bản chất của mình, cô cũng không thể nhận thức được toàn bộ vẻ huyền diệu của lối ăn chơi đó. Mà Ippolit thì muốn hấp dẫn cô gái làm sao! Thành thử ông cứ kể hoài về chuyện Paris.
    - Ông là nhà khoa học phải không? - Lida hỏi.
    - Vâng, cũng gần như thế, - Ippolit trả lời và cảm thấy từ hồi quen Ostap, ông mới có thêm cái tính liều lĩnh trái hẳn với thói quen thận trọng của mười năm qua.
    - Thế ông bao nhiêu tuổi rồi, xin lỗi nếu câu hỏi thiếu tế nhị.
    - Đối với nền khoa học mà hiện giờ tôi đang đại diện, điều đó không có quan hệ gì.
    Câu trả lời nhanh chóng và chính xác ấy đã chinh phục được Lida.
    - Nhưng dẫu sao... Ba mươi? Bốn mươi? Năm mươi?
    - Gần gần! Ba mươi tám.
    - Ô hô! Trông ông trẻ hơn cái tuổi ấy nhiều.
    Ippolit cảm thấy hạnh phúc quá.
    - Bao giờ cô em cho tôi cái vinh hạnh được gặp lại cô em? - Ippolit nói giọng mũi.
    Lida ngượng ngùng. Cô cựa quậy người trên ghế và thấy buồn buồn.
    - Đồng chí Ostap đi đâu lâu thế nhỉ? - Cô hỏi, giọng trong trẻo.
    - Bao giờ, bao giờ và ở đâu chúng ta sẽ gặp lại nhau, cô em? - Ippolit nôn nóng hỏi lại.
    - Ồ, em chả biết đâu. Lúc nào cũng được.
    - Hôm nay nhé?
    - Hôm nay?
    - Tôi van cô em.
    - Cũng được thôi. Ông hãy đến chỗ vợ chồng em.
    - Không, ta gặp nhau ngoài đường hay hơn. Thời tiết dạo này tuyệt lắm. Cô em biết câu thơ này không: "Kìa tháng năm vui tươi. Kìa tháng năm hấp dẫn. Ôi không khí trong lành."
    - Thơ của Zharov phải không ạ?
    - H... M... Hình như thế. Vậy là hôm nay nhé? Ở đâu nào?
    - Ông lạ thật! Ở đâu cũng được nếu ông muốn thì ở ngay chỗ cái két sắt ấy. Ông biết chỗ đó chứ? Bao giờ trời tối...
    Ippolit vừa kịp hôn bàn tay Lida (ông làm động tác này rất trịnh trọng), thì Ostap trở lại với vẻ mặt rất nghiêm trang.
    - Xin lỗi mămden, - hắn nói nhanh, - nhưng tôi và ông bạn tôi không thể tiễn cô được. Có một việc nhỏ nhưng vô cùng hệ trọng. Chúng tôi phải đi ngay tới một địa điểm hẹn trước.
    Ippolit nghẹt thở.
    - Tạm biệt Lida, - ông nói, - xin lỗi, xin lỗi, nhưng chúng tôi vội thật đấy.
    Đoạn hai thành viên chạy đi luôn, để cô Lida đứng lại ngạc nhiên trong căn phòng bày la liệt các thứ đồ gỗ kiểu Hambx.
    - Nếu không có tôi thì sẽ chẳng đạt được kết quả gì, - Ostap nói khi hai người đi xuống cầu thang - Ông hãy cầu phúc cho tôi đi, cầu phúc đi, đừng sợ mỏi cổ! Ông hãy nghe đây! Đồ gỗ của ông không hề có giá trị bảo tàng. Nó chỉ đáng quẳng cho trại "lao công đào binh" mà thôi! Ông đã vừa lòng với tình huống ấy chưa?
    - Giễu cợt kiểu gì lạ vậy! - Ippolit nói vì đã bắt đầu tự giải phóng khỏi ách kìm kẹp của cái trí tuệ ghê gớm con trai gã công dân quốc tịch Thổ Nhĩ Kỳ nắm giữ.
    - Im nào, - Ostap lạnh lùng nói, - ông chưa biết điều gì xảy ra đâu. Nếu bây giờ chúng ta không lấy món đồ gỗ của chúng ta thì đi đứt. Sẽ chẳng bao giờ còn nhìn thấy chúng nữa. Tôi vừa có một cuộc trao đổi ý kiến nặng nề với tay chủ nhiệm cái bãi rác lịch sử này.
    - Kết quả ra sao?- Ippolit lớn tiếng,- Thằng cha chủ nhiệm bảo anh thế nào?
    - Bảo tôi tất cả những gì cần thiết. Ông đừng lo. "Xin ông cho biết," - tôi hỏi hắn, - "ông giải thích thế nào cái việc bộ ghế ở Stargorot gửi lên chỗ ông mà lại không thấy trưng bày?". Dĩ nhiên tôi dùng giọng lịch sự, thân mật với hắn. "Bộ ghế nào vậy?" - hắn hỏi - "ở viện bảo tàng chúng tôi không thể có chuyện như thế". Tôi bèn chìa ra mấy tấm phiếu. Hắn đi lục sổ sách, tìm kiếm, hàng nửa giờ sau mới quay lại. Ông thử tưởng tượng xem, bộ ghế ấy bây giờ ở đâu?
    - Mất rồi ư? - Ippolit thốt lên.
    - Không đâu, thế mới hay chứ. Ông thử tưởng tượng xem, ở cái xó chợ này mà nó vẫn nguyên vẹn cơ chứ. Như tôi đã nói với ông, nó không hề có giá trị bảo tàng bảo tiếc gì cả. Người ta đã vứt nó vào kho, và xin ông lưu ý cho, sau bảy năm (nó nằm chết dí trong kho những bảy năm đằng đẵng!) ngày hôm qua nó bị đem đi bán đấu giá. Trạm bán đấu giá của vụ quản lý khoa học. Và nếu như ngày hôm qua hoặc sáng hôm nay người ta chưa bán đến nó, thì nó sẽ là của ta! Ông thỏa mãn chưa?
    - Đi nhanh lên! - Ippolit hét to.
    - Xà ích! - Ostap lớn tiếng gọi xe ngựa.
    Hai nhân vật bước lên xe không cần mặc cả.
    - Ông hãy cầu chúa cho tôi đi, cầu chúa đi! Đừng sợ, thưa ngài thống chế "không quân". Gì chứ rượu, gái và cờ bạc thì ta sắp được ăn chơi thỏa sức. Tôi sẽ thanh toán với ông cả tiền mua chiếc áo gi-lê xanh này.
    Phòng bán đấu giá nằm ở phố Pêtrovka. Hai thành viên hợp đồng xuống xe và chạy bổ vào trong đó như hai con ngựa đua.
    Ở ngay phòng đấu giá đầu tiên, họ đã nhìn thấy cái mà họ bao lâu tìm kiếm. Cả mười chiếc ghế chân cong của Ippolit Matveevich đều kê dọc bức tường. Thậm chí cả lớp vải bọc của nó cũng không hề bị bám bẩn hoặc sờn rách. Chúng tươi mát và sạch sẽ tưởng chừng vừa mới tách ra khỏi sự giám sát của bà Petukhova căn cơ.
    - Phải những cái ghế đó không? - Ostap hỏi.
    - Trời ơi, trời ơi, chính chúng đấy, - Ippolit khẳng định - Chính những cái ghế ấy đấy. Lần này thì chắc như đinh đóng cột.
    - Dầu sao cũng phải kiểm tra cho kỹ, - Ostap cố thản nhiên nói.
    Hắn bước lại chỗ người bán hàng.
    - Ông ơi, mấy chiếc ghế kia hình như của viện bảo tàng thanh lý phải không?
    - Mấy chiếc ghế ấy à? Vâng.
    - Vậy ông có bán không?
    - Có.
    - Giá bao nhiêu?
    - Chưa có giá. Chúng tôi bán theo kiểu đấu giá.
    - Ra thế, tí nữa sẽ bán chứ?
    - Không, hôm nay hết giờ rồi. Mai sẽ bán từ năm giờ sáng.
    - Bây giờ không bán thật ư?
    - Thật, ngày mai, từ năm giờ sáng.
    Phải bỏ mấy chiếc ghế ở đây mà đi ngay thì quả là không thể được.
    - Xin phép cho bọn tôi xem một chút, được chứ ạ? - Ippolit lúng búng nói.
    Hai thành viên hợp đồng xem xét bộ ghế hồi lâu. Họ ngồi thử và còn xem cả vài đồ vật khác cho đỡ bất tiện. Ippolit cứ xuýt xuýt xoa xoa và chốc chốc lại huých khuỷu tay vào người Ostap.
    - Ông hãy cầu nguyện cho tôi đi! - Ostap thì thầm - cầu nguyện đi, ông đô thống.
    Ippolit sẳn sàng không chỉ cầu nguyện cho Ostap, mà còn hôn hít cả cái gót giày màu đỏ của ông vua mánh.
    - Ngày mai, - Ippolit lẩm bẩm, - ngày mai, ngày mai, ngày mai.
    Ông ta muốn hét to lên.
    Chú thích
    1.1 Sagen bằng 2,134m. Đơn vị đo lường cũ của Nga.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 19: BẦU CỬ KIỂU TÂY ÂU
    Trong khi hai nhân vật của chúng ta tiến hành chương trình sinh hoạt văn hóa giáo dục tham quan các viện bảo tàng và tạm ứng tiền tiêu pha cho các cô gái, thì ở thành phố Stargorot, trên phố Plêkhanov, hai lần góa phụ Gritsasueva, một người phụ nữ to béo và yếu đuối, tiến hành những buổi hội ý bí mật với chị em láng giềng của mình. Mọi người chụm đầu xem mẩu giấy Ostap để lại, thậm chí còn đem soi nó lên ánh sáng để nhìn cho kỹ. Nhưng không thấy bất cứ cái dấu chìm nào cả, mà ví thử có đi chăng nữa, thì mấy chữ viết ngoáy của Ostap cũng chả vì thế mà trở nên dễ đọc hơn.
    Ba ngày trôi qua, chân trời vẫn mịt mù tăm cá. Cả Benđer lẫn cái dụng cụ lọc bã trà, cả chiếc vòng lẫn cái ghế đều không trở lại. Tất cả những vật thể có hồn và không có hồn ấy đều biến mất tăm một cách đầy bí ẩn.
    Góa phụ liền áp dụng những biện pháp kiên quyết. Chị ta tới tòa sọan báo "Sự thật Stargorot" và người ta lập tức giúp chị ta đăng một tin ở mục "Thông báo trẻ lạc"
    KÍNH XIN
    Tất cả những ai biết chỗ ở.
    Đồng chí Benđer tuổi trạc 25 - 30, mặc quần màu xanh lá cây, đi giày màu vàng và áo gi-lê màu xanh da trời, đã bỏ nhà ra đi.
    Tóc đen.
    Ai biết, xin báo về phố Plêkhanov, 15, cho bà Gritsasueva, sẽ có hậu tạ.
    - Người này là con trai bà à? - Nhân viên ở tòa soạn hỏi với vẻ thông cảm.
    - Chồng tôi đó! - Góa phụ đau khổ vừa trả lời vừa lấy khăn che mặt.
    - A, chồng bà!
    - Chồng chính thức hẳn hoi. Mà sao kia?
    - Không sao. Dẫu sao bà cũng nên báo với công an.
    Gritsasueva đâm hoảng. Chị ta vẫn sợ công an. Trước những cái nhìn rất lạ, góa phụ rời khỏi tòa soạn.
    Lời kêu gọi vang lên ba lần từ trang báo "Sự thật Stargorot". Nhưng đất nước vẫn lặng thinh. Không tìm được ai biết chỗ ở của "gã tóc đen đi giày màu vàng". Chẳng một ai đến số nhà 15 để nhận sự hậu tạ. Chị em láng giềng ngồi lại bàn bạc.
    Vẻ mặt góa phụ ngày thêm rầu rĩ. Và lạ thay: đức lang quân vút bay như một quả tên lửa, cắp theo chiếc ghế đẹp và cái dụng cụ lọc bã trà lên chín tầng mây, thế mà góa phụ vẫn tha thiết với hắn, vẫn nồng nàn tình yêu. Họa có trời kia mới hiểu nổi trái tim của phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ góa chồng.
    Về khoản tàu điện thì ở Stargorot, dân chúng đã quen dần và đã bước lên tàu không chút e ngại. Mấy người soát vé cất giọng lanh lảnh: "Hết chỗ rồi", và mọi việc diễn ra tựa hồ ở thành phố này đã có tàu điện từ đời nảo đời nào. Tất cả các loại thương phế binh, phụ nữ có con nhỏ và Viktor Mikhailôvich Polesov ngồi ở một toa riêng. Nghe tiếng giục "Mời ông mua vé", Polesov trịnh trọng đáp: "Tôi có vé năm" và thản nhiên đứng bên cạnh nhân viên coi toa. Ông ta không hề có và cũng không có loại vé đi tàu cả năm.
    Sự hiện diện của Ippolit Matveevich và vua mánh đã để lại ở thành phố dấu ấn sâu sắc.
    Những người tham dự phiên họp kín vẫn giữ nguyên cái bí mật mà họ được tin cậy thổ lộ. Ngay cả Viktor Mikhailôvich Polesov cũng im lặng, mặc dù ông ta chỉ muốn bộc bạch với bất cứ ai vừa gặp toàn bộ câu chuyện bí mật đang nung nấu tâm can ông. Thế nhưng nhớ đến đôi vai vạm vỡ của Ostap, ông đành nén lòng lại. Ông chỉ dám dốc bầu tâm sự mỗi lần chuyện trò với mụ thầy bói.
    - Bà Êlêna này, - ông hỏi, - tại sao các vị lãnh đạo của chúng ta vắng mặt lâu thế nhỉ?
    Bà Êlêna Bour cũng rất mong biết được điều đó, nhưng bà chả có tin tức gì.
    - Chắc là bây giờ, - ông thợ nguội bẻm mép tiếp lời, - đang thực thi một nhiệm vụ đặc biệt đấy bà nhỉ?
    Mụ thầy bói tin rằng đúng là như vậy. Rõ ràng con vẹt mặc áo đỏ cũng tán thành nhận định ấy. Nó nhìn Polesov bằng một con mắt tròn thông minh, như muốn nói: "Hãy cho tôi một hạt dẻ, tôi sẽ kể hết cho mà nghe. Ông Polesov ơi, ông sẽ trở thành thị trưởng. Hết thảy bọn thợ nguội sẽ thuộc quyền ông. Còn lão lao công ở nhà số No5 sẽ vẫn chỉ làm cái việc quét sân vì đã dám nhiếc ông là đồ lưu manh".
    - Bà Êlêna, bà có nghĩ rằng chúng ta phải tiếp tục hoạt động không nào? Làm sao có thể cứ ngồi khoanh tay kia chứ!
    Mụ thầy bói tán thành và nhận xét:
    - Ippolit Matveevich là một vị anh hùng cái thế!
    - Quả vậy, thưa bà Êlêna! Rõ như ban ngày. Còn tay sĩ quan tùy tùng thì sao? Thạo việc quá đi mất! Không rõ ý bà thế nào chứ sự nghiệp của chúng ta không thể giậm chân tại chỗ mãi được. Nhất quyết là không để thế được.
    Và Polesov bắt đầu hành động. Ông thường xuyên đến thăm mọi thành viên của hội kín "Lưỡi kiếm và lưỡi cày", đặc biệt là quấy rầy ông chủ nhiệm Ác-ten "Bánh vòng Mátxcơva" tức ngài Kisliarski thận trọng. Hễ thấy bóng Polesov là Kisliarski sầm mặt lạnh. Những lời nhấn mạnh sự cần thiết phải hành động khiến ông chủ lò bánh nhát như thỏ đế run bắn cả người lên.
    Cuối tuần, tất cả các thành viên tập trung ở căn phòng nuôi vẹt của bà Êlêna Bour. Polesov sôi sục.
    - Này Polesov, ông đừng nhặng xị lên nữa, - Điađev nhận xét tỉnh táo, - làm gì mà ông cứ suốt ngày chạy rông khắp thành phố thế?
    - Cần phải hành động! - Polesov đốp lại.
    - Ừ, thì phải hành động, nhưng đừng có hô hoán ầm ĩ. Thưa các vị, tôi có ý kiến như sau. Nếu Ippolit Matveevich đã nói, thì sự nghiệp của chúng ta quả là thiêng liêng. Và chắc rằng chúng ta chả phải chờ đơi lâu nữa. Mọi chuyện sẽ diễn biến thế nào, ta khỏi lo, đấy là trách nhiệm của các quân nhân. Còn chúng ta thuộc bên dân sự, là đại diện của giới trí thức và thương gia thành phố. Đối với chúng ta, điều quan trọng là gì? Là phải sẵn sàng. Chúng ta đã có cái gì chưa? Có trung tâm chỉ đạo chưa? Chưa. Ai sẽ đứng đầu thành phố? Chưa có ai cả. Thưa các vị, đấy là điều cốt yếu nhất. Nước Anh, thưa các vị, sẽ không khách sáo với bọn bôn-sê-vích nữa đâu. Đó là dấu hiệu đầu tiên của chúng ta, tất cả sẽ thay đổi, thưa các vị, và thay đổi cực nhanh cho mà xem. Xin các vị cứ tin lời tôi.
    - Về điểm ấy thì bọn tôi không chút nghi ngờ, - Charushnikov phồng má nói.
    - Ngài không nghi ngờ thì tốt lắm. Còn ý kiến của ngài Kisliarski? Và hai anh bạn trẻ nữa?
    Nikesha và Vlađei dùng toàn bộ hình vẽ của mình để thể hiện niềm tin vào sự thay đổi cực nhanh. Còn Kisliarski sau khi nghe gã chủ tiệm buôn "Đóng gói nhanh" nói rằng mình sẽ không trực tiếp tham gia các cuộc xung đột quâu sự, thì hoan hỉ ra mặt.
    - Và bây giờ ta phải làm gì? - Polesov nóng ruột hỏi.
    - Hượm đã, - Điađev nói, - hãy noi gương anh bạn tùy tùng của ngài Ippolit. Mới khôn khéo làm sao! Mới thận trọng làm sao! Các vị đã thấy anh ta khôn khéo lái công việc sang vấn đề cứu giúp trẻ lang thang rồi chứ? Chúng ta cũng nên hành động như vậy. Chúng ta chỉ cứu giúp trẻ mồ côi thôi. Thưa các vị, bây giờ chúng ta hãy đề cử người vào các chức vụ!
    - Chúng tôi xin bầu ngài Ippolit Matveevich Vorobjaninov làm ngài đô thống quý tộc! - Hai gã Nikesha và Vlađei nói to.
    Charushnikov ho một tiếng độ lượng.
    - Ngài Ippolit ít nhất cũng ngang chức bộ trưởng. Có khi còn cao hơn nữa, thành nhà độc tài kia!
    - Ồ, thưa các vị, chức đô thống là chuyện phụ, - Điađev nói - Chúng ta cần nghĩ đến chức tỉnh trưởng, chứ không phải đến chức đô thống. Chúng ta hãy bắt đầu từ chức tỉnh trưởng. Tôi cho rằng...
    - Tôi đề cử ngài Điađev! - Polesov reo lên - Còn ai có thể cầm cân nẩy mực cả cái tỉnh này nữa?
    - Tôi rất cảm động về sự tin cậy... - Điađev nói.
    Nhưng Charushnikov đột nhiên đỏ mặt ngắt lời:
    - Vấn đề này, thưa các ngài, - ông ta nói, vẻ tự ái, - cần phải thảo luận kỹ đã.
    Ông ta cố gắng không nhìn Điađev.
    Ông chủ hãng "Đóng gói nhanh" kiêu hãnh ngó xuống đôi ủng của mình, - đôi ủng bị dính nhiều mạt cưa.
    - Tôi không phản đối, - Điađev nói, - Xin các vị tiến hành bầu cử. Bằng cách bỏ phiếu kín hay giơ tay biểu quyết nào?
    Charushnikov tự ái nói:
    - Ta không nên bầu cử theo kiểu chính quyền Xô viết. Tôi đề nghị đã bầu phải bầu cho đúng theo kiểu Tây Âu. Đó là bỏ phiếu kín.
    Người ta xé mấy mảnh giấy và bầu. Điađev được bốn phiếu. Charushnikov được hai. Ai đó bỏ phiếu trắng. Nhìn vẻ mặt Kisliarski, có thể biết chính là ông ta. Ông ta chả muốn gây quan hệ căng thẳng với ngài tỉnh trưởng tương lai, bất kể người ấy là ai.
    Khi Polesov láu táu công bố kết quả cuộc bỏ phiếu thật sự theo kiểu Tây Âu, một sự im lặng nặng nề bao trùm căn phòng. Người ta cố gắng tránh nhìn Charushnikov. Vị công dân được đề cử vào chức tỉnh trưởng nhưng không trúng cử ngồi rũ người xuống.
    Êlêna Bour thương ông ta quá. Thì bà ta vừa bỏ phiếu bầu ông ta xong.
    Phiếu thứ hai do chính Charushnikov, một tay am hiểu chuyện bầu cử, bỏ cho mình. Bà Êlêna Bour tốt bụng liền lên tiếng:
    - Còn chức thị trưởng tôi đề nghị dẫu sao cũng bầu cho Charushnikov.
    - Sao lại dẫu sao? - Ngài tỉnh trưởng mới đắc cử tỏ ra rộng lượng - Không phải dẫu sao, mà chính là ngài Charushnikov, chứ không còn ai khác. Chúng ta đều đã biết hoạt động xã hội của ngài Charushnikov.
    - Đúng, đúng! - Tất cả đồng thành hô to.
    - Vậy ta coi như đã bầu xong chức đó.
    Charushnikov bỗng sực tỉnh và thậm chí phản đối:
    - Không, không thưa các vị, tôi đề nghị phải bỏ phiếu hẳn hoi. Chức thị trưởng đáng được bỏ phiếu hơn cả chức tỉnh trưởng nữa kia. Nếu các vị còn tín nhiệm tôi thì thưa các vị, xin các vị cứ bỏ phiếu cho.
    Các mẫu giấy gấp được ném vào chiếc lọ đựng đường rỗng.
    - Sáu phiếu thuận - Polesov nói - một phiếu trắng.
    - Xin chúc mừng ngài thị trưởng! - Kisliarski nói. Vẻ mặt của ông ta lộ rõ rằng lần này phiếu trắng ấy cũng là của ông ta - xin chúc mừng ngài!
    Charushnikov tươi như hoa.
    - Nên giải trí một chút, thưa các vị, - Điađev nói - Này Polesov, ông hãy chạy ra chỗ tiệm ăn "Tháng Mười" mua vài món về đây. Có tiền chứ?
    Polesov dùng tay ra một điệu bộ bí hiểm và chạy đi. Cuộc bầu cử tạm dừng để rồi được tin tức trong lúc ăn tối.
    Raspopov, nguyên hiệu trưởng trường trung học quý tộc hiện là chủ hiệu sách cũ, được bầu vào chức đốc học của tỉnh.
    Mọi người đều khen ngợi ông ta. Riêng Vlađei sau cốc rượu vốt-ca thứ ba, lên tiếng phản đối:
    - Không nên bầu ông ta. Hồi trước, trong kỳ tốt nghiệp, ông ta đã phết cho tôi điểm hai môn lôgic học.
    Mọi người nhao nhao công kích Vlađei:
    - Trong giờ phút quyết định như thế này không nên suy tính lợi lộc cá nhân. Anh hãy nghĩ đến tổ quốc!
    Mọi người thuyết phục Vlađei nhanh đến nỗi chính anh ta cũng bỏ phiếu cho kẻ đã làm khổ mình. Raspopov được bầu làm quan đốc học của tỉnh, trừ một phiếu trắng.
    Kisliarski được bầu làm giám đốc sở lao động. Ông ta không phản đối chuyện đó, nhưng để đề phòng bất trắc, ông ta lại bỏ phiếu trắng.
    Sau khi điểm mặt tất cả họ hàng ruột thịt và số người quen biết, mọi người bầu các chức danh sau đây: Cảnh sát trưởng, giám đốc sở y tế, thanh tra công nghiệp và cổ phần, chưởng tố, thẩm phán và chánh án tòa án tỉnh, giám đốc sở điền địa, chủ tịch hội thương gia, chức quan săn sóc trẻ sơ sinh và cuối cùng là chức hội trưởng hội Philistanh. Êlêna Bour được cử làm hội trưởng hai hội "Giọt sữa" và "Hoa trắng". Nikesha và Vlađei do còn ít tuổi được cử làm công chức ở tòa tỉnh trưởng để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt.
    - Xin lỗi, - bỗng Charushnikov thốt lên, - tỉnh trưởng có những hai công chức kia à! Thế còn tôi?
    Tỉnh trưởng nhẹ nhàng đáp:
    - Theo biên chế thì thị trưởng không cần có người để sai vặt.
    - Thế thì phải có thư ký chứ?
    Điađev đồng ý. Êlêna Bour cũng hăng hái hẳn lên. Bà ngập ngừng đề nghị:
    - Tôi có một đứa cháu còn trẻ, nhưng rất đáng yêu và đứng đắn. Con trai mađam Cherkêsova... Rất, rất đáng yêu, rất có khả năng... Hiện nay, cháu đang thất nghiệp. Phải chờ sở lao động bố trí. Có giấy chứng nhận hẳn hoi. Người ta hứa sắp tới sẽ đưa cháu vào làm ở... Ngài thị trưởng có thể nhận cháu làm thư ký được chăng? Mẹ cháu sẽ biết ơn ngài lắm lắm.
    - Cũng có thể, - Charushnikov khoan dung đáp, - Các ngài thấy thế nào? Thôi được, tôi nghĩ rằng cũng ổn thỏa thôi.
    Điađev nhận xét:
    - Hình như thế là xong. Vấn đề bầu cử xong rồi đấy nhỉ?
    - Còn tôi ạ? - Bỗng một giọng nói thanh thanh, hồi hộp vang lên.
    Tất cả quay lại. Polesov bàng hoàng đứng chôn chân bên cạnh con vẹt. Nước mắt ứa ra trên cặp lông mi đen đen của Polesov. Ai nấy đều thấy ngượng ngùng. Quan khách chợt nhớ rằng họ vừa uống rượu của Polesov, rằng nói chung ông ta là một trong những nhà tổ chức chủ yếu của "Liên minh lưỡi kiếm và lưỡi cày" ở Stargorot.
    Êlêna Bour đưa tay ôm hai thái dương và sợ hãi thốt lên:
    - Viktor Mikhailôvich! - tất cả cùng rên rỉ - ông bạn yêu quý! Ồ, sao ông không thấy ngượng nhỉ, ai đời lại đứng lẫn vào góc nhà như vậy? Mời ông lại đây nào!
    Polesov tiến lại bên bàn. Ông ta đau khổ. Ông không ngờ các chiến hữu của "Liên minh lưỡi kiếm và lưỡi cày" lại đối xử với ông tệ bạc như vậy.
    Êlêna Bour không nhận định được, bà nói:
    - Thưa các vị, thật là quá quắt! Sao các vị có thể quên ông Viktor Mikhailôvich Polesov thân thiết của chúng ta được nhỉ?
    Bà đứng dậy và hôn vào cái trán ám khói của ông thợ nguội quý phái.
    - Thưa các ngài, chẳng lẽ Viktor Polesov không xứng với chức đốc học hoặc cảnh sát trưởng hay sao?
    Tỉnh trưởng hỏi:
    - Polesov, ông có muốn làm quan đốc học không?
    - Dĩ nhiên rồi, ông ấy sẽ là vị quan đốc học tuyệt diệu nhất, nhân đạo nhất, - quan thị trưởng vừa nhăn mặt nuốt món nấm vừa nhận xét.
    - Còn ngài Raspopov? - Polesov tự ái kéo dài giọng - các ngài đã bầu ông ấy vào chức đó rồi mà.
    - Ừ nhỉ, bây giờ biết nhét Raspopov vào đâu?
    - Vào chức đội trưởng đội cứu hỏa chăng?
    - Đội trưởng cứu hỏa! - Polesov bỗng xúc động nói to.
    Trước mắt Polesov chợt hiện ra chiếc thang cứu hỏa, ánh lửa hồng, tiếng kèn thúc và tiếng trống giục. Những chiếc rìu lấp lánh, những cây đuốc chạy qua chạy lại nhớn nhác và những chiếc xe ngựa đưa ông lao vun vút tới đám cháy ở nhà hát thành phố.
    - Đội trưởng cứu hỏa! Tôi muốn làm đội trưởng đội cứu hỏa!
    - Thế càng hay! Xin chúc mừng ông! Từ nay ông là đội trưởng cứu hỏa.
    - Chúc mừng ngành cứu hỏa phát đạt! - giám đốc sở lao động mỉa mai.
    Tất cả đổ xô phê phán Kisliarski.
    - Bao giờ ông cũng tả khuynh! Chúng tôi biết ông quá mà!
    - Các ngài ơi, tôi tả ở điểm gì?
    - Chúng tôi biết quá mà.
    - Đồ tả khuynh!
    - Tất cả bọn Do Thái đều tả khuynh.
    - Thưa các ngài, tôi không hiểu những câu đùa cợt kiểu ấy đâu.
    - Tả khuynh, tả khuynh, ông đừng giấu giếm nữa!
    - Đêm nào ông cũng nằm mơ gặp Miliukov.
    - Kađet! Kađet! 1
    - Bọn Kađet đã bán rẻ Phần Lan - Charushnikov bỗng lẩm bẩm, - đã vay tiền của bọn Nhật! Đã chia rẽ quân đội!
    Kisliarski không chịu nổi hàng loạt lời buộc tội vô căn cứ. Ông ta tái mặt, chớp chớp mắt, ôm chặt lấy lưng ghế và nói, giọng lạc đi:
    - Tôi luôn luôn theo phái Tháng Mười và sẽ còn như vậy.
    Mọi người bắt đầu xem xét ai theo đảng phái nào. Charushnikov nói:
    - Thưa các vị, nguyên tắc trước tiên là dân chủ. Tòa thị trưởng của chúng tôi phải mang tính chất dân chủ. Nhưng không chấp nhận bọn Kađet. Năm mười bảy chúng đã gây khá nhiều trò nhơ nhuốc.
    Quan tỉnh trưởng ranh mãnh hỏi:
    - Tôi hy vọng trong số chúng ta sẽ không có cái bọn gọi là đảng viên xã hội dân chủ 2 chứ?
    Tả khuynh hơn các đại biểu phái Tháng Mười mà Kisliarski đại diện ở cuộc họp này không có ai cả. Charushnikov tuyên bố mình là "Trung ương". Đội trưởng đội cứu hỏa thì theo phái cực hữu. Ông ta hữu đến nỗi thậm chí không biết mình thuộc đảng phái nào.
    Mọi người bàn đến chiến tranh.
    - Không nay thì mai thôi, - Điađev nhận định.
    - Thế nào chiến tranh cũng xảy ra.
    - Tôi khuyên các vị nên tích trữ một số thứ trong khi chưa muộn.
    - Các ngài nghĩ thế ư? - Kisliarski lo ngại.
    - Thế còn ngài nghĩ sao? Ngài tưởng rằng giữa thời chiến có thể mua được cái gì à? Ngay hôm nay phải ra chợ mua bột mì thôi! Các đồng tiền đúc bằng bạc sẽ biến mất, loại tiền giấy sẽ nhan nhản, tem thư cũng ngang giá như tiền, thôi thì cứ gọi là lộn tùng phèo.
    - Dứt khoát là chiến tranh sẽ bùng nổ.
    Điađev nói:
    - Các vị thế nào không biết chứ tôi sẽ tung hết số tiền để dành ra mua các vật phẩm thiết yếu.
    - Còn cái xưởng của ngài?
    - Xưởng cứ hoạt động, bột mì và đường thì tôi cứ mua. Nghĩa là tôi khuyên các vị cũng làm như vậy. Lời khuyên chân tình đấy.
    Polesov cười khẩy:
    - Bọn bôn-sê-vích sẽ đánh nhau thế nào? Bằng cái gì? Chúng lấy gì để đánh nhau. Dùng những khẩu súng trường cà là mèn ư? Có máy bay không? Một thằng cộng sản nổi tiếng bảo tôi rằng bọn chúng có, các ngài nghĩ sao, chúng có bao nhiêu tàu bay?
    - Độ hai trăm chiếc!
    - Hai trăm cơ à? Không phải hai trăm, chỉ có ba mươi hai chiếc thôi! Còn nước Pháp có những tám mươi ngàn máy bay chiến đấu.
    - Phải... Bọn bôn-sê-vích sẽ ốm đòn.
    Quan khách giải tán vào lúc quá nửa đêm.
    Tỉnh trưởng đưa tiễn thị trưởng. Cả hai đi rất đều bước.
    - Ngài tỉnh trưởng! - Charushnikov nói, - Tỉnh trưởng gì ngài, một khi ngài không phải là tướng.
    - Tôi sẽ là tướng trong biên chế, lúc ấy ông sẽ phát ghen lên đấy. Lúc nào muốn, tôi sẽ tống ông vào tù. Nhà tù của tôi.
    - Bỏ tù tôi thế nào được. Tôi được tín nhiệm trúng cử hẳn hoi.
    - Cứ mỗi cái phiếu bầu tương đương với hai năm ngồi sau song sắt.
    - Tôi yêu cầu ngài chớ cợt nhả với tôi! - Charushnikov bỗng hét vang cả phố.
    - Đồ ngốc, làm gì mà kêu toáng lên thế? - Tỉnh trưởng hỏi. - Ông muốn vào ngủ trong đồn công an hả?
    - Tôi không thể ngủ ở đồn công an, - Thị trưởng đáp, - Tôi là viên chức Xô viết...
    Một ngôi sao lấp lánh. Đêm mới đẹp làm sao. Trên đường phố vị quan đầu tỉnh và ngài thị trưởng vẫn tiếp tục tranh cãi với nhau.
    Chú thích
    1.Kađet là tên chung gọi các thiếu sinh quân hồi trước cách mạng 1917.
    2.Một xu hướng chính trị xuất hiện cuối thế kỷ 19 trong phong trào công nhân quốc tế, bắt đầu đề ra mục tiêu đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, về sau chuyển thành trường phái cơ hội tiểu tư sản.

Trang 2 / 5 ĐầuĐầu 1234 ... Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-26-2020, 04:29 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-06-2019, 12:53 PM
  3. Những chiếc ghế độc đáo có “1-0-2″
    By sophienguyen in forum WallPapers
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-27-2016, 11:53 PM
  4. Chiếc ghế bành màu da người
    By duyanh in forum Truyện Ngắn
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 04-26-2014, 09:25 PM
  5. 10 chiếc ghế tuyệt vời và độc đáo nhất
    By giavui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-20-2014, 04:30 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •