Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu chỉ sống được nhờ đau khổ. Sống trong hạnh phúc, tình yêu sẽ chết dần chết mòn.
Bà De Giradin
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 36

Chủ Đề: Đỉnh Gió Hú - Emily Bronte - Nhất Linh dịch

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Đỉnh Gió Hú - Emily Bronte - Nhất Linh dịch

    .
    Đỉnh Gió Hú
    Tác giả: Emily Bronte
    Nguyên tác: Wuthering Heights
    Dịch giả: Nhất Linh, Nguyễn Tường Thiết


    Nguyễn Tường Thiết giới thiệu
    Tác giả Emily Bronte (1818-1848) và Wuthering Heights






    Emily Bronte sinh năm 1818, con một vị mục sư nghèo và nghiêm khắc người Ái Nhĩ Lan, mẹ là người Anh. Nữ sĩ là người thứ tư trong số sáu chị em, năm gái một trai, trong đó chị là Charlotte và em gái là Anne đều là văn sĩ danh tiếng. Gia đình ở Thornton, một làng xa xôi khuất nẻo thuộc tỉnh Yorkshire, Anh quốc. Mấy chị em sinh trưởng ở đấy như những cô gái cấm cung ít được tiếp xúc với đời.

    Emily Bronte rất ít có cơ hội đi học, và tuy sự học chẳng đi đến đâu, cô cũng có thời gian đi dậy học tại Halifax năm lên 18 tuổi. Nhưng sáu tháng sau cô trở về vì cảm thấy nghề làm cô giáo vất vả quá. Không kể một vài lần đi thăm viếng những thành phố lân cận, Emily suốt đời quanh quẩn ở nhà, kéo dài những ngày tháng nghèo nàn bệnh hoạn giữa khung cảnh thê lương của miền hoang dã. Năm ba mươi tuổi, nữ sĩ chết vì bệnh lao sau khi đã tận tụy làm việc để cứu giúp người em trai nghiện rượu và thuốc phiện. Để đền bù lại, người em trai này đã chết trước Emily ba tháng.

    Thoạt tiên ba chị em chung nhau xuất bản một tập thơ nhưng không thành công, và xoay sang viết tiểu thuyết. Charlotte viết cuốn Jane Eyre (Kiều Giang) và được hoan nghênh ngay. Emily viết cuốn Wuthering Heights tức Đỉnh Gió Hú này dưới bút hiệu là Ellis Bell và xuất bản vào cuối năm 1847, một năm trước khi nữ sĩ qua đời tại Haworth vào ngày 19 tháng chạp năm 1848.

    Mới đầu ít người biết thưởng thức tác phẩm này. Đối với thời cổ xưa ấy người ta cho là thô lỗ, tục tằn. Nhưng rồi càng ngày người ta càng nhận thấy chân giá trị của nó và hoan nghênh nhiệt liệt. Chua chát thay, Emily đã không còn sống để biết mình nổi tiếng.

    Nhà văn W. Somerset Maugham đã chọn Đỉnh Gió Hú là một trong mười cuốn tiểu thuyết ông cho là hay nhất thế giới.

    Ông viết: “Đỉnh Gió Hú không phải là một cuốn sách để chúng ta đàm luận, nó là một cuốn sách để chúng ta đọc... Nó chứa đựng một thứ mà rất ít tiểu thuyết gia có thể cho chúng ta, ấy là Năng lực. Tôi chưa thấy một cuốn tiểu thuyết nào mà nỗi buồn rầu thống khổ, niềm vui sướng điên cuồng, tính độc ác vô tình, sự ám ảnh của ái tình được diễn tả một cách kỳ diệu như trong Đỉnh Gió Hú.”

    Đỉnh Gió Hú là tác phẩm dịch thuật duy nhất của văn hào Nhất Linh.
    Ông đã dành những giờ rảnh hiếm hoi trong cuộc đời rất bận rộn của ông để dịch cuốnWuthering Heights này từ nguyên tác Anh ngữ phối hợp với bản Pháp ngữ Les Hauts de Hurle-Vent của dịch giả Frédéric Delebecque. Đầu tiên ông dịch nhan truyện là Mỏm Gió Hú, sau mới sửa thành Đỉnh Gió Hú trước khi đăng một phần trên Nguyệt san Tân Phong(Sài Gòn, Việt Nam) vào năm 1960.

    Trong bản thảo viết tay mà chúng tôi hiện giữ có ghi những mốc thời gian từ lúc khởi dịch cho đến khi kết thúc: 19-12-1952, 21-8-1953, 27-6-1960 và 18-1-1962. Như vậy, sau khi viết xong cuốn tiểu thuyết sau cùng Giòng sông Thanh Thủy vào năm 1961, Nhất Linh đã cố gắng mà không dịch xong Đỉnh Gió Hú trước khi ông qua đời vào ngày 7-7-1963.

    Năm 1974 chúng tôi phụ trách nhà xuất bản Phượng Giang có nhờ nhà văn Bảo Sơn dịch tiếp và Đỉnh Gió Hú được xuất bản lần đầu tiên năm 1974 tại Sài Gòn, Việt Nam.

    Hiện nay vì không có trong tay ấn bản của nhà Phượng Giang để in lại, nên chúng tôi quyết định đánh máy từ bản thảo của Nhất Linh và tự dịch tiếp một số chương cuối để hoàn tất và tái bản cuốn truyện giá trị này. Chúng tôi cố gắng theo sát tinh thần dịch thuật của văn hào Nhất Linh để giữ cho hơi văn toàn tác phẩm được thuần nhất.

    Về phương diện khả năng ngoại ngữ, có thể văn hào Nhất Linh không phải là trội bật so với nhiều dịch giả khác, nhưng về mặt thận trọng và nhất là qua tâm hồn tinh tế của một nhà văn sâu sắc như Nhất Linh, chúng tôi có thể đoan chắc ông đã diễn đạt được, qua bản Việt ngữ, những ngõ nhách thâm sâu nơi tâm hồn những nhân vật trong tác phẩm kỳ lạ này của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte.

    Dịch giả Nhất Linh đã ca tụng Đỉnh Gió Hú như là một trong những cuốn truyện hay nhất thế giới. Trong cuốn biên khảo của ông Viết và đọc tiểu thuyết Nhất Linh đã xếp Đỉnh Gió húvào “những sách hay của nhân loại, đời đời công nhận, có giá trị bền mãi với thời gian, như những cuốn Chiến tranh và Hòa bình, An-Na Kha-Lệ-Ninh, Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn của Tolstoĩ, cuốn Những linh hồn chết của Gogol, cuốn Mấy anh em Karamazov,Những người bị ám ảnh của Dostoievsky...”

    Cũng trong cuốn biên khảo đó, Nhất Linh còn viết: “Trong cuốn sách lạ lùng của nữ văn hào Anh quốc Emily Bronte, cuốn Đỉnh Gió Hú, xuất bản năm 1847, tác giả đã để một người vú già kể chuyện lại. Một vú già kể chuyện thì còn làm gì có những chỗ giảng giải về tâm hồn, ý nghĩ nhân vật nữa, tuyệt nhiên không có, tuyệt nhiên vú già chỉ là người đứng ngoài thôi. Thế mà chỉ bằng một giọng kể chuyện rất thường, bằng những chi tiết, vú già đó đã cho người ta thấy tất cả cái sâu xa của tâm hồn người trong truyện.”

    Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake... tôi đã tìm được một nơi lý tưởng để “viết”.

    Bàn thật nhỏ. Tôi phải thu xếp gọn để có thể đặt được mọi thứ trên đó. Chiếc “laptop” đã chiếm gần hết mặt bàn. Phần còn lại dành cho ly cà phê Starbucks, chiếc bánh croissant bơ, nhật báo Seattles Times. Còn tập bản thảo dịch Đỉnh Gió Hú của Nhất Linh tôi chưa biết đặt ở đâu đành để chồng lên trên tờ báo.

    Đầu mùa hạ, tôi về hưu. Tôi tự đặt cho mình những công việc phải làm. Ví dụ như phải vận động để giữ sức khỏe tốt, phải đánh máy bản thảo của ông cụ, bản thảo dịch cuốn tiểu thuyếtWuthering Heights của Emily Bronte, phải tiếp tục việc làm của ông cụ là dịch nốt một số chương cuối của cuốn tiểu thuyết, công việc ông cụ chưa hoàn tất khi qua đời.

    Tôi tìm được một nơi có thể thực hiện cả hai thứ một lúc. Hồ Green Lake và quán cà phê Starbucks. Buổi sáng tôi thức dậy sớm lái xe đến hồ, đậu xe ở parking, chạy bộ một vòng quanh hồ chu vi 5 cây số, rồi tay xách cặp laptop, tôi đi ngang vườn hoa băng qua đường vào quán cà phê.
    Nơi đó nếu phía trong quán khách không ngồi đông lắm như hôm nay, tôi có một chỗ ngồi lý tưởng có thể vừa đánh máy vừa nhìn được cảnh bên ngoài.

    Qua cửa kính bên kia đường là khu vườn cây rậm rạp. Những hàng cây phong thẳng tắp. Ở cuối hàng cây hồ Green Lake lấp loáng trong ánh nắng. Thứ nắng lăn tăn trên nước tôi thoáng thấy trong trí nhớ từ thương xá Tràng Tiền Plaza Hà Nội nhìn sang bên kia đường khu vườn cây, sau những hàng cây xà-cừ đậm màu lá xanh có nắng nhấp nháy trên mặt Hồ Gươm.
    Trên vỉa hè dưới hàng hiên rất đông người uống cà phê. Hôm nay hình như khách uống đều dồn cả ra ngoài vỉa hè để ngồi phơi mình dưới con nắng tươi mát hiếm hoi của miền Tây Bắc. Những chiếc bàn tròn, ghế sắt, sơn màu xanh mạ, màu Starbucks của những vòng tròn xanh trên cốc giấy cà phê, trên tạp dề những cô con gái tóc vàng đứng sau quầy.

    Tôi cúi xuống cầm tập bản thảo. Tôi đã giữ tập bản thảo này từ hồi nào nhỉ? Không nhớ. Một quyển tập bìa cứng, khổ lớn, 20x27cm, gồm 200 trang giấy ca-rô, trang đầu ông cụ viết nắn nót bằng màu mực xanh lá cây.

    EMILY BRONTE
    MỎM GIÓ HÚ
    NHẤT LINH dịch
    PHƯỢNG GIANG
    1952


    Chữ MỎM xóa đi bằng bút chì, thay bằng chữ ĐỈNH, viết bằng mực đen, ngay phía trên. Lật sang trang ba tôi dò đọc những hàng chữ rất nhỏ của ông cụ và bắt đầu đánh máy:

    “Năm 1801 - Tôi vừa đi thăm ông chủ nhà về. Vùng này đối với tôi thực là tuyệt, có lẽ trong toàn cõi nước Anh tôi không thể tìm được một nơi nào xa cách sự huyên náo như ở đây. Thật là cõi thiên đường của những kẻ chán đời: Ông Hy đối với tôi là hai người hoàn toàn hợp với vùng hiu quạnh. Ông Hy chắc không ngờ tôi có thiện cảm với ông ngay, mặc dầu lúc tôi cho ngựa tiến lên, hai con mắt đen của ông sâu hoắm nhìn tôi một cách nghi hoặc và lúc tôi xưng danh, các ngón tay của ông lại thọc sâu một cách rất quả quyết vào túi áo.

    Tôi hỏi:
    ‘Thưa ông, ông có phải là ông Hy [1] không?’

    Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời.”

    Tôi ngừng tay trên phím chữ. Ông cụ viết bằng mực xanh, những chỗ sửa chữa viết bằng mực đen. Như vậy là ông cụ không sửa ngay khi vừa viết xong một đoạn, như thói quen viết văn của tôi. Câu: Thật là một cõi thiên đường của những người chán đời đầu tiên ông cụ viết là thiên đường của những người yếm thế. Còn câu: Ông ấy chỉ lẳng lặng gật đầu được sửa thành Ông ấy chỉ gật đầu, không trả lời.

    Bên cạnh niên hiệu 1801, có ghi một hàng nhỏ 19-12-52. Đây là ngày Nhất Linh khởi dịchĐỉnh Gió Hú.

    Những dòng chữ đó thật xa. Ông cụ ở đâu vào ngày 19 tháng 12 năm 1952, khi viết những dòng chữ này?

    Sát gần tôi, bên kia cửa kính, là phía sau đầu của một cô gái Mỹ. Cô ngồi ngửa trên chiếc ghế sắt ở ngoài hiên, đầu ngả sát cửa, chăm chú đọc một quyển tiểu thuyết. Bàn tay cô đưa lên sau gáy lùa nghịch mái tóc. Những ngón tay cử động chậm rãi, lơ là. Một ngón tay xoay xoay cuốn tròn lọn tóc xung quanh ngón rồi bàn tay cô nắm vuốt từ từ kéo xuống phía dưới, lọn tóc tơ óng ả căng như thỏi kẹo kéo màu bạc trắng một thuở nào ông bán hàng kéo dài trong tuổi thơ tôi. Năm đó tôi 12 tuổi.

    Tôi mở cửa vào phòng ông cụ, một gian buồng nhỏ trong căn nhà của bác Thụy tôi số 12P đường Chasseloup Laubat Sài Gòn. Ông cụ viết những dòng đó trên chiếc ghế vải trong tư thế nửa nằm nửa ngồi. Thảo nào bản thảo Đỉnh Gió Hú là một tập sách bìa cứng.

    Tôi lật xem từng tờ của quyển bản thảo. Bên lề cứ cách mấy trang lại có ghi những dấu thời gian. 24-12-52, 1-1-53 (10 giờ tối). Bên dưới ngày 5-1-53 lại ghi thêm hàng chữ nhỏ: Thiếu thuốc lá văn vô vị, 4 giờ sáng mua ở đâu ra, hỡi trời? Dưới đó lại viết: 5 giờ sáng mua được hai điếu của người phu xe, lại có cà phê ngon của anh Trí. Mấy phút tuyệt hảo.

    Thú vị quá! Ông cụ chắc không thể ngờ rằng thằng con ông hơn nửa thế kỷ sau đã khám phá một cách hứng thú những dòng chữ chua bên lề bản thảo.

    Những hàng chữ này ông cụ viết ở nơi nào? Chắc chắn không phải ở nhà bác Thụy, vì bác Nguyễn Gia Trí không bao giờ ngủ qua đêm ở đó. Đúng rồi! Thời gian này ông cụ đã thuê một căn nhà riêng để lấy chỗ làm việc. Tôi chưa bao giờ đến đó nhưng các anh tôi nói đó là chỗ làm việc chung của ba người: Nhất Linh, Nguyễn Gia Trí, Trương Bảo Sơn. Gian nhà nhỏ nằm trong một con hẻm, hẻm đình Phú Thạnh; đầu hẻm đâm ra đường Lê Văn Duyệt, khúc ngã tư Phan Đình Phùng, gần Tòa Đại Sứ Miên.

    Tôi đánh máy tiếp. Trong lúc tay tôi lua đi trên phím chữ, mắt theo dõi những hàng chữ nhỏ li ti trên bản thảo thì trí tôi lại trôi ngược về quá khứ.
    Đà Lạt một nửa thế kỷ trước.

    Năm 1956 - Ông cụ dịch được non nửa cuốn truyện của Bronte và tôi lần đầu tiên đọc Đỉnh Gió Hú. Quyển truyện này cuốn hút tôi mãnh liệt ngay từ chương đầu. Một đoạn văn ma quái của Emily Bronte để dấu ấn rất mạnh trong óc tôi.




    Năm ấy ông cụ ở căn nhà số 19 đường Đặng Thái Thân Đà Lạt. Trên đỉnh đèo Prenn con đường Nguyễn Tri Phương dẫn vào thành phố. Tại một khúc cong, cạnh tòa nhà số 17, một con đường nhỏ, cụt, trải đá vụn dẫn vào tòa nhà “Gió Hú” của chúng tôi. Đó là một căn nhà bằng đá, tường dầy, cửa sổ thụt sâu, mái nhọn, đứng một mình, chênh vênh nhìn xuống một triền đồi thông trùng điệp, một biệt thự duy nhất còn đứng vững trong một khu vực toàn những căn nhà bỏ hoang xây cất từ thời Pháp thuộc.

    Tuy là nơi cư trú của cả hai gia đình, gia đình chúng tôi và gia đình ông bà Lê Đình Gioãn, nhưng vì hồi đó phần lớn những người của hai gia đình đều sinh sống ở Sài Gòn, thỉnh thoảng mới kéo nhau lên Đà Lạt, nên trên thực tế “Gió Hú” của chúng tôi rất ít người ở. Thường xuyên chỉ có mặt ba người sống lặng lẽ ở đó là ông cụ, chị Thoa và tôi.

    “Would you like to try some?”

    Tôi ngửng lên. Cô gái Starbucks chìa khay trước mặt tôi. Trên khay có những miếng bánh được cắt thành hình hộp nhỏ vuông vắn, mỗi miếng có gắn que tăm. Tôi kẹp tăm giữa hai ngón tay, ngước nhìn cô gái nói cám ơn rồi tôi cúi xuống tiếp tục đánh máy:

    “Tòa nhà của ông Hy lấy tên là Đỉnh Gió Hú: sở dĩ gọi Gió Hú vì những khi trời bão, gió lồng lộng hú lên trong tòa nhà đó. Trên mỏm cao ấy chắc quanh năm không khí trong lành. Người ta biết ngay gió bấc trên đó thổi rất mạnh vì những cây thông cằn mọc ở đầu nhà nghiêng hẳn về một phía và một dẫy cây gai chĩa cành về một bên như muốn dướn ra đớp lấy ánh sáng mặt trời. Cũng may tòa nhà xây cất chắc chắn, cửa sổ hẹp thụt sâu vào tường và có viền đá nhô ra để chắn gió.”

    Đoạn văn trên đây của Emily Bronte khiến tôi liên tưởng đến căn nhà “Gió Hú” của chúng tôi. Ngoài nhìn vào thì trông như nhà một tầng, nhưng thật ra là ba. Từ cửa tò vò đi vào là gian chính, gồm một phòng khách thật lớn và hai buồng ngủ. Ngay sau cửa vào có hai cầu thang, một đi lên, một đi xuống. Đi lên là gác xép. Đi xuống là nhà bếp. Gác xép là nơi ngủ của bọn con trai chúng tôi. Khi các anh tôi và các anh con bác Gioãn từ Sài Gòn kéo lên thì chúng tôi chen chúc nhau ngủ trên đó. Đến khi các anh ấy về lại Sài Gòn thì tôi ngủ ở đấy một mình.

    Những đêm mưa nằm ngửa nhìn lên những cây đà gỗ bắc xiên xuống, tai nghe rõ từng tiếng mưa đập trên mái ngói và cảm nhận khí lạnh ẩm ướt của miền cao nguyên theo gió len vào phòng qua các khe hổng nhỏ giữa những xà ngang. Qua những khe đó vào đêm giông bão tôi nghe cây thông sau nhà quằn quại đập cành vào cửa sổ gác xép, nơi đó thỉnh thoảng lóe lên một ánh chớp làm sáng hiện những giọt nước mưa trượt đi chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính.

    Dưới nhà căn phòng khách là giang sơn của ông cụ. Phòng có rất nhiều cửa kính nhìn xuống triền núi. Màu lá cây của rừng thông trải dài xuống cuối thung lũng sâu. Rừng thông nối nhau nhấp nhô trên những quả đồi thấp đến tận chân trời, nơi đó màu xanh mạ chuyển dần sang màu xanh lam.

    Trong phòng khách ông cụ treo rất nhiều hoa phong lan trên tường. Trên sàn nhà cũng đặt nhiều chậu lan đất, phần lớn là lan Thanh Ngọc. Chúng ôi được lệnh phải cởi giầy khi bước vào phòng này, vì sàn nhà lúc nào cũng sạch bóng được lát bằng những miếng gỗ đặt chéo nhau. Mỗi tháng một lần tôi thấy ông cụ bò trên sàn nhà lấy giẻ bôi xi-ra đánh bóng từng phiến gỗ một. Giữa phòng có bộ xa-lông, trên chiếc bàn tròn, tôi thấy hai tập bản thảo của ông cụ, tập Xóm Cầu Mới gồm 4 quyển và một tập Đỉnh Gió Hú.

    Những hôm ông cụ vắng nhà tôi thường vào phòng khách tẩn mẩn giở những tập này ra xem. Tôi không đọc mà chỉ nhìn những hình ông cụ vẽ trong hai tập bản thảo. Tôi nghiệm ra rằng thời gian này ông cụ chỉ đụng đến tập Xóm Cầu Mới, còn truyện dịch Đỉnh Gió Hú ông cụ không ngó ngàng tới. Chính vì thế mà tôi nghĩ nếu mình có “mượn tạm” mấy ngày cuốn truyện dịch mang lên gác xép đọc thì chắc là ông cụ cũng chẳng hay biết.

    Chị Thoa là người đầu tiên đặt nghi vấn căn nhà này có ma. Tuy trong bụng không tin nhưng tôi bắt đầu cảm thấy rờn rợn. Tôi bắt đầu sợ bóng tối. Tôi sợ những đêm mưa gió. Mà Đà Lạt trong trí tưởng tôi thì hầu như quanh năm lúc nào cũng mưa gió. Những đêm nằm trong bóng tối tôi nghe những giọt mưa rỉ rả rơi trên mái ngói, tiếng mưa miên man rền rĩ trôi vào trong giấc ngủ tôi. Kể từ ngày chị Thoa nói nhà có ma tôi chong đèn suốt đêm, cái ngọn đèn điện nhỏ ở đầu giường trước đây tôi thường tắt trước khi ngủ.

    Cho đến một đêm kia thì tôi tin là nhà có ma thật. Bởi vì chính tôi nhìn thấy “nó” tận mắt. “Nó” hiện ra sau cái cửa sổ kính kia vào một đêm mưa bão. Đêm ấy nơi cửa sổ kính lóe lên một lằn chớp. Tôi thấy sau những giọt nước mưa chạy ngoằn ngoèo trên mặt kính là khuôn mặt ướt át tái nhợt của một cô con gái ở ngoài nhìn trừng trừng vào trong.

    Chỉ một thoáng thôi. Nhưng tôi đã bừng dậy. Hoảng sợ tôi hấp tấp bước xuống cầu thang. Qua cánh cửa mở buồng ngủ nhà dưới ông cụ vẫn còn ngồi viết dưới ánh sáng một ngọn đèn chụp. Tôi hấp tấp quá thành thử gây tiếng động mạnh. Ông cụ quay đầu về phía sau nói: “Con chưa đi ngủ à?” Không biết trả lời ra sao tôi lẳng lặng đi vào buồng tắm giả vờ như đi tiểu.
    Lát sau tôi lên gác. Tôi ngồi bên cạnh giường, mắt không rời ngọn đèn con. Tôi tránh nhìn bóng tối. Tôi tránh nhìn cửa sổ.

    “... tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.”
    “I'm sorry....”

    Tôi ngước lên. Người đàn ông cầm cốc cà phê Starbucks lách qua dẫy ghế, hông của ông ta đụng vào làm xô lệch quyển bản thảo Đỉnh Gió Hú tôi đặt hơi lòi ra ngoài bàn.

    Bên ngoài cửa kính mái tóc vàng của cô gái Mỹ không còn nữa. Thay vào đó là một mái tóc đen, dài, mượt. Không nhìn phía trước tôi không đoán được cô gái có mái tóc đen là người Tàu, người Nhật hay người Việt Nam. Chỉ đoán là cô rất trẻ. Trên bàn của cô, giống như bàn tôi, có một cái laptop để mở, tôi không nhìn thấy màn chữ vì ánh phản quang. Bên cạnh laptop là một quyển sách Calculus dầy cộm. Nhưng cô ta không có vẻ như một sinh viên chăm học. Cô đang cho chim ăn.

    Bầy chim sẻ bay túa lên cao. Một thanh niên và một thiếu nữ vừa kéo ghế ngồi cạnh bàn cô gái tóc đen. Lát sau đàn sẻ lại xà xuống. Chúng nhẩy lích chích những bước ngắn trên hè. Cô tóc đen giở bao giấy véo một mẩu bánh ngọt vứt xuống. Lập tức cả chục chiếc cánh đập rối lên xà vào chân ghế. Một con mỏ ngậm mẩu bánh bay vụt lên, cả bầy bay quấn theo sau.

    Tôi cúi xuống đánh máy tiếp. Tôi đánh máy đoạn văn sau đây trong chương III của tập bản thảo. Chính đoạn văn này đã để lại dấu ấn rất mạnh trong óc tôi, cậu bé 16 tuổi:

    “… tôi bắt đầu díu mắt lại nằm dài trên giường ngủ thiếp đi. Từ lúc tôi biết đau khổ đến giờ chưa có một kỷ niệm nào ghê gớm bằng đêm ấy.

    Tôi nằm mơ cùng đi với bác Dọi đến nhà thờ, có rất đông người nghe giảng đạo. Tôi thì tôi mệt lắm! Tôi vặn người, tôi ngáp, ngủ gật rồi tỉnh dậy. Tôi lấy tay thích bác Dọi để bác cho tôi biết bao giờ thì giảng xong. Rồi bỗng nhiên tất cả mọi người xúm quanh tôi, giơ gậy định đánh tôi. Trong lúc hỗn loạn những chiếc gậy định đập vào đầu tôi lại đập lầm vào sọ người khác. Nhà thờ vang lên chí chát những đòn tấn công và phản công. Rồi người giảng đạo đập tới tấp như mưa rào trên bàn giảng đạo, tiếng đập dữ dội làm tôi choàng dậy và cảm thấy người nhẹ nhõm hẳn.

    Tại sao tôi lại mơ thấy chuyện đánh lộn nhau và người giảng đạo đập bàn? Thì ra chỉ tại một cành thông mỗi lần gió thổi lại chạm vào cửa sổ, quả thông cứng đập vào mặt kính!

    Tôi lắng nghe một lúc, trong lòng ngờ ngờ vực vực, rồi tôi trở người, chập chờn ngủ tiếp và lại mơ, lần này còn tệ hại hơn.

    Tôi nhớ ra mình đang nằm trong cái buồng bé tí bằng gỗ sồi và tôi nghe rõ ràng tiếng ào ào của gió tuyết cùng tiếng đập tới tấp của quả thông, tiếng động làm tôi bực mình quá và nhất định tìm cách làm cho nó im đi... tôi trở dậy định mở cửa sổ. Cái quả nắm lại gắn chặt vào ổ khoá.

    ‘Nhất định phải mở...’ tôi lẩm bẩm thế. Tôi đấm mạnh cho cửa kính vỡ rồi thò tay ra ngoài tìm cái cành thông khó chịu kia. Nhưng đáng lẽ nắm lấy cành thông thì ngón tay tôi lại nắm vào những ngón của một bàn tay nhỏ, lạnh như nước đá. Cả cái ghê sợ cực điểm của giấc mơ chiếm lấy người tôi: tôi cố kéo tay về nhưng bàn tay kia cứ bám chặt lấy và một tiếng nói giọng buồn thương vô hạn thổn thức: ‘Cho em vào! Cho em vào!’ Tôi vừa gỡ cánh tay ra vừa hỏi: ‘Cô là ai?’ Tiếng đáp lại run run: ‘Tôn Liên đây. Em đã tìm về nhà được. Em vừa bị lạc trong rừng cỏ.’ Tiếng ấy tiếp tục nói và tôi thấy mơ hồ nét mặt của một người trẻ tuổi nhìn vào cửa sổ. Sự kinh hoàng khiến tôi trở nên độc ác. Biết là mình không thể gỡ tay ra nổi, tôi kéo cổ tay cô ta để lên miếng kính vỡ rồi cứa đi cứa lại cho đến khi máu chẩy ra đẫm ướt cả khăn giường. Tiếng nói vẫn rên rỉ: ‘Cho em vào’ và bàn tay vẫn nắm chặt lấy tay tôi khiến tôi gần như điên lên vì kinh sợ. Sau cùng tôi bảo: ‘Tôi mở thế nào được nếu cô muốn vào cô phải bỏ tay tôi ra đã.’ Các ngón tay thả lỏng ra, tôi vội rụt tay tôi vào, lấy sách chất đầy lên che lỗ hổng, rồi bịt tai lại để khỏi nghe thấy tiếng kêu than rên rỉ. Tôi đứng yên như thế độ mười lăm phút, song mỗi khi để ý nghe, lại thấy tiếng rên rỉ đau thương ấy tiếp tục. Tôi kêu lên: ‘Đi ngay đi, cô có van xin tôi trong hai mươi năm tôi cũng không cho cô vào.’

    Tiếng nói lại rên rỉ: "Đã hai mươi năm rồi, hai mươi năm, đã hai mươi năm em đi lang thang. Rồi tôi nghe như có tiếng cạo cạo ở ngoài và chồng sách động đậy như bị đẩy vào phía trong. Tôi định đứng lên, nhưng không sao cử động được tay chân: tôi hoảng sợ đến điên dại rồi gào thét ầm lên.
    Tôi ngạc nhiên nhận thấy tiếng gào thét của tôi là có thực chứ không phải là tiếng trong một giấc mơ...”

    ***

    Tôi choàng dậy. Cơn bão khiến đèn điện trong nhà tắt hết. Có tiếng bước nhanh lên cầu thang. Ông cụ đứng ở cửa, tay cầm ngọn nến. Ánh nến hắt từ dưới lên lõm những bóng sâu trên gương mặt khiến ông cụ trông khắc khổ như một pho tượng đồng.

    Ông khom người lại gần giường đưa cây nến lại gần mặt tôi, nói dịu dàng:

    “Con lại mơ ngủ rồi!”

    Nói xong ông cụ cúi xuống nhặt lên một tập bìa cứng cầm trên tay rồi ông quay người lẳng lặng bước xuống cầu thang.

    Đó là tập bản thảo dịch Đỉnh Gió Hú của Nhất Linh tôi đang đánh máy 50 năm sau tại một quán cà phê Starbucks thành phố Seattle ngày 23 tháng 8 năm 2006.
    Nơi một chiếc bàn tròn nhỏ sát cửa kính nhìn ra hồ Green Lake...
    Nguyễn Tường Thiết

    .

  2. #21
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 15

    Lại một tuần lễ nữa trôi qua. Mỗi ngày lại tiến gần mùa xuân hơn và tôi thêm hồi sức. Vào nhiều buổi khác nhau, tùy theo bác quản gia của tôi có thể dành thời gian giữa những công việc hàng ngày, tôi đã được nghe bác kể hết câu chuyện về người láng giềng của mình. Tôi sẽ tiếp tục thuật lại y lời của bác, chỉ hơi cô đúc lại chút thôi. Nói chung thì bác ta là một người kể chuyện rất hay, tôi không nghĩ rằng mình có thể làm cho toàn hảo hơn.
    *
    Chiều hôm đến thăm Gió Hú về, tôi biết thế nào Hy cũng lảng vảng ở gần nhà. Tôi không dám bước chân ra khỏi nhà vì tôi vẫn còn cất bức thư của Hy trong túi và không muốn bị hắn dọa dẫm lôi thôi.

    Vì không biết phản ứng của Liên ra sao khi nhận thư nên tôi định bụng chờ chủ tôi đi khỏi mới đưa. Thành thử đã ba ngày trôi qua mà thư vẫn chưa tới tay nàng. Sang ngày thứ tư là ngày Chủ Nhật tôi đem thư vào phòng mợ Liên sau khi cả nhà đi lễ nhà thờ.

    Nhà chỉ còn một người tớ trai trông nhà với tôi. Chúng tôi vẫn quen lệ khóa hết các cửa ngõ trong giờ lễ nhà thờ; nhưng hôm đó trời rất đẹp, ấm áp nên tôi mở tung các cửa ra. Tôi biết thế nào Hy cũng đến, và để giữ lời hứa với hắn, tôi bảo anh đầy tớ kia rằng bà chủ thèm ăn cam và sai anh chạy vào làng mua chịu mấy quả sáng hôm sau trả tiền. Anh ta vừa đi khỏi, tôi lên gác ngay.

    Như thường lệ, mợ Liên ngồi bên cửa sổ, mặc chiếc áo áo trắng dài rộng thùng thình, vai quàng chiếc khăn san. Tóc mợ vốn dài và rậm, đã cắt bớt khi mợ vừa nhuốm bệnh, bây giờ kết hai cái bím bắt từ mang tai xuống cổ. Sắc diện mợ Liên kém đi nhiều, đúng như tôi đã kể với Hy, nhưng khi mợ bình tĩnh thì trông mợ lại đẹp một cách não nùng. Cặp mắt sáng ngời trước kia nay trở nên buồn dịu và đượm nét mơ màng, như thể nàng không nhìn vào cảnh vật xung quanh mà nhìn mãi tận đâu đâu, vào cõi xa vời vợi của thế giới bên kia. Rồi đến cái vẻ mặt xanh xao của nàng từ ngày có da có thịt đã mất vẻ bơ phờ, và cái thần sắc kỳ lạ do tâm trạng nàng gây ra, tuy đau xót gợi nhớ đến những nguyên nhân khiến nàng mang bệnh, nhưng lại làm cho người ta thêm phần thương cảm. Tôi thấy rõ - và tôi đoan chắc ai thấy nàng cũng sẽ nhận thấy như tôi - rằng rõ ràng là nàng đã khỏi bệnh rồi đấy nhưng cũng rõ ràng là nàng đương héo hon tàn tạ đấy.

    Một quyển sách để trên bực cửa trước mặt nàng. Thỉnh thoảng một làn gió lay động mấy trang giấy. Tôi chắc Kha đã để đó, vì Liên có bao giờ chịu đọc sách hoặc làm gì khác để giải trí đâu. Kha đã bỏ ra nhiều thì giờ để dụ nàng nhớ đến một vài thứ trước kia vốn là thú tiêu khiển của nàng. Liên hiểu ý chồng nên những lúc vui vẻ cũng cố chiều theo ý Kha; nhưng thấy chốc chốc nàng lại thở dài chán ngán hoặc hôn chàng cười gượng gạo, ngụ ý bảo chàng thôi đi, thì ai cũng biết công của Kha là công dã tràng. Nhiều lúc, nàng úp mặt vào bàn tay, quay đi chỗ khác. Có khi lại giận dữ đẩy chồng đi. Lúc đó Kha vội lảng xa nàng ngay vì biết chắc không thể làm gì hơn.

    Chuông nhà thờ Diên Mễ Tôn vẫn còn đổ dồn. Dưới thung lũng suối nước đầy tràn chẩy đều đều êm tai thay cho tiếng sào xạc của lá cây vào mùa hè thường át cả tiếng suối reo. Ở Gió Hú người ta thường nghe được tiếng nước chẩy trong những ngày yên tĩnh sau khi tuyết tan hay trong mùa mưa lớn. Trong khi lắng nghe Liên nghĩ đến Gió Hú. Ấy là nàng nói thế thôi chứ ai mà biết nàng có nghe, có nghĩ gì hay không, vì lúc đó đôi mắt nàng nhuốm vẻ mơ màng, không có vẻ gì là nàng đang nghe thấy hay đang nhìn thấy một vật gì rõ rệt.

    Tôi vừa dúi bức thư vào bàn tay đặt trên đùi nàng vừa nói:

    “Mợ có thư, mợ phải đọc ngay vì người ta đòi phải trả lời gấp. Tôi bóc ra nhé!”

    “Ừ.”

    Nàng đáp nhưng mắt vẫn nhìn tận đâu đâu. Tôi bóc thư - bức thư ngắn lắm - rồi nói:

    “Thưa đây, mợ đọc đi.”

    Nàng rụt tay lại, bức thư rơi xuống đất. Tôi nhặt lên đặt lại trên đùi nàng và đứng chờ, nhưng mãi chẳng thấy nàng ngó tới, tôi sốt ruột nói:

    “Thưa mợ, hay để tôi đọc cho mợ nghe? Thư của cậu Hy đấy.”

    Liên giật mình như sực tỉnh cơn mê, lúng túng cố định thần nhớ lại sự việc. Nàng cầm bức thư lên có vẻ chăm chú đọc, khi đọc tới chữ ký, nàng thở dài. Tuy vậy tôi vẫn thấy nàng chưa hiểu được nội dung bức thư, vì nàng không nói gì chỉ rầu rầu nét mặt chỉ vào chữ ký rồi nhìn tôi dò hỏi. Thấy cần phải giải thích cho nàng hiểu, tôi nói:

    “Dạ, cậu ấy muốn gặp mợ. Bây giờ cậu ấy đương ở dưới vườn và nóng lòng chờ tôi mang tin xuống.”

    Trong lúc nói, tôi nhận thấy một con chó lớn đương nằm phơi nắng trên bãi cỏ bỗng vểnh tai lên chực sủa, nhưng rồi lại cụp tai xuống, ve vẩy đuôi chứng tỏ có người đi tới và nó nhận ra không phải người lạ.

    Liên nhỏm người phía trước, nín thở nghe ngóng. Phút sau có tiếng chân đi trong hành lang. Thấy cửa mở, sẵn sàng và quyến rũ quá, Hy không thể không bước vào được. Cũng rất có thể hắn nghĩ tôi lẩn tránh không giữ lời hứa nên đành liều tiến vào xem sao.

    Liên, tinh thần căng thẳng, chăm chú nhìn ra cửa. Hy không tìm đúng phòng ngay. Mợ ra hiệu cho tôi ra dẫn chàng vào, nhưng tôi chưa kịp ra đến cửa thì chàng đã vào rồi. Hy bước rảo một hai bước đến bên cạnh Liên, ôm ghì nàng trong vòng tay.

    Có tới năm sáu phút, chàng không nói, cũng không nới lỏng vòng tay, chàng chỉ hôn, hôn lấy hôn để; tôi dám chắc là trong khoảng thời gian ấy chàng đã hôn nhiều hơn tất cả những lần hôn của cả đời chàng. Mà có điều là chính mợ tôi hôn chàng trước. Tôi thấy rõ là Hy không dám nhìn thẳng vào mặt người yêu như để cố tránh một nỗi đau khổ cùng cực: ngay cái lúc Hy vừa ôm lấy nàng thì cả chàng lẫn tôi đều biết ngay rằng không còn chút hy vọng nàng khỏi bệnh nữa... số trời đã bắt nàng phải chết!

    “Ôi! Liên! Ôi trời! Anh làm sao chịu nổi nông nỗi này!”

    Đây là câu đầu tiên chàng thốt ra, giọng không cần che dấu niềm tuyệt vọng. Rồi chàng nhìn nàng, cái nhìn não nùng quá đến đỗi tôi tưởng chàng phải ứa nước mắt. Nhưng không, nước mắt đã khô cạn vì đau khổ, không chẩy ra được nữa.

    Liên ngửa người ra, mặt bỗng xa xầm xuống, nhìn lại Hy. Tính khí nàng thay đổi thất thường khác nào cái chong chóng. Nàng nói:

    “Sao, anh Hy? Anh và Kha đã làm khổ tôi! Bây giờ cả hai người đều đến than vãn với tôi, làm như chính hai người mới là kẻ đáng thương! Tôi không thương các người đâu, đừng hòng! Các người đã giết tôi... các người thỏa thê lắm mà. Trông anh khỏe mạnh làm sao! Tôi chết rồi anh còn định sống thêm bao nhiêu năm nữa?”

    Hy đã quỳ một gối xuống để ôm Liên, bây giờ chàng tính đứng lên nhưng Liên túm tóc dằn xuống. Nàng nói chua chát:

    “Ước gì tôi nắm giữ được anh cho tới khi cả anh lẫn tôi đều chết! Anh đau khổ mặc anh, tôi cóc cần! Mà anh đau khổ nỗi gì, có tôi đau khổ thì có! Khi tôi nằm trong lòng đất, liệu anh có quên tôi không, có vui sướng không? Hai mươi năm nữa liệu anh có nói: “Đây là mộ của Liên. Hồi trước mình đã yêu nàng, mình đã đau khổ khi mất nàng, nhưng chuyện đó xưa rồi. Từ đó mình đã yêu nhiều người khác. Bây giờ mình yêu các con mình hơn là yêu nàng hồi trước và khi mình chết, mình sẽ chả mừng gì được gặp lại nàng, chỉ buồn phải xa con cái của mình thôi!” Liệu anh có nói như vậy không, anh Hy?”

    Hy vùng gỡ đầu ra, nghiến răng ken két:

    “Đừng hành hạ anh đến phát điên như em!”

    Cảnh tượng hai người lúc đó kẻ bàng quan trông thấy hẳn cho là kỳ quái ghê sợ. Liên sắp chết mà vẫn không đổi tính nết, có được lên thiên đàng thì cũng chỉ như bị đầy ải thôi. Vẻ thù hận man dại hiện rõ trên bộ mặt trắng bệch, làn môi lợt lạt không còn hột máu và đôi mắt long sòng sọc, nhất là tay nàng còn nắm mớ tóc ở đầu chàng bứt ra, trông mới dữ tợn làm sao! Và Hy, trong lúc vùng đứng dậy hình như không còn nhớ là nàng vừa ốm khỏi cần phải nhẹ tay, một tay chàng chống xuống đất, tay kia níu lấy cánh tay Liên mạnh đến nỗi khi chàng buông tay ra tôi thấy rõ bốn vết bầm tím trên làn da xanh xao của nàng.

    Giận dữ, chàng nói:

    “Em sắp chết bị ma ám hay sao mà lại ăn nói với anh như vậy hử? Em không nghĩ rằng những lời đó sẽ in vào óc anh và mỗi ngày lại in sâu hơn sau khi em chết hay sao? Em bảo là anh đã giết em. Em thừa biết nói như vậy là nói dối. Và em cũng biết khi bảo anh có thể sớm quên em, chẳng khác nào nói anh có thể quên chính bản thân mình? Trong khi em được nằm yên bình một chỗ thì anh vẫn phải quằn quại trong đau khổ của địa ngục trần gian này; như vậy chưa đủ để thỏa cái lòng ích kỷ ghê gớm của em hay sao?”

    Liên rên rỉ:

    “Em sẽ chẳng thể nào được yên đâu...”

    Đột nhiên nàng kiệt sức. Bị khích động quá mạnh, tim nàng đập loạn xạ dữ dội, có thể trông thấy nghe thấy rõ ràng. Hồi sau, cơn kích phát qua đi nàng mới tiếp tục nói được, giọng dịu dàng hơn:

    “Anh Hy, em đâu có cầu mong anh phải đau khổ hơn em. Em chỉ mong chúng mình không bao giờ phải xa nhau... và từ nay về sau nếu em có lỡ nói một lời nào khiến anh buồn thì xin anh hãy nghĩ rằng ở dưới lòng đất kia em cũng buồn như anh, anh hãy thương em mà tha lỗi cho! Anh lại đây và quỳ xuống em nữa đi! Trong đời anh, chưa bao giờ anh làm khổ em. Không, nếu anh nuôi lòng hờn giận thì anh sẽ tự làm khổ mình hơn là nhớ tới những lời cay nghiệt của em! Sao? Lại đây đi anh, nào...”

    Hy tiến tới, đứng ở lưng ghế của nàng và cúi xuống, nhưng không cúi thấp quá để nàng khỏi thấy mặt chàng lúc đó tái mét vì xúc cảm. Nàng xoay người lại để nhìn chàng, nhưng Hy không cho: chàng ngoảnh mặt đi và bước tới lò sưởi đứng im lặng, quay lưng về phía Liên và tôi.

    Nghi ngờ, Liên nhìn theo. Mỗi cử động của Hy lại gợi cho nàng một cảm nghĩ mới. Nàng yên lặng ngó Hy chăm chăm một lúc lâu rồi nàng nói với tôi, giọng tức tối chán nản:

    “Vú Diễn, vú xem đấy! Giá tôi có sắp xuống lỗ anh ấy cũng chả mủi lòng để cứu tôi. Đấy người ta yêu tôi như thế đấy! Thôi được, tôi cũng chả cần! Đấy không phải là Hy của tôi! Tôi chỉ yêu Hy của tôi và sẽ đem anh ấy theo với tôi... Hy của tôi ở trong tâm hồn của tôi cơ!”

    Nàng trầm ngâm nói tiếp:

    “Cái làm tôi bực nhất là cái nhà tù đổ nát này. Tôi chán ngấy cái cảnh giam hãm ở đây lắm rồi. Tôi chỉ ao ước được thoát sang cái thế giới rạng rỡ kia và ở đó mãi mãi... không phải chỉ nhìn thấy nó qua làn nước mắt, không phải chỉ mơ tưởng đến nó qua trái tim đau khổ, mà thực sự sống trong đó. Vú Diễn, vú tưởng vú sung sướng hơn tôi, may mắn hơn tôi; vú có đầy đủ sức khỏe... vú buồn cho tôi...rồi vú xem, chả mấy chốc nữa mọi chuyện sẽ thay đổi hết. Tôi sẽ buồn cho vú. Tôi sẽ vượt xa các người, tôi sẽ ở trên các người một trời một vực. Tôi lấy làm lạ sao anh ấy sẽ không ở bên tôi!”

    Rồi nàng lẩm bẩm một mình:

    “Trước tôi cứ tưởng anh ấy mong được như thế. Anh Hy, Trời ơi! Anh không nên giận dỗi thế. Lại với em đi nào, anh Hy!”

    Trong lúc bồng bột, Liên đứng dậy, tựa người vào thành ghế. Nghe nàng gọi tha thiết, Hy quay lại, bộ mặt chàng lộ rõ niềm tuyệt vọng. Ngực chàng thở hổn hển, mắt chàng ướt và mở to, trừng trừng nhìn nàng như tóe lửa. Giây phút đầu họ còn đứng xa nhau, nhưng rồi hai người ôm chầm lấy nhau lúc nào tôi không rõ, chỉ biết Liên nhẩy vọt lên và Hy đỡ lấy, họ ghì nhau chặt đến nỗi tôi tưởng khi buông nhau ra mợ tôi không còn sống nữa. Thực vậy, tôi thấy nàng dường như ngất đi, còn Hy thì gieo mình xuống chiếc ghế gần nhất. Nhưng khi thấy tôi hấp tấp lại gần để xem nàng có phải xỉu đi thật không, Hy nghiến răng dọa tôi, sùi cả bọt mép ra như chó dại, rồi chụp ngay lấy Liên một cách ghen tức như thể không muốn ai chạm tới người nàng. Tôi cảm thấy chàng không còn là giống người như tôi nữa: chàng không hiểu cả những lời tôi nói nên tôi đành đứng tách ra im lặng, bối rối, không biết xử trí thế nào.

    Tôi nhẹ người thấy Liên cựa mình. Nàng đưa tay lên bá cổ Hy, áp má vào má chàng, trong khi Hy ôm lấy nàng ve vuốt cuồng nhiệt. Chàng nói như điên dại:

    “Bây giờ em mới lộ cho anh thấy em ác hết sức, ác và giả dối nữa. Vì lẽ gì em khinh anh? Vì cớ gì em dối gạt cả lòng em, hở Liên? Anh chẳng nói một lời an ủi đâu. Cho thế mới đáng kiếp em. Chính tự em giết em đấy. Phải, bây giờ em có thể hôn anh, em có thể khóc lóc, bắt anh hôn, anh khóc... Những cái hôn, những giọt nước mắt của anh sẽ làm em héo hon, sẽ đầy đọa em. Em yêu anh... vậy em có quyền gì bỏ anh? Em có quyền gì mê say cái thằng Kha ấy? Trả lời đi! Dù sa sút nghèo khổ, dù chết chóc, hay dù bất cứ cái gì trời làm quỷ bắt cũng không thể chia rẽ nổi chúng ta, thế mà em, chính em, lại tự ý bỏ anh. Anh đâu có làm em đau khổ...chính em tự làm em đau khổ... và khi em tự làm mình đau khổ thì trái tim anh cũng tan nát. Điều tệ hại nhất là anh lại khỏe mạnh. Anh có muốn sống đâu? Sống cách nào khi mà em... Trời! ai mà còn thiết sống nữa khi mà hồn mình đã ở dưới mồ?”

    Liên nức nở:

    “Mặc kệ em! Mặc xác em! Em lầm lỗi nên bây giờ mới chết vì lầm lỗi ấy. Thế đủ rồi! Chính anh, anh cũng bỏ em, nhưng em có oán trách anh đâu! Em tha thứ cho anh, vậy anh cũng hãy tha thứ cho em!”

    Kha đáp:

    “Tha thứ làm sao được khi nhìn đôi mắt sâu quầng kia và cầm bàn tay gầy guộc kia. Thôi hãy hôn anh đi, nhưng đừng để anh thấy đôi mắt em! Anh tha thứ những lỗi lầm em đã gây cho anh. Anh yêu kẻ giết anh... nhưng kẻ giết em, anh yêu làm sao được!”

    Hai người giấu mặt vào nhau cùng yên lặng. Mặt người này đẫm ướt nước mắt người kia. Tôi thầm nghĩ là ít ra cũng phải thế, cả hai người đều cùng khóc và trong dịp trọng đại này Hy khóc là phải.

    Trời về chiều nhanh quá. Mỗi lúc tôi một thấy bồn chồn vì người đầy tớ tôi sai đi mua đồ đã trở về, và ở trên thung lũng, dưới ánh chiều tà, đám người đi lễ trong nhà thờ Diên Mễ Tôn đã ra đông. Tôi phải lên tiếng báo động:

    “Khóa lễ xong rồi. Chỉ nửa giờ nữa thôi là cậu tôi sẽ về tới nhà.”

    Hy làu bầu chửi rủa và ôm chặt Liên hơn. Còn Liên thì không nhúc nhích. Chẳng mấy chốc tôi thấy một tốp gia nhân đi qua đường cái về phía nhà bếp. Cậu Kha đi sau có một quãng. Cậu tự mở cổng rồi lững thững đi lên, ý chừng thấy trời chiều đẹp đẽ nên đi chậm bước để hưởng hơi gió nhẹ như gió hè.

    Tôi kêu lên:

    “Cậu Kha về tới kìa! Trời đất! Cậu Hy! Cậu xuống ngay cho tôi nhờ! Đi ngay đi thì không gặp ai ở cửa cầu thang đâu. Mau lên! Nhớ nấp trong lùm cây cho tới khi cậu Kha vào hẳn bên trong đã.”

    Hy nói, vừa gỡ tay người yêu ra:

    “Liên! Anh phải đi đây. Nếu anh còn sống thì thế nào anh cũng trở lại trước khi em ngủ. Anh không ở xa cửa sổ phòng em quá năm thước đâu.”

    Liên dùng hết sức để níu chàng lại, đáp:

    “Anh cứ ở đây, khỏi phải đi đâu cả. Cứ nghe lời em đi!”

    Chàng năn nỉ:

    “Anh chỉ đi một tiếng đồng hồ thôi.”

    “Một phút em cũng không chịu.”

    Hốt hoảng, Hy nói:

    “Anh phải đi... Kha sắp lên đến nơi rồi.”

    Chàng muốn đứng lên và gỡ tay Liên ra. Nhưng nàng cố níu chặt. Vẻ quả quyết hiện trên nét mặt, nàng hét lên:

    “Không! Anh không phải đi đâu cả. Đây là lần chót! Kha không đụng đến em đâu. Anh Hy, em chết mất! Em chết mất thôi!”

    Hy ngồi phịch xuống ghế, kêu:

    “Cái thằng chết tiệt nó lên kia kìa! Thôi mà, thôi mà, Liên! Anh không đi nữa đâu. Hắn có bắn anh chết lúc này anh cũng vẫn cám ơn hắn.”

    Thế là họ lại xoắn chặt lấy nhau. Tôi nghe tiếng giầy chủ tôi lên cầu thang...trán tôi toát mồ hôi lạnh.

    Giận quá tôi nói:

    “Cậu Hy, cậu định nghe lời điên rồ của mợ tôi hay sao? Mợ tôi nói mà có biết mình nói gì đâu? Cậu định hại mợ tôi sao? Cậu đứng lên đi! Cậu ra ngay vẫn còn kịp. Cậu đã làm bao nhiêu chuyện ác nghiệt, chưa có chuyện nào ác hơn chuyện này. Ông chủ, bà chủ, đầy tớ... chết cả đám!”

    Tôi vung tay, la lối. Kha nghe tiếng vội bước nhanh tới. Giữa lúc cuống cuồng tôi thực sự mừng thầm thấy Liên ngã đầu ra, hai tay buông thõng xuống. Tôi nghĩ: “Mợ ấy ngất đi hay là chết rồi. Thôi thế càng tốt. Thà mợ ấy chết còn hơn sống mà là gánh nặng làm khổ người khác.”

    Kha nhẩy sổ tới người khách không mời mà đến, mặt cậu tái đi vì kinh ngạc và tức giận. Tôi không biết cậu định làm gì, nhưng Hy đã chặn đứng mọi hành động của cậu, đưa ngay cái thân hình bất động vào tay cậu.

    Chàng nói:

    “Này, nếu ông không phải là đồ quỷ thì hãy lo cứu lấy Liên đã... rồi mọi chuyện tính sau với tôi!”

    Hy bước ra phòng khách ngồi. Cậu Kha gọi tôi tới giúp, chúng tôi phải dùng đủ mọi cách và khó khăn lắm mới làm cho Liên hồi tỉnh. Dù vậy nàng vẫn còn ngơ ngác. Mợ thở dài rên rỉ và chẳng nhận ra ai. Cậu Kha trong lúc lo cứu nàng đã quên bẵng người bạn đáng ghét của nàng. Tôi thì không. Gặp dịp là tôi ra ngay phòng khách yêu cầu Hy đi đi. Tôi phải nói quả quyết là Liên đã đỡ rồi và sáng hôm sau tôi sẽ cho chàng biết tin đêm nay nàng ra sao.

    Chàng đáp:

    “Tôi đồng ý ra khỏi nhà, nhưng tôi sẽ ở lại trong vườn. Sáng mai vú phải nhớ giữ lời hứa đấy, vú Diễn. Tôi sẽ chờ dưới lùm thông kia. Nếu vú không giữ lời thì tôi sẽ trở vào nữa, dù có mặt Kha hay không.”

    Chàng đưa mắt liếc nhanh qua cửa phòng hé mở của phòng Liên, để coi xem lời tôi nói có đúng không rồi mới chịu vác cái mặt hãm tài ra khỏi nhà.
    (còn tiếp)

  3. #22
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 16

    Vào khoảng nửa đêm hôm đó, cô Liên mà ông đã gặp bên Đỉnh Gió Hú ra đời, một hài nhi còm cõi vì đẻ non, mới bẩy tháng. Hai giờ sau đó Liên mẹ qua đời trong tình trạng mê man không lúc nào tỉnh để có thể nhận được ra Kha, hoặc để biết rằng Hy không còn ở đấy nữa.

    Chuyện Kha đau khổ vì vợ chết là một chuyện quá thương tâm, tôi không muốn nhắc tới. Có thấy hậu quả của nó mới hiểu được nỗi buồn của cậu tôi sâu xa là nhường nào. Ngoài ra, theo tôi thấy thì cậu tôi còn đèo thêm một nỗi buồn lớn nữa là cậu không có người thừa tự. Tôi lấy làm tiếc về điều đó khi nhìn con bé côi cút yếu đuối. Tôi thầm trách ông cụ Tôn đã thiên vị về việc lập di chúc để lại tài sản cho con gái mình, chứ không cho con gái của người con trai cụ. Cô bé đáng thương, ra đời mà chẳng được ai đón tiếp tử tế. Trong mấy giờ đầu tiên chào đời, giá nó có gào khóc đến chết cũng chẳng ai buồn đoái hoài tới. Dù sau đó chúng tôi đã chuộc lại cái lỗi sơ xuất này, nhưng mới ra đời mà đã thiếu tình thương như thế, tôi e sau này lúc mãn đời lại cũng thế chăng.

    Sáng hôm sau, trời tươi sáng; ánh sáng nhẹ lọt qua những chiếc mành vào gian phòng hiu quạnh phủ ngập chiếc giường nệm và người nằm trên đó một ánh hồng dịu dàng êm ả.

    Cậu Kha gục đầu xuống gối, đôi mắt nhắm nghiền. Nét mặt trẻ đẹp của chàng nhuốm màu chết chóc, chả khác gì cái xác nằm bên cạnh, cả hai đều bất động. Nhưng ở chàng là sự im lặng của nỗi đau đã kiệt. Còn ở nàng là của sự bình yên tuyệt đối. Trán nàng phẳng phiu, mi mắt khép chặt, môi hé nụ cười. Nàng lúc này còn đẹp hơn cả tiên nữ ở trên trời. Nàng nằm đó, thanh thản vô cùng. Tôi cũng lây vẻ thanh thản ấy. Nhìn hình ảnh thiên thần an nghỉ vô tư lự ấy chưa bao giờ tâm trí tôi trong sạch - phải nói là thánh thiện - như lúc bấy giờ. Bất giác tôi lẩm bẩm nhắc lại những lời nàng nói cách đấy vài giờ:

    “Tôi sẽ vượt xa các người, tôi sẽ ở trên các người một trời một vực.”

    Cho dẫu nàng còn ở trần gian hay đã lên thiên đàng, tâm hồn nàng lúc nào cũng ở bên Thượng Đế.

    Không biết có phải đó là tâm trạng đặc biệt ở riêng tôi hay không, tôi cảm thấy sung sướng hơn là cảm thấy điều gì khác khi ngồi canh người chết mà không bị ai bên cạnh rền rĩ than khóc. Tôi cho cái chết như một giấc an nghỉ mà chẳng trời đất quỷ thần nào có thể khuấy động được. Tôi cảm thấy có sự bảo đảm trong cái thế giới xán lạn vô biên kia - người ta đi vào bất diệt - ở đó đời sống thì vĩnh cửu, tình yêu thì đồng cảm và niềm vui thì tròn vẹn. Trong dịp ấy tôi nhận ra ngay trong tình yêu - như tình yêu của cậu Kha - cũng có bao nhiêu điều vị kỷ, vì Liên chết đi là một sự giải thoát, thế mà cậu tôi lại buồn bã tiếc thương!

    Cứ bằng vào lối sống ngang ngạnh bất thường của nàng, chắc sẽ có người đặt câu hỏi liệu nàng có đáng được an nghỉ nơi cõi vĩnh hằng không? Người ta có thể lý luận một cách vô tình như vậy, nhưng nếu đứng trước thi hài nàng, người ta sẽ không nghĩ thế vì rõ ràng là qua cái thể xác an bình kia, tấm linh hồn đã từng ở trong đó dường như cũng sẽ được thanh thoát yên bình.

    Ông Lộc, ông có tin rằng những người như vậy có được sung sướng ở bên kia thế giới không? Tôi muốn được biết rõ điều ấy hết sức.

    Tôi tránh trả lời bác Diễn vì tôi thấy câu hỏi có vẻ dị đoan quá. Bác Diễn kể tiếp:

    Nhìn lại cuộc đời mợ Kha tôi e rằng chúng ta không có quyền nghĩ là mợ được thế. Nhưng thôi ta hãy để mặc mợ trong tay Đấng Hóa Công.

    Chủ tôi có vẻ ngủ mê mệt, khi mặt trời vừa mọc tôi vội lẻn ra khỏi phòng để hít lấy không khí mát mẻ. Bọn tôi tớ tưởng tôi cần ra ngoài để tỉnh ngủ vì phải thức đêm ngồi canh xác, thực ra, chủ ý của tôi là để gặp Hy. Nếu Hy còn ở trong lùm thông suốt đêm, chắc chàng không hay biết gì về chuyện xẩy ra ở Họa Mi Trang. Có chăng thì chỉ nghe tiếng vó ngựa của người đầy tớ chạy đi Diên Mễ Tôn báo tin. Nếu chàng tới gần hơn, thấy ánh sáng chạy qua chạy lại, tiếng cửa mở ra khép vào nhộn nhịp chàng chỉ có thể đoán biết trong nhà có chuyện gì bất ổn mà thôi.

    Tôi nửa mong nửa sợ gặp chàng. Tôi thấy đằng nào thì cũng phải báo cái tin dữ ấy và muốn báo cho xong phứt đi, nhưng còn báo thế nào thì tôi chịu.

    Hy đứng cách đó dăm thước, tựa vào một cây bạch dương cổ thụ, đầu trần, tóc ướt đẫm sương đêm đọng trên cành cây nhỏ xuống người chàng. Chàng đứng im như vậy đã từ lâu lắm, tôi chắc thế, vì tôi thấy một đôi chim mải xây tổ cứ bay qua bay lại cách chàng chừng một thước, coi chàng chẳng khác nào khúc gỗ, thấy tôi lại gần, chúng bay mất, còn chàng thì ngẩng lên nói:

    “Liên chết rồi! Chẳng cần đợi vú báo mới biết. Cất cái khăn mù xoa đi... đừng có xụt xịt trước mặt tôi. Mẹ kiếp! Nàng đâu cần đến nước mắt của mấy người!”

    Tôi khóc. Khóc thương cho cả Liên lẫn Hy. Đôi khi mình thấy thương cho những người không biết thương là gì, cho dẫu họ tự thương họ hay thương người khác. Chỉ thoạt nhìn gương mặt chàng, tôi biết ngay là chàng đã biết cái tin tai biến ấy. Thấy môi chàng mấp máy, mắt nhìn xuống đất, tôi lại có ý tưởng điên rồ cho là chàng đã nguôi buồn và đương cầu kinh.

    Tôi nén tiếng thổn thức, lau nước mắt trên má rồi nói:

    “Vâng, mợ tôi mất rồi! Tôi mong mợ tôi đã lên thiên đàng và chúng ta ai ai cũng sẽ được theo mợ lên đó nếu chúng ta biết làm đúng điều răn, tu sửa lầm lỗi.”

    Hy có vẻ cười nhạo, nói:

    “Vậy chứ mợ của vú có làm đúng điều răn không? Nàng có chết như một vị nữ thánh không? Thôi, kể cho tôi rõ câu chuyện xẩy ra làm sao? Làm thế nào mà...”

    Chàng cố thốt ra cái tên Liên nhưng không thốt ra nổi, môi chàng mím chặt, nín lặng như đang chống chọi với nỗi đau đớn ghê gớm ở trong lòng. Tuy vậy chàng vẫn trố mắt nhìn tôi dữ tợn, bất chấp mối thương cảm của tôi. Và, sau khi phải chống trả với mối cảm xúc quá mạnh, mặc dù là người gan góc có thừa, toàn thân chàng cũng lẩy bẩy run lên phải đứng tựa lưng vào thân cây. Lúc sau Hy mới thốt ra được câu hỏi:

    “Nàng chết ra sao?”

    Tôi nghĩ bụng: “Đồ khốn! Mi cũng có một trái tim biết xúc cảm như mọi người! Thế mà sao mi cứ phải lo che dấu đi! Tính tự kiêu tự đại của mi sao che nổi Trời! Mi làm cho Trời phải xé nát tim mi ra, lúc đó mi mới chịu biết nhục kêu lên hay sao?”

    Tôi đáp:

    “Êm như đi ngủ! Mợ thở dài, duỗi thẳng người ra như đứa trẻ cựa mình rồi lại ngủ thiếp đi. Năm phút sau tôi sờ thấy tim mợ đập khẽ một cái rồi im luôn.

    “Và... nàng có nhắc đến tôi lần nào không?”

    Hy hỏi, ngập ngừng như sợ câu trả lời của tôi có những sự thực mà chàng không chịu nổi. Tôi đáp:

    “Mợ không tỉnh lại một giây phút nào cả. Từ lúc cậu đi khỏi mợ không còn nhận ra ai nữa. Mợ nằm với một nụ cười dịu dàng trên nét mặt, những ý nghĩ cuối cùng của mợ là nhớ về những ngày vui thuở nhỏ. Mợ chết trong một giấc mơ đẹp... cầu cho mợ thức dậy ở bên kia thế giới cũng êm đềm như thế!”

    “Cầu cho nàng đau khổ thì có!”

    Chàng giậm chân kêu lên trong một cơn giận dữ bất thần, dễ sợ:

    “Chứ không à? Đến chết mà còn dối trá! Nàng đâu rồi? Đâu có ở đó... đâu có ở thiên đàng... đâu có chết... vậy ở đâu? Em bảo anh có đau khổ em cũng cóc cần!... Liên ơi Liên, anh chỉ cần một điều và anh sẽ nhắc đi nhắc lại điều này cho đến khi lưỡi anh cứng đơ không nói được nữa, là cầu cho em không được yên nghỉ chừng nào anh còn sống! Em bảo anh giết em! Thì hồn ma em cứ ám anh đi! Kẻ bị giết bao giờ mà chả ám kẻ giết họ! Anh tin, anh biết có hồn ma bóng quỷ lởn vởn trên cõi đời này... Dù em ở dưới bất kỳ hình thể nào thì em hãy ở bên anh, hãy làm cho anh điên lên! Có điều là đừng bỏ anh trong cái địa ngục này, làm sao nơi này anh tìm thấy em được? Trời ơi! Khó nói quá! Đời tôi, tôi không có thì làm sao tôi sống nổi! Linh hồn tôi, tôi không có thì làm sao sống được!”

    Hy đập đầu vào gốc cây xù xì, rồi vừa ngước mắt vừa kêu gào, trông không còn gì là người nữa mà giống như một con mãnh thú bị gươm giáo đâm tới chết. Trên vỏ thân cây có vết máu, tay và trán chàng cũng bê bết máu, chắc cảnh tượng tôi vừa chứng kiến chỉ là màn được tái diễn nhiều lần trong đêm qua. Cảnh tượng đó làm tôi ghê sợ hơn là thương cảm, tuy vậy tôi không nỡ bỏ chàng ở đó mà đi. Nhung khi chàng đã bình tĩnh lại một chút, nhận ra tôi đương ngó mình thì chàng quát lên đuổi tôi đi. Tôi nghe lời ngay. Tôi đâu đủ tài để an ủi dỗ dành chàng!

    Lễ an táng mợ Kha được trù liệu vào ngày thứ Sáu sau; cho đến hôm đó trong phòng khách lớn linh cữu của nàng được để ngỏ, rắc đầy hoa và lá thơm. Cậu Kha ở luôn đó canh giữ ngày đêm không ngủ và - điều này chỉ riêng tôi biết - ở bên ngoài Hy cũng không ngủ như Kha, đêm nọ qua đêm kia.

    Tôi không liên lạc gì với Hy nhưng tôi linh cảm thế nào chàng cũng chờ dịp lẻn vào phòng người chết. Đến ngày thứ ba, lúc chạng vạng tối, chủ tôi vì quá mệt buộc phải đi ngủ mấy tiếng đồng hồ. Thấy Hy có lòng thành, tôi cũng động lòng mở một cửa sổ ra để chàng có dịp nhìn một lần cuối cùng hình ảnh héo hon của người mà chàng tôn thờ.
    Hy đã không bỏ lỡ cơ hội, chàng lẻn vào nhanh gọn và thận trọng, quá thận trọng là đằng khác, vì chàng giữ không gây một tiếng động nhỏ; đến ngay cả chính tôi cũng không hay biết nữa nếu tôi không để ý thấy tấm vải phủ mặt người chết xô lệch và trên sàn có một lọn tóc vàng buộc bằng chỉ bạc. Xem kỹ tôi mới biết đó là lọn tóc đựng trong cái hộp khung ảnh nhỏ Liên đã đeo ở cổ. Hy đã mở cái khung, bỏ tóc ở trong ra và thay vào đó một lọn tóc đen của chàng. Tôi cuốn cả hai lọn tóc lại với nhau và bỏ cả vào khung đóng lại.

    Cô Sa không được mời tới dự đám tang, còn cậu Hạnh cố nhiên được mời, nhưng cậu chẳng trả lời, cũng chẳng thấy đến. Thành thử ngoài chồng người xấu số ra, chỉ toàn là tá điền và tôi tớ.

    Người trong làng ai cũng lấy làm lạ không hiểu sao Liên không được chôn cất trong nhà thờ nhỏ, dưới tấm bia có trạm khắc của gia đình họ Tôn, mà cũng không gần nơi phần mộ những người bên họ nàng. Huyệt được đào lên từ một cái gò cỏ xanh ở một góc nghĩa trang mà bờ tường thấp đến nỗi cây thạch thảo mọc từ bên ngoài đồng hoang leo qua được vào tận bên trong.

    Bây giờ chồng nàng cũng nằm đấy. Trên đầu mỗi ngôi mộ có một tấm bia và ở dưới chân có một tảng đá xám lớn để đánh dấu.

    Chương 17

    Hôm thứ Sáu ấy là ngày chót của một tháng đẹp trời. Về chiều, thời tiết thay đổi, gió chuyển từ phía nam sang đông bắc, bắt đầu là mưa rơi, rồi mưa tuyết, rồi tuyết sa.

    Sang ngày hôm sau thì không ai có thể bảo rằng mới ba tuần lễ vừa qua còn là mùa hè. Hoa ngọc trâm, hạnh đào đều bị vùi dưới tuyết. Chim chào mào im tiếng hót, lá non của những cây nẩy lộc sớm héo rũ và đen xạm lại. Ngày trôi qua trong ảm đạm rét mướt. Chủ tôi nằm lỳ trong buồng, còn tôi chiếm căn phòng khách nhỏ cô quạnh dùng làm phòng trẻ con và ngồi đó ôm đứa bé trong lòng, nghe tiếng khóc oe oe của nó, vừa ru vừa nhìn tuyết rơi phủ bồi lên bên ngoài khung của sổ. Bất chợt cửa mở tung, một người đàn bà vừa cười sặc sụa vừa thở hổn hển, nhẩy bổ vào!
    Trong một phút tôi cáu giận hơn là ngạc nhiên, tôi tưởng đó là một con ở nào nên mắng:

    “Ơ kìa! Sao nhà chị cả gan vào đây làm ồn lên như thế? Lỡ ông chủ nghe thấy thì sao?”

    Một giọng quen thuộc đáp lại:

    “Xin lỗi vú! Tôi biết anh Kha đang nằm trong buồng ngủ và tôi không thể nào kìm giữ được.”

    Vừa nói người đó vừa thở dốc tiến tới đứng trước lò sưởi, tay chống cạnh sườn. Nghỉ một chút người ấy nói tiếp:

    “Tôi chạy suốt từ Gió Hú lại đây! Không kể những lúc tôi bay...tôi vấp ngã không biết bao nhiêu lần, đếm không xuể. Trời! Bây giờ tôi đau khắp mình mẩy! Vú đừng sợ...nghỉ một chút rồi tôi nói vú nghe. Bây giờ vú làm ơn sai người thắng xe chở tôi đến Diên Mễ Tôn và cho người kiếm hộ ít quần áo trong tủ của tôi.”

    Người ấy không phải ai xa lạ, chính là mợ Hy, là cô Sa. Cảnh ngộ của cô ấy có gì là đáng vui đáng cười đâu. Tóc cô xõa xượi xuống vai, tuyết và nước giỏ ròng ròng. Cô mặc chiếc áo vẫn thường mặc thời con gái, chiếc áo dài bằng lụa mỏng, cộc tay, hở cổ, bị nước mưa dán ướt vào người; chân thì đi đôi dép mỏng dùng trong nhà. Thêm vào cái bộ dạng thiểu não ấy lại còn một vết thương khá sâu dưới một bên tai, mà nhờ trời lạnh nên máu đông lại không chẩy ra nhiều. Mặt cô nhợt nhạt đầy vết xước và bầm tím, thân hình cô hầu như không còn đứng vững vì mệt lả. Ông xem đó thì đủ biết vì sao mà nỗi hoảng sợ đầu tiên của tôi không giảm bớt chút nào khi tôi có thì giờ ngắm kỹ cô hơn. Tôi la lên:

    “Cô để tôi lấy quần áo khô thay cho cô đã, rồi cô muốn sai tôi làm gì thì sai. Có điều chắc chắn là đêm nay cô không thể đi Diên Mễ Tôn được, không cần sai thắng xe làm gì...”

    Sa đáp:

    “Tôi phải đi ngay. Không đi xe được thì đi bộ... Nhưng thay quần áo ăn mặc cho tử tế thì được. A, vú coi máu nó chẩy xuống cổ tôi đây này! Lửa nóng làm xót quá!”

    Cô nàng nhất quyết bắt tôi phải làm theo đúng ý cô xong rồi mới cho tôi đụng đến người. Mãi tới khi người phu bắt đầu sửa soạn ngựa xe và chị ở gói ghém một ít áo quần xong, cô nàng mới chịu để tôi băng bó vết thương và thay quần áo.

    Khi đã ăn mặc tươm tất, nàng ngồi xuống chiếc ghế bành bên lò sưởi với tách nước trà trước mặt và nói:

    “Thôi bây giờ vú Diễn ngồi xuống đây đi và đặt con bé Liên ra chỗ khác... Tôi không thích nhìn thấy nó! Vú đừng tưởng tôi chạy xầm xầm vào đây như con mẹ điên là tôi không nghĩ gì đến chị Liên... Tôi đã khóc, tôi có lý do để khóc Liên, khóc xót xa cay đắng hơn ai hết. Thật thế, vú biết đấy, Liên và tôi xa nhau, không làm lành được với nhau và tôi sẽ ân hận suốt đời. Nhưng còn cái thằng kia, thằng súc sanh khốn nạn kia, thì tôi không thể nào thương cho nổi được nữa. À, vú đưa tôi cái que cời than! Đây là vật cuối cùng của hắn tôi mang trên người (nàng tuốt chiếc nhẫn vàng ở ngón tay ra vứt xuống sàn). Để tôi đập nát ra (nàng lấy chân di lên một cách hằn học như trẻ con). Để tôi đốt nó đi (Nàng nhặt chiếc nhẫn bẹp rúm ró quẳng vào than hồng). Đấy! Hắn phải mua cho tôi chiếc khác, nếu hắn bắt được tôi lại. Rất có thể hắn sẽ mò đến đây tìm tôi và kiếm chuyện với Kha... Tôi không dám ở lại đây vì sợ sẽ gieo cái ý tưởng ấy vào đầu óc nham hiểm của hắn! Vả lại anh Kha cũng chẳng tử tế gì, phải không vú? Tôi không thích xin xỏ Kha mà cũng không muốn mang thêm rắc rối cho anh ấy. Vì cần gấp quá nên tôi mới phải chạy tạt vào đây trú một lát, vả lại tôi biết anh ấy không có mặt ở đây tôi mới vào, nếu không thì tôi đã ở dưới bếp rửa mặt, sưởi ấm một chút và nhờ người gọi vú lấy các thức cần dùng cho tôi, rồi đi ngay, đi đâu cũng được, miễn là thoát khỏi tay cái thằng quỷ sứ ghê tởm ấy! Hắn tức ơi là tức! A, nếu hắn bắt được tôi! Thật tội cho anh Hạnh không đủ sức chọi với nó...nếu anh ấy đủ sức trị được hắn thì tôi chả việc gì phải chạy ngay, tôi sẽ đợi kỳ cho đến lúc thấy hắn bị đập một trận nhừ tử.”

    Tôi ngắt lời:

    “Khoan, cô nói gì mà nói nhanh quá vậy. Cô làm tuột cả chiếc khăn buộc vết thương khiến máu lại chẩy ra kia kìa. Cô uống trà đi, nghỉ lấy hơi đã, và đừng cười nữa... Ở trong nhà này và ở tình cảnh của cô có chi vui để mà cười nữa đâu!”

    Sa đáp:

    “Vú nói đúng lắm, tôi không thể cãi vào đâu được. Kìa, nghe con bé kìa, nó khóc oe oe luôn mồm... vú đem nó đi chỗ khác đi để tôi khỏi phải nghe nó kêu, chừng một giờ đồng hồ thôi, rồi tôi đi, tôi không ở đây lâu hơn đâu.”
    Tôi gọi một chị ở vào giao ẵm con bé đi chỗ khác, rồi tôi hỏi nguyên do vì sao khiến Sa phải bỏ Gió Hú đi trốn khổ sở như thế... nàng định đi đâu và sao không ở lại với chúng tôi.

    Nàng đáp:

    “Lẽ ra tôi phải ở đây và tôi cũng ao ước như vậy, vừa để an ủi Kha, vừa để săn sóc đứa bé. Vả lại Họa Mi Trang là nhà của tôi... Nhưng tôi biết hắn chẳng chịu để tôi yên đâu! Vú nghĩ xem, đời nào hắn để cho tôi sung sướng; đời nào nó chịu để cho bọn mình yên ổn mà không tìm cách phá đám? Bây giờ thì tôi đã hài lòng biết chắc rằng nó ghét tôi thậm tệ, ghét tới độ điên tiết lên mỗi lần thấy tôi lại gần. Mỗi lần tôi đến gần nó thì những thớ thịt trên mặt nó co rúm lại, biểu lộ lòng thù ghét tôi, ghét tới độ tôi tin rằng nó sẽ không lùng tôi khắp nước Anh đâu. Nhưng tôi phải đi xa cái chốn này. Trước kia tôi mong nó giết tôi đi, nhưng bây giờ tôi đổi ý rồi, tôi mong nó sẽ tự giết nó! Nó đã cố tình dập tắt tình yêu của tôi với nó và nó đã thành công. Lòng tôi bây giờ thanh thản. Tuy nhiên tôi có thể nhớ lại là trước kia tôi đã từng yêu hắn như thế nào và lờ mờ cảm thấy bây giờ vẫn còn yêu, nếu...không, không! Cho dẫu nó có say mê tôi như điếu đổ đi nữa thì trước sau gì cái bản tính hung ác của nó cũng sẽ lộ ra. Chắc Liên phải có một quan niệm khác đời ghê gớm lắm mới có thể yêu nó tha thiết đến thế mặc dù đã hiểu rõ nó là loại người thế nào... Đồ quái vật! Cầu Trời giệt hết cái giống đó đi. Cầu Trời cho tôi quên nó đi!”

    Tôi nói:

    “Ấy, ấy! Người ta ai chả là người. Cô cũng nên rộng lòng một chút, còn nhiều kẻ khốn nạn hơn cậu ấy nhiều!”

    Nàng cãi:

    “Nó đâu phải là giống người, nó cũng chẳng có quyền hưởng lòng nhân đức của tôi... Tôi đã dâng hiến trái tim cho nó, nó chiếm lấy, dầy vò cho chết rồi quẳng lại cho tôi. Con người ta có tình cảm là nhở ở trái tim, vú Diễn ạ. Nó làm tan nát tim tôi thì đối với nó tôi còn có tình cảm làm sao được nữa. Từ nay cho đến chết, nó cứ việc than van rên rỉ và khóc lóc Liên đển đổ máu mắt ra, tôi cũng mặc!”

    Nói đến đây, Sa bắt đầu khóc; nhưng nàng lập tức gạt nước mắt, nói tiếp:

    “Vú hỏi tôi vì lẽ gì tôi phải bỏ trốn? Tôi bắt buộc phải bỏ trốn vì tôi đã khích được hắn nổi xung lên tới mức độ cao hơn cả sự nham hiểm của nó. Dùng kim nung đỏ rứt hết các sợi thần kinh của người ta ra việc ấy đòi hỏi một sự lạnh lùng hơn là cầm búa nện một cái vào đầu. Tôi làm cho hắn tức giận tới nỗi chính hắn quên cả cái khôn ngoan quỷ quyệt mà hắn vẫn thường khoe khoang, để đi đến chỗ nổi hung giết người. Chọc giận được nó tôi thú vô cùng! Cảm giác thích thú đó đánh thức bản năng sinh tồn của tôi và tôi phải bỏ trốn. Bây giờ nếu tôi để nó tóm được thì nó trả thù phải biết!”

    Vú biết không, hôm qua đáng lý anh Hạnh phải đi đưa đám. Anh ấy cẩn thận đi ngủ sớm không uống nhiều rượu cho khỏi say để hôm sau dậy sớm đưa đám. Tuy vậy lúc ngủ dậy vì tinh thần xuống quá, anh ấy ra ngồi bên lò sưởi nốc hết thứ rượu này đến thứ rượu khác từng ly lớn một, rút cuộc chẳng đi đâu cả.

    Còn Hy - nhắc đến tên nó tôi lại rùng mình! - đi biền biệt từ chủ nhật đến tận hôm nay, chẳng biết có ai cho ăn cho uống gì không, nhưng gần tuần lễ tuyệt nhiên không ăn một bữa cơm nào ở nhà với chúng tôi. Nó chỉ về nhà lúc tờ mờ sáng, lên gác, vào phòng, khóa cửa lại, cứ làm như có ai khao khát được ở bên cạnh. Ở trong buồng nó tiếp tục cầu khấn cứ như một thầy tu chính cống, có điều là vị thánh mà nó khấn nguyện chỉ là tro bụi vô tri vô giác, và khi nói tới Chúa thì buồn cười quá nó cứ nhầm với cha nó ở dưới địa ngục! Sau khi đọc xong những bài kinh quý hóa ấy - thường kéo dài cho đến khi nào giọng hắn khản và tắc lại trong cổ họng mới thôi - nó lại bỏ đi, bao giờ cũng đi thẳng tuột Họa Mi Trang. Tôi không hiểu sao anh Kha không kêu cảnh sát tới bắt giam nó lại! Đối với tôi, mặc dù trong lòng thương tiếc chị Liên, tôi không thể không coi đây là ngày hội vui vì được giải thoát khỏi những ngày bị áp bức.
    (còn tiếp)

  4. #23
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Tinh thần tôi dạo sau này vững hơn đủ để có thể nghe lão Dọi mắng mỏ mà không khóc, có thể đi lại trong nhà đường hoàng, không phải đi rón rén giống kẻ cắp như trước kia nữa. Chắc vú không thể ngờ rằng lúc trước cứ mỗi lần nghe lão Dọi nói gì là tôi lại bật khóc, mà lão Dọi và thằng Hạ là hai đứa đáng ghét. Tôi thích ngồi với Hạnh hơn, nghe những chuyện đáng sợ của anh ấy dù sao cũng còn hơn ngồi với cái thằng ranh con và cái lão già khả ố ấy, chúng nó bênh nhau chằm chặp.

    Khi Hy ở nhà, tôi thường phải trốn trong bếp, chung đụng với bọn nó, hoặc là tôi nhịn đói ngồi trong những căn phòng ẩm thấp bỏ trống. Còn lúc Hy vắng nhà, như tuần này chẳng hạn, tôi bê một chiếc bàn một chiếc ghế đặt ở một góc lò sưởi, mặc anh Hạnh làm gì thì làm, chẳng bao giờ tôi để ý mà anh ấy cũng chẳng để ý đến tôi. Dạo này, nếu không có ai gây sự thì anh ấy cũng trầm lặng hơn trước...có vẻ buồn rầu, ủ rũ, ít hung hăng hơn. Lão Dọi quả quyết rằng Hạnh đã cải hóa, Chúa đã làm cho Hạnh động lòng và cứu rỗi anh ấy rồi. Tôi thì tôi chẳng thấy dấu hiệu gì là cải hóa cả, nhưng thôi, đâu có phải việc của tôi mà lo.

    Tối hôm qua, tôi ngồi trong cái xó xỉnh của tôi đọc mấy cuốn sách cũ cho tới khuya, gần mười hai giờ đêm. Tuyết quay cuồng ở bên ngoài, lên gác thì tối tăm ảm đạm quá, và ý nghĩ của tôi cứ lởn vởn với cái nghĩa địa và ngôi mộ mới đắp ấy! Tôi gần như không dám ngước mắt ra khỏi trang sách, sợ cái hình ảnh ghê thảm ấy lại hiện lên.

    Hạnh ngồi đối diện, đầu tựa lên tay, có lẽ cũng đang nghĩ cùng một chuyện như tôi. Rượu đã say, anh ấy ngồi không nhúc nhích, không nói nửa lời có đến hai ba tiếng đồng hồ. Suốt nhà im lặng như tờ, chỉ trừ tiếng gió hú từng cơn khua động các cánh cửa sổ và tiếng than nổ lách tách yếu ớt. Hạ và Dọi chắc đã ngủ say. Thực là buồn. Buồn không tả được. Tôi vừa đọc sách vừa thở dài, hình như tất cả những niềm vui trên đời đều đã tiêu tan hết, không bao giờ còn có nữa.

    Đột nhiên có tiếng then cửa lạch cạch trong bếp, phá tan cảnh im lặng buồn như chấu cắn ấy! Tôi chắc vì trời mưa bão bất ngờ nên Hy phải về sớm hơn mọi hôm. Cửa cài chặt, chúng tôi nghe tiếng hắn đi vòng qua sân vào cửa sau. Tôi vùng đứng dậy, buột miệng kêu lên một tiếng khiến Hạnh đang ngó ra phía cửa phải quay lại nhìn tôi. Hạnh nói:

    “Tôi sẽ bắt nó đợi năm phút ở ngoài, cô đồng ý chứ?”

    “Không. Bắt nó đứng ở ngoài suốt đêm cho tôi. Khóa hết cửa lại đi anh!”

    Hạnh làm theo lời tôi nói trước khi Hy đến trước cửa. Xong anh ấy xách ghế ngồi phía bên kia bàn nhìn xoi mói vào mắt tôi như để tìm xem tôi có biểu đồng tình với anh ấy về mối thù hận đương cháy rực trong mắt anh ấy hay không. Lúc ấy Hạnh có bộ mặt và tâm trạng của một tên sát nhân nên anh ấy không thể có sự đồng tình hoàn toàn của tôi, song thế ánh mắt tôi cũng đủ để khuyến khích anh ấy nói thẳng ý định của mình:

    “Cô với tôi đều có món nợ lớn cần phải thanh toán với cái thằng ở ngoài kia! Nếu cả hai đứa mình đều không hèn nhát thì mình có thể phối hợp để dứt điểm nó cho xong. Cô có nhu nhược như anh cô không? Cô định chịu đựng đến mãn đời mà không gắng báo thù lấy một lần sao?”

    Tôi đáp:

    “Tôi chán phải chịu đựng lắm rồi. Tôi thú lắm nếu trả thù được, miễn làm sao cho nó khỏi quật lại mình. Nhưng coi chừng, bạo lực là con dao hai lưỡi, nó gây thương tích cho người sử dụng nhiều hơn cho kẻ địch.”

    Hạnh kêu:

    “Bạo lực phải trả bằng bạo lực! Cô Sa này, tôi không bắt cô làm gì hết, chỉ xin cô ngồi im một chỗ... Được không, cho tôi biết đi! Tôi dám chắc cô cũng sẽ vui mừng không kém gì tôi khi thấy đời con quỷ ấy kết liễu. Nếu cô không ra tay trước thì nó sẽ giết cô... và sẽ hại tôi... Đồ lưu manh ôn vật! Nó đấm cửa làm như nó đã là chủ căn nhà này rồi! Bây giờ cô phải giữ miệng ngồi im và trước khi cái đồng hồ này điểm chuông - bây giờ một giờ thiếu ba phút - cô sẽ được giải thoát!”

    Hạnh lôi trong ngực ra cái vũ khí mà tôi đã tả cho vú trong bức thư của tôi, anh ấy định tắt đèn nến đi, nhưng tôi giằng lấy, nắm tay anh ấy, kêu lên:

    “Tôi không im đâu! Anh không được bắn nó. Cứ để cửa đóng và ngồi im!”

    “Không! Tôi đã quyết định rồi, có Trời chứng giám, tôi sẽ làm cho mà xem! Dù cô không muốn tôi cũng sẽ trả thù giúp cô và cho cả thằng Hạ nữa! Cô khỏi cần mất công che đỡ cho tôi! Liên thì đã chết rồi... chả ai còn sống mà thương tiếc tôi hay xấu hổ vì tôi, cho dẫu tôi cắt cổ chết ngay phút này... Đã đến lúc kết thúc mọi chuyện!”

    Tôi có ngăn cũng bằng thừa, khác nào đánh vật với một con gấu hay cãi lý với một kẻ điên. Tôi chỉ có nước là chạy ra cửa sổ báo cho kẻ bị mưu sát biết người ta đang chờ để giết hắn. Tôi nói to, giọng có phần đắc thắng:

    “Anh tìm chỗ khác ngủ đêm nay đi! Nếu anh cố tìm cách vào, anh Hạnh sẽ bắn anh đấy!”

    “Tốt hơn là mày mở cửa ra, đồ...”

    Hy dùng một tiếng thực là “thanh nhã” để gọi tôi, thôi tôi chẳng lặp lại làm gì. Tôi nói:

    “Tôi không muốn dính! Có giỏi thì vào mà ăn đạn... Tôi xong bổn phận rồi!”

    Nói xong tôi đóng cửa sổ lại, trở vào ngồi bên lò sưởi, giả vờ làm ra vẻ lo lắng cho nó. Hạnh chửi tôi thậm tệ, bảo tôi vẫn còn yêu cái tên đê tiện ấy và không tiếc lời mắng tôi hèn nhát. Còn tôi thì trong bụng lại nghĩ (và lương tâm tôi không bao giờ ân hận) rằng nếu Hy giết Hạnh thì đó là cái phúc cho anh ấy thoát khỏi cảnh đau khổ, và nếu Hạnh giết được Hy thì đó là cái phúc cho tôi.

    Đang ngồi suy nghĩ thì rầm một cái khung cửa sổ phía sau tôi đã bị Hy xô đổ xuống sàn và bộ mặt xám xịt của hắn hầm hầm ngó qua khung cửa. Chấn song sát nhau nên nó không đưa vai qua được. Tôi mỉm cười khoái trá không sợ gì cả vì tưởng mình được an toàn. Tóc tai áo quần hắn bám đầy tuyết trắng. Vì tức và lạnh, bộ răng nhọn của hắn nhe ra trắng nhởn trong bóng tối.

    Hy “gầm gừ” trong miệng, nói theo kiểu lão Dọi:

    “Sa! Biết điều thì để tao vào, không thì mày đừng có trách!”

    Tôi đáp:

    “Tôi không thể mang tội giết người được. Anh Hạnh đương đứng rình, tay lăm lăm cầm con dao và khẩu súng nạp đạn sẵn kia kìa!”

    “Mở cửa bếp tao vào cũng được.

    “Anh Hạnh sẽ tới cửa bếp trước tôi... à, hóa ra tình yêu của anh xoàng thật, không chịu nổi một cơn mưa tuyết! Trời hè trăng sáng chúng tôi còn được anh tha cho ngủ yên, thế mà mới chuyển cơn gió đông anh đã lo chạy về nhà tìm chỗ trú! Hy, nếu tôi ở địa vị anh, tôi sẽ nằm thẳng cẳng trên mộ chị ấy, chết như một con chó trung thành... Phải không? Đời anh bây giờ đâu còn gì đáng sống nữa? Rõ ràng là anh đã làm tôi tin rằng Liên là tất cả hạnh phúc của đời anh... Thật tôi không thể ngờ rằng anh còn ham sống sau khi Liên đã mất đi.”

    Hạnh quát lên, sấn tới khe cửa:

    “Nó ở đây phải không? Tôi mà với tay ra ngoài được thì tôi đã đâm cho nó một nhát.

    Vú Diễn ạ, tôi sợ vú không hiểu và cho tôi là người rất tồi tệ... Vú không biết hết mọi chuyện nên vú đừng vội kết tội. Không vì lẽ gì mà tôi nhúng tay hay xúi giục giết người, cho dẫu người ấy là nó đi nữa. Tôi chỉ cầu cho nó chết đi mà thôi, cho nên khi nó thò vào giật khẩu súng trong tay Hạnh thì tôi vừa thất vọng vừa lo sợ cho hậu quả những lời chọc tức của tôi.”

    Súng nổ. Con dao bị lò xo làm bật trở lại phập vào cổ tay Hạnh. Hy rút mạnh dao khiến vết thương toạc thêm ra. Con dao vẫn còn nhỏ máu, Hy cứ thế mà đút vào túi. Rồi nó nhặt hòn đá lớn, đập gẫy thanh gỗ ngăn đôi cửa sổ nhẩy vào. Hạnh đã lăn ra ngất đi vì quá đau và vì máu ở động mạch phun ra có vòi. Tên côn đồ kia vừa đạp vừa đá lên người Hạnh, nện đầu anh xuống sàn; trong lúc một tay túm lấy tôi cản không cho chạy đi gọi Dọi. Hy tự kiềm chế một cách phi thường không đánh cho Hạnh chết hẳn. Sau nó mệt hết hơi mới chiụ ngừng tay và kéo Hạnh như kéo một xác chết đến chỗ ghế dài. Nó xé toạc cánh tay áo của Hạnh ra, vùng vằng bó vết thương lại, rồi vừa làm vừa khạc nhổ, chửi rủa cũng hung hãn chẳng kém gì lúc nó đấm đá.

    Được Hy thả ra, tôi vội chạy đi tìm lão đầy tờ già. Tôi vội vàng kể câu chuyện, mãi sau lão mới hiểu, lão hớt hải vừa thở vừa nhẩy bổ hai bước một xuống cầu thang, miệng la bải hoải:

    “Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?”

    Hy quát:

    “Chủ mi điên rồi! Nó mà sống được qua một tháng tao sẽ tống nó vào nhà thương điên! Sao mi lại khoá chặt cửa bỏ tao ở ngoài, hở con chó móm kia? Thôi, đừng có đứng đó mà cằn nhằn nữa. Lại đây, tao không hơi đâu mà chăm sóc nó. Lau sạch cái của nợ này đi! Coi chừng ngọn đèn của mi...”

    Dọi giơ hai tay, mắt trợn tròn, kinh hãi kêu lên:

    “Thế là cậu giết cậu tôi rồi! Tôi chưa bao giờ thấy cảnh tượng này. Lạy Chúa, xin Chúa...”

    Hy xô lão ta một cái ngã quỵ xuống vũng máu và quẳng cho lão một cái khăn lông. Nhưng thay vì dùng khăn lau khô, lão ta lại chắp tay cầu nguyện. Nghe lão đọc những lời kỳ quái mà tôi phát bật cười. Lúc ấy tôi đương ở tâm trạng lì lợm, chẳng gì khích động tôi được, tôi cứ trơ ra như mấy tên tử tội trước cột giảo hình sắp bị treo cổ.

    Tên bạo ngược Hy nói:

    “À, con này, tao quên bẵng mày. Mày phải làm việc này. Ngồi xuống! Mày đồng lõa với hắn phản tao, đồ rắn độc! Đây là công việc hợp với mày đó...”

    Nó lắc người tôi đến khi răng tôi va vào nhau lập cập. Rồi nó xô tôi ngã giúi xuống cạnh Dọi, trong lúc lão vẫn thản nhiên đọc kinh. Rồi lão đứng dậy thề sẽ đi ngay đến Họa Mi Trang. Ông Kha là một thẩm phán, cho dẫu ông ta có năm chục bà vợ vừa mới chết đi, ông ấy cũng phải điều tra vụ này.

    Thấy lão có vẻ quả quyết như vậy, Hy bắt tôi phải kể lại cho lão đầu đuôi câu chuyện. Lão đứng sững trấn áp tôi với vẻ đầy ác ý, trong khi tôi miễn cưỡng tường thuật sự việc và trả lời câu hỏi của lão. Tôi phải khó nhọc lắm mới thuyết phục được lão già tin rằng Hy không phải là người đã khiêu khích trước. Vả lại chính Hạnh cũng giúp lão tin rằng anh ấy chưa chết. Lão vừa đổ rượu mạnh vào Hạnh là anh ấy tỉnh và cựa quậy ngay được.

    Hy thấy Hạnh trong lúc ngất đi không biết mình đã bị một trận đòn nhừ tử, nên nó mắng phủ đầu Hạnh là say rượu mất khôn, nó không thèm chấp và khuyên Hạnh nên đi ngủ. Nói xong nó bỏ đi. Tôi mừng húm. Hạnh nằm duỗi dài ra trước lò sưởi. Tôi về phòng riêng, ngạc nhiên sao mình lại thoát nạn một cách dễ dàng như thế.

    Sáng nay, khoảng mười một giờ rưỡi, tôi ở trên gác đi xuống. Anh Hạnh ngồi bên lửa rũ người ra như chết. Còn tên quỷ sứ kia mặt mày cũng hốc hác và tái nhợt đứng tựa bên lò sưởi. Chả ai thiết đến ăn uống. Tôi chờ cho đến khi cơm canh nguội ngắt mới ngồi vào bàn ăn một mình. Không ai cấm tôi ăn ngon lành. Chốc chốc tôi lại đưa mắt nhìn hai người, trong bụng khoái trá...

    Ăn xong, tôi liều lĩnh làm một chuyện bất thường là đến gần lò sưởi, đi vòng qua ghế của Hạnh, tới quỳ bên cạnh anh.

    Hy không nhìn về phía tôi. Tôi ngước nhìn diện mạo nó một cách gần như táo tợn. Trán nó trước kia tôi thấy hào hiệp bao nhiêu thì nay tôi lại thấy quỷ quyệt bấy nhiêu, đôi mắt nó rắn ráo thiếu ngủ trông lờ đờ và có lẽ đương khóc vì nước mắt ướt đọng trên mi; còn môi nó thì không còn vẻ giễu cợt độc ác mà lại mím chặt trong một vẻ buồn bã khôn tả.

    Giá đó là một ai khác thì chắc tôi đã tránh đi để khỏi nhìn thấy vẻ đau khổ ấy. Nhưng vì là nó nên tôi lấy làm thích thú. Kể ra làm nhục một kẻ đã ngã ngựa là hèn thật, nhưng tôi không thể bỏ lỡ dịp đâm nó vài nhát cho hả dạ, chỉ những lúc nó yếu thế như vậy tôi mới hưởng được cái thú lấy oán trả oán mà thôi.

    Tôi ngắt lời Sa:

    “Xấu hổ chưa! Cứ làm như cả đời cô chưa bao giờ mở một cuốn Thánh Kinh ra đọc! Trời đã bắt kẻ thù của cô đau khổ, vậy đủ rồi. Đằng này cô còn hành hạ thêm thì thực nhỏ nhen.”

    Sa nói:

    “Vú nói thật đúng, tôi biết thế, nhưng Hy có khổ đến mức nào tôi cũng không hả dạ, trừ khi tự tay tôi làm khổ nó. Nếu tôi làm cho nó khổ được và nếu nó biết nỗi khổ của nó là do tôi gây nên, thì dù nó khổ ít thôi, tôi cũng còn thích hơn. -, sao tôi nợ nó nhiều thế không biết. Tôi chỉ có thể tha thứ cho hắn với một điều kiện duy nhất. Đó là tôi có thể ăn miếng trả miếng, nó làm tôi khổ thế nào thì tôi cũng làm nó khổ y như thế, bắt nó phải hạ mình xuống ngang hàng với tôi. Nó là kẻ xúc phạm tôi trước, thì nó phải xin lỗi tôi trước, rồi lúc đó... Ồ, lúc đó may ra tôi mới có thể tỏ cho vú biết tôi có đôi chút lòng độ lượng, vú Diễn ạ.”

    Thấy Hạnh khát nước đòi uống, tôi đưa cho anh một cốc nước và hỏi han anh ấy. Hạnh đáp:

    “Muốn chết mà chẳng chết cho. Trừ cánh tay ra, khắp người tôi chỗ nào cũng đau như dần, tưởng chừng như vừa đánh nhau với một bầy quỷ dữ.”

    Tôi nói:

    “Có gì là lạ đâu. Dạo trước Liên thường khoe chị ấy là tấm mộc che thân cho anh, ý chị muốn nói rằng có người không dám đánh anh vì sợ phật ý chị. Cũng may người chết không thể đội mồ đứng dậy được, chứ nếu không thì đêm qua chị ấy đã được chứng kiến một cảnh tượng kinh tởm. Anh bị thâm tím ở vai ở ngực phải không?”

    Hạnh nói:

    “Tôi không biết. Nhưng cô nói thế là có ý gì vậy? Bộ nó dám đánh tôi trong lúc tôi đang bất tỉnh sao?”

    Tôi nói khẽ:

    “Nó đấm nó đá anh, nó đập cả đầu anh xuống đất đó. Mồm nó sùi cả bọt mép như muốn cắn muốn xé xác anh ra, lúc đó trông nó không còn một tý nhân tính nào nữa.”

    Cả Hạnh và tôi đều ngẩng lên nhìn vào mặt kẻ thù chung, lúc đó đang đắm mình trong nỗi đau khổ không biết gì đến xung quanh. Nó càng đứng lâu thì cái tâm địa độc ác của nó càng hiện rõ trên nét mặt.

    “Trời! Nếu tôi có đủ sức bóp cổ cho nó chết trong lúc tôi còn hấp hối thì có xuống địa ngục tôi cũng vui lòng!”

    Hạnh gầm gừ nói thế, cố gượng ngồi dậy nhưng lại quỵ xuống, thất vọng vì biết mình không đủ hơi sức để chống chọi nữa!

    Tôi nói lớn giọng:

    “Nó đã giết một người trong gia đình anh, thế là đủ rồi. Ở bên Họa Mi Trang ai ai cũng biết là nếu không có nó thì em anh đâu đến nỗi chết. Thôi, thà bị nó ghét còn hơn được nó thương. Cứ nghĩ tới hồi trước khi nó tới, chúng tôi được sung sướng như thế nào, chị Liên được hạnh phúc như thế nào, là tôi lại uất người lên không để đâu cho hết.”

    Rất có thể Hy quan tâm đến sự thực trong câu nói ấy hơn là để ý đến tâm trạng của tôi. Tôi biết là nó bị xúc động, nó thở dài nghẹn ngào, nước mắt nhỏ cả xuống đống tro tàn trong lò sưởi. Tôi ngó thẳng vào mắt nó, cười thành tiếng. Hai con mắt hắn, hai cửa sổ địa ngục tối xầm kia, chợt lóe lên một lúc về phía tôi, tuy nhiên vì tên ác quỷ bây giờ đẫm nước mắt nên tôi không sợ hãi, lại còn bật lên tiếng cười chế nhạo.

    Hắn làu bàu:

    “Đứng dậy! Cút đi cho khuất mắt tao!”

    Tôi đoán nó nói thế vì giọng nó nói khó nghe quá, nên đáp:

    “Xin lỗi anh chứ. Tôi cũng yêu Liên. Bây giờ Hạnh là anh của Liên cần được chăm sóc, tôi vì Liên mà chăm sóc anh ấy. Liên đã chết rồi. Tôi xem anh Hạnh như thể Liên vậy. Hạnh có đôi mắt giống hệt Liên, nếu anh không định móc đôi mắt anh ấy ra, làm cho nó thâm xịt và đỏ ngầu lên. Còn Liên...

    “Đứng dậy! Đồ ngốc đê tiện! Không tao đập chết tươi bây giờ!”

    Nói rồi nó khuơ chân tay lên khiến tôi không thể ngồi yên. Tôi vừa thủ thế - nếu cần chạy luôn - vừa nói:

    “Nếu Liên mà là bà Hy, nếu Liên nhận cái địa vị đáng khinh nhục nhã ấy, thì chắc Liên cũng sẽ rơi vào tình cảnh này! Chị ấy chẳng yên lặng mà chịu đựng những hành vi kinh tởm của anh đâu! Chắc chắc chị ấy sẽ nói toáng lên nỗi oán ghét uất hận của mình!"

    Cái lưng ghế của Hạnh chắn giữa tôi và Hy. Vì vậy thay vì cố vươn tay ra đánh tôi, nó vớ một con dao trên bàn ném vào đầu tôi. Mũi dao cắm phía dưới tai tôi khiến tôi ngừng bặt. Tôi rút lưỡi dao ra rồi vùng chạy ra cửa, miệng tuôn ra mấy câu mà tôi chắc đâm vào ruột nó còn sâu hơn là lưỡi dao đâm vào cổ tôi.

    Cảnh cuối cùng mà tôi kịp quay lại trông thấy là nó hùng hổ rượt theo nhưng bị Hạnh ôm lấy và cả hai vật lộn nhau trên đất. Chạy qua nhà bếp tôi bảo Dọi cấp tốc vào tiếp cứu Hạnh. Ra tới cửa tôi đụng phải Hạ lúc đó đương nghịch với mấy con chó làm Hạ ngã lăn quay. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy lên con đường cái như một linh hồn trốn khỏi địa ngục. Rồi tôi lại bỏ con đường cái ngoằn ngoèo, chạy tắt ngang cánh đồng hoang, hết vấp ngã lên những mô đất cao lại hụt chân tụt xuống vũng lầy, tôi cứ nhắm ánh đèn thấp thoáng như ngọn hải đăng ở Họa Mi Trang mà phóng tới. Từ nay chẳng thà tôi bị đầy ải vĩnh viễn trong cảnh địa ngục còn sướng hơn là sống một đêm bên Gió Hú.

    Sa ngừng kể, uống một ngụm trà rồi đứng dậy bảo tôi choàng khăn san và đội mũ cho nàng, mặc tôi năn nỉ thế nào cũng không ở thêm lấy một phút nào nữa. Nàng trèo lên ghế ghé môi hôn tấm hình Kha và Liên, ôm lấy tôi hôn rồi lên xe, đem theo con Phan Nhi mừng rỡ vì gặp lại chủ. Thế là nàng đi...đi luôn, không bao giờ trở lại vùng này nữa.

    Sau khi đã thu xếp ổn định mọi việc, giữa nàng và chủ tôi thường xuyên có liên lạc với nhau bằng thư từ. Tôi đoán chắc là nàng ở miền nam, gần Luân Đôn. Mấy tháng sau kể từ ngày bỏ nhà đi trốn, nàng sinh được một đứa con trai, đặt tên nó là Tôn. Và ngay lần đầu báo tin, nàng đã kể là thằng bé còm cõi, đã hay ốm vặt lại thường hờn quấy luôn.

    Còn Hy thì một hôm gặp tôi dưới làng có hỏi thăm Sa ở đâu. Tôi không nói. Hắn nói hắn cũng chẳng cần biết, miễn là đừng có về ở với anh nàng để hắn phải tóm cổ lôi về. Tuy tôi không cho hắn biết tin, nhưng do một tên đầy tớ nào đó thóc mách, hắn cũng biết chỗ ở của Sa, và cả chuyện Sa đẻ con trai nữa. Có lẽ vì ghét nàng nên hắn cũng chẳng buồn đi tìm và quấy rầy nàng, tôi chắc thế.

    Mỗi lần gặp tôi, Hy thường hỏi thăm về thằng bé. Nghe nói nó tên là Tôn, hắn cười chua chát nói:

    “Họ muốn tôi ghét luôn cả thằng bé đấy!”

    Tôi đáp:

    “Chắc họ không muốn để cậu biết tý ty gì về nó.”

    “Rồi coi. Tôi muốn bắt nó thế nào mà chả được. Cứ tin tôi đi!”

    May mà mẹ thằng bé qua đời trước khi nó bị bắt, lúc ấy vào khoảng mười ba năm sau ngày mợ Liên mất, Tôn mới độ mười hai tuổi hay hơn một chút.

    Sau cái hôm Sa bất chợt về nhà ấy, tôi không có dịp kể lại chuyện ấy cho cậu Kha nghe. Cậu tránh chuyện trò và chả có bụng nào để bàn luận chuyện gì. Đến khi tôi có dịp kể cho cậu nghe, cậu có vẻ vui thấy Sa bỏ chồng. Tôi không ngờ cậu tôi trông hiền lành thế mà trong lòng lại thù ghét Hy một cách sâu cay như vậy, ghét đến nỗi cậu không bao giờ đi đến một nơi mà cậu ngờ có thể gặp Hy hay nghe nói tới Hy. Điều đó, cộng thêm nỗi đau thương trong lòng, biến cậu thành người ẩn dật hoàn toàn. Cậu tôi từ chức thẩm phán, bỏ cả việc đi lễ nhà thờ, tránh mọi việc để khỏi phải xuống làng. Cậu chỉ quanh quẩn trong vườn trong trại mà thôi... thảng hoặc mới đi dạo một mình trên đồng hoang, thăm mộ vợ, thường là vào lúc chiều xuống hay sáng sớm trước khi mọi người ra khỏi nhà.

    Nhưng cũng nhờ ăn ở hiền lành nên cậu tôi cũng không đến nỗi phải buồn khổ lâu. Cậu không cầu nguyện cho hồn mợ tôi về với cậu nữa. Thời gian đã khiến cậu tôi cam chịu và mang lại cho cậu một nỗi buồn nó êm dịu gấp mấy lần những niềm vui tầm thường. Cậu nhớ đến vợ là nhớ tới một mối tình dịu dàng đằm thắm, với lòng tin tưởng rằng nàng được đến một thế giới tốt đẹp hơn, sung sướng hơn nơi trần thế.

    Mà ở nơi trần thế này, cậu tôi cũng không thiếu tình thương và nguồn an ủi. Tôi đã nói rằng mấy ngày đầu cậu tôi hình như chẳng để ý gì đến con bé yếu đuối mà vợ cậu để lại cho cậu. Nhưng sự thờ ơ ấy tan nhanh như tuyết tháng tư, và trước khi con bé vừa bập bẹ biết nói hay chập chững biết đi thì nó đã độc quyền ngự trị trái tim cậu rồi.

    Cậu tôi lấy tên mẹ nó là Liên đặt tên cho nó để nhắc nhở tới người vợ yêu quý của cậu. Cậu yêu nó, quyến luyến nó, có lẽ là vì nó có liên hệ đến mợ tôi hơn là vì nó là con của cậu.

    Tôi thường hay đem so sánh cậu Kha với cậu Hạnh và không sao giải thích cho xuôi vì lẽ gì họ sống trong cùng một hoàn cảnh tương tự mà lại có cách ăn ở trái ngược nhau như thế. Cả hai người đều yêu vợ hết mực, cả hai đều gắn bó với con, thế mà không hiểu sao không đi chung một con đường hoặc tốt thì tốt cả hoặc xấu thì xấu cả. Tôi nghĩ Hạnh bề ngoài trông rắn rỏi thế mà bên trong lại kém cỏi và yếu đuối hơn Kha. Ví như con tàu gặp nạn, thay vì lo cứu tàu thì thuyền trưởng lại trốn nhiệm vụ và bọn thủy thủ lại gây hỗn loạn bỏ mặc tàu trong cơn tai biến. Kha thì trái lại, tỏ ra thực sự có cái can đảm của một người trung tín. Cậu lại tin tưởng nơi Chúa nên Chúa đã mang lại an ủi cho cậu. Một người thì sống trong niềm hy vọng, còn một người thì tuyệt vọng, họ đã tự chọn lấy số phận và xứng đáng để chịu số phận ấy.

    Nhưng, thưa ông Lộc, ông chả cần nghe tôi luận về đạo lý làm gì. Tất cả những điều này rồi ông cũng có thể nhận định ra như tôi, hay ít nhất ông nghĩ là ông sẽ nhận định lấy, đằng nào cũng vậy thôi.

    Như chúng tôi đã dự đoán, cái chết của Hạnh xẩy ra không lâu, chỉ chưa đầy sáu tháng sau ngày em cậu qua đời. Chúng tôi ở Họa Mi Trang, đâu có hay biết gì về bệnh tình của chàng trước khi chết ra sao, mãi hôm tôi lên giúp việc tang ma, tôi mới biết được đôi chút.

    Ông đốc Kiên đến báo tin buồn cho chủ tôi. Ông cưỡi ngựa vào thẳng trong sân, vào lúc trời còn tờ mờ sáng nên tôi đoán ngay là có tin chẳng lành. Ông nói:

    “Này, vú Diễn, bây giờ đến lượt vú và tôi để tang đây. Vú đoán thử lần này ai đã bỏ chúng ta ra đi đây?”

    Tôi lo lắng:

    “Ai vậy?”

    Ông Đốc vừa xuống ngựa, buộc dây cương vào một cái móc cạnh cửa, vừa nói:

    “Chà, vú thử đoán xem. Vú cầm sẵn vạt áo lên thì vừa.

    Tôi kêu:

    “Chắc không phải là cậu Hy chứ?”

    “Vú nói sao? Bộ vú phải nhỏ nước mắt khóc cái con người ấy à? Không, Hy khoẻ như vâm, trông hắn hôm nay tươi như hoa. Tôi vừa gặp hắn xong. Từ khi mất vợ, hắn lại đâm ra có da có thịt nhanh lắm.”

    Tôi sốt ruột nhắc lại:

    “Vậy thì ai thế, ông Đốc?”

    “Ông Hạnh chứ ai nữa? Người bạn cũ của vú đó mà... cũng là ông bạn thân tai ác của tôi, tuy rằng ít lâu nay anh ấy thường hay dở chứng với tôi. Đấy! Tôi đã bảo là thế nào mình cũng phải tốn nước mắt mà... Nhưng mà... thôi thôi, nguôi đi chứ! Tội nghiệp anh ấy, tính thế nào thì chết thế đó... say bí tỷ... Tôi, tôi cũng buồn lắm chứ. Mất một người bạn cũ không buồn sao được, mặc dù anh ấy chơi tôi cũng nhiều vố đau lắm. Mà hình như anh ấy mới hăm bẩy thôi, bằng tuổi vú đấy, ai mà nghĩ anh ta với vú lại cùng sinh một năm?”
    (còn tiếp)

  5. #24
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Thú thực là tin cậu Hạnh mất làm tôi đau lòng hơn cả cái chết của mợ Liên. Tôi nhớ lại bao nhiêu kỷ niệm xưa. Tôi ngồi bệt xuống cổng khóc, khóc như khóc một người ruột thịt. Lúc ấy tôi chỉ mong ông Kiên tìm một người đầy tớ khác dẫn ông vào gặp chủ tôi.

    Tôi không thể không băn khoăn trước một câu hỏi:

    “Liệu cái chết của Hạnh có gì uẩn khúc không?”

    Dù tôi có làm gì thì làm cái ý nghĩ ấy cứ mãi lởn vởn trong đầu tôi khiến tôi khắc khoải vô cùng. Tôi nhất định xin phép nghỉ để lên Đỉnh Gió Hú tham dự tang lễ.

    Cậu Kha nhất định không chịu cho tôi đi. Tôi phải hùng hồn viện ra các lý lẽ xác đáng, nào là tình cảnh Hạnh không có ai thân thích, nào Hạnh là chủ cũ và cũng là anh em cùng một vú nuôi với tôi, tôi phải đáp nghĩa cho phải đạo. Ngoài ra tôi còn nhắc cậu rằng thằng Hạ là cháu vợ cậu, nó chỉ còn Kha là họ hàng gần nhất; đáng lý ra cậu phải đứng ra làm người giám hộ cho nó, điều tra xem tài sản của cha nó để lại ra sao và trông nom giúp cho anh vợ.

    Vào thời gian đó cậu tôi không đủ sức cáng đáng những công chuyện ấy, nên cậu dặn tôi liên lạc với luật sư của cậu và cuối cùng cho phép tôi đi. Ông luật sư ấy cũng là luật sư của cậu Hạnh nữa. Tôi ghé qua làng, mời ông ta đi cùng với tôi. Nhưng ông lắc đầu khuyên tôi không nên dây dưa với Hy và cả quyết là nếu để lộ sự thật thì thằng Hạ chỉ có nước đi ăn mày. Ông nói:

    “Bố nó chết đi nợ đìa ra, nhà cửa đất cát cầm cố hết, đứa con thừa tự chỉ còn mỗi một nước là lấy lòng chủ nợ, may ra người ta thương tình cho tý gì hay tý ấy.

    Khi tới Gió Hú tôi nói là tôi lên xem mọi việc có thu xếp đâu vào đấy chưa. Lão Dọi, nét mặt rầu rầu, thấy tôi lên lộ vẻ hài lòng. Còn Hy thì nói là hắn không cần tới tôi, nhưng nếu tôi muốn thì có thể ở lại trông nom đám tang cho chu đáo. Hắn bảo:

    “Đúng ra thì cái xác thằng điên ấy phải đem chôn ở ngã ba đường, không kèn trống gì hết ráo... Trưa hôm qua tôi bất chợt có việc đi khỏi có độ mười phút nó đã khóa chặt hai cửa nhà lại không cho tôi vào, rồi suốt đêm nó cố tình uống rượu say đến chết! Sáng nay chúng tôi phải phá cửa vào vì nghe nó ngáy như bò rống và thấy nó nằm thẳng cẳng trên ghế dài... Giá có đem lột da nó, nó cũng không tỉnh dậy được... Tôi cho đi kêu ông đốc Kiên nhưng lão ấy chưa đến thì nó đã chết cứng ra rồi. Chắc vú cũng thấy là chả nên bới chuyện ra to làm gì vô ích!”

    Lão Dọi xác nhận lời Hy nói đúng, nhưng lão còn làu bàu nói thêm:

    “Giá để chính cậu đi gọi ông đốc tờ lấy thì hơn! Tôi ở nhà trông nom cậu chủ vẫn hơn... khi tôi đi cậu ấy đã chết đâu!”

    Tôi nhất mực đòi phải làm ma cho trọng thể. Hy bảo việc đó tùy ý tôi nhưng nên nhớ là tất cả tốn phí đều do hắn bỏ tiền túi ra hết.

    Hy giữ thái độ lãnh đạm, thản nhiên, không vui cũng chẳng buồn; nếu có gì khác thì chỉ là vẻ tự mãn của một con người sắt đá đã hoàn tất được một công việc khó khăn. Thực vậy, có một lúc tôi để ý thấy hắn hé lộ ra một vẻ gì giống như sự vui thích, đúng vào lúc người ta khênh quan tài ra khỏi nhà. Hắn lại làm ra vẻ đạo đức, để tang cẩn thận, và trước khi cùng thằng Hạ đi theo linh cữu, hắn bồng thằng bé bất hạnh đứng trên bàn, khẽ nói với giọng khoái trá đặc biệt:

    “Thằng này, bây giờ mày là của tao, nghe chưa? Để rồi xem, cùng một cơn gió xoáy cái cây này có khỏi bị vặn cong như cây kia không?”

    Tội nghiệp thằng bé nó có hiểu tý nào đâu mà ngờ vực, nghe nói nó thích lắm; nó mân mê bộ tóc mai của Hy và vuốt má hắn. Nhưng tôi thì tôi hiểu ý nghĩa câu nói của hắn, tôi nói chua chát:

    “Thưa cậu, thằng bé này phải về Họa Mi Trang với tôi. Cái gì chứ nó nhất định không phải là của cậu rồi!”

    Hắn hỏi:

    “Có phải Kha nói thế không?”

    Tôi đáp:

    “Cố nhiên... cậu Kha đã ra lệnh cho tôi bắt nó về.”

    Cái tên vô lại ấy nói:

    “Khoan, giờ không phải là lúc cãi nhau về vấn đề này. Nhưng tôi lại có ý ngông muốn tự tay thử nuôi dậy một đứa bé xem sao. Vậy vú hãy về nói với chủ của vú rằng nếu ông ấy tìm cách đòi thằng này thì buộc lòng tôi phải đòi con tôi về. Về thằng Hạ tôi sẽ không dễ dàng để nó đi mà không tranh chấp, còn thằng con tôi thì cam đoan thế nào nó cũng về với tôi. Vú nhớ về nói với chủ vú như thế!”

    Chỉ một lời đe dọa ấy cũng đủ bó tay chúng tôi lại rồi. Khi về, tôi kể ngay đại ý câu chuyện cho Kha nghe. Ngay từ đầu, cậu đã chẳng tha thiết, nên cậu không bàn đến chuyện can thiệp nữa. Mà giá cậu có muốn đi nữa, tôi thấy cũng chẳng thể làm gì được.

    Thế là từ địa vị một người khách, Hy nhiễm nhiên nhẩy lên địa vị chủ nhân trại Gió Hú. Hắn nắm quyền sở hữu một cách chắc chắn và đã có bằng cớ đưa ra chứng minh trước ông Chưởng Lý. Ông này lại chưng bằng cớ cho Kha thấy Hạnh đã cầm cố từng thước đất của cậu ta để lấy tiền đánh bạc cho thỏa tính đam mê và người chủ nợ là Hy. Vì không có bè bạn thân thuộc và vì dốt nát không biết rằng mình bị người ta lường gạt nên thay vì bây giờ là đệ nhất địa chủ trong vùng, Hạ lại lâm vào cảnh sống bám vào kẻ thù không đợi trời chung của cha mình, làm đấy tớ không công ở ngay trong nhà mình cho hắn và hoàn toàn không thể ngóc đầu lên được.

    Chương 18

    Bác Diễn kể tiếp:

    Sau cái thời gian sầu thảm đó tôi được hưởng luôn mười hai năm sung sướng nhất đời tôi. Tôi chỉ lo buồn mỗi khi con bé trái nắng trở trời. Được cái mới sáu tháng mà cô bé đã lớn như thổi. Trước khi cỏ mọc xanh lần thứ nhì trên mộ mợ Kha thì bé Liên đã biết đi và bập bẹ nói chuyện được rồi.

    Cả nhà ai cũng yêu Liên nhất, cô bé đã đem lại không khí vui tươi cho một gia đình đương suy sụp. Liên xinh thật là xinh. Cô bé có đôi mắt đen lánh to đẹp của giòng họ Yên, làn da trắng mịn, nét mặt thanh tú và làn tóc vàng xoăn của họ Tôn. Tính Liên linh hoạt mà không dữ dằn, lại thêm tâm hồn đa cảm rất dễ thương. Tình quyến luyến của Liên làm tôi nhớ mẹ cô hết sức, tuy cô không giống mẹ vì Liên hiền dịu như một con chim bồ câu, giọng nói thật êm và vẻ mặt trầm tư. Liên giận nhưng không bao giờ nổi cáu, yêu nhưng không bao giờ cuồng nhiệt; tình yêu của Liên đằm thắm xâu xa.

    Dẫu sao phải nhận rằng Liên có những thói xấu làm hỏng mất nết tốt trời cho: đó là tính vô lễ và ương ngạnh mà các đứa trẻ, dù tốt nết hay trái tính, nếu được nuông chiều quá đều trước sau gì cũng mắc phải. Nếu một người đầy tớ lỡ làm cô phật ý bao giờ cô cũng nói:

    “Tôi sẽ mách ba cho mà xem!”

    Và nếu cậu Kha quở trách hay chỉ lườm cô một cái thôi thì ôi thôi, cả một chuyện bi ai! Tôi chắc chẳng bao giờ Kha nói nặng một lời với con gái.

    Cậu Kha hoàn toàn tự dậy dỗ Liên và lấy đó làm thú vui. Rất may là tính tò mò và trí thông minh đã khiến Liên trở thành một học trò giỏi. Cô ấy học nhanh và chăm, bõ công cậu dậy dỗ.
    Cho đến năm mười ba tuổi Liên không bao giờ tự ý đi ra khỏi vòng rào trại một lần nào. Năm thì mười họa, cậu Kha mới dẫn cô ra khỏi nhà độ một hai cây số. Không bao giờ cậu ấy tin và giao Liên cho ai. Đối với Liên, Diên Mễ Tôn chỉ là cái tên tưởng tượng. Ngoài nhà ở ra, nơi duy nhất cô ra vào là nhà thờ. Liên không biết đến cả trại Gió Hú và ông Hy nữa. Cô bé sống cấm cung hoàn toàn và hiển nhiên là được thỏa mãn mọi điều.

    Có lần, đứng ở cửa buồng nhìn ra phong cảnh bên ngoài, Liên hỏi tôi:

    “Vú Diễn ơi, bao giờ em mới được lên đỉnh những quả đồi kia? Không biết ở phía bên kia có gì nhỉ? Có phải là biển không vú?”

    “Không phải đâu, phía bên kia cũng là đồi như phía bên này thôi.”

    Lần khác Liên hỏi:

    “Khi mình đứng ở dưới thì những tảng đá vàng vàng kia nó giống cái gì nhỉ?”

    Cái sườn dốc hiểm trở của dẫy núi đá Băng Thạch Nham đã đặc biệt lôi cuốn sự chú ý của cô bé, nhất là khi mặt trời xế tà rọi lấp lánh vào đó, vào những đỉnh cao nhất, trong khi toàn cảnh ở bên cạnh chìm trong bóng dâm.

    Tôi giải thích rằng đó chỉ là những tảng đá trần trụi, trong khe chỉ có một chút xíu đất đủ nuôi sống một thân cây cằn cỗi. Liên lại hỏi:

    “Thế tại sao nhà mình ở đây chiều tối rồi mà ở đó vẫn còn sáng lâu như vậy?”

    “Vì ở đấy cao hơn chỗ mình ở nhiều. Cô không thể nào trèo tới đó được đâu vì nó cao và dốc kinh khủng. Mùa đông ở đó bao giờ cũng đóng băng sớm hơn chỗ chúng ta; và gần giữa mùa hè rồi mà ở phía đông bắc tôi vẫn còn thấy tuyết đóng ở dưới cái hốc đen kia.”

    Liên hớn hở reo lên:

    “Ồ, thế ra vú đã đến đó rồi! Vậy lớn lên em cũng có thể đến đó được chứ! Ba em đã đến đó chưa, hả vú Diễn?”

    Tôi vội nói:

    “Cô hỏi ba thì biết, ở đó chả có gì đáng xem cả. Cánh đồng cỏ cô đã đi với ba còn đẹp hơn nhiều và khắp thế giới chẳng đâu đẹp bằng Họa Mi Trang này!”

    Liên nói lẩm bẩm:

    “Nhưng trại này mình biết rồi còn chỗ kia thì chưa. Nếu mình được đứng ở cái đỉnh núi cao nhất kia nhìn ra khắp xung quanh thì thú vị biết mấy. Thế nào rồi cũng có ngày con Minh Nhi đưa mình đến đó.”

    Có lần một chị người làm nói ở đó có động tiên càng làm cho cô bé Liên thêm khao khát. Liên tán tỉnh xin bố đưa đi. Kha hứa bao giờ Liên lớn ông sẽ dẫn đi, còn bé Liên thì tính tuổi từng tháng một. Cô nhắc luôn miệng:

    “Con bây giờ lớn rồi, có thể đi Băng Thạch Nham được rồi, ba?”

    Đường đi đến đó chạy vòng sát qua trại Gió Hú nên Kha không thích đi qua, ông chỉ biết trả lời Liên:

    “Chưa được đâu, cưng, chưa được đâu.”

    Tôi đã nói mợ Hy, tức là cô Sa, sau khi ly thân với chồng, sống được khoảng mười hai mười ba năm gì đó. Gia đình mợ người nào cũng yếu; mợ và cậu Kha, cả hai đều không được khỏe mạnh hồng hào như những người ông thường gặp ở đây. Tôi không biết rõ trước khi mất mợ ốm đau ra sao, nhưng tôi đoán chừng cả hai anh em đều chết vì một bệnh giống nhau, một bệnh sốt ban đầu chậm phát nhưng không chữa được rồi làm người ta chết nhanh chóng.

    Mợ Hy viết thư cho anh, báo tin kết quả bốn tháng đau yếu và năn nỉ anh, nếu có thể, đến gặp mợ ấy vì cần phải giải quyết nhiều việc. Mợ Hy muốn được cáo biệt anh lần cuối cùng và gửi gấm đứa con trai là Tôn cho anh nuôi nấng. Mợ ấy mong Tôn ở với cậu Kha như đã ở với mẹ nó, vì bố của Tôn, mợ tin chắc là không muốn đeo cái của nợ phải nuôi nấng và dậy dỗ ấy.

    Không chút lưỡng lự cậu Kha lập tức làm theo theo lời mợ Hy. Bình thường cậu vốn ngại phải đi xa nhà là thế, mà bây giờ nghe tin, cậu hối hả đi ngay, giao cho tôi việc coi sóc Liên. Cậu cẩn thận dặn đi dặn lại trong thời gian cậu vắng nhà không được để Liên đi lang thang khỏi trại, cho dù có tôi đi kèm cũng không được. Cậu không tính đến nước nó tự lẻn đi lấy một mình.

    Kha đi vắng ba tuần lễ. Một hai hôm đầu, Liên ngồi lì trong phòng sách, mặt buồn thiu chẳng thiết đọc sách cũng chẳng buồn chơi. Trong tình trạng như vậy Liên đỡ làm phiền tôi. Vì bận quá, vả hồi đó cũng có tuổi rồi tôi không thể chạy lên chạy xuống bầy trò giải trí cho cô, tôi mới nghĩ ra một cách để Liên có thể tự tiêu khiển lấy một mình.

    Tôi bảo Liên đi chơi quanh vườn, lúc thì đi bộ, lúc thì cưỡi ngựa, rồi khi cô bé về tôi phải chiều lòng chịu khó nghe cô kể lể những cuộc phiêu lưu có thực hay là tưởng tượng của cô ấy.

    Trời hè nắng chói chang, thế mà Liên cũng quen chân đi chơi như vậy một mình và thường tìm cớ để đi suốt từ sau bữa ăn sáng cho tới bữa trà trưa, rồi chiều đến kể không biết bao nhiêu chuyện vẩn vơ hão huyền. Tôi không sợ Liên “phá rào” ra khỏi trại vì cổng ngõ đều khóa chặt, vả tôi tin rằng cho dẫu cổng ngõ có mở toang ra, Liên cũng không dám “đơn thương độc mã” mạo hiểm đi xa một mình.

    Thật không may, lòng tin của tôi đặt không đúng chỗ. Một bữa, mới tám giờ sáng, Liên đã tìm tôi nói là hôm ấy có một nhà buôn Ả-Rập sắp đưa một đoàn xe hàng qua sa mạc và tôi phải cung cấp nhiều thực phẩm cho Liên và đàn tùy tùng gồm một con ngựa và ba con chó săn đóng giả làm ba con lạc đà.

    Tôi sắp một giỏ đầy thức ăn ngon đeo vào một bên ngựa. Liên mừng nhẩy lên vui như tiên, mặt ẩn trong chiếc mũ rộng vành và tấm mạng tơ mỏng che nắng tháng bẩy, vừa cười khanh khách vừa thúc ngựa đi, giả đò như không nghe thấy lời tôi căn dặn đừng phóng ngựa nhanh và nhớ về sớm.

    Đến bữa trà rồi mà không thấy mặt cô bé nghịch ngợm đâu, chỉ có mỗi con chó săn già là trở về, còn Liên cùng con ngựa và hai con chó kia thì không thấy tăm đâu. Tôi cắt người đi tìm hết đường này đường nọ và sau cùng tôi phải đi kiếm lấy.

    Thấy một chú thợ đang làm việc ở hàng rào một nông trại, tôi đến hỏi xem có thấy cô bé đâu không, chú ta đáp:

    “Sáng nay tôi có thấy cô ấy. Cô ấy bảo tôi chặt dùm một cái roi rồi thúc ngựa nhẩy qua hàng rào ở đằng kia, chỗ thấp nhất, phóng đi mất hút.

    Ông có thể tưởng tượng được không, nghe tin ấy tôi không còn hồn vía nào nữa vì biết ngay là Liên đã đi Băng Thạch Nham. Tôi la hoảng lên: “Chết tôi rồi!” rồi vội chui qua lỗ rào hổng chú thợ đương sửa và đi thẳng tuốt lên đường núi. Tôi đi như chạy, hết cây số này đến cây số khác, cho đến một khúc rẽ có thể nhìn thấy Đỉnh Gió-Hú nhưng vẫn không thấy tăm hơi cô bé đâu cả.

    Băng Thạch Nham nằm cách trại ông Hy khoảng hơn hai cây số và cách Họa Mi Trang hơn sáu cây, nên tôi bắt đầu lo đêm xuống rồi mà tôi chưa tới nơi.

    Tôi nghĩ dại nếu bé Liên trượt chân lăn xuống chết hay gẫy vài cái xương thì sao đây? Điều lo ngại này khiến tôi khổ sở hết sức. Khi tôi chạy vội tới Gió Hú, thấy con Lu là con chó săn dữ nhất nhà đang nằm dưới cửa sổ, đầu nó sưng u, tai rướm máu, tôi mới được yên tâm đôi chút. Tôi mở cửa ngách vào sân, chạy vội tới đập cửa rầm rầm. Một chị người làm mà tôi quen - trước đây có ở Diên Mễ Tôn - ra mở cửa. Chị ta nói:

    “À, Chị đến kiếm cô bé hả? Đừng lo! Cô ấy không sao hết. Cũng may mà ông chủ không có nhà.”

    Tôi mệt thở gần muốn dứt hơi, phần vì đi hối hả phần vì hoảng sợ:

    “Ông ấy đi vắng à?”

    “Vâng, cả ông chủ lẫn bác Dọi đều đi khỏi. Chắc còn lâu mới về. Chị vào đây nghỉ chút đã.”

    Tôi bước vào nhà và thấy ngay con cừu lạc của tôi đang ngồi đu đưa trên chiếc ghế xích đu mà hồi xưa mẹ nó khi còn bé vẫn hay ngồi. Mũ treo trên vách, trông Liên tự nhiên như ở nhà, vừa cười vừa đấu hót với Hạ, bây giờ đã là một thiếu niên mười tám to lớn lực lưỡng, đang ngó Liên chăm chăm, vẻ mặt tò mò và ngạc nhiên hiểu lõm bõm những nhận xét và câu hỏi liến thoắng của Liên.

    Tôi giấu nỗi mừng, làm mặt giận, kêu lên:

    “Cô giỏi nhỉ? Đây là lần cuối tôi để cô cỡi ngựa đi chơi cho đến ngày ba cô về. Tôi sẽ không cho cô bước qua ngưỡng cửa lần nữa đâu. Đồ hư đốn!”

    Liên hớn hở, nhẩy lên chạy đến bên tôi, reo:

    “A ha, vú Diễn! Tối nay em có một chuyện rất hay kể cho vú nghe. Thế là vú đã tìm ra em trước. Vú đã đến đây bao giờ chưa?”

    Tôi nói:

    “Mời cô đội mũ vào và về ngay lập tức! Tôi rầu muốn chết vì cô đấy, cô Liên, cô làm thế này bậy hết sức. À, bây giờ cô bĩu môi, cô khóc cũng vô ích, không bù với cái khổ của tôi chạy khắp mọi nơi để tìm cô. Cứ nghĩ đến lời ba cô giao phó cho tôi giữ cô ở nhà như thế nào, ấy thế mà cô lén ra đi như thế này, đủ chứng tỏ cô là con ranh ma, chả ai tin được cô nữa."

    Bị mắng, Liên nức nở:

    “Em làm gì cơ chứ? Ba không bắt lỗi em bao giờ hết, ba sẽ không mắng em đâu, vú Diễn. Ba không ngăn cấm em như vú bao giờ!”

    Tôi nói:

    “Thôi, lại đây, lại đây! Để tôi thắt nơ lại cho cô nào! Ô kìa, xấu hổ chưa. Mười ba tuổi đầu rồi đâu còn con nít nữa."

    Tôi nói vậy vì Liên hất cái mũ ra và lùi khỏi tầm tay tôi. Chị người làm nói:

    “Thôi đừng, chị Diễn, đừng ép cô ấy quá. Chính tụi này đã giữ cô ấy lại, chớ cô bé định về ngay vì sợ chị lo đấy. Hạ đã tính đưa cô ấy về rồi. Nghĩ cũng phải vì tôi thấy trên đồi đường đi vắng vẻ lắm."

    Trong lúc đó Hạ, hai tay thủ túi, ngượng ngùng không nói câu nào. Trông cậu ta có vẻ không ưa sự quấy rầy của tôi. Mặc kệ chị người làm can thiệp, tôi nói:

    “Mười phút nữa trời tối rồi, tôi phải đợi tới bao giờ nữa đây? Ngựa đâu, cô Liên? Còn con chó Phốc nữa? Cô mà không mau mau lên, tôi bỏ mặc cô đấy để cô tự lo liệu!”

    Liên đáp:

    “Ngựa ở trong sân, còn con Phốc thì nhốt ở kia. Nó bị cắn. Cả con Lu nữa. Em sắp kể vú nghe nhưng vú nóng quá em không thèm kể đâu."

    Tôi cầm lấy mũ của Liên tính đội lên đầu cô bé nhưng Liên thấy mọi người đứng về phe mình liền nhẩy quanh phòng, trèo lên chui xuống gầm bàn ghế để chạy trốn như một con chuột khiến tôi phải đuổi theo một cách lố bịch. Hạ và chị người làm rũ ra cười. Liên cũng cười theo họ và xấc xược khiến tôi phát cáu, hét lên:

    “Này cô Liên, nếu cô biết nhà này là nhà ai thì chắc cô sẽ sung sướng ra khỏi đây ngay lập tức!”

    Liên quay sang hỏi Hạ:

    “Nhà này của ba anh phải không?”

    “Không."

    Hạ vừa đáp vừa cúi gầm mặt xuống, hai má đỏ lên vì ngượng. Cậu ta không đương nổi cái nhìn chăm chăm của Liên mặc dù đôi mắt cô giống hệt mắt Hạ.

    Liên hỏi tiếp:

    “Vậy của ai, chủ anh phải không?”

    Mặt Hạ đỏ thêm nhưng không phải vì ngượng mà vì tức. Anh chàng văng một câu chửi thề rồi quay đi chỗ khác.

    Liên vẫn không chịu thôi, năn nỉ tôi:

    “Chủ của Hạ là ai, vú? Em tưởng Hạ là con chủ nhà vì anh ấy nói ‘nhà của chúng tôi’. Còn nếu Hạ là người làm thì Hạ phải nói ‘thưa cô’ với em chứ? Có phải không?”

    Nghe câu hỏi ngây thơ ấy mặt Hạ xạm lại. Tôi khẽ lắc đầu ra hiệu cho Liên rồi sau cùng cũng bảo được Liên về. Quen như vẫn sai bảo mấy người nuôi ngựa ở Họa Mi Trang, Liên nói trống không:

    “Thôi, ra giắt ngựa lại đây cho tôi. Anh có thể đi với tôi. Tôi muốn đi xem mấy con yêu tinh hiện trong đầm và nghe chuyện mấy cô tiên mà anh vừa kể. Mau lên kìa! Sao? Tôi đã bảo anh giắt ngựa lại đây mà!”

    Hạ càu nhàu:

    “Đợi đấy, chừng nào tôi thấy quỷ tha cô đi tôi sẽ làm đầy tớ cho cô.

    Liên ngạc nhiên:

    “Anh nói thấy cái gì?”

    “Cái đếch! Đồ quỷ cái hỗn láo!”

    Tôi xen vào:

    “Đấy cô thấy chưa! Bạn quý của cô đấy! Ăn nói với một tiểu thư bằng những lời đẹp đẽ nhỉ! Cô đừng nói chuyện với nó nữa. Cô theo tôi, mình đi tìm ngựa rồi về đi."

    Liên ngẩn mặt ra, nói:

    “Nhưng vú Diễn, sao nó dám hỗn với em như vậy? Nó không phải là người để em sai bảo à? Hứ, cái đồ mất dậy, em sẽ mách ba cho mà xem!”

    Thấy Hạ tỏ vẻ xem thường lời đe dọa đó, con bé ức quá đến ứa nước mắt, bèn quay lại bảo chị người làm:

    “Chị giắt con ngựa ra cho tôi và thả con chó ra nữa!”

    Chị ấy đáp:

    “Cô đừng nóng. Cô lịch sự một tí có mất gì đâu. Tuy cậu Hạ đây không phải là con ông chủ thật, nhưng cậu ấy là anh họ cô. Còn tôi, tôi không được mướn để hầu hạ cô."

    Liên bĩu môi:

    “Nó mà là anh họ tôi!”

    “Vâng, sự thật là như vậy."

    Liên lúng túng:

    “Kìa, vú Diễn! Vú đừng để mấy người này nói những chuyện như thế. Ba em đi Luân Đôn đón em họ của em về, em họ em là con nhà quý phái, còn người này...."

    Liên bỏ giở câu nói, òa khóc. Cô ta bực mình vì bị gán họ hàng với một tên quê mùa như anh chàng Hạ. Tôi khẽ bảo:

    “Ấy kìa! Một người có thể có nhiều anh chị em họ và có đủ loại anh chị em họ. Cô Liên, cô chả nên lấy thế làm phiền. Có điều là đừng giao du với những người xấu làm mình khó chịu, thế thôi."

    Liên lăn vào vòng tay tôi, nói:

    “Không, nó đâu phải là anh họ em."

    Tôi bực mình cả Liên lẫn chị người làm đã tiết lộ những điều không nên nói. Tôi chắc chắn là tin bé Tôn sắp được đón về Họa-Mi Trang do Liên nói ra sẽ được kể lại với ông Hy. Còn Liên thì ý nghĩ đầu tiên, tôi chắc thế, khi cậu Kha về là hỏi bố cho ra lẽ về chuyện họ hàng thân thích với cái tên thô tục kia, có đúng như lời quả quyết của chị người làm không?

    Sau khi nguôi giận vì bị gán lầm là đầy tớ, Hạ thấy Liên buồn thì tỏ vẻ xúc động. Cậu ta giắt con ngựa đi vòng ra cửa rồi ẵm từ trong chuồng ra một con chó săn nhỏ xinh đẹp, vừa giúi nó vào tay Liên để làm lành vừa dỗ Liên nín đi. Cô ngừng khóc nhưng sau khi nhìn khắp người Hạ với cặp mắt kinh sợ và ghê tởm cô lại òa lên lần nữa.

    Tôi phải cố nén mới khỏi mỉm cười thấy Liên có thái độ ác cảm với anh chàng Hạ tội nghiệp này. Cậu ta trông lực lưỡng, khỏe mạnh, đẹp trai là đằng khác, chỉ phải quần áo lam lũ quá vì công việc hàng ngày ở nông trại và lê la nơi đồng hoang để bắt thỏ hoặc các thú săn khác. Ngoài ra, trông tướng Hạ, tôi thấy cậu có nhiều đức tính hơn bố. Như những hạt giống tốt bị chìm khuất trong đám cỏ hoang mọc tùm lum không phát triển được, những đức tính ấy nếu gặp hoàn cảnh thuận lợi sẽ sinh sôi nẩy nở. Tôi tin là về thể xác, ông Hy không hành hạ cậu ta vì tính Hạ gan lì không dễ ai áp bức nổi. Hạ cũng không nhút nhát, dễ hờn giận để ông Hy có khoái cảm trong việc ngược đãi cậu. Ông Hy đành phải biến Hạ thành con vật để thỏa lòng thù hận của mình. Hạ không bao giờ được học đọc, học viết; không bao giờ bị trách mắng vì một thói xấu nếu thói đó không làm ông Hy khó chịu. Ông Hy cũng không hề dậy dỗ Hạ để Hạ có được một đức tính hay tránh một tật xấu cho nên người.

    Theo lời người ta kể lại với tôi thì bác Dọi vì đầu óc thiên vị, hẹp hòi đã nịnh nọt chiều chuộng Hạ như một đứa con nít vì Hạ là con trưởng của gia đình chủ cũ của bác, thành thử Hạ càng hư hỏng thêm nhiều. Hơn nữa vì bác Dọi thường kết tội Liên và Hy, khi còn nhỏ, đã “chọc giận” khiến chủ cũ của bác uất ức phải lấy rượu giải khuây, nên bây giờ bác trút tất cả gánh nặng về thói hư tật xấu của Hạ lên vai kẻ đã chiếm đoạt tài sản Hạ. Hạ có chửi rủa văng tục, hay có gì lầm lỗi, bác cũng mặc. Hơn thế bác lại còn có vẻ thích thú nhìn thấy Hạ ngày càng hư đốn. Bác để cho cậu ta lụn bại, cho linh hồn cậu sa đọa vì bác cho như vậy là ông Hy phải chịu trách nhiệm. Máu của Hạ cần phải nhuốm tay Hy, bác cứ nghĩ như vậy và lấy thế làm an ủi.

    Bác Dọi nhồi vào óc Hạ cái tính tự cao tự đại về dòng dõi và tên tuổi của mình; có thể bác còn dám gây cho Hạ và chủ nhân hiện thời của trại Gió Hú thù ghét nhau nữa, nhưng bác lại sợ ông chủ này như sợ quỷ thần nên chỉ dám nói bóng nói gió hay lẩm bẩm hăm dọa ngầm mà thôi.
    Vì tôi rất ít thấy tận mắt nên tôi không dám bảo là mình hiểu rõ nếp sống hàng ngày trong Đỉnh Gió Hú. Tôi chỉ nhắc lại những lời đồn đãi. Người trong xóm quả quyết rằng ông Hy đối đãi với tá điền rất bủn xỉn, độc ác và nghiêm khắc. Nhưng ở trong trại thì lấy được vẻ sung túc xưa, những cảnh lộn xộn thường xẩy ra hồi ông Hạnh còn sinh thời nay không còn nữa. Ông chủ trại quá khinh người không muốn giao du với bất cứ ai, cho dẫu người ta tốt hay xấu cũng mặc; dẫu sao thì ông chủ...

    Nhưng thôi, chuyện nói ra cũng chẳng đi đến đâu. Cô Liên không chịu nhận con chó săn, không chịu làm lành với Hạ. Cô đòi con chó của mình, con Lu và con Phốc. Hai con khập khễnh đi tới, đầu cúi gầm xuống. Chúng tôi sửa soạn đi về. Người và chó đều buồn thiu như nhau.

    Tôi không sao moi hết được chuyện cô bé đã làm gì suốt ngày hôm đó, trừ một vài điều. Như tôi dự đoán, mục đích cuộc đi chơi của cô là để tới Băng Thạch Nham. Khi cô tới cổng trại Gió Hú thì đúng lúc Hạ tình cờ đi ra, theo sau là một bầy mấy con chó. Bọn này tấn công đàn tùy tùng của cô. Hai bên cắn nhau dữ dội trước khi chủ nhân của chúng tách được chúng ra khỏi nhau. Thế là Liên và Hạ quen nhau. Liên nói cho Hạ biết mình là ai, định đi đâu và nhờ Hạ chỉ đường cho rồi sau đó rủ Hạ cùng đi.

    Hạ dẫn Liên đi coi những cái huyền bí của Động Tiên và nhiều nơi kỳ lạ khác, nhưng vì tôi đương giận nên chẳng thiết nghe Liên kể những điều lý thú mà cô nàng được xem.

    Dẫu sao tôi thấy Liên cũng có vẻ khoái Hạ, ít ra là cho đến lúc cô ta ám chỉ Hạ là đầy tớ và chị người làm nhà ông Hy bảo Liên là em họ của Hạ khiến cả hai người đều mích lòng. Rồi lời ăn tiếng nói của Hạ đã khiến lòng cô bé bị tổn thương: từ bé đến lớn, Liên luôn luôn được hết thẩy mọi người trong Họa Mi Trang chiều chuộng, kêu là “cưng”, là “bà hoàng”, là “cô tiên”, thế mà bây giờ lại bị một người lạ xỉ vả thô bỉ. Ngoài ra, Liên vì không hiểu ngọn ngành câu chuyện bên Gió Hú nên tôi phải mất công mãi cô nàng mới chịu hứa là sẽ không kể lại chuyện này cho cha nghe.

    Tôi giải thích cho Liên biết là cha cô hết sức phản đối cái nếp sống bên trại Gió Hú và nếu cậu biết con gái mình đến đó ông sẽ buồn rầu hết sức. Nhưng tôi nhấn mạnh ở điểm này: nếu Liên nói hở cho cha biết tôi đã lơ là không trông nom Liên đúng theo lệnh của ông thì chắc ông sẽ nổi giận đến mức có thể đuổi tôi đi. Liên hứa sẽ giữ lời - vì tôi mà giữ lời - vì không thể chịu đựng nổi cái viễn cảnh ấy. Nói tóm lại Liên là một thiếu nữ dễ thương.
    (còn tiếp)
    Last edited by ngancau; 02-02-2011 at 07:23 PM.

  6. #25
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 19

    Một bức thư viền đen báo cho chúng tôi biết ngày cậu chủ tôi trở về. Sa đã chết. Cậu Kha dặn tôi thu xếp cho con gái để tang và dọn một buồng đầy đủ tiện nghi cho cháu cậu.

    Liên nghe tin cha cô sắp về, cô mừng nhẩy nhót như điên; cô nuôi những hy vọng lạc quan nhất về cậu em họ “thực” của cô, chắc chắn phải có rất nhiều điểm hay đẹp không chê vào đâu được.

    Rồi cái buổi chiều ngày cậu Kha đem cháu về đã tới. Ngay từ sáng sớm Liên đã giục sắp sẵn quần áo cho cô. Và bây giờ, trong chiếc áo dài đen mới - tội nghiệp cô bé, cái chết của người cô chẳng gây cho nó một nỗi buồn thương nào - cô không ngừng kèo nèo bắt tôi đi cùng qua mấy bãi cỏ xuống đón cha cô và Tôn. Dưới bóng hàng cây dâm mát Liên nói líu lo luôn miệng trong khi chúng tôi thong thả đi qua những mô đất và rãnh nước trơn rêu.

    “Tôn thua em nửa tuổi. Có nó làm bạn thích quá! Cô Sa lúc trước có gửi cho ba một lọn tóc của nó, màu lợt hơn màu tóc em, đẹp ghê. Tóc nó vàng, mượt, không thua gì tóc em. Em giữ cẩn thật trong một cái hộp kính nhỏ và em thường mơ có ngày được gặp người có lọn tóc ấy sẽ thú vị biết chừng nào... ờ, em thích quá... và cả ba nữa, ba yêu của em... Này, vú Diễn, mình chạy đi, chạy đi nào!”

    Liên tung tăng chạy tới chạy lui trong khi tôi cứ thủng thẳng bước tới cổng. Cô ngồi xuống chờ trên bờ cỏ cạnh con đường mòn nhưng nào cô bé nào có thể ngồi yên được, cô sốt ruột kêu lên:

    “Sao mãi không thấy ba về nhỉ. A, kia rồi, em thấy trên đường có bụi mù lên kìa... chắc ba sắp về tới nơi…nhưng mà, không phải!... Bao giờ ba với Tôn mới về? Hay là mình đi thêm một quãng nữa đi... độ hơn nửa cây số nữa thôi, vú Diễn. Vú ừ đi, chỉ nửa cây số thôi, đến đám cây phong ở chỗ rẽ ấy."

    Tôi nhất định không đi. Mãi rồi Liên cũng chịu ngồi yên... đã thấy bóng chiếc xe ở đằng xa. Vừa thấy mặt bố ló ra ngoài cửa xe, Liên đã la lên, tay dang phía trước. Cậu Kha xuống xe, vẻ bồn chồn không thua con gái. Trong một lúc lâu hai bố con ôm chặt lấy nhau tưởng như thế giới không còn một ai khác.

    Trong lúc ấy tôi nhìn vào xe kiếm Tôn. Cậu bé, ủ trong chiếc áo ấm lông cừu như thể đang giữa mùa đông, ngủ vùi trong góc xe. Trông nó xanh xao yếu đuối như con gái. Nó giống cậu Kha như tạc. Người ta có thể lầm nó là em út của cậu chủ tôi, chỉ khác ở cái vẻ buồn rầu bệnh hoạn mà Kha không bao giờ có.

    Cậu Kha thấy tôi nhìn nó, cậu chào tôi và bảo tôi đừng đụng đến Tôn vì nó đi đường xa còn mệt. Khi hai bố con đi tới bậc tam cấp, Kha bảo con gái:

    “Này cưng, em họ con không được vui và khỏe như con đâu. Nó không thể chơi đùa với con ngay và con đừng quấy rầy nó quá. Con nên nhớ là mẹ nó vừa mới mất mấy hôm nay. Con hãy để nó nghỉ ngơi chiều nay, được không?”

    Liên vội đáp:

    “Dạ, dạ, thưa ba được ạ. Nhưng con muốn xem mặt nó, nó chưa nhìn ra ngoài xe mà."

    Cỗ xe ngừng bánh, cậu Kha đánh thức thằng bé dậy, nhấc nó xuống đất. Cậu cầm hai tay đứa trẻ đặt vào nhau và nói:

    “Cháu Tôn, đây là chị Liên của cháu. Tuy chưa gặp cháu mà Liên đã mến cháu rồi. Cháu nhớ đêm nay cháu đừng có khóc làm chị buồn. Cháu ráng vui lên, bây giờ mình hết phải đi nữa rồi, cháu khỏi phải làm gì cả, cứ việc ăn chơi nghỉ ngơi cho thỏa thích.

    Cậu bé thấy Liên chào thì lùi lại, giơ tay quệt nước mắt, đáp:

    “Vậy thì cho cháu đi ngủ thôi."

    Tôi dắt Tôn vào nhà, khẽ nói với nó:

    “Nào lại đây, chú bé ngoan. Đừng làm vậy, chị Liên cũng khóc theo bây giờ... Nhìn xem chị ấy buồn vì thương chú biết là chừng nào."

    Tôi không biết có phải Liên buồn vì thương Liên thật không, nhưng mặt cô bé trông cũng thiểu não như Tôn. Cô quay lại phía cha và cả ba bước vào nhà, lên phòng sách có bầy sẵn tiệc trà.
    Tôi cởi áo và bỏ mũ cho Tôn rồi đặt chú bé ngồi lên ghế, nhưng chưa kịp đặt đít thì chú ta lại òa lên khóc nữa. Cậu Kha hỏi, chú nức nở đáp:

    “Cháu không muốn ngồi ghế."

    Kha kiên nhẫn nói:

    “Vậy cháu ra nằm ghế dài kia. Vú Diễn sẽ bưng nước trà lại cho cháu."

    Tôi nghĩ bụng: “Quả là một thách thức lớn đối với cậu Kha phải cáng đáng trông nom thằng bé đau ốm vòi quấy ấy trong suốt cuộc hành trình dài vất vả.”

    Tôn uể oải lê bước tới chiếc ghế dài nằm xuống. Liên nhấc một chiếc ghế đẩu thấp và đem tách trà của cô lại ngồi cạnh Tôn.

    Liên lúc đầu ngồi im. Nhưng chỉ lát sau cô bé bắt đầu táy máy nựng nịu chú em họ. Cô bắt đầu vuốt tóc và hôn lên má nó. Cô còn đổ nước trà ra đĩa cho nó uống như một đứa con nít. Thằng bé lấy thế làm khoái, nó lau khô nước mắt, mỉm cười gượng gạo.

    Kha nhìn hai đứa trẻ, bảo tôi:

    “À, nó sẽ quen ngay ấy mà. Giá mình được nuôi được nó thì còn gì bằng. Một khi nó có được đứa trẻ cùng tuổi làm bầu bạn, nó sẽ nhiễm tinh thần mới, và rồi nó sẽ khỏe mạnh."

    “Nếu mình giữ được nó ở đây.” Tôi lẩm bẩm nói thế và ngờ rằng ít có hy vọng được như vậy. Lòng tôi bất giác buồn buồn nghĩ tới cái cảnh thằng bé yếu đuối kia phải sống bên trại Gió Hú, giữa cha nó và Hạ. Họ sẽ dậy dỗ nó ra sao?”

    Sớm hơn tôi dự đoán điều lo ngại của chúng tôi trở thành sự thực. Sau bữa trà, tôi dẫn hai đứa trẻ lên lầu và dỗ cho Tôn ngủ. Vì Tôn không chịu cho tôi rời chỗ nên tôi phải đợi nó ngủ rồi mới đi xuống nhà dưới. Khi tôi đang đứng cạnh bàn ngoài phòng lớn thắp ngọn nến để đem vào buồng ngủ cho cậu Kha thì một chị người làm ở trong bếp đi ra báo cho biết có người nhà ông Hy là bác Dọi đang đứng đợi ngoài cửa, muốn xin vào thưa chuyện cùng ông chủ.

    Tôi run bắn người lên, nói:

    “Để tôi ra hỏi xem việc gì đã. Giờ này mà còn đến quấy rầy người ta. Ông chủ vừa đi xa về mệt nhọc, tôi chắc ông không tiếp đâu."

    Tôi đang nói dở thì bác Dọi đã bước qua khỏi nhà bếp vào phòng. Bác mặc bộ đồ đi lễ, nét mặt nhăn nhúm ra vẻ con người mộ đạo, tay cầm mũ, tay cầm gậy, đang chùi chân trên tấm thảm.

    Tôi lạnh lùng hỏi:

    “Chào bác Dọi. Có việc gì mà đêm hôm bác tới đây?”

    Bác ta ngoắc tay, khinh khỉnh đáp:

    “Tôi muốn nói chuyện với cậu Kha."

    “Cậu ấy ngủ rồi. Trừ khi có chuyện thật cần kíp tôi chắc cậu Kha không tiếp ai vào giờ này đâu. Bác ngồi xuống đây, cho tôi biết chuyện gì để tôi thưa lại."

    Bác Dọi nhìn dẫy cửa phòng hỏi:

    “Phòng nào là phòng cậu ấy?”

    Thấy bác ta nhất định không muốn tôi làm trung gian, tôi đành lên phòng sách báo cho chủ tôi biết có khách đến thăm không đúng lúc và theo ý tôi nên đuổi khéo về bảo sáng mai tới. Cậu Kha chưa kịp ra lệnh thì bác Dọi đã theo gót tôi xông đại vào phòng, đứng lù lù ở chiếc bàn đằng xa, hai bàn tay chống lên đầu cây gậy, nói lớn tiếng như biết trước sẽ bị người ta phản đối:

    “Hy sai tôi đến đón thằng bé. Thằng bé phải về cùng với tôi."

    Cậu Kha lặng người đi hồi lâu. Trông cậu buồn ra mặt. Tình cảnh của thằng bé làm cậu thương xót. Chắc cậu nhớ tới mối lo lắng và niềm hy vọng của cô Sa đối với đứa con trai và lời ủy thác cho cậu trông nom nuôi nấng. Cậu chua xót nghĩ đến cái cảnh phải giao nó cho người khác và đang nghĩ cách làm sao tránh việc đó khỏi xẩy ra. Cậu chưa nghĩ được cách nào, vì nếu tỏ ý giữ thằng bé lại chỉ tổ làm cho người ta cương quyết đòi mạnh. Cuối cùng chả còn cách nào khác hơn là trả thằng bé cho cha nó, nhưng Tôn đang ngủ, cậu Kha không đành lòng dựng nó dậy. Cậu điềm đạm nói:

    “Bác về nói với ông Hy là ngày mai con ông ấy sẽ về bên Gió Hú. Nó đang ngủ và nó mệt không thể đi ngay bây giờ được. Bác cũng có thể nói thêm là mẹ nó muốn tôi giám hộ nó và bây giờ sức khỏe nó rất kém."

    Bác Dọi nện mạnh cây gậy xuống sàn đánh cộp một cái, giọng quả quyết:

    “Không được! Không được! Nó phải về ngay bây giờ. Hy không muốn mẹ nó hay ông nuôi nó... mà chính Hy nuôi. Tôi phải đem nó về... ông hiểu chứ?”

    Cậu Kha gằn giọng đáp:

    “Nhưng đêm nay thì không được! Bác về ngay đi và nhắc lại lời tôi cho chủ bác biết. Vú Diễn, dẫn bác ấy xuống. Đi..."

    Rồi, đỡ một cánh tay bác Dọi, cậu đẩy lão ra khỏi phòng, đóng cửa lại. Bác Dọi tức lắm, vừa đi vừa kêu:

    “Thôi được! Sáng sớm mai Hy sẽ đích thân tới đây, rồi xem ông có dám đuổi không?”

    Chương 20

    Để tránh nguy cơ thực sự có thể xẩy ra sau lời đe dọa của bác Dọi, sáng sớm hôm sau cậu Kha sai tôi dùng ngựa của Liên đưa thằng bé về trại Gió Hú. Cậu nói:

    “Vì từ nay mình không còn trách nhiệm gì về số phận nó, hay hay dở cũng đành chịu, nên vú chớ có nói cho con gái tôi biết thằng bé đi đâu. Từ nay Liên không thể chơi với nó được nữa vậy tốt hơn hết là đừng cho Liên biết nó ở gần đây; nếu không con bé lại thắc mắc đòi đi đến Trại... Vú cứ bảo là bố nó bất ngờ cho người tới đón và bắt buộc nó phải xa chúng ta."

    Bé Tôn miễn cưỡng phải rời khỏi giường ngủ lúc năm giờ sáng và ngơ ngác nghe tin phải sửa soạn để đi nữa. Tôi dỗ ngọt bảo nó là đi về với cha nó là ông Hy một ít lâu, vì cha nó rất trông chờ nó nên không thể đợi nó hết mệt được.

    Thằng bé bối rối kêu lên:

    “Ba em? Mẹ em chả bao giờ nói là em có ba cả. Ba em ở đâu kìa? Em thích ở đây với bác hơn."

    “Ba em ở gần đây, phía bên kia đồi... không xa lắm đâu. Bao giờ khỏe, em có thể đi bộ đến đây chơi. Được về nhà với ba, em phải vui chứ. Em phải ráng yêu ba như yêu mẹ em, thì ba em cũng sẽ yêu em."

    Tôn lại hỏi:

    “Nhưng sao từ trước đến giờ em không nghe nói gì đến ba hết? Sao mẹ không ở với ba như người ta?”

    Tôi đáp:

    “Vì ba bận công việc phải ở miền bắc còn mẹ vì sức khỏe bắt buộc phải ở miền nam."

    Thằng bé vẫn gặng hỏi:

    “Nhưng sao mẹ không nói gì về ba với em? Mẹ thường nói về bác Kha, nghe chuyện em yêu bác từ lâu lắm. Làm sao em yêu ba được bây giờ? Em có biết ba đâu?”

    “Ồ, con nào mà chả yêu bố mẹ. Có lẽ mẹ nghĩ nếu nhắc đến ba luôn thì em sẽ đòi về với ba. Thôi, mình sửa soạn nhanh lên. Buổi sáng đẹp trời như thế này mà cỡi ngựa đi còn thú hơn là ngủ nướng thêm một giờ nữa."

    “Thế chị ấy có đi cùng không? Cái chị bé bé em gặp hồi hôm ấy?”

    “Bây giờ thì chưa đi được."

    “Còn bác Kha?”

    “Cũng không. Chỉ có mình tôi đi với chú tới đó."

    Tôn lại lăn ra giường, mếu máo:

    “Không có bác Kha đi em chả đi đâu. Em chả biết vú đưa em đi đâu."

    Tôi bảo nó không chịu đi thăm ba là hư lắm, nhưng thằng bé vẫn khăng khăng không chịu thay quần áo. Tôi phải kêu cậu Kha ra dỗ dành mãi nó mới chịu bước ra khỏi phòng.

    Sau cùng cậu bé đáng thuơng cũng phải lên ngựa đi, ôm theo những lời hứa hão rằng nó chỉ phải đi một ít lâu thôi, rằng bác Kha và chị Liên sẽ tới thăm nó; cộng thêm những lời hứa nhăng hứa cuội khác nữa mà tôi bịa ra và nhắc đi nhắc lại trên đường đi.

    Không khí trong lành đượm mùi hoa thạch thảo, ánh ban mai rực rỡ và nước ngựa phi nhịp nhàng, lát sau làm Tôn nguôi ngoai. Nó bắt đầu hỏi tôi về căn nhà mới nó sắp ở và những người ở trong trại ấy với một vẻ quan tâm sốt sắng. Vừa ngoái lại nhìn lần cuối xuống thung lũng - lúc ấy một làn sương nhẹ đương bốc lên tạo thành một đám mây trắng mỏng trên rèm bàu trời xanh thẳm - nó vừa hỏi tôi:

    “Trại Gió Hú có đẹp bằng Họa Mi Trang không?”

    Tôi đáp:

    “Gió Hú không có nhiều cây cối bằng, cũng không to rộng bằng Hoạ Mi Trang, nhưng ở đó chú có thể nhìn ra khắp vùng rất đẹp và không khí thì mát và khô, tốt cho chú hơn. Có thể mới đầu chú sẽ cho là căn nhà cũ kỹ và tối tăm, nhưng đó là một biệt thự khang trang nhất nhì trong vùng đấy. Chú sẽ thú vị đi dạo chơi trên rừng cỏ, và Yên Hạ - anh em họ với Liên, tức là cũng gần như có họ với chú - sẽ dẫn chú đi xem những nơi có phong cảnh đẹp nhất. Khi đẹp trời chú có thể đem một quyển sách tìm một cái hốc trong lùm cây xanh làm thành phòng đọc, và thỉnh thoảng bác Kha sẽ theo chú đi dạo chơi vì bác hay đi dạo trên đồi ấy lắm."

    “Thế ba em giống ai, có trẻ đẹp như bác Kha không?”

    “Ba trẻ như bác Kha nhưng tóc và mắt đen. Ba coi bộ nghiêm nghị hơn và thân hình cao lớn vạm vỡ hơn. Lúc đầu chú có thể thấy ba không ân cần chiều chuộng chú, vì tính ổng như vậy...nhưng chú phải tỏ ra thân thiện và thành thực với ba chú, và lẽ tự nhiên là ba sẽ yêu chú hơn bất kỳ một ông chú ông bác nào, vì chú là con."

    Tôn lẩm bẩm:

    “Tóc và mắt đen. Em không tưởng tượng ra được ba em như thế nào? Em có giống ba em không?”

    “Không giống lắm."

    Tôi vừa đáp vừa nghĩ thầm trong bụng chẳng giống tí nào. Thằng bé trông trắng trẻo và mảnh khảnh, hai con mắt to uể oải...giống mắt mẹ; trừ khi nó tức giận hai mắt nó lóe sáng trong giây lát còn thì nó không có lấy một nét linh lợi nào của mẹ nó.

    “Lạ nhỉ! Chả bao giờ ba đến thăm mẹ và em cả. Không hiểu ba đã thấy em lần nào chưa? Nếu có chắc lúc em còn bé tí tẹo... Em chả nhớ tí gì về ba em cả."

    Tôi nói:

    “Chú Tôn à, bốn năm trăm cây số xa lắm chú ạ, hơn nữa đối với người lớn thì mười năm đâu có lâu lắc gì như đối với trẻ con. Rất có thể cậu Hy đã có dự định đi thăm vợ con, nhưng rồi thì mùa hè này qua mùa hè khác, chẳng khi nào có dịp thuận tiện, cho đến bây giờ thì quá trễ... Chú cũng đừng nên hỏi ba về chuyện này để ba khỏi phiền lòng mà cũng chả ích lợi gì."

    Thằng bé sau đó mải suy nghĩ không hỏi han gì thêm... Đến cổng Trại tôi để ý nhìn gương mặt nó để dò thái độ của nó ra sao. Tôn ngắm nghía cái cổng trạm trổ, dẫy rào thấp, bụi khế um tùm và hàng cây tùng cong queo, rồi lắc đầu, tỏ vẻ hoàn toàn không thích cái bề ngoài chỗ ở mới của nó; tuy vậy nó giữ ý, không kêu ca vội... biết đâu bên trong nhà lại chả có cái gì hấp dẫn hơn.

    Trước khi để Tôn xuống ngựa, tôi lại mở cổng. Lúc đó mới sáu giờ rưỡi sáng. Cả nhà vừa ăn sáng xong, chị người làm đang dọn dẹp chén đĩa, lau bàn; bác Dọi thì đang đứng bên ghế ông chủ nói chuyện gì về một con ngựa què, còn Hạ thì sửa soạn để ra đồng.

    Thấy tôi, ông Hy kêu lên:

    “Kìa, vú Diễn! Tôi cứ nghĩ có lẽ tôi phải đích thân xuống tận đó để mang nó về. Vú đưa nó về đây đấy chứ? Mình thử ra xem nó có làm được trò trống gì không nào."

    Nói xong ông Hy đứng dậy bước nhanh ra cửa. Hạ và Dọi tò mò vội theo sau. Tội nghiệp cho bé Tôn, nó sợ hãi đưa mắt nhìn bộ ba ấy. Bác Dọi ngắm nghía thằng bé một cách chăm chú rồi tuyên bố:

    “Thôi chết rồi, cậu ấy đánh tráo rồi, đây đích là cô con gái của cậu ấy mà!”

    Hy nhìn con trai chằm chặp làm nó quýnh lên rồi cười miệt thị:

    “Chà chà! Đẹp ghê! Đáng yêu quá, xinh quá! Chắc nó được nuôi bằng sữa chua, phải không vú Diễn? Ôi, khổ cho cái thân tôi! Đâu ngờ lại tệ đến cái mức này... mà nói có Trời biết, tôi đâu có phải là người đặt nhiều kỳ vọng gì cho cam!”

    Thằng bé ngơ ngác sợ run lên. Tôi bảo nó xuống ngựa vào nhà. Nó chả hiểu cha nó nói ất giáp gì cả, và có phải nói về nó không. Nói cho đúng, thằng bé chưa tin là cái người xa lạ trông dữ dằn và ăn nói kỳ cục kia có phải thực là cha nó không; nó cứ bám chặt lấy tôi mỗi lúc một run sợ hơn. Lúc Hy ngồi xuống ghế, ngoắc tay bảo nó “Lại đây!” thì nó giấu mặt vào vai tôi khóc.
    Hy nói:

    “Thôi nào! Thôi nào!”

    Rồi đưa tay kéo mạnh nó một cái vào lòng, Hy nâng cầm hất mặt nó ngẩng lên, bảo:

    “Đừng có giở quẻ nghe chưa? Không ai ăn thịt mày đâu… Tôn... có phải tên mày đó không? Mày giống cái con mẹ mày như đúc! Mày có cái gì giống tao đâu, hở thằng nhãi!"

    Hy bỏ mũ nó ra, hất những lọn tóc nâu dầy của nó lên, nắn nắn cánh tay và bàn tay gầy guộc của nó. Trong lúc ấy, Tôn đã nín khóc, mở cặp mắt xanh to ra quan sát lại người đang nhìn ngắm mình.

    Hy lại hỏi:

    “Mày có biết tao là ai không?”

    Tôn, ánh mắt sợ sệt, nói:

    “Không!”

    “Tao dám chắc mày đã nghe nói đến tao?”

    Tôn đáp lại:

    “Không!”

    “Không à? Thực là xấu hổ cho mẹ mày đã không dậy mày lòng hiếu thảo đối với tao! Vậy tao nói cho mày biết tao là bố mày! Mẹ mày là con đàn bà xấu xa mới không cho mày biết bố mày là ai... Thôi đừng có nhăn nhăn nhó nhó và đỏ mặt lên như thế kia. Dẫu sao thì mặt đỏ lên như thế cũng cho người ta thấy mày không đến nỗi là phường “máu trắng”. Phải ngoan thì tao mới thương được... Vú Diễn, nếu vú mỏi chân thì ngồi xuống ghế kia, nếu không thì cứ việc đi về... Tôi chắc vú sẽ kể cho cái kẻ vô tích sự ở Họa Mi Trang những điều mắt thấy tai nghe ở đây và nếu vú còn lần lữa ở đây lâu chừng nào thì cái của này còn nhõng nhẽo chừng ấy..."

    Tôi đáp:

    “Dạ, thưa cậu, tôi mong rằng cậu sẽ đối đãi tử tế với thằng bé, nếu không thì cậu chẳng giữ nó được lâu. Nó là người ruột thịt duy nhất của cậu ở trên cõi thế gian bao la này. Người duy nhất... xin cậu nhớ cho điều đó."

    Hy cười:

    “Tôi sẽ hết sức tử tế với nó, vú khỏi lo. Có điều là ngoài tôi ra, tôi không khiến một ai tử tế với nó... Tôi có tính đố kỵ muốn dành độc quyền tình thương yêu nó. Và để khởi sự tử tế, Dọi! đem thức điểm tâm cho thằng bé ăn đi... còn Hạ, cái thằng ngu như bò kia, đi làm việc đi."

    Dọi và Hạ đi khỏi, Hy tiếp theo:

    “Con trai tôi sau này sẽ là chủ trang trại bên đó. Không đời nào tôi mong nó chết nếu tôi chưa nắm chắc trong tay tôi sẽ là người thừa kế nó. Vả lại, nó là của tôi và tôi rất khoái thấy con tôi làm chủ tài sản của họ một cách hợp pháp. Còn tôi sẽ mướn con họ làm công cho con tôi, cầy bừa ruộng đất của họ. Đó là phần thưởng duy nhất khiến tôi có thể chịu đựng được cái thằng nhãi khốn kiếp này... cái thằng nhãi tôi vừa khinh vừa hận... nhưng thôi, phần thưởng đó là đủ rồi. Nó sẽ được yên thân ở với tôi, ông chủ của vú coi sóc con cái của ông ấy như thế nào thì nó cũng được săn sóc y như vậy... Tôi dành một căn phòng trang hoàng đẹp đẽ trên lầu cho nó ở. Tôi cũng đã mướn một ông thầy ở cách đây ba chục cây số, mỗi tuần tới ba lần dậy nó, nó thích học cái gì người ta dậy nó cái ấy. Tôi đã ra lệnh cho thằng Hạ phải chiều nó. Tóm lại tôi đã xếp đặt mọi việc để giữ cho nó cái địa vị cao quý vượt lên trên đám người xung quanh nó. Đáng tiếc là nó chẳng xứng đáng chút nào với cái công khó của tôi. Nếu tôi có cầu mong một điều gì trên cõi đời này thì tôi chỉ cầu được hãnh diện vì nó; nhưng cái bộ mặt ỷ ôi tái xanh tái tử của nó chỉ tổ làm tôi thất vọng chua chát mà thôi!”

    Trong lúc Hy đương nói thì Dọi đã trở lại, đưa một bát cháo sữa đặt trước mặt Tôn. Thằng bé nom thấy cái món ăn quê mùa đó, nó khinh khỉnh quay mặt đi chỗ khác, tỏ ý nhất định không thể nào nuốt nổi. Tôi thấy lão Dọi đồng tình với chủ khinh thị thằng bé mà không dám nói ra vì Hy đã tuyên bố là mọi người trong nhà phải kính nể nó. Lão nhìn thằng bé chòng chọc, hạ giọng xuống nói khẽ như sợ người khác nghe thấy:

    “Không ăn được hả? Chú Hạ hồi nhỏ có ăn gì khác đâu? Chú Hạ ăn được thì chú cũng ăn được chứ?”

    Tôn gay gắt đáp lại:

    “Tôi không ăn! Đem chỗ khác đi!”

    Dọi cáu, vùng vằng vớ lấy cái khay thức ăn, giơ trước mặt Hy và tôi:

    “Ngon thế này mà còn chê!”

    Vừa nói lão vừa dí bát cháo vào mũi Hy. Hy nói:

    “Có gì dở đâu?”

    “Ấy thế mà cậu quý tử của ông bảo không nuốt được. Nhưng như thế cũng là lẽ tự nhiên thôi, y hệt như mẹ nó ngày xưa thôi... tại mình bẩn quá mà, không đáng gieo hạt giống lấy lúa cho mẹ nó ăn!”

    Ông chủ khó chịu nói:

    “Đừng nhắc tới mẹ nó với tôi nữa. Nó thích cái gì lấy cho nó ăn thứ nấy. Vậy là xong. Vú Diễn, nó thường ăn cái gì?”

    Tôi bảo là sữa nước sôi hay nước trà, chị người làm liền được lệnh đi nấu ngay. Tôi nghĩ bụng:

    “Thôi thế cũng được. Lòng tham lam ích kỷ của cha nó may ra lại có lợi cho nó. Bố nó thấy nó yếu đuối và cần phải cẩn thận chăm lo cho nó. Thế cũng được rồi. Mình sẽ kể lại cho cậu Kha yên tâm và luôn thể nói cho cậu ấy biết cái dã tâm của Hy.”

    Tôi thấy không có lý do gì để nấn ná ở thêm nữa. Trong khi bé Tôn đang rụt rè chống trả với một con chó bẹc-de lân la tới muốn làm quen, tôi lẳng lặng rút lui. Nhưng thằng bé hình như lúc nào cũng cảnh giác lo đề phòng bị đánh lừa, nên khi tôi vừa khép cánh cửa lại thì nghe có tiếng la thất thanh:

    “Đừng bỏ em! Em không chịu ở đây đâu! Em không chịu ở đây đâu!”

    Rồi có tiếng then cửa kéo lên, sập xuống... người ta ngăn không cho nó ra. Tôi trèo lên lưng con Minh Nhi và thúc chạy. Thế là xong. Cái nhiệm vụ ngắn ngủi của tôi chăm sóc bé Tôn thế là chấm dứt.
    (còn tiếp)

  7. #26
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 21

    Ngày hôm đó chúng tôi đến khổ với bé Liên. Vừa thức dậy cô bé hí hửng nôn nóng đi tìm em. Khi biết Tôn đi khỏi cô la khóc dữ dội, đến nỗi chính cậu Kha phải dỗ dành và đoan chắc rằng Tôn sẽ trở về ngay, “nếu mình có thể đem nó về được.” Cậu Kha nói thêm như thế tuy trong bụng chẳng hy vọng chút nào cả.

    Lời hứa của cậu Kha chỉ giúp phần nào thôi chứ thời gian mới đủ mạnh để giúp Liên nguôi ngoai. Thỉnh thoảng Liên vẫn hỏi bố bao giờ Tôn về, nhưng trước khi Liên được gặp lại Tôn thì nét mặt Tôn đã mờ dần trong ký ức cô bé đến nỗi khi gặp nhau, Liên không còn nhận ra Tôn nữa.

    Những lần tình cờ gặp chị quản gia bên trại Gió Hú qua Diên Mễ Tôn mua bán lặt vặt, tôi thường hỏi thăm xem “cậu chủ” của chị ta ra sao, vì Tôn sống cấm cung bên ấy cũng gần như Liên bên này, chẳng ai thấy mặt bao giờ. Chị ta cho biết là Tôn vẫn ốm yếu và làm rộn mọi người trong nhà không ít. Chị ấy bảo ông Hy có vẻ ngày càng ghét Tôn nhưng vẫn cố giấu trong lòng không để lộ cho mọi người thấy. Hy rất khó chịu về cái giọng nói của Tôn, không thể nào ngồi cùng phòng với Tôn lấy một lúc lâu. Hiếm khi hai cha con trò chuyện với nhau. Tôn chiều chiều học bài trong một căn buồng nhỏ hoặc nằm ỳ trên giường suốt ngày vì nó luôn luôn bị cảm cúm, ho, đau nhức đủ thứ. Chị ta nói thêm:

    "Trên đời tôi chưa bao giờ thấy có ai nhát và ích kỷ, lúc nào cũng chỉ lo cho bản thân mình như nó. Tôi mà để ngỏ cửa sổ khuya một chút là có chuyện ngay. Úi chà! Nào là một cơn gió nhẹ về đêm có thể làm chết người! Nào là đòi đốt lò sưởi vào giữa mùa hè! Nào là kêu khói thuốc của Dọi đầu độc nó! Luôn tay phải thủ sẵn kẹo bánh cho chú ta, và... sữa, lúc nào cũng sữa, chẳng cần biết đến chúng tôi phải hạn chế thức ăn về mùa đông. Suốt ngày chú ta mặc áo măng tô lót lông thú ngồi co ro một só bên lò sưởi, nhấm nhót mẩu bánh mì nướng hay ly nước hay một món gì hâm nóng. Hạ thấy vậy cũng thương hại, lại chơi với chú ấy. Hạ tuy thô lỗ thật nhưng không đến nỗi xấu tính...nhưng chỉ chốc lát sau là mỗi người mỗi ngả, người thì chửi thề, người thì khóc lóc. Nếu chú ấy không phải là con của ông chủ, chắc ông chủ đã để Hạ đập cho chú ấy một trận nhừ tử rồi. Và nếu ông chủ biết được một nửa thôi những kiểu cách mà chú ta tự săn sóc mình thì cũng đủ để ông tống cổ chú ấy ra khỏi nhà. Nhưng để tránh cái cám dỗ nguy hiểm ấy, ông chủ không bao giờ bước chân vào phòng Tôn và nếu Tôn có dở dói những trò ấy ra trước mặt ông thì ông bắt đưa ngay lên lầu tức khắc."

    Nghe chuyện, tôi độ chừng Tôn trở thành ích kỷ và khó tính cho dẫu trước kia không có tính đó cũng chỉ vì bị thiếu tình thương. Từ đó tôi ít quan tâm tới Tôn mặc dù tôi vẫn thương hại nó và tiếc cho nó không được ở với chúng tôi.

    Cậu Kha thường xúi tôi dò la tin tức về Tôn. Tôi đoán cậu Kha đã nghĩ nhiều về nó và có thể dám liều đến gặp nó. Có lần cậu bảo tôi hỏi chị quản gia xem Tôn có vào chơi trong làng bao giờ không. Chị cho biết là nó có vào làng hai lần, cùng đi ngựa với bố và cả hai lần về nó đều kêu mệt đứ đừ cho đến mãi ba bốn hôm sau mới hết. Chị quản gia này, nếu tôi nhớ không lầm, thì sau khi Tôn về trại Gió Hú được hai năm, chị ta nghỉ việc. Một người khác đến làm thay - nhưng tôi không quen - hiện nay vẫn còn ở đấy.

    Thời gian ở Họa Mi Trang tiếp tục trôi qua êm đềm như trước, cho đến khi cô Liên được mười sáu tuổi. Ngày sinh nhật của Liên chúng tôi không bao giờ tỏ dấu vui vì ngày đó cũng là ngày giỗ mợ chủ tôi. Cậu chủ tôi suốt ngày hôm ấy thường ở một mình trong phòng sách, cho tới chiều tối thì đi ra nghĩa trang cho đến quá nửa đêm mới về; thành thử Liên đành phải tự tìm lấy cách giải trí.

    Ngày hai mươi tháng ba năm ấy là một ngày xuân đẹp trời. Khi cậu Kha rút vào phòng sách rồi, Liên xuống dưới nhà mặc quần áo, bảo muốn đi với tôi ra ven rừng chơi. Cậu Kha đã hứa với Liên cho phép chúng tôi đi chơi gần gần trong khoảng một giờ phải về. Liên kêu:

    “Nhanh lên, vú Diễn. Em có ý định đi đâu rồi, vú ạ. Chỗ ấy có cả một bầy gà gô đậu xuống. Em muốn đến xem chúng đã làm tổ chưa."

    Tôi đáp:

    “Chỗ đó chắc xa lắm. Chim đâu có ấp trứng ở ven rừng."

    “Không xa đâu. Em đã đến với ba rồi, gần lắm!”

    Tôi đội nón theo Liên đi, không ngần ngại gì cả. Liên nhẩy tung tăng phía trước rồi quay trở lại bên tôi rồi lại băng lên trước như một con chó săn nhỏ. Thoạt đầu tôi lấy làm vui thú được hưởng nắng ấm êm dịu, nghe chim sơn ca hót vang khắp nơi, và nhìn Liên, cô bé cưng của tôi với lọn tóc vàng buông xõa bờ vai, đôi má mơn mởn như đoá hồng dại chớm nở và đôi mắt trong sáng hồn nhiên. Hồi đó Liên sung sướng như tiên. Nhưng đáng thương là nàng đã không bằng lòng với số phận. Tôi hỏi:

    “Nào đàn gà gô của cô đâu, cô Liên? Đáng lý mình phải tới rồi chứ... mình đã đi xa hàng rào vườn trại quá nhiều rồi mà."

    Liên luôn miệng đáp:

    “Ồ, ở đằng kia kìa... chỉ một quãng nữa thôi. Vú cứ trèo lên ngọn đồi kia, chỉ đi khỏi dốc là thấy động đàn chim sẽ bay lên cho mà xem."

    Nhưng rồi không biết bao nhiêu ngọn đồi phải trèo và bao nhiêu bờ dốc phải vượt qua, đến nỗi tôi thấm mệt bảo Liên ngừng lại quay về. Tôi phải hét to vì Liên đã vọt lên đi trước tôi rất xa. Không biết là Liên vì không nghe thấy hay giả đò không nghe thấy cứ tiếp tục đi trước khiến tôi phải miễn cưỡng đi theo. Rồi Liên biến mất vào một hốc đá. Khi tôi tìm thấy Liên thì cô nàng đã ở gần Đỉnh Gió Hú hơn Họa Mi Trang đến ba cây số. Tôi trông thấy có hai người đang giữ Liên lại và một trong hai người ấy chính là Hy.

    Liên bị bắt quả tang đang ăn trộm hay ít ra là đương lục tìm ổ gà rừng. Đỉnh Gió Hú là sản nghiệp của Hy nên ông ta mắng Liên đã xâm phạm vào đất của ông ta.

    Liên phân bua trong lúc tôi đang thở dốc vì mệt:

    “Tôi có bắt hay có nhìn thấy cái tổ nào đâu (vừa nói Liên vừa xòe bàn tay không ra để chứng minh). Tôi đâu có ý định lấy. Ba nói ở đây có nhiều lắm nên tôi chỉ muốn đến xem trứng thôi."

    Hy đưa mắt nhìn tôi, miệng nở một nụ cười hiểm độc, chứng tỏ ông đã biết cô gái là ai nên có ác cảm với cô ta. Hy hỏi:

    “Ba nào?”

    “Ông Kha ở Họa Mi Trang. Chắc ông không biết chúng tôi, nếu không ông đã không ăn nói như vậy."

    Hy nói, giọng nhạo báng:

    “Cô tưởng ba cô được người ta kính trọng lắm sao?”

    Liên nhìn Hy dọ hỏi:

    “Còn ông là ai? Người kia trước tôi có gặp rồi. Có phải con ông không?”

    Cô nàng vừa nói vừa chỉ vào Hạ, anh chàng nay đã thêm được hai tuổi mà chẳng khôn ra được tý nào, vẫn vụng về thô kệch như trước, chỉ được cái to xác, lực lưỡng.

    Tôi ngắt lời:

    “Cô Liên, bây giờ chúng ta đã đi chơi đến ba tiếng rồi chứ không phải một nữa. Ta phải quay về thôi!”

    Hy đẩy tôi ra một bên, đáp:

    “Không, nó không phải con tôi. Nhưng tôi có một đứa con trai mà trước kia cô cũng đã từng gặp rồi. Tuy vú nuôi của cô muốn vội về nhưng tôi thấy hai người nên nghỉ chân một lát. Mời cô đi vòng qua cái ụ cỏ kia vào nhà tôi chơi! Nghỉ một lát hết mệt đi về sẽ nhanh hơn. Cô sẽ được chúng tôi đón tiếp nồng hậu."

    Tôi khẽ bảo Liên là chuyện đó dứt khoát không được, đừng có nhận lời. Nhưng cô nàng lại to tiếng nói:

    “Tại sao? Em mệt muốn chết đây này. Mà đất ở đây ẩm quá sao mà ngồi nghỉ được. Mình cứ vào đi, vú! Ông ấy còn bảo là em đã gặp con ông ấy, chắc ông ấy lầm. Nhưng em đoán ra ông ta ở đâu rồi... ở cái trại em đã tới ngày trước lúc em đi chơi Băng Thạch Nham về. Có đúng không, ông?”

    “Đúng. Thôi, vú Diễn, vú đừng nói nữa. Cô ấy vào nhà tôi chơi sẽ thích ngay ấy mà. Hạ, dẫn cô ấy đi trước đi! Còn vú đi sau với tôi.

    Hy nắm cánh tay tôi, tôi vùng ra, kêu lên:

    “Không. Cô ấy không được đến đó!”

    Nhưng Liên đã vụt chạy đi, vòng qua khỏi ụ cỏ, chắc là đã tới cổng rồi. Còn anh chàng Hạ, tiếng là được sai đi dẫn lối cho Liên, nhưng chẳng dẫn gì cả mà lại lẩn sang một nẻo khác và biến mất.

    Tôi tiếp theo:

    “Cậu Hy, cậu lầm rồi. Cậu biết việc cậu làm không tốt mà cậu cứ làm. Bây giờ Liên gặp Tôn rồi về kể chuyện lại, chắc chắn tôi sẽ bị quở mắng."

    Hy đáp:

    “Tôi muốn cho Liên gặp Tôn. Mấy hôm nay trông thằng bé khỏe khoắn hẳn lên. Ít khi trông nó ra hồn. Có gì đáng ngại đâu, nếu cả tôi và vú cùng thuyết phục cô ấy giữ kín cuộc thăm viếng này."

    “Điều đáng ngại là cha Liên sẽ oán tôi lắm nếu cậu ấy biết tôi đã để cho Liên vào nhà cậu; mà tôi lại biết chắc rằng cậu mời Liên vào chơi là có một chủ đích không tốt."

    “Chủ đích của tôi hết sức chân thành. Để tôi nói cho vú nghe: Tôi muốn hai chị em nó yêu nhau và lấy nhau [1] . Tôi sẽ rộng lượng với ông chủ của vú, con gái ông ta chẳng có hy vọng được chút di sản của tôi, nhưng nếu nó giúp tôi đạt được ý nguyện thì tôi sẽ cho nó hưởng ngay lập tức quyền thừa kế chung với Tôn."

    Tôi đáp:

    “Coi mệnh Tôn không lấy gì làm vững. Nếu Tôn chết sớm thì Liên sẽ là thừa kế của Tôn?”

    “Không, nó sẽ không được thừa kế. Trong chúc thư không có khoản nào nói về việc ấy, di sản của con tôi sẽ về tay tôi. Nhưng để tránh sự tranh chấp, tôi muốn chúng nó lấy nhau và tôi quyết thực hiện cho bằng được.

    “Còn tôi thì quyết không để Liên lai vãng chỗ này nữa."

    Tôi phản đối như thế trong lúc Hy và tôi đã gần tới hàng rào nơi có Liên đứng đợi ở đấy.

    Hy bảo tôi im rồi tiến lên trước, vội vã mở cửa. Liên đưa mắt nhìn Hy nhiều lần có vẻ như chưa biết mình nên nghĩ sao về con người ấy. Còn Hy thì khi bắt gặp cái nhìn của Liên ông ta cười và dịu giọng nói chuyện với cô ta. Và tôi cũng khá ngu ngốc tưởng rằng những kỷ niệm về mẹ cô bé may ra sẽ ngăn Hy không làm hại cô.

    Tôn đang đứng trước lò sưởi. Chắc chú ta vừa đi chơi ngoài đồng về vì trên đầu còn đội mũ và gọi bác Dọi đem giầy khô để thay. Còn mấy tháng nữa Tôn mới đủ mười sáu, nhưng trông Tôn có vẻ lớn trước tuổi. Nét mặt Tôn vẫn đẹp, đôi mắt và da dẻ sáng sủa hơn tôi tưởng, nhưng đó chỉ là vẻ hồng hào nhất thời nhờ vừa mới đi chơi nơi thoáng khí và dưới ánh sáng mặt trời.
    Hy quay hỏi Liên:

    “Nào, ai đây? Cô biết ai đây không?”

    Liên hết nhìn người nọ lại nhìn người kia, dè dặt nói:

    “Con ông?”

    Hy đáp:

    “Đúng, đúng. Nhưng có phải lần thứ nhất cô gặp nó không? Cô thử nghĩ xem. A, thế mà cô chóng quên. Này Tôn, con có nhớ cô chị họ mà con cứ rầy rà mọi người để đòi gặp không?”

    “Sao? Tôn!”

    Liên reo lên, hớn hở khi bất ngờ nghe cái tên ấy. Cô ta hỏi tiếp:

    “Bé Tôn đây à? Trông lớn hơn tôi! Có thực Tôn đấy không?”

    Chàng thiếu niên bước tới xác nhận tên mình. Liên ôm lấy cậu ta hôn lấy hôn để, rồi hai người nhìn nhau ngạc nhiên vì thời gian đã làm thay đổi vóc dáng họ. Thân hình Liên đã hoàn toàn nẩy nở, người vừa thon vừa chắc nịch, toàn thân tràn trề sinh lực. Còn Tôn thì ánh mắt và cử chỉ lờ đờ, người gầy nhom, được cái thái độ có vẻ thanh nhã làm giảm bớt những khuyết điểm khiến cho Tôn không đến nỗi khó thương.

    Sau khi bầy tỏ lòng yêu mến với Tôn, Liên tiến lại phía Hy lúc này đang đứng gần cửa, ra vẻ bận lưu tâm đến việc ở trong và ngoài nhà, nhưng kỳ thực ông đang chú ý quan sát đôi trẻ. Liên nói, vừa kiễng chân lên để hôn má Hy:

    “Thế ra ông là chú của cháu. Có lẽ cháu cũng yêu chú đấy, mặc dù lúc mới gặp chú đã càu nhàu mắng cháu. Sao chú và Tôn không đến chơi Họa Mi Trang? Hai nhà ở gần nhau thế mà mấy năm chẳng đến thăm nhau, sao lạ vậy chú?”

    Hy đáp:

    “Chú có đến nhà cháu chơi một vài lần hay nhiều lần lắm trước khi cháu sinh ra. Thôi, thôi... khỉ lắm! Nếu cháu thích hôn nhiều thì hãy ra thằng Tôn kia kìa... hôn chú phí cả đi!”

    Liên chạy bổ về phía tôi, vừa trách yêu vừa tới tấp ve vuốt tôi một cách âu yếm:

    “Vú Diễn ác lắm nghe! Vú xấu lắm! Thế mà vú cứ nhất định ngăn không cho em vào đây! Đã thế sáng nào em cũng sang đây chơi cho mà xem. Chú có cho phép cháu sang không chú? Thỉnh thoảng cháu dẫn cả ba sang nữa. Chú có bằng lòng gặp chúng cháu không?”

    Cố ghìm giấu vẻ cau có để khỏi lộ ra là ông thù ghét cả hai người khách, bố cũng như con, Hy đáp:

    “Có chứ. Có chứ."

    Rồi quay sang nhìn cô bé, ông tiếp:

    “Nhưng khoan đã. Ông Kha có thành kiến đối với chú. Ba cháu và chú đã có lần gây gỗ nhau một cách dữ dội, thiếu tinh thần gương mẫu của đạo Chúa. Nếu cháu kể lại cho ba cháu là cháu đã tới đây, tất nhiên ông ấy sẽ cấm tiệt không cho cháu đi đâu hết. Vậy không nên để cho ông ấy biết, nếu cháu còn muốn đến thăm em họ cháu. Cháu muốn, cháu cứ tới, nhưng đừng nói gì cả.

    Liên rất đỗi ngạc nhiên, hỏi:

    “Tại sao chú và ba cháu lại cãi nhau?”

    “Ba cháu cho rằng chú nghèo không xứng đáng lấy em gái ông ấy, khi thấy chú đã lấy được rồi thì ông ấy giận; ông ấy bị chạm tự ái và chẳng bao giờ chịu tha thứ cho chú cả.''

    “Như vậy là sai! Thế nào cũng có ngày cháu nói với ba cháu. Mà Tôn với cháu có can dự gì đến chuyện cãi lộn ấy đâu. Đã thế cháu không tới đây mà Tôn sẽ tới nhà cháu.

    Tôn lẩm bẩm:

    “Xa quá tôi không đi được. Đi bộ những sáu cây số thì tôi chết mất. Không, thưa cô, cô đến đây cơ, lâu lâu thôi, không phải sáng nào cũng tới, một tuần một hai lần được rồi."

    Hy lườm con, vẻ chua chát khinh bỉ, rồi nói nhỏ với tôi:

    “Vú Diễn này, tôi sợ toi công mất thôi. Nghe cái thằng nhãi một đằng “thưa cô”, hai đằng “thưa cô” thế kia tôi chắc Liên chê nó “yếu” quá và cho nó ra rìa thôi. A, giá nó được như thằng Hạ...! Vú biết không, tuy thằng Hạ “bệt” như thế mà tôi còn ganh ghét nó một ngày không biết đến bao nhiêu lần. Nếu nó là con đứa khác, chắc tôi dám yêu nó lắm. Nhưng tôi chắc con nhỏ không yêu nó nổi. Còn cái thằng khốn nạn kia nếu không biết xoay sở mạnh lên một chút tôi sẽ tạo cho nó một địch thủ là thằng Hạ. Tôi chắc thằng Tôn chỉ sống tới năm mười tám là hết cỡ. Ôi, cái đồ vô tích sự! Nó mải lau chân chẳng buồn nhìn con bé lấy một cái... Tôn!”

    Thằng bé đáp:

    “Dạ, ba kêu con."

    “Con không biết giắt chị, khoe chị xem cái gì sao? Một con thỏ hay một tổ chim chẳng hạn? Đưa chị ra vườn rồi hãy thay giầy, dẫn chị vào chuồng ngựa xem con ngựa của con đi."

    Tôn có vẻ ngại không muốn đi, hỏi Liên:

    “Cô thích ngồi đây hơn phải không?”

    “Tôi cũng chả biết nữa."

    Liên vừa đáp vừa nhìn ra cửa, rõ ràng là cô ta đang thèm chạy nhẩy. Tôn vẫn không đứng lên, lại còn xích lại gần lò sưởi.

    Hy đứng dậy đi vào bếp, gọi với ra sân tìm Hạ. Có tiếng Hạ thưa rồi hai người cùng trở vào. Hạ vừa mới tắm rửa xong, má còn đỏ, tóc còn ướt.

    Chắc là sực nhớ tới lời nói quả quyết ngày trước của chị quản gia về Hạ, Liên kêu lên hỏi:

    “Ồ, cháu phải hỏi chú cái này mới được. Anh này có phải là anh họ cháu không?”

    Hy đáp:

    “Phải đấy, nó là cháu ruột của mẹ cháu. Cháu có thích nó không?”

    Liên lúng túng, khó chịu. Hy tiếp theo:

    “Trông nó bảnh trai đấy chứ?”

    Cô bé kiễng chân lên ghé tai nói thầm vào tai Hy một cách bất lịch sự. Hy cười vang lên. Còn Hạ thì xa xầm mặt xuống. Tôi thấy Hạ rất dễ xúc cảm khi nghi ngờ bị người ta khinh thị, đương nhiên là chú ta lơ mơ biết mình hèn kém. Nhưng Hy, ông chủ (hay người đỡ đầu) của chú đã trấn an ngay:

    “Hạ này, mày là người được ưa nhất trong số những người ở đây. Liên bảo mày là... là một gì nhỉ? Một cái gì nghe êm tai lắm kia. Nhưng thôi tao bảo này, đưa Liên đi chơi vòng quanh trại đi. Và nhớ cư xử cho ra người lịch sự, nghe chưa? Đừng ăn nói tầm bậy tầm bạ. Đừng giương mắt nhìn trân trân vào Liên nghe chưa? Cô ấy có nhìn mày thì mày phải giấu mặt đi. Ăn nói thì phải thong thả, kkông được đút tay trong túi, nghe! Thôi đi đi. Nhớ phải tử tế và làm cho cô ấy vui, nghe không?”

    Hy nhìn theo đôi trẻ đi qua cửa sổ. Hạ không nhìn Liên mà quay hẳn mặt đi chăm chú nhìn hướng khác, như thể là nó đang mải chiêm ngưỡng phong cảnh, mà cảnh ở đây đã quá quen với nó có gì mà phải ngắm. Liên thì liếc nhìn Hạ một cách rất quỷ quái tỏ ra không mấy cảm phục anh chàng. Cô vừa cất bước vừa hát khe khẽ như để khỏa lấp sự im lặng giữa hai người.
    Hy nói:

    “Lúc nẫy tôi dặn nó thế, khác nào tôi đã khoá miệng nó lại rồi, bảo đảm là trong suốt cuộc đi chơi nó sẽ không thốt ra một lời. Vú Diễn này...vú có nhớ hồi tôi bằng trạc tuổi nó, hay ít hơn nó mấy tuổi, tôi trông có ngờ nghệch như lão Dọi vẫn thường bảo không?”

    Tôi đáp:

    “Còn tệ hơn là đẳng khác, vì trông cậu lúc nào cũng ủ rũ."

    Hy, vẻ nghĩ ngợi, nói lớn:

    “Thằng Hạ làm tôi vui lòng... Nó làm tôi mãn nguyện... Nếu nó sinh ra đã là một thằng ngu độn, ắt là tôi sẽ không khoái nó bằng nửa như thế này. Nhưng nó không ngu. Tôi có thể thông hiểu mọi cảm nghĩ của nó, vì bản thân tôi cũng trải qua như nó. Chẳng hạn như lúc này tôi biết rất rõ nó đang đau khổ ra sao. Nhưng đó chỉ là bước đầu những đau khổ mà nó phải chịu. Vì dốt nát thô lỗ, nó sẽ không bao giờ ngóc đầu lên khỏi. Tôi đã dìm nó mạnh hơn, sâu hơn cái thằng lưu manh bố đẻ ra nó đã dìm tôi khi xưa, bởi vì nó còn lấy làm tự hào về sự cục súc thú vật của nó. Tôi đã tiêm nhiễm vào đầu óc nó, làm nó tin rằng tất cả những cái gì không thuộc về thú tính đều là đáng khinh, đều tào lao, đều yếu đuối. Này vú Diễn, nếu mà thằng Hạnh được thấy con nó bây giờ, liệu nó có tự hào về con nó không nhỉ? Chắc cũng gần gần như tôi hãnh diện về thằng con tôi. Nhưng có sự khác nhau: một đằng là vàng đem dùng làm đá trải đường, đằng kia là thiếc được đánh bóng để giả làm bạc. Cái thằng kia, con thằng Hạnh kia, có bao nhiêu tính tốt tôi làm cho tiêu hết, không những chẳng còn gì mà còn tồi tệ hết chỗ nói; trong khi thằng con tôi tuy chẳng có giá trị gì, thế nhưng tôi lại cố công đẩy nó trở nên khá chừng nào hay chừng nấy. Tôi chẳng có gì để ân hận cả. Hận hơn ai hết phải kể là thằng Hạnh. Điều thú vị nhất là thằng Hạ lại yêu tôi như điếu đổ mới chết chứ! Vú phải công nhận là tôi đã đánh bại thằng Hạnh ở điểm này. Giá cái thằng chết tiệt ấy có đội mồ sống lại để mắng mỏ tôi đã làm hại con nó, tôi sẽ có cái thú thấy chính con nó nổi giận vì bố nó dám chửi người bạn thân nhất của nó trên đời và nó sẽ quật bố nó chết tươi một lần nữa!”

    Hy phá lên cười vì ý tưởng đó. Cái cười nghe thật rùng rợn ma quái! Tôi không đáp vì thấy Hy không có ý chờ tôi trả lời. Trong lúc đó, chú bé Tôn vì ngồi xa quá không thể nghe được câu chuyện của chúng tôi, bắt đầu lộ vẻ bứt rứt; chắc chú ta hối hận là chỉ vì sợ mệt một chút mà đã lỡ cái thú được đi chơi với Liên. Hy thấy con bồn chồn ngó ra ngoài cửa sổ và tay thì rụt rè muốn đưa ra với chiếc mũ, liền làm ra bộ vui vẻ lớn tiếng mắng yêu con:

    “Đứng lên đi, đồ lười kia! Chạy ra theo chúng nó đi! Tụi nó mới tới góc vườn chỗ tổ ong kia kìa!”

    Tôn dồn hết nghị lực mới rời bỏ được cái lò sưởi. Khi Tôn vừa bước khỏi phòng, tôi nghe qua qua khung cửa sổ ngỏ, tiếng Liên hỏi Hạ ý nghĩa của mấy chữ khắc trên cổng. Hạ nhìn lên trời gãi đầu gãi tai như một gã nhà quê chính hiệu, đáp:

    “À, mấy cái chữ quỷ quái gì đâu, tôi không đọc được."

    Liên kêu lên:

    “Anh không đọc được à? Chữ quốc ngữ đấy mà. Tôi đọc được nhưng muốn biết tại sao nó lại được khắc ở đấy."

    Có tiếng Tôn cười khúc khích. Đây là lần đầu tiên tôi thấy chú ta lộ vẻ khoái trá. Tôn bảo Liên:

    “Nó mù chữ. Cô có tin rằng trên đời có một người to xác thế kia mà lại tối dạ như thế không?”

    Liên nghiêm giọng hỏi:

    “Bình thường anh ấy có vậy không? Hay anh ấy ngây ngô quá. Tôi hỏi chuyện anh ấy hai lần mà lần nào cũng ngớ ngớ ngẩn ngẩn như không hiểu tôi muốn nói gì. Thực khó hiểu anh ấy quá!”

    Tôn lại cười, đưa mắt khinh khỉnh nhìn Hạ. Lúc đó trông Hạ chẳng tỏ vẻ gì là hoàn toàn không hiểu. Chắc Hạ hiểu, không nhiều thì ít. Tôn nói:

    “Có gì đâu, chỉ phải cái tội lười một chút thôi, phải không Hạ? Cô Liên cho anh là một thằng đần. Bây giờ anh mới thấy cái dại “hổng thèm đọc sách” như anh vẫn nói chưa? Cô Liên này, cô để ý xem cái giọng nói nhà quê nhà quỷnh của hắn."

    Hạ làu bàu đáp liền:

    “Mấy cuốn sách khỉ ấy mà làm trò trống gì?”

    Hạ chưa kịp nói thêm thì cả Tôn lẫn Liên đều rũ lên cười. Cô tiểu thư khờ dại của tôi đã lấy làm khoái trá tìm thấy trò giải trí ở cái giọng nói kỳ cục của Hạ.

    Tôn cười khẩy, nói:

    “Anh nói “khỉ” là khỉ thế nào? Ba đã bảo anh không được ăn nói bậy bạ, ấy thế mà cứ mở miệng là thốt ra rồi. Phải tập ăn nói ra con người lịch sự đi chứ!”

    “Mày là đồ con gái không phải con trai, nếu không tao cho mày biết tay ngay lập tức...đồ nhãi con!”

    Anh chàng cục mịch vừa xấu hổ vừa nổi cáu mặt đỏ lên bỏ đi chỗ khác. Nó biết mình bị lăng mạ nhưng lại bối rối không biết làm cách nào để trả hận.

    Ông Hy cũng đã nghe thấy hết câu chuyện như tôi, mỉm cười khi thấy Hạ bỏ đi; nhưng liền đó ông đưa ngay cặp mắt ác cảm lườm cặp Liên, Tôn lúc ấy vẫn còn đứng bép xép nói chuyện ở ngay trước cửa. Tôn cao hứng nêu những điểm xấu của Hạ, kể ra đủ thứ chuyện về Hạ; còn cô gái nghe chuyện bôi lọ Hạ lại lấy thế làm thú, không hề nghĩ như vậy là xấu. Thế là thay vì thương hại, tôi bắt đầu ghét Tôn hơn và tha thứ một phần nào cho cha nó đã coi rẻ nó.

    Chúng tôi ở Gió Hú cho đến quá trưa vì tôi không thể nào kéo Liên về sớm hơn được. Cũng may là cậu chủ tôi đã ở lỳ trong phòng riêng nên không biết là chúng tôi đã đi chơi lâu đến thế.
    Trên đường trở về nhà tôi nói cho Liên hiểu về tính tình của những người Liên vừa gặp, nhưng cô vì cứ đinh ninh tôi đã có thiên kiến với họ, nên bảo:

    “Úi chà, vú Diễn... vú lại thiên vị rồi, vú về hùa với ba, em biết. Chả thế mà từ mấy năm nay vú đã đánh lừa em nói rằng Tôn ở xa tận đâu đâu! Thật tình là em giận lắm lắm, nhưng vì em mừng quá nên không lộ mặt giận được. Nhưng vú không được nói xấu chú em nữa... ông ấy là chú em, vú nhớ thế! Em sẽ trách ba sao ba lại cãi lộn với chú ấy!”

    Rồi Liên cứ một luận điệu ấy mà nói mãi, riết rồi tôi đành phải chịu thua, không thể nói cho Liên hiểu là cô nàng đã lầm.
    (còn tiếp)

  8. #27
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)

    Vì không gặp cậu Kha nên chiều hôm đó Liên không đả động gì tới chuyện đi chơi. Nhưng ngày hôm sau thì... ôi thôi!, khổ cho cái thân tôi, cô nàng kể tùm lum ra hết!

    Tuy nhiên tôi không đến nỗi hoàn toàn ân hận về chuyện ấy. Tôi cho rằng cái trách nhiệm hướng dẫn và trông chừng Liên lẽ ra phải để cậu Kha làm mới có hiệu quả hơn tôi. Nhưng cậu Kha lại quá rụt rè không đưa ra được những lý do hợp lý trong việc ngăn cấm cô liên lạc với những người bên Đỉnh Gió Hú, trong khi Liên lại đòi hỏi những lý lẽ thật xác đáng mới chịu từ bỏ không làm theo ý thích riêng.

    Sáng hôm đó, sau khi chào hỏi bố xong, cô nói ngay:

    “Ba à, ba thử đoán xem hôm qua con đã gặp ai khi đi dạo chơi ngoài cánh đồng. -, con làm ba giật mình hả? Ba lầm rồi, con đã gặp... Nhưng gượm đã, rồi ba sẽ nghe con kể con đã khám phá ra làm sao; và vú Diễn, vú ấy về hùa với ba, thế mà vú ấy cứ làm ra bộ thương hại con ghê lắm mỗi lần con mong ngóng Tôn trở về mà lần nào cũng thất vọng."

    Rồi Liên kể hết ngọn ngành cuộc đi chơi và kết cuộc ra sao. Cậu chủ tôi yên lặng ngồi nghe, chốc chốc lại đưa mắt nhìn tôi trách móc. Khi Liên kể xong, cậu kéo Liên vào lòng và hỏi Liên có hiểu vì sao cậu đã giấu Liên việc Tôn ở gần nhà không? Liệu Liên có nghĩ rằng cậu đã làm hỏng một niềm vui mà đáng lẽ Liên được hưởng mà không có lý do?”

    Liên đáp:

    “Đó là tại ba ghét ông Hy."

    Cậu Kha nói:

    “Vậy là con tin rằng bố chỉ nghĩ đến tình cảm riêng của ba mà không lý gì đến tình cảm của con hay sao? Không đâu. Không phải ba ghét ông Hy. Chính ông Hy ghét ba. Ông ta là một người hiểm ác, thích làm hại những người mà ông ta ghét. Nếu có dịp là ông ấy làm cho người ta phải tán gia bại sản. Ba biết là khi giao thiệp với anh em họ con, con không thể nào tránh không tiếp xúc với ông ấy. Mà ba thì ba biết vì ghét ba ông ấy sẽ ghét lây con, cho nên ba đã giữ không để con gặp Tôn. Đó là điều tốt cho con, ngoài ra không có một lý do nào khác... Ba đã định bụng sẽ giải thích cho con rõ khi con lớn lên; ba rất ân hận đã để chậm trễ không nói ra sớm hơn."

    Liên vẫn chưa chịu tin, nàng nói:

    “Không đâu, con thấy ông Hy là người rất thân thiện, ba ạ. Ông ấy không phản đối việc chúng con liên lạc với nhau. Ông ấy còn bảo lúc nào con muốn tới chơi nhà ông ấy cũng được hết. Đáng lẽ con không nên nói ra điều này: trước kia ba đã cãi nhau với ông ấy và ba đã không tha thứ chuyện ông ấy lấy cô Sa. Con thấy ông ta phải. Chính ba mới là người đáng trách. Ít nhất là ông ấy sẵn sàng để chúng con chơi với nhau, Tôn và con... còn ba thì không."

    Cậu Kha thấy con gái không tin lời mình nói về dã tâm người chú của cô, nên chỉ nói sơ qua về tư cách của Hy đối với mợ Sa, về mưu kế Hy đã dùng để trại Gió Hú rơi vào tay hắn. Cậu không thể nói nhiều về chuyện này, vì ngay khi chỉ nói rất ít, cậu vẫn thấy nặng chĩu trong tâm tưởng mối căm hận và ghê sợ kẻ thù cũ, y như hồi mợ Kha mới mất. Cậu ấy xem Hy như một tên sát nhân và thường nói chua chát:

    “Nếu không có nó, chắc mợ còn sống tới giờ.”

    Liên vốn chẳng hề có những hành vi xấu nào ngoài những thói hư vặt như ngỗ nghịch, giận lẫy, nông nổi thiếu suy nghĩ - nhưng biết hối ngay sau khi gây lỗi - bởi thế nên cô lấy làm kinh ngạc về lòng dạ đen tối của con người có thể ôm ấp giấu kín việc trả thù hằng bao nhiêu năm trời và còn dụng tâm tiếp tục thi hành mưu mô thủ đoạn ấy không một chút hối hận. Liên tỏ ra bực tức và giao động quá đỗi trước cái bề trái của con người mà xưa nay nàng không học đến cũng như không ngờ tới, đến nỗi cậu Kha tự thấy mình không nên tiếp tục câu chuyện ấy nữa. Cậu chỉ nói thêm:

    “Cưng của ba, sau này con sẽ hiểu vì lẽ gì ba không muốn con lai vãng đến nhà họ và giao thiệp với họ. Còn bây giờ con hãy trở về với công việc và trò giải trí hàng ngày và đừng nghĩ gì đến họ nữa!”

    Liên hôn cha rồi ngồi yên học bài khoảng hai tiếng đồng hồ như thường lệ, sau đó theo cha ra ngoài nhà, suốt ngày không xẩy ra điều gì khác lạ. Nhưng đến tối, khi Liên vào phòng riêng và tôi vào để giúp nàng thay áo, tôi thấy Liên quỳ ở chân giường nức nở khóc. Tôi kêu lên:

    “Ôi, xấu hổ chưa, cô bé ngốc kia! Cô đã phí nước mắt vì những chuyện tào lao. Cô Liên ạ, từ bé đến giờ cô chưa bao giờ phải trải qua cảnh đau buồn thực sự; chẳng hạn như, nói ví thử, trong một phút cả ba của cô lẫn tôi đều chết cả, để cô một thân một mình trơ trọi trên đời... lúc ấy cô sẽ thấy ra sao? Hãy thử so sánh hoàn cảnh hiện tại với cái viễn cảnh đau buồn kia thì cô phải cảm ơn Thượng Đế đã để cho cô được ở bên những người thân yêu cô hiện có, thay vì phải ao ước gì thêm!”

    Liên đáp:

    “Em không khóc cho thân em, mà khóc vì Tôn.... Tôn trông chờ gặp lại em ngày mai, Tôn sẽ thất vọng biết chừng nào... Tôn chờ em mà em thì không tới!”

    “Vớ vẩn! Cô tưởng là Tôn chỉ nghĩ đến cô cũng như cô nghĩ đến Tôn hả? Tôn chẳng có Hạ làm bạn là gì? Cả trăm người cũng không có lấy một người vớ vẩn khóc lóc vì đã mất đi một người quen mới gặp có hai lần trong hai buổi trưa.. Tôn sẽ đoán ra vì lẽ gì cô không đến được và sẽ không còn thắc mắc về cô đâu."

    Liên đứng dậy hỏi:

    “Thế em có thể viết mấy câu cho Tôn được không, giải thích tại sao em không đến? Và em gửi luôn mấy cuốn sách em hứa cho Tôn mượn. Sách của Tôn không bằng sách em, thấy em nói sách của em hay lắm thì Tôn ao ước muốn đọc. Em gửi được không, vú Diễn?"

    “Không được! Nhất định là không được! Vì Tôn sẽ viết thư trả lời và như vậy không bao giờ dứt cả. Không, cô Liên, cô phải cắt đứt mọi liên lạc... Ý của ba cô như vậy, tôi sẽ để ý canh chừng."

    Liên năn nỉ:

    “Nhưng một mảnh giấy con con thì đến nỗi nào..."

    Tôi ngắt lời:

    “Thôi, đừng nói nữa. Đừng có nhắc đến giấy tờ gì của cô nữa. Lên giường đi ngủ đi!”

    Liên lườm tôi một cái rất quái ác, đến nỗi thoạt dầu tôi không buồn hôn và chúc cô ngủ ngon nữa. Tôi đắp chăn cho Liên rồi khép cửa trở ra, lòng bực tức hết sức...nhưng nửa đường hối hận, tôi nhẹ bước quay lại thì, trời, cái gì kìa?... Liên đang đứng cạnh bàn trước một mảnh giấy trắng, tay cầm một cái bút chì, cô lúng túng dấu đi khi thấy tôi trở lại.

    Tôi nói:

    “Cô Liên, cô có viết cũng chẳng tìm ra ai chuyển thư đâu. Bây giờ tôi tắt đèn đây."

    Tôi vừa úp cái chụp nến lên trên ngọn lửa thì liền bị đập một cái vào tay, kèm theo câu mắng: “Đồ tồi!” Tôi bỏ ra ngoài phòng để mặc Liên hầm hầm giận dữ.

    Dù vậy, Liên cứ viết thư và nhờ một thằng đi giao sữa từ trong làng ra lấy sữa gửi, nhưng mãi sau tôi mới biết được điều này. Nhiều tuần lễ trôi qua, Liên đã trở lại bình thường. Có điều là nàng thích ngồi thui thủi một mình một xó. Nếu tôi bất chợt tới gần khi Liên đang mải đọc sách thì nàng hay giật thót người, cúi gầm đầu xuống cố ý dấu sách đi. Nhưng tôi cũng thoáng thấy những mép giấy rời thò ra khỏi những trang sách.

    Liên lại có thêm cái tật xuống nhà dưới rất sớm, la cà quanh bếp, như có ý mong đợi ai. Trong phòng sách, Liên có một cái tủ nhỏ có ngăn kéo mà nàng thường mở ra mần mò hàng giờ rồi sau đó khóa lại và rút chìa cất đi nơi khác.

    Một bữa kia, trong lúc Liên đương mải moi móc ngăn kéo, tôi để ý thấy bao nhiêu đồ chơi lặt vặt gần đây vẫn được cất trong đó được thay bằng những mẩu giấy gấp ba gấp tư. Tôi đâm nghi và tò mò, quyết tâm lục ngăn kéo xem cô nàng giấu gì trong đó. Tối đến, biết chắc hai cha con Liên đã lên hẳn trên lầu rồi, tôi vội tìm ngay trong chùm chìa khóa của tôi một chiếc tra vừa ổ khoá. Mở được ngăn kéo ra, tôi dốc hết các thứ trong ngăn vào chiếc yếm khoác rồi đem thẳng vào phòng tôi, ung dung xem. Tuy đã đoán chừng là cái gì rồi thế mà tôi vẫn sửng sốt khi thấy những mảnh giấy đó là một tập thư dầy cộm liên lạc gần như hàng ngày của Tôn trả lời những thư của Liên. Những bức thư đầu tiên còn ngắn, bỡ ngỡ, dần dà trở thành những bức thư tình dài, khờ khạo do tuổi non nớt của người viết. Tuy thế, thỉnh thoảng cũng có những đoạn mà tôi ngợ rằng đã mượn một bàn tay già dặn hơn để sửa chữa. Vài ba bức làm tôi ngạc nhiên vì sự pha trộn một cách kỳ cục giữa những lời nồng nàn và những câu nhạt nhẽo, như bắt đầu bằng những câu tình cảm thắm thiết để rồi kết thúc bằng một giọng kiểu cách mà học trò vẫn thường dùng để viết cho một người yêu tưởng tượng.

    Chẳng hiểu những bức thư ấy có làm hài lòng Liên hay không, tôi không biết; nhưng với tôi chúng là mớ giấy lộn vô giá trị. Sau khi đọc qua những bức thư mà tôi thấy cần đọc, tôi gói tất cả vào một chiếc khăn tay, cất đi một nơi và khóa cái ngăn kéo rỗng ấy lại.

    Theo thói quen, cô Liên của tôi xuống nhà bếp rất sớm. Tôi theo rõi thấy cô vừa đi ra cửa thì có một thằng nhỏ ở đâu đi tới. Trong lúc một chị người làm đang rót sữa vào đầy bình của thằng bé thì Liên bỏ một cái gì vào túi nó và lấy ra một vật khác. Tôi bèn đi vòng ra vườn đứng chờ thằng bé đưa tin đi qua và túm lấy. Nó chống cự dữ dội quyết không cho tôi khám túi. Chúng tôi giằng co làm sữa bắn vung cả ra người, nhưng rồi tôi cũng chộp được bức thư. Tôi dọa thằng bé phải về nhà ngay tức khắc nếu không sẽ lãnh đủ. Rồi, đứng nấp bên tường tôi đọc bức thư tình tứ của Liên. Bức thư viết rất hay nhưng cũng rất khờ dại. Thư vừa giản dị lại vừa xúc động hơn là thư của người em họ Liên nhiều. Tôi lắc đầu trầm ngâm trở vào nhà.

    Ngày hôm đó trời mưa. Sau buổi học sáng vì không thể ra ngoài chơi Liên rút vào phòng sách tìm an ủi nơi chiếc ngăn kéo. Cậu Kha ngồi ở bàn đọc sách. Còn tôi đã có chủ đích nên vờ ngồi khâu lại mấy đường viền sứt chỉ trên tấm rèm cửa, mắt không ngừng theo rõi từng cử chỉ của Liên.

    Một con chim khi quay về tổ thấy bọn cướp đã bắt đi mất sạch đàn chim non mà lúc nó ra đi còn kêu chim chíp đầy tổ, con chim đó có đập cánh kêu lên những tiếng thảm thương thì cũng không thể diễn tả nổi nỗi tuyệt vọng cho bằng Liên lúc đó: nàng chỉ thốt lên một tiếng “Ồ!” và nét mặt đương hớn hở chợt biến sắc hẳn đi.

    Câu Kha ngửng đầu lên, hỏi:

    “Cái gì thế con! Bị kẹp tay rồi, phải không?”

    Giọng nói và vẻ nhìn của cậu khiến Liên biết chắc cậu không phải là người đã khám phá ra kho báu vật của nàng. Liên nghẹn ngào đáp:

    “Không. Thưa ba không. Vú Diễn! Vú Diễn! Lên lầu với em đi... em đau!”

    Tôi nghe lời đi theo nàng. Vừa lên tới phòng, chỉ có tôi với Liên, cô nàng khép cửa lại, rồi quỳ ngay xuống năn nỉ:

    “Ôi! Vú Diễn! Vú lấy của em. Ôi! Vú cho em xin lại đi, từ rầy em không làm thế nữa! Vú đừng nói với ba nhé. Vú chưa nói phải không? Em thật hư quá, em sẽ không làm như thế nữa đâu!”

    Tôi nghiêm hẳn nét mặt lại, bảo Liên đứng lên rồi nói:

    “Cô xem đó, cô Liên, tôi thấy cô hình như làm hơi quá... cô không thấy xấu hổ sao, những bức thư như vậy. Một mớ giấy lộn thế kia mà cô nghiền ngẫm trong lúc nhàn rỗi được. Hay lắm đấy, đáng để in thành sách lắm đấy! Cô biết ba cô sẽ nghĩ sao nếu tôi đưa những bức thư ấy ra trình ông? Tôi chưa trình đâu, nhưng cô đừng tưởng là tôi sẽ giữ kín cái bí mật kỳ cục của cô... Xấu hổ! Và tôi còn dám chắc chính cô là người đầu têu viết những chuyện tầm bậy đó, chứ nó đâu dám gợi ra trước..."

    Liên nức nở, rầu rĩ:

    “Không! Không! Không phải em! Em đâu có nghĩ đến chuyện yêu nó cho mãi tới khi..."

    Tôi bĩu môi, khinh bỉ:

    “Yêu nó! Yêu nó! Có ai tin được chuyện như vậy không? Có khác nào tôi nói yêu lão chủ nhà máy gạo mỗi năm một lần đến nhà mình mua lúa không? Tình yêu đẹp đẽ ghê! Trong đời cô, cộng cả hai lần cô gặp Tôn mới được có bốn tiếng đồng hồ. Thôi đưọc rồi, tôi sẽ mang mớ giấy lộn con nít này đem xuống phòng sách xem cha cô nói sao về cái tình yêu ấy."

    Liên bổ nhào tới cướp những bức thư quý giá của nàng nhưng tôi đã giơ cao khỏi đầu. Thế là cô bé cuống cuồng năn nỉ tôi đốt hết thư đi... hay là làm bất cứ gì cũng được miễn là tôi đừng có đem ra trình cho ông bố xem.

    Thực tình là lúc ấy tôi muốn cười hơn là tức vì tôi xem tất cả chỉ là chuyện con nít hão huyền, nên sau đó tôi bớt nghiêm phần nào và hỏi:

    “Nếu tôi bằng lòng đem đốt đi thì cô có hứa chắc từ rầy sẽ không gửi và cũng không nhận một bức thư nào, một quyển sách nào - vì tôi đã thấy cô gửi sách cho nó - một lọn tóc, một chiếc nhẫn, hay bất cứ một món đồ chơi nào nữa không?”

    Lòng tự kiêu đã át cả nỗi hổ thẹn khi Liên cự lại:

    “Bọn em không có gửi đồ chơi!”

    “Tôi chỉ biết là cô không được gửi hay nhận bất cứ cái gì, thế thôi! Nếu cô không chịu hứa thì tôi đi đây!”

    Liên vội níu lấy áo tôi, nói:

    “Em hứa mà, vú Diễn! Thôi, vú vứt vào lửa đi, nhanh lên, nhanh lên!”

    Nhưng trong lúc tôi đương lấy que cời than ra để lấy chỗ, cô nàng ngẫm nghĩ thấy phải hy sinh như vậy thì đau quá, nên lại năn nỉ xin tôi bớt lại một hai tờ.

    “Một hai tờ thôi, vú Diễn, để giữ làm kỷ niệm của Tôn!”

    Tôi cởi chiếc khăn tay ra, vứt từng xấp thư vào một góc, ngọn lửa bùng lên cuồn cuộn trong lò sưởi. Liên hét lên:

    “Em lấy lại một tờ, vú ác lắm!”

    Rồi, bất kể bị phỏng, cô nàng thò tay vào ngọn lửa lôi ra mảnh giấy đã cháy xém một nửa.

    “Được rồi... còn tôi, tôi sẽ lấy vài tờ đưa ba xem!”

    Nói xong, tôi giữ lấy xấp giấy còn lại đứng lên đi ra cửa.

    Liên vội vứt tờ giấy cháy đen vào lửa và ra hiệu bảo tôi tiếp tục hỏa thiêu nốt những bức thư quý báu của nàng. Đốt xong tôi cời tro, vùi tàn giấy xuống dưới một cái xẻng đầy than hồng.

    Lòng đau xót vô hạn, Liên lẳng lặng đi vào phòng riêng. Tôi trở xuống báo cho cậu chủ tôi hay Liên đã qua khỏi cơn đau, nhưng tôi thấy nên để cho cô ấy nằm nghỉ một lát.

    Liên bỏ cơm, nhưng ra dự bữa trà, mặt xanh xao, mắt đỏ hoe và bề ngoài tỏ ra nàng rất giỏi nhẫn nhịn.

    Sáng hôm sau, tôi trả lời bức thư bằng một mẩu giấy viết:

    “Yêu cầu chú Tôn đừng gửi thư cho cô Liên nữa vì cô Liên không nhận đâu.”

    Từ hôm đó trở đi, thằng nhỏ đến, túi rỗng không."

    ***
    Chú thích:
    [1]Ở Châu Âu không như ở Việt Nam, hai người có họ lấy nhau không phải là chuyện lạ.


    Chương 22

    Mùa hè qua, trời vừa chớm sang thu... Nhưng mùa lúa năm ấy muộn, vài ba thửa ruộng của chúng tôi vẫn còn chưa gặt. Cậu Kha và cô con gái thường đi ra ngoài, dạo bước giữa đám thợ gặt. Hôm thợ gánh những bó lúa cuối cùng về Họa Mi Trang, hai cha con ở lại cho đến lúc trời tối. Về chiều trời trở lạnh và ẩm thấp, cậu chủ tôi bị nhiễm phổi cảm nặng khiến cậu phải nằm liệt trong nhà, bệnh hầu như không dứt suốt cả mùa đông năm ấy.

    Tội nghiệp cô bé Liên vẫn còn chưa hết xúc động về mối tình thơ dại kia, trở nên buồn rầu u uất hơn, khiến cha cô bắt cô phải bớt đọc sách và vận động nhiều. Cậu Kha không thể đi chơi với cô cho có bạn được nên tôi phải tự cho mình có bổn phận thay thế cậu nhiều chừng nào tốt chừng đó. Tuy nhiên tôi không thể cáng đáng hết được việc ấy bởi lẽ tôi bận làm việc suốt ngày; có cố gắng lắm tôi mới bớt ra được vài ba giờ đi theo chân Liên, và tất nhiên đi chơi với tôi cô không thể thích bằng đi với bố.

    Một buổi chiều khoảng cuối tháng mười hay đầu tháng mười một gì đó, một buổi chiều mát lạnh và ẩm ướt. Trên mặt đất và các lối đi xào xạc lá úa thẫm ướt, bàu trời xanh giá rét bị mây che khuất một nửa, những đám mây xám kéo nhanh tới từ phương tây báo hiệu một trận mưa lớn. Tôi thấy vậy bảo cô bé của tôi nên bỏ cuộc đi chơi vì chắc thế nào cũng có mưa rào. Liên nhất định không chịu; tôi đành phải khoác áo mưa, đem theo dù, để đi dạo với cô nàng tới cuốn vườn... một cuộc dạo chơi kiểu cách mà Liên thường làm bộ thích mỗi khi xuống tinh thần; nhất là khi cậu Kha đau nặng hơn thường lệ, điều mà ông không hề thú nhận song cả Liên và tôi đều đoán biết mỗi khi thấy ông trầm lặng hơn, vẻ mặt ủ rũ hơn. Liên bước những bước đi uể oải, không còn chạy nhẩy như mọi lần những khi có cơn gió lạnh đưa đẩy. Thỉnh thoảng liếc nhìn tôi thấy Liên đưa tay lên quệt má.

    Tôi nhìn quanh xem có cách nào có thể làm cô khuây khỏa. Ở một bên đường trên một gò cao có những thân cây sồi cằn cỗi trơ rễ, mỗi lần gió thổi mạnh thân cây nằm gần rạp xuống.

    Trước kia về mùa hạ Liên thường trèo lên những thân cây như vậy, ngồi vắt vẻo đu đưa trên cành cao cách mặt đất đến bốn năm thước. Thấy tính Liên trẻ con lanh lẹ, tôi rất vui lòng, nhưng mỗi lần bắt gặp cô nàng trèo cao, tôi vẫn thấy cần trách mắng lấy lệ, trách mắng cách nào để Liên hiểu là cứ tiếp tục ngồi trên đó đi không cần phải xuống ngay. Thường thường trong khoảng từ lúc ăn trưa đến bữa trà, Liên hay nằm dài trên cành đu đưa theo ngọn gió hiu hiu, nghêu ngao hát những bài hát cổ mà tôi dậy Liên hồi nhỏ; hoặc nhìn mấy con chim mớm mồi cho con ăn và dậy con tập bay; hoặc Liên lim dim đôi mắt, nửa trầm tư nửa mơ mộng, có vẻ vui sướng không lời nào tả xiết.

    Tôi chỉ vào một cái hốc dưới rễ một thân cây vặn vẹo và reo lên:

    “Nhìn kìa, cô! Mùa đông chưa tới đây đâu nhé, cô Liên. Kia có một bông hoa nhỏ, bông cuối cùng sót lại của đám hoa chuông mà hồi tháng bẩy còn phủ chi chít những tảng cỏ kia như một lớp sương màu hoa cà. Cô có muốn trèo lên hái xuống về khoe với ba không?”

    Liên ngước mắt nhìn bông hoa đơn độc trong hốc run run trước gió, hồi lâu cô nói:

    “Không. Em không muốn đụng đến nó. Sao trông nó ủ rũ thế kia, vú Diễn?”

    “Vâng. Trông nó cũng ủ rũ và xanh xao như cô... Cô lại đây, má cô không có lấy một hột máu, chúng mình nắm tay chạy một vòng đi... Cô chậm lắm, tôi dám chắc sẽ theo kịp cô cho mà xem..."

    “Không!”

    Liên nhắc lại và tiếp tục nhẩn nha bước. Thỉnh thoảng cô ngừng lại mơ màng nhìn một đám rêu, một bụi cỏ vàng úa, một cánh nấm màu da cam nổi trên đám lá nâu; chốc chốc lại đưa tay lên mắt và quay mặt đi.

    Tôi quàng tay lên vai Liên hỏi:

    “Liên, sao cưng khóc? Em không nên khóc vì ba bị cảm lạnh. Nhờ ơn Trời, bệnh ba có gì tệ lắm đâu!”

    Liên không còn cầm được nước mắt, hơi thở cô nghẹn lại vì nức nở:

    “Ồ, rồi sẽ có chuyện không hay xẩy ra. Em sẽ ra sao, nếu ba và vú không còn nữa, bỏ em trơ vơ... Em không thể nào quên được lời vú nói, lúc nào nó cũng ở bên tai em… Cuộc đời sẽ thay đổi biết mấy, thế giới sẽ ảm đạm biết mấy nếu ba và vú chết đi."

    “Chả ai nói trước được. Biết đâu Liên lại chả chết trước ba và tôi. Không nên đoán trước những chuyện không may... hãy cứ hy vọng năm này qua năm khác qua đi mà mình vẫn còn sống. Cậu chủ còn trẻ, tôi còn khỏe mạnh, chưa tới bốn lăm. Bà cụ tôi sống tới tám mươi, gần chết rồi vẫn còn lanh lợi. Nói ví dụ cậu chủ sống đến sáu mươi tuổi thì số năm còn lại vẫn còn nhiều hơn số tuổi cô bây giờ, cô thấy không? Vậy mà chưa chi cô đã vội lo nghĩ tới những tai biến mà hai mươi năm nữa chưa chắc đã xẩy ra, có phải là kỳ khôi không?”

    “Thế cô Sa chả ít tuổi hơn ba đó ư?”

    Liên rụt rè nhìn tôi, hy vọng tôi sẽ nói thêm điều gì nữa để cho nàng yên tâm hơn. Tôi đáp:

    “Tại cô Sa không có Liên, không có tôi chăm sóc. Cô Sa không được sung sướng như cậu chủ, không có gì ràng buộc cô với đời. Cần nhất là Liên phải săn sóc ba, phải tỏ ra vui vẻ để an ủi ba và tránh làm điều gì khiến ba phải lo buồn. Cô phải để tâm lắm mới được! Tôi chẳng nói dấu gì cô điều này là nếu cô cứ điên cuồng liều lĩnh ôm ấp mối tình rồ dại với Tôn, con của một kẻ chỉ mong ba cô nằm xuống là vui mừng, nếu cô còn để lộ ra cho ba cô thấy là cô vẫn còn buồn khổ về việc phải xa Tôn mà ba cô biết chắc là chính đáng và có lợi cho cô...tức là cô đã giết ba cô đấy!”

    “Ngoài bệnh tình của ba em chẳng có chuyện gì để phải buồn khổ. Em chẳng lo gì hơn là lo cho ba... Không bao giờ... Ồ, không bao giờ khi mà em còn đủ lý trí em làm việc gì hay nói một câu gì làm ba buồn lòng. Đêm nào em cũng cầu nguyện cho em được sống lâu hơn ba vì thà để em chịu đau khổ sau khi ba mất đi còn hơn là để ba đau khổ... điều đó chứng tỏ là em yêu ba hơn yêu bản thân mình."

    “Cô nói hay lắm. Nhưng lời nói phải đi đôi với việc làm. Khi ba bình phục rồi, cô hãy ráng đừng quên những điều cô quyết tâm làm trong những giờ phút lo sợ này."

    Trong khi trò chuyện chúng tôi tiến tới một cái cổng trông ra đường cái. Cô chủ nhỏ của tôi trở lại vui tươi, cô trèo tót lên ngồi trên bờ tường với tay định túm lấy mấy quả chín đỏ trên những cành cây hồng dại đổ bóng ven đường. Những quả dưới thấp đã bị ngắt, còn những quả phía trên cao thì chỉ có chim chóc hay Liên đương ở vị trí đó là có thể đụng tới.

    Trong lúc đưa tay lên với, Liên đánh rớt mũ. Vì cửa khóa, Liên đòi leo xuống phía bên kia để nhặt. Tôi nhắc cô hãy cẩn thận kẻo ngã thì khốn nhưng cô bé đã biến đi lẹ làng. Xuống thì dễ nhưng lên lại khó vì tường đá trơn lại trét xi măng nhẵn; còn mấy bụi hồng, bụi cây mâm sôi mọc lan thì không đủ vững để víu bám trèo trở lên. Trong lúc tôi quýnh quáng không biết tính sao thì Liên cười bảo:

    “Vú Diễn, vú phải về lấy chìa khóa mở cổng. Nếu không em phải chạy vòng về cửa trạm gác. Em không thể nào trèo qua bờ tường phía này được."

    Tôi đáp:

    “Cô cứ đứng yên đấy nghe. Tôi có một chùm chìa khoá trong túi may ra có thể mở được, nếu không tôi sẽ chạy về lấy."

    Liên nhẩy lăng xăng trước cổng trong lúc tôi lần lượt thử tra các chìa khóa lớn vào ổ. Thử tới cái chót không thấy cái nào vừa, tôi lập lại lời nói bảo Liên cứ ở yên đó chờ tôi chạy nhanh về nhà, thì chợt có tiếng động làm tôi ngừng nói. Đó là tiếng vó ngựa. Liên ngừng nhẩy nhót và một phút sau tiếng ngựa cũng dừng. Tôi hỏi khẽ:

    “Ai thế?”

    Lên cũng nói khẽ, giọng lo lắng:

    “Vú Diễn, làm sao mở cửa nhanh lên cho em."

    Một giọng nói trầm - của người cỡi ngựa - reo lên:

    “A, cô Liên. Tôi rất vui được gặp cô. Đừng vội vào, vì tôi muốn nói một chuyện cần được cô giải thích."

    Liên đáp:

    “Ông Hy. Tôi không nói chuyện với ông! Ba tôi bảo ông là người độc ác, ông ghét cả ba tôi lẫn tôi. Vú Diễn cũng bảo thế!”

    “Điều đó không can hệ đến việc tôi định nói. Tôi không ghét con trai tôi, tôi biết chắc như vậy, và đây là chuyện liên quan đến nó. Tôi xin cô lưu ý. Phải!... Cô đỏ mặt là phải… Trước đây hai ba tháng cô thường viết thư cho thằng Tôn? Cô đem ái tình ra làm trò đùa hả? Cả hai người đều đáng đánh đòn! Nhất là cô, lớn tuổi hơn và ít tình cảm hơn, hình như vậy! Tôi đã nắm được những bức thư của cô và nếu cô giở thói hỗn xược với tôi, tôi sẽ gửi cho ba cô. Chắc là cô đã chán cái trò đùa ấy nên cô bỏ ngang, phải không? Bỏ rơi trò đùa và bỏ rơi luôn thằng Tôn cho nó rơi xuống vực thẳm! Nó thì thực thà, cứ nghĩ là chuyện đứng đắn nên nó yêu thực tình. Nó đương hấp hối chết vì cô đấy. Đây là sự thật hiển nhiên, hiển nhiên cũng như là tôi đang ở trước mắt cô đây này. Lòng nó đang tan nát vì tính thay lòng đổi dạ của cô. Tuy thằng Hạ đã giễu cợt nó suốt sáu tuần qua, tuy tôi đã dùng nhiều cách đứng đắn hơn cố ý đe dọa cho nó sợ hậu quả của mối tình ngu dại của nó, nhưng mỗi ngày bệnh tình nó một nặng hơn và chỉ đến mùa hè tới nó sẽ xuống lỗ là cái chắc nếu cô không ra tay cứu nó!”
    (còn tiếp)

  9. #28
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Tôi đứng trong vườn nói vọng ra:

    “Sao cậu lại có thể nói dối cô bé đáng thương này một cách trắng trợn như vậy được! Thôi, xin cậu đi đi cho! Cậu dựng đứng những chuyện bỉ ổi như vậy làm gì! Cô Liên, đợi tôi lấy đá đập tung khoá ra. Đừng có tin những chuyện xấu xa vô lý ấy. Cô cứ suy ra thì đủ biết, không ai có thể chết vì yêu một kẻ xa lạ bao giờ."

    Bị bắt thóp tại trận, tên lưu manh ấy càu nhàu:

    “A, tôi không ngờ lại có kẻ nghe lén! Quý hoá chưa, bà Diễn! Tôi mến bà. Nhưng tôi không ưa cái thói đòn xóc hai đầu của bà."

    Hy nói tiếp, lớn tiếng:

    “Sao bà lại có thể sống sượng nói rằng tôi ghét “cô bé đáng thương” này? Và bịa ra những chuyện ma quái để dọa cô bé không dám bén mảng đến cửa nhà tôi?”

    Rồi dịu giọng, hắn nói:

    “Này Tôn Liên - cái tên duy nhất đã làm ấm lòng tôi - cô bé dễ thương ơi, tôi sẽ đi vắng nhà một tuần, cô thử đến Gió Hú xem tôi có nói thật không nào? Cô hãy đến thăm người mà cô cưng yêu. Cô thử nghĩ xem, nếu ba cô ở địa vị tôi và Tôn ở địa vị cô, rồi cô sẽ đánh giá người yêu hờ hững của cô như thế nào khi người ấy không chịu nhúc nhích lấy một bước để đến an ủi cô, trong khi chính cha cô năn nỉ nó đến thăm. Đừng có khờ dại lầm lỗi như lần trước nữa. Tôi thề có bóng mặt trời soi, Tôn sắp chết tới nơi rồi, ngoài cô ra, không có một người nào khác có thể cứu được nó."

    Ổ khóa rớt xuống, tôi mở được cửa bước ra. Hy hằn học nhìn tôi nói:

    “Tôi thề rằng thằng Tôn đang hấp hối. Nỗi đau buồn và tuyệt vọng làm nó mau chết hơn. Vú Diễn, nếu vú không cho cô ấy đi thì vú tự đi coi lấy mà xem. Giờ này tuần sau tôi mới trở về và tôi chắc ông chủ của vú cũng sẽ không ngăn cản cô Liên đi thăm thằng em họ của cô ấy."

    “Về đi, cô!”

    Vừa nói tôi vừa nắm lấy tay cô lôi đi vì Liên có vẻ dùng dằng, bối rối nhìn Hy, trong lúc con cáo già thản nhiên không để lộ một nét nham hiểm nào ra ngoài mặt.

    Hắn thúc ngựa lại gần cúi thấp xuống nói:

    “Cô Liên, thú thật với cô là tôi không thể kiên nhẫn nhiều hơn nữa với Tôn... Hạ và Dọi lại càng không thể chịu đựng bằng tôi. Tôi thực tình nói với cô rằng Tôn đang sống giữa một đám người thô lỗ, nó thèm khát tình thương và cả tình yêu nữa; một lời ân cần âu yếm của cô là liều thuốc hay nhất để chữa bệnh cho nó. Đừng nghe những lời độc ác của bà Diễn, cô phải rộng lượng tìm cách đến thăm nó. Nó mơ tưởng đến cô ngày đêm và nhất định không chịu tin rằng cô ghét bỏ nó kể từ ngày cô không viết thư và không tới thăm nó."

    Tôi đóng cửa, lăn một tảng đá để giữ cho cánh cổng khép lại rồi tôi giương dù, kéo Liên ẩn bên dưới vì mưa đã bắt đầu rền rĩ xuyên qua cành lá, thúc dục chúng tôi phải chạy về mau không được trì hoãn.

    Chúng tôi rảo bước về nhà, không ai nói năng một câu về cuộc chạm trán vừa rồi với Hy, nhưng linh tính cho tôi đoán tâm trạng Liên lúc này đang bị hai lớp mây đen bao phủ. Mặt nàng trông ủ rũ tới nỗi người vô tình có thể không nhận ra là Liên được nữa. Và hiển nhiên là nàng coi tất cả những lời vừa được nghe là hoàn toàn đúng sự thực.

    Trước khi chúng tôi về tới nhà thì cậu Kha đã rút vào phòng đi nghỉ rồi. Liên chạy vội lên thăm nhưng cậu đã ngủ. Nàng quay xuống bảo tôi lên phòng sách với nàng. Hai chúng tôi dùng trà. Sau đó Liên nằm dài trên thảm, bảo tôi đừng nói gì hết vì nàng mệt.

    Tôi lấy sách vờ đọc. Lát sau, tưởng tôi mải đọc sách, Liên âm thầm khóc. Khóc với nàng hồi gần đây hầu như là một lối giải trí ưa thích của Liên. Tôi để cho Liên khóc một hồi cho hả, rồi tôi mới khuyên bảo nàng. Tôi đem tất cả những lời ông Hy đoan chắc về con ông ta để chế riễu. Tôi tưởng rằng Liên sẽ tin theo tôi nhưng than ôi, tôi đã không đủ tài để quật ngược lại cái hiệu lực những lời nói của Hy, và đó chính là điều mà hắn muốn nhắm tới.

    Liên đáp:

    “Rất có thể vú có lý. Nhưng chừng nào em còn chưa rõ sự thực thì em vẫn còn khắc khoải. Em cần phải nói cho Tôn biết là em không viết thư không phải lỗi ở em và lòng em với Tôn không hề thay đổi."

    Liên đã nói thế thì có chống đối có tức giận cho cái tính nhẹ dạ cả tin của nàng phỏng có ích gì? Đêm hôm đó chúng tôi hậm hực chia tay nhau...nhưng sáng hôm sau, người ta lại thấy tôi trên đường đi đến Đỉnh Gió-Hú, bên cạnh con ngựa tơ của cô chủ bướng bỉnh của tôi. Tôi nhượng bộ vì không thể nào cầm lòng thấy Liên buồn khổ, người xanh xao ủ rũ. Tôi chỉ hy vọng mong manh là bằng vào cách Tôn đón tiếp chúng tôi Liên sẽ thấy câu chuyện Hy nói chẳng có gì là đúng sự thực cho lắm.

    Chương 23

    Trận mưa đêm trước khiến buổi sáng trời nhiều sương mù, thứ sương mù nửa đông giá nửa như mưa bụi. Những lạch nước nhỏ từ vùng cao róc rách chẩy xuống cắt ngang đường chúng tôi đi. Chân ướt sũng nước, tôi bực mình ra mặt, chỉ muốn kiếm cớ gây sự.

    Chúng tôi vào nhà bằng lối bếp để coi xem có thực Hy vắng nhà hay không, vì tôi khó tin được lời hắn.

    Bác Dọi ngồi một mình bên cạnh lò sưởi cháy rực, một cốc vại rượu bia đặt trên chiếc bàn đầy những mẩu bánh mì nướng, chiếc ống vố đen ngắn cũn trên miệng. Liên chạy vội tới bên lửa để sưởi. Còn tôi lên tiếng hỏi Hy có nhà không. Đợi mãi không thấy trả lời, tưởng bác Dọi điếc tôi nhắc lại câu hỏi thật lớn. Dọi to tiếng càu nhàu, phải nói là bác ta hét qua lỗ mũi thì đúng hơn:

    “Kh...ông! Mấy người cút về đi!”

    Từ phía nhà trong một giọng nói gắt gỏng thốt ra cùng một lúc:

    “Bác Dọi! Bác phải để tôi gọi bao nhiêu lần nữa đây? Còn có một chút than hồng thôi này! Bác Dọi! Vào đây ngay!”

    Thản nhiên hút từng hơi thuốc dài, mặt lạnh lùng ngó vào lò sưởi Dọi tỏ vẻ không hề bận tâm đến tiếng gọi. Không thấy chị quản gia và Hạ đâu, tôi đoán chị ta đi chợ còn Hạ thì làm vườn. Chúng tôi bước vào vì nhận ra giọng nói kia là của Tôn.

    Tưởng là bác Dọi tới, Tôn nói:

    “Ôi, tưởng bác đã chết rục ở trên đó rồi..."

    Tôn ngừng bặt khi biết mình lầm. Liên chạy tới ôm chầm lấy người em họ. Tôn đang nằm dài trên ghế lớn, ngẩng đầu lên khỏi tay dựa, hỏi:

    “Cô Liên đấy hả? Ờ, mà đừng... đừng hôn tôi. Trời... tôi nghẹt thở mất!”

    Tôn ngừng lại thở trong khi Liên đứng cạnh, coi bộ rất hối hận. Tôn tiếp theo:

    “Ba bảo thế nào cô Liên cũng tới. Cô làm ơn đóng hộ tôi cái cửa... cô để ngỏ kia kìa... còn cái bọn, cái bọn đáng ghét kia không chịu vào đây bỏ thêm than, lạnh quá đi mất!”

    Tôi ngoáy tro và lấy một cái xẻng than đổ đầy vào lò. Thằng bé lắm chuyện mắng ầm lên là bụi bay vào người nó, nhưng thấy nó ho và có vẻ sốt nên tôi không chấp. Khi Tôn hết cau có, Liên hỏi nhỏ:

    “Sao, Tôn? Thấy tôi, Tôn có mừng không? Tôn có cần tôi giúp gì không?”

    Tôn đáp:

    “Sao cô không đến từ trước? Đáng lẽ cô nên đến chứ đừng viết thư. Viết những bức thư dài thượt ấy tôi mệt muốn chết. Tôi thích nói chuyện hơn. Bây giờ thì tôi lại không còn hơi sức đâu để nói chuyện hay làm cái gì khác. Không biết chị Dị đâu nhỉ? (Tôn nhìn tôi). Vú làm ơn vào bếp coi hộ xem có chị ấy không?”

    Lúc tôi lấy than vào lò Tôn đã chẳng thèm có một lời cám ơn lại còn mắng tôi làm tung bụi nữa. Tôi cũng không muốn chạy tới chạy lui theo sự sai phái của nó, bèn đáp:

    “Trong bếp chỉ có Dọi, ngoài ra chẳng có ai cả."

    Thằng bé quay đi chỗ khác, bực tức kêu lên:

    “Tôi khát quá! Chị Dị thật tệ. Từ bữa ba đi vắng cứ xểnh ra là đi Diên-Mễ-Tôn. Tôi đành phải xuống đây... tôi mà ở trên lầu gọi xuống khản cổ chúng cứ lờ tịt đi như không nghe thấy!”

    Tôi hỏi:

    “Thế ba có săn sóc chú không, chú Tôn?”

    “Săn sóc? Ông ấy bắt chúng nó săn sóc tôi hơn một tí, thế thôi! Bọn khốn kiếp! Cô Liên biết không, cái thằng súc sinh thằng Hạ ấy nó chế nhạo tôi! Tôi ghét nó thậm tệ... Tôi ghét cả lũ bọn nó... một lũ khả ố!”

    Liên quay đi tìm nước. Thấy một cái bình trên tủ cốc, nàng rót một ly nước đầy cho Tôn. Thằng bé lại vòi thêm một muỗng rượu vang đựng trong một cái chai để trên bàn. Sau khi uống vài ngụm nó có vẻ bình tĩnh hơn và khen Liên dễ thương.

    “Tôn có vui thấy tôi ở đây không?”

    Liên nhắc lại câu hỏi trước và nàng sung sướng thấy trên mặt thằng bé nở một nụ cười yếu ớt. Tôn đáp:

    “Có chứ! Tôi vui chứ... Được nghe một giọng nói như cô là một cái gì mới mẻ. Nhưng tôi tức ghê vì cô không tới... Ba thì cứ nhất định bảo lỗi tại tôi, bảo tôi là đồ vô tích sự, bảo là cô khinh tôi, bảo rằng nếu ở địa vị tôi thì ông ấy đã là chủ Họa-Mi-Trang rồi. Nhưng... cô không khinh tôi đấy chứ, cô Liên..."

    Liên ngắt lời:

    “Tôn đừng gọi tôi là cô Liên nữa. Gọi Liên không đủ rồi. Tôi không khinh Tôn đâu. Sau ba và vú Diễn, Tôn là người tôi yêu hơn hết. Nhưng tôi không yêu ông Hy, khi nào ông ấy về thì tôi không dám lại đây nữa. Không hiểu ông ấy đi vắng có lâu không?”

    “Không lâu lắm đâu. Nhưng bắt đầu mùa săn ba thường hay vào rừng cỏ luôn. Trong lúc ba vắng nhà cô có thể đến chơi với tôi một hai giờ. Được không? Tôi không gắt gỏng với cô đâu vì cô không chọc tức tôi mà lại luôn luôn giúp tôi, có phải thế không, Liên?”

    Liên vuốt mái tóc dài và mượt của Tôn, đáp:

    “Ừ... Nếu được phép của cha tôi thì tôi sẽ bỏ nửa thời giờ để đến với Tôn... Tôn dễ thương quá! Giá Tôn là em ruột của tôi nhỉ."

    Tôn tươi tỉnh hơn nói:

    “Nếu được như thế thì Liên sẽ yêu tôi như yêu ba Liên, phải không? Nhưng ba tôi bảo là Liên sẽ yêu tôi hơn cả ba Liên, yêu hơn cả mọi thứ trên đời nếu Liên là vợ tôi... Vì thế tôi mong Liên là vợ tôi."

    Liên nghiêm giọng đáp:

    “Không! Tôi sẽ không bao giờ yêu ai hơn ba tôi cả. Vả lại người ta đôi khi ghét vợ mà không ghét anh chị em ruột thịt. Nếu Tôn là em ruột tôi, Tôn sẽ ở với chúng tôi và ba sẽ yêu thương Tôn như yêu thương tôi vậy."

    Tôn cãi rằng không ai ghét vợ bao giờ. Còn Liên thì quả quyết là có. Cô khôn ngoan dẫn chứng ngay chuyện cha Tôn ghét cô Sa. Tôi cố ngăn Liên nói ra những lời thiếu suy nghĩ, nhưng không ngăn nổi cho tới khi nàng biết chuyện gì tuôn ra hết. Tôn cáu hết sức cho rằng chuyện cô nàng kể là bịa. Liên sẵng giọng đáp:

    “Ba tôi kể tôi nghe. Ba tôi không nói dối!”

    Tôn lớn tiếng:

    “Ba tôi khinh ba cô! Ba tôi gọi ông ấy là đồ khùng tê tiện!”

    Liên cãi ngay:

    “Ba Tôn là người độc ác. Và Tôn xấu lắm dám nhắc lại những lời ông ấy nói. Chắc ba Tôn ác lắm nên cô Sa tôi mới phải bỏ đi!”

    “Mẹ tôi không bỏ cha tôi. Cô không được cãi."

    Liên thét lên:

    “Chẳng bỏ là gì đó!”

    “Này, để tôi nói cô nghe! Chính mẹ cô ghét ba cô! Thế đó!”

    Liên tức điên lên không thốt nên lời. Tôn tiếp theo:

    “Và mẹ cô lại yêu ba tôi!”

    Mặt đỏ nhừ vì giận, Liên vừa thở dốc vừa kêu lên:

    “Thằng ranh con nói láo! Ta ghét mi rồi đó!”

    “Đúng thế mà! Mẹ cô yêu ba tôi..."

    Nói xong Tôn ngồi lọt sâu xuống ghế vểnh mặt lên khoái trá nhìn Liên đứng sau lưng bối rối.

    Tôi lên tiếng:

    “Thôi đi, chú Tôn! Chắc cũng lại ba chú kể ra chứ gì?”

    “Không phải... Vú im miệng đi! Liên, mẹ cô yêu ba tôi thật mà..."

    Liên nổi đóa, đẩy mạnh chiếc ghế khiến Tôn ngã đập vào tay vịn. Lập tức chú bé nổi cơn ho tức nghẹn đến lịm cả người đi, hết cả vênh vênh váo váo. Cơn ho kéo dài đến nỗi tôi cũng phát hoảng. Còn cô chị họ thì khóc ầm ỹ cả lên. Cô hoảng hồn vì đã lỡ tay nhưng không nói một lời nào cả. Tôi đỡ cậu ta cho đến lúc dứt cơn. Sau đó Tôn đẩy tôi ra, đầu cúi gầm im lặng. Liên cũng thôi khóc, ngồi xuống chiếc ghế đối diện, nghiêm mặt nhìn ngọn lửa.

    Mười phút sau, tôi hỏi:

    “Bây giờ chú thấy trong người thế nào, chú Tôn?”

    “Tôi mong Liên cũng đau như tôi vừa rồi cho biết thân. Đồ độc ác. Ghét ghê! Ngay Hạ cũng chả đụng đến tôi, chả bao giờ đánh tôi... Hôm nay tôi mới thấy trong người kha khá thì..."

    Giọng Liên biến thành tiếng rên rỉ.

    “Tôi có đánh Tôn đâu!”

    Nói xong Liên bậm môi để giữ cho khỏi khóc. Tôn thở dài và rên rẩm như đang đau lắm, rõ ràng là cố ý muốn làm cho cô chị họ khổ tâm, vì mỗi lần thấy Liên ngưng tiếng nức nở thì nó lại uốn giọng cho thêm phần lâm ly đau đớn.
    Nín mãi không được cuối cùng Liên đành lên tiếng:

    “Tôi rất tiếc đã làm Tôn đau. Tôi tưởng là Tôn cũng như tôi không thể đau vì cú đẩy nhẹ ấy. Tôn không đau đớn lắm, phải không?”

    Tôn khẽ đáp:

    “Tôi không thể nói được. Liên làm tôi đau quá, suốt đêm tôi sẽ mất ngủ vì bị cơn ho hành hạ. Liên có bị như tôi mới biết... Ban đêm trong lúc cô ngủ ngon lành thì tôi đau muốn chết, không có một ai bên cạnh. Nếu Liên trải qua những đêm khủng khiếp như tôi Liên sẽ ra sao?”

    Tôi nói:

    “Chả phải cô Liên làm chú mất ngủ. Nếu cô ấy hôm nay không đến chú vẫn bị đau như thế kia mà. Dù sao cô Liên sẽ không làm phiền chú nữa. Chúng tôi đi về đây. Để chú được yên."

    Liên buồn bã cúi xuống gần Tôn hỏi:

    “Tôi về nghe! Tôn có muốn tôi về không?”

    Tôn lùi lại, cáu kỉnh:

    “Cô không thể nào vớt vát được việc cô đã làm. Có cô, cô còn làm bệnh tôi tệ hơn, cô giầy vò tôi phát sốt lên."

    “Nếu vậy thì tôi phải về?”

    “Thôi, để tôi yên. Nghe cô nói tôi không chịu nổi."

    Liên trù trừ một lúc lâu không chịu nghe tôi về ngay. Mãi sau không thấy Tôn nhìn lên hay nói năng gì, Liên mới quay đi ra cửa. Tôi đi theo.

    Một tiếng kêu thét khiến chúng tôi quay lại. Tôn tụt từ trên ghế xuống sàn trước lò sưởi và nằm lăn ra giẫy đành đạch. Thật đúng là thói tật của một đứa bé hư thân mất nết được nuông quá đâm ra nhiễu sự, nhất định quấy người khác cho bằng được.

    Thấy cái kiểu giẫy giụa ấy tôi biết ngay ý định của nó. Có ai họa điên mới chiều nó vào lúc này. Thế nhưng cô bé của tôi lại không nghĩ như vậy. Cô hoảng hồn chạy lại quỳ xuống rồi khóc lóc, rồi vuốt ve, rồi năn nỉ nó cho tới khi nó nín. Nó nín vì mệt đứt hơi chứ không phải vì ân hận đã làm rầy rà cô bé.

    Tôi nói:

    “Để tôi đỡ chú ấy lên ghế dài kia rồi để mặc chú ta lăn lộn sao thì lăn lộn, mình không hơi sức đâu mà coi sóc nó hoài. Liên, tôi hy vọng cô đã thấy rõ cô không phải là người đã giúp ích được gì cho chú ấy và tình trạng sức khỏe của chú ấy đâu có phải do sự quyến luyến với cô. Ấy, chú ta như thế đấy! Mình đi thôi! Khi nào chú ta biết chẳng có ai bên cạnh để lo lắng cho cái trò vô lối của mình thì họa may chú ta mới chịu nằm yên."

    Liên lót một chiếc gối dưới đầu Tôn và cho thằng bé uống nước. Nó gạt nước đi và xoay trở đầu trên gối một cách khó chịu làm như thể nó đang gối đầu trên một tảng đá hay khúc gỗ vậy. Liên lại phải cố xếp cái gối cho thoải mái. Tôn kêu:

    “Gối không vừa. Chưa đủ cao!”

    Liên lấy thêm chiếc gối nữa đặt chồng lên. Thằng ranh lại kêu:

    “Cao quá!”

    Cô bé thất vọng hỏi:

    “Vậy phải làm sao bây giờ?”

    Liên cúi thấp mình xuống gần như quỳ bên chiếc ghế. Tôn dướn người lên cao và dùng ngay vai cô nàng làm gối!

    Tôi kêu lên:

    “Thôi! Thôi! Ông nội ơi! Mời ông chịu khó dùng gối cho. Cô Liên đã mất quá nhiều thì giờ với ông rồi. Chúng tôi không thể ở đây quá năm phút đâu."

    Liên vội nói:

    “Được mà, được mà, mình ở được mà. Tôn đã ngoan rồi, đã chịu khó rồi... Tôn đã bắt đầu hiểu rằng đêm nay em còn buồn hơn Tôn nhiều vì tại em đến thăm mà Tôn đau thêm và rồi em sẽ không dám đến nữa. Này Tôn, hãy nói thật đi. Nếu tôi làm Tôn đau thật thì tôi chả dám đến nữa đâu."

    Tôn trả lời:

    “Liên phải tới để chữa cho tôi hết đau. Liên phải tới vì Liên đã làm tôi đau... đau lắm! Lúc Liên mới tới tôi đâu có đau dữ như bây giờ?”

    Tôi chen vào:

    “Đó là tại chú tự làm mình đau đấy chứ, ai bảo chú kêu gào giận dỗi làm chi!”

    Liên nói theo:

    “Đâu phải lỗi tại tôi làm Tôn đau? Dẫu sao thì chúng mình đã là bạn nhau rồi. Tôn cần tôi...thỉnh thoảng Tôn muốn gặp tôi, có phải thế không?”

    Tôn đáp, giọng nóng nẩy:

    “Tôi muốn gặp Liên! Tôi đã bảo rồi mà. Ngồi xuống đây đi, để tôi tựa vào đùi Liên, giống như mẹ tôi xưa kia trưa nào cũng làm như thế... Ngồi yên, đừng nói gì hết. Hay nếu biết hát thì Liên hát đi, hay ngâm thơ cũng được, bài nào dài dài và thật hay ấy...cái bài mà Liên hứa dậy tôi ấy mà, hay kể một chuyện gì cũng được... Nhưng ngâm thơ tôi thích hơn... Ngâm đi!”

    Liên ngâm bài thơ dài nhất mà nàng thuộc. Trò giải trí này khiến hai đứa hết sức vui vẻ. Tôn lại đòi nghe bài nữa, rồi một bài nữa, bất chấp cả lời phản đối của tôi. Cứ thế họ kéo dài cho tới khi đồng hồ điểm mười hai tiếng và Hạ đi làm về giục ăn cơm trưa ở ngoài sân.

    Liên miễn cưỡng đứng dậy. Tôn túm lấy áo Liên hỏi:

    “Thế mai Liên đến không?”

    Tôi đáp:

    “Không. Ngày kia cũng không!”

    Hiển nhiên là Liên đã trả lời khác hẳn tôi vì tôi thấy trán Tôn rạng rỡ hẳn lên khi Liên cúi xuống thì thầm nói gì vào tai nó.
    Ra khỏi nhà, tôi bảo Liên:

    “Cô phải nhớ là mai cô không có đi đâu đấy. Cô đừng tơ tưởng chuyện ấy nữa."

    Liên chỉ cười. Tôi tiếp theo:

    “À, tôi phải canh chừng. Tôi cho chữa ngay cái khóa, cô không có cách nào lẻn ra được."

    Liên vừa cười vừa nói:

    “Em có thể trèo qua tường. Nhưng vú Diễn này, Họa Mi Trang đâu phải là cái nhà tù. Vú đâu phải là cai tù. Hơn nữa em nhớn rồi, em gần mười bẩy rồi... em tin là Tôn sẽ chóng khỏi nếu được em săn sóc. Em hơn tuổi Tôn, khôn khéo hơn, ít con nít hơn, vú biết đấy! Chỉ khéo dỗ một tí là Tôn nghe lời em ngay...khi nó ngoan nó rất dễ thương. Nếu Tôn thuộc về em, em sẽ biến nó thành một đứa dễ bảo, đáng yêu. Một khi hiểu nhau hai đứa sẽ chẳng bao giờ cãi nhau, vú nhỉ? Vú có thích nó không, vú Diễn?”

    Tôi thốt lên:

    “Thích nó? Thích cái thằng ôn con bệnh hoạn xấu tính xấu nết ấy? Phước đức là ông Hy đoán nó không sống tới tuổi hai mươi! Tôi ngờ là nó không thọ tới mùa xuân năm sau. Nó mà đi đoong thì cũng chả thiệt gì cho gia đình nó. Nghĩ cũng may cho gia đình mình là bố nó đã rước nó đi... chứ càng được cưng chiều nó càng sinh hư đốn, ích kỷ, không thương được. Thấy cô không có số lấy nó làm chồng tôi cũng mừng hết cỡ, cô Liên ạ!”

    Liên nghe tôi nói thế liền nghiêm ngay nét mặt. Lòng cô bé bị tổn thương vì tôi nói đến cái chết của Tôn như nói đến cái chết của một kẻ dưng nước lã. Sau một hồi suy nghĩ, cô nói:

    “Tôn nhỏ hơn em. Tôn phải sống lâu hơn hoặc bằng em. Em dám chắc là sức khỏe của nó cũng y như hồi nó mới tới miền bắc này. Nó đau chỉ vì bị cảm lạnh, giống như ba thôi. Vú bảo là ba sẽ khỏi thì nó cũng sẽ khỏi chứ!”

    “Thôi, thôi! Mình chẳng nên bận tâm làm gì. Cô Liên này, cô nghe tôi nói đây, nếu cô còn định đến Gió Hú lần nữa thì dù đi với tôi hay không đi với tôi, tôi cũng sẽ nói cho ba cô biết. Trừ khi ba cô cho phép thì chẳng kể làm gì, chứ cô đừng nên khơi lại tình thân với Tôn nữa.

    Liên rầu rĩ đáp:

    “Thì đã khơi lại rồi còn gì nữa!”

    “Vậy thì đừng tiếp tục nữa."

    “Để coi xem!”

    Nói xong, Liên thúc ngựa đi trước để mặc tôi lê bước theo sau.

    Hai chúng tôi về đến nhà trước giờ ăn. Cậu Kha cho là chúng tôi đi chơi ra tận vòng rào nên không hỏi chúng tôi đi đâu vắng. Vào nhà tôi vội thay ngay đôi giầy và đôi bít tất sũng nước. Việc nán lại quá lâu ở trại Gió Hú, tuy vậy, là một điều tai hại.

    Sáng hôm sau tôi bị bệnh nằm liệt giường và suốt ba tuần lễ sau đó tôi không làm ăn gì được... một tai biến mà từ trước tôi chưa từng bị bao giờ và nhờ Trời từ đó trở đi tôi cũng không bị thêm lần nào nữa.

    Liên xử sự như một thiên thần. Nàng săn sóc tôi và làm tôi đỡ cô độc. Phải nằm lì một chỗ tôi xuống tinh thần kinh khủng. Thực là khổ sở đối với một người năng động ham làm việc như tôi, nhưng tôi không có một lý do gì để mà than vãn: Liên cứ hễ ra khỏi phòng cậu Kha là lại ngay bên cạnh giường tôi. Suốt ngày, không ở cạnh bố thì ở bên tôi, nàng không rảnh một phút nào để tiêu khiển riêng. Cô không thiết cả ăn uống, học hành và vui chơi. Liên tỏ ra là một cô điều dưỡng hiền dịu nhất để chăm sóc cho bệnh nhân và phải có một tấm lòng tha thiết với tôi hết sức mới có thể yêu tôi như thể yêu ba cô vậy.

    Tôi đã nói là suốt ngày Liên không ở bên cạnh cha nàng thì ở bên cạnh tôi. Nhưng cậu Kha lại thường về phòng nghỉ sớm, còn tôi thì sau sáu giờ thường không cần dùng gì, nên cả buổi chiều tối là của Liên.

    Tội nghiệp cô bé! Chẳng bao giờ tôi để ý xem cô bé đã dùng thì giờ làm gì sau bữa trà trưa. Và mặc dù thường nhận thấy má cô ửng tươi và mấy ngón tay thon thon của cô hơi đỏ lên, khi cô bé vào phòng chúc tôi ngủ ngon, tôi không hề nghĩ đó là do một cuốc chạy ngựa ngoài đồng khi trời lạnh mà cứ yên trí cho là tại hơi lửa nóng ở trong phòng sách.

    (còn tiếp)

  10. #29
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 24

    Ba tuần sau tôi mới bắt đầu rục rịch ra khỏi phòng và đi lại trong nhà. Buổi chiều đầu tiên ngồi dậy được tôi đề nghị Liên đọc truyện cho tôi nghe vì mắt tôi còn kém. Lúc ấy cậu Kha đã về giường nằm còn chúng tôi ở trong phòng sách. Liên nhận lời nhưng có vẻ miễn cưỡng. Nghĩ là loại sách của tôi có thể Liên không thích tôi bảo nàng muốn chọn đọc cuốn sách nào cũng được, tùy ý nàng.

    Liên chọn một trong những cuốn nàng ưa thích và đọc một mạch trong khoảng một tiếng đồng hồ. Sau đó cô hỏi luôn miệng:

    “Vú không mệt à? Có lẽ bây giờ vú nên nằm nghỉ thì hơn. Vú ngồi lâu thế sợ ốm lại đấy, vú Diễn."

    Lần nào tôi cũng trả lời:

    “Không sao đâu cưng. Tôi không mệt đâu mà sợ."

    Thấy không đổi được ý tôi, Liên tìm cách khác để tỏ ý nàng đã chán cái công việc đang làm. Liên hết ngáp rồi vươn vai...

    “Em mệt rồi, vú Diễn à."

    “Liên đừng đọc nữa, mình nói chuyện vậy."

    Nói chuyện thì càng tệ hơn. Liên hết cựa mình, thở dài, lại nhìn đồng hồ. Đến tám giờ thì nàng trở về phòng riêng. Cứ coi cái bộ dạng buồn bực, đờ đẫn, luôn tay đưa lên dụi mắt đủ biết nàng buồn ngủ rã rượi.

    Chiều tối hôm sau, Liên tỏ vẻ sốt ruột hơn nữa. Đến hôm thứ ba thì cô nàng kêu nhức đầu rồi bỏ mặc tôi đi chỗ khác. Sau một thời gian lâu ngồi một mình, ngẫm nghĩ đến cử chỉ hơi khác lạ của Liên, tôi quyết định lên lầu thăm Liên xem nàng đã đỡ chưa và định bụng bảo nàng xuống nằm ở ghế nệm dài dưới này thay vì nằm trên gác tối.

    Tôi tìm khắp trên lầu không thấy Liên đâu, tìm dưới nhà cũng không thấy. Người làm trong nhà cũng không ai thấy Liên đâu cả. Tôi ghé tai nghe ngóng ở cửa phòng cậu Kha. Bên trong im lặng như tờ. Quay trở lại phòng Liên, tôi tắt đèn nến và ngồi ở cửa sổ.

    Đêm xuống trăng sáng vằng vặc. Tuyết phủ lấm tấm trên mặt đất. Tôi chợt nghĩ hay là Liên đang đi dạo ngoài vườn? Lúc đó tôi nhìn thấy một bóng người rón rén đi dọc bên trong hàng rào trại gia súc, nhưng lại không phải là cô bé của tôi. Khi bóng người ló ra ngoài ánh trăng tôi nhận ra đó là anh chăn ngựa.

    Anh ta đứng yên một lúc lâu ngó ra đường cái chạy ngang trại rồi bỗng vọt biến đi như vừa khám phá ra cái gì. Lát sau anh chàng hiện ra, tay giắt con ngựa tơ của Liên. Lại có cả Liên nữa, nàng nhẩy xuống ngựa, đi cạnh anh ta. Anh này lén lút băng qua bãi cỏ để giắt ngựa về chuồng.

    Liên thì trèo qua cửa sổ vào phòng khách, rón rén bước lên lầu, nơi tôi đương ngồi đợi nàng. Liên khẽ đẩy cửa vào, bỏ mũ và cởi đôi giầy còn dính tuyết ra. Nàng không ngờ có người đang ngồi rình. Khi Liên sắp sửa cởi áo choàng thì tôi vụt đứng dậy. Sự việc xẩy ra bất ngờ quá làm Liên kinh hoảng bật kêu lên một tiếng và đứng đờ người ra.

    Tôi vẫn còn cảm động về việc nàng đã săn sóc tôi trong mấy tuần qua nên tôi không thể nặng lời với Liên được. Tôi chỉ nhẹ nhàng hỏi:

    “Giờ này mà cưng còn cỡi ngựa đi đâu vậy? Mà sao cưng lại bịa chuyện nói dối tôi? Cưng đi đâu thế, nói đi?”

    Liên lúng túng đáp:

    “Em... em đi ra cuối trại. Em đâu đặt chuyện nói dối vú."

    “Cô không đi đâu nữa chứ?”

    Liên lí nhí đáp:

    “Không."

    Tôi đau lòng kêu lên:

    “Ồ! Liên! Cô thừa biết làm như vậy là quấy, nếu không thì cô đã chẳng nói dối tôi. Nói dối tôi buồn lắm. Giá tôi có phải đau liệt giường ba tháng nữa tôi còn thích hơn là nghe cô nói dối tôi."

    Liên nhẩy tới bá cổ tôi oà lên khóc:

    “Vú ơi vú! Tại em sợ vú giận. Vú hứa với em là vú không giận đi rồi em sẽ kể sự thật cho vú nghe. Em không giấu vú đâu!”

    Chúng tôi ngồi xuống bên cửa sổ. Tôi cam đoan với Liên dù câu chuyện có thế nào đi nữa tôi cũng sẽ không mắng Liên, vả lại tôi cũng đoán biết chuyện gì rồi - cố nhiên - Liên kể:

    “Em đến Đỉnh Gió Hú, vú Diễn ạ. Từ bữa vú đau, không ngày nào là em không tới, chỉ trừ có ba lần trước ngày vú đi lại được và sau đó hai lần nữa. Em đã cho thằng Mịch sách và tranh ảnh để mỗi buổi chiều nó đóng ngựa cho em và dẫn ngựa về chuồng. Vú đừng có trách mắng gì Mịch nhớ! Em đến Gió Hú vào khoảng sáu rưỡi và thường ở lại đến tám rưỡi thì phóng ngựa về. Em đến đó chẳng phải vì vui thú gì, còn mang khổ nữa là đằng khác. Họa hoằn lắm, may ra tuần một lần, mới có được một ngày vui.

    Mới đầu em thấy khó lòng nói cách nào để vú chịu cho em đi để em khỏi thất hứa với Tôn, vì bữa mình về hôm ấy em đã hứa hôm sau trở lại. Nhưng hôm sau em chuồn đi được vì vú ốm. Buổi trưa lúc Mịch đang thay ổ khóa cửa vườn, em lấy chìa khóa và bảo Mịch là đứa em họ của em đau không thể tới đây được và đang mong đợi em hết sức, mà ba thì không cho phép em đi. Em điều đình với Mịch về con ngựa. Mịch rất mê đọc sách và đương tính xin nghỉ việc để cưới vợ. Nó đề nghị nếu em lấy sách ở thư viện cho nó mượn thì em sai bảo gì nó cũng chịu hết. Nhưng em cho nó mựợn sách của em và như thế nó thích hơn.

    Lần thứ hai đến thăm, Tôn có vẻ linh hoạt hơn. Chị Dị (là chị quản gia bên ấy) lau chùi phòng thật sạch sẽ, đốt lò sưởi thật nóng và cho biết là bác Dọi đã đi dự hội cầu nguyện, Hạ thì dẫn chó đi săn - sau này em mới biết là hắn săn trộm trĩ trong rừng nhà mình - vậy chúng em tùy thích muốn làm gì thì làm. Chị Dị tỏ vẻ ân cần hết sức. Chị ấy đem chút rượu vang hâm nóng và bánh ngọt ra cho chúng em dùng. Tôn ngồi trong ghế bành còn em thì ngồi ghế xích đu trước lò sưởi. Hai đứa cười nói vui lắm. Có bao nhiêu chuyện để nói. Chúng em bàn tính sẽ đi những đâu và làm gì vào mùa hè này. Nhưng em không nhắc lại đâu vì vú nghe lại cho là hão huyền.

    Tuy vậy cũng có một lúc chúng em suýt cãi nhau. Tôn cho rằng mùa hè không gì thích thú bằng nằm thượt trên đồng cỏ từ sáng đến chiều, nghe tiếng ong vo ve, tiếng chim hót, nhìn chim bay và bàu trời trong xanh không gợn chút mây. Đối với Tôn đó là thiên đường, là niềm hạnh phúc lớn nhất ở trên đời. Còn em cho rằng như vậy có gì là thích; em thích ngồi đu đưa trên cành cây, chạy nhẩy trong rừng, bên suối nước, nghĩa là phải sống động mới vui... Em bảo là nếu em ở trong thiên đuờng của Tôn thì em sẽ buồn ngủ rũ ra; còn Tôn nói là sẽ ngộp thở trong thế giới của em và Tôn đâm ra cáu kỉnh. Cuối cùng cả hai đồng ý nếu thời tiết thuận tiện sẽ thử thí nghiệm cả hai cách, rồi hai đứa lại hôn nhau và thân thiện như cũ.

    Sau khi ngồi yên độ nửa giờ em nhìn căn phòng rộng và nghĩ nếu dọn quách cái bàn đi mà chơi thì thú biết mấy. Em bảo Tôn gọi chị Dị vào giúp và cùng chơi trò bịt mắt bắt dê...chị ấy sẽ đuổi bắt bọn em như vú vẫn làm ấy mà... Tôn không chịu, bảo chơi trò ấy chán lắm. Nhưng nó bằng lòng chơi banh. Bọn em tìm thấy hai quả bóng trong tủ chén, giữa một đống đồ chơi cũ. Một quả có đánh dấu chữ L. và một quả chữ T. Em thích quả có chữ L. vì là chữ tắt tên em nhưng Tôn lại không thích quả bóng kia mang tên mình vì quả ấy bị rách.

    Em đánh thắng luôn khiến Tôn đâm ra cáu kỉnh, nó lại ho sù sụ và quay về ghế ngồi. Tuy thế tối hôm đó nó dễ trở lại vui tính. Tôn khoái mấy bài hát... mấy bài của vú ấy mà... Khi em về Tôn năn nỉ em hôm sau trở lại và em nhận lời. Con Minh Nhi chở em phóng như bay về nhà. Suốt đêm đó cho đến sáng em mơ tưởng đến Trại Gió Hú và người em họ đáng yêu của em.

    Hôm sau em buồn ghê. Phần vì vú bị ốm, phần vì em muốn thưa với ba để ba biết chuyện và chấp nhận cho em đi. Nhưng sau bữa trà, trăng lên đẹp và trong khi em cưỡi ngựa đi, nỗi buồn của em dịu dần.

    Nghĩ bụng chắc mình và Tôn sẽ có được một buổi tối vui, em thúc ngựa chạy thật mau. Lúc đến vườn nhà họ, đang định vòng ra đằng sau thì cái thằng ôn con, thằng Hạ ấy, túm lấy dây cương, bảo em vào lối cổng trước. Nó vỗ vỗ vào cổ con Minh Nhi, khen con ngựa tốt, ra điều muốn nói chuyện với em. Em bảo để yên con ngựa đó kẻo nó đá cho đấy.

    Nó trả lời, vẫn cái giọng nhà quê nhà mùa:

    ‘Đá cũng chẳng nhằm nhò gì.’

    Nó cười tủm tỉm xem xét chân cẳng con ngựa. Lúc ấy em chỉ muốn ngựa đá cho nó một cái. Rồi nó bỏ đi để mở cửa. Trong lúc nhấc then, nó nhìn lên mấy chữ khắc trên cổng rồi nói với một vẻ khoái trá:

    ‘Cô Liên! Hôm nay tôi có thể đọc hàng chữ kia được rồi!’

    Em reo lên:

    ‘Hay quá! Giỏi dữ đa! Đọc tôi nghe thử đi!’

    Nó ê a đánh vần tên... YênHạ... Thấy nó tắc tị em khuyến khích nó:

    ‘Còn những con số?’

    ‘Chưa đọc được!’

    Em bật cười nói:

    ‘Chà, sao dốt vậy!’

    Nó nhìn trân trân, môi thoáng một nụ cười nhưng mặt thì cau lại như phân vân không biết mình có nên cười phụ họa hay không. Nó vẫn không hiểu em cười vì thân tình hay vì khinh thị. Sự thực thì em khinh nó đứt đuôi đi rồi còn gì. Rồi em làm mặt nghiêm bảo nó tránh ra chỗ khác vì em đến thăm Tôn chứ không phải thăm nó.

    Thằng Hạ đỏ mặt lên trời sáng trăng nên em thấy rõ - buông tay khỏi then cửa, lùi lũi bỏ đi, hết cả dương dương tự đắc. Chắc cu cậu tưởng mình đánh vần được cái tên nó thì cũng giỏi không thua gì Tôn.”

    Tôi ngắt lời:

    “Thôi. Cô Liên. Cô đừng kể nữa. Tôi không mắng cô đâu nhưng tôi không ưa cái cách cô cư xử với những người bên đó. Cô đối xử với Hạ như vậy là không phải. Nên nhớ Hạ cũng là anh em họ với cô, y như Tôn vậy. Nếu Hạ có ý mong học hỏi để không thua kém Tôn thì đó là điều đáng khen. Mà tôi chắc không phải là Hạ chỉ muốn khoe khoang không thôi đâu. Hôm trước cô đã làm Hạ xấu hổ vì chê nó dốt, tôi chắc lần này nó cố chữa lại để cốt làm vui lòng cô. Mặc dầu học chưa đến đâu nhưng ít ra có cố gắng. Thế mà cô lại coi khinh và chế riễu Hạ thì thật là thiếu giáo dục. Nếu cô cũng được nuôi dậy trong hoàn cảnh y hệt như Hạ chắc gì cô đã hơn nó không? Xưa kia hồi còn nhỏ cậu Hạ cũng lanh lợi thông minh không thua gì cô. Tôi đau lòng lắm thấy bây giờ Hạ bị người ta khinh rẻ chỉ vì bị cái tên Hy đê tiện kia đã đối xử bất công với nó."

    Thấy thái độ của tôi quá nghiêm trang Liên ngạc nhiên kêu lên:

    “Khoan đã vú Diễn? Vú không khóc vì chuyện này đấy chứ? Khoan, đợi em nói xong cái đã, xem có phải nó học đánh vần để vui lòng em không đã, xem nó có đáng để em đối xử lịch sự với nó không đã.

    Em bước vào trong nhà. Tôn đương nằm trên ghế nhỏm dậy để chào em:

    ‘Liên ơi, tôi bị ốm. Tối nay tôi để Liên nói, tôi chỉ nghe thôi. Lại ngồi cạnh đây... Tôi biết thế nào Liên cũng không sai hẹn. Trước khi Liên về tôi sẽ bắt Liên hứa nữa.'

    Biết Tôn ốm, em thấy chả nên trêu trọc nó. Em ngọt ngào với nó, không hỏi nó điều này điều nọ và tránh chọc giận nó bằng đủ mọi cách. Em định đọc cho nó nghe cuốn truyện em mang theo thì Hạ bất chợt mở cửa vào. Nó vào với một dự mưu độc địa. Mặt đầy nộ khí nó xấn tới chỗ chúng em, nắm tay Tôn quăng khỏi ghế, nói lắp bắp không ra lời:

    ‘Mày cút về phòng mày đi. Dẫn cả cái con này đi vì nó đến là để thăm mày. Mày không thể cấm tao ở đây. Cút đi cả hai đứa!’

    Nó chửi thề mấy câu rồi không để Tôn có thì giờ trả lời nó gần như quẳng Tôn vào bếp. Em đi theo Tôn, nó giơ quả đấm nạt em như muốn đánh. Em hoảng sợ để rơi một cuốn sách. Nó đá quyển sách tung theo em rồi đóng sập cửa lại.

    Một tiếng cười độc địa vang lên ở cạnh lò sưởi. Quay lại em thấy lão già đáng ghét, lão Dọi, đang đứng run rẩy, xoa hai bàn tay xương xẩu vào nhau.

    ‘Tôi biết thế nào nó cũng tống cổ hai người ra mà! Đúng là tay gan lì, chả sợ ai! Nó biết rõ như tui ai mới đáng mặt là chủ cái nhà này... Hề, hề, hề!’

    Bỏ ngoài tai lời giễu cợt của lão già khốn kiếp, em hỏi Tôn:

    ‘Mình đi đâu bây giờ?’

    Tôn đứng run như cầy sấy mặt trắng bệch ra. Trông nó hết cả dễ thương, vú Diễn ạ! Ồ, không! Phải nói là trông nó thật dễ sợ. Mặt nó gầy guộc, đôi mắt to của nó co rúm trong một vẻ tức tối tràn hông mà bất lực không làm gì được. Nó nắm quả đấm lay giựt, nhưng cửa đã gài then bên trong. Nó thét lên:

    ‘Mày không để tao vào tao sẽ giết mày! Đồ khốn nạn! Tao giết mày!’

    Lão Dọi lại cười hềnh hệch:

    ‘Đúng là máu ông bố nó! Hạ này! Đừng sợ! Nó không làm gì được mày đâu!’

    Em nắm lấy tay Tôn lôi nó đi chỗ khác, nhưng nó gào thét ghê quá em không dám kéo nữa. Rồi tiếng gào thét bị tắc nghẽn. Nó lên cơn ho dữ dội, máu trong miệng nó ộc ra và nó ngã lăn xuống đất.

    Em hết hồn chạy ra sân gọi chị Dị thật to. Đang vắt sữa bò dưới mái hiên sau nhà kho, chị Dị nghe thấy vội bỏ công việc chạy lên hỏi xem có chuyện gì.

    Không còn hơi sức để trả lời, em chỉ kéo vội chị Dị vào tìm Tôn. Lúc ấy Hạ đã mở cửa. Nó mục kích cái tội ác nó gây nên và bồng thằng bé đáng thương lên lầu. Chị Dị và em theo lên. Nhưng đến đầu cầu thang thì nó chặn em lại, bảo em không được vào và phải đi về. Em la lên là nó đã giết thằng Tôn và bảo nó em nhất định vào. Lão Dọi đóng cửa khoá lại. Lão tuyên bố là em chẳng làm được gì cho thằng Tôn đâu và em cũng điên khùng y như nó vậy.

    Em đứng khóc một thôi một hồi cho đến lúc chị Dị trở ra. Chị ta quả quyết là Tôn sẽ đỡ hơn, nếu em không kêu khóc làm náo động cả lên. Nói rồi chị Dị đỡ em xuống nhà.

    Vú Diễn ơi, em chỉ muốn giựt hết tóc trên đầu! Em khóc muốn mù mắt luôn. Còn thằng Hạ đứng trước mặt em, cái thằng côn đồ mà vú vẫn dành nhiều cảm tình ấy, chốc chốc lại chẩu mỏ lên suỵt một cái bảo em im, nó chối biến bảo không phải lỗi ở nó. Sau cùng, thấy em nói nhất quyết sẽ mách ba và nó sẽ bị tù, bị treo cổ, nó cũng đâm hoảng cũng khóc òa lên, rồi chạy biến ra ngoài che dấu cái mặt hèn nhát của nó.

    Vậy mà em vẫn chưa thoát khỏi tay nó. Lúc em về, mới đi khỏi trại vài trăm thước, em thấy nó trong bóng tối bên đường ló ra, chặn con Minh-Nhi lại, nắm tay em nói:

    ‘Cô Liên, tôi buồn đến ốm người đi... thực là khổ quá...’

    Tưởng nó định giết em, em quất cho nó một roi ngựa… Nó bỏ em ra, buông một câu chửi ghê gớm. Em phóng về nhà, đầu óc rối loạn”

    Tối hôm đó trước khi đi ngủ em không lên chúc vú ngủ ngon như thường lệ. Hôm sau em cũng không đi Đỉnh Gió Hú. Sự thực em muốn đi ghê lắm. Nhưng em bị một khích động kỳ lạ. Em sợ phải nghe tin Tôn chết. Em rùng mình nghĩ đến chuyện phải trạm trán với Hạ.

    Ngày thứ ba em thu hết can đảm lẻn đi lần nữa. Em không thể nào kéo dài mối lo sợ lâu hơn. Em đi lúc năm giờ và đi bộ. Em nghĩ bụng mình có thể trèo vào nhà lên buồng Tôn mà không ai biết. Nhưng không ngờ đàn chó đánh hơi sủa vang lên. Chị Dị ra đón. Chị nói là Tôn đã khá rồi. Chị đưa em vào một căn buồng nhỏ, sạch sẽ, có trải thảm. Thấy Tôn nằm trên chiếc ghế nệm dài đang đọc một cuốn sách của em, em mừng không tả được. Nhưng vú ạ, suốt một tiếng đồng hồ Tôn chẳng buồn ngó ngàng hay nói với em một câu... nó buồn thỉu buồn thiu... cho đến khi nó mở miệng thì... em đớ người ra: Tôn nói láo! Nó bảo là chính em đã gây ra chuyện bữa trước chứ thằng Hạ chả có gì đáng trách cả!.

    Em giận ứ hơi không trả lời, đứng dậy ra khỏi phòng. Nó gọi em một tiếng yếu ớt ‘Liên’ - nó không ngờ em phản ứng bằng cách ấy - nhưng em không thèm ngoái cổ lại. Ngày hôm sau em ở nhà, nhất định không đến thăm nó.

    Nhưng khi đi ngủ hay lúc trở dậy em mới khổ sở làm sao! Em chẳng được tin tức gì của Tôn nên cái ý định gần như quả quyết của em dần dần bị tiêu tan như mây khói. Thoạt đầu em thấy không nên đi, nhưng sau em lại nghĩ không đi là lầm. Thằng Mịch hỏi em có phải đóng ngựa không, em trả lời có. Trong lúc cưỡi con Minh Nhi qua mấy ngọn đồi em tự cho mình đang làm một bổn phận.

    Để đi vào sân bắt buộc phải đi qua cửa sổ ở mặt tiền nên em thấy giấu mặt cũng vô ích. Chị Dị thấy em tiến về phía phòng khách thì bảo:

    ‘Chú Tôn có ở trong phòng kìa.'

    Vào phòng, em thấy có cả Hạ, nhưng nó đi ngay. Tôn ngồi lim dim ngủ trong chiếc ghế bành lớn. Em lại gần lò sưởi, nghiêm giọng nói, cốt ý cho nó thấy là em nói thực chứ không nói giỡn:

    ‘Vì Tôn không thích tôi, cho rằng lần nào tôi đến đây cũng chỉ làm Tôn đau buồn, nên đây là lần gặp gỡ cuối cùng của chúng ta. Chúng mình chào từ biệt nhau và nhờ Tôn nói hộ với ông Hy rằng Tôn đã không muốn gặp tôi, do đó xin ông ấy đừng bịa thêm lời dối trá nào về chuyện này nữa.’

    Tôn nói:

    ‘Liên hãy ngồi xuống và cởi mũ ra đã. Liên được sung sướng hơn tôi nhiều, dĩ nhiên là Liên phải hơn tôi. Ba tôi cứ nói mãi về khuyết điểm của tôi, lại khinh bỉ tôi đủ điều, tất nhiên là tôi phải tự nghi ngờ mình... Tôi thường tự hỏi không biết là tôi có thực là đồ vô dụng như ba tôi nói không. Vì thế mà tôi tức và khổ ghê lắm. Tôi hận tất cả mọi người! Phải rồi, tôi vô dụng, tôi xấu tính, tôi độc ác, gần như luôn luôn là như vậy... Nếu cô muốn thì cô cứ việc chào từ biệt đi. Cô sẽ khỏi phải phiền lụy nữa... Có điều, cô Liên à... cô hãy xét cho công bằng dùm tôi, cô hãy tin rằng nếu tôi có thể ngọt ngào được, tử tế được, tốt bụng được như cô thì tôi sẽ làm ngay. Tôi mong được như thế còn hơn là mong được sung sướng và mạnh khỏe như cô. Và cô nên tin rằng lòng tốt của cô đã khiến tôi yêu cô sâu xa hơn, nếu quả tôi còn xứng đáng với tình yêu của cô. Tôi không thể làm cách nào để cô thấu hiểu được con người tôi. Tôi rất tiếc, rất ân hận về điều này và tôi sẽ còn tiếc hận mãi cho đến khi chết.’

    Em cảm thấy Tôn nói thật lòng. Em cần phải tha thứ cho Tôn! Cho dẫu về sau nếu Tôn có gây chuyện với em nữa thì em cũng sẽ phải tha thứ nữa. Rồi hai đứa em làm lành với nhau và cả hai đều khóc hết buổi hôm ấy cho mãi đến lúc em về. Em khóc không phải hoàn toàn vì buồn đâu. Mà vì thương cho bản chất bất thường của Tôn: Tôn sẽ chẳng bao giờ đem lại sự thoải mái hạnh phúc cho các người thân yêu của mình cũng như cho chính bản thân mình.

    Từ buổi tối hôm đó lần nào em cũng đến cái phòng khách nhỏ ấy, vì hôm sau cha của Tôn về. Tính ra, có lẽ chúng em chỉ được hưởng những ngày vui như buổi ban đầu được có ba lần. Những lần khác thì đều gặp buồn phiền và bị phá rối, khi thì vì Tôn ích kỷ, khó tính, khi thì tại Tôn đau ốm và em phải chịu đựng tính này với tật kia cũng gần như nhau.

    Ông Hy cố tình tránh mặt em. Em hầu như không trông thấy ông. Chủ nhật trước, em đến sớm hơn thường lệ, em nghe thấy ông ấy mắng Tôn như tát nước về thái độ của Tôn chiều hôm trước. Em không hiểu sao ông ấy lại biết chuyện, chắc là nghe trộm. Quả thực là Tôn đã trêu tức em quá sức, nhưng đó là chuyện của em mắc mớ gì đến ổng. Em bèn bước vào cắt ngang lời ông Hy và nói thẳng cho ông ta biết như vậy. Ông ta phá lên cười và bảo ông ta rất mừng thấy em có quan niệm như thế rồi ông ta bỏ đi. Từ hôm đó em nhắc Tôn khi nào có chuyện bực tức nói ra thì nói khẽ thôi.

    Đấy, bây giờ vú đã nghe hết chuyện rồi. Việc ngăn cấm em không được bước chân đến Gió Hú chỉ làm cho hai đứa em đau khổ... Còn nếu vú đừng nói gì hết với ba thì việc em đến đó đâu có gây phiền cho ai. Vú đừng nói nhớ, vú Diễn? Nếu vú mách ba thì thật là vú nhẫn tâm hết sức.”

    Tôi nói:

    “Đợi đến mai hãy hay. Chuyện này cần phải nghĩ kỹ. Thôi tôi để cô đi nghỉ. Tôi sẽ suy nghĩ về chuyện này."

    Tôi đã “suy nghĩ” bằng cách kể hết với cậu Kha. Ở phòng Liên đi ra tôi đến thẳng phòng cậu và thuật lại mọi chuyện, nhưng tôi không đề cập đến Hạ và những chuyện Liên nói với Tôn.

    Cậu Kha hoảng lên và rầu rĩ lắm nhưng không nói ra với tôi. Sáng hôm sau Liên biết là tôi đã phụ lòng tin của nàng, đồng thời nàng cũng ý thức là từ đây những cuộc viếng thăm lén lút của mình sẽ phải chấm dứt.

    Bị cấm đoán, Liên khóc lóc tìm mọi cách để xin xỏ mà không được. Cả đến việc năn nỉ cha hãy đoái thương đến Tôn cũng vô hiệu. Tất cả, nàng chỉ nhận được một lời hứa của cha là ông sẽ viết thư cho phép Tôn đến Họa Mi Trang bất cứ lúc nào nó muốn, nhưng nói rõ đừng có trông chờ Liên đến Đỉnh Gió Hú. Có lẽ nếu ông biết rõ tâm tính và tình trạng sức khỏe của thằng cháu, thì hẳn là ông sẽ thấy ngay cả cái điều an ủi nhỏ nhoi ấy cũng nên cấm tiệt luôn.
    (còn tiếp)

  11. #30
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    (tiếp theo)
    Chương 25

    Bác Diễn kể tiếp: Ông Lộc ạ, tất cả những chuyện tôi vừa kể xẩy ra chỉ cách đây mới hơn một năm, vào mùa đông năm ngoái. Hồi đó tôi đâu có nghĩ rằng mười hai tháng sau tôi có dịp kể những chuyện đó cho một người xa lạ nghe để tiêu khiển! Nhưng ông Lộc ạ, đố ai mà biết được ông sẽ xa lạ trong bao lâu? Ông còn quá trẻ để chịu sống trong cảnh đơn chiếc và tôi thì lại có ý nghĩ rằng khó ai gặp Liên mà không yêu Liên. Ông cười ư? Thế tại sao nghe tôi kể chuyện Liên, ông có vẻ quan tâm một cái thích thú như thế? Tại sao ông lại đòi tôi treo ảnh Liên trên lò sưởi phòng ông? Và tại sao...

    Tôi kêu lên:

    “Thôi, thôi, tôi xin bác! Rất có thể là tôi yêu Liên, nhưng liệu nàng có yêu tôi không?” Tôi ngờ quá. Lòng tôi đương thanh thản nên tôi chẳng dám liều hy sinh để mạo hiểm đi vào con đường cám dỗ ấy. Vả lại tôi không nhà không cửa ở đây. Tôi là người của thế giới nhộn nhịp, tôi phải về sống ở đấy. Thôi xin bác kể tiếp đi...Rồi sau Liên có nghe lời cha không?”

    Bác quản gia đáp:

    “Thưa có. Tình yêu quý cha của nàng vẫn chiếm chỗ quan trọng nhất trong tình cảm Liên. Cậu Kha ôn tồn nói với con gái không một chút giận dữ. Cậu nói với tất cả lòng âu yếm sâu xa thắm thiết của một kẻ sắp sửa phải bỏ lại người yêu quý nhất đời mình giữa muôn ngàn nguy khốn, giữa bầy kẻ thù tàn ác mà chỉ còn lưu lại những lời nói để hỗ trợ và hướng dẫn Liên mà thôi."

    Mấy hôm sau cậu Kha nói với tôi:

    “Tôi mong thằng cháu tôi sẽ viết thư hay tới thăm. Vú Diễn, vú cứ thực tình nói cho tôi biết vú nghĩ sao về nó... Liệu nó có khá hơn hoặc hy vọng khi lớn lên sẽ khá hơn không?"

    “Thưa cậu, chú ấy ốm yếu và xem chừng khó có thể sống tới khi trưởng thành. Nhưng có điều này tôi có thể nói ngay là chú ấy không giống bố. Nếu chẳng may mà cô Liên lấy chú ấy thì chắc chú ấy sẽ ở dưới quyền cô Liên... trừ khi Liên lại nhu ngược một cách thái quá. Vả lại, cậu có khối thì giờ để tìm hiểu Tôn rõ hơn, coi xem chú ấy có xứng với cô nhà không... vì còn những bốn năm hay hơn thế nữa chú ấy mới đến tuổi trưởng thành."

    Kha thở dài, và bước tới cửa sổ nhìn ra nghĩa trang Diên-Mễ-Tôn. Đó là một buổi chiều mù sương, nhưng mặt trời tháng hai chiếu mờ mờ vừa đủ cho chúng tôi thấy hai cây thông ngoài sân và dăm ba tấm mộ bia lác đác.

    Kha gần như nói một mình:

    “Ồ, mình vẫn thường cầu nguyện cho những việc sắp xẩy ra hãy xẩy ra sớm đi, thế mà bây giờ mình lại đâm ra ngần ngại lo sợ. Mình cứ ngỡ là cái kỷ niệm lúc mình đóng vai chú rể đi xuôi cái thung lũng hẹp kia sẽ không thể nào êm đềm cho bằng cái viễn cảnh là chẳng bao lâu nữa, trong dăm ba tháng hay có thể dăm ba tuần nữa không chừng mình sẽ được người ta khiêng đi đặt nằm trong cái lòng đất hiu quạnh ấy. Vú Diễn à, tôi đã sống rất sung sướng với con bé Liên. Suốt những đêm đông ngày hạ nó ở bên tôi như một nguồn hy vọng sống... nhưng tôi cũng thấy sung sướng không kém khi ngồi trầm ngâm giữa những tấm mộ bia bên dưới ngôi nhà thờ cổ kính kia, hay nằm bên nấm mộ xanh rì của mẹ nó và mong chờ, ao ước cái lúc tôi được vĩnh viễn nằm luôn ở đó. Tôi có thể làm được gì cho Liên? Tôi phải chia tay với nó như thế nào? Tôi sẽ chẳng bao giờ bận tâm đến chuyện Tôn là con của Hy hay là chuyện nó cướp mất con gái tôi hay là chuyện Hy đạt mục tiêu đoạt mất niềm hạnh phúc cuối cùng của tôi là Liên, nếu quả như Tôn có thể làm Liên khuây khỏa về cái chết của tôi. Nhưng nếu Tôn là một đứa không xứng đáng, nếu Tôn chỉ là một công cụ trong tay cha nó, thì tôi không thể giao phó con gái tôi cho nó được! Cho dẫu có khó khăn cách mấy đi nữa, cho dẫu có làm nó đau buồn khổ sở khi tôi còn sống và bỏ nó lẻ loi khi tôi chết đi, tôi cũng phải kiên nhẫn tìm mọi cách để dẹp cái tính nhẹ dạ nông nổi của Liên. Tội nghiệp con tôi! Thà phó thác nó cho Trời và để nó chết trước tôi còn hơn!"

    Tôi cất tiếng:

    “Dẫu sao thì cứ phó thác cô ấy cho Trời. Và, thưa cậu, nói dại nếu cậu mất đi - biết đâu Trời chả thương không để chúng tôi phải mất cậu - và nếu Trời thương run rủi, tôi nguyện sẽ là người bạn dìu dắt cô ấy cho đến mãn đời. Liên là một cô gái ngoan, tôi không sợ cô ấy dễ dàng đi vào con đuờng xấu và con người ta nếu đã làm tròn bổn phận thì luôn luôn được ơn trên biệt đãi."

    Trời đã gần sang xuân rồi mà cậu Kha vẫn chưa hoàn toàn lại sức, mặc dù cậu đã bắt đầu dạo bộ trong trại với con gái như trước. Vì thiếu kinh nghiệm, cô bé tưởng đó là dấu hiệu cha cô đã hết bệnh. Thấy má cha thường đỏ ửng và đôi mắt long lanh, cô càng tin ông đã bình phục.

    Hôm kỷ niệm lần thứ mười bẩy ngày sinh nhật Liên, vì trời mưa cậu tôi không thể đi thăm mộ được. Tôi nói:

    “Thưa cậu, chắc chiều nay cậu không đi đâu?”

    Cậu Kha đáp:

    “Không. Năm nay tôi hoãn lại ít ngày."

    Cậu chủ tôi viết thư gửi cho Tôn, tỏ ý rất mong được gặp nó. Tôi chắc bố nó cho phép nó đi nếu thằng bé bệnh hoạn ấy đủ sức đi một mình. Tuy nhiên nó được người ta gà cho viết trả lời rằng ông Hy không muốn nó đến chơi Họa Mi Trang, rằng nó rất cảm động về lòng tốt của ông bác đã nhớ đến nó, rằng nó hy vọng thỉnh thoảng được gặp ông trong những dịp nó đi chơi và khẩn khoản ông đừng để Liên và nó phải xa cách quá lâu.

    Phần sau này của bức thư lời lẽ giản dị, chắc là của nó viết. Hy biết nó dư sức viết một cách đầy thuyết phục về mối giao tình của nó với Liên.

    “Cháu không xin phép bác cho phép Liên đến đây thăm cháu. Nhưng chẳng lẽ không bao giờ cháu còn được gặp Liên nữa hay sao, khi mà ba cháu cấm cháu đến nhà Liên và bác thì cấm Liên đến nhà cháu? Cháu chỉ xin bác thỉnh thoảng cưỡi ngựa đưa Liên về phía Trại Gió Hú và cho chúng cháu trao đổi dăm ba lời trước mặt bác! Chúng cháu có làm gì nên tội mà bị chia rẽ nhau? Bác không giận cháu - bác không có lý do gì để ghét bỏ cháu - bác đã tự nhận như thế. Vậy thưa bác yêu quý của cháu, xin bác vui lòng ngày mai gửi cho cháu mấy chữ cho phép cháu được gặp bác ở bất cứ nơi nào tùy bác chọn, ngoại trừ ở Họa Mi Trang. Cháu tin rằng gặp cháu, bác sẽ thấy rõ tính nết cháu không giống tính nết ba cháu. Chính ba cháu vẫn quả quyết cháu là cháu của bác hơn là con của ba cháu. Tuy cháu có những thói hư tật xấu khiến cháu không xứng đáng với Liên nhưng Liên đã tha thứ rồi, vậy bác cũng vì Liên mà tha thứ cho cháu. Bác có hỏi thăm sức khỏe cháu, xin thưa: cháu đã khá hơn. Nhưng chừng nào mà cháu bị cắt hết mọi hy vọng và bị đầy ải trong cảnh cô đơn giữa đám người trước cũng như sau này chẳng bao giờ yêu thương cháu, thì thử hỏi làm sao mà cháu vui vẻ khỏe mạnh cho được.”

    Cậu Kha tuy thương cháu nhưng không thể thỏa mãn lời yêu cầu của Tôn vì chính cậu, cậu không thể đi theo Liên được. Cậu trả lời Tôn, hẹn đến mùa hè hai đứa có thể gặp nhau. Trong lúc chờ đợi cậu mong Tôn thỉnh thoảng viết thư cho cậu và hứa sẽ cố gắng viết thư lại để an ủi và khuyên bảo Tôn vì cậu hiểu địa vị khó khăn của nó ở trong gia đình.

    Tôn tuân theo lời Kha. Nếu nó không bị kiềm chế nó đã viết những lời than vãn làm hư hết mọi việc; nhưng cha nó đã canh chừng nó rất kỹ, cố nhiên là bắt nó phải đưa xem tất cả thư từ cậu tôi viết cho nó. Vì vậy thay vì kể lể những nỗi niềm riêng tư mà luôn luôn nó phải nghĩ đến, thì nó chỉ lải nhải mãi cái việc bị chia rẽ một cách oan ức với người bạn vừa là người yêu của nó. Nó cũng nhẹ nhàng lựa lời nói bóng gió rằng cậu Kha phải sớm cho nó gặp mặt, nếu không nó e rằng cậu Kha đã cố tình hứa suông để đánh lừa nó.

    Liên là một đồng minh đắc lực của Tôn. Chỉ có hai đứa thôi mà cuối cùng chúng đã thuyết phục được cậu tôi chấp thuận cho chúng cỡi ngựa hay đi bộ dạo chơi với nhau mỗi tuần một lần ở trên cánh đồng gần Họa Mi Trang nhất - có tôi đi theo giám sát - vì đã qua tháng sáu rồi mà cậu tôi vẫn còn yếu. Tuy cậu tôi hàng năm vẫn để dành một phần lợi tức làm vốn cho con gái, nhưng tự nhiên là cậu vẫn mong muốn sau này Liên có thể giữ được hoặc ít ra là sớm trở về ở tại ngôi nhà của tổ tiên cô. Cậu tôi thấy chỉ có một cách là gả cô cho người thừa kế ngôi nhà ấy. Nhưng cậu không ngờ Tôn lại cũng suy nhược mau chóng y như cậu. Mà tôi chắc là chẳng có ai lại có thể ngờ được chuyện này. Đâu có một y sĩ nào được mời đến Gió Hú và cũng chẳng có ai gặp ông Hy để nói lại cho chúng tôi biết về tình trạng sức khỏe của nó.

    Phần tôi, tôi đã bắt đầu ngờ rằng những tiên đoán của mình là sai và nghĩ là Tôn phải khỏe mạnh vì thư nào nó cũng kể những cuộc đi bộ hay cưỡi ngựa chơi trên cánh đồng hoang và tỏ ra hết sức hăng hái theo đuổi mục tiêu của nó.

    Thật là ngoài sức tưởng tượng của tôi. Tôi không thể nào tưởng tượng nổi một người cha lại có thể hành xử với một người con sắp chết của mình một cách tàn nhẫn và độc địa như Hy. Sau này tôi mới được biết hắn đã ép Tôn làm ra bộ sốt sắng hăng hái như thế và khi thấy cái chết của thằng bé có thể là làm hỏng những tính toán thâm độc của mình, hắn lại càng ra sức hành hạ thằng bé hơn.
    Chương 26

    Những ngày đầu mùa hạ đã trôi qua từ lâu, Kha mới miễn cưỡng chấp thuận lời khẩn nài của hai đứa trẻ và lần đầu tiên Liên và tôi cỡi ngựa đi gặp Tôn. Đó là một ngày tuy không có nắng nhưng trời oi bức ngột ngạt. Bầu trời vẩn mây và đầy sương mù, nhưng không thể có mưa. Chỗ hẹn của chúng tôi được định trước là ở cột chỉ đường đầu ngã ba, nhưng khi chúng tôi đến nơi thì chỉ thấy một thằng bé chăn bò đưa tin. Nó nói:

    “Chú Tôn đang đợi phía bên này trại, hai người chịu phiền đi xa thêm một quãng..."

    Tôi bảo:

    “Chưa chi mà chú Tôn đã sai lời căn dặn của ông bác rồi. Ông ấy cấm chúng mình ra khỏi địa phận Họa Mi Trang cơ mà."

    Liên đáp:

    “Không sao! Gặp Tôn rồi mình cho ngựa quay đầu lại ngay, thế là mình vẫn đi chơi về phía nhà mình."

    Thế nhưng đến lúc gặp Tôn chúng tôi chỉ cách Đỉnh Gió-Hú độ ba bốn trăm thước. Vì Tôn không đi ngựa nên chúng tôi đành phải xuống ngựa và thả cho nó ăn cỏ.

    Tôn nằm dài trên bờ cỏ đợi chúng tôi lại gần, và mãi đến lúc chúng tôi còn cách mấy bước nó mới chịu đứng dậy. Nó đứng không vững, nước da xanh mét đến nỗi tôi phải kêu lên:

    “Kìa chú Tôn, chú thế kia thì làm sao đi chơi sáng nay được. Trông chú ốm yếu quá!”

    Liên kinh ngạc buồn bã nhìn Tôn. Tiếng reo vui sắp thốt ra cửa miệng Liên biến thành tiếng la hoảng. Những lời chào mừng dành cho cuộc gặp gỡ mong đợi từ lâu mà cứ bị trì hoãn, nay đổi thành những câu thăm hỏi lo lắng về sức khỏe Tôn, xem có phải Tôn đau nặng hơn trước không?”

    Tôn thở hổn hển đáp:

    “Không... Khá hơn... Khá hơn!”

    Tôn run rẩy nắm lấy tay Liên như để đứng cho vững. Đôi mắt xanh to của Tôn rụt rè nhìn cô gái, quầng trũng sâu quanh mắt biến cái vẻ uể oải trước kia thành vẻ hốc hác man dại.

    Cô chị họ nhất mực kêu lên:

    “Nhưng trông Tôn tệ hơn trước, hơn lần sau cùng tôi gặp... Tôn gầy hơn, và..."

    Tôn vội ngắt lời:

    “Tôi mệt. Nóng quá không đi bộ được. Mình ngồi xuống đây nghỉ đã. Buổi sáng tôi hay bị ốm... Ba bảo tại tôi lớn mau quá."

    Liên miễn cưỡng ngồi xuống, Tôn ngồi tựa bên. Nàng cố làm ra vui vẻ, nói:

    “Chỗ này gần giống thiên đường của Tôn đấy nhá! Tôn còn nhớ hồi trước tụi mình đồng ý sẽ ở hai ngày tại nơi nào mình thích nhất và tìm cách nào tiêu khiển thú vị nhất không? Ở đây cũng gần gần giống nơi Tôn thích nhất, chỉ phải cái hôm nay có mây che. Nhưng mây dịu êm thế kia còn đẹp hơn cả nắng. Nếu Tôn không mệt tuần sau mình sẽ đi ngựa xuống vườn trại Họa Mi Trang để xem cái thiên đuờng của Liên."

    Tôn có vẻ như không nhớ tí gì về câu chuyện Liên nói. Hiển nhiên là nó phải chịu đựng một cách cực nhọc bất cứ câu chuyện gì trong lúc này. Liên không giấu nổi vẻ thất vọng vì rõ ràng là Tôn không thiết nghe, không góp chuyện, cũng không đủ sức làm gì cho Liên vui. Con người và thái độ của Tôn thay đổi một cách khó tả. Cái thói hay hờn của Tôn mà trước đây nếu khéo vuốt ve có thể chuyển thành trìu mến thì nay biến thành thờ ơ lãnh đạm. Nó bớt đi cái tính hờn dỗi của một đứa bé hay quấy để được dỗ dành, nhưng lại tăng cái vẻ u buồn của một đứa bệnh hoạn lâu năm, đã không chịu để người ta an ủi mà lại xem cái vui của người khác là điều xỉ nhục cho mình.

    Liên cũng nhận thấy như tôi rằng Tôn xem việc gặp gỡ là một cực hình hơn là một ơn huệ nên nàng không ngần ngại đòi về ngay. Như chợt tỉnh cơn mê, Tôn bỗng bối rối một cách lạ lùng, đưa mắt sợ sệt nhìn về phía Gió Hú và năn nỉ Liên hãy nán ở lại ít nhất là nửa giờ nữa.

    Liên đáp:

    “Kìa, tôi tưởng là Tôn ở nhà dễ chịu hơn là ngồi đây chứ. Vả lại hôm nay tôi thấy mình không thể giúp vui Tôn bằng cách kể chuyện, hát hay tán gẫu được. Trong sáu tháng qua Tôn đã khôn lớn hơn tôi nhiều, Tôn không còn khoái mấy trò tiêu khiển của tôi nữa. Nếu tôi có thể làm gì cho Tôn vui tôi sẽ làm ngay."

    “Liên hãy ở lại đây nghỉ ngơi một lát. Và đừng nghĩ cũng như đừng nói là tôi rất ốm yếu... Ấy tại thời tiết nặng nề oi bức quá làm tôi đâm uể oải đó thôi. Trước khi Liên tới tôi đã đi bộ loanh quanh mãi... đối với tôi đi thế là quá nhiều. Liên về nói với bác là sức khoẻ tôi cũng kha khá nhé."

    Ngạc nhiên vì thấy Tôn cứ nhất định nói một điều rõ ràng là sai sự thực, Liên đáp:

    “Tôi sẽ bảo ba là Tôn nói như vậy. Tôi không thể nói quyết là Tôn khỏe mạnh được."

    Tôn tránh cái nhìn xoi mói của Liên, nói tiếp:

    “Thứ năm tới Liên lại đây nhớ. Cho tôi gửi lời cám ơn bác cho phép Liên tới đây...tôi cám ơn hết sức... Và... và, nếu Liên có gặp ba tôi hỏi gì về tôi thì Liên nói kheo khéo cho, làm sao cho ba tôi khỏi nghi ngờ là tôi đã ngu xuẩn quá, chẳng nói được đến một câu... và cũng đừng lộ mặt rầu rĩ thất vọng như bây giờ nhớ...nếu không ba tôi sẽ giận lắm đấy."

    Tưởng mình là đầu mối để cho cha Tôn giận, Liên kêu lên:

    “Ông ấy giận thì kệ ông ấy, mắc mớ gì đến tôi!”

    Tôn sợ hãi nói:

    “Nhưng tôi sợ ba giận lắm! Liên đừng có chọc ông ấy giận tôi, ổng dữ lắm!”

    Tôi xen vào:

    “Vậy ra ông ấy dữ với Tôn thế kia à? Ông ấy đã chán chiều chuộng chú và không còn che giấu lòng căm ghét chú rồi à?”

    Tôn chỉ nhìn tôi, không đáp. Chúng tôi ngồi thêm với nó mười phút. Trong khoảng thời gian ấy Tôn ngồi gục đầu xuống ngực, không nói một lời, ngoài tiếng rên rỉ mệt nhọc và đau đớn mà nó cố nén không được. Lên ngồi buồn kiếm mấy quả quất dại chia cho tôi ăn nhưng không mời Tôn vì biết rằng có để ý đến nó cũng chỉ tổ làm nó khó chịu thêm.

    Sau cùng Liên ghé tai tôi nói:

    “Dễ cũng tới nửa tiếng rồi đấy, vú Diễn? Em thấy mình chả có lý do gì ở lại đây. Tôn thì ngủ gục còn ba thì mong mình về."

    Tôi đáp:

    “Vâng. Nhưng mình không nên bỏ chú ấy ngủ ở đây. Ráng chờ chú ấy thức dậy đã. Mà sao lạ, lúc đi thì cô nóng lòng gặp nó thế, bây giờ lại chán đòi về?”

    “Nhưng tại sao Tôn lại cứ muốn gặp em? Hồi trước, ngay những lúc Tôn giận dỗi cáu kỉnh nhất, em còn thấy thích nó hơn là lúc này. Em có cảm tưởng là Tôn bị ép phải gặp em, nếu không sẽ bị cha nó mắng. Nhưng đừng hòng em sẽ làm theo ý thích của ông Hy, bất kể là ông ấy có lý do gì để cưỡng ép Tôn phải chịu cái cực hình này. Và em tuy mừng là thấy sức khoẻ Tôn khá hơn, em lại buồn thấy nó không còn dễ thương như trước nữa."

    “Thế cô cho là chú ấy khoẻ mạnh hơn trước à?”

    “Vâng. U biết đấy, tính nó bao giờ cũng quan trọng hóa ghê gớm nỗi đau đớn của mình. Hôm nay tuy nó không “khá khá” như nó bảo em về nói với ba, nhưng xem ra nó có vẻ đỡ hơn thật."

    “Thế thì cô khác ý tôi rồi, cô Liên ạ. Tôi thấy chú ấy yếu hơn thì có."

    Đến đây, Tôn chợt giật mình thức dậy, hốt hoảng hỏi xem có ai vừa gọi tên mình không. Liên đáp:

    “Không có ai cả. Chắc là trong giấc mơ. Tôi không hiểu nổi vì sao mới sáng ra mà Tôn đã ngủ gà ngủ gật ở ngoài trời như thế?”

    Tôn đưa mắt nhìn mô đất gần đấy, vừa thở vừa nói:

    “Tôi ngỡ ba tôi gọi. Mà Liên có chắc là không có ai gọi tôi chứ?”

    “Chắc mà. Chỉ có vú Diễn và tôi đang bàn về sức khoẻ Tôn. Có thật là Tôn khoẻ hơn là hồi mình gặp nhau mùa đông năm rồi không? Nếu đúng thế thì chắc là... lòng Tôn với tôi không như trước... Nói thật đi, có thật Tôn khoẻ hơn trước không?”

    Nước mắt ứa ra, Tôn đáp:

    “Thật mà! Khỏe hơn thật mà!”

    Rồi, như vẫn còn bị ám ảnh bởi một tiếng gọi vô hình, Tôn đưa mắt nhìn ngược nhìn xuôi xem có ai quanh quẩn ở đấy không. Liên đứng dậy, nói:

    “Hôm nay thế là đủ rồi. Chúng mình phải chia tay. Chẳng nói dấu gì Tôn, cuộc gặp này làm tôi thất vọng. Tôi chỉ nói cho Tôn biết thế thôi chứ tôi không nói với ai đâu. Không phải tôi sợ ông Hy đâu."

    Tôn nói khẽ:

    “Ấy đừng! Ba tôi đến kia kìa!”

    Rồi nó đeo lấy cánh tay Liên cố giữ nàng lại. Nhưng nghe nó nói thế, Liên vội gỡ tay ra, huýt sáo gọi Minh Nhi. Con ngựa ngoan ngoãn tiến lại gần chủ.

    Vừa nhẩy lên mình ngựa, Liên đã thúc tôi chạy mau và la lớn:

    “Thứ năm sau tôi trở lại đây!”

    Thế là chúng tôi bỏ mặc Tôn đấy. Nó vì còn mải nghĩ tới chuyện cha nó sắp tới nên chưa kịp nhận thấy chúng tôi đi mất.
    Trước khi về tới nhà, nỗi bực bội của Liên dịu xuống, nhường chỗ cho một nỗi bâng khuâng nửa thương nửa tiếc và hoang mang không biết hiện trạng sức khỏe và tinh thần Tôn ra sao. Tôi chia sẻ với Liên nỗi lòng ấy, nhưng tôi bảo nàng đừng bàn thêm chuyện này và đợi lần sau gặp lại mới có thể nhận xét đúng hơn.

    Cậu Kha bắt thuật lại chuyện cho cậu nghe. Liên nhắc lại đúng những lời Tôn cám ơn cậu ấy nhưng những điều khác thì chỉ nói phớt qua. Tôi cũng trả lời để cậu rõ hơn một chút vì tôi chẳng biết nên nói cái gì, giấu cái gì.

    Chương 27

    Bảy ngày trôi qua; mỗi ngày đánh dấu bằng một trận đau khiến sức khỏe của Kha sút giảm rất mau chóng. Một cơn đau ngắn ngủi trong mấy tiếng đồng hồ tàn phá sức khỏe của Kha tai hại bằng một trận ốm lâu mấy tháng hồi trước. Chúng tôi định giấu không cho Liên biết sự thực nhưng không giấu nổi vì Liên rất nhậy cảm. Nàng ngầm đoán một chuyện khủng khiếp có thể xẩy ra và dần dà, điều ước đoán của nàng trở thành sự thực.

    Liên lo âu hết sức, đến nỗi thứ năm tới rồi mà nàng không còn bụng dạ nào nghĩ đến chuyện đi ngựa chơi nữa. Tôi phải nhắc hộ Liên. Tôi cũng được lệnh bắt cô phải ra khỏi nhà. Cậu Kha chỉ ghé qua phòng sách một chốc lát thôi chứ không đủ sức ngồi lâu thành thử phòng sách và phòng ngủ của cậu đã trở thành thế giới của Liên. Vì mải lo săn sóc cha và vì buồn phiền nên nàng trông xanh xao khiến cậu tôi phải xua nàng đi chơi, mong rằng không khí và khung cảnh thay đổi sẽ làm nàng vui lên. Cậu Kha cũng được an tâm hơn với niềm hy vọng sau khi mình qua đời, con gái mình không đến nỗi phải hoàn toàn cô đơn.

    Cậu Kha có một định kiến. Nhiều lần cậu để lộ ra và tôi đoán biết. Cậu cho rằng thằng cháu đã giống vóc dáng cậu, tất nhiên nó cũng phải giống cậu về tinh thần, vì trong thư Tôn không để lộ ra hoặc lộ ra rất ít những tính xấu của nó. Còn tôi, vì cả nể tôi không nói ra là cậu sai lầm. Tôi tự nhủ là cái tội của tôi có thể tha thứ được vì có nói ra cũng không ích lợi gì mà chỉ làm cậu buồn thêm trong những ngày cuối cùng của đời cậu. Vả chăng, cậu không có khả năng cũng như không có cơ hội để cải thiện tình trạng.

    Chúng tôi hoãn cuộc đi chơi đến chiều, một buổi chiều tháng tám vàng rực. Mỗi cơn gió từ các quả đồi thổi đến đều đem lại một luồng sinh khí tưởng như bất kỳ ai hít thở nó thì dù có sắp chết cũng có thể sống lại được.

    Gương mặt Liên thay đổi chẳng khác nào khung cảnh xung quanh, hết bóng dâm lại tới ánh nắng lướt trên mặt nàng, nhưng bóng tối lưu lại lâu hơn còn ánh nắng thì chỉ thoảng qua. Nàng thỉnh thoảng tự trách mình đã lơ đễnh để quên đi những âu lo trong lòng.

    Tôn đứng đợi chỗ nó đã chọn lần trước. Liên định bụng chỉ ở lại giây lát thôi nên nàng bảo tôi cứ ngồi yên trên ngựa và giữ con Minh Nhi không cho nó chạy rông. Nhưng tôi không chịu. Tôi được giao phó trông nom Liên nên không dám liều lĩnh xa nàng lấy một phút. Cả hai chúng tôi trèo dốc đi lên.

    Tôn đón chúng tôi sốt sắng hơn lần trước. Nhưng không phải cái sốt sắng vì phấn khởi hay vui mừng mà có vẻ do sợ hãi thì đúng hơn. Với giọng đứt quãng và khó nhọc, Tôn nói:

    “Liên đến muộn quá! Bác đau nặng phải không? Tôi tưởng Liên không đến."

    Liên không chào hỏi gì cả, nói ngay:

    “Sao Tôn không thành thật với tôi? Sao Tôn không nói thẳng là Tôn không cần gặp tôi nữa có phải hơn không? Thật lạ quá, đây là lần thứ hai Tôn hẹn tôi đến đây chỉ cốt gây buồn phiền cho cả hai đứa mà chả có lý do gì cả."

    Tôn run lên nhìn Liên lộ vẻ vừa cầu khẩn vừa xấu hổ, nhưng cô chị họ không đủ kiên nhẫn để chịu đựng cái thái độ mập mờ bí ẩn ấy. Nàng nói:

    “Ba tôi đau nặng lắm. Vì hẹn Tôn mà tôi không săn sóc ba tôi được. Nếu không thích gặp tôi sao không gửi tôi vài chữ bảo tôi khỏi cần giữ lời hứa? Nào, hãy giải thích đi! Tôi không còn tâm trí đâu nữa để đùa bỡn, cũng không có thì giờ đâu để xem trò kịch cỡm của Tôn."

    Tôn lắp bắp:

    “Trò kịch cỡm? Trò gì đâu? Thôi, xin Liên đừng cáu! Liên có khinh tôi thế nào tôi cũng chịu. Vì tôi là đứa khốn nạn, hèn nhát, đáng khinh...không đáng để Liên phải giận. Liên có oán thì oán ba tôi ấy, đừng oán giận tôi."

    Liên kêu lên giận dữ:

    “Vô lý! Đồ điên! Vú trông kìa! Nó run lên làm như tôi sắp đụng đến người nó. Này, khỏi phải cầu ai khinh, cữ ấy thì ai cũng khinh hết! Thôi cút đi cho rảnh mắt! Tôi về đây... Thật là điên mới kéo mi ra khỏi cái lò sưởi. Lại còn giả vờ giả vịt nữa chứ... Buông áo tôi ra.. Đáng lý lúc ta thương hại mi vì thấy mi khóc lóc sợ hãi thế kia mi phải cự lại mới phải chứ? Vú Diễn này, hãy vạch cho nó biết tư cách xấu xa của nó... Đứng lên! Đừng có hạ mình bò càng ra như thế, coi không được. Nghe chưa?”

    Nét mặt đau khổ lẫn kinh hoảng, nước mắt đầm đìa, Tôn mềm người nằm rũ ra đất. Nó quằn quại nức nở:

    “Trời ơi! Thế này làm sao tôi chịu nổi! Liên ơi, tôi còn là một thằng phản bội nữa nhưng tôi không dám nói đâu! Nếu Liên bỏ tôi người ta sẽ giết tôi! Sinh mạng tôi ở trong tay Liên... Liên bảo Liên yêu tôi... Liên yêu quý, đừng bỏ về vội... Chúng mình sẽ cùng chết với nhau... Liên chịu rồi phải không?”

    Liên cúi xuống nâng Tôn dậy. Lòng mềm yếu của Liên đã thắng cơn giận của nàng. Liên xúc động và kinh hãi nói:

    “Chịu cái gì? Ở lại à? Nói rõ đi thì tôi sẽ ở lại. Tôn nói cái gì mà khó hiểu quá làm tôi điên cái đầu lên đây này. Bình tĩnh đi! Và Tôn phải thành thực, có gì chất chứa trong lòng cứ nói ra hết đi. Tôn không muốn hại tôi, phải không? Tôn không muốn ai hại tôi, phải không? Tôi tin rằng Tôn có thể lo sợ cho bản thân mình, những Tôn không hèn nhát đến độ phản bội người bạn thân nhất của mình."

    Tôn đan những ngón tay gầy guộc vào nhau, hổn hển đáp:

    “Ba tôi đe dọa tôi... tôi sợ lắm... Tôi khiếp ba tôi lắm... Tôi không dám nói đâu!”

    Vẻ thương hại lẫn khinh bỉ, Liên nói:

    “À được. Cứ việc giữ bí mật đi. Ráng mà lo lấy thân. Còn tôi, tôi không phải là thứ chết nhát! Tôi không sợ."
    (còn tiếp)

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nắng Thu - Nhất Linh
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 03-18-2016, 09:43 PM
  2. Jane Eyre - Truyện dài của Charlotte Bronte
    By khieman in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 10
    Bài Viết Cuối: 01-09-2014, 05:55 AM
  3. Đồi Gió Hú
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-18-2013, 12:03 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-13-2013, 12:30 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •