Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tình yêu và hạnh phúc là hình với bóng, nếu biết bảo vê. thì hạnh phúc sẽ thành sự thậtt, ngược lại nêu không biết bảo vê. thì hạnh phúc chỉ là một hình ảnh ảo tưởng không bao giờ có thật
Pascal
Results 1 to 3 of 3

Chủ Đề: Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường và Tác Giả

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết

    Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường và Tác Giả

    .

    Khóc Cười Theo Mệnh Nước Nổi Trôi, Nước ơi:
    Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường và Tác Giả
    Chân Phương

    August 17, 20130
    “Cảm ơn Tú,
    Còn một chuyện nhỏ hơn nhưng cũng đã gây bàn tán: Khi nào Tú có thời giờ thì giải thích luôn cho độc giả về bài thơ đó; Xé gan, bẻ CỘT hay là bẻ CẬT. Những người ngâm thơ: có người ngâm là bẻ CẬT để đối với GAN, có người ngâm là bẻ CỘT, để đi với động từ, chữ BẺ… ” (GS Dương Như Nguyện)

    Một lần nữa xin được cảm ơn sự ủng hộ và khuyến khích của GS. Dương Như Nguyện, TS. Trần Gia Thái, và LS. Chủ Nhiệm Lưu Nguyễn Đạt. Đó là những người đã động viên, giúp chúng tôi cố gắng tiếp tục phân tích, và giải thích về “Hồ Trường – Nam Phương Ca Khúc” theo ý kiến đơn sơ và phiến diện của mình:

    A. Văn bản: Nguyên tác Hán văn, Phiên âm, lời dịch nghĩa, và lời ca của Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường.

    Để tiện cho việc phân tích và giải thích về bài thơ/lời ca “Hồ Trường – Nam Phương Ca Khúc”, chúng tôi sắp xếp các câu của lời thơ/ca được đánh số thứ tự từ câu số 1 cho đến câu số 11 của mỗi bài: nguyên tác Hán văn, bản phiên âm Hán-Việt, bản dịch nghĩa (do Chân Phương dịch và giải thích), và bản lời ca của cụ Nguyễn Bá Trác được đăng trong Nam Phong Tạp Chí, dưới tiêu đề “Hạn Mạn Du Ký – HMDK” số 41, trang 400-401.

    丈夫生不能披肝折檻,爲世扶綱常。
    逍遙四海,胡爲乎此鄉。
    囘頭南望邈無極兮,天雲一色徒蒼蒼
    立功不成,學不就,少壯有幾辰兮, 視百年身世驅陰陽。
    撫掌狂歌問斯世,茫茫天地,安得知 知已兮,試來對酌佑予觴。
    予觴擲向東溟水,東溟之水萬隊起狂 。
    予觴擲向西山雨,西山之雨一陣何汪 。
    予觴擲向北風去,北風揚沙走石飛殊 。
    予觴擲向南天霧,霧中有人開口一飲 然醉。
    天地宇宙渾相忘,予不醉矣,予行予 。
    南兒自古事桑蓬,何必窮愁泣枌梓。

    Cũng để tiện cho việc giải thích, phân tích, và đối chiếu giữa các bản nguyên tác Hán văn, bản phiên âm, dịch nghĩa, và lời ca; chúng tôi sẽ đánh số mỗi câu của các bản thơ-ca nói trên và sắp xếp chúng sóng bước cùng nhau theo thứ tự vừa được nêu ra, như sau:

    南方歌曲

    Nam Phương Ca Khúc

    Khúc Ca Phương Nam

    Khúc ca không tên được ghi lại trong HMDK, mà nhân gian thường gán cho chữ “Hồ Trường”

    1. 丈夫生不能披肝折檻,為世扶綱常。

    Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm, vị thế phù cương thường.

    Kẻ trượng phu sinh ra mà không làm được việc “xé gan bẻ cột” để giúp đời .

    Trượng-phu không hay sé gan bẻ cột phù cương-thường ;

    2. 逍遙四海,胡為乎此鄉。

    Tiêu dao tứ hải, hồ vị hồ thử hương.

    Rong chơi cùng bốn biển, hoang đàng khắp chốn tha hương.

    Hà-tất tiêu-dao bốn bể, luân-lạc tha-hương.

    3. 回頭南望邈無極兮,天雲一色徒蒼蒼

    Hồi đầu nam vọng mạc vô cực hề, thiên vân nhất sắc đồ thương thương

    Dõi về phương Nam từ nơi xa thẳm, mây trời xám ngắt một màu.

    Trời Nam nghìn dặm thẳm ; mây nước một mầu sương.

    4. 立功不成,學不就,少壯有幾辰兮, 視百年身世驅陰陽。

    Lập công bất thành, học bất tựu, thiếu tráng hữu cơ thần hề, toạ thị bách niên thân thế khu âm dương

    Công chẳng thành, danh không toại, tuổi tráng niên ai cũng chỉ có lúc, ngẫm nhìn cảnh đời trăm năm chạy theo cuộc thịnh suy.

    Học không thành, công chẳng lập, trai-trẻ bao lâu mà đầu bạc ; trăm năm thân-thể bóng tà-dương.

    5. 撫掌狂歌問斯世,茫茫天地,安得知 知己兮,試來對酌佑予觴

    Phủ chưởng cuồng ca vấn tư thế, mang mang thiên địa, an đắc tri nhất tri kỷ hề, thí lai đối chước hữu dư thương.

    Vỗ tay hát nhảm hỏi cuộc đời này, trời đất mênh mông, làm sao có được bạn tri kỷ? Hãy đến giúp ta cạn ấm rượu đầy!

    Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang-mang, ai là tri-kỷ lại đây cùng ta một hồ-trường.

    5b/(Hồ-trường ! Hồ-trường ! Ta biết rót về đâu ?)

    6. 予觴擲向東溟水,東溟之水萬隊起狂 。
    Dư thương trịch hướng đông minh thủy, đông minh chi thủy vạn đội khởi cuồng lan.

    Ta rót (rượu) sang nước biển phương Đông, nước biển Đông tuyệt đối sẽ dậy sóng cuồng.

    Rót về đông – phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng-lạn ;

    7. 予觴擲向西山雨,西山之雨一陣何汪 。
    Dư thương trịch hướng Tây sơn vũ, Tây sơn chi vũ nhất trận hà uông dương

    Rót (lên) cơn mưa miền Tây sơn, Tây sơn một phen thành (tất chìm trong) biển cả.

    Rót về tây-phương, mưa Tây-sơn từng trận chứa-chan ;

    8. 予觴擲向北風去,北風揚沙走石飛殊 。
    Dư thương trịch hướng bắc phong khứ, bắc phong dương sa tẩu thạch phi thù phương

    Rót sang đầu cơn gió Bấc, gió Bấc tung cát ném đá bay đi muôn phương.

    Rót về bắc-phương, ngọn bắc-phong vi-vụt, đá chạy cát dương ;

    9. 予觴擲向南天霧,霧中有人開口一飲 然醉。
    Dư thương trịch hướng nam thiên vụ, vụ trung hữu nhân khai khẩu nhất ẩm cừ nhiên túy

    Rót về cõi mịt mù của phương Nam, trong sương mờ có kẻ độc ẩm nói cười cuồng điên.

    Rót về nam-phương, trời nam mù-mịt, có người quá chén như điên như cuồng.

    10. 天地宇宙渾相忘,予不醉矣,予行予 。
    Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí

    Đất trời vũ trụ hỗn tạp nào xá chi, ta thật không say, việc ta làm ta ghi nhớ (chứ!)

    Nào ai tỉnh, nào ai hay, chí ta ta biết lòng ta hay ;

    11. 南兒自古事桑蓬,何必窮愁泣枌梓。

    Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

    Chí làm trai ở việc kiếm cung, cớ sao mãi buồn khóc cho nước non?

    Nam-nhi sự-nghiệp ở hồ-thỉ, hà-tất cùng-sầu đối cỏ cây.

    Lời dịch của bài ca Nam Phương Ca Khúc được ghi lại chính xác như ấn bản Nam Phong Tạp Chí, kể cả lỗi chính tả so với ngày nay, các dấu gạch nối được dùng trong từ ngữ ghép (kép), và những khoảng cách (spaces) giữa các mẫu tự cuối và các dấu chấm câu (;), hoặc (?)…

    B. Giải nghĩa điển tích, thành ngữ, và ngữ vựng Hán-Việt:

    Mười một câu từ nguyên tác Hán văn đã được chuyển thành lời ca Quốc ngữ. Dịch giả của bài thơ-ca đó, cụ Nguyễn Bá Trác đã rộng rãi tặng cho hậu thế thêm câu hỏa hồng (bonus) “Hồ trường! Hồ Trường! Ta biết rót về đâu?”, khi đăng trong Nam Phong Tạp Chí (NPTC) vào năm 1920. Cụ đã chẳng ngờ rằng câu ca hỏa hồng làm nên sự hao tốn nhiều giấy mực của các thế hệ con cháu sau này!…

    Vì lẽ đó và được sự gợi ý của GS Dương Như Nguyện, TS Trần Gia Thái; chúng tôi mạo muội viết tiếp bài này nhằm giải thích, phân tích về bài ca có từ lời thơ Hán văn được mang tên “Nam Phương Ca Khúc”. Rất mong rằng đó là cố gắng làm sáng tỏ được đôi điều ngộ nhận mà chính bản thân mình cũng đã từng thắc mắc từ những năm đầu tiên khi đặt chân vào bậc trung học đệ nhất cấp tại Saigon, 1972-1975…

    Vắn tắt, xuất thân là một nhà Nho đậu cử nhân năm 1906 chỉ vì đi “thi thuê” kiếm tiền ủng hộ phong trào Đông Du, cụ NBT là chủ bút ấn bản Hán Văn của NPTC vào thời gian đầu thế kỷ hai mươi vừa qua, khi Quốc ngữ còn phôi thai trong sinh hoạt văn chương của nước nhà. Vì thế, ngữ vựng Việt ngữ của cụ dùng trong bản dịch Việt ngữ của HMDK vẫn còn mang nặng màu sắc của các từ ngữ Hán-Việt và các điển xưa tích cũ. Do đó để có thể hiểu nội dung chi tiết của bài thơ-ca đang đề cập; chúng tôi thấy việc giải thích về các ngữ vựng, thành ngữ, và các điển tích là chìa khóa duy nhất không thể bỏ qua được.

    Tuy vậy, chúng tôi sẽ giới hạn việc đào sâu trong những Hán tự, hoặc Hán-Việt khó hiểu và dễ gây ngộ nhận hoặc đã bị ngộ nhận bởi một số tài liệu khác hiện đang lưu hành bằng sách báo cũng như trên liên mạng toàn cầu. Chúng tôi sẽ không giải thích hết toàn bộ nguyên tác Hán văn vì đã có lời bài dịch trong phần A, dẫn thượng.

    1. Nhiều tác giả cho rằng , “phi can” được xem như một điển tích gắn liền việc “xé/moi gan” của lão thừa tướng Tỷ Can đời Trụ vương bên Trung hoa. Nhớ ngày còn thơ say mê đọc Phong Thần. Chúng ta nào giờ chỉ biết Tỷ Can bị hãm hại đến nước phải moi TIM (thất khiếu). Có tuồng tích nào nói chuyện Tỷ Can xé/moi GAN? Lớn lên tìm hiểu thêm, chúng tôi đã lục tung liên mạng toàn cầu cũng như các ấn bản bằng sách báo. Nhưng hoàn toàn không tìm được việc “Tỷ Can xé/moi gan” như đã dẫn. Quý cao nhân nào tìm giúp được điển tích “Tỷ Can xé/moi gan” một cách khả tín, chúng tôi xin được học hỏi!

    Chúng tôi tự hỏi, phải chăng “Phi Can- 披肝” và “Tỷ Can-比干” có âm na ná, nên đã bị nhầm lẫn; cho dù mặt chữ và nghĩa của hai chữ can đó “肝 và 干” hoàn toàn khác nhau do có thêm bớt bởi sự hiện diện của chữ nguyệt?

    “Phi can - 披肝”, thật ra không phải là điển tích mà chỉ là thành ngữ “Phi can lịch đảm - 披肝瀝膽” đã được tác giả rút ngắn lại. Nghĩa đen của nó là “vạch gan rưới mật”. Thành ngữ này có ít nhất ba nghĩa bóng khác nhau, như sau:

    a) Lời nói bộc lộ sự vô tư, ngây thơ, không biết đề phòng đắn đo lợi hại.

    b) Sự tiết lộ mang tính cách riêng tư mà người nghe được tin cậy hoàn toàn, “moi hết ruột gan ra mà nói!” hoặc “thổ lộ tim gan – tâm can”

    c) Lời nói có khi khó nghe vì thẳng thắn nhưng cương quyết để tỏ lòng lòng trung thành với một lý tưởng, với bậc chủ tể, hay quân vương!

    Nghĩa 1c/ vừa được giải thích bên trên này, chính là ý nghĩa được dùng trong nguyên bản Hán văn của “Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường” để cùng sóng đôi, đi với chữ “Chiết hạm - 折檻” một cách biền ngẫu, như trong nguyên tác cũng như trong các lời dịch.

    2. (Chiết hạm - 折檻) từ “Chu Vân chiết hạm - 朱雲折檻” là thành ngữ Hán văn xuất phát từ điển tích trong sách Hán Thư.

    Lời dịch của cụ NBT, cụ Lãng Nhân, nhiều tác giả/dịch giả khác, và người viết (Chân Phương) đã để cho bài ca gọi “chiết hạm” là “bẻ cột”. Tuy nhiên, chúng tôi cũng xin được giải thích sâu và rõ hơn nữa về lý do đã gọi là “bẻ cột” này.

    Tất nhiên trước khi giải thích, chúng tôi đã loại chữ “bẻ cật” của các dị bản khác ra ngoài việc phân tích. Vì rõ ràng, đặt chữ “bẻ cật” vào trong câu là vô nghĩa. Nó hoàn toàn không phù hợp hoặc tương xứng với nguyên tác Hán văn cũng như lời dịch của cụ NBT trong NPTC.

    Về điển tích “Chu Vân Chiết Hạm” thời Hán Thành Đế, cụ Lãng Nhân cho chúng ta biết, Chu Vân chức ngang với thừa tướng (tam công) vì lòng trung xin vua giết kẻ gian thần mà phút chốc bị vua nghi ngờ gán cho tội chết. Uất ức bởi nỗi oan khiên chẳng được tỏ, Chu Vân bấu chặt lấy song gỗ bắt nằm ngang dùng làm chấn song (lan can) ngăn cách giữa quần thần phía dưới và bệ rồng có vua ngự ở thềm cao. Lão thừa tướng trung thành đã không buông tay khi quân sĩ lôi kéo và xốc vai ông để đem đi hành hình. Đôi bên ghì-kéo khiến cho thanh chắn lan can bị bẻ gãy. Trong lúc lộn xộn, Chu Vân được cứu đi và thoát chết! Nhờ đó nhà vua đã tỉnh ngộ vì hiểu được lời bảo tấu trung kiên của thừa tướng Chu Vân. Sau đó Thành Đế đã ra lịnh không sửa chiếc lan can bị gãy để ghi nhớ lời khuyên này. Đời sau gọi tích đó là “Chu Vân Chiết Hạm”.

    Điều chúng tôi muốn làm rõ nơi này là chiếc “cột” được đề cập đến thường bị ngộ nhận như cột dùng để chống đỡ mái nhà hoặc mái triều đường. Điều đó không đúng. “Hạm-檻” thật ra là một thanh đòn bằng cây/gỗ ngang không lớn lắm. Nó được dùng làm lan can, bao lơn, hoặc bậc/đố cửa nằm ngang chứ không phải là cột gỗ chống theo chiều đứng (thường được hiểu là cột chính lớn được dựng đứng để chống đỡ mái nhà, mái điện).

    Vì thế, “phi can chiết hạm” bao gồm hai thành ngữ mang đầy nghĩa bóng nói lên hành động của người trượng phu có tâm trung thành, cương trực, và ngay thẳng. Các cụ ta xưa kia ít nhiều mang ảnh hưởng Hán học, khi dịch thuật có cường điệu lên một chút trong câu chữ của mình với mục đích nhấn mạnh thành “xé gan, bẻ cột” cũng là cách dịch thoát rất bình thường để gói ghém được ý của mình trong câu ca.

    Hiểu được ngữ vựng, thành ngữ, và các điển tích… được dùng trong thơ văn của tiền nhân để lại, sẽ giúp cho chúng ta hiểu được suy nghĩ và tư tưởng của người xưa một cách thấu đáo hơn. Nó cũng giúp làm sống lại những áng văn thơ có giá trị trong di sản văn chương của nước nhà. Nhờ đó, chúng sẽ thoát khỏi cảnh mai một vì không được đánh giá, giải thích, và hiểu đúng như dụng ý của các tác giả!

    3. (Hồ vi - 胡為) : Hoang đàng, phá phách

    Trong câu 2/ của lời ca, cụ NBT đã thêm ý bằng chữ “hà tất – cớ sao?” vào đầu câu. Đồng thời động từ kép “hồ vị, vi – phá phách” cũng bị lược bớt theo sự cố ý của dịch giả này.

    4. (Thương thương - 蒼蒼) : (tĩnh từ), tuy “thương” có nghĩa là “xanh” nhưng “thương thương” lại có nghĩa là “trắng xóa”, “bạc trắng” hoặc “xám ngắt”,… tùy theo danh từ mà nó bổ nghĩa; như “mái tóc bạc trắng”, “mây ngàn xám ngắt,… ”. Các dịch giả kinh nghiệm đã không hề bỏ sót các điểm này.

    Đó là lý do lời ca (dịch) của cụ NBT lại gọi là “mây nước một mầu sương”. Màu sương là màu trắng hoặc xám chứ không phải màu xanh, như có thể dễ bị nhầm lẫn!

    5. (An đắc - 安得) : Làm sao để có

    6. (Tri kỷ - 知己) : Người bạn thân đến độ hiểu ta hoàn toàn.

    Trong nguyên tác Hán văn của NPTC, chữ đó được viết là (tri dĩ - 知已) chứ không phải là “tri kỷ”; dù chữ “tri kỷ” này có vẻ như phù hợp hơn với lời dịch bằng Quốc ngữ của cụ NBT.

    7. (Tri dĩ - 知已) : Cái “biết” rằng, khi nào là đã đủ rồi.

    Chúng tôi có lý do để ngờ rằng, “tri dĩ - 知已” đã không hề là một lỗi đánh máy vô tình trong nguyên tác Hán văn. Bởi vì, “tri nhất tri dĩ - 知一知已” rất dễ đưa những độc giả thông hiểu Hán văn liên tưởng đến thuyết “tri hành hợp nhất - 知行合一” của Vương Thủ Nhân. Nhất là, khi nó hiện diện trong một câu tán thán, được dùng để nói lên tâm sự kín đáo của tác giả bài thơ.

    “An đắc tri nhất tri dĩ hề” có thể nào mang ý nghĩa của, “An đắc tri hành hợp nhất, tri dĩ hề!” (Sao cho được học đi đôi với hành, sao cho biết được thế nào là hợp thời đúng lúc.)”?

    Nếu quả thật cụ NBT là tác giả của nguyên tác Hán văn, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng được việc thổ lộ chí hướng và tâm sự một cách kín đáo này của cụ trong thời gian bước ra cộng tác với chính quyền nhà Nguyễn, thực dân Pháp, và làm báo Nam Phong. Trong niềm tin của mình và những cộng sự đồng chí hướng năm xưa, các cụ cho rằng công việc canh tân văn hóa nước nhà trong giai đoạn đó là rất cần thiết. Kín đáo vì cụ đã làm điều đó trong nguyên tác Hán văn. Nhưng lại không dịch đúng ra như thế trong ấn bản bằng tiếng Quốc ngữ.

    Có thể nói, “phi can chiết hạm” và “tri nhất tri dĩ” là toàn bộ tâm sự và chí hướng không chỉ riêng của cụ NBT, mà còn là tâm sự và chí hướng của toàn bộ Nam Phong Tạp Chí trong công cuộc mở mang chữ Quốc ngữ, dân trí, và văn hóa nước nhà thuộc giai đoạn bao gồm các thập niên đầu tiên của thế kỷ trước!

    8. (Đông minh - 溟水) : Biển Đông

    9. (Cuồng lan - 狂瀾) : Con sóng dữ.

    <nghĩa bóng> Thời thế, xã hội suy đồi

    10. (Nhất trận - 一陣): Một phen, một cơn…

    11. (Uông dương - 汪洋): Biển cả

    12. (Vụ - 霧): Sương mù.

    13. (Khai khẩu - 開口): Nói năng điên cuồng, không kiểm soát được…

    14. (Cừ nhiên - 蘧然): Bàng hoàng, kinh hãi, kinh sợ…

    Hai chữ “khai khẩu” và “cừ nhiên” góp mặt trong câu số 9/ của nguyên tác NPCK. Đã có một bản dịch nghĩa là “trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn”.

    Thiết nghĩ, lời dịch nghĩa như thế không được chính xác cho mấy. Vì, “khai khẩu” hoàn toàn không có nghĩa là “há miệng” một cách thụ động và đơn giản như thế: Khai khẩu có nghĩa đen là nói không ngừng nghỉ. Nghĩa bóng của nó là nói những điều ngông cuồng, điên loạn. Và, “cừ nhiên” mang nghĩa “hốt hoảng, bàng hoàng, kinh hãi… ”, chứ không hề là điềm nhiên như lời dịch đã dẫn!

    Chính vì thế mà câu ca của cụ NBT trong HMDK dù được dịch rất thoát, nó vẫn mang đủ ý và uyển chuyển mượt mà: “có người quá chén như điên như cuồng”.

    15. (Tang bồng - 桑蓬 ) từ thành ngữ “tang hồ bồng thỉ - 桑弧蓬矢” : cung bằng gỗ dâu tằm, mũi tên bằng loại cỏ bồng. Thành ngữ này được kể là nói lên chí vùng vẫy của nam nhi. Không biết hình ảnh (nghĩa bóng) của cánh cung làm bằng gỗ dâu ra sao? Tuy nhiên, ngọn cỏ bồng được biết là loài cỏ dại có hạt mỏng manh rất dễ được phát tán đi muôn phương theo mỗi cơn gió cuốn.

    Vì thế, thành ngữ “tang hồ bồng thỉ” có lẽ chỉ là nghĩa bóng được dùng một cách tượng hình. Nó nói lên cái chí làm trai theo quan niệm xưa kia là được vùng vẫy nhằm thi thố TÀI TRÍ, Ý TƯỞNG, và SÁCH LƯỢC,… để rải khắp muôn phương ngõ hầu phục vụ nhân quần. Nó không chỉ bó hẹp trong ý nghĩa chật chội của võ nghiệp qua chữ kiếm cung như có thể bị hiểu lầm là vậy!

    16. (Cùng sầu - 窮愁 ): Buồn khổ

    17. (Phần tử - 枌梓) từ thành ngữ “枌梓桑梓 – phần du tang tử” : Quê hương, bản quán.

    C. NAM PHƯƠNG CA KHÚC – HỒ TRƯỜNG và TÁC GIẢ

    1. Hạn Mạn Du Ký trong Nam Phong Tạp Chí dưới ngòi bút của cụ NBT đã giới thiệu cho chúng ta đã biết bài ca Nam Phương Ca Khúc. Đầu tiên bằng Hán văn. Sau đó bằng Việt (Quốc) ngữ. Chữ “Hồ Trường” xuất hiện trong ấn bản Quốc ngữ đã được nhiều người trong lúc trà dư tửu hậu gọi thành tên của bài ca. Rồi được ngâm lên như… thơ: “Hồ trường! Hồ Trường! Ta biết rót vào đâu?”

    Trong bài phân tích sơ lậu của ít ngày vừa qua, chúng tôi đã giải thích về chữ Hồ Trường này. Xem ra, chẳng có gì “bí ẩn” như chúng ta đã từng hiểu về nó:

    Hồ Trường -壺長- chữ được cụ NBT đổi ở cuối câu số 5/ và thêm vào ngay sau đó, trở thành câu phụ 5b/; là chiếc ấm có vòi dài, bình thường dùng để đựng và rót trà hoặc rượu.

    2. Cho đến nay, nhiều người vẫn tin rằng “Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường” là một bài thơ khuyết danh do một người Trung hoa nào đó sáng tác.

    Tuy nhiên, xét về mặt tư tưởng và ý nghĩa, khi còn bé được đọc qua Hồ Trường lần thứ nhất chúng tôi đã cảm nhận được ý tứ và hình ảnh gần như trọn vẹn của “chí làm trai” do Uy Viễn Tướng Quân viết ra gần trăm năm trước đó (tính từ 1920 ngược về 1830’s!):

    Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
    Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
    Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
    Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
    Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
    Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
    Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
    Chí những toan xẻ núi lấp sông,
    Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
    Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
    Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
    Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.


    Kìa nọ, cũng bầu rượu, vỗ tay, reo cười, vùng vẫy (nay thành rót rượu) bốn phương Đông-Tây-Nam-Bắc… Cũng tang bồng, bốn bể, sóng cuồng, gió cả, mưa tuôn… Và, cả “cuồng lan - 狂瀾” từ “Kẻ Sĩ”. Cả hai bài này, Kẻ Sĩ và Chí Làm Trai, đều được cụ Nguyễn Công Trứ trước tác bằng chữ Nôm.

    Người Trung hoa đọc được chữ Nôm để bắt chước theo ý tứ của cụ qua bài “Chí Làm Trai” rồi viết thành Hán văn “Nam Phương Ca Khúc”; chẳng phải là điều hiếm thấy hay sao?

    Nó lại còn khó tin hơn nữa nếu chúng ta cho rằng một người Trung hoa nào đó đọc được tư tưởng của Uy Viễn Tướng Quân từ đầu thế kỷ mười chín rồi sáng tác thành bài thơ-ca “Nam Phương Ca Khúc”; Để rồi gần trăm năm sau, đầu thế kỷ hai mươi, có người Việt khác là cụ Nguyễn Bá Trác lại học được bài thơ ấy bằng Hán văn và dịch thơ để thuật lại trong truyện du ký và đem đi đăng báo.

    Ngày nay, người Tàu tại Hoa lục cũng như khắp thế giới không biết gì về bài thơ Hán văn đó. Chúng tôi lục tìm trên liên mạng toàn cầu, nhưng hoàn toàn không thấy tăm hơi của bài thơ được nói đến trong cộng đồng những người dùng Hán văn (người Tàu). Các links nhận được trong khi lục lọi, chỉ toàn các websites của người VN!

    Điều này cũng tương tự như chữ “phi can – xé gan” được gắn liền như điển tích “Tỷ Can moi gan” trong văn thi đàn nước Nam. Tuyệt nhiên “điển tích” này đã không hề nghe nói hoặc tồn tại trong văn hóa nơi quê hương của thừa tướng Tỷ Can trong suốt hai mươi thế kỷ vừa qua!…

    Giả thuyết cho rằng nguyên tác Hán văn của Nam Phương Ca Khúc là một bài thơ có tác giả khuyết danh là người Trung hoa xem ra nhiều phần không đứng vững!

    3. Bốn thập niên trước – năm 1973 tại Saigon, chúng tôi từng đọc được câu “Trượng phu sinh bất năng phi can chiết hạm, vị thế phù cương thường.” [Dường như nằm trong tập san Phổ Thông của Nguyễn Vỹ (xuất bản từ những năm 56-57 gì đó… ) giữa một bài thơ mang tựa là “Tiễn bạn lên đường”, được xem là của Cao Chu Thần].

    Đến nay lục lọi trên internet để đối chiếu với trí nhớ kém cỏi của mình, chúng tôi tìm ra được cái này:

    “Bả bút tặng quân thỉnh quân biệt
    ức ngã nhân chi hoàn hữu thuyết
    thử bang cổ vị phú danh nhân
    Tiều Ẩn Ức Trai đĩnh song tuyệt


    Trượng phu sinh bất năng phi can
    chiết hạm vị thế phù cương thường
    Tọa thị đương đạo kiêu sài lang
    Bạch đầu trú cẩm ô cố hương

    Tiễn bạn có đôi dòng thay rượu
    Ấy tiện đây tôi nhắn điều này:
    Danh nhân Thường Tín có đầy
    Chu An, Nguyễn Trãi bậc thầy thế gian

    Chí làm trai ở trong trời đất
    Không xé gan bẻ cột giúp đời
    Khoanh tay nhìn quỷ giết người
    Mai về mũ áo bẩn đường quê hương”
    (Chu Thần – Cao Bá Quát)


    http://tuongvuanhthy.blogspot.com/20...-tho-tien.html

    Một bài thơ-ca dù được viết bằng Hán văn mà mượn lời của Cao Chu Thần Bá Quát ngay từ câu đầu và mượn hình ảnh cùng với ý tứ của Uy Viễn Tướng Quân ta trong toàn bài, nay lại bị xem là của tác giả khuyết danh người Trung hoa, chẳng phải là chuyện diễu cợt lắm hay sao?

    4. Vâng, trong khi tìm hiểu ý nghĩa mỗi ngữ vựng, thành ngữ, điển tích có trong “Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường” cũng như khảo sát việc mượn lời mượn ý từ các tác giả tiền bối là Chu Thần và Uy Viễn, chúng tôi tin rằng bài ca nguyên tác Hán văn chính là trước tác của cụ Nguyễn Bá Trác. Chúng tôi tin rằng đó là trước tác của cụ vì nó phù hợp với hoàn cảnh, tâm tình, và chí hướng của chính cụ trong hồi ký Hạn Mạn Du Ký hơn ngay cả đối với nhân vật “Nguyên quân”, người bạn đồng chí đã cất lên lời ca trong truyện du ký kỳ thú.

    Trước khi phân tích xa hơn về các ẩn ý mà cụ Nguyễn Bá Trác đã gửi gắm một cách kín đáo trong bài ca bằng Hán văn của mình; chúng tôi xin được bàn về bốn câu số 6, 7, 8, và số 9 trong nguyên tác Hán văn cũng như trong bản dịch của cụ NBT.

    Rõ ràng về mặt địa lý thiên nhiên và thời tiết, khi đọc nội dung của bốn câu số 6, 7, 8, và số 9 nói trên ngay từ bản Hán văn theo các hướng Đông-Tây-Nam-Bắc; chúng ta đã không cảm thấy điều gì rất quen thuộc với một người sinh trưởng từ đồng bằng Nam-Ngãi-Định như cụ Trác hay sao? Hay ít ra, địa lý thiên nhiên và thời tiết đó trong lời ca cũng đã quen thuộc lắm lắm với bao triệu con dân của nước Nam chúng ta, ngay từ thuở lọt lòng:

    Từ nơi chôn nhau cắt rốn của mình, cụ NBT đã thấy gì khi nhìn sang bốn hướng Đông-Tây-Nam-Bắc?

    Chẳng là biển Đông dậy sóng cuồng tiếp nối từ khơi xa Thái Bình?

    Chẳng là mưa tràn trên dãy Tây (Trường) Sơn trong khí hậu miền nhiệt đới?

    Chẳng là cát chạy đá bay nơi bình và thảo nguyên phương Bắc?

    (Phương Bắc ở đây chắc chắn đã được hiểu xa hơn nữa là sang đến tận Lưỡng Quảng xa xôi hay mãi ở miền lưu vực sông Dương Tử của đất nước Trung hoa.)

    Chẳng là trời sương mịt mù phương Nam có kẻ độc ẩm cuồng say mà tác giả cũng như Nguyên quân hình dung ra được khi dõi mắt u hoài nhìn về cố hương?

    (Nam phương ở đây, rất nhiều phần vừa là tác giả đã dùng lời nhân vật “Nguyên quân” trong truyện ký –đã/đang sống và hát lời ca tại Thượng Hải, năm 1910/1912- để nói lên lòng thương nhớ quê hương bản quán của chính mình -NBT- mà thôi!)

    5. Lại nữa, cũng từ bốn câu số 6, 7, 8, và số 9 vừa kể; hãy xét đến nội dung chuyện kể trong HMDK của cụ NBT khi đó trong khoảng 1912, tại Thượng Hải:

    Những Đông-Tây-Nam-Bắc về chính sự đã chẳng phải là các xứ người mà cụ NBT đã từng bôn tẩu, tha hương từ năm 1908? Đó chẳng là Xiêm (Thái-lan) ở phương Tây? Chẳng là Nhật nơi phương Đông? Chẳng là đất Tàu nơi phương Bắc mà cụ đã bôn ba đặt chân đến, sau khi buộc lòng phải rời Nhật?

    Nhớ lại chính sự của vùng Đông Á ngay trong đầu thế kỷ hai mươi mà xem:

    a) Các phong trào Duy Tân, Quang Phục, và Đông Du trong hàng ngũ sĩ phu kháng Pháp của nước ta đã nổi lên rầm rộ rồi mau chóng chựng lại vì sự bất hợp tác của nước Nhật, giữa những năm 1906-1911 chẳng là những cơn “cuồng lan” mà cụ NBT nói về “phương Đông” trong bài thơ-ca của mình? Nghĩa đen trong Hán văn, “cuồng-lan” là con sóng cả, sóng lớn. Nhưng nghĩa bóng của nó lại là sự suy thoái, suy đồi, sự thoái hóa của một phong trào văn hóa, chính trị, hay xã hội … Nhà Nho thâm trầm như NBT khó có thể bỏ qua được ý nghĩa này của nó khi vận dụng trong thơ-ca của mình!

    b) Trong những năm bôn ba nơi xứ người và trong những nơi đã từng để lại vết chân của mình, chẳng phải cụ NBT đã mô tả phương Bắc bằng những biến động mạnh mẽ nhất hay sao? Chính sự cuối triều Mãn Thanh là thế: sau các phong trào nổi loạn khắp trung nguyên, Hoa lục; là nạn “bát quốc liên minh” và “chiến tranh nha phiến”… Rồi cuối cùng là cách mạng Tân Hợi 1911… đi đến lãnh chúa cát cứ vô chính phủ… Như đã nói bên trên, bài ca có phần mượn ý về bốn phương vẫy vùng Đông-Tây-Nam-Bắc của cụ Nguyễn Công Trứ. Tuy nhiên tâm trạng người tráng sĩ xuất bôn của ngày ấy, đã chẳng thể nào mà tránh được việc tán than cho thời thế không chiều lòng người có tâm vị dân vị quốc…

    c) Bởi vì, nhìn về phương Nam nơi cố thổ, chẳng là hình ảnh của tráng sĩ đang phải tiêu sầu, khắc khoải, và vùi mình trong hơi men để tìm quên sự tình bất đắc, đối với “chí nam nhi”?

    6. Có những khoảng cách vừa đủ giữa nguyên tác Hán văn và bản dịch lời ca trong NPTC của cụ NBT. Những khoảng cách đó, ngoài việc nắn nót cho vừa tròn âm Việt ngữ trong lời ca “Hồ Trường”; dường như chúng là nơi mà tác giả, cụ NBT, đã dùng để chất chứa những nỗi niềm của mình, của nhóm NPTC với công cuộc canh tân văn hóa và xã hội trong quãng đầu thế kỷ hai mươi vừa qua. Nơi ấy, đáng chú ý không phải chỉ có các thành ngữ và điển tích “phi can chiết hạm”, “tri nhất tri dĩ”,… nói lên sự kiên định và nỗi lòng tha thiết với tiền đồ phát triển văn hóa của dân tộc trong gan ruột của những bậc tài trí đi trước, nhìn xa hơn thiên hạ… Chúng còn thể hiện nỗi ngậm ngùi chấp nhận (hoặc đúng hơn là bất chấp) cái nhìn, búa rìu của sự phán xét đầy bất công (và đôi khi còn là vô ơn) bên ngoài của dư luận, của thế nhân… thường là những kẻ mang trong người nhận thức còn kém hơn mình rất nhiều!

    7. Có thể nói, qua lời ca “Nam Phương Ca Khúc” đến từ cửa miệng của Nguyên quân trong Mạn Đàm Du Ký, tâm tình người chủ bút về ấn bản Hán văn nói riêng và của Nam Phong Tạp Chí nói chung; đã được cụ NBT thổ lộ tuy có phần kín đáo theo phong cách của một nhà Nho, nhưng lại vô cùng rõ ràng khiến cho những người đáng được gọi là “tri kỷ” của các cụ có thể hiểu được!

    Có là tri kỷ mới hiểu ra được tâm nguyện nhau, của người xưa đã đem gửi gắm vào hai câu cuối cùng mà dịch giả (NBT) vừa là tác giả đã cố tình dịch sai lệch đi ít nhiều; Để cho tâm sự của người trí nhân không trở thành lộ liễu một cách tầm thường:

    “Thiên địa vũ trụ hồn tương vong, dư bất túy hĩ, dư hành dư chí

    Nam nhi tự cổ sự tang bồng, hà tất cùng sầu khấp phần tử

    Đất trời vũ trụ hỗn tạp nào có xá chi! Ta thật không say, việc ta làm ta ghi nhớ (chứ!)

    Chí làm trai ở việc kiếm cung, cớ sao phải buồn khóc mãi cho phận nước non?”

    THAY LỜI KẾT

    Cuối cùng, một thắc mắc về kỹ thuật đến với chúng tôi từ nhiều năm trước kia: [Cụ NBT có “đạo văn” của Cao Chu Thần (vì đã “mượn” nguyên một câu Hán văn mà không hề chú thích rằng đã trích dẫn từ nơi nào theo kiểu “tử viết này, nọ…”) hay không?]

    Về mặt kỹ thuật trong mạch văn du ký của mình, cụ NBT đã gặp phải những yếu tố bất khả kháng. Chẳng hạn như không thể tiết lộ tên người thật mà phải ghi là Trần mỗ, Lưu mỗ, Nguyên quân,…

    Bài thơ, lời ca Nam Phương Ca Khúc do chính mình làm ra, chỉ mượn ý của Uy Viễn Tướng Quân và câu đầu tiên của Cao Chu Thần; thì bản thân cụ NBT cũng đã kín đáo không nhận là của mình để mạch truyện được tự nhiên. Thế thì cớ gì cụ lại phải ghi rõ rằng câu đầu tiên là “mượn từ Chu Thần” để “lạy ông tôi ở bụi này!” để hỏng mất cả thiên du ký có giá trị?

    Chúng ta khó có thể hiểu được lòng thành, chí hướng, tâm tình của người xưa nếu không thật sự hiểu được nội dung, ý nghĩa của các trước tác do tiền nhân để lại.

    Giải thích về ngữ vựng, thành ngữ, và điển tích cũng như phân tích ý nghĩa, lai lịch xuất xứ, và tác giả của “Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường”; chúng tôi mong ước góp phần nhỏ nhoi trong việc xóa tan những thiên kiến xã hội và lịch sử đã từng bao trùm một cách bất công (và vô ơn) đối với Nam Phong Tạp Chí cũng như các lãnh đạo văn hóa có công và giàu lòng yêu nước trong các giai đoạn ngặt nghèo nhất của dân tộc ta, từ đầu thế kỷ hai mươi vừa qua!

    Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi!
    Mẹ hiền ru những câu xa vời
    À à ơi, tiếng ru muôn đời!

    Tiếng nước tôi bốn ngàn năm ròng rã buồn vui!
    Khóc cười theo mệnh nước nổi trôi, nước ơi!
    Tiếng nước tôi, tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi
    Thoắt nghìn năm thành tiếng lòng tôi, nước ơi!…
    (Tình Ca – Phạm Duy)

    Chân Phương
    Falls Church, VA
    8/13/13
    www.vietthuc.org

    Người post xin thưa đôi lời:

    Tác giả Nguyễn Bá Trác và bài Hồ Trường vốn đã được nhiều văn, thi sĩ, bình luận gia và người hâm mộ (hoặc không ưa tác giả) bàn luận. Người post bài này cũng rất cảm xúc khi nghĩ về thân phận tác giả và những oan khuất đã phải gánh chịu trong thời buổi nhiễu nhương hỗn loạn, không ai nắm chắc thực hư nhưng lại sẵn sàng loan truyền những lời phê phán (phần lớn là phê phán xấu) về ai đó.

    Cho nên nhân được đọc một bài phân tích sâu sắc về tâm tình, hoàn cảnh và nỗi oan khiên của tác giả Nguyễn Bá Trác, người post bài này xin chuyển về để quý độc giả thưởng thức.

    Người post cũng xin lỗi rằng vì trình độ kỹ thuật kém cỏi nên có một số chữ Hán đã không xuất hiện lên chính xác như bài nguồn, vì vậy xin quý độc giả vào link nguồn xem cho rõ, nếu muốn:

    http://www.vietthuc.org/2013/08/17/k...ng-va-tac-gia/

    Kính,
    KA
    .
    Last edited by khieman; 02-05-2014 at 03:24 PM.

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .
    Nguyễn Bá Trác
    có phải là tác giả bài "Hồ Trường"?

    Từ sau năm 1975 trên nhiều bàn nhậu đơn sơ của những con người thất chí bỗng xuất hiện một bài thơ mang tên Hồ Trường.

    Cứ mỗi lần ai đó say thì bài thơ lại được ngân nga đủ mọi chất giọng. Lời thơ kiêu bạc, chen lẫn hùng tráng mà lại bi ai khiến những người thất cơ lỡ vận một phen ngậm ngùi lấy bài thơ ngầm so sánh với thân phận của chính mình.

    Bài thơ Hồ Trường trên Nam Phong tạp chí



    Danh sĩ Nguyễn Bá Trác.
    Source Nguoivietboston

    Lớp người buông tay súng về quê làm ruộng cũng như những sĩ quan cải tạo trở về khi nghe Hồ Trường thì ít nhiều gì cũng cảm thấy bài thơ gần gũi với họ một cách kỳ lạ. Rất nhiều người biết tên tác giả là Nguyễn Bá trác nhưng khi hỏi thêm về thân thế của tác giả này thì ai nấy đều nhìn nhau.

    Mà cần gì biết tác giả là ai. Bài thơ tự nó hay là đủ. Còn gì sung sướng hơn khi những lời thơ như gián tiếp chia sẻ cùng những chàng tráng sĩ thời mới, nay buông gươm ngồi quây quần bên chiếu rượu nhìn nhau ngâm nga bài thơ Hồ Trường mà cảm thấy mình tự thương mình biết bao!

    Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu? Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;

    Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan. Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương; Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng….

    Và cứ thế hết chén này tới chén khác rượu chảy xuống lòng cho tan nỗi nhục nhằn và rượu cũng biết người uống chúng đang buồn nỗi buồn Hồ Trường…

    Thật ra bài thơ Hồ Trường xuất hiện trên Nam Phong tạp chí vào đầu thế kỷ 20. Bài thơ được nhiều thế hệ thuộc lòng vì nó ngắn và lời lẽ lại tha thiết bi tráng khó có bài nào trong văn học sử Việt Nam sánh bằng. Bài thơ này ai cũng cho rằng tác giả nó là Nguyễn Bá Trác vì khi in trên Nam Phong tạp chí không thấy ghi chú là được dịch từ một bài thơ của Trung Quốc. Mãi cho tới năm 1998 thì bài thơ mới được Đông Trình dẫn lời của Nguyễn Văn Xuân công bố là dịch từ một ca khúc của Trung Quốc.

    Gần đây nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân mới sưu lục được tác phẩm gốc đã được Nguyễn Bá Trác dịch thoát thành bài thơ bất hủ Hồ Trường

    “Hạn mạn du ký” bản gốc của bài Hồ trường

    Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho chúng tôi biết nguyên nhân dẫn ông đến bài thơ bất hủ này:

    - Đó cũng là một việc tình cờ trong lúc tôi làm cái tổng mục lục cho phần Hán văn của Nam Phong. Mặc dù trứơc đó mình có biết bài Hồ trường nhưng khi làm mục lục thì vô tình phát hiện bài “Hạn mạn du ký” bằng chữ Hán. Đọc lướt qua và khi dừng lại thì thấy có bài lời ca Hồ trường bằng chữ Hán ở đó.

    Khi gắn kết bài thơ lại tôi mới nhớ lại thì biết rằng đây là bản gốc của bài Hồ trường, bài mà ông Nguyễn Bá Trác dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của ông Nguyễn Bá Trác dịch thẳng từ chữ Hán qua thẳng lời ca chữ Việt không có phiên âm thành ra nó hơi lạ một chút nhưng nội dung nó còn giữ được tinh thần của bản gốc

    Từ đó tôi mới làm cái đối chiếu để cho rõ cái nguồn gốc thì một số anh em thấy vậy cũng hứng thú. Sau đó tôi có viết lại một lần nữa bài viết cho nó đầy đủ hơn về nguồn gốc đó.

    Nam Phong tạp chí là nơi ông Nguyễn Bá Trác từng làm chủ bút phần chữ Hán còn ông Phạm Quỳnh chủ bút phần tiếng Việt.Ông Nguyễn Bá Trác làm chủ bút chữ Hán trong những năm đầu của Nam Phong nên ông ấy có đăng những công trình nghiên cứu hay du ký của ông ấy lên trên phần chữ Hán.



    Bìa Nam Phong Tạp chí số 1,
    xuất bản năm 1917.Wikipedia


    Có một số đã được dịch và đăng bên phần tiếng Việt còn một số vẫn còn ở bản chữ Hán cho đến hiện nay thì vẫn còn một số công trình của Nguyễn Bá Trác chưa được dịch ra tiếng Việt.

    Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân thì cho đến nay, có ít nhất 5 bản in lời ca Hồ Trường mà các bản có nhiều chỗ không giống nhau. Một trong năm bản ấy là Nam phương Ca khúc. Hồ Trường so với Nam phương ca khúc có nhiều điểm khác biệt. Nguyễn Bá Trác đã linh động nương theo âm điệu tiếng Việt và có chỗ thêm tứ có chỗ bớt lời, khéo giữ được cái thần thái hào sảng của nguyên tác. Sau dây là bản dịch từ Nam phương ca khúc đã được Phạm Hoàng Quân phiên âm

    Bản dịch từ Nam phương ca

    Kẻ trượng phu sống mà không vạch gan, bẻ cột lo giềng mối cho đời
    Rong chơi bốn biển, quê hương ở nơi đâu?
    Quay đầu trông về nam, miệt mù vậy hỉ! Trời mây nối màu xanh ngắt
    Lập công chẳng được, học không xong, trai trẻ có bao lâu, ngồi ngó trăm năm, thân đuổi cuộc sớm chiều.
    Vỗ tay hát khùng, hỏi đời kia, đất trời mờ mịt vậy, một người tri kỷ tìm ở đâu, thử đến giúp ta rót chén rượu này
    Ta quăng chén rượu đầy trộn nước biển đông, nước biển đông nổi cuộn vạn lớp sóng
    Ta quăng chén rượu đầy vào mưa núi tây, mưa núi tây một trận sao lênh láng
    Ta quăng chén rượu đầy đuổi theo gió bắc, gió bắc tung cát lăn đá bay nơi khác
    Ta quăng chén rượu đầy vào mây mù trời nam, trong mây mù có người há miệng điềm nhiên say tràn
    Trời đất dọc ngang đều mất hết, sao ta không say, chí ta thời ta làm
    Từ xưa nam nhi đuổi theo tang bồng, cớ gì sùi sụt sầu cố hương.

    Chữ “thương” trong bài Hồ Trường



    Trang trong tờ Nam Phong Tạp chí .


    Theo nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân thì điểm đặc biệt nhất của bài Hồ Trường là chữ “thương” ở cuối câu thứ 5 đã đựơc lập lại nhiều lần trong lời ca. Chữ này có thể đọc là “trường” hay “tràng” đều đựơc. Nguyễn Bá Trác đã sáng tạo từ một chữ “thương” đơn giản thành chữ “Hồ trường” rồi thành hẳn một bài ca thì cũng là điều kỳ thú.

    Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân phân tích chữ “thương” trong bài ca như sau: Thứ nhất, “thương” là cái chén uống rượu giống như cái tước, làm bằng sừng, “thương” là chén rót đầy rượu, khi chưa rót rượu vào thì gọi là “chí”;

    Thứ hai, khi mời rượu người khác một cách kính trọng gọi là “thương”.

    Thứ ba, khi tự uống rượu một mình cũng gọi là “thương”, Phạm Thành Đại trong bài “Túc tư khẩu thỉ văn nhạn” có câu “bá tửu bất năng thương” có nghĩa là nâng ly khó uống một mình.

    Bản dịch trên Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920

    Sau đây là nguyên bản lời ca Hồ Trường của Nguyễn Bá Trác dịch thoát trích từ Nam Phong tạp chí số 41 năm 1920. Do Việt Long đọc

    Trượng phu không hay sé gan bẻ cột phù cương thường;
    Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương
    Trời nam nghìn dậm thẳm, mây nước một mầu sương
    Học không thành, danh chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc, trăm năm thân thể bóng tà dương.
    Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! ta biết rót về đâu?
    Rót về đông phương, nước bể đông chẩy xiết sinh cuồng lạn;
    Rót về tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan
    Rót về bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
    Rót về nam phương, trời nam mù mịt, có người quá chén, như điên như cuồng
    Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết, lòng ta hay
    Nam nhi sự ngiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây.

    Quý vị vừa nghe một ít chi tiết về xuất xứ của bài thơ Hồ Trường do Nguyễn Bá Trác dịch thoát từ một bài ca trong Nam phương ca khúc. Sau đây mời quý vị thưởng thức toàn bộ bài thơ qua giọng ngâm của nghệ sĩ Trần Lãng Minh….với dàn nhạc cụ cổ truyền do các nghệ sĩ Phạm Đức Thành, Thanh Hòa và Chí Hòa phụ trách.






    Mặc Lâm, biên tập viên RFA
    2011-04-01


    Đôi lời xin thưa của người post bài,

    Trong số những bài về Hồ Trường mà tôi đã hân hạnh được đọc, xin trình ra một bài điển hình, là bài được đăng trên đài RFA, ấn bản Việt Ngữ, do Mặc Lâm biên soạn, dẫn lời của "nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân".

    Trích:

    ..."...Bài thơ này ai cũng cho rằng tác giả nó là Nguyễn Bá Trác vì khi in trên Nam Phong tạp chí không thấy ghi chú là được dịch từ một bài thơ của Trung Quốc. Mãi cho tới năm 1998 thì bài thơ mới được Đông Trình dẫn lời của Nguyễn Văn Xuân công bố là dịch từ một ca khúc của Trung Quốc.

    Gần đây nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân mới sưu lục được tác phẩm gốc đã được Nguyễn Bá Trác dịch thoát thành bài thơ bất hủ Hồ Trường

    “Hạn mạn du ký” bản gốc của bài Hồ trường

    Nhà nghiên cứu Phạm Hoàng Quân cho chúng tôi biết nguyên nhân dẫn ông đến bài thơ bất hủ này:

    -Đó cũng là một việc tình cờ trong lúc tôi làm cái tổng mục lục cho phần Hán văn của Nam Phong. Mặc dù trứơc đó mình có biết bài Hồ trường nhưng khi làm mục lục thì vô tình phát hiện bài “Hạn mạn du ký” bằng chữ Hán. Đọc lướt qua và khi dừng lại thì thấy có bài lời ca Hồ trường bằng chữ Hán ở đó.

    Khi gắn kết bài thơ lại tôi mới nhớ lại thì biết rằng đây là bản gốc của bài Hồ trường, bài mà ông Nguyễn Bá Trác dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của ông Nguyễn Bá Trác dịch thẳng từ chữ Hán qua thẳng lời ca chữ Việt không có phiên âm thành ra nó hơi lạ một chút nhưng nội dung nó còn giữ được tinh thần của bản gốc

    Từ đó tôi mới làm cái đối chiếu để cho rõ cái nguồn gốc thì một số anh em thấy vậy cũng hứng thú. Sau đó tôi có viết lại một lần nữa bài viết cho nó đầy đủ hơn về nguồn gốc đó.

    Nam Phong tạp chí là nơi ông Nguyễn Bá Trác từng làm chủ bút phần chữ Hán còn ông Phạm Quỳnh chủ bút phần tiếng Việt. Ông Nguyễn Bá Trác làm chủ bút chữ Hán trong những năm đầu của Nam Phong nên ông ấy có đăng những công trình nghiên cứu hay du ký của ông ấy lên trên phần chữ Hán...."...
    (hết trích).


    Trong bài của tác giả Chân Phương ở trên, có đoạn sau:

    Trích:

    ..."...
    2. Cho đến nay, nhiều người vẫn tin rằng “Nam Phương Ca Khúc – Hồ Trường” là một bài thơ khuyết danh do một người Trung hoa nào đó sáng tác.

    Tuy nhiên, xét về mặt tư tưởng và ý nghĩa, khi còn bé được đọc qua Hồ Trường lần thứ nhất chúng tôi đã cảm nhận được ý tứ và hình ảnh gần như trọn vẹn của “chí làm trai” do Uy Viễn Tướng Quân viết ra gần trăm năm trước đó (tính từ 1920 ngược về 1830’s!):

    Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc.
    Nợ tang bồng vay trả, trả vay.
    Chí làm trai Nam, Bắc, Đông, Tây,
    Cho phỉ sức vẩy vùng trong bốn bể.
    Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
    Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.
    Đã chắc rằng ai nhục ai vinh,
    Mấy kẻ biết anh hùng khi vị ngộ.
    Cũng có lúc mưa dồn sóng vỗ,
    Quyết ra tay buồm lái với cuồng phong.
    Chí những toan xẻ núi lấp sông,
    Làm nên tiếng anh hùng đâu đấy tỏ.
    Đường mây rộng thênh thênh cử bộ,
    Nợ tang bồng trang trắng, vỗ tay reo
    Thảnh thơi thơ túi rượu bầu.

    Kìa nọ, cũng bầu rượu, vỗ tay, reo cười, vùng vẫy (nay thành rót rượu) bốn phương Đông-Tây-Nam-Bắc… Cũng tang bồng, bốn bể, sóng cuồng, gió cả, mưa tuôn… Và, cả “cuồng lan - 狂瀾” từ “Kẻ Sĩ”. Cả hai bài này, Kẻ Sĩ và Chí Làm Trai, đều được cụ Nguyễn Công Trứ trước tác bằng chữ Nôm.

    Người Trung hoa đọc được chữ Nôm để bắt chước theo ý tứ của cụ qua bài “Chí Làm Trai” rồi viết thành Hán văn “Nam Phương Ca Khúc”; chẳng phải là điều hiếm thấy hay sao?

    Nó lại còn khó tin hơn nữa nếu chúng ta cho rằng một người Trung hoa nào đó đọc được tư tưởng của Uy Viễn Tướng Quân từ đầu thế kỷ mười chín rồi sáng tác thành bài thơ-ca “Nam Phương Ca Khúc”; Để rồi gần trăm năm sau, đầu thế kỷ hai mươi, có người Việt khác là cụ Nguyễn Bá Trác lại học được bài thơ ấy bằng Hán văn và dịch thơ để thuật lại trong truyện du ký và đem đi đăng báo.

    Ngày nay, người Tàu tại Hoa lục cũng như khắp thế giới không biết gì về bài thơ Hán văn đó. Chúng tôi lục tìm trên liên mạng toàn cầu, nhưng hoàn toàn không thấy tăm hơi của bài thơ được nói đến trong cộng đồng những người dùng Hán văn (người Tàu). Các links nhận được trong khi lục lọi, chỉ toàn các websites của người VN! ..."...
    (hết trích)

    Thưa quý vị,

    Vậy sự kiện "nhà nghiên cứu lịch sử Trung Quốc Phạm Hoàng Quân" của CHXHCNVN tuyên bố xác nhận "bài Hồ Trường nguyên tác vốn là của tác giả Trung hoa nào đó, cụ Nguyễn Bá Trác chỉ dịch mà lại không ghi tên tác giả", liệu có là một sự vu cáo cho người xưa chăng? Nhất là cụ Nguyễn Bá Trác lại bị nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa xử bắn, xin coi một đoạn tiểu sử:

    Nguyễn Bá Trác sinh năm Tân Tỵ (1881) tại làng Bảo An, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Thuở nhỏ ông theo học ở Quảng Nam, năm 1906, thi đỗ Cử nhân ở Huế.

    Hưởng ứng lời kêu gọi của các nhà ái quốc trong phong trào Đông Du, ông ra Hà Nội học tiếng Pháp và năm 1908, ông sang du học ở Nhật. Nhưng cũng ngay năm ấy, dưới sức ép của Pháp, chính phủ Nhật đã giải tán phong trào Đông Du, ông phải sang Trung Quốc rồi trở về Hà Nội (Việt Nam) năm 1914, làm ở Phòng báo chí Phủ Toàn quyền Đông Dương và Chủ bút phần Hán văn tờ Cộng Thị cho đến năm 1916.

    Năm 1917, dưới sự bảo trợ của Louis Marty, Phạm Quỳnh sáng lập Nam Phong tạp chí, ông nhận làm Chủ bút phần Hán văn.

    Sau thôi làm ở báo Nam Phong, ông vào Huế làm Tá lý Bộ Học và lần lượt trải qua các chức vụ: Tuần vũ Quảng Ngãi, Thị lang Bộ Binh, Tổng đốc Thanh Hóa, Tổng đốc Bình Định.

    Tháng 8 năm 1945, Việt Minh lên nắm chính quyền, ông bị xử bắn công khai tại Quy Nhơn (Bình Định).

    (Trích Wikipedia)

    Cho nên kẻ post xin chuyển thêm bài này để quý độc giả tìm hiểu thêm về "những người muôn năm cũ", phải chăng bài “Hạn mạn du ký” bằng chữ Hán cũng do chính cụ Nguyễn sáng tác rồi in vào phần Hán Tự của Nam Phong Tạp Chí (PHQ viết: Ông Nguyễn Bá Trác làm chủ bút chữ Hán trong những năm đầu của Nam Phong nên ông ấy có đăng những công trình nghiên cứu hay du ký của ông ấy lên trên phần chữ Hán...."...). Nay bỗng nhiên bị tước bỏ đứa con tinh thần để tặng không cho một người Tầu nào đó, chẳng thấy tài liệu nào chứng tỏ có ai là "tác giả Trung hoa nào đó" có hiện hữu hay không, cũng chẳng biết tên, chẳng tìm ra âm hao trên mạng lưới Hán tự toàn cầu, khôi hài quá.

    Chỉ tội nghiệp cụ Nguyễn, bỗng dưng bị mất tác phẩm, lại còn bị miệng lưỡi thế gian đổ tiếng xấu cho cụ, vô lý thật.

    Xin cảm ơn tác giả Chân Phương.

    Kính,
    ĐPK
    .
    Last edited by khieman; 02-05-2014 at 08:09 PM.

  3. #3
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    7,107
    Thanks
    9
    Được Cám Ơn 14 Lần
    Trong 14 Bài Viết
    .

    Nguyễn Bá Trác
    (1881-1945)


    Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn của Nam Phong từ tháng 7/1917 đến tháng 9/1919 được vời vào Huế làm quan, đến chức tổng đốc.

    Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh xác định vai trò của Nguyễn Bá Trác:

    "Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đã đóng vai đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín của một quá khứ mạo hiểm đã khiến ông nổi danh là lịch duyệt"[11].

    Nguyễn Bá Trác hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi. Những trước tác trên Nam Phong chứng tỏ ông là một người thơ văn lỗi lạc.

    Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác là hai người bạn thân từ thời đi học. Trong bài Đi học đi thi, Phan Khôi cho biết: Nguyễn Bá Trác đi thi năm Bính Ngọ (1906) không phải để đỗ, mà để làm bài thuê, kiếm tiền cho phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Rồi Nguyễn rủ Phan bỏ lối học khoa cử, cùng theo phong trào Duy Tân, Đông Du, từ 1906 và được gửi ra Hà Nội học tiếng Pháp năm 1908. Khi phong trào bị đàn áp, Phan Khôi bị bắt ở Nam Định. Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam rồi sang Xiêm, sang Nhật, sang Tầu.

    Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, mục từ 59, ghi:

    "... Trác được vào học lớp cán bộ quân sự ở Quảng Tây cùng với Trần Huy Lực (xem Phan Bội Châu niên biểu, trang 111). Nhưng rồi Trác làm mật thám cho Pháp, vào làm phòng báo chí của phủ toàn quyền. Lúc đầu, Trác được giao cho việc làm tờ "Công thị báo" bằng chữ Hán. Năm 1917, khi tên trùm mật thám Mác-ty (Marty) sai Phạm Quỳnh làm chủ bút tờ Nam Phong thì Trác được giữ gìn phần chữ Hán của tạp chí đó. Vì có công lao ấy, Trác được bổ ra làm Tá lý bộ Học ở Huế rồi làm Tuần phủ Quảng Ngãi, y đã đàn áp nhân dân và tàn sát nhiều nhà cách mạng."
    [12]

    Những "thông tin" trên đây vừa lộn xộn vừa đáng ngờ: Nguyễn Bá Trác làm mật thám lúc nào? Ở Quảng Tây hay ở Hà Nội? Vì làm mật thám nên được vào phủ toàn quyền hay vào phủ toàn quyền rồi mới làm mật thám? Ở Quảng Ngãi, Nguyễn Bá Trác đã giết những ai? Tên họ các nạn nhân là gì mà bảo là "tàn sát nhiều nhà cách mạng"? Chúng tôi chỉ nhắc đến cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, vì đây là cuốn sách chính mà những người đi sau, thường sao chép lại. Từ điển văn học loại hẳn tên Nguyễn Bá Trác ra ngoài.

    Vấn đề Nguyễn Bá Trác không chỉ nổi cộm trong chế độ cộng sản, mà nhiều nhà nghiên cứu trong Nam ngoài Bắc khi nhắc đến Nguyễn Bá Trác, thường úp mở ngụ ý ông là Việt gian. Nguyễn Văn Xuân trong Phong Trào Duy Tân nói đến việc Mai Dị "gởi cho Nguyễn Bá Trác một bức thư chửi rủa thậm tệ, được nhiều người truyền tụng"[13]. Điều này cũng chẳng chứng tỏ được gì.

    Điểm đáng chú ý là Huỳnh Thúc Kháng khi viết tiểu sử Trần Quý Cáp, năm 1938, có câu:

    "Về thi văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác"
    [14].

    Vậy Nguyễn Bá Trác, sau khi về đầu thú, vẫn được các bạn đồng hành tín nhiệm, trao giữ tác phẩm của thầy Trần Quý Cáp, và khi ra làm báo Nam Phong, Nguyễn vào Quảng Nam rủ Phan Khôi làm cùng, Phan Khôi không chối từ, chưa kể việc Nguyễn được thầy cũ là Nguyễn Bá Học gả con gái cho. Từ khi Nguyễn Bá Trác về đầu thú đến lúc ông bị Việt Minh xử tử, Phan Khôi không ngừng giao thiệp với Nguyễn Bá Trác. Theo Phan Khôi, năm 1926, cụ Phan Bội Châu về Huế đến ở nhà Nguyễn Bá Trác và ông cũng đến ở đó. Như vậy, Phan Bội Châu cũng tin cẩn Nguyễn Bá Trác.

    Về phía kết tội Nguyễn Bá Trác, chưa ai nêu được chứng cớ rõ rệt, thường chỉ phỏng theo lời đồn. Cho tới nay, chứng cớ duy nhất dựa vào một chú thích trong cuốn Mémoires de Phan Bội Châu[15] của Georges Boudarel, 1968, cho biết: Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt đã chỉ điểm cho Pháp bắt Trần Hữu Lực, một chiến sĩ của Phan Bội Châu.

    Trần Hữu Lực là ai? Phan Bội Châu viết trong Tự Phán:

    "Trần Hữu Lực người Nghệ An, tên thực là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên sinh, là thầy học tôi. Nhà đời nghiệp Nho, mà tính chất ông khác riêng một cách, có thái độ như một nhà võ sĩ thời xưa"
    [16].

    Trần Hữu Lực theo phong trào Đông Du sang Nhật, học trường quân sự Đông Kinh. Khi Nhật giải tán Đông Du, trục xuất Cường Để (1909), Lực nổi giận, định chống lại, nhưng các đồng chí ngăn cản, ông bỏ sang Tầu. Trần Hữu Lực cùng Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được vào học trường quân sự Quảng Tây. Sau khi tốt nghiệp, Trần Hữu Lực về Quảng Đông, nhận chức thiếu úy. Phan Bội Châu kể tiếp:

    "Đến lúc Việt Nam Quang Phục Hội thành lập[17] ông tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt Kiều. Tôi lấy tư cách Quang Phục hội Tổng lý, đặc uỷ ông làm trú Xiêm Quang phục hội chi bộ bộ trưởng[18] (...) Rủi lúc đó, nước Xiêm cũng tuyên chiến với Đức. Chính phủ Xiêm theo lời giao thiệp của người Pháp hết sức phá cách mạng đảng của người Việt Nam, kẻ tù người đuổi. Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông, ông bị dẫn độ với chính phủ Pháp, bắt về Hà Nội, tống vào nhà pha khuyên ông chịu thú phục thì được tha tội. Ông không chịu, đồng một ngày ấy với Hoàng Trọng Mậu bị sang sát[19]dưới núi Bạch Mai"[20].

    Vẫn theo Phan Bội Châu, Trần Hữu Lực bị bắt ở Xiêm ngày 26/6/1915. Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Hương Cảng ngày 28/5/1915[21]. Phan Bội Châu viết rất rõ, trong Tự Phán:

    "Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông".

    Câu này trong Phan Bội Châu niên biểu, Chương Thâu ghi như sau:

    "Hai tên trinh thám Pháp, một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ(2) hết sức săn cho được ông";
    và trong chú thích (2) Chương Thâu viết: "Câu này trong bản của Anh Minh chỉ ghi Nguyễn... và Nguyễn... nhằm che dấu cho hai tên phản bội này. Bản Nguyễn Khắc Ngữ thì không ghi rõ tên mà chỉ chú theo MP là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di)"[22].

    Tóm lại, trong các bản dịch khác nhau của Tự phán:

    - Bản Nhân Chủ học xã: Không ghi tên 2 người trinh thám.
    - Bản Chương Thâu ghi một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ[23].
    - Theo Chương Thâu: Bản Anh Minh ghi: Nguyễn... và Nguyễn...
    - Bản Nguyễn Khắc Ngữ không ghi tên mà chỉ chú theo MP.
    - MP là viết tắt của Mémoires de Phan Bội Châu, bản dịchTự phán của Boudarel. Và Boudarel chú thích hai người này là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di).

    Nhưng Phan Bội Châu không hề viết rõ tên hai mật thám săn bắt Trần Hữu Lực.

    Nguyễn Khắc Ngữ và Chương Thâu chép lại chú thích của Boudarel để xác định hai kẻ đó là Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt. Hiện chúng tôi không có bản của Boudarel, nên không rõ Boudarel dựa vào đâu, để xác định như thế.

    Nhưng khi khảo sát Tự phán của Phan Bội Châu và Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, thì thấy nhiều chứng, minh oan cho Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và cả Lê Dư:

    1/ Nếu Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và Lê Dư làm chỉ điểm cho Pháp, thì tại sao Phan Bội Châu lại không viết rõ tên họ ra? Tại sao họ lại không bị đảng Quang Phục giết như trường hợp Phan Bá Ngọc? Phan Bội Châu viết rất rõ hành vi phản bội của Phan Bá Ngọc - con trai Phan Đình Phùng và việc Ngọc bị Lê Tán Anh ám sát, với súng và tiền lộ phí do Cường Để cung cấp[24].

    2/ Ra đầu thú không phải là một tội đối với đảng: chứng cớ là sau khi đầu thú, Lê Dư vẫn hoạt động tiếp. Phan Bội Châu viết:

    "Vừa lúc đó
    (1917), ông Lê Dư ở trong nước ra, đương ở Nhật Bản, đi theo Kỳ Ngoại Hầu, viết giấy mời tôi qua, bảo rằng có 2000 hễ đến Nhật Bản thì đưa ngay. Nghĩ đến Lê mới về thú, bạc này lấy ở đâu vào? Ngẫm nghĩ một hồi lâu mới biết được manh mối bạc này rồi"[25].

    Lê Dư tiếp tục kinh tài cho đảng tới 1918. Lê Dư chơi thân với Phan Bá Ngọc, cả hai đều khuyên Phan Bội Châu viết Pháp Việt đề huề luận[26], các việc này Phan Bội Châu đều ghi rõ, nhưng ông không hề xác định Lê Dư phản đảng: Vậy đảng biết rất rõ hành động từng người.

    3/ Trong Tự phán, Phan Bội Châu chỉ nhắc đến Nguyễn Bá Trác hai lần, trong câu "Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt, ba người - tức là kể cả Trần Hữu Lực- đồng thời vào nhà quân hiệu" và câu "Quảng Tây cán bộ học đường thì có những người như Trần Hữu Lực, Nguyễn Tiêu Đẩu, Nguyễn Thái Bạt"[27]. Ngoài ra, không có lời nào khác trong Tự phán chỉ định Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt làm chỉ điểm lùng bắt Trần Hữu Lực ở Xiêm.

    4/ Trong Hạn mạn du ký, Nguyễn Bá Trác cho biết: ông về tới Sài Gòn tháng 8/1914. Và trong bài Lời di ngôn của của cụ Nguyễn Bá Học, Nguyễn viết:

    "Hồi tháng 9 năm 1914 tôi tới Hà Nội, mới được tha về vài ngày, liền xuống Nam Định hỏi thăm tiên sinh[28] (...) Tiên sinh lại hỏi tôi rằng: "Anh ở Hà Nội định làm kế sinh hoạt gì?". Tôi chưa kịp đáp, tiên sinh lại nói rằng: "Tôi bây giờ nguyệt bổng[29] đã được bốn năm chục, nếu anh chửa được việc gì để làm sinh kế, thời tôi có thể giúp anh được; bản tâm tôi là muốn bảo toàn danh dự cho anh vậy". Tôi mới đáp là đã làm việc báo, tiên sinh nói rằng: "Ừ, thế được, phải cố gắng lên mà phải cẩn thận, chớ có táo suất[30] mà làm cho lấp đường ngôn luận của nước ta"[31].

    Khi về đầu thú, Nguyễn Bá Trác làm công chức ở sở toàn quyền, phụ trách Công thị báo từ 1914, làm báo Âu Châu chiến sử với Phạm Quỳnh, và đến tháng 6/1917, ra báo Nam Phong. Tháng 9/1914, ông xuống Nam Định thăm Nguyễn Bá Học, người thày dạy ở Đông Kinh Nghiã Thục, sau biến cố Trung Kỳ dân biến, đã cưu mang học trò Quảng Nam ra Hà Nội, nuôi và dậy học trong nhà, số 108, phố Hàng Rượu, Nam Định. Nguyễn Bá Học không những giúp đỡ học trò gỡ rối việc ra đầu thú mà còn gả con gái cho Nguyễn Bá Trác.

    Như vậy không hề có chứng cớ rõ ràng, để có thể gán cho Nguyễn Bá Trác việc sang Xiêm săn lùng và làm chỉ điểm để Pháp bắt Trần Hữu Lực ngày 26/6/1915.

    5/ Hạn mạn du ký một lần nữa minh oan cho Nguyễn Bá Trác: Hạn mạn du ký - Lời ký của một người đi chơi phiếm[32] viết về 6 năm trốn ra ngoại quốc của Nguyễn Bá Trác, từ tháng 3/1908 đến tháng 8/1914.

    Sau vụ Trung kỳ dân biến, phong trào Duy Tân và Đông Du bị khủng bố: Nguyễn Bá Trác trốn xuống tàu về Trung, đến Phú Yên, ẩn trong rừng 8, 9 tháng. Ngày 24/12/1908, ông lên tàu vào Nam. Ngày 7/1/1909 đến Mỹ Tho, rồi đi Bến Tre và vào làng Tân Hương dậy học. Ba tháng sau ông lên Sài Gòn, rồi đêm 3/4/1909, từ Sài Gòn xuống tàu trốn đi Xiêm, tới Bangkok ngày 6/4/1909. Từ đây bắt đầu cuộc lưu vong, đi Hương Cảng, rồi sang Nhật. Tới Nhật, sinh viên du học đã bị trục xuất. Ở Nhật một tháng, rồi quay về Thượng Hải, định tìm đường lên Bắc Kinh, nhưng không thành. Tháng 2/1910, làm báo với Trần quân, tức Trần Thế Mỹ, một yếu nhân của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tại Thượng Hải.

    Tháng 6/1910, gặp Nguyên quân - tức Trần Hữu Lực cả hai được một ân nhân giới thiệu thi vào trường sĩ quan Quảng Tây, ở Quế Lâm, tháng 9/1910. Trong thời gian học ở Quế Lâm, một lão bà tìm đến trường: Bà người Việt, con quan, bị giặc Khách bắt về Tàu từ thủa nhỏ, bị bán nhiều lần, có người con gái là Trần Tuệ Nương, muốn gả cho Bá Trác để mẹ con tìm đường về nước. Nghĩ phận mình trôi nổi chưa biết ra sao nên Bá Trác khước từ. Hai năm sau trên đường lưu lạc, Bá Trác hay tin Tuệ Nương đã chết.

    Chương trình học quân sự là ba năm, nhưng Trác và Lực đỗ vào năm thứ nhì; vì thiếu ngân quỹ, chính phủ Trung Hoa gộp hai năm làm một, nên tháng 9/1911, cả hai tốt nghiệp. Trần Hữu Lực được bổ làm sĩ quan ở sở Binh Bị. Nguyễn Bá Trác rời Quế Lâm, theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bị kéo vào cuộc nội chiến, nay Thượng Hải, Nam Kinh, mai Bắc Kinh, Trùng Khánh, rồi quay về Thượng Hải, cuối cùng quyết định về nước. Trong khi đó, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng Châu ngày 20/1/1914 đến tháng 4/1916 mới được tha.

    Tháng 1/1914, Bá Trác từ Thượng Hải về Quảng Đông, ở lại 6 tháng. Đầu tháng 7/1914, đáp tầu đi Hương Cảng. Rồi từ Hương Cảng về đến Sài Gòn tháng 8/1914.

    Hạn mạn du ký là một thiên ký sự. Tác giả ghi rõ ngày tháng từng sự kiện, nhưng đổi tên nhân vật và giấu những gì liên hệ đến tổ chức cách mạng Phan Bội Châu. Tác phẩm còn là văn bản nghiên cứu lịch sử và văn hoá ba nước: Nhật Bản, Trung Hoa và Cao Ly (Triều Tiên). Về giá trị văn chương, sử học và xã hội, Hạn mạn du ký có phần sâu sắc hơn Hải Trình Chí Lược của Phan Huy Chú hay Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đình Hổ.

    Tác phẩm có 2 đoạn đáng chú ý, có thể minh oan cho Nguyễn Bá Trác:

    1/ Đoạn viết về lòng nhớ nước và khát vọng trở về đất tổ của lão bà bị cướp khỏi gia đình từ thời niên thiếu, lưu lạc trên đất khách, trọn đời chỉ có một quyết tâm: nuôi con thành người Việt, lấy chồng Việt để tìm đường về tổ quốc. Người mẹ ấy nói: "Ôi! Người mà quên cả ông cha, gọi là người "vong tổ" có thể là người được chăng?" Lời nói ấy, dường như phát tự đáy lòng Nguyễn Bá Trác.

    2/ Đoạn tả Nguyên quân ngâm bài Hồ Trường. Nguyên quân -anh Nguyên- chính là Trần Hữu Lực, được mô tả như một hiệp sĩ thời xưa, vừa nghệ sĩ, vừa khẳng khái, với giọng thân ái và kính phục, nhưng cũng bộc lộ tâm sự của tác giả:

    "Nguyên quân cả năm không hay uống rượu đã uống thì say, đã say hay hát. Hát không hiểu khúc, song tiếng trong mà cao; cứ nghêu ngao mấy câu cổ phong, tự người ngoại quốc nghe đã lấy làm kiêu điệu lắm; cho nên ngày ở Quế Lâm, thi tốt nghiệp rồi, Nguyên quân say rượu tay gõ miệng hát, anh em đồng học đều khen là danh ca.

    Chiều hôm ấy[33] rượu ngà ngà, Nguyên quân cũng đứng dậy mà hát. Cách phòng có một người khác tên là Lưu mỗ, là người Trực Lệ, hiện làm quan võ coi lính ở Quảng Tây, nghe Nguyên quân hát, bèn vào phòng, chào nói tên họ rồi hỏi Nguyên quân: "Tôi nhớ năm xưa có gặp quý hữu một lần ở tại Đông Kinh nước Nhật". Nguyên quân nói: "Lâu ngày không nhớ rõ". Khách lại hỏi: "Vừa nghe quý hữu hát ấy là điều gì?". Nguyên quân nói: "Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam!" Khách nói:" Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khẳng khái, nam phương có điệu hát đến như thế ru?". Nói rồi, liền gọi thằng hầu lấy bút, xin Nguyên quân viết bài hát cho mà xem. Nguyên quân cầm bút viết ngay. Bài hát dịch ra như sau này:

    Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
    Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương.
    Trời Nam nghìn dậm thẳm; mây nước một mầu sương.
    Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc; trăm năm thân thể bóng tà dương.
    Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
    Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
    Rót về Đông phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng lan.
    Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
    Rót về Bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
    Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
    Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết lòng ta hay;
    Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây"[34]

    Không ai viết như vậy về người mình đã "chỉ điểm" cho Pháp bắt giết. Giọng văn bí ẩn, cố giấu tông tích người hiệp sĩ anh hùng, nhưng cũng muốn ngỏ cho người đọc thấy sự thực: Nguyên quân - Trần Hữu Lực là một "hiệp sĩ", có giọng ngâm hay, nhưng không phải là người văn học, vì "hát không hiểu khúc".

    Bài mà Nguyên quân hát, Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam! - Một điệu phương Nam, mà phương Nam là đâu? Là nước Việt, nhưng người Việt có ai biết bài này, trừ Nguyễn Bá Trác? Vậy người sáng tác Hồ Trường phải là Nguyễn Bá Trác.Từ trước đến nay, vì không có sự khảo sát văn bản, người ta vẫn cho rằng bài Hồ trường là của Nguyên Quân, người Tầu, được Nguyễn Bá Trác dịch sang tiếng Việt.

    Sự thực, Nguyên quân chỉ là Nguyễn quân đã bỏ dấu ngã. Tác giả phải giấu mình, nhưng trong vô thức luôn luôn có cái gì "phản lại" tác giả, ở đây là bốn chữ: Nguyên quânphương Nam.

    Hồ trường là một tuyệt tác, nói lên tâm sự bi tráng của những thanh niên đất Quảng ra Hà Nội, mong học "thành tài"để góp phần canh tân đất nước. Nào ngờ đến Bắc việc đã hỏng. Trốn sang Xiêm, Nhật, chậm rồi. Về Tầu lang thang khất thực, học làm tướng. Theo Quốc Dân Đảng Trung hoa. Nhưng Dân Đảng bại trận. Mọi việc đều hỏng. Bốn phương mù mịt. Đói khát vây quanh. Hồ trường chính là tâm sự bi đát của Nguyễn Bá Trác.

    Chú thích:

    [11] Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (Tìm hiểu tạp chí Nam Phong), bản dịch Phạm Trọng Nhân, Ý Việt, Paris, 1993, trang 68.

    [12] Lược truyện các tác gia Việt Nam, quyển II, trang 152.

    [13] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, Là Bối, Sài Gòn, 1970, trang 213.

    [14] Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu sử Trần Quý Cáp, Trần Quý Cáp của Lam Giang, Đông A, Sài Gòn, 1971, trang 16.

    [15] Bản dịch Tự phán ra tiếng Pháp của Georges Boudarel, France-Asie số 194-195, Paris, 1968.

    [16] Phan Bội Châu, Tự phán, bản Nhân Chủ Học Xã in, Hoa Kỳ, 1987, trang127.

    [17] Ngày 19/6/1912.

    [18] Tức là quyền Chi bộ trưởng Quang Phục Hội ở Xiêm.

    [19] Xử bắn.

    [20] Tự phán, sđd, trang 128.

    [21] Tự phán, sđd, trang 186.

    [22] Phan Bội Châu niên biểu, tên khác của Tự phán, Chương Thâu, Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh, 2001, trang 177.

    [23] Mỗ là tiếng chỉ người, thay cho tên thật.

    [24] Tự phán, bản Nhân Chủ học xã, trang 209.

    [25] Tự phán, trang 191.

    [26] Tự phán, trang 199-200.

    [27] Tự phán, trang 128 và 166.

    [28] Nguyễn Bá Học.

    [29] Lương tháng.

    [30] Nóng nẩy sơ suất.

    [31] Nam Phong số 50, tháng 8/1921.

    [32] Nguyên bản chữ Hán, in trên Nam Phong phần chữ Hán trước, sau tác giả dịch và in lại trên Nam Phong quốc ngữ từ số 38, 8/1920 đến số 43, 1/1921.

    [33] Khoảng tháng 3- 4/1910

    [34] Trích Hạn mạn du ký.

Chủ Đề Tương Tự

  1. Án Lạ Phương Nam
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-24-2013, 11:25 PM
  2. Điệu Buồn Phương Nam
    By duyanh in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-24-2013, 07:18 PM
  3. Đất Rừng Phương Nam
    By giavui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-24-2013, 03:17 AM
  4. Án Lạ Phương Nam
    By giahamdzui in forum Truyện Dài Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-21-2013, 10:35 PM
  5. Điệu buồn phương nam - Nguyễn Nam Long
    By giavui in forum Audio Tiểu Thuyết Tinh Cảm
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-20-2013, 11:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •