.

Nguyễn Bá Trác
(1881-1945)


Nguyễn Bá Trác làm chủ bút phần Hán Văn của Nam Phong từ tháng 7/1917 đến tháng 9/1919 được vời vào Huế làm quan, đến chức tổng đốc.

Phạm Thị Ngoạn, con gái Phạm Quỳnh xác định vai trò của Nguyễn Bá Trác:

"Vào năm 1917, bên cạnh và đối với Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác quả thực đã đóng vai đàn anh, vì tuổi tác, vì danh vị đỗ cử nhân, và nhất là uy tín của một quá khứ mạo hiểm đã khiến ông nổi danh là lịch duyệt"[11].

Nguyễn Bá Trác hơn Phạm Quỳnh 11 tuổi. Những trước tác trên Nam Phong chứng tỏ ông là một người thơ văn lỗi lạc.

Phan Khôi và Nguyễn Bá Trác là hai người bạn thân từ thời đi học. Trong bài Đi học đi thi, Phan Khôi cho biết: Nguyễn Bá Trác đi thi năm Bính Ngọ (1906) không phải để đỗ, mà để làm bài thuê, kiếm tiền cho phong trào Đông Du, rút cục lại đỗ cử nhân. Rồi Nguyễn rủ Phan bỏ lối học khoa cử, cùng theo phong trào Duy Tân, Đông Du, từ 1906 và được gửi ra Hà Nội học tiếng Pháp năm 1908. Khi phong trào bị đàn áp, Phan Khôi bị bắt ở Nam Định. Nguyễn Bá Trác trốn ở trong Nam rồi sang Xiêm, sang Nhật, sang Tầu.

Trong Lược truyện các tác gia Việt Nam, mục từ 59, ghi:

"... Trác được vào học lớp cán bộ quân sự ở Quảng Tây cùng với Trần Huy Lực (xem Phan Bội Châu niên biểu, trang 111). Nhưng rồi Trác làm mật thám cho Pháp, vào làm phòng báo chí của phủ toàn quyền. Lúc đầu, Trác được giao cho việc làm tờ "Công thị báo" bằng chữ Hán. Năm 1917, khi tên trùm mật thám Mác-ty (Marty) sai Phạm Quỳnh làm chủ bút tờ Nam Phong thì Trác được giữ gìn phần chữ Hán của tạp chí đó. Vì có công lao ấy, Trác được bổ ra làm Tá lý bộ Học ở Huế rồi làm Tuần phủ Quảng Ngãi, y đã đàn áp nhân dân và tàn sát nhiều nhà cách mạng."
[12]

Những "thông tin" trên đây vừa lộn xộn vừa đáng ngờ: Nguyễn Bá Trác làm mật thám lúc nào? Ở Quảng Tây hay ở Hà Nội? Vì làm mật thám nên được vào phủ toàn quyền hay vào phủ toàn quyền rồi mới làm mật thám? Ở Quảng Ngãi, Nguyễn Bá Trác đã giết những ai? Tên họ các nạn nhân là gì mà bảo là "tàn sát nhiều nhà cách mạng"? Chúng tôi chỉ nhắc đến cuốn Lược truyện các tác gia Việt Nam, vì đây là cuốn sách chính mà những người đi sau, thường sao chép lại. Từ điển văn học loại hẳn tên Nguyễn Bá Trác ra ngoài.

Vấn đề Nguyễn Bá Trác không chỉ nổi cộm trong chế độ cộng sản, mà nhiều nhà nghiên cứu trong Nam ngoài Bắc khi nhắc đến Nguyễn Bá Trác, thường úp mở ngụ ý ông là Việt gian. Nguyễn Văn Xuân trong Phong Trào Duy Tân nói đến việc Mai Dị "gởi cho Nguyễn Bá Trác một bức thư chửi rủa thậm tệ, được nhiều người truyền tụng"[13]. Điều này cũng chẳng chứng tỏ được gì.

Điểm đáng chú ý là Huỳnh Thúc Kháng khi viết tiểu sử Trần Quý Cáp, năm 1938, có câu:

"Về thi văn của Tiên sinh không lưu bản cảo, chỉ có đồng nhân cùng tôi còn nhớ đôi bài lượm lặt chép thành tập, gửi nơi Tiêu Đẩu Nguyễn Bá Trác"
[14].

Vậy Nguyễn Bá Trác, sau khi về đầu thú, vẫn được các bạn đồng hành tín nhiệm, trao giữ tác phẩm của thầy Trần Quý Cáp, và khi ra làm báo Nam Phong, Nguyễn vào Quảng Nam rủ Phan Khôi làm cùng, Phan Khôi không chối từ, chưa kể việc Nguyễn được thầy cũ là Nguyễn Bá Học gả con gái cho. Từ khi Nguyễn Bá Trác về đầu thú đến lúc ông bị Việt Minh xử tử, Phan Khôi không ngừng giao thiệp với Nguyễn Bá Trác. Theo Phan Khôi, năm 1926, cụ Phan Bội Châu về Huế đến ở nhà Nguyễn Bá Trác và ông cũng đến ở đó. Như vậy, Phan Bội Châu cũng tin cẩn Nguyễn Bá Trác.

Về phía kết tội Nguyễn Bá Trác, chưa ai nêu được chứng cớ rõ rệt, thường chỉ phỏng theo lời đồn. Cho tới nay, chứng cớ duy nhất dựa vào một chú thích trong cuốn Mémoires de Phan Bội Châu[15] của Georges Boudarel, 1968, cho biết: Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt đã chỉ điểm cho Pháp bắt Trần Hữu Lực, một chiến sĩ của Phan Bội Châu.

Trần Hữu Lực là ai? Phan Bội Châu viết trong Tự Phán:

"Trần Hữu Lực người Nghệ An, tên thực là Nguyễn Thức Đường, con trai Đông Khê tiên sinh, là thầy học tôi. Nhà đời nghiệp Nho, mà tính chất ông khác riêng một cách, có thái độ như một nhà võ sĩ thời xưa"
[16].

Trần Hữu Lực theo phong trào Đông Du sang Nhật, học trường quân sự Đông Kinh. Khi Nhật giải tán Đông Du, trục xuất Cường Để (1909), Lực nổi giận, định chống lại, nhưng các đồng chí ngăn cản, ông bỏ sang Tầu. Trần Hữu Lực cùng Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt được vào học trường quân sự Quảng Tây. Sau khi tốt nghiệp, Trần Hữu Lực về Quảng Đông, nhận chức thiếu úy. Phan Bội Châu kể tiếp:

"Đến lúc Việt Nam Quang Phục Hội thành lập[17] ông tự nguyện sang Xiêm La, tổ chức toán quân Việt Kiều. Tôi lấy tư cách Quang Phục hội Tổng lý, đặc uỷ ông làm trú Xiêm Quang phục hội chi bộ bộ trưởng[18] (...) Rủi lúc đó, nước Xiêm cũng tuyên chiến với Đức. Chính phủ Xiêm theo lời giao thiệp của người Pháp hết sức phá cách mạng đảng của người Việt Nam, kẻ tù người đuổi. Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông, ông bị dẫn độ với chính phủ Pháp, bắt về Hà Nội, tống vào nhà pha khuyên ông chịu thú phục thì được tha tội. Ông không chịu, đồng một ngày ấy với Hoàng Trọng Mậu bị sang sát[19]dưới núi Bạch Mai"[20].

Vẫn theo Phan Bội Châu, Trần Hữu Lực bị bắt ở Xiêm ngày 26/6/1915. Hoàng Trọng Mậu bị bắt ở Hương Cảng ngày 28/5/1915[21]. Phan Bội Châu viết rất rõ, trong Tự Phán:

"Hai tên trinh thám cho Pháp, một người Trung Kỳ, một người Bắc Kỳ, hết sức săn cho được ông".

Câu này trong Phan Bội Châu niên biểu, Chương Thâu ghi như sau:

"Hai tên trinh thám Pháp, một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ(2) hết sức săn cho được ông";
và trong chú thích (2) Chương Thâu viết: "Câu này trong bản của Anh Minh chỉ ghi Nguyễn... và Nguyễn... nhằm che dấu cho hai tên phản bội này. Bản Nguyễn Khắc Ngữ thì không ghi rõ tên mà chỉ chú theo MP là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di)"[22].

Tóm lại, trong các bản dịch khác nhau của Tự phán:

- Bản Nhân Chủ học xã: Không ghi tên 2 người trinh thám.
- Bản Chương Thâu ghi một người Bắc Kỳ tên là Hùng; một người Trung Kỳ tên là mỗ[23].
- Theo Chương Thâu: Bản Anh Minh ghi: Nguyễn... và Nguyễn...
- Bản Nguyễn Khắc Ngữ không ghi tên mà chỉ chú theo MP.
- MP là viết tắt của Mémoires de Phan Bội Châu, bản dịchTự phán của Boudarel. Và Boudarel chú thích hai người này là Nguyễn Tiêu Đẩu (Nguyễn Bá Trác) và Nguyễn Thái Bạt (Nguyễn Phong Di).

Nhưng Phan Bội Châu không hề viết rõ tên hai mật thám săn bắt Trần Hữu Lực.

Nguyễn Khắc Ngữ và Chương Thâu chép lại chú thích của Boudarel để xác định hai kẻ đó là Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt. Hiện chúng tôi không có bản của Boudarel, nên không rõ Boudarel dựa vào đâu, để xác định như thế.

Nhưng khi khảo sát Tự phán của Phan Bội Châu và Hạn mạn du ký của Nguyễn Bá Trác, thì thấy nhiều chứng, minh oan cho Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và cả Lê Dư:

1/ Nếu Nguyễn Bá Trác, Nguyễn Thái Bạt và Lê Dư làm chỉ điểm cho Pháp, thì tại sao Phan Bội Châu lại không viết rõ tên họ ra? Tại sao họ lại không bị đảng Quang Phục giết như trường hợp Phan Bá Ngọc? Phan Bội Châu viết rất rõ hành vi phản bội của Phan Bá Ngọc - con trai Phan Đình Phùng và việc Ngọc bị Lê Tán Anh ám sát, với súng và tiền lộ phí do Cường Để cung cấp[24].

2/ Ra đầu thú không phải là một tội đối với đảng: chứng cớ là sau khi đầu thú, Lê Dư vẫn hoạt động tiếp. Phan Bội Châu viết:

"Vừa lúc đó
(1917), ông Lê Dư ở trong nước ra, đương ở Nhật Bản, đi theo Kỳ Ngoại Hầu, viết giấy mời tôi qua, bảo rằng có 2000 hễ đến Nhật Bản thì đưa ngay. Nghĩ đến Lê mới về thú, bạc này lấy ở đâu vào? Ngẫm nghĩ một hồi lâu mới biết được manh mối bạc này rồi"[25].

Lê Dư tiếp tục kinh tài cho đảng tới 1918. Lê Dư chơi thân với Phan Bá Ngọc, cả hai đều khuyên Phan Bội Châu viết Pháp Việt đề huề luận[26], các việc này Phan Bội Châu đều ghi rõ, nhưng ông không hề xác định Lê Dư phản đảng: Vậy đảng biết rất rõ hành động từng người.

3/ Trong Tự phán, Phan Bội Châu chỉ nhắc đến Nguyễn Bá Trác hai lần, trong câu "Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt, ba người - tức là kể cả Trần Hữu Lực- đồng thời vào nhà quân hiệu" và câu "Quảng Tây cán bộ học đường thì có những người như Trần Hữu Lực, Nguyễn Tiêu Đẩu, Nguyễn Thái Bạt"[27]. Ngoài ra, không có lời nào khác trong Tự phán chỉ định Nguyễn Bá Trác và Nguyễn Thái Bạt làm chỉ điểm lùng bắt Trần Hữu Lực ở Xiêm.

4/ Trong Hạn mạn du ký, Nguyễn Bá Trác cho biết: ông về tới Sài Gòn tháng 8/1914. Và trong bài Lời di ngôn của của cụ Nguyễn Bá Học, Nguyễn viết:

"Hồi tháng 9 năm 1914 tôi tới Hà Nội, mới được tha về vài ngày, liền xuống Nam Định hỏi thăm tiên sinh[28] (...) Tiên sinh lại hỏi tôi rằng: "Anh ở Hà Nội định làm kế sinh hoạt gì?". Tôi chưa kịp đáp, tiên sinh lại nói rằng: "Tôi bây giờ nguyệt bổng[29] đã được bốn năm chục, nếu anh chửa được việc gì để làm sinh kế, thời tôi có thể giúp anh được; bản tâm tôi là muốn bảo toàn danh dự cho anh vậy". Tôi mới đáp là đã làm việc báo, tiên sinh nói rằng: "Ừ, thế được, phải cố gắng lên mà phải cẩn thận, chớ có táo suất[30] mà làm cho lấp đường ngôn luận của nước ta"[31].

Khi về đầu thú, Nguyễn Bá Trác làm công chức ở sở toàn quyền, phụ trách Công thị báo từ 1914, làm báo Âu Châu chiến sử với Phạm Quỳnh, và đến tháng 6/1917, ra báo Nam Phong. Tháng 9/1914, ông xuống Nam Định thăm Nguyễn Bá Học, người thày dạy ở Đông Kinh Nghiã Thục, sau biến cố Trung Kỳ dân biến, đã cưu mang học trò Quảng Nam ra Hà Nội, nuôi và dậy học trong nhà, số 108, phố Hàng Rượu, Nam Định. Nguyễn Bá Học không những giúp đỡ học trò gỡ rối việc ra đầu thú mà còn gả con gái cho Nguyễn Bá Trác.

Như vậy không hề có chứng cớ rõ ràng, để có thể gán cho Nguyễn Bá Trác việc sang Xiêm săn lùng và làm chỉ điểm để Pháp bắt Trần Hữu Lực ngày 26/6/1915.

5/ Hạn mạn du ký một lần nữa minh oan cho Nguyễn Bá Trác: Hạn mạn du ký - Lời ký của một người đi chơi phiếm[32] viết về 6 năm trốn ra ngoại quốc của Nguyễn Bá Trác, từ tháng 3/1908 đến tháng 8/1914.

Sau vụ Trung kỳ dân biến, phong trào Duy Tân và Đông Du bị khủng bố: Nguyễn Bá Trác trốn xuống tàu về Trung, đến Phú Yên, ẩn trong rừng 8, 9 tháng. Ngày 24/12/1908, ông lên tàu vào Nam. Ngày 7/1/1909 đến Mỹ Tho, rồi đi Bến Tre và vào làng Tân Hương dậy học. Ba tháng sau ông lên Sài Gòn, rồi đêm 3/4/1909, từ Sài Gòn xuống tàu trốn đi Xiêm, tới Bangkok ngày 6/4/1909. Từ đây bắt đầu cuộc lưu vong, đi Hương Cảng, rồi sang Nhật. Tới Nhật, sinh viên du học đã bị trục xuất. Ở Nhật một tháng, rồi quay về Thượng Hải, định tìm đường lên Bắc Kinh, nhưng không thành. Tháng 2/1910, làm báo với Trần quân, tức Trần Thế Mỹ, một yếu nhân của Quốc Dân Đảng Trung Hoa, tại Thượng Hải.

Tháng 6/1910, gặp Nguyên quân - tức Trần Hữu Lực cả hai được một ân nhân giới thiệu thi vào trường sĩ quan Quảng Tây, ở Quế Lâm, tháng 9/1910. Trong thời gian học ở Quế Lâm, một lão bà tìm đến trường: Bà người Việt, con quan, bị giặc Khách bắt về Tàu từ thủa nhỏ, bị bán nhiều lần, có người con gái là Trần Tuệ Nương, muốn gả cho Bá Trác để mẹ con tìm đường về nước. Nghĩ phận mình trôi nổi chưa biết ra sao nên Bá Trác khước từ. Hai năm sau trên đường lưu lạc, Bá Trác hay tin Tuệ Nương đã chết.

Chương trình học quân sự là ba năm, nhưng Trác và Lực đỗ vào năm thứ nhì; vì thiếu ngân quỹ, chính phủ Trung Hoa gộp hai năm làm một, nên tháng 9/1911, cả hai tốt nghiệp. Trần Hữu Lực được bổ làm sĩ quan ở sở Binh Bị. Nguyễn Bá Trác rời Quế Lâm, theo Quốc Dân Đảng Trung Hoa, bị kéo vào cuộc nội chiến, nay Thượng Hải, Nam Kinh, mai Bắc Kinh, Trùng Khánh, rồi quay về Thượng Hải, cuối cùng quyết định về nước. Trong khi đó, Phan Bội Châu bị bắt ở Quảng Châu ngày 20/1/1914 đến tháng 4/1916 mới được tha.

Tháng 1/1914, Bá Trác từ Thượng Hải về Quảng Đông, ở lại 6 tháng. Đầu tháng 7/1914, đáp tầu đi Hương Cảng. Rồi từ Hương Cảng về đến Sài Gòn tháng 8/1914.

Hạn mạn du ký là một thiên ký sự. Tác giả ghi rõ ngày tháng từng sự kiện, nhưng đổi tên nhân vật và giấu những gì liên hệ đến tổ chức cách mạng Phan Bội Châu. Tác phẩm còn là văn bản nghiên cứu lịch sử và văn hoá ba nước: Nhật Bản, Trung Hoa và Cao Ly (Triều Tiên). Về giá trị văn chương, sử học và xã hội, Hạn mạn du ký có phần sâu sắc hơn Hải Trình Chí Lược của Phan Huy Chú hay Vũ Trung Tuỳ Bút của Phạm Đình Hổ.

Tác phẩm có 2 đoạn đáng chú ý, có thể minh oan cho Nguyễn Bá Trác:

1/ Đoạn viết về lòng nhớ nước và khát vọng trở về đất tổ của lão bà bị cướp khỏi gia đình từ thời niên thiếu, lưu lạc trên đất khách, trọn đời chỉ có một quyết tâm: nuôi con thành người Việt, lấy chồng Việt để tìm đường về tổ quốc. Người mẹ ấy nói: "Ôi! Người mà quên cả ông cha, gọi là người "vong tổ" có thể là người được chăng?" Lời nói ấy, dường như phát tự đáy lòng Nguyễn Bá Trác.

2/ Đoạn tả Nguyên quân ngâm bài Hồ Trường. Nguyên quân -anh Nguyên- chính là Trần Hữu Lực, được mô tả như một hiệp sĩ thời xưa, vừa nghệ sĩ, vừa khẳng khái, với giọng thân ái và kính phục, nhưng cũng bộc lộ tâm sự của tác giả:

"Nguyên quân cả năm không hay uống rượu đã uống thì say, đã say hay hát. Hát không hiểu khúc, song tiếng trong mà cao; cứ nghêu ngao mấy câu cổ phong, tự người ngoại quốc nghe đã lấy làm kiêu điệu lắm; cho nên ngày ở Quế Lâm, thi tốt nghiệp rồi, Nguyên quân say rượu tay gõ miệng hát, anh em đồng học đều khen là danh ca.

Chiều hôm ấy[33] rượu ngà ngà, Nguyên quân cũng đứng dậy mà hát. Cách phòng có một người khác tên là Lưu mỗ, là người Trực Lệ, hiện làm quan võ coi lính ở Quảng Tây, nghe Nguyên quân hát, bèn vào phòng, chào nói tên họ rồi hỏi Nguyên quân: "Tôi nhớ năm xưa có gặp quý hữu một lần ở tại Đông Kinh nước Nhật". Nguyên quân nói: "Lâu ngày không nhớ rõ". Khách lại hỏi: "Vừa nghe quý hữu hát ấy là điều gì?". Nguyên quân nói: "Ấy là một điệu đặc biệt ở phương nam!" Khách nói:" Nghe tiếng bi mà tráng, nhiều hơi khẳng khái, nam phương có điệu hát đến như thế ru?". Nói rồi, liền gọi thằng hầu lấy bút, xin Nguyên quân viết bài hát cho mà xem. Nguyên quân cầm bút viết ngay. Bài hát dịch ra như sau này:

Trượng phu không hay xé gan bẻ cột phù cương thường;
Hà tất tiêu dao bốn bể, luân lạc tha hương.
Trời Nam nghìn dậm thẳm; mây nước một mầu sương.
Học không thành, công chẳng lập, trai trẻ bao lâu mà đầu bạc; trăm năm thân thể bóng tà dương.
Vỗ tay mà hát, nghiêng đầu mà hỏi, trời đất mang mang, ai là tri kỷ, lại đây cùng ta cạn một hồ trường.
Hồ trường! Hồ trường! Ta biết rót về đâu?
Rót về Đông phương, nước bể Đông chẩy xiết, sinh cuồng lan.
Rót về Tây phương, mưa Tây sơn từng trận chứa chan;
Rót về Bắc phương, ngọn bắc phong vì vụt, đá chạy cát dương;
Rót về Nam phương, trời Nam mù mịt, có người quá chén như điên như cuồng.
Nào ai tỉnh, nào ai say, chí ta ta biết lòng ta hay;
Nam nhi sự nghiệp ở hồ thỉ, hà tất cùng sầu đối cỏ cây"[34]

Không ai viết như vậy về người mình đã "chỉ điểm" cho Pháp bắt giết. Giọng văn bí ẩn, cố giấu tông tích người hiệp sĩ anh hùng, nhưng cũng muốn ngỏ cho người đọc thấy sự thực: Nguyên quân - Trần Hữu Lực là một "hiệp sĩ", có giọng ngâm hay, nhưng không phải là người văn học, vì "hát không hiểu khúc".

Bài mà Nguyên quân hát, Ấy là một điệu đặc biệt ở phương Nam! - Một điệu phương Nam, mà phương Nam là đâu? Là nước Việt, nhưng người Việt có ai biết bài này, trừ Nguyễn Bá Trác? Vậy người sáng tác Hồ Trường phải là Nguyễn Bá Trác.Từ trước đến nay, vì không có sự khảo sát văn bản, người ta vẫn cho rằng bài Hồ trường là của Nguyên Quân, người Tầu, được Nguyễn Bá Trác dịch sang tiếng Việt.

Sự thực, Nguyên quân chỉ là Nguyễn quân đã bỏ dấu ngã. Tác giả phải giấu mình, nhưng trong vô thức luôn luôn có cái gì "phản lại" tác giả, ở đây là bốn chữ: Nguyên quânphương Nam.

Hồ trường là một tuyệt tác, nói lên tâm sự bi tráng của những thanh niên đất Quảng ra Hà Nội, mong học "thành tài"để góp phần canh tân đất nước. Nào ngờ đến Bắc việc đã hỏng. Trốn sang Xiêm, Nhật, chậm rồi. Về Tầu lang thang khất thực, học làm tướng. Theo Quốc Dân Đảng Trung hoa. Nhưng Dân Đảng bại trận. Mọi việc đều hỏng. Bốn phương mù mịt. Đói khát vây quanh. Hồ trường chính là tâm sự bi đát của Nguyễn Bá Trác.

Chú thích:

[11] Phạm Thị Ngoạn Introduction au Nam Phong (Tìm hiểu tạp chí Nam Phong), bản dịch Phạm Trọng Nhân, Ý Việt, Paris, 1993, trang 68.

[12] Lược truyện các tác gia Việt Nam, quyển II, trang 152.

[13] Nguyễn Văn Xuân, Phong Trào Duy Tân, Là Bối, Sài Gòn, 1970, trang 213.

[14] Huỳnh Thúc Kháng, Tiểu sử Trần Quý Cáp, Trần Quý Cáp của Lam Giang, Đông A, Sài Gòn, 1971, trang 16.

[15] Bản dịch Tự phán ra tiếng Pháp của Georges Boudarel, France-Asie số 194-195, Paris, 1968.

[16] Phan Bội Châu, Tự phán, bản Nhân Chủ Học Xã in, Hoa Kỳ, 1987, trang127.

[17] Ngày 19/6/1912.

[18] Tức là quyền Chi bộ trưởng Quang Phục Hội ở Xiêm.

[19] Xử bắn.

[20] Tự phán, sđd, trang 128.

[21] Tự phán, sđd, trang 186.

[22] Phan Bội Châu niên biểu, tên khác của Tự phán, Chương Thâu, Văn Nghệ tp Hồ Chí Minh, 2001, trang 177.

[23] Mỗ là tiếng chỉ người, thay cho tên thật.

[24] Tự phán, bản Nhân Chủ học xã, trang 209.

[25] Tự phán, trang 191.

[26] Tự phán, trang 199-200.

[27] Tự phán, trang 128 và 166.

[28] Nguyễn Bá Học.

[29] Lương tháng.

[30] Nóng nẩy sơ suất.

[31] Nam Phong số 50, tháng 8/1921.

[32] Nguyên bản chữ Hán, in trên Nam Phong phần chữ Hán trước, sau tác giả dịch và in lại trên Nam Phong quốc ngữ từ số 38, 8/1920 đến số 43, 1/1921.

[33] Khoảng tháng 3- 4/1910

[34] Trích Hạn mạn du ký.