(tiếp theo)
Chương 4
Nguyên nhân đưa đến

cuộc Cách Mạng Mùa Thu Của Tư Tưởng

Hiện nay, thời điểm chính thức xác định chính sách Đấu Tranh Giai Cấptheo đường lối Trung Quốc là tháng 1/1950, tại Đại Hội III của Đảng Cộng Sản, sau khi Hồ Chí Minh bí mật đi Liên Xô và Trung Quốc về.

Thời điểm quyết định và giải thích chính sách Cải Cách Ruộng Đất là bài diễn văn Hồ Chí Minh đọc tại Hội Nghị Nông Vận Và Dân Vận Toàn Quốc ngày 5/2/1953.

Thời điểm chính thức áp dụng chính sách Cải Cách Ruộng Đất là tại Đại Hội I của đảng Lao Động, họp tại Việt Bắc từ 14 đến 23/11/1953, với bản báo cáo của Trường Chinh.

Đấu Tranh Giai Cấp -phát sinh Cải Cách Ruộng Đất- là nguyên nhân sâu xa đưa đến chia rẽ, hận thù.

Heinz Schütte, trong bài Năm mươi năm sau: Trăm hoa đua đua nở ở Việt Nam 1954-1960, tóm tắt khá rõ tình hình miền Bắc thập niên 1950 như sau:

"Tháng 1/1950, Đại Hội III Đảng Cộng sản, tuyên bố Việt Nam chính thức đi theo đường lối Trung Quốc và đẩy mạnh chủ trương đấu tranh giai cấp trong cả nước. Điều này dẫn tới việc thủ tiêu những người bị cho là những "phần tử phản cách mạng". Sách vở Trung Quốc, đặc biệt những tác phẩm của Mao được dịch ra tiếng Việt -vài tác phẩm do chính Hồ Chí Minh dịch- để truyền bá những phương pháp của Trung Quốc trong việc vận dụng chủ nghiã Mác-Lê-Mao, trong việc tiến hành cách mạng và cải tạo tư tưởng ở Việt Nam. Tại chiến khu Việt Bắc, từ những năm 1951 đã có các khoá Chỉnh huấn tư tưởng dành cho trí thức[1]".

Đấu Tranh Giai Cấp phát sinh Chỉnh Huấn, chuẩn bị cho chiến dịch Giảm Tô, rồi Cải Cách Ruộng Đất[2]... kéo dài từ 1950 đến 1956, đã gây những tội ác làm đảo lộn xã hội Việt Nam. Sự phát động Đấu Tranh Giai Cấp là yếu tố chính trị có tính cách quyết định đối với những người không theo cộng sản. Nhưng sự bất mãn của trí thức bắt đầu từ trước.

Trường hợp Nguyễn Hữu Đang, sự bất mãn có thể đã bắt đầu ngay từ 1930, với bản Luận Cương Chính Trị của Đảng do Trần Phú soạn, nội dung ngụ ý: "Tất cả giai cấp tư sản đều là phản động", nhưng chỉ thực sự thành hình khi Trường Chinh, lý thuyết gia Đảng Cộng sản, hoàn thành bản "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam", năm 1943, nội dung thu gọn trong công thức: Đảng lãnh đạo tư tưởng, học thuật và nghệ thuật, mà không một người làm văn hoá chân chính nào có thể chấp nhận được.

Tuy nhiên, bản Đề Cương chỉ lưu hành trong đảng Cộng Sản, và đảng này đến năm 1945, theo Nguyễn Hữu Đang, chỉ có khoảng 5000 người. Vì vậy, đến tháng 12/1946, khi hầu hết trí thức văn nghệ sĩ đi theo tiếng gọi toàn quốc kháng chiến của Việt Minh, phần lớn chưa biết có một chính sách văn hoá như vậy. Tạ Tỵ, Hoàng Cầm, Trần Duy... đều nói lúc đó không biết Cộng Sản là gì và Hồ Chí Minh là ai.

Nhưng ngày 19/7/1948, khi Trường Chinh đọc bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, xác định đường lối văn nghệ kháng chiến: Văn nghệ thi đua, văn nghệ tuyên truyền, phục vụ công nông binh, văn nghệ phân biệt ta-địch, văn nghệ hiện thực xã hội chủ nghĩa, thì sự đổ vỡ bắt đầu: Nguyễn Hữu Đang bỏ về Thanh Hoá.

1948 chắc chắn là năm bản lề: kết thúc sự hợp tác chặt chẽ trong kháng chiến giữa hai thành phần dân tộc: cộng sản và không cộng sản. Từ 1949 trở đi, nhiều văn nghệ sĩ bỏ kháng chiến về thành, hoặc vào Khu Bốn với tướng Nguyễn Sơn.

Nguyễn Sơn và vùng văn nghệ tự do Khu Bốn, từ 1948 đến 1951

Đối với những văn nghệ sĩ sống gần tướng Nguyễn Sơn (1908-1956) ở Khu Bốn, như Phạm Duy thì Nguyễn Sơn là một khuôn mặt huyền thoại[3]. Làm Tư lệnh Quân Khu Bốn[4] Nguyễn Sơn đã để họ tự do sáng tác. Nguyễn Tiến Lãng[5], sau khi ra tù, được phái làm thư ký riêng cho Nguyễn Sơn, mô tả[6] vị tướng này như một người hiếu học, lãng mạn, yêu văn chương, cô đơn và bí mật. Nhưng đối với những người sống ở Việt Bắc, gần Trung Ương như Lê Đạt, thì Nguyễn Sơn chẳng có tài cán gì. Vậy sự thực Nguyễn Sơn là ai?

Đáng tin cậy nhất có lẽ là chân dung do Hoàng Văn Chí, anh rể Nguyễn Sơn viết, ở chương XI, cuốn Từ thực dân đến cộng sản, xin lược trích sau đây:

"Nguyễn Sơn tên thật là Vũ Văn Bác, sinh tại làng Kiêu Kỵ, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh; bên Tầu ông lấy tên là Hồng Thủy. Con một nhà nho tham gia Đông Kinh Nghiã Thục. 1925, đang học trường Sư phạm Hà Nội, vì theo phong trào sinh viên bãi khoá, nên bị truy nã, phải trốn sang Tàu và được vào học trường quân sự Hoàng Phố. Là người Việt Nam duy nhất tham gia Quảng Châu Công Xã, trở thành đảng viên đảng Cộng Sản Trung Hoa. Nổi tiếng về tài lãnh đạo quân sự trong cuộc Vạn Lý Trường Chinh (1934-1936), được bổ làm tùy tướng cho Bành Hoài Đức, chỉ huy trưởng Đệ Bát Lộ Quân. Nguyễn Sơn là một trong bẩy tướng còn sống sót của Quảng Châu Công Xã và một trong 18 tướng sống sót sau cuộc Vạn Lý Trường Chinh. Vì vậy, năm 1949, sau khi Mao Trạch Đông toàn thắng, Nguyễn Sơn được tuyên dương là "Anh Hùng Dân Tộc" của Trung Quốc.

Cuối 1945, Nguyễn Sơn đang ở Diên An, gặp một ký giả Canada vừa từ Hà Nội qua, báo tin Việt Nam đã tuyên bố độc lập, nhưng Pháp vẫn tấn công, mưu chiếm lại. Nhà báo này nói đã gặp vị chủ tịch chính phủ lâm thời, một ông già biết nói tiếng Anh tên là Hồ Chí Minh. Đoán chắc Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Sơn bèn xin lãnh đạo Trung Quốc cho phép hồi hương chống Pháp. Mao Trạch Đông giữ lại, nhưng Nguyễn Sơn cứ nằng nặc đòi về, nên Mao cũng thuận cho về, làm giấy tờ chứng nhận Nguyễn Sơn và Nguyễn Khánh Toàn là nhân viên phái đoàn Trung Cộng từ Diên An xuống Trùng Khánh để điều đình với chính phủ Trung Hoa dân quốc, rồi nhân dịp đó trốn xuống Hoa Nam, về Việt Nam.

Vì quyết tâm về nước kháng chiến, nên ngay khi về, Nguyễn Sơn đã bị Trung Cộng phê bình là nặng tinh thần quốc gia, nhẹ tinh thần quốc tế. Có lẽ ông Hồ Chí Minh cũng phê bình Nguyễn Sơn như vậy, nên đầu năm 1946, khi Sơn về tới Hà Nội, ông Hồ không thèm tiếp và các lãnh tụ cộng sản khác cũng lạnh nhạt. Nhưng vì Pháp tấn công mỗi ngày một mạnh ở miền Nam và cộng sản Quảng Ngãi bất chấp lệnh, giết bừa bãi, nên ông Hồ phái Sơn vào Khu Năm (miền nam Trung Việt) với nhiệm vụ đình chỉ chém giết và điều khiển công việc chống Pháp. Sau đó Sơn được đổi ra Khu Bốn (miền bắc Trung Việt) làm "Khu phó" phụ trách huấn luyện quân đội. Chẳng bao lâu, khu trưởng là Thiết Hùng bị mất chức vì liên can đến một vụ buôn thuốc phiện lậu, nên Sơn được cử lên thay thế. Nhờ hai mươi năm kinh nghiệm hành quân, nên Nguyễn Sơn được quân đội Khu Bốn rất mến phục. Lại có tâm hồn nghệ sĩ và tận tâm giúp đỡ văn nghệ sĩ, nên Nguyễn Sơn cũng được giới văn nghệ sĩ hết sức hâm mộ.

Năm 1948, ông Hồ phong Võ Nguyên Giáp làm đại tướng và Nguyễn Sơn làm thiếu tướng, khiến Sơn khó chịu vì Sơn chê Giáp "i-tờ" về quân sự. Sự thực thì Giáp chỉ là sinh viên trường Luật, được huấn luyện qua loa về du kích chiến trong một khóa do quân đội Mỹ mở ở Tinh Tây, hồi thế chiến thứ hai.

Tuy nhiên, mối bất hoà lớn giữa Nguyễn Sơn và các lãnh đạo, không phải vì kèn cựa địa vị mà vì Sơn phản đối việc xin viện trợ Trung Quốc, vì Sơn cho rằng hễ nhận viện trợ của Trung Quốc thì sẽ mất hết chủ quyền. Theo Sơn, hồi chiến tranh chống Nhật, Mao không thèm xin viện trợ Nga, cứ để Nga tiếp tế cho Tưởng Giới Thạch. Nên tự lực kháng chiến, đánh Pháp bằng vũ khí thu được của Pháp, tuy gian lao nhưng không bị lệ thuộc bất cứ ngoại bang nào. Sau một cuộc thảo luận to tiếng với ông Hồ, Sơn bực mình, nhắm hướng bắc, đi thẳng sang Trung Quốc[7]. Vì đã được tôn là "Anh Hùng Dân Tộc", nên từ Lạng Sơn đến Bắc Kinh, qua các tỉnh, Sơn đều được tiếp đón trọng thể. Nhưng ông Hồ đã điện sang Bắc Kinh, bá cáo với ông Mao là Sơn vô kỷ luật, và Võ Nguyên Giáp cũng bắt quân đội Việt Minh học tập một tài liệu đặc biệt, tả Sơn là một cán bộ "điển hình xấu".

Vì bị ông Hồ bá cáo trước, nên khi tới Bắc Kinh, Sơn phải đi chỉnh huấn ngay. Sau chỉnh huấn, Sơn tình nguyện đi học Đại Học Quân Sự ở Nam Kinh, do chuyên viên Nga dạy về chiến thuật quân sự hiện đại. Năm 1956, Sơn bị ung thư dạ dầy và khi biết mình sắp chết, xin phép mang vợ con về Việt Nam. Hai ngày sau khi về tới Hà Nội, Sơn chết và Võ Nguyên Giáp phải đi đưa đám. Những người quen biết Nguyễn Sơn đều công nhận ông có tinh thần quốc gia mặc dầu suốt đời tranh đấu trong hàng ngũ cộng sản[8]".

Heinz Schütte, trong bài đã dẫn, cho rằng: Trung Quốc chỉ cho "mượn" Nguyễn Sơn và chính Nguyễn Sơn cũng miễn cưỡng về Việt Nam, việc ông trở lại Trung Quốc đã được thoả thuận ngay từ đầu. Nhưng thông tin của Hoàng Văn Chí có lẽ đúng hơn, vì Hoàng là anh rể Nguyễn Sơn, nên biết rõ những uẩn khúc chỉ trong gia đình mới biết: Nguyễn Sơn xin về Việt Nam vì tin Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc, như hầu hết mọi người Việt[9]. Nguyễn Sơn chống lại việc nhận viện trợ của của Tàu, sự kiện này một số người biết nhưng không dám nói ra. Sau cùng, vì sự hiềm khích với Võ Nguyên Giáp, nên sau khi Nguyễn Sơn bỏ đi, Giáp cho quân đội học tập Sơn là điển hình xấu, để xoá huyền thoại về Nguyễn Sơn,việc này giải thích tại sao những người ở gần trung ương, như Lê Đạt, có định kiến không tốt về Nguyễn Sơn.

Tuy Nguyễn Sơn không ảnh hưởng đến phong trào NVGP nhưng ông cũng tạo cho văn nghệ sĩ một khoảng trời tự do sáng tác, ít nhất từ 1948 đến 1951, trước khi ông trở lại Trung Quốc.

Trong thời gian này, những trí thức và văn nghệ sĩ tên tuổi như Tô Ngọc Vân, Sĩ Ngọc, Nguyễn Mạnh Tường, Trương Tửu... đã lên tiếng phản đối chính sách lãnh đạo tư tưởng của Trường Chinh. Nhưng bản thân Nguyễn Sơn là một mâu thuẫn: ông chủ trương tự do sáng tác, nhưng ông cũng là người đầu tiên đem phương pháp chỉnh huấn của Mao vào Việt Nam.

Sự đối lập giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang

Khảo sát bị kịch Nhân Văn, ta thấy rõ sự đối lập giữa hai nhân vật: Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh, cả hai đều được Hồ Chí Minh tin dùng. Trường Chinh là Tổng Bí Thư từ 1941 đến 1956, còn Nguyễn Hữu Đang là ai?

Vì bất đồng ý kiến với Trường Chinh, năm 1948, Nguyễn Hữu Đang đã bỏ Đảng. Nhưng sau 1954, ông lại được Đảng gọi về và đến tháng 8/56, ông được cử ra tổ chức lớp học tập dân chủ 18 ngày và trở thành nhà lãnh đạo phong trào NVGP.

NVGP chống lại toàn bộ chính sách văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản. Vì vậy, chúng ta cần tìm hiểu chính sách văn hoá văn nghệ ấy như thế nào? Nói đến đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản là phải nói đến Trường Chinh, lý thuyết gia của Đảng, người soạn thảo những văn bản chính thức theo chỉ thị của Hồ Chí Minh.

Trường Chinh

Trường Chinh Đặng Xuân Khu (1907-1988), nhà chính trị nhưng cũng là nhà báo, có viết văn, làm thơ dưới bút hiệu Sóng Hồng. Năm 1927, gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội - tiền thân của đảng Cộng Sản. 1940, làm chủ bút báo Cờ Giải Phóng, cơ quan của Xứ Ủy Bắc Kỳ. Sau đó làm chủ bút tờSự Thật, cơ quan ngôn luận của đảng Cộng Sản. Từ tháng 5/1941 đến tháng 9/1956, làm Tổng bí thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Đảng Cộng Sản thành lập tháng 2/1930.

Từ tháng 9/1930 đến tháng 11/1945, lấy tên là Đảng Cộng Sản Đông Dương. Tháng 11/1945 Đảng "tự giải thể", rút vào bí mật. 1951, Đảng công khai trở lại với tên Lao Động và đến năm 1976, mới chính thức lấy tên là đảng Cộng Sản Việt Nam. Đảng này trải qua hai biến cố quan trọng:

Ngày 2/9/1945: Tuyên ngôn độc lập. Hơn hai tháng sau, ngày 11/11/1945, Đảng tuyên bố "tự giải tán", đổi tên thành Hội Nghiên Cứu Chủ Nghiã Mác ở Đông Dương. Chính phủ lâm thời tạm giấu cái gốc quốc tế cộng sản, lấy danh nghĩa Mặt Trận Việt Minh, để tập hợp mọi thành phần dân tộc cả quốc gia lẫn cộng sản trong công cuộc kháng chiến chống Pháp.
Hà Xuân Trường kể lại: "Đảng lúc bấy giờ, sau khi tuyên bố "tự giải tán", để chuyển thành Hội nghiên cứu chủ nghiã Mác ở Đông Dương (ngày 11/11/1945). Anh Trường Chinh lúc bấy giờ là Tổng bí thư Đảng, trưởng tiểu ban tuyên truyền của Trung ương, kiêm chủ bút (tức Tổng biên tập) tờ Sự Thật"(ra số 1, ngày 5/12/1945 ở Hà Nội)[10]".

Nguyễn Hữu Đang cho biết: "Vai trò của Hồ chủ tịch rất quan trọng. Cụ có thành lập Mặt Trận Việt Minh thì mới có Cách Mạng Tháng Tám. Nếu đảng Cộng Sản đứng ra vận động cuộc Cách Mạng Tháng Tám, tôi tin là không được kết quả như là Mặt Trận Việt Minh. Đó là một mặt trận gồm nhiều thành phần, nhiều tầng lớp tham gia cho nên phát triển mạnh, được nhân dân ta hưởng ứng hơn chứ còn nếu đảng Cộng Sản đứng ra thì vẫn bị hạn chế đấy". "Đảng Cộng Sản lúc bấy giờ có 5000 người chứ ăn thua gì đâu[11]".

Trường Chinh, được Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ viết đề cương, chỉ đạo đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng Sản bằng hai văn bản: "Đề Cương Văn Hoá Việt Nam" (1943) và Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam đọc tại Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc II, ở Việt Bắc, ngày 19/7/1948, văn bản này là nguồn gốc đoạn tuyệt giữa Trường Chinh và Nguyễn Hữu Đang.

Giá trị và ảnh hưởng của hai văn bản này đối với chế độ Cộng Sản, được Hà Xuân Trường so sánh với lập thuyết của Mao: "Chúng ta chỉ cần nghiên cứu Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943, báo cáo Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam năm 1948 của đồng chí Trường Chinh, và so sánh những văn kiện đó với phần "Văn hóa dân chủ mới" và "Tọa đàm văn nghệ ở Diên An" của Mao Trạch Đông thì rõ ràng khác nhau lắm, khác từ gốc, khác từ mục tiêu đến phương pháp nhận thức (...) Công tác văn hoá - văn nghệ lúc bấy giờ nằm trong sự chỉ đạo của Tiểu ban tuyên truyền do anh Trường Chinh đứng đầu. Anh Tố Hữu lúc này được Trung Ương giao trực tiếp tổ chức, chỉ đạo công tác văn nghệ"[12]. Vậy Trường Chinh là người chỉ đạo chính sách văn hoá văn nghệ kháng chiến. Tố Hữu, giữ nhiệm vụ tổ chức.

Đề cương văn hoá Việt Nam

Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam có 5 phần chính:

1- Cách đặt vấn đề.
2- Phân đoạn văn hoá VN.
3- Nguy cơ văn hoá dưới ách phát-xít Nhật, Pháp.
4- Xác định văn hoá cách mạng VN.
5- Nhiệm vụ của các nhà văn hoá mác-xít VN[13].


Văn bản chính quy này xác định sự lãnh đạo văn hoá của Đảng: "đảng tiên phong phải lãnh đạo văn hoá tiên phong". Và định nghiã văn hoá theo quan niệm của Đảng: "Văn hoá bao gồm cả tư tưởng, học thuật, nghệ thuật". Tóm lại, Đảng lãnh đạo: tư tưởng, học thuật và nghệ thuật.

Ở phần hai, Trường Chinh chia văn hóa Việt Nam làm ba giai đoạn một cách rất bất kỳ: Trước Quang Trung -tại sao lại Quang Trung?- là "phong kiến, nô lệ, phụ thuộc Tàu". Từ Quang Trung đến Pháp thuộc là "phong kiến, tiểu tư sản"; và từ Pháp thuộc đến 1943, là "phong kiến, tư bản, thuộc địa". Tóm lại, có thể thayvăn hóa bằng bất cứ một danh từ nào khác như: chính trị, kinh tế, giáo dục, pháp luật... cũng được.

Phần ba, Trường Chinh buộc tội: "những thủ đoạn phát-xít trói buộc văn hoá và giết chết văn hoá Việt Nam", để đi đến phần bốn, xác định: cách mạng văn hoá phải do Đảng lãnh đạo, và nền văn hóa được Đảng chọn là văn hoá xã hội chủ nghiã.

Phần năm, kê khai những nhiệm vụ cần kíp mà các nhà văn hoá mác-xít phải làm ngay:

Đánh tan những quan niệm sai lầm của triết học Âu, Á có ít nhiều ảnh hưởng tai hại ở ta: triết học Khổng, Mạnh, Đê-các-tơ (Descartes), Béc-son (Bergson), Căng (Kant), Nít-sờ (Nietzsche) v.v... Làm cho thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử thắng. Chống chủ nghiã cổ điển, chủ nghiã lãng mạn, chủ nghiã tự nhiên, chủ nghiã tượng trưng v.v... Làm cho xu hướng tả thực xã hội chủ nghiã thắng.

Bản Đề Cương Văn Hoá Việt Nam chính là nguyên nhân sâu xa của tình trạng suy đồi của văn hoá văn nghệ Việt Nam: bắt buộc sáng tác và phê bình phải theo con đường duy nhất phục vụ sự lãnh đạo độc tôn của đảng Cộng Sản. Triệt hạ những đường hướng tư tưởng khác. Triệt hạ tài năng cá nhân và tiêu diệt tự do sáng tác.

Nguyễn Hữu Đang

Nguyễn Hữu Đang (1913-2007) theo cách mạng từ buổi đầu, có óc tổ chức và tài hùng biện, Nguyễn Hữu Đang từng được coi là "cánh tay phải" của Hồ Chí Minh.

Năm 1929, Nguyễn Hữu Đang gia nhập Việt Nam Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội. Hoạt động đắc lực trong Hội Truyền Bá Quốc Ngữ từ 1938.

1937- 39, làm báo cùng Trường Chinh Đặng Xuân Khu và Trần Huy Liệu. 1943: Tham gia đảng Cộng Cản Đông Dương, liên lạc mật thiết với Tổng bí thư Trường Chinh và Thành ủy Hà Nội, nhưng chưa được kết nạp.

1943-46: Cùng Trường Chinh sáng lập và lãnh đạo Hội Văn Hóa Cứu Quốc. Được Hồ Chí Minh giao trách nhiệm tổ chức ngày tuyên ngôn độc lập 2/9/1945. Tham gia Chính phủ lâm thời, làm thứ trưởng Bộ Truyên Truyền, rồi Bộ Thanh Niên, Chủ tịch Uỷ Ban Vận Động Mặt Trận Văn Hoá. Tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc lần thứ nhất tại Hà Nội, "Khai mạc Đại hội văn hoá toàn quốc lần thứ nhất vào chiều 24/11/1946 có Bác Hồ đến nói chuyện[14]".

Nhưng mãi đến năm 1947, Nguyễn Hữu Đang mới được chính thức kết nạp vào Đảng. Và năm sau, 1948, ông rời mọi sinh hoạt của Đảng, lui về Thanh Hoá.

Từ vị trí được xem như "cánh tay phải của cụ Hồ", "trên cả Ủy Ban Kháng Chiến", tại sao năm 1948, Nguyễn Hữu Đang lui về Thanh Hoá?

Hoàng Cầm kể: "Vào khoảng tháng 7 năm 48, có Đại Hội Văn Hóa Toàn Quốc do ông Trường Chinh đề xướng và làm chủ tịch (...) đề ra Văn Nghệ Kháng Chiến (...) Trong hội nghị có mặt anh Nguyễn Hữu Đang. Sau hội nghị đó, không hiểu vì lý do gì thì anh Đang không làm công tác kháng chiến nữa, anh về Thanh Hóa, ở nhà người bạn là anh Trần Thiếu Bảo, giám đốc nhà xuất bản Minh Đức(...) hình như trong Hội Nghị Văn Hóa Toàn Quốc, anh Đang có mâu thuẫn về đường lối văn nghệ, văn hóa với ông Trường Chinh. Do mâu thuẫn không giải quyết được, cho nên anh Đang không làm việc nữa, anh nghỉ. Anh về Thanh Hóa[15]".

Vũ Tường phân tích:

"Trong thời kỳ ban đầu Trường Chinh không thể chi phối được mọi hoạt động của Văn Hoá Cứu Quốc do đa số những người thực hiện là các trí thức có ảnh hưởng tư tưởng Dân Chủ Tư Sản. Do điều kiện kháng chiến, Việt Minh không thể thành lập bộ máy văn hóa riêng để áp đặt đường lối của mình. Mâu thuẫn đã bộc lộ ra giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh ngay từ lúc tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Cứu Quốc toàn quốc tháng 10 năm 1946 và có thể nói kết thúc bằng Hội Nghị Văn Hóa toàn quốc lần thứ II xóa bỏ Văn Hoá Cứu Quốc thành lập Hội Văn Nghệ Việt Nam hoàn toàn theo quỹ đạo của đường lối văn nghệ Maois vào thời điểm tháng 7- 1948[16]".

Vũ Tường có lý, bởi sự bất đồng ý kiến giữa Nguyễn Hữu Đang và Trường Chinh lộ rõ trong những bài Nguyễn Hữu Đang viết trên Tiên Phong năm 1945. Cách tổ chức Hội Nghị Văn Hoá Toàn Quốc I của Nguyễn Hữu Đang cũng bất chấp đường lối độc tôn của Đảng Cộng Sản (Xem chương 9, về Nguyễn Hữu Đang).

Tháng 7/1948 tại Việt Bắc có hai hội nghị:

Hội Nghị Văn hoá Toàn Quốc II (15/7/48) do Trường Chinh chủ trì, đọc bàiChủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam, quyết định bỏ Hội Văn Hoá Cứu Quốc, lập Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang có tham dự.

Hội Nghị Văn Nghệ Toàn Quốc I, từ 23 đến 25/7/48, chính thức ra mắt Hội Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang không tham dự. Sự đoạn tuyệt này có nhiều lý do, nhưng lý do chính đến từ nội dung bài Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam của Trường Chinh.

Vậy nội dung bản báo cáo này ra sao?

Chủ nghiã Mác và văn hoá Việt Nam

Bản báo cáo Chủ Nghiã Mác Và Văn Hoá Việt Nam được nhà xuất bản Sự Thật in thành sách - Chúng tôi không có văn bản này. Phần VII, được in trên báo Văn Nghệ số 6 tháng 11/48, dưới tiêu đề "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật[17]".

Bài "Mấy vấn đề thắc mắc trong văn học nghệ thuật" đặt trọng tâm trả lời những thắc mắc của người làm văn học nghệ thuật, đồng thời đưa ra những chủ đích:

1- Đồng hoá nghệ thuật với tuyên truyền và xác định: "Tuyên truyền của phe xâm lược, phản động là tuyên truyền phản chân lý. Tuyên truyền của phe cách mạng là tuyên truyền chân thật, phù hợp với chân lý rõ ràng".

2- Khẳng định khuynh hướng sáng tác: Hiện thực xã hội chủ nghĩa.

3- Chỉ ra đường lối "phê bình đúng nguyên tắc", "chú trọng đả kích tư tưởng, văn học, nghệ thuật phản động của địch".

4- Cho rằng "Quần chúng là nhà phê bình nghệ thuật sành hơn ai hết, chính vì quần chúng gồm nhiều tai, mắt, óc khôn và có cảm giác chung đấu lại. Không một nhà phê bình nào sánh được với quần chúng về mặt đó".

5- Chỉ 4 điều cho nhà văn noi theo, để "làm sao cho sáng tác văn nghệ được tốt".

6- Xác định sáng tác thi đua: "Đối tượng sáng tác văn nghệ của ta là nhân dân". "Sáng tác văn nghệ có cả một nguồn cổ vũ mạnh mẽ là phong trào thi đua".

Tóm lại, con đường văn học nghệ thuật của Đảng do Trường Chinh vạch ra năm 1948, gồm những yếu tố: Văn nghệ tuyên truyền. Văn nghệ thi đua. Hiện thực xã hội chủ nghĩa. Đả kích tư tưởng phản động của địch. Sáng tác cho nhân dân. Nhân dân làm chủ phê bình.

Là người làm văn hoá, dĩ nhiên Nguyễn Hữu Đang từ chối con đường văn nghệ này. Và trong kháng chiến, không chỉ có một Nguyễn Hữu Đang chống lại đường lối văn hoá văn nghệ của đảng, còn nhiều tiếng nói khác, Hoàng Trung Thông kể về Nguyễn Mạnh Tường và Trương Tửu:

"Cuộc tranh đấu tư tưởng duy nhất ở Liên Khu Bốn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là cuộc đấu tranh với một số quan điểm của Nguyễn Mạnh Tường. Trong một cuộc nói chuyện Nguyễn Mạnh Tường cho rằng văn nghệ ta như một cái chuồng nhốt các văn nghệ sĩ trong đó".

"Đồng chí Nguyễn Chí Thanh - bấy giờ là bí thư Đảng bộ Liên Khu Bốn, đã có ý kiến về những luận điểm tơ-rốt-kít của Trương Tửu trong buổi lễ kỷ niệm ngày thành lập đảng Cộng Sản Đông Dương. Trong cuộc đấu tranh chính trị năm 1952, Trương Tửu bị đưa ra phê phán gay gắt[18]".

Hà Xuân Trường kể về Tô Ngọc Vân:

"Anh Tô Ngọc Vân tỏ ý không đồng tình về sự phân tích của đồng chí Trường Chinh về chủ nghiã "quy-bít". Nhưng anh Trường Chinh không trực tiếp trả lời, và tờ Sự Thật không lên tiếng, để tránh gây các mặc cảm không cần thiết đối với anh chị em văn nghệ đang đến với Đảng, và tự giác chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Bài viết của tôi thảo luận với anh Tô Ngọc Vân, ký tên Lê Trọng Lâm, lại đăng trên tạp chí Văn Nghệ".

Thái độ của Trường Chinh đối với những người chống đối rất khôn khéo: ông không ra mặt trả lời, chỉ khuyên cấp dưới "cần phải đấu tranh tư tưởng nhưng đừng nặng lời quá; vì lúc bấy giờ chúng ta đang cần phải đoàn kết để kháng chiến chống Pháp, mặc dầu đoàn kết không có nghiã là thủ tiêu đấu tranh[19]".

Tóm lại, đã có những người làm văn hoá văn nghệ bắt đầu thắc mắc về đường lối văn hoá văn nghệ của đảng Cộng Sản và lên tiếng phản đối ngay từ 1948. Những thắc mắc này càng lớn mạnh sau 1954, kết hợp thành sự phản kháng toàn diện trong phong trào NVGP.

Nguyễn Hữu Đang, bỏ về Thanh Hoá, cộng tác với nhà xuất bản Minh Đức từ 1948. Nhưng tại sao năm 1954, ông trở lại hoạt động? Mọi việc trong chế độ cộng sản không thể tình cờ, ngoài ra Trường Chinh mâu thuẫn với Nguyễn Hữu Đang, chưa chắc đã muốn Đang về. Vậy việc gọi ông trở lại phải do lệnh của Hồ Chí Minh. Hoàng Cầm kể: "Đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, tôi cũng chỉ được nghe kể lại chứ không được chứng kiến, là như sau: Ông Trường Chinh có hỏi ông Tố Hữu: Anh Đang anh ấy đã không làm việc gì từ lâu rồi, từ mấy năm nay, thì bây giờ hòa bình thắng lợi rồi, ta phải mời anh ấy ra làm việc chứ. Thế là anh Tố Hữu cũng nghe theo và mời anh Đang ở Thanh Hóa ra[20]".

Nguyễn Huy Tưởng, là người được cử vào Thanh Hoá mời Nguyễn Hữu Đang. Và theo Hoàng Cầm, khi Nguyễn Hữu Đang ra, Tố Hữu đề nghị chức giám đốc Sở Văn Hóa Thông Tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang từ chối, ngỏ ý muốn làm báo Văn Nghệ, Tố Hữu đành phải bằng lòng.
(còn tiếp)