KHI MỖI TRÁI TIM NGÂN LÊN TIẾNG VIỆT NAM!






“Những đốm lửa sẽ bùng lên thành bão lửa
Khi mỗi trái tim ngân lên tiếng Việt Nam!”

Năm 1257. Quân Mông Cổ lúc bấy giờ đã chiếm xong nước Kim (miền Bắc Trung Hoa) và bắt đầu chuẩn bị thôn tính Hoa Nam của triều đình Nam Tống, kinh đô đang đặt ở Hàng Châu. Nguyên Hiến Tông, tức Mông Kha giao cho em là Hốt Tất Liệt nhiệm vụ đánh Nam Tống. Hốt Tất Liệt sai tướng Ngột Lương Hợp Thai (Wouleangotai) đánh chiếm nước Đại Lý, tức vùng Vân Nam, rồi tiến sang nước ta. Tiếng là mượn đường đánh Tống và kêu gọi vua Trần Thái Tông về thần phục Mông Cổ, kỳ thực là muốn chiếm lấy Đại Việt.

Quân Mông Cổ chia làm hai đạo, từ Vân Nam tiến xuống theo ngã Lâm Thao, Hưng Hóa. Hai cánh quân hội nhau trên quãng Hưng Hóa, Sơn Tây. Trần Quốc Tuấn khi ấy còn là một tướng trẻ, không chống nổi, phải lui về Sơn Tây. Vua Trần ngự giá thân chinh cũng không ngăn được, phải lui về sông Cầu, rồi phải lui tiếp về Đông bộ Đầu. Quân giặc ồ ạt tiến về Thăng Long. Vua Thái Tông phải bỏ kinh đô rút về sông Thiên Mạc (Đông Anh, Hưng Yên).
Thế giặc rất mạnh, tình hình cấp bách. Vua ngự thuyền đi hỏi ý kiến Thái Úy, Khâm Thiên Vương Trần Nhật Hiệu. Trần Nhật Hiệu không trả lời, dùng sào vạch xuống nước hai chữ “Nhập Tống!”. Vua lại hỏi ý kiến Thái Sư Trần Thủ Độ, Trần Thủ Độ trả lời: “Đầu tôi chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo!”.

Trần Thái Tông quyết lòng đánh, trong năm đó đuổi được giặc Nguyên ra khỏi cõi bờ. Trên đường rút quân, mất tinh thần và quá mỏi mệt, không còn sức cướp phá, đoàn bại binh đó được dân chúng chế diễu gọi là “giặc Phật”.

Nếu tôn thất nhà Trần ai cũng như Trần Nhật Hiệu thì vua Thái Tông có lẽ đã ngã lòng mà hàng giặc. Nhưng may thay, số người mang cái tinh thần cầu an chủ bại đó không nhiều. Quân dân, vua tôi nhà Trần đã chấp nhận hy sinh, gian khổ để giữ nền độc lập.

Từ sau 30-4-1975 đến giờ; chính quyền Cộng Sản Hà Nội đã phải liên tiếp đối phó với không biết bao nhiêu là sự chống đối âm thầm có, công khai có của cả quốc nội lẫn quốc ngoại. Những chống đối này đã là một trong những minh chứng cho thấy chế độ Cộng Sản là một chế độ không hề được lòng dân.

Đầu thế kỷ 21, trong bối cảnh chính trị thế giới đã đổi thay dữ dội, hệ thống Cộng sản Quốc tế đã gần như bị xóa sổ; Cộng sản Hà Nội vẫn ngang ngược tuyên bố sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng đối với cả nước Việt Nam. Đó là một điều không thể chấp nhận được.
Trong nhiều năm gần đây, có một số người trong đó gồm một số vị khoa bảng, trí thức, lãnh đạo ngày cũ đã lên tiếng kêu gọi hãy bắt tay với chính quyền Cộng sản. Họ cho rằng chính quyền Hà Nội đã có một số đổi mới trong lãnh vực kinh tế, rằng Hoa Kỳ đã bỏ cấm vận và bình thường hoá bang giao với chính quyền Hà Nội; nên giải pháp tốt nhất hiện thời là hãy chấp nhận chính quyền đó và đẩy mạnh giao thương, hợp tác. Họ lý luận rằng chế độ nào cũng vậy, chỉ là những chiếc áo mặc ngoài, dân tộc, đất nước mới là cái vĩnh viễn, trường cửu. Họ cho rằng đẩy mạnh hợp tác, giao thương với chính quyền Hà Nội sẽ giúp nâng cao đời sống người dân trong nước. Chế độ xã hội, chính quyền nào rồi cũng theo thời gian mà qua đi. Điều quan trọng là hãy làm sao cho người dân có cơm no, áo ấm. Lập luận này không phải là không có một đôi phần hữu lý nếu chúng ta chỉ xét tới nó một cách hời hợt và phiến diện.

Nước Việt Nam ta từ thời lập quốc đến nay đã trải qua nhiều chế độ xã hội, nhiều triều đại. Hơn 4.000 năm lịch sử, nước ta vẫn luôn luôn tồn tại và phát triển là nhờ ở chỗ dân tộc ta là một khối vững chắc và có tinh thần quật cường tự chủ, thiết tha độc lập và yêu mến cuộc sống tự do. Chế độ công xã thị tộc kéo dài và phát triển liên tục trong khoảng vài ngàn năm và có lẽ được xem là cáo chung khi nước ta rơi vào thời kỳ Bắc thuộc. Sau hơn ngàn năm Bắc thuộc, đến thời kỳ xây dựng nền tự chủ với chế độ quân chủ phong kiến! Các triều đại Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã kế tiếp nhau trong gần một ngàn năm độc lập.

Chế độ quân chủ phong kiến rồi cũng theo thời gian mà bị đào thải.

Năm 1874, lợi dụng sự cấm đạo gay gắt của triều đình nhà Nguyễn, Pháp đem pháo thuyền vào cửa Hàn. Tiếng là yêu cầu bãi bỏ việc cấm đạo và yêu cầu Việt Nam mở cửa giao thương, thực chất là để thăm dò, nhòm ngó chuẩn bị cho ý đồ xâm lược. Vua Thiệu Trị ra lệnh phòng bị cẩn mật. Thấy vậy, tướng Rigault de Genouilly và Hải quân Đại tá Lapierre ra lệnh nổ súng bắn phá rồi rút đi; mở đầu cho sự can thiệp và cuối cùng là sự xâm lược của Pháp.

Ngày 20-6-1867, Pháp chiếm Vĩnh Long, rồi sau đó là An Giang và Hà Tiên, chính thức áp đặt sự đô hộ trên toàn cõi Nam Kỳ. Quan lại, sĩ phu và dân chúng khắp nơi nổi dậy chống Pháp. Dùng võ lực để kháng chiến có Trương Định, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương... Bất hợp tác, dùng thơ văn để chống lại thì có Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị.

Ngược lại với các phong trào trên, có một khuynh hướng cầu an chủ bại, chấp nhận đầu hàng giặc Pháp để đổi lấy miếng đỉnh chung. Một trong những người tiêu biểu cho phái này là Tôn Thọ Tường. Ông Tôn Thọ Tường không dùng sào mà vạch chữ “Nhập Tống” xuống mặt sông Thiên Mạc như Thái Úy Trần Nhật Hiệu 600 năm về trước. Ông Tôn ra làm quan với tân triều Bảo Hộ và làm rất nhiều bài thơ nói về sức mạnh của Đại Pháp, khuyên mọi người theo gương ông mà hàng giặc. Những bài này được Cử nhân Phan Văn Trị họa lại; và cũng để nói lên cái ý chí của mình, của sĩ dân Nam Kỳ lục tỉnh: Cương quyết không cúi đầu, dù kẻ địch có mạnh đến đâu đi nữa.

Đặt nền thống trị được 80 năm. Chế độ thực dân Pháp rồi cũng cáo chung. Cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất (1945-1954); rồi cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 (1960-1975) cũng qua đi. Chế độ tự do miền Nam và mấy chính quyền kế tiếp nhau sụp đổ.

Cộng Sản thống trị cả nước. Có người bảo: Chế độ Cộng sản cũng chỉ là một chiếc áo mặc ngoài, dân tộc Việt Nam mới là trường cửu.

Điều bi thảm nhất là khi vâng lệnh của Cộng sản Quốc tế để áp đặt chủ nghĩa cộng sản lên đất nước Việt Nam, ông Hồ Chí Minh đã phạm một sai lầm nghiêm trọng là đã ra lệnh cho Thủ Tướng Phạm Văn Đồng gửi văn thư ngày 14 tháng 9 năm 1958 xác nhận chủ quyền của Trung Cộng trên vùng Hoàng Sa và Trường Sa. Và những người thừa kế ông ta lại tiếp tục hiến đất, dâng biển cho Trung Cộng để củng cố quyền lực và giữ vững sự cai trị của đảng CSVN. Những xâm phạm thô bạo của tàu hải giám của Trung Cộng liên tiếp cắt cáp của các tàu thăm dò dầu khí của Việt Nam (PVN) trong thời gian qua và những lời tuyên bố tréo ngoe giữa phát ngôn nhân Nguyễn Phương Nga và Thứ trưởng Bộ Trưởng Quốc Phòng Nguyễn Chí Vịnh cho thấy nhà cầm quyền CSVN là những kẻ há miệng mắc quai - nói theo cách nói của nhà bình luận thời sự Tuệ Vân:

"Ký nhượng Tàu biển đảo rồi thì làm sao mà có thể có thái độ khác hơn là u ơ phát biểu bâng quơ, chung chung để mà nghe rồi bỏ. Lời kêu gọi đồng bào trong và ngoài nước lên tiếng “một cách ôn hòa và văn minh” trước thực trạng này chẳng khác gì là chuyện khuyên nhủ “khóc nữa đi”, “la nữa đi” cho vợi nỗi sầu, nỗi tức và chấp nhận tình trạng nhà tan cửa nát xảy ra”.

Chắc chắn nhiều người trong chúng ta sẽ không bi quan như thế.

Cuộc biểu tình do nhóm Nhật Ký Yêu Nước kêu gọi vào tháng 5 năm 2011 với hàng ngàn người tham dự đã xảy ra ở hai đầu thành phố Hà Nội, Sàigòn đã là MỘT ĐỐM LỬA BẬT SÁNG. Chắc chắn rồi những ngọn lửa sẽ bùng lên!
“Ta đã thấy không giả mù được nữa
Máu cha ông chảy suốt 4 nghìn năm
Màu đỏ ấy ướt nhoè từng trang sử
Đỏ núi Chi Lăng, đỏ sóng Bạch Đằng
Ta đã nghe, vì làm sao giả điếc!
Tiếng hùng ngân sông Như Nguyệt hồn xiêu
Tiếng gươm khua Nhị Trưng, tiếng voi rống Nhị Kiều
Tiếng roi sắt Phù Đổng vút qua 10 thế kỷ
Ta đã nói vì không câm được nữa!
Khi tiếng nấc An Tư nghẹn thắt họng ta rồi
Khi trống trận Quang Trung, lời hô xung trận Ngọc Hồi
Khi Hịch tướng sĩ, Chiếu xuất quân thành ca dao nuôi dân ta lớn dậy
“Yêu chuộng hòa bình!” - mấy ngàn năm quân xâm lăng lải nhải!
Cha ông ta nghe, đến con cháu vẫn còn nghe
Đất nước dựng lên sau bóng mát lũy tre.
Lấy tre làm nhà, làm cày, làm bút, làm sách,
làm đũa, làm lồng gà, lồng đèn và làm vũ khí!
Hoà bình là khát vọng của Việt Nam
Nhưng chẳng có kẻ nào có thể đưa ra lừa mị.
Lời đồng chí lừa đảo, láng giềng... nhớt lưỡi bò
Và vũ khí tận răng!
Từ Tần, Hán, Đường, Tống, Nguyên, Minh, Thanh đến Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Đều một “sách” miệng chí nhân, lương tâm kẻ cướp
Không thể nhớ số lần chúng xâm lược
Nhưng dân ta biết tất cả những khi chúng phải dừng bước
Đó là những lần bị cha ông ta đánh bại tả tơi!
82 triệu người Việt Nam
Dù trong nước hay tha hương góc biển chân trời
Bất kể bạn đang cầm lá cờ gì biểu thị tình yêu tổ quốc
Tôi tin trong mỗi trái tim đều ngân lên tiếng thiêng liêng nhất:
VIỆT NAM!”

Xin gửi đến mọi người bài thơ “Ta đã thấy, đã nghe và đã nói” của NICK MỚI - XCAFE VN trên điện báo Dân Làm Báo.
Những lời thơ vang vang như TIẾNG RÉO GỌI CỦA QUÊ HƯƠNG!
“Hãy khóc lên! Ôi quê hương yêu dấu
Hãy vùng lên dẹp chế độ bạo tàn
Những đốm lửa sẽ bùng lên thành bão lửa
Khi mỗi trái tim ngân lên tiếng Việt Nam!”



Nguyễn Thiếu Nhẫn