Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Có hai loại người:những người có thể sung sướng được mà không sung sướng, và những kẻ tìm hạnh phúc mãi mà không thấy.
Danh ngôn Ả Rập
Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123
Results 21 to 29 of 29

Chủ Đề: Ngàn Giọt Lệ Rơi

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ngàn Giọt Lệ Rơi

    Ngàn Giọt Lệ Rơi


    Yung Krall Đặng Mỹ Dung




    Đặng Mỹ Dung, con gái của ông Đặng Quang Minh (tên thật Đặng Văn Quang) nguyên đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Liên Xô thời kỳ 1966-1972.
    Đặng Mỹ Dung cộng tác với CIA và FBI để mạng lưới gián điệp Việt Nam hoạt động tại Mỹ thời kỳ 1976-1978, khiến ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc bị trục xuất
    *****
    Chương 1

    Trong buổi cơm chiều hôm đó, tôi móc tờ truyền đơn trong túi quần đùi ra khoe tài biết đọc. Đọc xong, tôi hỏi ba tôi là truyền đơn nói gì. Ba tôi nói Hà Nội và Pháp đã đi đến một thoả thuận tại hội nghị Geneve, thoả thuận này mang đến hoà bình cho đất nước của chúng ta. Tây không còn giết chóc dân lành của mình nữa. Thằng Tây thua trận Điện Biên Phủ, mình thắng rồi, Tây sẽ xuống tầu về Tây.

    Điện Biên Phủ, cái tên vang lừng mà tôi thuộc nằm lòng, một địa danh đem đến nhiều hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Biết bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh dưới lá cờ của Việt Minh; chiến thắng, là hàng vạn quân thù đã bỏ thây nơi trận địa này, rồi mang theo giấc mơ thống trị Việt Nam trong giấc ngủ thiên thu của họ. Tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng lãnh chỉ huy trận đánh lịch sử này trở thành anh hùng dân tộc. Bấy giờ, gia đình nào có con em đi bộ đội, gặp nhau ồn ào ra mặt. Người người hãnh diện với chiến thắng này, với sự đóng góp và hy sinh của gia đình họ.

    Má tôi đếm trên những ngón tay mềm mại của bà rồi dặn tôi, đừng quên lúc tôi lên tám, hoà bình đã trở lại trên xứ sở của mình. Bà dặn đi dặn lại đừng bao giờ quên lúc tôi lên tám Tây thua trận, dân tộc Việt Nam đuổi Tây về Tây, nước Việt Nam được độc lập, tự do. Dù không có tám cây đèn cầy cho tôi thổi để ước được những món quà mà tôi hằng mong ước, nhưng ngược lại, những ước mơ lớn bằng bầu trời của nước Việt đã thành sự thật trên từng tấc đất của quê hương. Ngày đó, tôi hiểu được ý nghĩa của trận mưa xanh.

    Hoà bình! Hoà bình! Hoà bình! Niềm vui rạng rớ trên mặt của ba tôi, trên nụ cười. trong những bước đi lẹ làng của người, khi ông dãn tôi và Hải Vân đến trường làng buổi sáng hôm sau. Đám học trò xếp hàng chào quốc kỳ. Đây là những việc chúng tôi làm hàng ngày, nó đã thành thói quen, nhưng sáng nay buổi chào cờ trở thành trọng đại hơn, và danh dự cho những ai đứng dưới lá quốc kỳ. Khi tụi nhỏ hát bài quốc ca. ba tôi hát với chúng tôi; tôi liếc nhìn, bắt gặp nụ cười trong mắt người. Trong nắng ấm của buổi ban mai này, bỗng nhiên tôi nổi da gà từ đầu cho đến hết cơ thể bé nhỏ của tôi.

    Trong những ngày hạnh phúc tuyệt vời đó, trời đất cũng theo nhịp điệu những con tim rạng rỡ của người dân giành lại được độc lập tự do. Trăng sáng trên sông, thuỷ triều lên cao, cá nhảy trước bến nhà. Gia đình tôi nói đến chuyện dọn nhà về bên ngoại. Tôi vụt nghĩ đến cậu Hai Hợi, người thợ mộc tài ba trong Xẻo Môn đã từng săn sóc, giúp đỡ gia đình tôi mỗi lần phải tản cư. Rồi cậu sẽ vô rước chúng tôi về làng; thế nào cậu cũng sẽ lặp đi lặp lại cái câu quen thuộc: “Dân mình đá đít thằng Tây”. Rồi cậu ăn mừng bằng một xị đế nặc nồng.

    Đời sống của chúng tôi sẽ thay đổi kể từ giờ phút này. Dân trong làng của ông bà ngoại ở ngoài “vùng giải phóng” sẽ không còn sợ sệt, với hai tay cầm nón cung kính khi nói chuyện với quan Tây hay quan thầy nữa. Những người trong xóm “coolie” được trở về làng mạc của họ, để sống với danh dự của nhà nông. Tôi sung sướng khi nh(in thức rằng chúng tôi không còn phải chạy xuống hầm núp trốn máy bay, và tránh những trận mưa bom nữa. Từ đây không còn những trận máy bay oanh tạc. hết xác chết trôi sông, hết nhà cháy, hết thấy mấy con trâu vô tội phơi thây ngoài ruộng lúa và cả người lẫn thú hết sợ thằng Tây!

    Tôi nghe trong tiếng đờn vĩ cầm của ba tôi có những sung sướng này, những tiếng nhạc từ phương xa ba tôi thường giải trí vợ con, đã lâu ông mới đờn lại. Linh hồn của những chiến sĩ đã hy sinh ở Điện Biên Phủ hình như đang lại vang đâu đây với chúng tôi, và tự do đến gần với tầm tay, mà tôi tưởng là mình có thể với tay được.

    Nhưng, những người chế tạo hoà bình ở Hà Nội có những meu đồ khác. Hoà bình theo ý dân chưa đủ: hoà bình giản dị như chúng tôi và người đãn Việt mong muốn không phải là thứ hoà bình mà mấy người ngoài Hà Nội bàn tính với nhau. Tôi không hiểu họ muốn cái gì, khi tôi nghe lỏm những lần ba má tôi cãi lộn nhau. Rồi, tinh thần Điện Biên Phủ chết non trong gia đình tôi. Ba má tôi cãi nhau có khi đến khuya về “xã hội chủ nghĩa” hay con khỉ khô gì đó; còn nhỏ quá tôi không hiểu được. Nhưng hai người cãi nhau, chung qui về cái “xã hội chủ nghĩa”. Má tôi khóc cũng tại nó. Con cái trong nhà, đứa nào cũng đau lòng về những cuộc cãi vã này. Ba tôi bắt má tôi ngồi nghe ông giảng bài cách mạng, ông lại là một người lánh nạn, với một giải thưởng đắt giá treo trên cổ ông. Vì vậy, những giờ phút được gặp vợ con thật là quý báu. Khi nào an ninh được bảo vệ thi ông lén về thăm vợ mới, con thơ.

    Một tên sĩ quan tình báo Pháp nhận đặc trách theo dõi ông. Nó tìm hiểu về những thói quen của ông, biết cặn kẽ về mối liên hệ trong gia đình, về kẻ quen người thuộc của ông. Nó còn biết đến những thứ tiêu khiển, cũng như cái say mê trong lòng của người đàn ông yêu nước này. Nó biết ông sẽ phải về thăm người cha già đang đau nặng. Rồi một buổi trưa nọ, trong khi mọi người đang nghỉ trưa, một thằng Tây và tên tay sai người Việt xóc bảng xuống đến nhà cha mẹ của ông.

    Chúng tưởng chúng đến bất ngờ. Nhưng trong lúc chúng mang giầy Tây đi lụi đụi trên con đường đất dẫn vô nhà ông bang biện Cận, có một thanh niên nhận ra chúng. Anh vội phóng đường tắt về nhà báo động. Ba tôi nhanh nhẹn lấy bộ đồ bà ba của người làm ruộng mặc vô, quấn trên đầu cái khăn sọc của người em gái, giả dạng một thôn nữ, rồi leo lên cây vú sữa, làm bộ hái trái. Tên Việt gian trờ đến, đứng dưới gốc cây, tay che mặt ngẩng đầu lên hỏi cô thôn nữ có biết “thầy giáo Quang” ở đâu không? “Chú vô hỏi vợ thầy hoặc má thầy thử coi” ba tôi trả lời.

    Tên sĩ quan tình báo Tây và tay sai vội làm theo lời ba tôi. Vào nhà, chúng tỏ ra lịch sự, ngọt ngào với má tôi. Chúng nói chúng là những người mến mộ ba tôi, đến xem tác phẩm nghệ thuật của ba tôi (một vài tấm gỗ ba tôi chạm hồi còn đi học). Tên sĩ quan Tây nhìn anh Khôi gật gù khen anh giống cha nhiều lắm. Họ hoi má, ba tôi đâu rồi. Tên tay sai cố làm cho má tôi yên lòng nên nói: “Tôi là bạn của ảnh, chúng tôi từng dậy cùng một trường ở Vĩnh Long cho tới khi tôi đổi qua học mỹ thuật, chị ạ. Chị tin tôi đi”. Câu nói đó không lay chuyển được má tôi. Bà đáp: “Khó mà biết ai tin được, bởi vì chó còn ăn thịt chó nữa kia, ông ơi”.
    Tên sĩ quan Tây vò đầu con của kẻ thù, rồi nói câu thòng trước khi bỏ đi: “Cho cha mi hay là ta sẽ trở lại”.


    Sau khi họ đi rồi, ba tôi từ trên cay tuột xuống ôm lấy vợ con. Lúc đó má tôi đang mang bầu. Ba dặn mà đừng bao giờ trả lời kẻ thù những gì khác hơn là “không biết”. Ông ôm chặt đứa con trai vào lòng thật lâu, rồi xin cha mẹ thương yêu săn sóc vợ con. Sau do ông biến dạng.
    Ngày tháng trôi qua, má tôi không thấy mặt cũng chẳng nghe tin tức gì của chồng. Một đồng chí tin cẩn cho biết là ba tôi đã được lịnh đi bên Xiêm mua khí giới cho cách mạng. Má tôi quyết định dẫn con về làng của bà, vì cũng sắp đến ngày sanh nở. Kỳ nghén này, sức khoẻ của má tôi rất kém; mà lại có song thai, vậy bà cần về bên ngoại để được chị của má săn sóc. Đến ngày má đi sanh. ba xuất hiện một cách bí mật và bất ngờ, lẻn vào nhà thương Cần Thơ chứng kiến một sự nhiệm mầu. Má tôi sanh hai người con gái, trước sau ba mươi phút. Đây không phải là hai cục vàng mà là hai viên kim cương; ba tôi đặt hai chị là Kim và Cương. Một lần nữa, để bảo vệ an ninh cho chính mình, ba tôi lại phải ra đi ngay lập tức.

    Hai năm sau, ba tôi thật sự “biến mất”. Khó mà biết ông ở đâu vì đối với ông, vắng mặt thật lâu đã trở thành thói quen. Nhưng lần này có tin cho biết ba tôi đã bị Tây bắt. Má tôi không tin, nhưng rồi cũng phải tin, vì chính tên sĩ quan tình báo đã một lần đến nhà tôi khoe rằng chính nó đã bắt ba tôi. Ba tôi bị đầy ra Côn Nôn.
    Má tôi che giấu nỗi tuyệt vọng khi thằng Tây ra giá với bà: nếu bà chịu khai với mật thám Tây về những hoạt động cách mạng của ba tôi, thì bà sẽ được phép đi thăm nuôi. Những bà nói là việc thăm nuôi không có ích lợi gì, vì bà đang đau và phải chăm sóc gia đình. Bà nói: Tôi là vợ, chớ tôi không là đồng chí của ổng nên hỏi tôi về việc chánh trị tôi mịt mù không biết gì đâu. Mấy chuyện tôi biết chẳng quan trọng gì với ông. Tôi chỉ biết chuyện thay tã và giờ giấc cho con bú thôi.
    Mấy tháng trôi qua, không có tin tức trực tiếp gì của ba tôi và các cậu. Những người được phóng thích từ khám lớn trở về ghé thăm má tôi. Họ cho biết là ba tôi và hai người anh của ba đã chịu đựng hết các cuộc tra tấn khủng khiếp. Họ khuyên má viết thơ cho ba tôi khuyên ông nhượng bộ để tránh những cuộc khẩu cung dẫn những trận tra tấn dã man. Khi má tôi nghe họ kể tỉ mỉ về những trận tra tấn trong tù và các tù nhân khác, qua xúc động bà muốn nghe lời họ. Nhưng khi má hỏi ý kiến ông ngoại, ông nói “Con nên nghe lời nó dặn lúc nó còn ở nhà. Nó biết chuyện nó làm. Con đừng có nghe lời người ngoài chi biểu. Kiên nhẫn, chịu đựng và đừng viết thơ”.
    Từ tháng này qua năm khác, gia đình không ai nhận được một lá thơ nào của ba. Má tôi cùng hai người chị dâu, mợ Tư Diệp và mợ Năm Sắc, âm thầm chờ chồng. Gia đình chỉ sống với những tia hy vọng mỏng manh qua lời nhắn của những người được phóng thích sớm. Nào là mấy ổng còn sống, mấy ổng còn ở trong tù, mấy ổng bị bịnh, v.v… Có người tình nguyện đem thơ và hình của má và anh chị tôi, vì ba tôi xin được thấy hình vợ con. Má tôi vội dẫn anh Khôi, và hai chị Kim, Cương đi chụp hình. Má làm được việc này hai lần trong suốt năm nam. Như ông ngoại đã dậy, má nhẫn nại nuôi con, chờ chồng. Nhờ tài may vá kiếm đủ ăn, bà còn dành dụm chút ít, với hy vọng trong tương lai sẽ cùng ba sống trong một mái ấm gia đình.
    Tháng Tám, năm 1945, Đệ nhị thế chiến chấm dứt. Ba tôi cùng hàng vạn người làm cách mạng khác bị Tây giam giữ ở Côn Đảo rợi khỏi địa ngục này vào khoảng trung tuấn tháng Tám năm đó. Ông là một trong số hành khách trên chuyến tầu đầu tiên cập bến Đại Ngãi, Sóc Trăng.
    Cau Năm Sắc bị lao phổi nặng. Cậu về trong chuyến tầu thứ hai cập bến tại Cần Thơ cùng với cậu Tư Diệp và 200 đồng chí của hai cậu. Những người còn đủ sức khoẻ đã cong cậu Năm ra khỏi trại xuống tầu. Người thì chống gậy, kẻ lê lết. Họ gào thét trong sung sướng khi an vị trên tầu.
    Ba tôi kể lại: nhiều người qua kiệt sức vì bịnh nặng, vì thiếu dinh dưỡng, nên đã chết trên đường về đất liền. Bởi trong tù, Tây cho ăn cá muối ướp với vôi trắng. nên bị phù thũng. Nhiều người đi không nổi, bạn bè phải dìu dắt ra khỏi những cái chuồng. Việc đầu tiên của những người bị biệt giam là chạy tìm nhau coi ai mất ai còn. Những vòng tay ôm lấy nhau trong ngày ấy cũng trở thành những vòng tay siết chặt trong công cuộc đoàn kết đấu tranh sau này trong vùng giải phóng chống ngoại bang.
    Rồi họ lần lượt xuống tầu rời Côn Đảo, trở về với mái ấm gia đình. Trong cơ thể ba tôi, nhiều ống xương bị gẫy. Bàn tay trại giầy đinh đạp gẫy mấy lóng tay. Mấy lần được thả ra khỏi hầm, ba tôi lấy than vẽ cảnh hoạt động trong sân trại. Bị bọn cai tù cấm nhiều lần, nhưng ông không nghe lời, nên bị chúng đạp lên bàn tay. Ba trải qua không biết bao nhiêu trận tra tấn đớn đau. Những trận tra tấn đó để lại những vết thẹo trên lưng, trên vai, trên tay người làm cách mạng, và sau hơn nữa, có những vết thương trong lòng người đàn ông yêu nước. Nhưng kẻ thù đã thất bại vì nhà cách mạng này không dễ bị lung lạc, không chồn bước và tinh thần lúc nào cũng vững như thành đồng. Đó là tinh thần của một người Việt Nam yêu nước, quyết tâm giành độc lập, tự do cho quê hương mình.
    Tháng chín năm 1945 lại mở đầu cho một chiến dịch mới của Việt Minh. Ba tôi và các cậu rút vô trong bưng, vợ con lần lượt tản cư theo.
    Tháng 5-1946, tôi ra đời, và ba năm sau em tôi nối tiếp. Ba đặt tên em là Hải Vân vì lúc đó bộ đội vừa đánh đèo Hải Vân. Công cuộc chiến đấu của ba tôi không ngừng cũng như cuộc xâm lăng của ngoại bang vẫn tiếp diễn.
    Tôi còn nhớ có một lần gia đình tôi phải bỏ chạy, vì Tây ập đến đốt nhà, phá làng. Gia đình tôi phải chạy xuống một chiếc ghe, tản cư đến một làng khác; nơi đó, gia đình tôi lại bắt đầu cuộc sống mới trong một ngôi nhà mới.
    Như một phim tài liệu trắng đen chiếu đi chiếu lại trong tâm thảm của tôi, mà má tôi là người kể chuyện. Tôi nhà hoài ngôi nhà gần ngã từ Ong Vèo, nằm trong một làng nhỏ cũng trong tỉnh Rạch Giá. Tôi năm tuổi. Hải Vân hai tuổi, má tôi đang mang bầu sắp sanh. Ngôi nhà ngói đỏ, trước hiên có bốn cây cột gỗ mun to tưởng. tôi ôm mà không hết vòng tay. Nhà này không phải là nhà riêng, mà là cơ quan hoạt động chánh trị của ba tôi. Má tôi biết Việt Minh lấy nhà của những chủ điền giầu có để làm trụ sở, các cơ quan và nhà ở cho gia đình cán bộ. Những chủ điền mất nhà phải trở về ruộng cất nhà khác, hoặc phải tạm ở đậu với tá điền.
    Ba tôi không thích chủ trương cướp nhà kiểu này, mà phải âm thầm sống trong hoàn cảnh trái với lương tâm mình. Nhưng rồi má tôi xin tiền của ông bà ngoại để lén trả tiền mướn nhà và đất cho chủ điền. Hành động “phản đường lối” này chỉ có má tôi và chủ điền biết thôi, và mỗi lần di chuyển đến địa phương khác, Việt Minh vẫn mướn nhà, mướn đất như vậy. Má tôi tiếp tục “phản đường lố”. để không bị lương tâm cắn rứt.
    Khi chúng tôi ở Ong Vèo, nhà luôn luôn đông khách. Họ tới để họp với ba tôi hoặc tạm trú để đi chữa răng ở một trạm nha y gần đó. Có người từ miền xa đi công tác ghé qua ăn một bữa cơm gia đình. Con đông, khách nhiều, một mình má tôi lo không xuể. Bà nhắn về Bang Thạch xin ông bà ngoại giúp đỡ, đồng thời gửi cho ba hai người giúp việc. Bà ngoại mướn hai người em cô cậu ruột của má là Dì Mận và Dì Chi vô giúp má tôi; lại thêm chị Hiển, con của người trong làng Bang Thạch để giữ em.
    Thỉnh thoảng có hai người tù đến chèo ghe cho ba tôi đi công tác. Đó là chú Hương và chú Đời. Họ cũng tá túc trong nhà chúng tôi một vài ngày chở ba tôi đi công tác. Họ không có tội gì nặng hay nguy hiểm, nên chị em chúng tôi không sợ. Tội của họ là buôn lậu những đồ từ ngoài thành đem vô.
    Khách của ba tôi là các đồng chí của ông. Họ đến hội họp, ăn uống, đôi khi ngủ lại. Họ chiếm gần nửa căn nhà. Trong khi đó, má tôi chỉ có hai người khách quý, đó là ông bà ngoại của chúng tôi. Thỉnh thoảng nghe Tây bố ở trong khu, nóng ruột vì sự an ninh của con cháu, ông bà vô thăm nom, nhưng không bao giờ để lộ sự lo âu cho ba tôi thấy.
    Một trong những người khách thường xuyên của gia đình là chú Lê Đức Mai. em trai của bác Lê Đức Thọ. Gia đình tôi là gia đình thứ nhì của chú, vì gia đình của chú ở tận ngoài Bắc. Anh Khôi là người bạn tí hơn của chú, và má tôi là người cho chú ăn những bữa cơm thanh đạm của miền Nam.
    Nhà tôi ở gần trạm nha y, nơi bộ đội và những người trong tổ chức cách mạng khắp miền Tây đến chữa răng. Cũng tại cái trạm nha y này mà Ong Vèo không còn là một nơi an cư nữa cho dân làng. Khi Tây phát giác ra trạm nha y và những trụ sở của Việt Minh chung quanh đó, Ong Vèo trở thành mục tiêu cho những trận không tạc khủng khiếp không ngừng.

    Gia đình tôi phải tập đi tập lại để thuộc lòng con đường chạy trốn máy bay. Hầm núp cũng thay đổi vị trí hoài. Tất cả người dân đều được phân công rõ ràng, mỗi người có một trách nhiệm khi nghe tiếng máy bay từ xa. Dì Mận và Dì Chi có trách nhiệm mang theo những đồ quý giá trong nhà lúc chạy máy bay. Tôi nhớ là nhà tôi trong vùng kháng chiến không có cái gì quý giá, chỉ có tánh mạng chúng tôi và cái bàn máy may của má. Lần nào chạy máy bay, cái đầu máy cũng được mang trước. Nó nằm trong bụi tre cho tới khi Tây bay đi xa rồi mới được đem vô nhà.
    Tôi được dặn kỹ là phải chạy theo sát bên má, trong khi má bồng Hải Vân. Để không chết chùm, hầm trú ẩn của ai thì người này phải trốn vô đó. Riêng má tôi và Hải Vân thì cùng xuống một hầm vì nó còn nhỏ quá, không thể để nó một mình.
    Có một thời, anh Khôi và hai chị Kim, Cương đi học ở một trường nội trú tỉnh Bạc Liêu. Mỗi lần máy bay của Tây tấn công Ong Vèo, má lại lo cho ba người ở xa. Rồi chính ngôi trường đó bị Tây bỏ bom cháy rụi; ba anh em phải trở về nhà, chừng đó má và thêm ba đứa con để trông chừng mỗi lần chạy máy bay. Tóm lại cuộc sống trong bưng biền của chúng tôi, ở đâu rồi cũng sợ. Sợ chết chùm, sợ chết lẻ loi, sợ chết trôi chết nổi, sợ phơi thây ở rừng sâu nước đọc. Sợ thằng Tây lông lá, sợ người Việt ngã lòng vì không khuất phục được những thử thách quá khó khăn.
    Tôi thường nhớ đến tuổi thơ của tôi, đến quãng đời với nỗi sợ hãi đó. Kỷ niệm về cuộc sống ở Ong Vèo vẫn còn trong trí nhớ của tôi, vẫn còn ấm trong con tim của người fon gái đã sống với đất nước và dân tộc.
    Nhà tôi ở không xa cái chợ chồm hổm, nơi dân làng tụ hội, ăn uống, đổi chác cá, khoai, gà, vịt. Người ta cũng tới đây ban đêm để nghe Việt Minh tuyên truyền, nghe đi nghe lại những khẩu hiệu chống Pháp cứu nước. Có một lần chị Hiển, người giữ Hati Vân, bồng em và dẫn tôi theo chị ra đầu làng coi “Bà Bông”. Cái Bà gì mà dơ dáy, bẩn thỉu, bị nhốt trong cái chuồng để ở giữa chợ chồm hổm cho người ta tới coi. Mặt “Bà” bị bầm tím, đầu tóc rối nùi. Một anh bộ đội mang súng trên vai đứng canh người đàn bà bất hạnh đó. Má tôi cũng không hiểu sao bá ấy cứ la: “Tui là đàn bà, chứ không phải là đàn ông, thả tui ra”. Bà còn vạch áo cho người là bu chung quanh chuồng thấy áo nịt ngực, rồi la lớn hơn : “Coi nè, tui là đàn bà!”.
    Tôi càng không hiểu, vì người đó không có vú như mấy dì, em bà con của má. Ngực của người đó lép như ngực của chú Hương và chú Đời. Về sau tôi mới hiểu người đàn ông đó trá hình đàn bà. Nhà cầm quyền địa phương nhốt ông ta vô chuồng để răn những ai dám phô trương họ thuộc loại đồng tính luyến ái.
    Tôi không dám nói với ai là tôi thương hại người đó, và tiếng kêu gào của người trong chuồng làm tôi thao thức nhiều đêm.

    Ở Ong Vèo, ba tôi có những công tác gần nhà, nên người thường có mặt ở nhà. Vì vậy, ông chơi với chúng tôi nhiều hơn trước. Ba tôi thường đờn vĩ cầm, và dậy anh Khôi những ngón đờn mà anh hay bị trật lên trật xuống. Tôi mò mẫm được mấy bài hát nho nhỏ qua cây đờn mandoline của anh Khôi. Ba tôi đã kèm cho tôi đờn được bài quốc ca. Tôi còn nhớ bàn tay bé nhỏ của Hải Vân trên những sợi dây đờn. Nó dùng ngón trỏ móc những dây cho kêu lên để cả nhà vỗ tay tán thưởng, vào thời đó, nhà tôi vui lắm, luôn luôn có tiếng đờn tiếng hát của người lớn lẫn trẻ thơ, tiếng má ru em, tiếng mấy dì “hò khoan”, tiếng chị Hiển “ù ơi, dí dầu” để ru ngủ Hải Vân trên cái võng. Anh chị em chúng tôi hay nghêu ngao hát bài “Tình đồng chí”.
    Quê hương anh nước mặn đồng chua
    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
    Anh với tôi đôi người xa lạ
    Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
    Súng bên súng, đầu sát bên đầu
    Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
    Đồng chí!
    Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
    Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
    Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
    Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
    Áo anh rách vai
    Quần tôi có vài mảnh vá
    Miệng cười buốt giá
    Chân không giày
    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
    Đêm nay rừng hoang sương muối
    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
    Đầu súng trăng treo
    (1948)
    Chúng tôi hát cho quê hương nghèo khổ, giặc giã, cho tình đồng chí trung kiên. Chúng tôi ca ngợi những chàng trai yêu nước, các anh vệ quốc quân nằm gai nếm mật, những bà mẹ chiến sĩ thương con, thương cả những người con xa gia đình> Mối thù quan xâm lăng đã vĩ đại trong từng con tim nhỏ bé của chúng tôi từ lúc ấy, và tình yêu đất nước có sẵn trong tim và nó tự nhiên như tình yêu ông ba, cha mẹ.
    Sáng sớm, ba má tôi hay ra bắt sâu, nhổ cỏ trong cái vườn nhỏ sau hè. Ba tôi trong sâm cho má uống để có thêm chất bổ, cho “mẹ tròn con vuông”, vì má tôi đang có thai.
    Một hôm đi ăn giỗ về, vừa mở cửa bước vô nhà, ba tôi vui vẻ khoe rằng có người dưới xóm chỉ cách cho ông nuôi tằm lấy tơ. Má tôi nghe xong chỉ lắc đầu cười. Nhưng ba tôi như một đứa trẻ vừa có món đồ chơi mới. Ông chọn cái hiên bên hông nhà, rồi cùng anh Khôi xây dựng cho nuôi tằm, ông vừa làm vừa hát. Người nuôi tằm cho ba tôi hai vỉ tiằ. Trò giải trí của ba tôi chẳng bao lâu trở thành công việc bận hàng ngày của má, dì Chi và dì Mận. Khi tằm sinh sôi nảy nở quá nhiều, má phải mướn người xắt lá dâu cho tằm ăn. Tôi thấy mỗi lần rải lá dâu lên những con tằm trong vỉ, là chúng trườn lên đống lá ngay, ăn lẹ hơn con của má tôi ăn vặt.
    Ba tôi đi công tác xa đến gần Tết mới về, và dẫn theo một người con trai trạc tuổi anh Khôi, mười lăm hay hay mười sáu gì đó, tên là Nhãi. Anh Nhã ốm như cây tre miễu, tóc anh hớt ngắn, trông xấu xí như có lần anh Khôi bị một người thợ lạ làm hư mái tóc đến nỗi anh phát khóc. Khi ba tôi giới thiệu người con trai nhút nhát, nhỏ nhẹ này với má, tôi mới biết là ba má đã nhận 4 người con nuôi hồi nào má tôi không biết, nay dẫn về nhà ra mắt má và các em. Lúc vắng mặt anh Nhã, anh Khôi cho tôi biết má của anh Nhã chết trong một trận máy bay oanh tạc ở làng của anh. Còn ba anh thì bị ho lao chắc cũng sẽ chết. Kể từ ngày gia đình tan nát, anh ở với ông nội. Nay ông cũng đã quá già. Ông nội và ba anh đã xin ba má tôi nhận anh làm con nuôi. Trong những năm loạn lạc, ba má tôi làm cha mẹ đỡ đầu, cha mẹ nuôi của nhiều trẻ mồ côi. Lúc đầu, vừa nghe anh Nhã kêu má tôi là “má”, tôi coi anh là đối thủ liền. Tôi ganh với anh, vì mấy ngày đầu, ba má săn sóc anh nhiều quá. Anh Khôi hiểu được nỗi lòng của tôi qua những cử chỉ và ánh mắt của tôi, nên anh dẫn tôi ra sau hè, rầy cho một trận. Anh nói mình nên chia sẽ cái diễm phúc của gia đình mình, chia tình thương của ba má cho anh Nhã; phải thương anh ấy. Tôi lắng nghe nhưng không hứa hẹn gì hết, vì còn muốn coi anh ấy có đáng được thương không. Anh Khôi chê tôi là “đồ xấu bụng”. Tôi không sợ mà chỉ biết là tôi đang ghen với “cây tre miễu” này. Những sau đó thấy anh Nhã hiền, hoà mình với tất cả mọi người trong nhà. Anh kiên nhẫn chơi với con nít. Một buổi sáng nọ, ba tôi ngồi trước mái hiên nói chuyện với con cái, trong đó có cả anh Nhã. Ba dậy cho chúng tôi biết ánh sáng của mặt trời là một nguồn năng lượng quý giá. Khi ở tù, mỗi lần bị biệt giam dưới hầm đất ẩm ướt, ba ts khổ cực vì chật chội chỉ đủ để trở mình; lúc ngủ thì phải nằm co như cái bào thai trong bụng mẹ. Chỉ tiếp xúc được với thế giới bên ngoài nhờ một cái lỗ nhỏ đủ rộng cho cai tù đưa đồ ăn xuống. Ba tôi bị ghẻ lở đầy người. Để giữ gìn sức khoẻ, sáng nào cũng chờ mặt trời lên cao, ba tôi cởi hết quần áo ra, kiên nhẫn “tắm nắng” dưới tia sáng của mặt trời qua cái lỗ nhỏ. Cuối cùng, khi ông được kéo lên khỏi hầm, thằng Tây cai tù ngạc nhiên nhìn cái vai rám nắng của ba tôi. Nó đưa tay lên chào tỏ vẻ thán phục.
    Mỗi lần nghe ba kể chuyện ở tù ngoài Côn Đảo, hai chị Kim Cương đều ôm ba khóc. Anh Khôi thì tỏ vẻ tức giận những kẻ hành hạ ba. Tôi thầm hãnh diện về người cha can đảm của mình.
    Nghe xong chuyện năng lượng rnặt trời, tôi quyết định đi kiếm chút mặt trời cho mình, vì ba còn cho biết ánh sáng mặt trời không những bồi bổ cho da, mà còn có thể giết vi trùng lao nữa. Như những đứa trẻ khác, tôi sợ người cùi, tôi sợ ma. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy cùi hay ma. Bây giờ tôi sợ luôn vi trùng lao, vì cậu Năm của tôi đi tù về đã chết vì bịnh lao. Từ đó tôi sợ anh Nhã đem vi trùng lao của ba anh về nhà này, những cũng không dám thổ lộ cho người lớn biết, sợ bị chê là “do xấu bụng” nữa.
    Sáng hôm saui, tôi lấy chiếc chiếu trải giữa đường đi từ nhà ra hè, nhắm mắt lại (vì ba dặn không nên nhìn thẳng tia nắng sẽ làm hư mắt). Một lát sau, đang thiu thiu ngủ, tôi nghe như có tiếng của một đàn trâu đi tới từ đang nhà chú Tư Nhờ - một chủ điền giầu có trong vùng. Ông có một bầy trâu lớn lắm. Tiếng động càng lúc càng lớn haơ, gần hơn, làm tôi phải mở mắt ra mới biết rằng tôi không mơ, mà có cả trăm con trâu chen lấn nhau đi về phía tôi. Cùng một lúc, tôi nghe kêu hốt hoảng, tiếng của hai chị xen lẫn vào tiếng chân của đàn trâu. Lại có tiếng người la lớn: “Nằm xuống, đừng nhũ nhích”. Tôi vội nằm sát xuống mặt đất, không dám cựa quậy, hé mắt nhìn bầy trâu chuyển hướng. Chúng rẽ thành hai hàng, rồi từng con trâu khổng lồ đi qua chỗ tôi nằm, những con não cũng tránh đạp lên mình tôi. Khi con trâu cuối cùng đi khỏi, anh là người đầu tiên chạy ra xớt tôi lên. Như có một sự mầu nhiệm, tôi không bị hề hấn gì.
    Lớn lên tôi sống trong cảnh nồi da xáo thịt của đất nước, nhiều lận tôi hỏi Thượng Đế: “Sao Ngài dậy được con trâu không giết tôi mà không dậy được con người đừng giết nhau?”.
    Ở đây có giông bão, có muda mưa nước lụt, có bầy trâu của ông Tư Nhờ mà má tôi sợ. Nhưng thiên tai không phải là nguy cơ. Tây mới là thảm hoạ, vì họ đã khám phá ra nha y và những hoạt động của Việt Minh tại Ong Vèo. Nhà cầm quyền cách mạng bắt đầ cbh để dời các cơ quan đến một địa điểm bí mật khác. Mhg chưa kịp tản cư thì căn cứ Ong Vèo bị oanh tạc liên tiếp mấy ngày trời. Nhiều nhà trong làng bị cháy; họ không cònchỗ nào trú ẩn nữa. Nhiều người nghĩ rằng người Pháp đem Thiên chúa giáo tới đây, có thể máy bay của chúng vị nể Chúa của họ, sẽ không bỏ bom nhà thờ. Vì vậy có nhiều người khi thấy máy bay từ xa, xúm nhau chạy vô nhà thờ trốn. Nhưng máy bay cũng bỏ bom nhà thờ; người chết đầy dưới chân Chúa.
    Trong những ngày bom đạn đổ xuống làng tôi, thì ba tôi lại đi công tác chưa về. Trong nhà không có đàn ông, chỉ có anh Khôi. Một hôm, khi nghe tiếng máy bay đến gần, anh dẫn hai chị em xuống hầm núp, má bồng Hải Vân, tôi chạy sát bên má. Lúc ba mẹ con băng qua cây cầu dừa, một chiếc máy bay sà xuống bắn, đạn bay tứ tung, cây cầu sập. Nhưng tôi chạy trước nên phóng qua bên kia bờ được. Má và Hải Vân rơi theo cây cầu xuống rạch rồi bị lún sình; Hải Vân khóc thét lên làm tôi hoảng hơn, tưởng em bị đạn. Mà la lớn, cho biết là em vì sợ mà kêu, chớ không hề hấn gì. Mà kêu tôi tới tiếp má bồng em để má leo lên bờ. Nhưng Hải Vân sợ quá, không chịu buông má ra. Má nhìn quanh, thấy cái vỏ đạn đồng sáng trưng, còn nóng hổi, bèn lượm lên đưa cho Hải Vân cầm chơi. Nó quên sợ, đưa tay cho tôi ẵm. Má tôi nặng nhọc với cái bụng bầu, bò lên khỏi cái rạch sình lầy.
    Chúng tôi ngồi trên bờ một lát, chưa biết máy bay có trở lại nữa không. Có khi chúng quay lại bỏ bom lần nữa, có khi cả tuần dân chúng được bình yên. Bỗng lại có tiếng máy bay. Má tôi vội vàng tuột ngay xuống mương, bồng Hải Vân theo. Tôi nằm up như dán mình xuống sát đất. Lần này có hai chiếc máy bay nối đuôi nhau. Chúng vừa bỏ bom, vừa ria súng bắn xuống đất, đạn bay vèo vèo. Đất văng vô mặt, vô mình tôi. Tôi ép sát mình xuống đất hơn nữa. Tôi van với Trời Phật, van vái linh hồn của ông bà, những người thân thuộc đã chết về phù hộ, che chở chúng tôi. Ông bà nội tôi đã qua đời trước khi tôi ra đời, nên tôi thường than van với ông bà mỗi khi chúng tôi gặp hoạn nạn.
    Sau mỗi cuộc oanh tạc, biết mình được an toàn, chúng tôi thường nhớn nhác chạy tìm nhau để xem ai còn, ai mất, hoặc có ai bị thương tích gì không. Lần này cũng vậy, tôi theo má đi tìm anh Khôi, hai chị Kim, Cương, dì Mận, dì Chi và chị Hiển. Tất cả đều binh yên vô sự. Những mồ mả của gia đình ông chủ đất bị trúng bom. Xương khồ từ dưới mồ văng lên ngổn ngang trên mặt đất.
    Gia đình tôi rời Ong Vèo vào một buổi chiều. Hôm đó hình như trời có sắc vàng hơn những buổi chiều trước đó. Tại sao. Chắc Ong Vèo muốn đứa bé tinh nghịch này nhớ thương mảnh đất đó suốt đời. Làm sao mà quên được! Tôi đem theo trong lòng mầu lá non của cây ôti trước nhà. Miệng tôi còn nghe vị chát đắng của những trái ổi non mà tôi không đủ kiên nhẫn chờ đến lúc chín được, và dĩ nhiên là những trái ổi chín ngọt chim ăn mất một nửa trên tán ngọn cây, tôi ăn phần còn lại. Anh Khôi cất cái nhà trên cây để tôi chơi nhà chồi. Gần như suốt ngày tôi sống trên trên cây ổi này, tôi được nghe lỏm những câu chuyện giữa chú Lê Đức Mai và anh Khôi. Có lần anh Khôi hỏi cách nào em bé ra khỏi bụng má. Chú Mai cười với tiếng Bắc chú trả lời …


    Từ cái nhà này tôi đã nghe chú dậy cho anh Khôi biết những gì về Hồ Chí Minh. Chú thường lặp đi lặp lại với anh hai những bài học “Bác Hồ” dậy.
    Những đêm trăng sáng ở Ong Vèo, ba tôi hay bơi xuồng chở tôi và Hải Vân giữa sông, dậy cho chúng tôi tên của những vì sao. Lúc đó còn nhỏ quá, tôi và Hải Vân chỉ biết có chị Hằng và chú Cuội. Có một đên trăng chưa tròn, Hải Vân nhìn mặt trăng hỏi ba:
    - Nửa cái mặt trăng kia đâu rồi?
    - Ba không biết.
    - Con bẻ mặt trăng làm hai, con liệng nó xuống sông kia”.
    Ba tôi yêu đêm đó và đứa con thông mình tuyệt vời suốt đời.
    Con sông dẫn vào Ba Ngọn từ từ nhỏ lại. Dừa nước và Ô rô mọc đầy hai bên bờ. Nước đục chảy lừ đừ buồn bã. Ghe chở chúng tôi đến một thôn làng vắng vẻ. Nơi đây không có một dấu hiệu gì hứa hẹn cuộc sống của chúng tôi sẽ vui như ở Ong Vèo. Đêm cũng như ngày, tiếng muỗi kêu không dứt. Những ngôi nhàđã bị phá huỷ, nền nhà cỏ mọc cao. Ngói đỏ của những mái nhà bay văng rải rác khắp nơi. Trong cảnh chết chóc của ngôi làng hoang vắng này chỉ có sự sống tầm thường mới có mặt một cách âm thầm. Đó là mấy con nòng nọc và bèo cám nở đấy trên mặt nước trong những hố bom. Má tôi buồn bã nhìn quanh, rồi lắc đầu nhìn cảnh điêu tàn. Sau đó, bà cùng ba tôi và cậu Hai Hợi đi quanh miếng đất, tìm chỗ thích họp để xây tổ ấm mới cho gia đình
    Ba Ngọn hoang vắng, điêu tàn, nhưng rồi như đã có hẹn trước, một người đàn ông dắt theo con chó đến gặp ba tôi. Ông dẫn ba và cậu Hai Hợi đi quan sát chung quanh. Cậu Hai sẽ cất nhà cho chúng tôi. Trong khi người lớn đi tìm đất cất nhà, thì con nít tụi tôi phải ngồi lại trong ghe. Trước khi đi, cậu Hai chặt cho một buồng dừa nước để tụi tôi có thể ngồi trong ghe vài giờ. Ở Ong Vèo vườn đất có đủ loại trái cây; Ba Ngọn chỉ có dừa nước. Anh tôi chặt từng trái dừa cho mấy đứa em ăn cho qua thì giờ.
    Sợ máy bay thám thính phát giác, cậu Hai chặt là dừa phủ lế mui ghe. Công việc này nhằm mục đích bảo vệ tánh mạng chúng tôi. Nhưng mỗi lần gia đình tôi càng được bảo vệ, tôi càng biết là tôi có thể bị Tây bắn. Từ đó, tôi đâm ra sợ chết. Rồi tôi bị ám ảnh là mình sẽ bị máy bay bắn chết dưới sông, ba ngày sau mới nổi lên mặt nước, sình trương. Mối lo sợ của tôi bắt nguồn từ những “thằng chòng” trôi lếnh bềnh trên nhiều khúc sông mỗi khi chúng tôi đi tản cư qua.

    Cậu Hai Hợi nói: “Ba Ngọn, cho chó ở, chó cũng hổng thèm”. Có lẽ cậu nói đúng, bởi vì chúng tôi không được lội sông ở đây. Dân địa phương cho biết vào mùa cá Bông đẻ, nó giữ con, nên có ai lại gần, nó cắn. Anh Khôi về nhà kể chuyện về một ngư phủ đi chái với đứa con trai. Lúc cái lưới chài bị mắc kẹt dưới sông, ông lặn xuống để gỡ, thì bỗng dưng đứa con thấy mấu nổi lên mặt nước. Nó kêu cứu. Khi dân làng đem được ông lên thì “chỗ kín” của ông bị cá cắn mất tiêu! Tôi hỏi má “chỗ kín” là chỗ nào, má chỉ sau đầu gối, rồi tôi thấy người lớn cười. Anh Khôi nói, dù anh có thèm tắm sông tới đâu anh cũng không xuống cái sông đó.
    Mấy tuần sau, chờ khi nước ròng, ba và anh Khôi giăng luới quanh cái cầu dưới bến để chặn cá bông, cho anh em tôi tắm sông được an toàn. Nếu chúng tôi không được bơi lội tự do dưới sông, thì đời con gì là thú vị nữa.

    Mùa xuân năm 1952 em gái tôi ra đời. Sự có mặt của em đem lại sự sống cho con rạch đục ngầy vắng vẻ đó, cho cái xóm hoang tàn sống lại với tiếng cười, tiếng hát trong gia đình tôi. Ba đặt tên em là Hoà Bình, lấy theo tên của một tỉnh ngoài Bắc vừa giành lại khỏi tay của thực dân Pháp.

    Và ba tôi nói hoà bình là hết giặc, vì ông mơ ước có hoà bìnhcho mọi người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Hoà bình là hết giặc, hết chạy xuống hầm núp. Với tôi, hoà bình chỉ giản dị và ngay thật như vậy; và hoà bình đẹp như em Hoà bình của tôi vậy.

    Trong thời chiến, thảm họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nó không đi xa mình. Kể cả trong những ngày giờ hạnh phúc nhất của đời người, thảm hoạ cũng có thể đến gõ của nhà mình được. Em tôi còn thơm mùi sữa thì có một người lạ đem một hung tin đến. Anh liêm của cậu Năm Sắc (má tôi thứ tám) bị Tây bắn chết vài tháng trước. Anh đi ghe xuống Bạc Liêu để về trường Việt Minh, tiếp tục học trung học. Anh bị Tây bắn từ tầu tuần tiễu của chúng. Anh chết trong nhà một người quen cách xóm chúng tôi không bao xa. Người ta chôn anh trên đất hoang. Nhờ lời trăng trối của anh mà người ta tìm được chúng tôi. Anh Liêm chỉ mới có mười bẩy tuổi mà đã bị chết một cách tức tưởi. Anh là con trai trưởng của cậu Năm Sắc. Ba anh mất sau khi ra khỏi nhà tù Côn Đảo. Mẹ anh theo kháng chiến để anh và ba người em cho ông bà nội nuôi.

    Riêng gia đình tôi còn nhiều may mắn, vì vẫn có nhau. Chúng tôi nhặt nhạnh những gì còn lại để sống; sống với thâm tình trong cái xóm mà cậu Hai Hợi gọi là “cái đất trời hại”.
    Má tôi dần dần quen với những người ở các làng lân cận và may vá kiếm tiền nuôi con, nuôi chống. Cả bốn người học trò đến học may. Họ là con gái của những gia đình khá giả. Học may để may vá trong gia đình, và cũng để sửa soạn làm người vợ đảm đang khéo tay khi lấy chống.

    Chị Hồng Nga, con của cậu Tư Diệp đi học ở Bạc Liêu, ghé thăm chúng tôi. Chị nói bác sĩ ở trong khu khuyên mỗi gia đình nên trồng sả, vì sả ngừa được nhiều bịnh, nhứt là trong thời gian đó nhiều người bị bịnh lao. Chị đi rồi, má tôi nhờ mấy người trong cơ quan trồng sả hai bên đường đi vào nhà tôi.



  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 27


    Ngày 15 tháng Tư năm 1975, John lên đường về Sài gòn tìm cách rước má và hai em tôi qua Mỹ. Sau này anh kể lại với tôi rằng dù anh lúc nào cũng lạc quan, đó là bản tánh của anh, thế mà khi máy bay cất cánh khỏi phi đạo Hickam, anh cũng nôn nao, hồi hộp, vì không đoán trước được chuyện gì xảy ra bên kia bờ đại dương, trên quê hương của vợ. Quân cộng sản sắp tràn vô Sài gòn; biết anh có đủ thời gian và phương tiện đưa mẹ và hai cô em vợ ra khỏi vòng nguy hiểm không? Kinh nghiệm của một sĩ quan hải quân phi công có giúp anh được gì không? Dù sao, lái một chiếc máy bay mới sáng chế cũng đỡ nguy hiểm hơn xông vào lò lửa đầy bất trắc. Anh chỉ biết tin vào tài tháo vát của mình mà thôi.
    Lộ trình của chuyến bay này sẽ ghé qua mấy nơi như căn cứ không quân Clark của Mỹ ở Phi l.uật Tân, Sài gòn và trạm cuối cùng là Bangkok.
    Nhưng khi đến Guam, đáng lẽ chỉ nghỉ có một tiếng, lại kéo dài gấp ba, khiến John càng bồn chồn, nóng ruột, nhưng chả biết làm thế nào hơn.
    Khi mọi người trở lại máy bay và đã an vị, John thấy trong đám hành khách mới lên ở Guam có một ông tướng hải quân. Qua đồng phục, hai người nhận ra nhau ngay, họ cùng là phi công. John gật đần chào ông tưởng, nhưng anh không biết có nên nói chuyện với ông không, khi anh ghé Sài gòn một cách bất hợp pháp. Nhưng chính ông tướng lại tới bắt tay John, và tự giới thiệu ông là trung tướng Oberg, một sĩ quan tham mưu của Lực lượng Thái Bình Dương. Thì ra hai người cùng đi Sài gòn. Tướng Oberg hỏi anh sĩ quan trẻ có nhiệm vụ gì ở Sài gòn. John nói thật là đi rước gia đình vợ ra khỏi Việt Nam
    Suy nghĩ hỏi lâu, ông tướng luu ý John là chỉ có những người có công vụ mới được qua Việt Nam. John cúi nhìn xuống đất, chỉ khẽ gật đầu mà không nói một lời. Từ đó hai người giữ im lặng.

    Khi máy bay đáp xuống phi trường Clark ở Phi Luật Tân, ông Oberg nói với John:
    - Tôi không nói cho ai biết hết, nhưng anh cần nhiều may mắn hơn đó!
    Ông còn cho John biết ở phi trường Clark, quân cảnh sẽ kiểm tra chặt chẽ. Hành khách phải xuống máy bay để hoàn tất thủ tục đến Sài gòn.
    Khi máy bay còn nằm trên trên phi đạo ở Clark, John bắt đầu xem các loại giấy tờ. Anh không có sự vụ lịnh, giấy chiếu khán nhập cảnh Việt Nam. Anh nghĩ sẵn những lý do thật sự và khả sĩ để thuyết phục quân cảnh. Nhưng anh biết, chẳng có lý do nào khả dĩ thuyết phục bất cứ ai. Vì thế, anh lo lắm, lo có thể bị quay trở lại Guam. Nhưng có một phép lạ đã cứu anh. Vì chuyến bay đã quá trễ sau khi đã ngừng ở Guam đến ba tiếng đồng hồ, nên tất cả hành khách xuống máy bay phải đứng chở ở một góc được giữ an ninh trật tự, không ai được ra khỏi vùng đó, nên quân cảnh không mất nhiều thì giờ xét giấy tờ lần thứ hai. John thở một hơi dài như muốn trút ra khỏi lồng ngực tất cả sự lo âu. Ông Oberg nheo mắt cười với anh, như muốn tỏ vẻ chúc mừng anh đã gặp may mắn. Máy bay cất cánh sau ba mươi phút xuống đổ xăng. Bay giờ, giữa anh và Việt Nam không còn gì xa cách nữa. Chỉ có vài trăm dặm của biển Thái Bình phía trước.
    Khi chỉ còn vài phút nữa là tới phi trường Tân Sơn Nhứt, anh vô phòng vệ sinh chất cứng thay quần áo. Anh xếp bộ đồng phục xuống tận đáy va ly. Anh mặc một bộ quần áo kaki, hoá trang thành một nhà báo dân sự, giống các nhà báo ở Sài gòn. Sau khi máy bay đáp xuống, hành khách sửa soạn đi ra, anh chưa nghi ra cái mẹo nào có thể qua mặt đám quân cảnh xét giấy tờ ở phía dưới. Khi bước ra khỏi máy bay, còn ở gần cầu thang, anh chợt trông thấy tướng Oberg bước vào một chiếc xe mầu đen có bảng hiệu VIP, tài xế là một quân nhân. Khi chiếc xe lướt đi trong ánh nắng tháng Tư của Sài gòn, anh chợt nảy ra một ý nghĩ táo bạo. Anh bỗng la lớn:
    - E, họ lấy xe của tôi! Bắt họ ngừng lại!
    Nhiều người nhìn anh rồi kéo nhau vô phòng trình giấy thông hánh. Một người lính quân cảnh đứng dưới đất ngước nhìn anh với vẻ ngạc nhiên, rồi nhìn hút theo chiếc xe mầu đen đã chạy một khoảng xa. Người lính trẻ với gương mặt thật thà hỏi anh:
    - Ông tướng Hải quân lấy xe của ông?
    John ra vẻ là một nhân vật quan trọng của toà đại sứ la lối om xòm, rồi anh bắt một người lính quân cảnh phải tìm cho anh một chiếc xe khác. Người lính hoảng sợ, chạy vô gọi DOD tìm xe cho “ông lớn”. Khi người lính vừa đi, John vội lẻn qua giữa các building, đi bộ ra khỏi cổng phi trường và mất dạng trong đám đông của Sài gòn. Khi biết chắc chẳng còn ai bắt được mình nữa, anh đi taxi về khách sạn Brink ở đường Hai Bà Trưng. Xuống xe, anh kêu cyclo về nhà má tôi ở đường Nguyễn Văn Sâm. Cả nhà vừa mừng vừa sợ khi thấy John xuất hiện, dù tôi đã gọi điện thoại về báo trước, những không biết chắc ngày nào anh về tới. Má và em tôi có cả ngàn thắc mắc để hỏi John về chị em, con cháu chúng tôi đang ở Mỹ. Người Sài gòn lại hỏi người bên Mỹ về tình hình Sài gòn. John chợt hiểu vì thấy gia đình bên Sài gòn không có đàn ông trong nhà. má ở nhà nghe lỏm tin tức với bạn bè hàng xóm. Một ông thượng sĩ Không quân là lính kiếng ở kề bên. Ông làm sao biết tình hình đất nước lúc bấy giờ, trong khi cả tuần ông chỉ ở trường đua Phú Thọ, và lê la trong các phòng trà về ban đêm. Em tôi còn được sống ở Sài gòn, được người lính Việt Nam Cộng hoà bảo vệ, chưa nếm mùi giặc giã bao giờ. Tôi có hai em, một đứa đã đi làm, còn một đứa đang đi học.
    John cho má và em tôi biết anh về để rước ba người đi Mỹ. Nghe nói vậy, mọi người giữ im lặng. Ai cũng muốn bám lấy Việt Nam theo những lý do riêng của họ, cùng mối tâm sự hoang mang mang. Má tôi thì nghĩ tới chuyện được gặp ba tôi và anh Khôi. Tôi nghĩ rằng có thể má cũng nghĩ đến một ngày được an hưởng tuổi già bên cạnh chồng con. Hoà Bình thì nhứt định đi Mỹ, Minh Tâm cũng vậy. Con Vân, người giúp việc của má, muốn đi Mỹ. Má tôi vội viết thơ để lại cho anh Khôi. Trong khi đó, con Vân cũng đổi ý, muốn về Cần Thơ sống với má nó. Má tôi cho nó một số tiền đủ xài hai tháng và một số đồ đạc trong nhà, kể cả bàn máy may. Mà cũng không quên ghi rõ trong thơ là cho anh Khôi nhà của má. Sở dĩ má cho Vân tiền đủ xài trong hai tháng, vì má cho rằng vào khoảng thời gian đó, ba tôi cũng đã vào Sài gòn. Ngoài số tiền mặt, mà cũng cho nó hầu hết đồ đạc trong nhà, chỉ dành lại cho anh Khôi có bộ chén kiểu Noritaki.
    Tối hôm đó John gọi tôi, cho hay anh đã tới nơi và đang xúc tiến những chuyện cần thiết. Đoạn đường trước mặt còn gian nan hàng trăm ngàn lần đoạn đường từ Mỹ qua Việt Nam. Trong khi ở Mỹ tôi i lo sợ từng giờ từng phút. Có lúc tôi lại hối hận đã để John dấn thân vào cho nguy hiểm, mà nơi đó người ta đang tìm đường trốn đi.
    Kể từ ngày John đi Sài gòn, tôi chầu chực bên cạnh điện thoại suốt ngày, trừ những giờ phải đưa Lance đi học và đón nó. Mỗi lần điện thoại reo tôi lại giựt bắn người lên. Chị Cương ở cách tôi chừng năn, bẩy dặm, thấy tôi quá lo lắng, ban ngày tới nhà tôi chơi. Ban đêm, chị muốn tôi về nhà chị ngủ, nhưng tôi từ chối, ở nhà trông ngóng tin Sài gòn.
    Chị Cương và tôi đã tới sở ngoại kiều làm giấy bảo trợ má và hai em Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi báo cho John biết số hồ sơ giấy tờ quan trọng cần cho việc đưa má và hai em ra khỏi Việt Nam.
    Có một lúc John ngừng gọi cho tôi mấy ngày liền khiến tôi nóng ruột muốn phát điên lên.Tôi phải gọi ông Esper ở văn phòng Thông tấn xã The Associated Press. Nhưng tôi lại gặp xui, vì tổng đài của hãng thông tấn quá bận, nên tôi không liên lạc được với ông. Tôi phải chờ mất hơn ba tiếng đồng hồ mới nói chuyện được với ông. Như muốn trấn an tôi, ông cho biết sẽ gặp John, nhưng không có tin tức gì mới lạ. Ông cũng nói thêm rằng John sẽ làm đủ mọi cách để có thể đưa gia đình tôi sang Mỹ, ông khuyên tôi cứ an tâm chờ đợi.
    Vì lo lắng cho má, cho Sài gòn, tôi mất ngủ, mất ăn. Một buổi sáng, tôi nhìn tôi trên kiếng, bỗng thấy tôi già hẳn đi, dù lúc đó tôi mới 29 tuổi đầu. Sài gòn có thể mất trong nay mai. Người miền Nam sẽ đạp lên nhau mà chạy đi tìm tự do. Rồi đây, những di cư từ miền Bắc năm 1954 sẽ lại phải dắt díu vợ con chạy trốn cộng sản một lần nữa. Người miền Nam sẽ phải chịu cảnh chia ly như người miền Bắc 20 năm trước. Trăm ngàn nỗi khổ, người dân của các nước tự do làm sao hiểu nổi. Nghĩ đến những nỗi buồn thảm trong tương lai, tôi thấy xót xa trong lòng nên không dám nghĩ tiếp nữa.
    Tôi ngước nhìn lên cao, hỏi ông trời: “Không lẽ dân tôi cứ đau khổ triền miên mái như vậy sao?
    Tôi theo dõi tình hình miền Nam trên truyền hình từ sáng đến khuya. Lance đi học về đòi coi truyền hình, tôi phải tìm nhiều đồ chơi khác cho con chơi, nhưng cũng phải nhường TV cho nó khi có phim hoạt hoạ của Nhựt. Đó là hai phim Kikaida và Rainbor Man. Có lần Lance hỏi:
    - Sao nhà mình không mua ba cái TV cho ba người, như nhà thằng Mark, thằng Zachery?
    Tôi phải trả lời khéo:
    - Tại má muốn coi TV chung với Lance.
    - Má thằng Mark coi movie hay lắm, con mà coi tin tức chắc muốn chết!
    Tôi lại phải giải thích:
    - Tại bà ngoại của thằng Mark ở Ohio, bình yên, không chiến tranh, chỉ cần tin thời tiết là đủ. Còn bà ngoại của Lance ở Việt Nam, giặc đánh tới nơi, má muốn biết tin tức bên Sài gòn'
    - Giặc là ai? - Lance hỏi
    - Là VC.
    - Oh!
    Lance đành xin qua nhà thằng Mark, thằng Zachary chơi. Đúng nửa tiếng đồng hồ sau, theo đúng như lời hứa thì Lance trở về về, vì gần tới giờ Lance được coi phim hoạt hoạ.
    Trong khi ngồi chờ TV, thình lình Lance hỏi:
    - Sài gòn không yên sao mà biểu Daddy đi tới đó?
    Thông thường, câu hỏi vô tư của đứa bé năm tuổi không khó trả lời, nhưng câu hỏi này của con tôi làm tôi cứng họng. Tôi cảm thấy mình tội lỗi với John, với má của anh. Tôi đay mặt đi chỗ khác để lau nước mắt. Thật tình, tôi nghĩ tới hiểm nguy cho má nhưng không nghĩ tới hiểm nguy cho tánh mạng của John. Chúng tôi chỉ nghĩ làm sao đưa má và hai em ra khỏi Việt Nam trước khi miền Nam mất vào tay cộng sản. Không biết tôi vô tình hay điếc không sợ súng, hay chúng tôi đang sống ở một nước bình yên, tự do, nên muốn người thân yêu của mình cũng được cuộc sống như mình? Cũng có thể là tất cả những lý do này.
    Thấy tôi khóc. Lance lấy miếng Kleenex cho tôi chùi mất, rồi gỏi:
    - Má có sợ Việt Cộng bắt bà ngoại không?
    Tôi vội la cháu:
    - Đừng có nói bậy!
    - Chừng nào nào bà ngoại qua. Lance xin ngủ với bà ngoại được không?
    - Không, Lance lớn rồi, phải ngủ riêng.
    - Sao má nói Lance còn nhỏ, không được ra bờ biển một mình. Bây giờ má lại nói Lance lớn rồi, phải ngủ một mình? Người lớn không công bằng, lúc thì nói con nhỏ, lúc thì nói con lớn.
    Nói chuyện với thằng bé ngây thơ, tôi cũng bớt lo lắng phần nào.
    Trong khi đó, ở Sài gòn, John đã tìm đủ mọi cách để đưa má và hai đứa em tôi đi chánh thức. Anh tđến Bộ nội vụ xin giấy xuất cảnh, nhưng ông chánh văn phòng bộ này nói không còn ai làm việc nữa, ai cũng bỏ trốn hết rồi. Ông còn đề nghị anh đưa gia đình ông đi cùng với má và hai em; ông sẽ trả tiền cho John. Nhưng anh từ chối.
    Một hôm, John gọi về cho hay bữa nay anh số nói chuyện với người “sửa điện thoại” để biết còn cái gì hư hao nữa không; “sửa điện thoại” là mật hiệu riêng giữa chúng tôi. John đi “sửa điện thoại”, có nghĩa là anh sẽ vào toà đại sứ Mỹ để gặp nhân viên CIA cho biết ba tôi là ai. Nếu John bảo tôi đi “sửa điện thoại”, là tôi phải đi gặp đại tướng Gaylor.
    John cố tránh tại toà đại sứ Mỹ, vì anh là người đến Sài gòn bất hợp pháp. Chỉ một cú điện thoại, là anh có thể bị lính thuỷ quân lục chiến n ở toà đại sứ bắt, rồi đưa anh lên phi trường, đuổi về Hawaii ngay lập tức. Trước khi quyết định gặp nhân viên CIA, John gọi điện thoại cho đại tá Trần Duy Bính. Bây giờ là tới lúc John trả cái ơn của gia đình tôi cho đại tá Bình. Anh nói với đại tá Bình là anh biết chắc quân bảo vệ sẽ vô Sài gòn, nên đề nghị đại tá Bình chuẩn bị gấp cho ông và gia đình ông đi Mỹ. Anh sẵn sàng giúp đỡ mọi phương tiện. Những đại tá Bính chỉ cảm ơn mà không có ý định bỏ chạy. Ông vẫn còn lạc quan, tin là chưa đến nỗi nào. Sau đó, John nhờ đại tá tìm cho một cây súng. Đại tá Bính đưa liền cho John một cây revolver. Anh tháy súng lớn quá, khó giấu trong người, nên xin một cây nhỏ hơn. Đại tá hứa sẽ tìm cho trong vòng vài ngày. Những tình hình không cho phép “vài ngày”.
    John tới cô nhi viện Minh Trí gặp sơ Nguyễn Thị Trọng, sơ cho biết một số trẻ mà John và tôi đã gặp, chết vì bị bịnh hoạn. Một số khác còn sống, nhưng không khóc. Sơ cũng cho biết, nhiều người Mỹ muốn đưa trẻ mồ côi ra khỏi Việt Nam, chẳng hạn như ông Ed Dailey, chủ hãng máy bay World Airways. Ông xin phép toà đại sứ Mỹ cho ông dùng máy bay riêng của ông để đưa trẻ mồ côi đi Mỹ, nhứt là những đứa con lai. Những toà đại sứ không cho phép.
    Một hôm, John may mắn gặp bà Shirley Clark, nhân viên của tổ chức từ thiện Friends Service Cơmmittee. Ba khuyên John kiên nhẫn chờ đợi; trong vài ngày sắp tới có thể có tin vui với anh. Đúng như lời bà, hai ngày sau, ông Ed Dailey tổ chức chuyến bay cho trẻ em mồ côi, mà không có phép của toà đại sứ Mỹ. Việc này làm cho nhân viên của toà đại sứ Mỹ tức giận. Họ kêu ông Ed Dailey là người bắt cóc con nít, giống như giọng điệu của cộng sản Bắc Việt.
    Nhưng sau đó, nhờ vận động khéo, ông Ed Dailey được đại sứ cho phép đưa con lai ra khỏi Việt Nam. Ông cấp tốc chuyển các trẻ mồ côi lên phi trường, trong đó có cả các em ở cô nhi viện Minh Trí.
    Chuyến đầu tiên, gồm có 300 em ở cô nhi viện Minh Trí, tới Úc Đại Lợi. Các nhà báo Uc chê mấy em này dơ dáy, bịnh hoạn, thế mà vẫn có cả ngàn gia đình xin nhận nuôi. Mọi người đều mừng rỡ, vui vẻ.
    Nhưng chuyến thứ hai không may mắn. Ở Mỹ, tôi xem TV, được biết chiếc máy bay C-5A chở 243 em và chừng 45 người lớn, cất cánh ở phi trường Tân Sơn Nhất bị rớt. Tôi lặng người đi, đau đớn đến tê dại, không khóc được.
    TV cũng cho biết Đà Nẵng rơi vào tay cộng sản. Hàng vạn người tỵ nạn từ miền Trung đổ tới các tỉnh miền Nam. Già trẻ, em bé hè nhau đi, dẫn theo cả súc vật. Họ gồng gánh một nhúm tài sản nhỏ nhoi. Họ cõng mẹ già, con thơ. Trong thật thê thảm đáng thương. Như vậy, rõ ràng trái với lời tuyên truyền láo của cộng sản là dân miền Nam hân hoan đón chờ cuộc “giải phóng” của họ. Tôi nhớ hồi 1954, có hơn 800.000 người từ miền Bắc di cư vào Nam. Trong khi đó, chỉ có khoảng 180.000 cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc.
    John có thói quen từ ngày cưới, kêu tôi bằng “Nhà” (phát âm tiếng Việt). Anh cho biết anh thích chữ “Nhà”, vì nó có vẻ ấm cúng và bình an trong tâm hồn.
    Một hôm, từ Sài gòn, anh đến văn phòng của hãng thông tấn AP (Associated Press) để gọi điện thoại cho tôi. Với giọng mệt mỏi, anh cho biết không có tin gì hay. Nhưng muốn trấn an tôi, anh nhó:
    - Nhà ơi, anh sẽ làm tất cả những gì anh làm được”.
    Nhưng anh đâu có biết rằng, nghe được tiếng anh lúc đó, là quá tốt rồi. Tôi an tâm vì biết chắc má tôi và hai đứa em không có mặt trên chiếc máy bay C-5 gẫy cánh mấy ngày trước đó, mà tất cả hành khách đều bị thiệt mạng. Nhưng tôi vẫn chưa hoàn toàn an tâm khi nghĩ đến những cảnh chạy loạn ở Việt Nam mà TV Mỹ chiếu hàng ngày. Dân miền Trung lếch thếch, bồng bế dắt díu nhau chạy trốn làn sóng tấn công của giặc cộng. Từ đó, tôi liên tưởng đến má tôi và hai em. Vì vậy tôi nói với John, giọng năn nỉ:
    - Cưng ơi, đừng về Mỹ mà không có má và hai đứa nhỏ nhen.
    Nói xong, tôi nhận ra ngay là mình đã lỡ lời một cách ngu ngốc. Rất may là John hiểu rõ tâm trạng tôi lúc bấy giờ.




    ____________________________


    Chương 28



    Cửa toà đại sứ Mỹ đóng kín để giữ an ninh, nên công việc đi lại và liên lạc với nhân viên bên trong càng khó khăn cho John. Đã nhiều lần người lính thuỷ quân lục chiến gác cổng rất lịch sự phải mời anh đi chỗ khác, vì biết các nhân viên không muốn tiếp anh. Họ chỉ làm tròn nhiệm vụ của họ, nên John không giận. Nhưng anh phải vô được toà đại sứ thì mới hoàn thành nhiệm vụ… do tôi uỷ nhiệm. Một hôm, anh nghĩ ra một kế để có thể lọt vô bên trong. Anh ngồi chờ cho đến khi có một chiếc ce chở đầy người Mỹ chạy tới cổng. Những người này bước xuống đều có vẻ là nhân viên của toà đại sứ. Họ mặc bộ safari vàng, cũng xách cặp da như John. Thế là anh nhập với bọn họ vô toà đại sứ. Khi đã vô được bên trong, anh phải tỏ ra mình là người quen thuộc trong toà đại sứ. Anh tìm ngay ra được văn phòng của ban tình báo. Anh mới ló đâu vô, thì một nhân viên ngẩng đầu lên nhìn anh với một vẻ rất ngạc nhiên. John mạnh dạn bước vô, tự giới thiệu về mình. Khi nhân viên ngồi trong phòng chưa hết ngạc nhiên, anh nói:
    - Ba vợ tôi là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow.
    Câu tiết lộ này đã làm cho anh nhân viên tình báo tên Joe McBride chú ý. Thế là anh mời John ngồi xuống ghế để họ nói chuyện. John kể hết mọi chuyện liên quan đến gia đình tôi, bây giờ từ cuộc điện đàm của tôi với người tên Jean Kaplan, cho đến công việc của anh tại Sài gòn lúc này. Anh còn nói thêm cho biết, chỉ còn không tới 30 ngày nữa thì toà đại sứ Mỹ sẽ trở thành villa của quân Bắc Việt. Joe đồng ý với anh, nhưng ông nói nhỏ là toà đại sứ cấm nhân viên không được tiết lộ sự thật này. Ông vừa nghe vừa đánh máy ghi lại lời John, để báo cáo thẳng lên cho xếp của ông. Sau mấy lần tới lui để bổ túc chi tiết về trường hợp của gia đình bên vợ, John được cấp trên của toà đại sứ mời vào để nói chuyện. Nhưng anh thất vọng, vì cả ông “xếp lớn” lẫn ông Shep Lowman là phó đại sứ đều không biết ông Đặng Quang Minh là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Liên Xô. Như vậy, làm sao John có thể chứng minh má tôi - bà Trần Thị Phàm - là vợ chính thức của ông Minh, và đã có 7 con với ông. Từ bao nhiêu năm nay, Mỹ đánh nhau với kẻ thù mà ông biết rõ kẻ thù kể cũng lạ. Ông Lowman còn cảnh cáo John, không được tiết lộ cho dân Sài gòn biết tin cộng sản Việt sẽ chiếm Sài gòn trong một thời gian ngắn. Nếu không, họ có thể nổi loạn. Lời cảnh cáo này đã làm John ngỡ ngàng, vì toà đại sứ Mỹ cố tình lừa gạt người Việt Nam trong cơn hấp hối của Sài gòn. Trong giờ phút này, người làm ngoại giao không còn chỗ đứng nữa; các nhân viên trong toà đại sứ chỉ chú trọng việc bảo vệ toà đại sứ.
    Trong suốt cuộc chiến tranh Nam - Bắc Việt Nam, ai cũng nghĩ các nhân viên tình báo Mỹ CIA “đi trên nước, bước trên lửa”. Nhưng thiệt ra, họ là những kẻ mộng du, lúc nào cùng mơ mơ màng màng, không nắm vững tình hình thực tế. Họ không biết kẻ thù của họ là những ai.
    Nhưng may quá, khi CIA ở Sài gòn gửi điện về trung ương ở Langley, Virginia, tường trình cuộc gặp gỡ giữa họ với John, thì một sĩ quan cấp thấp, tên là Robert Hall, nhận ra ba tôi. Thế là việc đưa má và hai em tôi bắt đầu tiến nhanh hơn xe tăng của Bắc Việt tiến vào dinh Độc lập.
    Sau này tôi mới biết, người sĩ quan CIA này đã nhiều năm liền nghiên cứu về hoạt động của Mặt trận giải phóng miền Nam, nhưng rồi không biết vì lý do gì, ông chuyển sang mặt trận Lào, khi nước này rơi vào tay cộng sản, ông về làm việc ở trung ương. Ông là người sĩ quan tình báo làm việc với tôi sau này.
    Trong khi dân Sài gòn nhốn nháo tìm đường chạy ra khỏi nước, thì John cũng không biết làm cách nào cho má và hai em đi Mỹ được, dù đã được toà đại sứ chấp thuận. Tôi hay, nói cho John biết, xứ sở tôi, người dân phải nghe lời đồn ở ngoài đường, rồi suy diến để biết tin tức chính xác hơn. John nhớ lại lời tôi, nên bắt đầu la cà tại mấy cái bar hay quán rượu, nơi má các nhà báo, cả Việt lẫn Mỹ, cùng người dân ngồi lê đôi mách của Sài gòn tung ra những tin nóng hổi và đặc biệt. Nhờ vậy, chỉ một thời gian ngắn, anh có đủ tin tức về việc bốc các nhân viên sở Mỹ và gia đình của họ, khi Sài gòn bước vào giai đoạn nguy khốn.
    John mang theo hai ngàn Mỹ kim, giấu kín trong giầy, nhưng anh biết rằng vào giai đoạn đó, số tiền nhỏ nhoi ấy không giúp được việc gì hết. Những ngày cuối cùng của Sài gòn, người ta tiêu tiền như trong cơn mê loạn. Ai ai cũng sẵn sàng vung tiền ra để mua hai chữ “tự do”. Nỗi lo sợ hiện ra trên gương mặt người dân Sài gòn. Cho đến nay, John vẫn không quen được những gương mặt lo sợ ấy.
    Nhiều hôm, đứng từ balcon nhà má tôi, John để ý bên kia đường Nguyễn Văn Sâm, to một người đàn ông thường ngồi cái bàn đầu tiên của nhà hàng Hồng Mai, thỉnh thoảng nhìn lên nhà má tôi. John lo lắng nói cho má tôi biết. Má kể lại chuyện một cán bộ của Mặt trận giải phóng miền Nam, hồi tháng Ba đã lén gặp má tôi, mời bà đi theo hắn để nhận tin của ba tôi từ ngoài Bắc gởi vô. Má tôi không đi, chỉ nói nếu có tin gì thì hay nói cho bà biết. Cuối cùng, hắn khuyên má tôi không nên bỏ Sài gòn đi, đừng lo sợ gì, vì hắn có trách nhiệm bảo vệ má tôi cho tới ngày ba tôi trở về. Người ngồi ở quán Hồng Mai chính là tên cán bộ cộng sản, đang làm nhiệm vụ canh gác của hắn.
    Trong khi đó ở Mỹ, tôi xem TV, thấy người ta loan tin cộng sản có thể phá hệ thống dẫn nước của Sài gòn. Tôi vội báo cho John hay, và đề nghị anh khuyên má tôi dùng hết nồi niêu xoong chảo, các thùng và các lu để chứa nước, phòng hờ bị phá hoại. Tôi vừa nói dứt lời, thì một người đàn bà trong tổng đài của Tiger bỗng lên tiếng, hỏi tin đó có chắc không? Thì ra bà ta nghe lén chuyện của chúng tôi. Tôi chắc hôm đó nhà bà ta cũng vội vàng tích trữ nước. Bấy giờ nhắc lại chuyện 34 năm cũ, chúng tôi còn cười.
    Ông George Esper cho John xem những phân tích của hãng thông tấn. Hai người đồng ý về những biến chuyển sắp tới. Họ bắt tay nhau như để cũng thương tiếc trong im lặng một thành phố sẽ mất tên trong chớp nhoáng. Họ cũng thông cảm lẫn nhau, vì cả hai đều có một nhiệm vụ nặng nề. Ông Esper phải đưa tất cả vợ con và nhận viên, cả Việt lẫn Mỹ, ra khỏi Việt Nam. Trong khi đó, ông định ở lại để chứng kiến cái chết của Sài gòn.
    John thì vẫn đi tới đi lui toà đại sứ Mỹ để gặp ông Joe McBride. Trong khi anh như người ngồi trên đống lửa, thì nhận viên toà đại sứ lại lạnh lùng một cách quan liêu. Phải chăng đó là tính chung của những người làm ngoại giao nhà nghề? Rồi một hôm ông McBride đưa cho John số dĩện thoại của một người tên là Grant Ichikawa; ông nói nhỏ cho anh biết họ cùng làm việc chung cho một tổ chức. John liền liên lạc với ông Ichikawa và kể hết mọi chuyện gia đình tôi. Ichikawa hứa sẽ cho John biết những dự tính của họ.
    Trong khi đó, ở Hawaii, ngày nào tôi cũng ngồi bên cạnh điện thoại để chờ nghe tin tức bên nhà. Đã mấy trăm lần tôi gọi cho má và hai em, thì cả mấy trăm lần đường dây bạn. Rồi một hôm, vào khoảng nửa đêm, tôi đánh thức má tôi dậy. Nghe tiếng nói yếu ớt, xa xôi của má, tôi có cảm tưởng như má tôi ở một nơi xa xôi nào đó, và tôi sẽ không bao giờ được gặp má nữa. Má tôi nói: “Con ơi. John phải về bên đó với tụi con. Nó đã ráng hết sức rồi. Bây giờ ở đây không còn an ninh nữa. Nếu có chuyện gì xảy ra cho má và mấy em, ít nhứt con còn John và Lance.
    Đêm đó, John ngủ lại nhà má tôi, nên cả nhà đánh thức anh dậy để nói chuyện với tôi. Anh nhẳn tôi một điều mà tôi đã chờ tôi ra lịnh cả mấy tuần này. Anh bảo tôi phải “sửa điện thoại”, nghĩa là đi gặp trung tướng Gaylor. Bấy giờ John không còn gì để giấu hải quân nữa, bởi vì toà đại sứ Mỹ và CIA đã biết sự rõ ràng về người sĩ quan hải quân và cái gia đình “không bình thường” của anh rồi. Chúng tôi cũng không biết ông trung tướng sẽ giúp gì được cho gia đình tôi, hay ông lại xé thây làm thịt người sĩ quan của ông, khi anh trở về Mỹ? Những, thôi thì chuyện tới đâu cứ giải quyết tới đó. Lậy trời cho tôi sáng suốt để đối phó với thử thách, với khó khăn.
    Trong những ngày tàn của một đồng minh của Mỹ trong Đông Nam Á, ông trung tướng Tổng tư lệnh Thái Bình Dương dĩ nhiên là một nhân vật quan trọng và bận rộn nhứt hơn hòn đảo thần tiên này. Sáu giờ sáng sớm hôm này, tôi thấy ông họp báo tại Pearl Harbor. Theo ký giả của NBC, trung tướng đã mệt mỏi sau gần 17 tiếng đồng hồ theo dõi tình hình Việt Nam, cần về nhà nghỉ ngơi mấy tiếng, trước khi điều khiển cuộc di tản nhân viên Mỹ ra khỏi Việt Nam. Tôi nghĩ tôi không nên gọi ông khi đang cần một giấc ngủ. Tôi biết người thiếu ngủ thường quạu quọ, như tôi chẳng hạn. Nhưng nếu tôi không liên lạc với ông đúng lúc ông vừa tỉnh táo, để ông trở lại căn cứ hải quân thì khó có dịp nói chuyện với ông. Tôi chợt nhớ tới bà Gaylor. Tôi đã từng nghe các bà vợ sĩ quan hải quân ở Hawaii ca tụng bà Gaylor rất dễ thương; bà quan tâm tới gia đình hải quân. Tôi hu vọng lời đồn đó sẽ là sự thật khi tôi quyết định gọi cho bà lúc 10 giờ sáng này.
    Sau khi đưa Lance tại trường, tôi chạy vội về nhà, ngồi bên máy điện thoại. Tôi nhìn đồng hồ, đã 10:05. Tim tôi đập hơn, cổ tôi khô, khi tôi quay số tư gia của ông tưởng. Người hầu cận là một thượng sĩ trả lời, giống của người Phi Luật Tân, hạ thấp giọng nói nhỏ:
    - Ông tướng còn ngủ, tôi không dám đánh thức ông.
    Tôi xin được nói chuyện với phu nhân của trung tướng. Viên thượng sĩ cho biết phu nhân cũng đang bận, tôi đành năn nỉ:
    - Thưa ông, tôi cũng là vợ của sĩ quan hải quân. Tôi cần sự giúp đỡ của trung tướng. Tôi cũng biết trung tướng mới về nhà nghỉ ngơi sau một đêm không ngủ. Thì thôi, ông cứ cho tôi nói chuyện với bà Gaylor đi.
    Viên thượng sĩ ngập ngừng một lát, rồi tôi nghe tiếng của bà Gaylor bên kia đầu dây. Bà hỏi tôi có chuyện gì cần? Tôi biết vào giờ phút này không ai có thì giờ nghe tôi nói dông dài. Vì thế, đi thẳng vô vấn đề một cách đột ngột, với giọng nói hấp tấp, lủng củng:
    - Tôi là con gái của một ông đại sứ tại Liên bang Xô Viết. ba tôi ở Hà Nội.
    - Ba của bà là người nước nào?
    - Ba tôi là người Việt Nam. Tôi biết bà sẽ ngạc nhiên lắm, nhưng tôi phải nói chuyện với trung tướng, cho ông biết một tin quan trọng liên quan tới Việt Nam, và tôi cũng cần ông cứu gia đình tôi.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ba Gaylor nói với giọng điềm tĩnh và ân cần:
    - Hãy an tâm. Tôi sẽ đánh thức ông. Khi có chuyện quan trọng như thế này, ông phải thức dậy.
    Trung tướng Gaylor tằng hắng, giọng khàn khàn trong điện thoạii, tôi bỗng có cảm tưởng mình nằm mơ. Tôi lính quýnh xin lỗi vì đã đánh thức ông dậy, ông vui vẻ nói dù sao ông cũng phải dậy để trở lại căn cứ ở Pearl Harbor, rồi hỏi tôi:
    - Bà cho biết tôi có thể giúp bà được chuyện gì?
    Tôi mừng qua khi nghe ông hỏi, vội và đáp:
    - Thưa trung tướng, ba tôi là đại sứ của Mặt trận Trận Giải phóng miền Nam tại Liên Xô, còn chồng tôi là một sĩ quan hải quân của trung tướng.
    Rồi tôi nói tiếp ngay:
    - Tôi nhận được tin là quân đội Bắc Việt sẽ chiếm miền Nam. Họ vô tới thì k má tôi sẽ ở trong một hoàn cảnh rất ngặt nghèo.
    Sau hiệp định Paris, năm 1973, khi Hà Nội trao trả tù binh, trung tướng Gaylor là người đầu tiên ra tận phi trường Honolulu chào đón tù binh. Tôi còn nhớ hôm đó là ngày đau buồn của dân tộc Mỹ. Như mọi người ông cũng không khỏi xúc động cùng cực khi nhìn bạn đồng ngũ của ông, lính và sĩ quan ông. xơ xác trong bộ bà ba đen bước xuống máy bay. Người què phải chồng nạng gỗ, người đi không nổi phải nằm trên băng ca. Tất cả tù binh đều được ghé Hawaii để khám sức khoẻ, rồi ai về nhà nấy với gia đình. Tôi nghĩ rằng khi nhắc đến Hà Nội, ông sẽ nhớ lại hình ảnh những người tù binh trở về từ Hà Nội Hilton, sẽ có phản ứng mạnh.
    Trung tướng Gaylor vội ngắt lời tôi:
    - Một trong những phụ tá của tôi sẽ liên lạc với bà nội trong hôm nay.
    Đúng như lại trung tướng hứa, chỉ trong vài giờ đồng hồ sau, trung tá Dave Smith gọi tôi, ông muốn tôi vào căn cứ hải quân ở Pearl Harbor để gặp ông. Nhưng khi nghe tôi nói tôi phải đi đón con cho chị tôi rồi mới có thể ghé qua văn phòng của ông, thì ông đổi ý, hẹn sẽ đến nhà tôi buổi chiều hôm đó.
    Khi trung tá Dave Smith nghe tôi kể đến cú điện thoại của Jean Kaplan thì bỗng ngồi thẳng người lên với vẻ chú ý, bởi vì lời báo trước của Jean Kaplan quá đúng. Miền Nam Việt Nam sẽ rơi vào tay cộng sản. Tôi nói tới đâu trung tá Smith ghi nhanh vào một tập giấy mầu vàng tới đó. Ban đầu ông viết chữ thường, sau đó ông phải dùng tới tốc ký vì tôi càng đi sâu vô vấn đề càng mau lẹ hơn. Ông hứa là ông sẽ báo cáo tất cả với trung tướng Gaylor. Ông chưa biết trung tướng sẽ giúp tôi và gia đình tôi ở Sài gòn bằng cách nào, nhưng ông tin rằng trung tướng sẽ có cách giúp chúng tôi.
    Tôi tin là trung tá Smith không hứa hão hứa huyền, bởi và là vợ của một sĩ quan, tôi biết phụ tá của một ông tướng có trách nhiệm trong hành động và lời hứa. Những lúc đó, tôi quá nóng lòng, chỉ mong có một lời hứa chắc chắn hơn. Tôi đánh liều.
    - Thưa trung tá, tôi muốn má tôi thoát khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt! Tôi sẵn sàng hợp tác với chánh phủ Mỹ nếu chánh phủ cần.
    Trung tá Smith không giấu được sự ngạc nhiên, khi nghe lời tinh nguyện hợp tác. Ông hứa sẽ báo cáo với trung tướng ngay.
    Tôi đã đánh hết những lá bài có trong tay. Tôi không còn hồi hộp hay lo sợ nữa. Bây giờ ngồi chờ. Nếu má và các em đi không được là do định mệnh ăn bài. Nghĩ như vậy, tôi đã ngủ được sau nhiều ngày lo lắng, ăn không ngon, ngủ không yên. Tôi đánh một giấc dài không mộng mị. Nhưng đến gần sáng, Lance bỗng thức giấc vừa khóc vừa nói:
    - Con thấy Việt Cộng chạy lên tới lầu nhà bà ngoại rồi.
    Thế là tôi thức luôn tới sáng. Tôi gọi chị Cương để nói cho chị nghe về giấc mộng của Lance. Chị trấn an tôi:
    - Tại cưng lo lắng quá làm con lo theo. Thằng nhỏ vừa thông minh, vừa nhiều tình cảm, nên bị ảnh hưởng mối lo của cưng. Đừng có tin mộng mị mà điên, cưng ơi.
    Khoảng hơn 24 tiếng đồng hồ sau khi tôi gặp trung tá Dave Smith, một người đàn ông đến tìm tôi. Ông ta cho biết ông là người của ông Smith gọi tới. Ông đã trọng tuổi, người cao lớn, tóc bạc trắng, giọng nói đầy thiện cảm. Ông giới thiệu tên là Bob Jantzen. Bấy giờ nhớ lại, tôi thấy ông Jantzen có vẻ mặt và cao lớn như tổng thống Reagan. Ông không nói ông là sĩ quan CIA, nhưng hồi đó, tôi cứ nghĩ rằng đã ở trong quân đội mà không mặc quân phục, lại đến nói chuyện với tôi về cha mẹ tôi, ắt phải là nhân viên của CIA. Ông Bob Janten cho biết, ông đã nghe “câu chuyện khá thích thú” của tôi. Ông cũng cho biết ông có trách nhiệm đưa má và hai em tôi đến nơi an toàn, chớ ông không quan tâm đến người cha cộng sản của tôi, ông cần tên, ngày sanh và địa chỉ của má và hai em tôi.
    Tôi liền cho ông biết là chồng tôi đã về Sài gòn để tìm cách đưa gia đình tôi ra khỏi Việt Nam, và hiện giờ anh ấy vẫn còn ở đó. Điều hay nhứt là nhân viên của ông nên gặp chồng tôi để biết đầy đủ mọi chi tiết. Ông tỏ vẻ rất ngạc nhiên và bối rối khi tôi nói như vậy. Ông có vẻ lo lắng:
    - Chắc bà biết là chồng bà mạo hiểm lắm mới dám đi Việt Nam trong lúc này?
    Ông cũng biết John không có cả sự vụ lịnh. Ông để tách trà xuống bàn, rồi nói tiếp:
    - Tôi muốn bà biết là chúng tôi rất quan tâm đến sự an toàn của má bà. Chúng tôi sẽ làm hết sức để giúp má bà thoát khỏi Việt Nam.
    Giọng nói chắc nịch của ông khiến tôi tin tưởng ngay, nên an tâm. Tối hôm đó, nghĩ lại cuộc nói chuyện với ông Bob Jantzen tôi hơi thắc mắc rnột chút, vì ông không có vẻ phong trần của một sĩ quan hải quân. Ông có dáng dấp của một người có dia vị trong xã hội. Từ ngày lấy chồng cho tới lúc bấy giờ, Hải quân đối với tôi là một đại gia đình, không lẽ nào trung tướng Gaylor lại gởi người tới mưu hại gia đình tôi.
    Mấy tuần sau tôi mới biết rõ Bob Jantzen là ai, ông chính là “trùm” CIA, người điều khiển mạng lưới tình báo khắp Đông Nam Á, mà văn phòng thường trực đặt tại Honolulu, Hawaii. Tôi còn được biết, ông đang lo chuyện di tản những người làm việc cho CIA tại Việt Nam. Lào và Cao Miên. Trong cái nhìn hạn hẹp của tôi lúc bấy giờ, tôi nghĩ ai cũng sợ CIA, nhưng ai cũng muốn làm quen với CIA, và ai cũng… ghê tởm CIA. Riêng tôi, tôi không hối tiếc đã quen biết với nhân viên CIA, vì tôi đang cần họ. Tôi hiểu rằng, trên cõi đời này cái gì cũng có cái giá của nó. Tôi thầm tự nhủ sẽ tìm cách trả nợ cho CIA sau khi má và hai em tôi thoát nạn.
    John đã liên lạc chặt chẽ với CIA ở Sài gòn. Bấy giờ chỉ còn chờ ông Bob Jantzen ở Hawaii bật đèn xanh là công việc được tiến hành mau lẹ. Ông Grant Ichikawa đã quả quyết với John trong lần gặp mới đây:
    - Khi có người được đưa ra khỏi Việt Nam, mẹ và em vợ anh cũng sẽ được đi.
    Không những thể, ông còn cho biết, hai vợ chồng ông cùng chuyến bay với má và hai em tôi, vợ chồng ông còn mời John tới nhà riêng của họ ở gần Tân Sơn Nhứt dùng cơm. Sau này John kể lại, buổi tối hôm đó, ai cũng lo lắng cho tương lai miền Nam Việt Nam. Bà Ichikawa nhiều lần tỏ vẻ thương xót khi bà thắc mắc về số phận của những người bị kẹt ở lại. Sau bữa cơm tới đó, John mới an tâm, dù anh sẽ phải về Mỹ một mg trước.
    Ngày hôm sau, thấy mọi việc kể như đâu vào đó, John đi một vòng để “nhìn Sài gòn lần cuối”. Anh ghé qua Hotel Rex, trước đó là câu lạc bộ của sĩ quan Mỹ. Anh ăn trưa ở Continental rồi thong thả đi qua Brink trên đường Hai Bà Trưng, với ý định lên bar uống rượu và nghe thêm tin ngoài hành lang, nhưng bị hai người lính quân cảnh Mỹ chặn hỏi thẻ căn cước và sự vụ lịnh. Dĩ nhiên anh không có đủ giấy tờ để có thể vào nơi này. Anh chỉ mơ hồ nói với họ là anh tới Sài gòn với công tác mật. Hai người lính quân cảnh bèn liên lạc với bộ chỉ huy của họ MACV. John nhận được lệnh phải trình diện với một trung quân cảnh ở đó. Ông trung tá nổi giận khi biết lý do có mặt ở Sài gòn của anh. Ông ra lịnh cho anh phải rời khỏi Sài gòn ngay ngày hôm sau. Ông còn cho biết ông đã báo cáo với hải quân những hành động bất hợp pháp của anh.
    Sau này anh cho biết, lúc đó anh không sợ gì hết, nên không tuân lịnh của MACV. Dù thế nào anh cũng phải làm tròn nhiệm vụ rồi mới có thể rời Sài gòn. Trong khi đó, ông trung tá muốn buộc anh phải rời Sài gòn; nếu không tuân lịnh, ông sẽ biện pháp. Anh nói:
    - Nếu ông bắt giam tôi, tôi sẽ trốn.
    Ông trung tá lại ra lệnh:
    - Phải rời Sài gòn trong chuyến bay tới.
    Tám ngày sau, tức là ngày 10 tháng 4, 1975, John biết chắc khi toà đại sứ Mỹ bắt đầu di tản người Việt, má và hai em tôi sẽ có người đến tận nhà rước đi. Anh dặn má và hai em không được ra khỏi nhà, mà cũng không cho ai biết mình sẽ di tản, dù thân thiết. Ngoài ra, mỗi người chỉ được xách một valise nhỏ. Khi mọi chuyện đã sắp xếp đâu vào đó, anh nghĩ rằng anh có thể rời Sài gòn trước ngày di tản, với ý định nhường chỗ của anh cho người khác trên một chuyến bay chạy trốn. Anh đi thằng ra phi trường Tân Sơn Nhất, kiếm một chỗ ngồi trên một máy bay của không quân Mỹ, bay tới đâu cũng được, miễn là ra khỏi Sài gòn.
    Trước khi lên máy bay, John gọi cho văn phòng quân cảnh ở MACV để nhờ người nhắn lời với ông trung tá, là anh sắp bay về Mỹ trong vài phút nữa.




    _______________________



    Chương 29



    Tôi không bao giờ có thể quên được cái ngày 23 tháng năm 1975, là ngày tổng thống Ford tuyên bố người Mỹ chấm dứt cuộc tham chiến ở miền Nam Việt Nam. Đó cũng là ngày tôi nhận được điện thoại của Hoà Bình, em tôi, báo tin má và hai em tôi đã ra khỏi Sài gòn. Giọng nói của em buồn như em khóc. Mấy tuần lễ trước, tôi nóng lòng mong đợi cái tin này, và cứ nghĩ rằng tôi sẽ reo hò mừng rỡ. Vậy mà bây giờ tôi lại cảm thấy tê tái trong lòng. Hai chị em tôi im lặng một hồi lâu. Tôi đang ở Honolulu, em tôi ở bên kia ba đại dương. Cả hai chúng tôi cùng có nỗi buồn mất nước. Cuối cùngg, tôi hỏi để cho có hỏi:
    - Má với tụi cưng mạnh ha?
    Hoà Bình cho biết là tất cả đã tới nơi bình yên. Má mong sớm được gặp con cái của má ở Hawaii. Tôi cho Hoà Bình rất có thể tất cả phải ở Guam một thời gian ngắn để lo thủ tục nhập cảnh. Em cho biết đã ra khỏi Sài gòn thì ở đâu cũng tốt, và chờ đợi bao lâu cũng không sao. Nhưng tôi nghe trong tiếng nói em chứa chất một điều gì mà em con giấu kín trong lòng. Tôi hỏi thì em đáp:
    - Em bỏ lại hết trơn chị Dung ơi!
    Em tôi khóc. Tôi an ủi:
    - Rồi mình sẽ có nhau.
    Tôi không biết nói gì khác. Hoà Bình bật khóc nức nở.
    - Mình mất Việt Nam vĩnh viễn rồi!
    Tôi nghe được niềm đau đó, vì tôi cũng như em, khóc cho đất nước lọt vào tay con cháu bác Hồ. Tôi cũng biết má tôi còn đau hơn chị em tôi nhiều. Vì trong một buổi sáng má tôi đã bỏ Sài gòn hai mươi năm chờ đợi, ước mong ngày tái ngộ cùng chồng và người con trai đầu lòng của má. Không những thế, bà còn bỏ lỡ cơ hội gặp lại anh em ruột và các cháu của bà. Họ trở về trong chiến thắng, trong khi bà phải vội vã chạy trốn cộng sản. Rồi từ nay, hàng tuần má tôi sẽ không còn có thể đi thăm mộ Hải Vân ở nghĩa trang quân đội được nữa. Trái tim tôi nghẹn ngào, cổ họng tôi khô rát, xót thương cho má. Những trong thâm tâm, tôi phải kính phục má là người can đảm ra đi.
    Em tôi chết; chỉ trong một thời gian ngắn, má tôi già đến hai chục tuổi. Bây giờ bỏ lại mồ mả không thể viếng thăm được nữa, làm sao má tôi có thể sống vui được. Gia đình tôi ai cũng biết trước, rồi đây cộng sản sẽ làm gì mồ mả kẻ thù của họ.
    Tin tức về Việt Nam đều là hung tin, nhưng chúng tôi vẫn thức khuya dậy sớm theo dõi từng giờ. Đêm đêm, vợ chồng tôi thường thức giấc nửa khuya, mở TV nghe tin một vài phút, rồi đi ngủ lại. Ai cũng biết rằng hôm này, ngày mai hay một vài tuần nữa, Sài gòn sẽ hoàn toàn thay đổi. Rồi Sài gòn sẽ mất những tên đường cũ, mất cả những tượng đài ghi nhớ công ơn các bậc anh hùng dân tộc. Lá cờ chính nghĩa của dân tộc Việt cũng sẽ không còn nữa. Rồi từ đây, người Việt Nam của tôi sẽ phải dùng ngôn ngữ của kẻ thù, thay vào đó là lá cờ đỏ sao vàng.
    Có khi nằm trên giường tới hai giờ sáng mà tôi vẫn chưa ngủ được, suy nghĩ lan man đủ mọi chuyện có thể xảy ra sau khi miền Nam sụp đổ.
    Năm ngày sau khi má và hai em tôi tới Guam, chúng tôi nhận được điện thoại của Hoà Bình lúc nửa đêm, báo tin má và hai em đã tới phi trường Honolulu, vợ chồng tôi vội vã thay quần áo, rồi gọi cho chị Cương, hẹn gặp nhau ở phi trường. Tội nghiệp Lance, nửa đêm bị dựng dậy, nhưng nó còn tỉnh táo hơn cả tôi, nó reo lên:
    - Sướng quá! Bà ngoại qua, con được ngủ với bà. Ngày mai được nghỉ học, phải không mommy?
    Tôi cố nhịn cười hỏi:
    - Bà ngoại qua có dính dáng gì tới việc đi học của con đâu mà đòi nghỉ học?
    Nó vừa cầm đôi giầy sandale vừa chạy nhanh ra garage như để trốn tôi, rồi đáp:
    - Tại mommy bắt Lance thức dậy nửa đêm, sang mai Lance buồn ngủ lắm, sao đi học được!
    Trong những ngày cuối cùng buồn thảm của Việt Nam, nếu không có thằng con kháu khỉnh và thông minh này, chắc vợ chồng tôi chơi vơi lắm. Nhờ nó mà trong nhà vẫn có tiếng cười, nhất là những tiếng cười vô tư của tuổi thơ.
    ***
    Khi đến phi trường, tôi thấy má và hai em tôi đang xếp hàng bên quầy của sở di trú. Má tôi trông già hẳn đi, già hơn hồi tháng 2 vừa qua tôi mới về ăn Tết. Hình như tất cả những đau thương, phiền muộn đã hiện lên mắt má. Tôi bỗng chột dạ, tự hỏi không biết tất cả những cố gắng của vợ chồng tôi từ mấy tuần nay để to cho má qua Mỹ có phải là một việc làm đúng không? Tôi muốn ôm má tôi, nhưng nhân viên sở di trú ngăn lại. Chị Cương thì bật khóc khi vừa nhìn thấy má và hai đứa em. Trong khi đó, bọn con nít, như Lance, con chị Cương Tina, Ten và Kenneth bất chấp nhân viên sở di trú, chui luồn xuống dưới để ôm bà ngoại và hai dì của chúng nó. Cả nhân viên sở di trú lẫn hải quan bất lực trước đám con nít, nên đã cho má và hai em đi ra một cách mau chóng, hành lý chỉ phải xét qua loa. Gọi là hành lý, chớ thật ra cũng chẳng có gì.
    Ba cãi vã-li nhỏ xíu chỉ vỏn vẹn có mấy thứ như: hai bộ quân phục không quân của Hải Vân, một kaki, một mầu xanh, một cái nón, một cuốn tập vở của Hải Vân hồi em học lớp Đệ thất, có cả cuốn truyện “Cha con nghĩa nặng” của Hồ Biểu Chánh, mấy cuốn dậy nấu ăn, hình của ông bà ngoại tôi mà má lấy trên bàn thờ, một cây đàn guitar cũ của Hải Vân… Nhìn những đồ vật đó, tôi nghẹn ngào, tim tôi rã rời. Tôi ôm mặt để giấu tiếng khóc, rồi vội bước ra khỏi đám đông. Chị Cương kêu tôi trở lại, nhưng John nói:
    - Để cho Dung yên vài phút.
    Tuy nói vậy, những John lại dìu tôi trở lại với má và hai em Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi chỉ đứng cách mà có vài bước, mà sao tôi thấy chân tôi nặng nề không bước nổi. Tôi không muốn chứng kiến nét đau đớn trên gương mặt già nua của má. Thật tôi cũng không biết nói gì với má, không lẽ hỏi thăm những câu tầm thường khách sáo. Mất nước, mất nhà, mất mồ mả cha mẹ. Tôi ôm lấy má, nhưng hai mẹ con không nói nên lời một hồi thật lâu… Rồi chúng tôi lên xe đi về nhà.
    John và Wray, anh rể của chúng tôi, đi một xe. Còn tất cả chui vô ngồi chung một xe với má. Chỉ có Minh Tâm ngồi băng trước với tôi, mọi người còn ngồi chồng lên nhau ở băng sau, Kenneth và Lance mỗi đứa ngồi một bên bà ngoại. Kenneth, lúc đó mới bốn tuổi, ôm cánh tay bà ngoại rồi nói:
    - Ken mừng bà ngoại sống.
    Hoà Bình khóc:
    - Dì Bình cũng vậy nữa, Ken ơit!
    Tôi nhìn má tôi qua kiếng chiếu hậu, rồi hỏi:
    - Má à, mình có làm đúng không, má?
    - Mình đâu con đường nào nữa, con. Má sẽ tự vẫn trước khi cộng sản hành hạ má. Ai cũng biết, không ai có thể lọt khỏi bàn tay của cái đám Hà Nội khi họ chiếm được miền Nam của mình!
    - Con nghĩ tới ba. - Tôi nói.
    - Ba con có đảng của ông. Ông sẽ bình yên với Cách mạng ông. - Má tôi trả lời, giọng buồn hiu. Tôi nói:
    - Mấy đêm con ngủ không được, cứ nghĩ tới ngày về của ba. Chắc ba đau khổ và thẹn thùng với họ lắm, vì khi về tới thì má đã đi rồi!
    - Con dằn vặt lương tâm của con không trúng chỗ. Khốn nạn, mình phải bỏ đi. Tụi con tin má đi. Đây là một quyết định khôn ngoan nhứt trong gia đình mình. Tốt cho má, cho tụi con; nhứt là cho ba của tụi con nữa. Nếu má ở lại, má sẽ tiếp tục chỉ trích, phê bình Chánh phủ của ông. Rồi có thể vì má, ba bị mất mặt, sẽ khó ăn khó nói với đảng, với đồng chí của ông, vì vợ con toàn là một đám chống cộng.
    Từ hôm đó cho tới ngày Sài gòn rơi vào tay cộng sản, chúng tôi cùng ngồi dựa vào nhau trước cái TV mà ngậm đắng nuốt cay, cái đắng cay của người bị cướp nước. Mỗi chiếc trục tháng bị đẩy xuống biển từ các chiến hạm, là một lần tim chúng tôi tan nát, trực thăng gợi cho chúng tôi nhớ đến Hải Vân. Em yêu nó và đã từng lái nó. Nó chính là biểu tượng lòng yêu nước của em với ý chí diệt quân thù.
    Khi tướng Nguyễn Cao Kỳ dang tay cho người lính Mỹ xét thân thể của ông, lần đầu tiên tôi nếm cái đắng cay, nhục nhã của kẻ đưa hai tay đầu hàng. Tôi thầm tự hỏi: “Ở lại để chiến đấu đến cùng, hay ra đi rồi phải chịu nhục trước đồng minh của mình. Đàng nào hơn?”. Rồi tôi tự đáp: “Danh dự của một con người, liêm sỉ vẫn quan trọng”.
    Tôi thao thức nhiều đêm, nghi hoài đến tương lai, đất nước sau khi cộng sản chiếm trọn miền Nam. Rồi tất cả mọi người sẽ phải sống dưới gọng kim sắt máu của cộng sản. Tôi thầm hận “đồng minh” Mỹ. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy nhục nhã đã làm công dân của một nước tháo chạy trước nguy cơ.
    Bốn tuần sau ngày cuối cùng của Việt Nam, ông Bob Jantzen mời hai vợ chồng tôi đến sở của ông. Văn phòng của ông trong căn cứ hải quân ở Pearl Harbor. So với văn phòng của các sĩ quan cao cấp của John khác xa nhau, như một trời một vực, nhà trải thảm dầy mầu cam sáng rực. Bàn ghế toàn bằng gỗ quý, chớ không phải bàn ghế kiểu nhà binh bằng sắt mầu xám. Trên bàn trong phòng tiếp khách có một bình bông tươi, chân dung bà Từ Hi thái hậu chiếm khoảng một phần ba bức tường.
    Đây là lần đầu tiên ông Jantzen bắt tay John. Ông khen John đã thành công trong việc cứu má tôi. Rồi quay về phía tôi, ông nói thêm:
    - Vợ anh cũng là người can đảm.
    Tôi ngạc nhiên về lời khen này, vì có thấy mình can đảm đâu. Chẳng lẽ nói chuyện với một sĩ quan tình báo là hành động can đảm? Hay còn một cái gì nguy hiểm chờ đợi tôi đây? Tôi nghe những chuyện đường rừng thú vị do các chị bà con Việt Cộng kế về tội ác của CIA. Tôi cũng đã đọc sách và tiểu thuyết về tình báo Mỹ v.v…
    Sau vài lời thăm hỏi xã giao, ông Jantzen hỏi tôi có lòng gặp “case officer” của CIA không? Kinh nghiệm của tôi lúc bấy giờ là sáu năm làm vợ một phi công đã từng vào sanh ra tử. Ngoài ra, tôi cũng có kinh nghiệm nuôi dưỡng thằng con chưa đầy sáu tuổi. Tôi hỏi ông về “case officer”, ông cho biết đó là một sĩ quan có trách nhiệm cộng tác với một người thường dân hoạt động cho CIA; là một người gián điệp của CIA. Nghe xong tôi gật đầu đồng ý.
    Hôm sau, vợ chồng tôi trở lại văn phòng ông Jantzen, tôi được giới thiệu với ông Robert Hall, gọi tắt là Rob. Ông Jantzen bỏ đi, để chúng tôi ở lại nói chuyện với nhau. Có điều tôi thắc mắc, là trước đây ông Jantzen cho biết ông Robert Hall là “case offfcer” của CIA, bây giờ ông Robert Hall lại tự giới thiệu là thiếu tá không quân? Tôi sẽ tìm cách để hiểu rõ ông ra.
    Sáng hôm sau, chúng tôi lại gặp nhau để tôi nói hết về gia đình tôi. Đến 12 giờ trưa thì ông đã rành về gia đình tôi hơn cả những người quen biết chúng tôi từ mấy chục năm này. Tôi cho ông biết về đời sống của ba tôi. Ông làm nghe dậy học, những bí mật hoạt động chống Pháp, nên bị Tây đầy ra Côn Đảo. Sau khi Việt Minh cướp chính quyền, ông đi thẳng vô bưng, rồi trở thành tỉnh uỷ Cần Thơ. Anh vợ, em vợ của ông đều là đồng chí của ông. Sau đó tất cả cùng đi tập kết ra Bắc. Mãi mới dậy tôi mới biết ông làm đại sứ của của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow. Tôi cũng cho ông Hall biết những ai là bạn chí thân, là đồng chí của ba tôi, gồm các “chú”, các “bác”: Lê Duẩn, Trường Chinh, Lê Đức Thọ, Lê Đức Mai… và nhiều người khác nữa. Tôi nói nhanh khiến ông viết không kịp, nhưng tôi cứ tiếp tục nói. Tôi tưởng chỉ nói qua một lần là đủ, không ngờ ngày kế tiếp ông hỏi tôi nhiều câu ông đã từng hỏi hôm trước. Trí nhớ của ông thua tôi hay ông là cái máy dò sự thật? Dù sao tôi cũng không ngại, vì những điều tôi kể đều là sự thật. Chuyện gì không muốn cho CIA biết, tôi không nói ra. Tôi không dại gì mà nói không thật với những người này.
    Tôi không muốn má tôi biết có sự đổi chác với CIA để má và hai em tôi được thoát khỏi Sài gòn, nên mấy ngày gặp ông Hall, tôi đưa má và hai em tôi sang nhà chị Cương ở Pearl City, để má và chị Cương tâm tình với nhau.
    Sau nhiều ngày nói chuyện với ông Hall, tôi như cuốn sách để ông lật trang nào cũng tìm thấy sự thật thà của một người không có kinh nghiệm đương đầu với CIA. Tôi chỉ biết ông có vợ và hai con, một gái, một trai. Ông là một trong những nhân viên CIA từng hoạt động tại Lào, Việt Nam và Cao Miên. Chúng tôi không còn khách sáo nữa, mà gọi nhau là Rob và Dung.
    Cuối cùng, tôi cho Rob biết một điều quan trọng, mà không hỏi tới trong những buổi phỏng vấn: tôi hãnh diện làm con của một nhà cách mạng chống Pháp, nhưng tôi là người Việt Nam yêu nước, chưa bao giờ nối giáo cho giặc cộng sản Việt Cộng, và cũng sẽ không bao giờ phản bội dân tộc hay đất nước của tôi. Tôi cũng cho ông biết, tôi mang ơn CIA suốt đời, vì đã cứu má và em tôi. Những cũng không vì vậy mà tôi sẽ làm một điều gì có hại đến ba tôi và anh tôi. Ngoài ra, nếu làm gì hại cho cộng sản để cứu người dân Việt Nam, tôi sẵn sàng phục vụ cho CIA, đến khi nào họ không cần tôi nữa. Rob hứa là ông giữ liên lạc; khi nào cần sẽ cho tôi biết. Ông cũng dặn tôi phải chuẩn bị sẵn sàng để có dịp thuận tiện bay tới Washington, D.C. dự một lớp “huấn luyện”. Nhưng, qua mấy ngày họp với Rob, biết một điều: lời hứa vội vàng với trung tướng Gaylor trong những ngày hấp hối của Sài gòn đã như một định mệnh; chỉ trời mỗi thay đổi được hướng đi này.

    ____________________________


  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 30


    Hàng trăm chuyến bay đưa người tỵ nạn từ các đảo Guam và Wakee lên các trại tỵ nạn trên đất liền, đều phải ghé Hawaii để làm thủ tục nhạ cảnh. Sau khi Rob rời Honolulu, tôi ghi tên tình nguyện cho Hội Hồng Thập Tự để ra phi trường giúp đồng bào chạy giặc. Tôi đã ngồi ở phi trường từ sáng tới chiều. Có nhiều hôm, thiếu thông dịch viên buổi tối cho nhân viên Sở di trú, tôi sẵn sàng ở lại để giúp đỡ họ. Cứ như vậy cả mấy tuần liền, khiến tôi buồn ngủ rã rời cả người. Thỉnh thoảng, tôi phải vô văn phòng của nhân viên Hồng Thập Tự, ngồi xuống đất, dựa lưng vô vách chợp mắt độ 5, 10 phút, rồi lại phải trở ra làm việc. Tôi không muốn bỏ rơi những người tỵ nạn lạc lõng, bơ vơ. Vì không rành tiếng Mỹ, nhiều người như câm, như điếc. Trong khi đó, nhân viên sở ngoại kiều tưởng nói lớn thì đồng bào của tôi sẽ hiểu. Có bà tay bồng con, chẳng có hành lý gì, mà cũng không biết chồng ở đâu, kẹt lại hay đã thoát nạn rồi. Lại có những sĩ quan không quân hót ha hớt hải đi tìm vợ con. Một số trẻ em được các chiêu đãi viên hàng không dẫn xuống máy bay, ngơ ngác vì lạc mất cha mẹ, chị em. Có một thằng bé chừng bảy tuổi, ngẩn ngơ như người mất hồn; tôi dẫn em đi tắm, rồi cho em ăn. Khi đã hơi tỉnh táo, em hỏi tôi: “Rồi con đi đâu?”. Tim tôi đau nhói. Tôi cũng không biết dân tộc của tôi sẽ đi về đâu! Không biết trả lời em, tôi hỏi lại: “Cưng muốn đi đâu?”. Em đáp: “Con muốn tìm má con”. Tôi dẫn em lên máy bay để em vô đất liền với trăm ngàn người lạc mẹ, lạc cha, mất chồng, mất vợ, mất cả đất nước.
    Có một người đàn ông trạc năm mươi tuổi, cầm cặp Samsonite nặng trĩu. Khi ông mở cặp cho nhân viên hải quan xét, những người đứng gần đều trố mắt nhìn. Cái Samsonite đầy ắp Mỹ kirn. Người chủ của đống tiền ngượng ngập nhờ tôi thông dịch: “Số tiền này của nhiều người bên đảo nhờ tôi giữ hộ, vì họ là đàn bà chân yếu tay mềm không dám giữ tiền trong người, sợ bị cướp giật”. Tôi thông dịch rồi nói thêm: “Chắc cha này tưởng tụi mới mới đẻ ngày hôm qua”. Ông bị giữ lại, không được vào đất liền ngày hôm đó. Còn biết bao nhiêu cảnh trái ngang trong hàng vạn người đi tỵ nạn. Tôi cầm đầu phục vụ, bỏ qua những chướng tai gai mắt của những người Việt mà tôi cho là không đáng được đến bờ tự do.
    Không phải chỉ một mình tôi giúp những người di tản, mà gia đình tôi xúm vào, mỗi người một tay. John đãng trên báo Honolulu Star Bulletin để xin quần áo cho người tỵ nạn. Lúc đầu chúng tôi tưởng là chuyện nhỏ, ai ngờ hưởng ứng nồng nhiệt khiến chúng tôi bận túi bụi. Chúng tôi không thể vừa trả lời điện thoại, vừa đến nhà những người hảo tâm để lấy quần áo, lại vừa phải chờ người ta mang đến tận nhà. Mấy hôm sau, vì đã có kinh nghiệm, chúng tôi đổi chiến lược. John sai mấy người lính để một cái thùng, để trước đài khí tượng ở Honolulu cho người ta bỏ quần áo, giầy dép vô đó. Mỗi ngày tan sở, John ghé lấy quần áo đem về nhà. Ở nhà, má và các em lựa quần áo xếp theo từng loại đàn bà, đàn ông, trẻ em… Giầy dép cũng được phân loại. Có điều rất cảm động, là có nhiều quần áo, giầy dép mới toanh, còn nhãn hiệu. John và nhiều người hàng xóm của chúng tôi sốt sắng chở lên phi trường hết ngày này qua ngày khác, cho đến khi hết người tỵ nạn ghé phi trường Honolulu và Hickam.
    Tinh thần của những người tỵ nạn có lẽ giống nhau. Được thoát nạn cộng sản, tới được bờ tự do, khó mà đo lường được vui mừng đó. Nhưng khi nỗi vui mừng lắng đọng, niềm vui trở thành dĩ vãng, thì hiện tại là một mối lo lớn. Rồi sẽ đi đâu, làm gì gì trên đất lạ này? Mấy tuần qua, tôi ở phi trường với người tỵ nạn nhiều hơn ở nhà. Ngày ngày, tôi chia sẽ niềm đau với người tỵ nạn. Tôi khóc với người mất nước, chia sẽ với người bị lạc mất gia đình. Tôi thấm thía nỗi đắng cay với người bị đồng minh phản bội. Tôi thấy thân tôi chia ra thành nhiều mảnh, không mảnh nào trọn vẹn cho ai hết. Mảnh cho John thì nhỏ xíu, cho Lance con nhỏ hơn nữa. Phần đành cho má cũng không nhiều, cho Minh Tâm thì chẳng được bao nhiêu. Hoà Bình tháo vát, tự lập, nên em rời Hawaii mà bay qua Atlanta định cư với chị Kim. Chị Cương cho tôi nhiều hơn là nhận của tôi. Chị cho tôi sự ân cần, sự cảm thông. Thỉnh thoảng chị hỏi:
    - Cưng có OK không, Dung? Chị biết cưng đau lắm; chị chịu không nổi như cưng. Nên chị đành ở nhà xếp quần áo cho họ thôi. Thông cảm cho chị nhen!
    Làm sao tôi có thể “OK” được, nhưng tôi phải gật đầu. Chớ tôi cần tình thương của chị.
    Mấy tuần đó tôi cũng quên mất ông Robert Hall, người của CIA từ Washington, D.C. qua, tìm hiểu mọi chi tiết về gia đình tôi. Rồi bỏ đi biệt tăm.
    Một buổi sáng, tôi vừa về tới nhà, sửa soạn đi ngủ sau 16 tiếng đồng hồ ở phi trường Hickam, làm đủ mọi thứ việc để giúp người tỵ nạn, thì Rob Hall gọi, cho hay ông vừa đi công tác vùng Á châu về. Ông ghé qua Hawaii, vì ông có một tin đáng chú ý mới chia sẻ với tôi. Thật ra, giờ phút đó đối với tôi, không có gì đáng chú ý bằng giấc ngủ, nên tôi hẹn Rob đến chiều mới gặp ông. Tôi bỏ điện thoại ra ngoài để được ngủ yên. Mà tôi trong Lance giùm tôi.
    Buổi chiều, Rob tới nhà tôi, đưa cho tôi tờ Japan Times xuất bản ngày hôm trước. Tôi chỉ liếc qua, rồi cảm ơn ông, và hứa sẽ đọc sau. Nhưng ông cười:
    - Hãy coi trang bốn, vì tôi nghĩ bà sẽ phải đọc liền bây giờ.
    Bên tay mặt của trang bốn, tôi thấy có tựa đề: “Nhóm Hà Nội, Sài gòn tham gia Hội nghị chống bom nguyên tử”. Tôi nhún vai, nói:
    - Tôi là người yêu chuộng hoà bình, nên tôi tán thành những người biểu tinh chồng chiến tranh.
    Tôi vừa nói vừa xếp tờ báo lại. Rob ra dấu cho tôi tiếp tục đọc.
    “Độ chừng 80 phái đoàn từ 21 quốc gia sẽ tham dự cuộc biểu tình chống bom nguyên tử, do Hộ đồng Nhật Bản chống bom nguyên tử tổ chức hàng năm tại Hiroshima và các tỉnh lân cận vào ngày 5 tháng 8, 1975.
    Trong đó có năm hội viên của phái đoàn Hà Nội và bốn người trong phái đoàn của Chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nant Việt Nam. Đây là lần đầu tiên hai phái đoàn từ Hà Nội và miền Nam Việt Nam cùng tham gia cuộc biểu tinh chống bom nguyên tử. Trưởng phái đoàn Hà Nội, ông Phạm Xuân Oánh, sẽ tới Tokyo vào ngày 27 tháng 7 qua ngả Bắc Kinh. Trưởng phái đoàn miền Nam do ông Đặng Quang Minh, uỷ viên trung ương Mặt trận giải phóng miền Nam…
    Đọc tới đây tôi ngừng lại, hốt hoảng la lên:
    - Ông này là ba tôi! Đúng là ba tôi rồi! Tôi phải đi Nhật gặp ba tôi mới được!
    Ước sức lúc ây tôi có thể leo lên nóc nhà để reo mừng, tôi cũng dám leo ngay.
    Tôi cố bình tĩnh lại để tiếp tục đọc bài báo, tim tôi đập mạnh, hai lòng bàn tay tôi đổ mồ hôi.
    “... sẽ tới Tokyo vào ngày 26 tháng 7 qua ngả Moscow. Ngoài ra. còn có phái đoàn Mỹ gồm 10 người, trong đó có điêu khắc gia Ethel Taylor hội viên của tổ chức “Phụ nữ đấu tranh cho hoà bình” và Sean McBride. người được giải thưởng Nobel năm 1974”.
    Sau khi ông Hall ra về tôi vô phòng gặp má tôi để cho bà biết tin ba tôi sắp sang Nhật. Tôi cũng ngỏ ý là tôi sẵn sàng cùng Lance sang Nhật gặp ba tôi. Tôi rất tiếc là má tôi không thể đi cùng, một phần vì giấy tờ của mã cũng chưa ổn định. Bà chưa có thẻ xanh. Một phần tôi cũng không đủ tiền cho ba người cùng đi.
    Ước gi tôi có cách giữ được nụ cười của má trong cái bình pha lê để qua Nhựt cho ba tôi. Đó là nụ cười sau khi bà thấy tên ba tôi trong tờ báo. Nhung máa tôi có veử lo lắng khi tôi bàn đến cuộc hành trình của mẹ con tôi. Má tôi nắm lấy hai bàn tay tôi, như muốn kéo tôi ra khỏi giấc mơ đoàn tụ, mà suốt hai mươi năm qua gia đình tôi chưa tỉnh. Bà ôn tồn nói:
    - Con phải chờ John về để tính toán kỹ càng. Hai mẹ con mình không nên tự tung tự tác rồi hư chuyện. Con phải nhớ, nó là sĩ quan của Hải quân Mỹ. Ba con là người của họ. Chánh phủ Mỹ mới cho má qua đây tỵ nạn, rồi bây giờ con lại đi gặp một ông kẹ của Việt Cộng. Không có giản dị như gia đình người khác đâu, con.
    Nghe tới đây thì tôi ngỡ ngầfng, vì má tôi không biết gì về Rob, tưởng ông ay là bạn của John. Nhưng tôi như một đứa con nít đòi đi gặp ba, tôi nói:
    - Ba của con, con muốn gặp thì gặp, đâu cần xin phép ai?
    Má tôi bèn nắm chặt tay tôi hơn, rồi nhìn thẳng vào mắt tôi, nghiêm giọng nói:
    - Hối đó tới giờ, má biết con thương ba con tới chừng nào rồi. Mã nghĩ là không có cái gi ngăn cách tình cha con của con được. Nhưng con đừng có quên, ba con không phải là người cha bình thường như trăm ngàn người cha khác. Con phải chờ John đi công tác về rồi bàn tính với nó”.
    Hai giờ sáng hôm sau, tôi vô căn cứ hải quân ở Barbers Point để rước John về. Thấy anh vừa bước ra khỏi máy bay P-3 Orion,, tôi đã muốn báo tin mừng ngay, nhưng anh ngừng lại để nói chuyện với những người bảo trì máy bay. Mỗi lần John trở về sau những chuyến bay xa, khi thấy anh bước ra khỏi máy bay còn nguyên vẹn, dù lúc đó là 2, 3 giờ sáng, tôi vẫn thấy như có ánh hồng ló dạng nơi chân trời. Những nắm John đóng ở căn cứ hải quân Barbers Point, Lance còn nhỏ xíu. Thỉnh thoảng đi học về, nó kể lại chuyện ở trường, đám con của mấy ông phi công nói với nhau rằng, ba thằng này bị rớt máy bay, ba thằng kia sẽ được về đất liền ehôn cất. Tôi cố trấn an nó, nhung trong lòng không khỏi lo âu mỗi lần thấy John bước lên máy bay. Còn Lance thì nhiều khi chơi một mình ngoài sân rồi oà lên khóc, tôi tưởng nó bi ông đánh hay kiến cắn, chạy ra hỏi tại sao thì thằng nhỏ vừa khóc vừa nói “Lance không muốn Daddy chết!”.
    Tôi cho John biết vệ chuyện ba tôi sẽ sang Nhựt, và tôi muốn Lance sang gặp ba tôi. Anh tán thành ngay, vì anh muốn cho Lance được e gặp ông ngoại.
    Sáng đó, khi John còn ngủ, tôi đã mua vé máy bay, rồi gọi điện thoại cho lãnh sự quán của Nhựt để xin chiếu khán. Đến trưa, thì mọi việc xong xuôi, tôi đã có vé máy bay và cả ca chiếu khán.
    Buổi chiều tôi hối hả xếp va-li. Tôi muốn tới Tokyo vài ngày trước khi khai mạc hội nghị để quen đường đi nước bước với cái thành phố mà tôi chưa bao giờ đặt chân tới. Thêm vào đó, tôi không biết một tiếng Nhựt nào ngoài tiếng chào tạm biệt “Sayonara”. Chị Cương viết thơ cho ba, kèm tấm hình của vợ chồng chị. Mấy đứa con chị, Tina, Ten và Kenneth gởi mấy món quà thủ công mà các cháu làm trong trường để tặng ông ngoại. Mỗi cháu viết tên, tuổi, ghi rõ ràng lớp các cháu đang học: Tina lớp Hai, Teri lớp Một và Kenneth lớp mẫu giáo; và viết thêm chữ “I love you, Ông ngoại”. Các cháu cũng gửi kèm mỗi đứa một tấm hình mới nhất. Trước ngày tôi lên đường, má thức rất khuya để viết thơ cho ba. Trong thơ, má chỉ gửi kèm hình Minh Tâm, Hoà Bình và Hải Vân.
    Vì Lance còn nhỏ, nên tôi và cháu được lên máy bay trước các hành khách khác. Nhưng mỗi bước đi, tôi thấy nặng nề như vương vấn người ở lại. Rob đi cùng một chuyến máy bay với chúng tôi, nhưng tôi và Rob đã dặn nhau là sẽ không nhận nhau trên máy bay. Sau khi máy bay cất cánh. Lance được tự do vì không còn phải đeo seat belt nữa. Nó đi một vòng rồi nói với tôi:
    - Momma, Lance thay ông Rob ngồi đằng sau mình kia.
    Tôi vội dặn nó:
    - Đừng làm phiền ông, để ông ngủ.
    Thỉnh thoảng Lance đứng lên ghế nhìn xuống phía sau, rồi yên lặng ngồi xuống. Khi máy bay đã bay được nửa đường, Lance nói nhỏ:
    - Lance nghi ông Rob theo dõi mình.

    Tôi cười thầm, không nói gì, rồi giả bộ nhắm mắt ngủ. Lòng tôi lúc đó náo nức, rộn ràng nghĩ đến ngày được gặp lại ba tôi nếu mọi việc suôn sẽ.
    Ba tôi đã bỏ tôi và cả gia đình để đi theo một chủ nghĩa, mà khi tôi lơn lên với dân tộc và đất nước, thì hiểu rằng chủ nghĩa này trái lòng dân, nghịch ý trời. Suốt tuổi ấu thơ, tôi đã ngưỡng mộ ba tôi, coi ông như một thần tượng. Ngày nay, tôi là người đàn bà đã trưởng thành, hai người hai chiến tuyến, nhưng dù thế nào tôi cũng muốn gặp lại người cha, với ước mơng ba mình vẫn như xưa.
    Tôi nhớ, má tôi hay lấy câu nói của nhà văn kiêm nhà giáo Nguyễn Bá Học ở đấu thế kỷ 20 mà khuyên chúng tôi như sau “Đường đi khó, không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi, e sông”. Tôi đã đi tới Tokyo thì kể như từ đây không còn núi sông nào ngăn cách hai cha con tôi nữa, mà chỉ còn những chặng đường quanh co. Ý muốn gặp ba tôi mạnh hơn tất cả những gì nguy hiểm trong cái thế giới gián điệp mà Rob nhiều lần nhắc nhở phải cẩn thận. Ông sợ tôi bị KGB theo dõi, sợ phản gián Nhựt rình mò, rồi bắt tôi. Trong khi đó, tôi ngây thơ hỏi:
    - Tại sao con đi tìm cha sau 20 năm xa cách, mà mọi người theo dõi, rình mò để bắt?
    Rob trả lời ngày:
    - Bởi vì người cha này là đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Moscow, và người con gái này cách đây gần hai tháng đã ký giấy hợp tác với một cơ quan tình báo không thua gì KGB.
    Sự thật này đắng cay quá, những nó là sự thật. Từ đó, tôi bắt đầu cẩn thận, dè dặt hơn trong việc liên lạc với Rob.
    Tại Tokyo, tôi không biết bao giờ phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam sẽ tới Tokyo, và cũng không biết họ sẽ ở đâu. Rob cũng không hơn gì tôi, ông và CIA ở toà đại sứ Mỹ cũng không có tin tức gì.
    Trước khi tôi lên đường, John đã dặn dò kỹ lưỡng: khi tới Tokyo, tôi phải ở Sanyo Hotel, vì khách sạn này là khách sạn của hải quân Mỹ Ở đây đã an ninh, mà tiền phòng chỉ bằng nửa các khách sạn lớn như Sheraton hay Hyatt Regency. Ở đây lại có tình cách gia đình. Nếu phải ở Tokyo lâu, Lance cũng có con nít Mỹ để chơi. Nếu cần, khách sạn này lại có người trông trẻ em. Mấy ngày đầu, hai mẹ con tôi còn lạ lẫm với thành phố Tokyo, ồn ào, phố phường người đông như kiến, đi xe điện như đi chạy đua mới lên xe được. Vì vậy, hai mẹ con tôi ít ra đường, chỉ ngồi trong khách sạn dò hết mấy trang báo để tìm tin ba tôi, cả báo sáng lẫn báo chiều. Ngày nào cũng dài vô tận. Thêm vào đó, tháng 7 trời Tokyo oi bức hơn Sài gòn. Rạp chiếu bóng trong khách sạn chỉ có hai phim hoạt hoạ. Tôi đã coi The Pink Panther ba lần, và Ronald Duck hai lần. Khi Lance chán xi-nê thì đòi ra hồ tắm. Tôi vừa đọc báo để tìm tin ba tôi vừa trong chừng Lance dưới hồ chơi giỡn với con nít khác.
    Trưa thứ hai, 28 tháng 7, CIA tìm được lộ trình của ba tôi. Rob cho tôi biết là phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam sẽ tới Tokyo ngày 30 tháng 8, và có thể họ sẽ ở khách sạn Prince. Rob nói người của ông ở toà đại sứ Mỹ sẽ cho tôi biết ngày giờ nào tôi được liên lạc với ba tôi; lúc đó tôi mới được phép đi tìm. Tôi im lặng nghe, và cũng không tỏ vẻ bất bình. Nhưng trong bụng, tôi đã có một chương trình riêng. Khi tôi hành động, chỉ có ông trời mới cản được tôi lúc này.
    Tôi thay quần áo cho Lance, rồi hai mẹ con tôi lên xe đi thẳng tới khách sạn Prince, không một chút do dự. Khi taxi ngừng, tôi nắm tay Lance khoan thai đi thẳng vô cửa, tới gặp cô Nhựt ngồi sau quầy tiếp khách. Tôi nói chậm rãi cho cô biết tôi muốn đặt 15 phòng cho nhóm của tôi ngày hôm đó, cho đến ngày 15 tháng 8. Người đàn bà Nhựt nhìn vào sổ, rồi lịch sự trả lời:
    - Thưa bà, chúng tôi rất tiếc là không còn phòng trống đến ngày 15 tháng 8.
    Hồi còn đi học, tôi thưởng nói chơi với bạn bè rằng ông trời cho tôi giác quan thứ sáu, để biết chừng nào thầy cô kêu trả bài. Cái giác quan thứ sáu đó vẫn còn tốt, nên hôm này tôi cứ tới đây là nơi hai cha con tôi sẽ gặp nhau.
    Tôi cảm ơn người đàn bà Nhựt, rồi xin một tấm danh thiệp hẹn sẽ gọi lại. Tôi đi về phía cửa mấy bước, chợt quay lại hỏi phòng vệ sinh ở chỗ nào. Tôi muốn làm quen với khung cảnh ở đây, để lần sau trở lại không bị bỡ ngỡ. Lúc đó, tôi có thể đi thẳng lên phòng của ba tôi như một người khách đang trọ nơi đây, để không bị ai chặn hỏi, nhứt là những người giữ an ninh cho các phái đoàn.
    Khi đã biết sơ đường đi nước bước trong khách sạn, mẹ con tôi ra về. Tới đường chính, tôi chợt trông thấy một khách sạn lớn hơn ở gần đó, sang trọng hơn Prince. Tôi liền dắt Lance đi về phía khách sạn tên là Takanawa Prince Hotel. Ngay lúc đó, tôi nghĩ nếu tôi ở khách sạn này, tôi sẽ được gần ba tôi, lại rộng rãi sang trọng hơn khách sạn Sanyo. Mấy hôm này,. Lance tỏ vẻ khó chịu vì nóng bức và chật hẹp. Nếu chỉ có một mình tôi, ở đâu cũng được, vì tôi đã ở trong rừng U Minh một năm rồi, tất cả chỉ là tạm bợ mà thỏi. Nhưng tôi đang nuôi thằng Mỹ con, sợ chán mà đòi về nhà với ba nó thì khó cho tôi lắm. Than phận con của một nhà cách mạng chống Pháp thua xa đứa bé con của sĩ quan Mỹ.
    Hai mẹ con tôi dọn đến ở khách sạn Takanawa Prince ngay chiều hôm đó. Phòng ngủ ở đây thật rộng, giường ngủ lớn, mặc sức cho Lance nhảy nhót trên giường. Nhảy chán rồi nằm lăn quay ra. Nhìn nó ngủ một cách vô tư, tôi nhớ lại hồi chúng tôi còn ở trong bưng biền. Tôi cũng năm tuổi như nó bây giờ. Tây bỏ bom xuống Ong Vèo tơi tả. Ba tôi hăng hái đánh Tây. Con tôi cũng năm tuổi, được nằm ngủ, mặt ngây thơ không một chút lo âu. Qua cửa phòng, tôi có thể nhìn thấy khách sạn Prince, nơi tôi sẽ được gặp ba tôi, người đã góp công “giải phóng” quê hương tôi. Bỗng dưng tôi thấy công của ba tôi là công dã tràng, vì người miền Nam chúng tôi đang cần một cuộc cách mạng khác, để thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản Hà Nội.
    Trong những giờ phút chờ đợi để được gặp ba tôi, tình phụ tử, nỗi nhớ nhung hoà với kỷ niệm mà tôi đã từng ấp ủ trong đời với ba và gia đình bỗng dưng nhẹ hơn tình yêu tôi dành cho quê hương và cho dân tộc. Rồi tôi cảm thấy tội nghiệp ba tôi và đất nước vô cùng. Trong khoanh khắc, tôi không thấy chuyện gặp ba tôi là cần thiết nữa.
    Ngày 30 tháng 8, báo Japan Times đăng hình ba tôi tươi cười, hớn hở bước xuống máy bay. Cùng đi với phái đoàn, có bá Ngô Bá Thành, cầm cờ Mặt trận giải phóng miền Nam tung bay trước gió. Tôi nhìn hình này một hồi lâu, rồi thấy mình xa lạ với người trong hình. Tuy vậy, tôi vẫn vui khi thấy ba tôi còn tráng kiện, mái tóc vẫn chải qua một bên như hồi tôi còn nhỏ. Nụ cười thân thiện, đưa hàm răng hô ra trước, như ngày xưa ông cười với người chèo ghe, với các đồng chí và với những người trong làng.
    Sau khi ăn điểm tâm, tôi và Lance vừa về phòng thì ông sĩ quan CIA đã gõ cửa. Rob tươi cười khoe bài báo của Japan Times với tôi. Lance nhanh nhảu cam tờ báo của tôi, rồi nói:
    - Look Rob, my ông ngoại is in the paper. We are going to see him, my Mom said.
    Như diều mất gió, mặt Rob bị xị, ông tưởng ông đem tin lành đến cho hai mẹ con tôi, nào ngờ chúng tôi đã biết trước. Ông nghiêm giọng nói với cháu Lance:
    - 1 don't think ít's a good idea.
    - Why not?
    - Because your ông ngoại may be tired.
    - Not too tired to see his grandson. - Lance trả lời một u nhiên, vô tư.
    Buổi trưa hôm đó tôi đứng ngồi không yên, chỉ sợ mình nóng nảy rầy oan con. Tôi dụ dỗ cho nó ngủ trưa để “mau lớn”, khi đó sẽ được thường một chai nước ngọt trong tủ lạnh.
    Cầm tám thiệp có số dĩện thoại của Prince Hotel, tay tôi run, cổ khô, miệng đắng. Tôi nghe tim đập mạnh trong lòng ngực. Tôi chợt nghĩ tới má tôi. Bà đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc đời, dầu có nhiều thời gian hay hoàn cảnh do dự hay rụt rè. Đời của chúng tôi trôi nhanh như thác lũ, khôn sống, dại thì chết. Hồi ba tôi chuẩn bị đi tập kết, chỉ có một tháng để sửa soạn. Má tôi đã quyết định ở lại miền Nam. Như vậy, chúng tôi đã được sống trong tự do. Hình ảnh của má tôi làm tôi thêm sức mạnh.
    Tôi cầm điện thoại lên, gọi Prince hotel. Với một giọng nghiêm chỉnh và nhanh, tôi nói với nhân viên trực của khách sạn:
    - Tên tôi là Trần, nhờ cô gọi phòng của ông Minh giùm.
    Bên kia đầu dây, một người đàn bà Nhật lịch sự trả lời:
    - Xin bà đánh vần tên của ông ấy.
    - M.I.N.H, còn họ là D.A.N.G.
    Trong hơn hai phút chờ đợi, kể cũng hai lâu, tôi bỗng có nghi ngờ. Có thật người đàn bà Nhựt đang tìm phòng của ba tôi hay bà báo với sở phản gián Nhựt tới bắt mình? Hay đặt máy cài nghe lén cuộc nói chuyện của mình với ba? Hay là họ sẽ tìm cách ngăn cản mình, không cho vô khách sạn? Vừa hồi hộp vừa nóng lòng, tôi tự nhủ thầm:
    - Trời ơi, nếu mỗi lần muốn nói chuyện với ba mà phải chờ như vậy, chỉ vài lần là mình hết bạc đầu luôn.
    Nhưng vừa lúc đó, nữ nhân viên khách sạn trả lời:
    - Phòng của ông Minh là phòng 421, xin bà ghi nhớ. Tôi sẽ gọi cho bà ngay bây giờ.
    Điện thoại tiếp tục reo, nhưng không ai trả lời.
    Tôi cùng hơi rnừng là ba tôi không trả lời điện thoại lúc đó vì trong bụng tôi chen lẫn những hồ hộp, lo âu, sợ hãi. Sợ không biết bức tường của không gian, thời gian, chính kiến nó cao bao nhiêu trong lòng người cha cộng sản của mình, tôi cũng không còn sức để bình tĩnh nữa. Tôi vừa hồi hộp vừa lo sợ, vì không biết phải an ủi ba tôi như thế nào. Lỡ ba không muốn gặp tôi thì sao?
    Chiều hôm đó, hai mẹ con tôi không được vui vẻ. Tôi cau có, gắt gỏng với Lance. Hai mẹ con buồn hiu. Một lát sau, tắt TV, Lance hỏi tôi:
    - Tại sao Daddy đi bay về Lance vui lắm, còn Mommy được gặp ba mà quạu với Lance nhiều quá vậy?
    Hồi nhỏ nói được được tiếng Việt, mà tiếng “quạu” của nó có nghĩa ll ghét, không ưa, không thích, bị rầy, bực mình.
    Tôi xin lỗi Lance. Thằng nhỏ trả lời y như chúng tôi trả lời nó:
    - I forgive you.
    Rồi vui vẻ lại như thường. Tôi yêu cái tính vị tha của nó. Lớn lên cũng vậy, cũng vị tha, cũng gần gũi, yêu thương cha mẹ, binh người yếu đuối.
    Chiều đó, tới phiên Lance chọn ăn trong phòng, vừa được ăn, vừa coi TV. Sau đó, tôi đọc sách dỗ cho Lance ngủ. Nhìn đồng hồ, tôi nghĩ nên chờ cho ba tôi về phòng nghỉ mệt một lát, sau một ngày hội họp, rồi mới gọi. 9 giờ 30, con tôi ngủ, tôi rón rén đóng cửa phòng, rồi đi ra ngoài phòng khác, nhắc điện thoại gọi khách sạn Prince. Kỳ này tôi gọi thẳng về phòng 421 không qua máy tổng đài.


    _________________



  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 31



    Tôi nghe từ đầy dây bên kia có tiếng trả lời:
    - Allo!
    Giọng nói nửa Pháp nửa Anh, nhưng tôi biết ngay là ba toi, dù đã hơn hai mươi năm chưa một lần tiếp xúc. Tôi nghĩ xốn xang, nghẹn ngào, chỉ muốn kêu lên thật lớn: “Ba ơi! Con đây”. Nhưng tôi có nén xúc động để bình tĩnh, kính cần hỏi:
    - Thưa ông, có phải ông là Đại sứ Minh không?
    - Phải, tôi là đại sứ Minh. Ai gọi tôi đây?
    Giọng ba tôi trong, pha lẫn tiếng cười nên còn rất trẻ. Tôi thêm:
    - Thưa, có phải trước năm 1954, ông là tỉnh uỷ Cần Thơ không? Tên thiệt của ông là Đặng Văn Quang?
    Lần này, tôi nghe một tiếng cười nổi lên trong điện thoại tưởng tượng ra hàm răng trắng tươi của ba tôi.
    - Đúng rồi. Bây giờ cô phải nói, làm sao cô biết rõ tôi vậy?
    - Hồi đó cháu ở Biên Hoà, gần hãng cưa Tân Mai. Cháu cô Bảy Khuê.
    - Cô ấy là em một tôi! Vậy, cô có phải là một trong những sinh viên Việt Nam sáng nay ra phi trường đón phái đoàn của chúng tôi không?
    Đến đây, tôi chịu hết nổi vì quá xúc động. Tôi nghẹn ngào kêu lên:
    - Ba ơi, con đây, ba. Con là Mỹ Dung, con gái của ba nè.
    Bên kia đầu dây bỗng im lặng như tờ. Tôi có cảm tưởng ba tôi quá xúc động vì bị bất ngờ đến ngừng tim, nên tôi hốt hoảng nói:
    - Ba, ba còn đó không? Ba có làm sao không?
    Tôi nghe có tiếng động mạnh như tiếng máy điện thoại rơi xuống bàn, hay xuống sàn. Tôi càng hoảng sơ hơn, vì tưởng ba tôi té xíu. Nhưng tôi chưa biết nên phản ứng ra sao, thì bên kia đầu dây có tiếng của ba tôi:
    - Trời ơi! Con gái của ba.
    Tôi lại giữ mi lặng. Sự im lặng lần này lâu hơn, những tôi biết ba tôi không đứt tìm đến té xỉu, vì tôi nghe có tiếng khóc. Tôi nghẹn ngào chờ đợi.
    Rụt rè, tôi hỏi:
    - Mình nói chuyện trong điện thoại được không, ba?
    Tôi biết cộng sản luôn luôn rình rập đảng viên của họ. Đảng đã nghe trộm ông Hồ Chí Minh, thì tha gì ba tôi.
    - Không, con à. Mình không nên nói nhiều trong điện thoại. - Ba tôi chậm rãi trả lời - Sao con biết ba ở đây vậy con?
    Tên của ba trên báo Japan Times. Hình của ba trên hết báo Nhựt. - Tôi đáp với một vẻ tự hào.
    - Con ơi, ba rất sung sướng được nghe tiếng con gái của ba! - Ba là tôi ngập ngừng, không nói tiếp. Tôi vội hỏi:
    - Con tới gặp ba bây giờ được không? Con biết đã khuya lắm rồi!
    - Con đi với ai? - Ba tôi hỏi bằng một giọng nghiêm nghị.
    - Con đi với thẳng nhỏ của con. Mà bây giờ nó đang ngủ. Con sẽ kêu người giữ nó!
    - Chỗ lạ mà con có thể tin người ta giữ con cho con sao?
    Tôi vui vẻ trấn an ba tôi:
    - Ông ngoại đừng lo. Con sẽ gọi người giữ trẻ trong khách sạn trông chừng cháu của ông.
    Ba tôi căn dặn:
    - Cứ đi thẳng lên phòng của ba, đừng ghé quầy tiếp khách, cẩn thận nhìn trước ngó sau, khi lên thang máy đến phòng của ba.
    Ngoài ra, chúng tôi đồng ý là vẫn giữ lý lịch giả. Nếu tình cờ gặp ai trong phái đoàn, thì tôi là một sinh viên Việt Nam ở Nhựt vừa tới thăm người đại diện của Việt Nam. Cách che giấu này cũng hợp lý, vì chỉ có Việt kiều yêu nước hay gián điệp của Việt Cộng mới dám tới gặp ông đại sứ vào cái giờ khuya khoắt này. Ttn không phải Việt kiều Y6u Nước mơ cũng không phải là gián điệp Việt Cộng, nhưng nếu tôi phải hoá trang với bộ râu để biến thành Hồ Chí Minh mà được gặp ba tôi lúc bấy giờ, thì tôi cũng phải hạ mình làm thôi.
    Tôi để nhẹ điện thoại xuống, như sợ đặt mạnh quá thì ba tôi biến mất. Thương cho người chồng, người cha cô đơn. Mà cũng thương cho người làm cách mạng, mà chính bản thân ông, cũng chưa được tự do, khi đảng của ông đã “giải phóng miền Nam”
    Một người đàn bà Nhựt có nhiệm vụ trông chừng Lance, tới phòng tôi trong bộ y phục mầu trắng. Bà trông gọn gàng, vui vẻ rất lịch sự, nhã nhận. Nhìn Lance ngủ say, bà gật đầu ha rồi mở của cho tôi đi.
    Ngồi trong taxi trên đường đến khách sạn Prince, tôi suy nghĩ liên miên. Tôi sẽ gặp lại ba tôi sau hơn hai mươi năm xa cách. Rồi cùng một lúc, tôi cũng sẽ gặp một chánh trị gia đại diện cho chánh phủ mà trong thâm tâm tôi vẫn coi là những người cướp nước tôi. Nhưng mặt khác, tôi lại ước mong ba tôi sẽ là ngọn đèn leo lét cho một niềm hy vọng; hy vọng cho một Việt Nam tự do, thái bình, và người dân được no ấm, hạnh phúc.
    Ra khỏi taxi, tôi nhanh nhẹn bước vào khách sạn, đi thẳng lên phòng ba tôi như một người khách đã quen. Ba tôi vụt mở cửa khi tôi chưa kịp gõ tới tiếng thứ ba.
    - Trời ơi!
    Ba tôi thốt kêu, rồi một tay ôm tôi thật chặt, một tay khép lại. Ông ôm tôi, rồi trận mưa hôn bắt đầu phủ lên tóc, lên mặt, hai cánh tay, hai bàn tay tôi, như 20 năm về trước mỗi lần đi công tác xa về. Ba tôi có thói quen hôn tôi, Hải Vân và Hoà Bình.
    Rồi hai cha con tôi ngồi xuống cái ghế salon dài. Ba tôi bỏ kiếng ra, nắm lấy hai vai tôi, rồi nhìn tôi không chớp mắt.
    - Con ơi, con cưng của ba, lâu quá rồi, con ơi!
    Mặt ba tôi ướt đầm đìaa. Tôi lău nước mắt cho ông, mà mắt tôi khô. Tôi cảm động đến nghẹn lại, chỉ đưa tay rờ mái tóc trên vầng trán cao. Ba tôi vẫn chải đầu rẽ tóc qua bên mặt. Bây giờ tóc của ông đã ngả mầu. Hai mươi nam xa vợ, xa con! Hai mươi năm sống xa thế giới văn minh! Ngoài mái tóc bạc, không biết tình của ba tôi dành cho gia đình có còn nồng ấm như xưa không?
    Ông chậm rãi nói nho nhỏ:
    - Ba không có lời nào để diễn tả đủ thứ tình cảm, nhớ thương đối với với má, chị em con và Hải Vân.
    Ba tôi nghẹn ngào khi nhắc đến Hải Vân, ông im lặng như để nghiêng mình trước vong lính của thằng con chết yểu. Tôi siết tay ba tôi để chia sẻ nỗi đau thương. Ít nhứt ba tôi và tôi, chia sẻ được cùng một nỗi đau, và cũng cảm thấy nỗi trống vắng lớn lao vì sự ra đi quá sớm của em tôi. Ba tôi thở dài, buồn bã nói:
    - Buồn quá, ba không muốn nhắc tới Hải Vân nữa.
    VBa tôi vừa nói vừa nhìn vào khoảng trống. Tôi thắc mắc:
    - Con không hiểu ý ba.
    - Ba được cấp trên cho biết Mỹ giết Hải Vân.

    Tôi giựt mình, nhưng không dám nhích xa khỏi ba tôi, khi tôi thấy hận thù hiện lên trong đôi mắt của người cha, tin rằng con mình bị kẻ thù hãm hại.
    - Ba muốn tìm hiểu sự thật hay ba muốn chấp nhận lời bịa đặt?
    Tôi vừa nói vừa nhìn thẳng vào mặt ba tôi, rồi tiếp:
    - Con không muốn cãi với ba ngay buổi gặp đầu tiên sau hơn mươi năm xa cách. Nhưng, con phải nói thật, là cấp chỉ huy của ba quen nghề nói láo. Em con không bị ai giết hết, chỉ là một tai nạn!
    Ba tôi liền đổi đề tài:
    - Hãy nói về má con, về con và các chị em con cho ba nghe!
    Mắt ba tôi sáng ngời trở lại khi ông nhắc đến vợ con.
    - Mà khoẻ mạnh, má mong tin ba lắm. Mấy chị mấy em của con bình yên. Chị Kim, chị Cương đã có chồng; chị Cương có hai con gái. Hoà Bình có một thằng con trai bằng tuổi thằng con của con, còn Minh Tâm thì mới chân ướt chân ráo trên đất lạ, cũng như mọi người khác, phải đi học để hội nhập đời sống. Con biết, Hoà Bình sẽ nhớ Việt Nam hơn mọi người trong gia đình. Con cũng như nó. Con cứ chiêm bao thay trở về Việt Nam. Con còn nghe thoang thoảng mùi lúa chín ngoài đồng trong ngủ. Mầu vàng rực của những trái quít chín trong vườn ông ngoại bà ngoại vẫn ám ảnh con. Con còn cảm thấy cái mát rượi của nước sông trên da thịt con. Con vẫn mơ ước cái không khí đầm ấm bình yên trong ngôi làng của ông ngoại bà ngoại. Con toàn chiêm bao thấy quê hương thôi, ba ai!
    Nghe tôi say sưa nói về quê hương Việt Nam, ba tôi vui vẻ mắt sáng ngời, nắm chặt lấy tôi, nói:
    - Được như vậy quý lắm, con à.
    Thấy ba tôi vui, tôi trả lời cái chết của Hải Vân:
    - Ba à, con muốn cho ba biết chắc chắn là không có ai giết rm con hết. Hải Vân là người chiến sĩ, dù em chưa kịp ra trận. Em là phi công của Quân Lực Việt Nam Cộng hoà. Em chết vì tai nạn mà ai cũng đã biết rõ như vậy. Cả gia đình đều biết như vậy. Con xin ba hãy tin sự thật của gia đình, cha đừng nghe lời tuyên truyền bậy bạ của cộng sản.
    Ba tôi bỗng đập bàn, nói lớn:
    - Không, không phải là một tai nạn như con tưởng. Chúng dàn cảnh ra như vậy. Chúng nó cũng là bọn bắt ép má con phải bỏ Sài gòn mà đi, khi ba sắp sửa trở về. Làm sao con biết được mánh khoé lừa bịp của chúng nó.
    Tôi cố giữ bình tĩnh:
    - Ba tin là chị của nó để yên cho quân nào “giết” em mình sao?
    Tôi đâu có nói được chính tôi là người đi cầu cạnh CIA cứu má tôi, chớ nào có ai “ép” má tôi rời Sài gòn!
    Ba tôi giữ im lặng một chút, rồi rót một ly nước đầy để uống. Không biết ông uống nước để dằn cơn giận, hay để lấy thêm sức cãi vã với đứa con gái cứng đầu cứng cổ. Uống xong, ông nhìn tôi, nở một nụ cười thân thiện, nói:
    - Hai chục năm trước, ba đã hình dung ra, con sẽ là con một con người như thế nào khi con lớn. Bấy giờ, ba thấy đúng như vậy!
    ôi dịu dàng nói:
    - Con rất tiếc, nếu con đã làm cho ba thất vọng về con.
    Ba tôi liền đáp:
    - Không, ba không thất vọng về con. Ba chỉ muốn con của ba thương ba và tin tưởng ba thôi.
    Tôi vòng tay ra sau lưng ba, rồi siết chặt thật lâu. Rồi vui vẻ nói:
    - Con rất mừng khi nghe ba nói vậy. Bấy giờ ba cho con biết về anh Khôi của con đi.
    Mắt ba tôi lại sáng ngời, mặt ba rạng rỡ khi tôi nhắc đến anh Khôi. Từ ngày anh còn nhỏ, ba tôi đã cưng anh nhứt nhà, đã hãnh diện về anh. Ông vui vẻ nói:
    - Anh con đang sửa soạn lên đường vào Nam. Khi ba về VN sẽ ghé Hà Nội đón anh hai con cùng vào Nam. Anh nhớ con nhiều nhứt đó!
    Tôi nửa đùa nửa thật nói:
    - Không biết ai nhớ ai hơn ai, ba ạ!
    Ba tôi nhìn tôi đăm đăm, rồi hỏi:
    - Chừng nào con về thăm nhà?
    Tôi thầm tự hỏi có nên nói thật ý nghĩ của mình không, rồi gượng đáp:
    - Không, ba à. Con chỉ có can đảm chịu đựng với những gia đình, những mất mát trong chiến tranh, mà còn không có lòng dạ nào chứng kiến người dân Việt sống nhục nhã dưới chính quyền Hà Nội.
    Tức thì mặt ba tôi sầm lại, nhưng ông cố nén cơn giận, nói:
    - Ba muốn đón má về với ba.
    Tôi đáp ngay:
    - Đó cũng là ước nguyện của má.
    - Vậy thì con tìm cách đưa má qua Paris gặp ba.
    Tôi biết Paris là nơi rất quen thuộc của nhiều người Việt thân Cộng, cũng là nơi hoạt động của Cộng sản Bắc Việt, nơi đó ba tôi có nhiều đồng chí, bạn bè.
    Tôi mỉm cười hứa hẹn:
    - Dạ, con sẽ cố gắng hết mình.
    Ba tôi vui vẻ:
    - Cố gắng cho ba nhen con.
    Tôi trịnh trọng đáp:
    - Lời hứa của người họ Đặng là một lời danh dự, ba à.
    Mỉm cười một cách hài lòng, rồi ba tôi nhìn đồng hồ tay. Lúc ấy tôi mới thấy chiếc đồng hồ Omega thật đẹp. Ông bào, tôi đã đến lúc phải về với cháu ngoại của ông. Tôi chưa muốn xa ba tôi ngay, nhưng thấy ông có vẻ mệt, và biết rằng hôm sau ông phải dậy sớm để dự một buổi tập họp đông đảo tại một nơi trong thành phố. Tokyo. Tôi bỗng thấy khó chịu trong người. Ba tôi, một người rất thân của tôi, lại có mặt trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, chống bom nguyên tử. Tôi bât giác mỉm cười bâng quơ. Ba tôi thấy tôi cười thì hỏi lại sao tôi cười? Tôi liền đáp:
    - Cha con mình bấy giờ khác nhau quá.
    Khi tôi trở về khách sạn, người đàn bà Nhựt giữ trẻ vừa ra khỏi phòng thì ba tôi gọi, ông không chỉ muốn biết xem tôi về nhà an toàn không, mà còn nói:
    - Con à, lần tới, cha con mình đừng nói chuyện chánh trị nữa nhen con. Hãy nói về gia đình thôi. Con cho ba biết về má, về chị em của con, về mấy người con rể của ba. Thời gian của cha con mình ngắn ngủi quá con à.
    Nhưng tôi không chịu, liền đáp:
    - Suốt đời chúng con thiếu ba chỉ vì chánh trị. Ba xa chúng con hai mươi năm. Ba biết không? Gia đình ly tán vì chánh trị. Chánh trị làm vợ xa chồng, con xa mẹ. Đời sống của mình đã bị chánh trị cầm đầu, mình phải nói tới chánh trị, ba à.
    Ba tôi vừa cười vừa nói:
    - Ba nhớ con gái cưng của ba dễ thương, thông minh, cứng đầu, nhưng ba không ngờ con ba lại dữ thế này… Nhưng bà biết con thương ba là đủ rồi.
    Tôi đổi sang hướng khác.
    - Ba, con không có giận ba, mà con giận đảng Cộng sản, giận cái tập đoàn của những người đã phản bội cách mạng thôi.
    Nói xong, tôi chờ đợi cơn giận dữ của ba tôi. Nhưng ông bình tĩnh trả lời:
    - Ba mong rằng sẽ có dịp cho con thấy cái mặt tốt đẹp của cách mạng. Rồi con sẽ vui vì thấy ba đi đúng đường.
    - Con lúc nào cũng hãnh diện vì ba đã can đảm chiến đấu chồng ngoại bang, đã từng vô tù ra khám, từng bị đầy ra Côn đảo. Nhưng con không thể chấp nhận sự có mặt của tập đoàn cộng sản Hà Nội ở miền Nam.
    Tôi nói một hồi dài như sợ bị ba tôi ngắt lời. Tôi nghe tiếng cười của ba tôi, rồi ông nói:
    - Thì con cứ tiếp tục hãnh diện về ba đi. Tin rằng luôn luôn ba đem hết sức ra để phục vụ miền Nam. Con có biết không? Không chỉ chúng ta thắng cuộc chiến này, mà ngay cả người Mỹ thắng nữa…
    Tôi vội ngắt lời:
    - Có thể đó là mấy thằng trốn lính, mấy thẳng phản chiến, chớ đâu phải toàn dân tộc Mỹ. Con đau đớn lắm khi miền Nam của xon đã mất.
    Tôi nghe có tiếng cười của ba tôi, rồi ông nói:
    - Nghe con nơi mà thấy vui vui, vì lạ tai.
    Tôi cũng cười theo và chọc ba tôi:
    - Con tin là không có ai dám trả trêu với ông đại sứ của ntr Giải phóng Miền Nam như con đâu. Nhưng con là con của ba, nên mới dám lợi dụng ba như vậy.
    - Con thì tha hồ lợi dụng ba bất cứ lúc nào cũng được.
    - Thiệt vậy hả ba?
    - Ba nói thật.
    - Con có một chuyện muốn ba giúp. Ba phải hứa là phải cố gắng hết sức nhen.
    Ba tôi im lặng chờ đợi. Tôi nói tiếp:
    - Hồi nãy ba nói quê hương mình hết giặc rồi. Hết giặc có nghĩa là hoà bình, xoá bỏ hận thù, lá tha thứ, là thương yêu nhau “trong tinh thần của cách mạng” phải hông?
    Tôi nghe ba tôi thở dài; chắc ông biết ông cho tôi một thước, tôi lại đòi một cây số.
    - Con muốn nhắc tới những người tù binh Mỹ con bị Hà Nội cầm tù. - Tôi nghẹn ngào nói.
    Thật ra vấn đề này tôi đâu có định nói với ba tôi, nhưng khi ông nói ông cho tôi lợi dụng ông, thì tôi chụp ngay cơ hội.
    Ba tôi ngập ngừng đáp:
    - Con à, đó là một vấn đề ba không có thẩm quyền nói tới.
    Giọng ông trở nên nghiêm nghị, chậm rãi như giọng nói của một nhà ngoại giao tuyên bố trước công chúng. Tôi cũng lấy giọng nghiêm trang đáp lại:
    - Con biết, nhưng con không có nói với một người có quyền hành, mà con nói với một người mà ai ai cũng mến thương, quý trọng, vì tình yêu của người đó cho dân tộc và gia đình. Con nói, với một người có trái tim, có kinh nghiệm, đã từng bị người ta nhốt vô tù vì lý tưởng. Con muốn những người tù binh Mỹ này được trả tự do để họ được về với gia đình họ, ba à. Bây giờ con lớn rồi, nhưng con vẫn còn tin ở sự mầu nhiệm, mà sự mầu nhiệm nhiệm đó chỉ có từ con tim của những người đàn ông như ba!
    Tôi nghe ba tôi khẽ thở dài, rồi ông nói bắng một giọng lạnh lùng:
    - Con à, tại sao con lại dằn vặt con như vậy? Chuyện không liên quan gì đến cha con mình. Không liên quan gì tới 20 năm chia cách của gia đình minh.
    - Ba à, làm con của ba, con hiểu thấu được thể nào là lớn lên không có cha, con codn được biết cái sung sướng vô tận khi gặp lại ba. Con biết ba sung sướng biết chừng nào khi ba nói chuyện với con. Con muốn ba giúp cho những người đàn ông. đàn bà và con trẻ được hưởng cái sung sướng mà mình đã được.
    - Ba không thể nói đến chuyện này nữa.
    - Ba có thể!
    - Con không hiểu sao?
    - Con hiểu, nhưng con không chấp nhận là ba của con lại từ chối một dịp đem hạnh phúc đến cho người khác. Ba mới là người biết tươi cười khi thấy người đàn ông đoàn tụ với gia đình mình sau một thời gian xa cách. Ba mới là người lấy tay chùi nước mắt khi khi thấy một người từ liệng cái nạng để ôm lấy con của mình. Dù là hình ảnh của ba con. Nếu ba không có dậy con đừng ích kỷ, con không có dùng thì giờ quý báu này của cha con mình mà nói chuyện hạnh phúc của người ta. Con nghĩ, ba hiểu con mà.
    Tôi nói một hơi không cho ba tôi nói. Nhưng ba tôi ngắt lời:
    - Con à, nghe ba nơi đây. Ba thương con vì con không ích kỷ, nhưng con phải hiểu, trên ba con có đảng. Nó không có giản dị như con tưởng.
    - Con đâu có kêu ba mở chuồng thả những tù binh Mỹ. Con chỉ xin ba tạo ảnh hưởng những người có quyền lực trong vấn đề này. Ba làm cho Liên Xô mê Mặt trận giải phóng miền Nam được, thì vì những gia đình của tù binh, ba làm cho bác Lê Duẩn mê ba đi.
    - Ba nghĩ mình không nên nói chuyện này trong điện thoại. - Ba tôi nói.
    - Ba làm ơn nghĩ đến những gì con nói nhen.
    - Ba sẽ nghĩ đến tất cả những gì con nói với ba.
    - Con muốn ba nghĩ đến vợ con của những người Mỹ mất tích mỗi khi ba nghĩ đến má và tụi con. Sự suy nghĩ của ba quan trọng lắm, nó thể thay đổi cho những người bị tù đầy.
    - Ba thương con lắm con có biết không. - Ba tôi nói.
    - Con thương ba nhiều lắm.
    Tới đây, ba tôi đổi đề tài, ông hỏi tôi:
    - Người ta nói cho ba biết chồng con là người Nam Tư. Có phải không'?
    - Dạ, anh là người Mỹ gốc Nam Tư. Tình yêu nói nhiều thứ tiếng lắm, ba à.
    Chúng tôi cùng cười vang trong điện thoại. Rồi ba tôi ngập ngừng:
    - Ba mừng. Ba chỉ sợ…”
    - Ba sợ con có chồng người Mỹ vì phương tiện chớ gì? Má con nói giòng họ Đặng của mình mùi mẫn lắm.
    Chúng tôi cười, tiếng cười đem lại cho tôi những kỷ niệm vui tươi của gia đình lúc tôi còn nhỏ. Chúng tôi chúc nhau ngủ ngon năm sáu lần rồi mới chịu ngừng.


    ______________________

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 32



    Tôi nghe hơi ấm của ánh nắng xuyên qua cửa kiếng chỗ tôi đang ngồi viết nhật ký. Ngước nhìn lên, tôi thấy mặt trời đi cao ngoài cửa sổ, 6 giờ! Thế là tôi đã thức suốt đêm.
    Lance còn ngủ say, cái chân tuột khỏi chăn, một tay ôm con khỉ, tay kia để dưới đầu. Cách ngủ của nó giống ba nó như đúc. Tôi thầm nghĩ: “Giống gì mà giống dữ vậy!
    Tôi bỗng nghe ê ẩm cả người vì đã ngồi suốt đêm. Tôi uể oải đứng lên và cảm thấy buồn ngủ quá. Nhưng tôi biết, nếu tôi ngả lưng nằm xuống giường, thể nào tôi cũng ngủ tới trưa. Tôi không có thì giờ để ngủ, vì đã tới giờ cho Lance ăn sáng, để con đi thăm ông ngoại. Khi hai mẹ con ngồi trong taxi đi tới khách sạn Prince tôi bắt đầu nói về ba tôi cho đứa bé 5 tuổi nghe. Ông ngoại nó là một nhân viên của Bộ ngoại giao ở Sài gòn, và bây giờ đang ở Nhật để tham dự một buổi họp quốc tế.
    Nó có vẻ suy nghĩ, rồi cau mày nói:
    - Nếu ông ngoại ở Sài gòn bây giờ, thì ông phải là cộng sản!
    Tôi giựt mình về nhận xét của một đứa bé mới 5 tuổi, tôi phải tìm lời trấn an nó:
    - Lance nói đúng. Nhưng đừng quên ông là ông ngoại Lance, và ông muốn gặp con lắm.
    Nó đáp ngay:
    - Lance hổng sợ.
    Tôi dặn dò nó:
    - Trong phòng ông ngoại có thể có người ra vào, vì họ làm việc với ông. Vậy con đừng nói gì đến Daddy của con nhen, nhớ là đừng cho ai biết Daddy là phi công. Đây là bí mật của mình, đừng nói cho ai nghe nhen.
    Lance liền hỏi:
    - Daddy của Lance có bỏ bom Hà Nội không?
    - Mommy không biết.
    Lance nhỏ giọng:
    - Mà nói cho Lance biết đi. Lance hứa không nói cho ai biết đâu.
    - Chừng nào mình về nhà, con hỏi Daddy nhen.
    Vừa nói tôi vừa hơn lên tóc thằng nhỏ và cười thầm, vì nó cũng làm ra vẻ người lớn.
    Có lẽ ba tôi đã đợi ở cửa lâu, nên tôi vừa gõ, cửa đã mở ra. Sáng nay trông ba tôi có vẻ vui hôm hôm qua. Tóc ông chải gọn gàng, áo sơ mi trang ủi thẳng nếp, và cái cà vạt màu xanh, xọc xám mục đích tinh. Ba tôi xớt Lance lên tay; tôi đi sau khép cửa lại. Nhìn ba tôi hôn lên tóc Lance, tôi nhớ lại hồi tôi còn nhỏ, ba tôi cũng hay hôn lên tóc tôi, rồi nói: “Tóc con thơm như bông bưởi trong vườn bà ngoại.
    Ba tôi nói chuyện với Lance bằng tiếng Việt. Rất may là lúc đó Lance còn nói và hiểu được tiếng Việt rất nhiều. Nó còn nói điều kiện một cách văn vẻ. Lance đề nghị:
    - Ông ngoại về ở với Lance và má Lance được không?
    Ba tôi ôm cứng Lance vào lòng nhưng không trả lời. Lance nói thêm:
    - Daddy của Lance sẽ thương ông ngoại nữa. Daddy nói vậy rồi mà!
    Ba tôi vui lắm, càng ôm cứng Lance vào lòng, rồi thủ thỉ bên tai nó:
    - Thank you… Thank you, my grandson.
    Lance tiếp tục dụ dỗ ông ngoại:
    - Bà ngoại nhớ ông lắm. Bà viết thơ cho ông mà khóc.
    Nói xong, Lance tuột xuống khỏi vế của ông ngoại, chạy đến mặt tôi, xoè hai tay ra để đòi lá thơ của bà ngoại viết cho ông ngoại. Tôi vui vẻ đưa cho nó. Nhưng ba tôi không đọc ngay, bỏ vào túi áo, rồi lại ôm cháu mà hôn lên trán nó.
    Nhìn hai ông cháu âu yếm nhau mà tôi cảm thấy buồn vui lẫn lộn Chúng tôi vô cùng yêu thương nhau, nhưng vì khác lý tưởng, chúng tôi đã xa cách ngàn trùng, mỗi người đi một con đường riêng. Tôi đã chịu nhiều đau đớn âm thầm từ ngày miền Nam sụp đổ, trước mắt tôi lúc này là người cha vô cùng thương yêu của tôi. Nhưng đồng thời, ông cũng là một đại diện của những người đang nắm quyền ở đất nước tôi, tức là những kẻ đã xâm chiếm miền Nam, tức kẻ thù của dân Nam.
    Trong khi tôi đau buồn suy nghĩ như vậy, ba tôi vẫn thản nhiên vui với cháu ngoại.
    Tôi đang suy nghĩ vẩn vơ, bỗng có tiếng gõ cửa. Ba tôi hơi giật mình, chau mày nhìn ra cửa, nụ cười tươi trên môi biếm mất. Ông bước ra mở cửa. Một người đàn ông Việt Nam khoảng 30 tuổi cung kính chào ba tôi. Ông gọi anh ta là “đồng chí”, mời anh ta vào phòng, rồi nói:
    - Tôi muốn đồng chí gặp một người đồng hương, cùng làng với tôi ở Cần Thơ.
    Tôi hiểu ý ba tôi ngay, nên từ đó tôi gọi ông là “Bác Năm”. Người “đồng chí” đó là người thông ngôn của ba tôi. Anh ta có thể thông thạo ba thứ tiếng: Nhật. Anh và Pháp.
    Khi anh ta thấy Lance có mặt ở trong phòng mà chúng tôi chưa kịp giới thiệu, tỏ vẻ bối rối, bắt tay cháu rồi nói:
    - Bonjour!
    Lance nói ngay:
    - I don't speak French, only speak English Vietnamese!
    Lần đầu tiên tôi thấy con tôi rụt rè mà nóng ruột. Sau khi trở lại mấy câu hỏi xã giao của anh thông ngôn về tuổi tác, học hành, Lance nhìn người thông ngôn và hỏi lại:
    - Cậu là cộng sản, phải không?
    Ba tôi và tôi đều giựt mình, nhưng anh thông ngôn mỉm cười thản nhiên trả lời:
    - Phải!
    Thằng nhỏ bỗng có vẻ sợ, nhích ra xa anh thông ngôn ít chút vì đang cùng ngồi trên ghế dài. Nó nhìn thẳng mặt anh và hỏi:
    - Cậu sẽ giết Lance và má Lance, phải không?
    Anh ta nhìn tôi, nhưng tôi nhìn xuống đất. Anh quay lại Lance:
    - Sao em lại hỏi vậy?
    - Má của Lance giúp mấy người chạy trốn. Người ta nói người ta sợ cộng sản, người ta chạy trốn. Lance không muốn cậu giết Lance nhen.
    Ba tôi ra dấu cho tôi bảo cháu ngừng nói. Tôi phải “hỏi lộ” thằng nhỏ cái bánh croissant và ly nước cam. Nó chạy sang bàn to, nhưng mắt vẫn không rời khỏi anh thông ngôn. Anh nói nhỏ với ba tôi mấy câu rồi đứng dậy, đi về hướng cửa, Lance lại còn nói thêm:
    - Lance muốn cậu tử tế với người Sài gòn, nghen cậu. Lance có ở Sài gòn rồi, người ta thương Lance lắm!
    Anh thông dịch viên hơi lúng túng, rồi bước lại gần nó, nói:
    - Cậu sẽ tử tế với người Sài gòn, cháu đừng lo!
    - Daddy của Lance là ông Mỹ, thấy người chết ở Sài gòn thì buôdn lắm. Daddy nói cộng sản giết người ta.
    Người đồng chí của ba tôi nhìn tôi mà không nói được một lời, mở cửa bước ra.
    Ba tôi lắc đầu tỏ vẻ bực mình vì lời nói thẳng của tháng cháu ngoại 5 tuổi, rồi bảo tôi:
    - Ngày mai con nên đến một mình. Vì sẽ có nhiều người tới đây gặp ba với nhiều việc phải làm!
    - Con xin lỗi ba.
    Ba tôi chép miệng:
    - Khi người lớn đầu độc con nít thì con nít đâu có đáng trách.
    Tôi lắc đầu, cãi:
    - Ba à, con đâu có đầu độc nó. Con nói cho nó biết cái gì con tin là sự thật, chừng nào nó lớn khôn, tự nó nó chọn. Ba dậy con trọng tinh thần cách mạng, con làm cách mạng tư tưởng, khi con dám nhận biết cái nào hiền, cái nào ác, và con không chọn cái ác.
    Ba tôi im lặng, rồi kéo ghế kêu tôi ngồi vào bàn ăn điểm tâm sáng. Ba tôi vẫn giữ thói quen uống trà buổi sáng. Tôi nhớ lại hồi ở trong vùng giải phóng, sáng nào ba má tôi cũng uống nước trà trong bếp, trước bếp lửa. Ba tôi hãnh diện là có người vợ hiền, để sẵn sàng chia sẻ các khó khăn cũng chồng. Mặt ba tôi tươi hẳn lên khi tôi nhắc lại chuyện đó. Thấy ông vui, tôi nhẹ nắm tay ông, rồi hỏi:
    - Ba có tin là con nói với ba với tất cả lòng chân thành từ tim con không?
    Ba tôi gật đầu, đáp:
    - Ba biết con chân thành, nhưng con không hiểu được cái phức tạp của nhiều vấn đề chánh trị.
    Tôi ngập ngừng một chút rồi đề nghị:
    - Hà Nội đã thành công trong việc xâm chiếm miền Nam, bây giờ đến luợt tụi con… giành lại ba, ba nghĩ sao?
    Tức thì ba tôi bật người lên, vội đưa tay bụm miệng tôi, như sợ có ai nghe được câu nói của tôi, ông còn kéo tôi đến gần radio, vặn to lên, ghé tai tôi mà nói:
    - Ba không muốn nghe con nói như vậy. Lần này ba bỏ qua cho con, vì con chưa hiểu ba chút nào. Nhưng lần sau, con không nên nói đến chuyện này.
    Tôi kinh ngạc vì cơn giận của ông. Tôi cho rằng, đối với chuyện đất nước, ba tôi đã làm tròn bổn phạn của một người yêu nước. Bây giờ, mọi chuyện đã xong, đất nước đã hoà bình, người ta có quyền nghĩ đến sự đoàn tụ gia đình. Vậy thì ba tôi trở về với vợ con là chuyện nên làm, có gì sai trai đâu. Tại sao ba tôi lại hoảng sợ, giận dữ, cấm đoán tôi nói tới việc đoàn tụ gia đình?
    Tôi thở dài, nói:
    - Con bắt đầu thấy hai chiếc xe lửa chạy trên hai đường rầy khác nhau rồi, ba ơi. Sau cuộc chiến kéo dài mấy chục năm ai cũng mơ ước được trở về với gia đình, chỉ có ba là chối bỏ con đường đó thôi.
    Ông nói với một giọng cương quyết:
    - Ba sẽ không tìm cách thay đổi tư tưởng của con, thì ba xin con đừng chà đạp lên lý tưởng của ba.
    Tôi bật khóc, vì tôi không ngờ cái hố ngăn cách giữa ba tôi và tôi lại rộng và sâu như vậy. Tôi nghẹn ngào nói:
    - Nhờ ba, con hiểu được nỗi đau của một dân tộc nhược tiểu bị ngoại bang áp bức, từ đó lòng yêu nước phát sinh. Ba đã cho con nhiều thứ lắm. Nhờ ba mà lúc nào con thấy một tia ánh sáng cho quê hương, con sung sướng vô cùng. Suốt đời, ba đã hy sinh cho lý tưởng của ba, bây giờ đã đến lúc ba phải được hưởng hạnh phúc gia đình, để tụi con biết thêm về ba của con. Ba thấy hông, mình không hiểu nhau gì hết!
    Ba tôi vui vẻ trở lại:
    - Ba rất cảm động khi biết con quan tâm nhiều đến ba. Đó là cái danh dự của người cha. Nhưng con cái cưng của ba hãy nghe đây, nghe để con không lập lại lời yêu cầu đó nữa. Việt Nam cần tất cả những bàn tay xây dựng, để hàn gắn những vết thương do chiến tranh gây nên, phải phục hồi kinh tế để bằng người ta. Con nói con thương Việt Nam, thì con phải chia sẻ giấc mơ của ba, giấc mơ xây dựng một Việt Nam hùng cường, độc lập.
    Tôi vẫn chưa chịu thua, nên lại nói:
    - Làm sao mà dân có thể giầu, nước có thể mạnh, khi con người không có tư hữu, không có cả tự do, vì đảng của ba đã tước đoạt hết mọi quyền của con người.
    - Ba chỉ hứa được với con, là ba sẽ phục vụ với hết sức của mình để Việt Nam được hùng cường.
    Rồi ba tôi đưa tay ra bắt tay tôi, không nói, nhưng cả hai đều hiểu rằng đây là một khế ước. Ba tôi sẽ làm phận sự của ba, còn tôi không được năn nỉ ba tôi rời bỏ đang. Đến đây, ba tôi bỗng thay đổi đề tài:
    - Bao giờ con có thể thu xếp cho má sang Paris gặp ba?
    Tôi hứa:
    - Con sẽ lo việc này liền khi con về Hawaii.
    - Má có giận ba nhiều lắm không con?
    Tôi ngạc nhiên vì giọng nói e ngại, rụt rè của ba tôi. Giọng nói này khiến tôi nhớ đến những đứa trẻ trót lẫm lỗi, muốn biết mình lỗi nhiều ít ra sao, chớ không muốn sửa chữa lỗi lầm.
    - Hồi tụi con còn nhỏ, đời sống của gia đình mình thật khó khăn. Má nhọc nhằn lắm, nên nhiều khi má than thở “phải chi có ba tụi con ở nhà tiếp má”!
    Ba tôi nghẹn ngào nói:
    - Con có biết không? Từ ngày lấy má, ba không làm ra một xu con nào hết. Má con gánh vác hết mọi việc trong gia đình với sự giúp đỡ của ông ngoại bà ngoại. Ba mang ơn má nhiều lắm, Ba đã nhiều lần hối hận, vì hồi đó ba không đưa má và các con ra Hà Nội với ba.
    Tôi giựt mình, hỏi:
    - Con tưởng đó là quyết định của má?
    - Đúng, đó là quyết định của má. Nhưng bà có lỗi không chịu thuyết phục má.
    Tôi cười lý lắc, hỏi:
    - Ba có nghĩ là nếu cả gia đình ta ra Bắc hồi đó, tụi con giờ là đảng viên cộng sản hết không?
    Ba tôi lắc đầu, đáp ngay bằng một giọng nghiêm nghị:
    - Không phải dễ gia nhập đảng đâu con. Anh Khôi con không được vô đảng cũng vì hạnh kiểm. Anh không phải là đảng viên. Lúc học trung học ở Bắc Kinh, anh tổ chức tuyệt thực phản đối nhà trường ngược đãi con em của cán bộ Mặt trận giải phóng miền Nam. Lúc ở Hà Nội thì vừa làm vừa chơi, sang Liên Xô lo học đàn hơn học quân sự. Đã vậy, anh lại xin giải ngũ sau trận Hạ Lào.
    Tôi lo lắng hỏi:
    - Ba có thất vọng về anh Khôi không, ba?
    - Không, anh của con chỉ không cố gắng để được vô đảng thôi, nhưng ba mừng cho sự học vấn của ảnh; đối với ảnh, học hành là quan trọng nhứt.
    - Má lo cho anh Khôi lắm, ba à. Má cứ thắc mắc không biết ảnh ra sao? Đã trở thành con người như thế nào, sau những năm sống với cộng sản? Liệu ảnh còn là đứa con trai chân thật không, liệu ảnh có còn là thằng con trai má thương, má quý, sau thời gian ảnh sống ở Liên Xô?
    Ba tôi vui vẻ trấn an:
    - Má sẽ có dịp gặp lại anh con, và lúc đó sẽ biết rõ.
    Chúng tôi nói chuyện đến đây thì phải chia tay, vì đã đến giờ ba tôi phải đến địa điểm tập hợp đi biểu tình. Ông hứa sẽ gọi ngay sau khi trở về khách sạn. Chúng tôi dự tính đi mua sắm lặt vặt. Ba tôi muốn mua một cây đàn guitar làm qua cho anh Khôi.
    Khi ôm ông ngoại để từ biệt. Lance mời ông tới chân khách sạn của nó. Nhưng tôi biết, với tư cách một nhà ngoại giao, đâu dễ ra khỏi khách sạn đang ở mà không có tuỳ tùng, kể cả ông thông ngôn.
    Trên đường trở về khách sạn, tôi ngạc nhiên khi nghe Lance nghĩ sâu xa về hoàn cảnh của tôi và ba tôi, và lo cho thân phận nó. Lance vừa khóc vừa nói bắng tiếng Anh:
    - Con không để Daddy của con ở xa con đau. Con sẽ khóc điên đầu luôn, nếu Daddy bỏ đi xa.
    - Nếu Daddy đi xa vì một chính nghĩa, thì con cũng phải để Daddy đi. Con phải can đảm.
    - Hồi đó, ông ngoại đi xa. Mommy có khóc không?
    - Nếu Daddy phải đi xa, con cũng khóc, nhưng không khóc lâu, vì Daddy nói con trai không được khóc dài.
    Nghe nó nói vậy, tôi nghĩ đến hoàn cảnh của tôi. Ba tôi bỏ đi được hai chục năm rồi, má tôi vẫn còn khóc, và đang khóc.
    Last edited by Hansy; 03-05-2011 at 04:07 PM.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 33


    Tới giờ ăn chiều mà vẫn chưa thấy ba tôi gọi, nên tôi bảo khách sạn đem đồ ăn lên phòng cho chúng tôi, phòng khi tôi gọi. Đúng như vậy, khi hai mẹ con tôi đang ăn, ba tôi gọi. Ông tỏ ra rất vui vẻ vì đã được gặp nhiều bạn cũ, Nhựt có, Mỹ có. Đó là những người đã ủng hộ ba tôi trong thời chiến. Tôi thầm tự hỏi, loại người Mỹ nào đã làm bạn với ba tôi trong khi nước họ tham chiến ở Việt Nam'
    Tôi nghe giọng nói của ba tôi có vẻ mệt mỏi, nên đề nghị sáng mái sẽ gặp lại, để ông có thì giờ nghỉ ngơi. Ba tôi đồng ý ngay. Nhưng đến 10 giờ đêm, ba tôi lại gọi. Tôi tưởng có chuyện gì quan trọng, nhưng không, ba tôi chỉ muốn nói chuyện về gia đình thôi. Tôi hiểu tâm trạng của ba tôi, một người xa gia đình hơn hai chục năm trời, thèm được biết về những người thân mình ở cách quá lâu, đến những chi tiết nhỏ nhặt. Về phần tui muốn biết về chú bác, cậu và các anh các chị bà con đã cùng ba tôi tập kết ra Bắc. Tôi hỏi đến những người bạn trong bưng biền của ông, kể cả “đồng chí” Lê Đức Thọ. Cuối cùng, ba tôi nói về chuyện du lịch. Ông say sưa tả cảnh mặt trời mọc ở Scandinavia. Tôi vui vẻ cho ông biết tôi mơ ước được trở về Mông Cổ. Ông tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi tôi lại sao lại “trở về” Mong Cổ. Tôi chậm rãi giải thích:
    - Vì con nghĩ, con có má Mông Cổ.
    Ông càng ngạc nhiên hơn:
    - Tại sao?
    - Ba đi rồi, con phải lớn lên một mình với nhiều khó khăn. Con phải tin là con vừa mạnh tinh thần lẫn thể xác. Con có đọc Thành Cát Tư Hãn, con khâm phục ông đó lắm. Con chưa gặp một người Mông Cô nào, nhưng con cảm thấy con gần với họ lắm. Sẽ có một ngày nào đó con sẽ đi thăm viếng cái nước huyền bí đó!
    Ba tôi im lặng nghe tôi nói một hơi dài, rồi mới lên tiếng
    - Ba lại tin rằng con sẽ mê nước Nga.
    Sáng hôm sau, tôi và ba tôi đi “bát phố”. Tôi gởi Lance cho tuỳ viên chính trị của toà đại sứ Mỹ ở Tokyo. Ông hứa sẽ cho Lance đi hồ tắm vào buổi trưa.
    Ba tôi được ban tổ chức đại hội cho một người hôh vê luôn luôn theo sát bên cạnh. Anh ta ngồi như một pho tượng bên cạnh tài xế. Mắt anh láo liên như một con báo. Anh rành phố xá Tokyo nên khi biết chúng tôi muốn mua một cây đàn guitar, anh xổ một tràng tiếng Nhật với tài xế. Khi chúng tôi được taxi đưa đến khu Ginza.
    Tôi bỗng có linh cảm bị theo dõi. Tôi thầm tự nhủ phải thận trọng, ngó trước coi sau. Thế là tôi có cảm tưởng mình là điệp viên thứ thiệt. Tôi sử dụng ngay “kinh nghiệm của một điệp viên”. Kinh nghiệm của tôi là những kinh nghiệm học được trong những cuốn tiểu thuyết và phim ảnh gián điệp. Hồi đó, tôi thích đọc sách của nhà văn Sidney Sheldon. Sau nhiều lần ngó nhanh, liếc nhìn về phía sau, tôi thấy có một người đàn ông da trắng, ăn mặc sang trọng, đi theo chúng tôi. Khi chúng tôi bước vào tiệm bán đàn, ông ta cũng vào theo. Sau khi ba tôi mua đàn, chẳng vào một tiệm giải khát, người đàn ông cũng theo vào, nhưng không mua nước uống.
    Khi ba tôi ngỏ ý muốn mua đồ chơi cho con nít, tôi mới biết tôi có một người chị nuôi cỡ tuổi tôi. Cha mẹ cũng tập kết ra Bắc. Nhưng không biết tại sao cả hai đều chết, rồi ba tôi nhận nuôi chị ở Hà Nội. Chị được ba tôi gởi đi học kỹ sư ở Liên Xô, cũng thời với anh Khôi, anh Trung, và chị Thu Vân. Ba tôi gả chồng chị cùng một năm tôi Iập gia đình với John. Nhưng tôi chưa hỏi gì thêm về người chị nuôi, thì đã thấy người đàn ông da trắng lúc nãy lại xuất hiện. Lần này tôi quyết định nhìn rõ ông hơn. Tôi thấy ông có đôi mắt sắc bén màu xanh, da trắng bạch như dân Âu châu. Tôi đoán ông ta là thằng Tây, hay là một nhân viên KGB. Khi thấy tôi lại gần, ông lẳng lặng bỏ đi. Khi ông ra khỏi tiệm, tôi mới biết ba tôi cũng để ý đến người ấy. Ông nói nhỏ với tôi:
    - Ba nghĩ mình bị theo dõi!
    Tôi đùa:
    - Người của ba hay của con theo dõi?
    Ba tôi có vẻ ngạc nhiên, nhưng không nói gì.
    Sau đó chúng tôi trở về khách sạn của ba, tôi về khách sạn của tôi. Ba muốn tôi trở lại sau giờ ba tôi ăn trưa với những người trong phái đoàn; ba sẽ không ngủ trưa hôm đó.
    Hai giờ, tôi trở lại khách sạn Prince để gặp ba tôi. Khi vào phòng ông, tôi thấy ông đang ngồi cạnh một xấp giấy, trông giống thẻ căn cước, nhưng lớn hơn. Tôi tò mò cầm một thẻ lên coi thì biết rằng đó là giấy gọi nhập ngũ của Mỹ. Giấy này đã gởi đi vào tháng 7 năm 1969 cho một thanh niên 19 tuổi.
    Lúc đầu, tôi nghĩ đây là thẻ động viên của một người lính tử trận. Tôi bỗng nghe một niềm thương cảm tràn ngập trong lòng. Chết cho tổ quốc là một vinh dự. Nhưng tình thương ấy bị dập tắt ngay khi ba tôi cho biết những thẻ động viên mà ba tôi đang để trên mặt bàn là những thẻ của những tên phản chiến, chúng nhận được lệnh nhập ngũ thì bỏ trốn, rồi gởi những thẻ trên đến toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Tôi giận điên người khi biết chúng là những tên phản quốc. Như đổ thêm dầu vào lửa, ba tôi vui vẻ nói:
    - Điều đó chứng tỏ rằng Mỹ đã sai lầm khi tham chiến ở Việt Nam.
    Tôi chưa cần phân tích xem Mỹ sai lầm ở chỗ nào, nhưng tôi nhận ra một sự thật làm tan nát tim tôi. Đó là sự ngăn cách giữa hai cha con tôi quá lớn. Chúng tôi gặp nhau chỉ để xa nhau mà thôi. Mỗi người đã quyết định tiếp tục đi con đường riêng của mình. Lẽ thường ở đời, ai không muốn ngả theo phe thắng để mưu cầu danh lợi cho riêng mình. Nhưng tôi thì không, tôi nhất định đi con đường của tôi. Không bao giờ tôi phản lại quốc gia, phản lại lý tưởng mà gia đình tôi đã đi theo. Vì lý tưởng, em trai tôi đã chết khi mỗi chập chững bước vào binh nghiệp.
    Tôi nghiêm giọng nói với ba tôi:
    - Hạng người phản chiến này chỉ là những tên phản quốc, hèn nhát, nên mới gởi những thẻ quân dịch này cho kẻ thù.
    Ba tôi lắc đầu:
    - Mỹ nhảy vào Việt Nam là một sai lầm to lớn. Những người Mỹ trẻ này đã sáng suốt nhận ra như vậy.
    Tôi cãi:
    - Trong chiến tranh Việt Nam, Mỹ có một sai lầm tai hại và trách. Đó là việc họ Vietnamization để rút bớt quân, mặc một mình quân lực Việt Nam Cộng hoà chiến đấu chống Bắc Việt, trong khi Bắc Việt vẫn được Liên Xô và Tàu Cộng tiếp tay. Sự sai lầm này do các chính trị gia xa lông của Mỹ chủ xướng. Họ ngay thẳng, thật thà, làm sao hiểu nói cái lưu manh của cộng sản. Vậy khi Liên Xô và Tàu Cộng viện trợ khí giới cho các du kích của Mặt trận Giải phóng giết đồng bào, thì có chính nghĩa không?
    Ba tôi chưa kịp có ý kiến gì, tôi đã nói tiếp:
    - Cuộc chiến này sai bét vì người Việt lại giết người Việt!
    Trong khi tôi nói thao thao, ba tôi ngồi làm thinh, nên chính tôi cũng thấy tội nghiệp ông. Tôi thầm công nhận, ông hiền khó.
    Ông dịu dàng nói:
    - Ba không muốn tranh luận với con gái cưng của ba. Vì ba không bao giờ muốn thay đổi cách suy nghĩ của con. Nếu con hài lòng với niềm tin của con, tức là con đang có hạnh phúc. Cha mẹ nào mà không muốn con cái mình có hạnh phúc. Đối với ba, gia đình rất đáng quý.
    Ba tôi nói dịu dàng như vậy, má tôi vẫn khiêu chiến:
    - Nhưng đảng của ba còn đáng quý hơn tụi con!
    Ba tôi chậm rãi:
    - Đất nước trên hết đối với ba. Con can đảm, con đã tự lập, con cho con được. Con OK.
    Nói xong hai chữ “OK” ba tôi cười vui vẻ. Thấy ông vui, tôi trả lời:
    - Tất cả người dân miền Nam cũng đã OK. Vợ của ba, con cái của ba đều là hình ảnh của người dân miền Nam sống đơn sơ và hạnh phúc. Chúng con không có gì khác biệt với mọi người. Những nhu cầu, những mơ ước của chúng con đều là nhu cầu và mơ ước của hàng triệu dân miền Nam, và mọi người đã OK, cho đến ngày Hà Nội đem quân xâm chiếm miền Nam.
    Ba tôi tôi gật đầu:
    - Ba biết rõ những nhu cầu của người miền Nam. Ba hứa sẽ cố gắng đem sức mình để đáp ứng những nhu cầu đó.
    Tôi chưa kịp nói gì thêm, ông đã đề nghị:
    - Mình nói chuyện khác đi, con.
    Tôi đến ngồi cạnh ông, rồi ôm chặt lấy ông. Ba tôi cho biết đêm qua ông thức quá nửa đêm để ngắm hình gia đình. Ông khen các cháu ngoại của ông “đẹp như tiên”. Cuối cùng, ông ngỏ ý muốn má tôi về ở với ông.
    Chúng tôi bàn tánh cách thức và lịch trình đưa má tôi đi Paris. Nhiệm vụ của tôi là phải xin giấy thông hành cho má. Lúc ấy, bà chưa có giấy tờ gì hết, ngoài chứng chỉ nhập cảnh tỵ nạn cộng sản. Nhiệm vụ của ba tôi có phần khó hơn một chút. Ông phải xin giấy nhập cảnh Pháp. Ba tôi sẽ phải nhờ một vài người bạn Cộng sản Pháp đang làm trong Bộ ngoại giao ở Paris.
    Chúng tôi đang bàn tánh, thì anh thông ngôn gõ cửa mời ba tôi đi ăn trưa. Ba tôi ngỏ ý muốn ăn ngày ở trong phòng, nhưng anh cho biết hôm nay ba tôi có khách. Đó là phái đoàn của đạo Quaker từ Mỹ sang. Họ muốn gặp ông đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam.
    ***
    Tôi vẫn có thôi quen viết nhật ký, nhất là vào thời gian đi gặp ba tôi. Mọi việc xảy ra quá nhanh, nhiều khi như một cơn bão nếu không ghi lại làm sao tôi có thể nhớ hết được. Chính nhờ những dòng nhật ký này mà tôi hiểu được ba tôi, một nhà ái quốc chân chính, nhưng đã đi lầm đường. Bao nhiêu công sức của ông đóng góp cho đất nước đã biến thành công dã tràng.
    Hồi nhỏ, năm 1972 tôi bỗng nhận được thư của ba tôi gởi từ Ý, khi ông đang đi công tác. Thơ này được một người bạn ở Paris chuyển cho tôi. Thơ viết như sau:
    “Con yêu quý, ba rất hãnh diện về gia đình ta. Tất cả đối với ba đều đáng quý và đáng phục Ba rất thương má đã một mình nuôi sáu đứa con trong suốt 18 năm trời ròng rá. Ba thường trách ba, vì ba mà người vợ chung thuỷ và can đảm phi thường của ba phải sống đơn chiếc trong một quê hương nhiều xáo trộn, điêu linh… Đối với các con, ba vẫn mơ ước được trực tiếp săn sóc, dậy dỗ cho từng đứa. Vậy mà ba đã bỏ rơi các con, mặc cho các con lớn lên một mình với nhiều thử thách gay go. Ba chẳng bao giờ có thể quên được cái chết của Hải Vân.
    Ba vẫn tin rằng gia đình ta sẽ có một ngày đoàn tụ, ngày ấy không xa. Mới đây, nhận được thơ con, ba cứ thẫn thờ như người đi trong mộng, không làm được việc gì hết. Suốt đêm ba mơ thấy con sang Moscow thăm ba. Rồi ba nhớ lại chuyện đã qua. Nhớ lại ngày ba ra đi, mà mới có 37 tuổi, con mới lên 9, Hải Vân 6 tuổi. Hoà Bình 2, con Minh Tâm vừa tròn 3 tháng.
    Hải Vân rất thông minh, ba con nhớ hồi nó mới 4 tuổi, một đêm ba bơi xuồng đưa nó ra giữa sông Ong Vèo để chỉ cho nó tên các ngôi sao. Bỗng nó chỉ mặt trăng mà hỏi ba có biết tại sao tối nay chỉ có một nửa mặt trăng không? Ba trả lời là ba không biết, thì nó nói nó đã bẻ làm hai, một nửa vẫn ở trên trời, còn một nửa nó ném xuống sông.
    Lúc đó, em con đã cho ba thấy nó có khiếu về âm nhạc. Cho tới nay, ba vẫn nhớ những ngón tay bé nhỏ của nó lướt trên mấy phím đàn mandoline mà ông ngoại đã cho các con. Ba không ngờ em con lại vắn số như vậy. Bây giờ, má các con còn có thể đi thăm mộ Hải Vân hàng tuần, còn được tự do khóc thương nó, còn được nói lên nỗi đau đớn cũng như đắng cay vì mất nó, má con cũng còn có thể đốt cho nó nén nhang. Trong khi đó, ba không có thể làm được, chỉ âm thầm giấu nỗi đau của sự mất mát trong lòng. Ba không sao quên được gương mặt tươi roi rói đầy sự sống của em con và bên tai ba vẫn văng vòẳg nghe tiếng cười của nó…”
    Hai mươi năm trước, ba tôi ra đi và hứa hai năm sẽ trở về, nhưng tình hình đất nước mỗi ngày một thay đổi, khiến gia đình tôi phải chịu đựng cảnh chia cách, không những chia cách về không gian mà còn chia cách cả về tư tưởng nữa. Nhưng tôi tin ba tôi không bao giờ có ý định dụ dỗ tôi hoặc thuyết phục nghiêng về phía cộng sản. Vì thế, khi muốn đả kích cộng sản Việt Nam, tôi cùng phải biết “vuốt mặt mà nể mũi”, lựa lời để ba tôi khỏi buồn hay chạm tự ái.
    Khi cờ đỏ sao vàng bay trên nên trời miền Nam, ba tôi cho đó là ngày trở về. Nhưng ngày đó lại chính là ngày gia đình chẳng phải bỏ nước ra đi.
    Ba tôi nhắc đi nhắc lại với tôi rằng:
    - Người Việt Nam đã tái lập hòa bình, đã tự nắm lấy vận mạng và tương lai của đất nước mình. Bấy giờ là lúc chúng ta hàn gắn lại những vết thương do chiến tranh gây nên, để dựng lại quê cha đất tổ. Đây không phải là trách nhiệm của riêng đảng, mà là của tất cả những người yêu chuộng hoà bình ở Việt Nam. Ai ai cũng phải đóng góp vào chương trình này. Ba của của con là một trong những người được giao phó nhiệm vụ này.
    Nghe ba tôi nói như vậy, tôi thầm tội nghiệp cho ông, vì tôi biết cái mà ba tôi gọi là tự do, chỉ là bánh vẽ nhằm lừa bịp mọi người. Ba tôi sẽ thất vọng.
    Có lẽ vì xa chúng tôi đã lâu ngày, nên ba tôi có mặc cảm tình cha con phai lạt, nên cứ nhắc nhở;
    - Hãy thương ba! Hay chung thuỷ với ba như con chung thuỷ với dân tộc Việt Nam.
    Trước khi ba tôi rồi Tokyo để bay qua Pháp, chúng tôi đã được sống những ngày thần tiên trên đất nước lạ hoắc này. Trong khi nói chuyện với ông, tôi phải hết sức giữ ý giữ tứ, và lựa lời khỏi làm mất lòng ông. Chẳng hạn, nếu tôi chửi cộng sản nhiều quá, tôi có thể gặp phản ứng mạnh của ông, vì tôi đã xúc phạm tới “tôn giáo” của ông. Ở các nước tự do, chúng ta tôn trọng tín ngưỡng của nhau, vậy tốt nhất, tôi không nên đả động gì tói “tín ngưỡng” của ba tôi.
    Vì ba tôi đã coi chú nghĩa cộng sản như một thứ “tôn giáo”, mà ông lại là người rất “ngoan đạo”, nên tôi biết, tôi không thể để ông đào thoát ở lại vùng tự do với gia đình. Tôi nghĩ đến người anh có tâm hồn nghệ sĩ, phóng khoáng của tôi, đó là anh Khôi. Tôi đã mấy lần xa xôi thăm dò ý kiến của ba tôi về “âm mưu” này, ông im lặng, cái im lặng thuận tình mà không dám nói ra. Thế là tôi thầm biết rằng ba tôi cũng muốn anh tôi ra khỏi Việt Nam; trường hợp này, tốt nhứt cho ba tôi là không thấy, không nghe, không nói, là tạm ổn cho ông.
    Anh tôi sẽ ra đi băng cách nào? Tôi nói chuyện với Rob Hall, một nhân viên của CIA hiện đang có mặt ở Tokyo. Tôi đề nghị CIA tuyển mộ anh, với điều kiện là phải đưa anh sang Mỹ một thời gian ngắn. Vì chuyện này liên quan đến tính mạng của anh, nên tôi phải hết sức thận trọng. Tôi muốn làm chủ tình hình hơn là để CIA làm theo dự tính của họ. Nếu họ làm theo ý họ, tôi sẽ trở thành đui và điếc, mà đã đui và điếc thì làm sao cứu được con trai của một cán bộ cao cấp cộng sản.
    Tôi cho Rob Hall biết ý định của tôi và yêu cầu ông giúp tôi. Tôi muốn viết cho anh Khôi một lá thơ, thì CIA miễn cưỡng bằng lòng. Sau đó, ông cho biết viên kỹ sư của CIA sẽ gởi một kính để đọc “micro dot” vào một máy tinh, trong đó sẽ gồm cả những lời chỉ dẫn để đọc “micro film”. Lúc đầu, viên kỹ sư có ý định bỏ micro film trong một máy chụp hình, nhưng tôi không chịu, vì sợ rằng cán bộ cộng sản sẽ ăn cắp mắt máy hình, thì cuốn phim bí mật cũng mất theo luôn. Tôi đề nghị thay thế cái máy hình bằng một máy tinh, vì lúc đó (năm 1975) chưa có cán bộ nào biết ssử dụng máy tính. Loại này chỉ dành riêng cho các kỹ sư. Họ đồng ý. Chúng tôi bắt tay ngay vào làm việc ngày đêm không nghỉ.
    Tôi viết đi viết lại một cách thận trọng nhưng rõ ràng một bức thư, cho anh Khôi biết những gì em gái của anh có thể làm được, nhằm giải thoát anh khỏi chế độ cộng sản. Tuy nhiên, mọi quyết định vẫn ở trong tay anh. Cuối thư, tôi viết cho anh như sau:
    “Em chỉ giúp anh đào thoát, đưa anh đến bến tự do, nếu anh muốn. Quyền quyết định là của anh. Em cũng xin nói để anh rõ, chúng mình không làm chuyện này vì đồng tiền, mà cũng không muốn anh phản quốc. Em chỉ muốn anh được sống trong tự do sau cuộc đời còn lại với má và chúng em“.
    Những lời nhắn kín ấy, tôi giấu kín trong những dòng nhạc đã mua cho anh ở phố Ginza mấy ngày sau khi ba tôi và tôi cho anh cây đàn guitar.
    Khi đưa bị đưa máy tính cho ba tôi đem về Việt Nam, tôi cẩn thận hỏi xem ba tôi có bị xét hành lý không, thì ông vui vẻ cho biết:
    - Không, con à. Không ai xét túi của ba đâu.
    Dù tôi cũng phải thận trọng, vì chuyện này có thể đe doạ tính mạng của anh tôi, và tai tiếng của ba tôi.
    Bây giờ tôi đã có thể thảnh thơi viết cho anh một bức thơ thường của em viết cho anh. Đây cũng là bức thơ đầu tiên tôi viết cho anh, kể từ ngày tôi mò mẫm từng chữ trong quyển tập vỡ lòng vào năm 1954. Tôi cho anh biết, má tôi hay nhắc tới “thẳng con yêu quý của má” hồi mới lên 5, lên 5. Với những kỷ niệm nho nhỏ này, tôi đã cố gắng tìm cách chỉ dẫn cho anh mò ra cái bí mật mà đứa em tinh quái này gởi về cho anh. Tôi bóng gió cho anh biết trong cái máy tính, giữa những sợi dây chằng chịt có một vết đặc biệt mà anh phải cố tìm ra. Tôi nhắc lại chuyện ngày xưa, viết một câu như sau:
    “Anh có nhỏ hồi anh 6 tuổi, ba cho anh một cây harmonica, anh đã làm gì ngay đêm đó không? Em muốn anh hãy làm như vậy sau khi nhận được cái máy tính này”
    Tôi cầu Trời khấn Phật cho anh có đủ trí khôn và trí nhớ để biết tôi nhắc lại chuyện anh lấy dao cậy cây harmonica coi bên trong có gì mà phát ra những âm thanh thánh thót như vậy. Nếu anh cũng làm như vậy với cái máy tính, anh sẽ biết tôi đang hợp tác với một nhõm người có thể giúp anh trốn khỏi Việt Nam qua Mỹ. Tôi cũng dặn anh là từ nay nếu nhận được quà ở anh phải tìm ngày những tin mật tôi giấu trong món quà liên quan đến sự sống còn và tự do của anh. Chớ tôi sẽ không bao giờ gởi quà cáp mà không có giấu bí mật trong đó.
    Ngày ba tôi rời Tokyo đi Paris cũng là ngày tôi và Lance lên đường trở về Hawaii để sửa soạn cho ngày hội ngộ của ba má tại thủ đô ánh sáng, mà cũng là thù đô của một nước đã từng dầy xéo, đô hộ nước tôi suốt một trăm năm trời.


    Last edited by Hansy; 03-04-2011 at 05:09 PM.

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 34


    Như trời đã sắp xếp trước, khi tôi vừa trở về Hawaii một ngày thì John phải đi công tác hai tuần. Nhờ vậy, tôi có nhiều thì giờ chuyện với má tôi về chuyến đi gặp ba tôi ở Tokyo. Mà nóng lòng nghe chuyện về người chồng đã xa cách hơn hai mươi năm, còn tôi thì chỉ muốn kể cho nhanh, cho hết, trước khi tôi quên đi những chi tiết lặt vặt. Các chị và em tôi cũng muốn muốn biết về ba. Vì vậy, tôi cứ phải nói đi nói lại, người muốn biết thêm chi tiết chuyện này, người lại thắc mắc tại sao lại thế này, thế kia… Tôi đưa cho má tôi lá thơ của ba tôi; bà cầm vào phòng riêng. Các em tôi tò mò hỏi ba viết gì cho má. Làm sao tôi biết được'! Chị em tôi chỉ lo ba tôi trách má sao lại bỏ đi trước khi ba về Sài gòn. Tôi cũng vái cho ba tôi không trách má tôi để cho con gái lấy chồng “đế quốc Mỹ”. Khi má tôi mở cửa bước ra gặp chúng tôi, ai cũng chăm chú nhìn bà, chờ xem phản ứng. Nhưng má tôi không có vẻ xúc động mấy, và cũng không có vẻ giận hờn, chỉ hơi buồn một chút thôi. Vì sống lâu với mà, tôi hiểu rõ nỗi buồn này. Buồn pha chút thất vọng. Khi tôi nghỉ học để làm cho Phòng V, Quân đoàn 4, má tôi buồn. Lĩnh số lương đầu tiên, đưa về cho má, bà cất ba ngàn vào hộc tủ máy may mà mắt buồn hiu. Khi chúng tôi tiễn Hải Vân lên Sài gòn ở với chị Kim, chị Cương để đi học, tránh bị đi lính Việt Cộng, mà cũng buồn héo hắt. Má biểu chúng tôi ngồi vào gần quanh má để nghe thơ ba. Chị Cương mới nghe nửa đường đã ôm mặt khóc nức nở. Tôi thì không khóc, nhưng tim như bị ai bóp nghẹn. Đọc xong, má xếp lại như cũ, đưa cho chị Cương. Chị chạy vội về phòng riêng để đọc; rất lâu sau mới trở ra, hai mắt đỏ hoe. Rồi tới lượt Hoà Bình và Minh Tâm. Tôi không đọc ngay tại chỗ, mà đem thơ về nhà.
    Thơ ba làm chúng tôi khóc, mà cũng làm chúng tôi cười, khi nhắc tới những thói hư tật xấu của từng đứa con. Anh Khôi thì lúc nào cũng lo bị thất học, vì cứ phải chui rúc trong “vùng giải phóng” khỉ ho cò gáy. Hai chị Kim và chị Cương chỉ mơ ước được sống ở thành thị to nhiều tiện nghi. Hải Vân rất thông minh, còn Hoà Bình hay nhõng nhẽo. Ba cũng không quen cái tật tôi thường bỏ mứa khi ăn cơm.
    Khi chúng tôi họp nhau để bàn chuyện đi Paris của má, ai cũng biết chuyến đi này có nhiều khó khăn cho má, vì mà có nhiều “hành lý” nặng trĩu trên đôi vai gầy. Hơn hai chục năm xa cách chồng để một mình nuôi dậy đàn con nhỏ. Má đã gánh bổn phận làm cha, làm mẹ, làm thầy, làm bạn với chúng tôi trong khi ba đi theo tiếng gọi của núi sông, của lý tưởng mơ hồ. Chị em chúng tôi không ai dám hỏi thẳng má, chỉ đoán với nhau, là có thể má sẽ trở về Việt Nam với ba. Thiệt ra, chúng tôi, nếu má chịu về Việt Nam, thì nguyên nhân chính muốn gặp lại anh Khôi.
    Chị Cương và tôi biết mà đang đứng trước một sự lựa chọn quá khó khăn, tế nhị. Để mà dễ dàng trong việc lựa chọn, chúng tôi đã cho má rõ là trong suốt hai chục năm qua, má đã sống và đã cống hiến hết tuổi trẻ cho các con nhiều rồi, bây giờ là lúc má hãy nghĩ đến má, đến bản thân má. Chúng tôi nói như vậy không phải để làm vui lòng hoặc trấn an má, nhưng thực tế đã đú như vậy. Má tôi đã dành trọn tuổi trẻ và tình thương của má cho đàn con. Bà đã cho chúng tôi mái ấm gia đình, cơm no, áo ấm. Bàa đã không bỏ rơi một đứa nào trong chúng tôi. Có người bạn giầu có của má, hiếm muộn, muốn xin một đứa làm con nuôi, với hảo ý làm nhẹ bớt gánh nặng trên vai má tôi. Nhưng bà cương quyết từ chối, ôm chặt chúng tôi vào lòng những lúc khó khăn, thiếu thốn. Bà dậy dỗ chúng tôi không bằng roi vọt hay những lời trách mắng nặng nề, mà bằng những lời khuyên răn và làm gương tốt cho chúng tôi noi theo. Ngay cả vấn đề tôn giáo, má cũng không cấm đoán hay ép buộc. Hai chị tôi muốn theo đạo Thiên Chúa, má khuyên hai chị nên tìm hiểu kỹ trước khi quyết định. Theo một đạo mới, má khuyên, không giản dị như chạy theo thời trang, thay đổi một kiểu tóc, một cái áo dài hay mua một đôi giầy kiểu mới. Chừng nào thật lòng tin ở “Đức Chúa Trời” thì hãy vô đạo. Hai chị tôi vâng lời, cuối cùng đã được rửa tội. Hai chị đã trở thành con chiên của Chúa và suốt đời giữ đạo.
    Chị Cương và tôi biết má không mạo hiểm gì mà trở về Việt im, khi vừa mới thoát nạn. Nhưng có thể vì bà nhớ đứa con đầu lòng xa cách hai chục năm dài mà đổi ý, để được gặp anh Khôi. Hiểu tâm trạng của má như vậy, chị Cương cấm các em không được ngăn cản mà. Chúng tôi còn hứa với má, sẽ lo lắng, đùm bọc Minh Tâm suốt đời.
    Sở ngoại kiều ở Honolulu cho chúng tôi biết phải mất chừng bốn tuần mới lấy được giấy thông hành cho má tôi (Refugee Travel Document). Trong khi đó, ba tôi không thể chờ đợi bốn tuần ở Paris được. Muốn được việc, tôi phải tìm “tay trong” giúp thì may ra mới kịp. Tôi chợt nhớ tới viên sĩ quan làm việc cho Sở ngoại kiều mà tôi đã gặp khi tôi tình nguyện giúp người tỵ nạn ở phi trường Honolulu. Ông vui vẻ nhận lời, nên chỉ hai tuần má tôi có giấy thông hành đi Paris.
    Sau khi được fiấy thông hành, tôi đưa má tôi tới toà lãnh sự Pháp ở Honolulu để xin chiếu khán. Một bà đầm già xem đơn xong, trả lời bằng tiếng Pháp:
    - Việt Nam phải không?
    Tôi hơi bực mình vì giọng nói xách mé của bà. Tôi nghĩ rằng bà cũng như nhiều người Pháp khác, thường có mặc cảm tự tôn đối với người Việt Nam. Hình như họ vẫn tự coi là kẻ cai trị dân Việt. Tôi chưa kịp trở lại thì bà lại hỏi thêm, cũng bằng tiếng Pháp.
    - Có phải là thường trú nhân hợp pháp của Mỹ không?
    Tôi vội trả lời bằng tiếng Anh:
    - Tôi không biết tiếng Pháp.
    Bà ta tỏ vẻ ngạc nhiên, hỏi bằng tiếng Anh:
    - Cô là người Việt Nam mà không nói được tiếng Pháp?
    Tôi nhìn thẳng mắt bà, trả lời một cách thách thức:
    - Tôi là người Việt Nam, nhưng tôi không bị người Pháp cai trị.
    Bà hơi giựt mình, dịu dàng:
    - Cô ơi, cô không cần phải chua chát như vậy.
    Bà nói đúng. Tôi không nên chua chát khi đang cần họ giúp đỡ. Nhưng lúc đó, bỗng tôli nhớ tới những chuyện Tây ăn hiếp dân mình do má tôi kể lại.
    Bà đầm bình tĩnh đọc đơn của má tôi, rồi cho biết má tôi cần hai người ở Pháp bảo trợ, và giấy chiếu khán sẽ được chấp tthuận từ 4 đến 6 tuần. Hai người bảo trợ thì không khó, vì má tôi cho biết có thể nhờ vợ chồng Cúc, bác sĩ ở Paris. Vợ chồng này con của bạn ba má tôi. Người thứ hai cũng là con của bạn má tôi. Nhưng cái thời hạn thì quá dài. Tôi phải tìm cách rút ngắn. Thoạt tiên, tôi nghĩ đến toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Paris. Không biết họ có thể móc nói với một thằng Tây mẹ đầm nào khuynh tả trong bộ ngoại giao Pháp không? Tôi viết tha cho ba tôi về vấn đề này, hy vọng ba tôi có thể giải quyết nhanh chóng để gặp má tôi.
    Rồi tôi nghĩ đến Rob Hall, nhân viên của CIA. Những Rob cho biết tức khắc, là việc này “ngoài tầm tay” của CIA. Tôi nghĩ trong bụng “vậy mà người ta tưởng mấy anh đi trên nước, bước trên lửa!
    Bối rối trước nhiều bức tường, tôi chợt nhớ tới một nhân viên toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam ở Paris tên là Phan Thanh Nam. Hồi tôi sang Tokyo, ba tôi cho biết, nếu cần giúp đỡ gì khi ba tôi chưa tới Paris, có thể liên lạc với ông ta và kêu ông bằng chú. Thế là tôi vội gọi cho Nam ngay. “Chú Nam” hứa sẽ nhờ một “người bạn thân” lo ngay việc này cho má. Chỉ mới hai tuần và bốn ngày sau ngày nộp đơn ở toà lãnh sự Pháp, ba đầm gọi điện thoại báo cho chúng tôi biết là má có giấy chiếu khán. Khi chúng tôi đến toà lãnh sự; bà đầm rất ngạc nhiên, vì sự nhanh chóng khác thường. Bà đoán tôi phải quen biết nhiều người trong bộ ngoại giao Pháp. Tôi nửa đùa nửa thật nói:
    - Bây giờ tới phiên người Pháp phục vụ chúng tôi, bà ơi.
    Bá đầm thắc mắc nhìn má tôi, rồi chúc:
    - Bon voyage!
    John và tôi quyết định để Lance ở nhà với John, vì chúng tôi không muốn dậy con nói đối. Lời nói trung thực của một đứa trẻ lên 5 có thể gây mâu thuẫn giữa người lớn. Chúng tôi gửi Lance cho bà vợ một sĩ quan cùng phi đoàn với anh. Buổi chiều đi làm về John sẽ đón Lance về nhà. John còn định xin nghỉ một tuần lễ để hai cha con đi cắm trại. Tôi yên tâm đi với má tôi sang Paris.
    Khi tôi báo cho Rob Hall biết tin này qua điện thoại, ông giữ im lặng một lúc khá lâu. Không biết có phải ông giựt mình vì sự việc xảy ra nhanh chóng hơn dự tính của CIA? Mà cũng có thể ông ngạc nhiên vì tài tháo vát của người “gián điệp mới” này. Nhưng chỉ vài phút sau, tôi hiểu rằng Rob không ủng hộ chuyến đi vì lo má tôi theo ba tôi về Việt Nam thì sao. CIA đã góp công vào việc đưa má và hai em tôi sang Mỹ để bảo vệ an ninh tính mạng cho ba mới cách đó không đầy 5 tháng. Ông đề nghị tôi ghé Washington, D.C., trước khi chúng tôi lên đường sang Pháp. Tôi thắc mắc hỏi tại sao, thì ông cho biết:
    - Chúng tôi cần bàn một vài chuyện quan trọng trước khi giáo sư cô gặp ba có lần này.
    Trước khi lên đường, tôi viết cho Rob một bức thơ, cảnh cáo ông không được xâm phạm tự do riêng tư của má tôi. Nếu bà quyết định về Việt nam với ba tôi thì không nên ngăn cản, không nên hù doạ má tôi. Chúng tôi biết rằng, nếu má tôi quyết định về Việt Nam thì phần lớn là bà muốn gặp anh Khôi. Nhiều lần nói chuyện nhắc đến anh, bà không cầm được nước mắt.
    Ba ngày ở Washington, D.C, là thời gian dài vô tậ n đốt với tôi. Bà tâm sự với tôi:
    - Trong thâm tâm, mà muốn về với ba của con lắm. Nhưng quyết định của má còn tuỳ thuộc vào chính sách của cái Chánh phủ của ba con. Mà muốn biết tụi Bắc Kỳ Hà Nội đối xử với người Nam mình ra sao. Má không tin lời báo chí của phe quốc gia, má cũng không tin luôn cái miệng “chống cộng” của tụi con. Người má tin nhứt là ba con. Chắc chắn ba sẽ không gạt má kỳ này. Vậy, tụi con cứ yên tâm.
    Rob Hall đưa tôi đến “Nông trại” để gặp xếp lớn của CIA. “Nông trại” là tên lóng, gọi trụ sở bí mật của trùm CIA Jerrie Parker. Trên đường tới “nông trại”, Rob cho biết ông trùm muốn gặp tôi để chào đón tôi mới gia nhập “công ty”. Nhưng khi ngồi nói chuyện với ông Jerrie Parker tôi mới biết rằng “con mồi” mà CIA nhắm là anh Khôi của tôi.
    Anh tôi đã từng học ở Hà Nội, Bắc Kinh và Liên Xô. Anh tốt nghiệp với bằng kỹ sư tên lửa. Nhưng, đủ là con một nhà cách mạng, anh lại có tâm hồn phóng khoáng, thầm mơ ước cuộc sống tự do bên cạnh mẹ và các em của anh. Vì vậy, anh không phải đảng viên cộng sản.
    Khi thấy Jerrie Parker quan tâm nhiều đến anh Khỏi, tôi thận trọng, dè dặt khi trả lời những câu hỏi về cá nhân anh muốn anh. Ông muốn ở lại Việt Nam vài năm, làm việc cho CIA, rồi sẽ tìm cách đưa anh ra khỏi nước. Đã hai chục năm này, kể từ ngày ba tôi đi tập kết, tôi phải lăn xả vào đời để giành một chỗ đứng danh dự. Tôi chỉ tin có má tôi và… chính tôi thôi. Vì vậy, lời gứa của ông Parker tôi bỏ ngoài tai, không tin mà cũng không giận hờn: Tôi thầm nhắc nhở mình, rằng CIA đã có nhiều kinh nghiệm về Việt Nam. Họ đã từng đi giầy, đi guốc, đi cả dép râu trên quê hương tôi. Mỹ đã từng đem tầu há mồm đến Hải Phòng đem người Bắc di cư vào Nam cho tới ngày ông đại sứ Martin ôm lá cờ Mỹ chạy. Trong khi đó, tôi chỉ mới biết CIA không đầy 3 tháng. Ba tháng là 100 ngày, một thời gian qua ngắn ngủi, cứ như một giấc chiêm bao.
    Khi tôi bắt đầu làm việc cho CIA, người ta đã bắt tôi ký một văn kiện có nhiều quy luật. Những đối với tôi, quy luật nào cũng theo được hết, miễn không làm điều gì hại đến ba tôi, dù tôi vẫn biết ba tôi luôn luôn trung thành với đất nước, mà đất nước tức là Đảng. Những đối với anh Khôi thì khác. Anh như con tầu mắc cạn, con chim bị nhốt trong lồng. Anh khao khát được sống như mọi người bình thường khác. Tôi không ngần ngại tìm cách giúp anh thoát khỏi cái nhà tù khổng lồ đó.




    _____________________________

    Chương 35


    Việc đầu tiên khi chúng tôi đến Paris, là tôi phải liên lạc ngay với Rob. Rob Hall và chúng tôi đi cùng chuyến bay, nhưng ngận ra nhau ngày từ phi trường Dulles ở Washington, D.C, đến phi trường Charles de Gaulle. Thế rồi Rob cũng ở chung khách sạn Sheraton với chúng tôi. Một tiếng đồng hồ sau khi vào khách sạn, theo chỉ dẫn của Rob, tôi xuống lầu, đi xem các cửa tiệm trong khách sạn, mua sắm lặt vặt vài thứ. Sau đó, tôi trở lại thang máy, nhưng tôi không lên tầng lầu 6, nơi chúng tôi đang tạm trú, mà lên lầu 3. Tôi lên xuống ba lần, đến lần thứ tư thì Rob đã chờ sắn ở cửa. Nhưng chúng tôi không chào nhau, coi như không quen biết nhau. Khi mọi người đã ra hết, chỉ còn mình tôi, ông bước vào, rồi chúng tôi đi lên. Ông vừa nói “welcome to Paris” vừa trao cho tôi một hộp diêm quẹt giấy của khách sạn. Đến tầng lâu 4, thang máy ngừng lại, mở cửa, ông bước ra, tôi tiếp tục đi lên tầng lâu 6 để về phòng. Khi đã đóng hẳn cửa, tôi mở hộp diêm để biết số phòng của ông. Năm phút sau tôi đến gặp ông để bàn về chuyện ba má tôi. Nhiệm vụ của tôi là phải quan sát và theo dõi những cán bộ Cộng sản chung quanh hai người, rồi báo cáo cho Rob.
    Về phòng, tôi hỏi má tôi đã sẵn sàng gặp ba tôi chưa, bà tươi cười đáp “Chưa!”. Chưa bao giờ tôi thấy một má tôi vui vẻ như lúc này. Má tôi trẻ hẳn lại. Có phải bà đang nao nức gặp lại người chồng đã xa cách hơn hai chục năm? Má tôi hát “Ngày trở về” không biết mấy trăm ngàn lần. Nhưng cái vẻ tươi vui, rạng rỡ của má tôi biến mất đi. Ba trở nên đăm chiêu, lo nghĩ. Tôi ngồi xuống cạnh má, hỏi nhỏ:
    - Má nghĩ gì? Sao tự nhiên má buồn?
    Ná tôi khẽ thở dài:
    - Má buồn cho hoàn cảnh ngang trái của mình. Chỉ còn vài phút nữa, má được gặp ba con, đáng lẽ mừng lắm, vậy mà má không thể dẹp qua cái giận hờn cái “đảng” của ba. Ba biết má thương ba, nhưng ba làm bộ như má cũng thích cái đảng của ba.
    Tôi đề nghị:
    - Má, quan trọng nhứt là mình cho ba biết, mình thương ba, nhưng mình ghét cái đảng của ba. Con nghĩ, như vậy ba sẽ hiểu thấu xương thấu tuỷ của mình.
    - Nếu má có theo ba về lại Việt Nam thì cũng chỉ vì thằng con của má, anh Khôi của con thôi.
    Tôi nói ngay bằng một giọng tha thiết:
    - Mà sẽ không làm gì được cho anh Khôi đâu, má à. Đừng về vì ảnh, chỉ về cho má thôi.
    Má tôi nghẹn ngào, nước mắt chảy dài trên má:
    - Ít nhứt mà cũng chịu khổ với ảnh…
    Tôi năn nỉ:
    - Bây giờ mà chỉ nên nghĩ tới ba thôi. Một lát nữa gặp ba, má ráng nói ngọt, ba mình ưa ngọt lắm.
    Ba lấy khăn chấm nước mắt, rồi đứng lên xuôi xị:
    - Được rồi, cho má gặp ba con đi.
    Giọng bà đầy miễn cưỡng, không có vẻ rộn ràng như cái áo dài mới má đã ủi thẳng máng trên móc áo.
    Để sắp xếp cuộc gặp gỡ, tôi gọi toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam, xin nói chuyện với Phan Thanh Nam, người đã giúp chúng tôi lấy được giấy chiếu khán cho má tôi. Như tôi biết, ba tôi đã tới Paris từ ngày 14 tháng 9 và rất nôn nóng chờ tin má tôi. Khi được Nam chuyển điện thoại, ba tôi hỏi ngay địa chỉ của khách sạn, để sai nhân viên tới rước. Tôi đợi ông đến gặp chúng tôi ở khách sạn, nhưng ông cho biết theo ông phải ở trong cơ quan. Tôi nói đùa:
    - Thì lâu lâu ba phạm luật một lần cũng đâu có sao!
    Ba tôi cười, rồi cho biết ông và “chú Nam” sẽ đến khách sạn ngay. Tôi hơi bực mình vì “chú Nam” chen vô cuộc gặp ba má tôi, làm mất hết ý nghĩa của phút giây đoàn tụ của hai vợ chồng.
    Tôi xuống đón ba tôi và “chú Nam” để đưa lên gặp má. Tôi thấy chú Nam không có dáng của một nhà ngoại giao. Chú có dáng vẻ khắc khổ, chừng 55 hay 56 tuổi. Chú lùn, nhưng người vạm vỡ, da đen xạm, môi chì. Khi chú đưa tay ra bắt tay tôi, tôi thấy hai ngón tay chú vàng khè vì khói thuốc lá. Chú vui vẻ hỏi:
    - A, cháu đây là người đã nói chuyện với chú trong điện thoại. Quite an operator.
    Tôi hơi giựt mình vì tưởng bí mật của tôi đã bị… bật mí. Tôi cố giữ bình tĩnh, nhìn thẳng mắt chú như chờ đợi, thách thức. Chú Nam nói tiếp:
    Chú rất ngạc nhiên khi cháu gọi chú lần đâu.
    Tôi vui vẻ hỏi:
    - Bộ từ hồi nào đến giờ không có ai gọi chú từ bên Mỹ sao?
    Tôi cũng muốn nhân dịp này tìm hiểu chú, để có lợi cho công tác của tôi sau này. Chú đáp:
    - Có, có người gọi chú từ Mỹ chớ, nhưng không phải…
    Thấy chú ngần ngừ, tôi nói tiếp để trả lời:
    - Một người Việt Nam không phải là Việt Cộng?
    Chúng tôi cùng cười phá lên, làm cho bầu không khí bớt căng. Chú Nam sau đó giới thiệu anh Phạm Gia Thái, một sinh viên Hà Nội du học Pháp. Giọng Hà Nội của anh nghe thật êm tai. Anh cao hơn chú Nam, tất nhiên, người ốm yếu. Anh cận thị, mang kiếng dầy cộm như cái đít ve chai, nhưng tôi cũng nhận thấy đôi mắt lé của anh sau cặp kiếng. Anh mặc sơ mi trắng tay dài, bên ngoài khoác thêm một jacket kiểu Members Only mầu xanh dương, quần kaki xanh. Anh có dáng dấp của một thư sinh, con nhà gia giáo, lịch sự, dịu dàng, dễ thương. Nhưng tôi anh làm “nghề” sinh viên, vì đã trên dưới 40 tuổi. Anh sẽ lo cho chúng tôi trong thời gian chúng tôi lưu lại Paris. Sau tôi mới khám phá ra rằng tôi đã đánh giá anh quá thấp trong mọi hoạt động của Việt Cộng ở Paris.
    Chú Nam đề nghị với ba tôi là chúng tôi nên dọn về sứ quán ngay đêm đó; hôm sau anh Thái sẽ đưa chúng tôi đến biệt thự của Chánh phủ cách mạng lâm thời Miền Nam Việt Nam ở vùng Verrieres-la-Buisson. Đây là nơi mà cộng sản đã dùng nơi trú ngụ cho phái đoàn trong thời gian có hội đàm Paris. Tất nhiên là tôi muốn biết nơi đó lắm, nhưng lại không muốn mang ơn, và không thích ngủ dưới cùng một mái nhà với cộng sản. Tôi cần tự do đi lại để có thể liên lạc dễ dàng với CIA. Ngoài ra tôi cũng ngại đó là một cái bẫy? Tôi từ chối, nói rằng tôi sợ Bộ ngoại giao Hà Nội không muốn người có quốc tịch Mỹ ngủ trong biệt thự đó. Khi về Mỹ, tôi cũng có thể bị rắc rồi. Tôi hứa sẽ đi xe lửa tới thăm ba má tôi hàng ngày. Chú Nam nghe xong, tỏ vẻ bực mình, lạnh nhạt nói:
    - Tuỳ Mỹ Dung, miễn sao tiện cho cháu. Những chú cần cho cháu biết, là sẽ không có xe đưa rước cháu hàng ngày đâu.
    Tôi trấn an:
    - Chú khỏi lo. Cháu sẽ đi metro, chớ không làm phiền ai hết.
    Anh Thái thì ngạc nhiên, nhìn tôi đăm đăm mà không nói gì hết. Tôi thầm nghĩ, tôi cũng liều khi dám trả treo với Việt Cộng trên xứ lạ của thằng Tây. Hai mươi năm trước, tôi mới ra sống noi thị thành sau mười năm trong bưng biến, rừng rú. Nay mới 29 tuổi, lần đầu tiên tới thủ đô ánh sáng, chữ Tây đã trả tại thấy hết, may ra chỉ còn sót lại mấy chữ thông thường. Vậy mà dám tính di chuyển bằng xe điện ngầm. Hồi đó, ông ngoại thường nhắc nhở: “Đường đi ở cửa miệng”. Cứ hỏi những người chung quanh thì cũng có thể đi đến nơi về đến chốn.
    Khi tôi đưa mọi người lên phòng, cửa vừa mở, ba má tôi nhìn nhau sững sờ. Rồi ba tôi ôm choàng lấy với má tôi, cả hai cũng khóc trước một chúng tôi. Nhưng hai cụ phải cố kìm xúc động để thăm hỏi nhau một cách trang trọng, vì có hai người lạ. Nếu không phải là người Việt, tôi có thể thẳng thắn mời chú Nam và anh Thái đi chỗ khác chơi, để ba má tôi được tự do bày tỏ tình cảm sau một thời gian dài xa cách, nhớ nhung. Trong phủ giây đầy cảm xúc này, mà có hai cán bộ cộng sản chứng kiến, quả thật bẽ băng quá chừng đi. Đáng lẽ chính họ phải tự ý rút lui để tỏ ra mình là người lịch sự hiểu biết chớ. Nhưng họ cứ trơ trẽn đứng ỳ tại đó một cách thô bỉ. Khoảng 15 phút sau, anh Thái cho biết phải về sứ quán vì có buổi họp, chú Năm cũng về theo việc hẹn. Đáng lẽ ba tôi có thể ở lại khách sạn với chúng tôi, nhưng theo luật của cộng sản, cán bộ cao cấp phải có người bảo vệ (rình rập, kiểm soát?), nên không thể ở lại một mình được, phải đi theo họ. Chú Nam mời má tôi cùng đi cho tiện. Má tôi từ chối hẹn ngày mai về thẳng biệt thự ở Verrieres-la-Buisson. Sau khi tiễn ba người lên xe về sứ quán, tôi phải gặp Rob Hall để báo cáo. Tôi nhớ lời dặn của ông, là khi đã gặp cán bộ cộng sản, tôi sẽ bị chính cộng sản và cơ quan phả gián Mỹ theo dõi. Tôi lại phải dùng cái mẹo vặt lần trước, là đi lên đi xuống, ra vào thang máy nhiều lần, rồi gọi cho Rob bằng điện thoại công cộng. Khi gặp Rob, tôi cho ông biết mọi chi tiết. Ông có vẻ tiếc, là tôi không đến ở biệt thự của Mặt trận giải phóng miền Nam, vì nơi đó là một kho báu chứa nhiều tài liệu bí mật về cuộc hoà đàm Paris.
    Sáng hôm sau, ba tôi và anh Thái tại rước chúng tôi. Anh cho chúng tôi được đến vào thăm sứ quán của chính phù cách mạng lâm thời, vì các nhân viên ở đây nôn nóng muốn gặp má tôi và tôi. Trong phòng tắm, má tôi nói nhỏ với tôi, là má không muốn gặp “ông kẹ” nào hết, nhưng không thể từ chối, để ba tôi vui lòng.
    Sứ quán là nhà số 44 Avenue de Madrid ở vùng Neuilly-sur-Seine. Trên đường đi, anh Thái cho biết chú Nam sáng nay bận gặp mấy người “bạn Mỹ” nên không thể đi cùng. Nhưng khi tới sứ quá,, tôi thấy chú ăn mặc xuề xoà, ngồi cạnh bàn viết đọc cuốn “Inside the Cơmpany CIA Diary” của một cựu trùm CIA Phillip Agee. Quyền sách này đã gây sóng gió ở Washington nửa tháng trước, nhưng tôi chưa có dịp đọc. Tôi bước nhẹ tới sau lưng chú, rồi chỉ quyển sách hỏi:
    - Ôn bài, hả chú Nam?
    Chũ bẽn lẽn như con nít bị bắt quả tang đang ăn vụng. Chủ ngượng ngùng đáp:
    - Không, chủ thực hành Anh ngữ.
    Chú vội vàng xếp quyền sách lại, cùng tôi đi ra phòng khách. Tại đây, tôi thấy ba má tôi đang nói chuyện với mấy nhân viên, trong đó có một người tên là Như Phi mà chú Nam giới thiệu “thơ ký” của sứ quán. Sau này, tôi mới biết bà là vợ của nhà vật lý Jean Kaplan, làm việc cho French National Scientific Research Center. Tôi sực nhớ hồi tháng 3, người gọi tôi từ Paris biểu tôi lo đưa má tôi và hai đứa em cũng là Jean Kaplan, không lẽ ông Jean Kaplan này? Mà thôi, cũng có thể trùng tên, cũng như Việt Nam mình có bao nhiêu ông Trần, ông Đặng. Tôi cũng được gặp ông Thanh, tài xế của toà đại sứ. Thật ra, chức vụ tài xế chỉ là bề ngoài; ông chính là một sĩ quan tình báo, cánh tay trái của Phan Thanh Nam.
    Chúng tôi cũng được giới thiệu với một số nhân viên của ngoại giao đã làm việc dưới quyền của ba tôi. Một người hãnh diện khoe rằng ông đã chăm sóc ba tôi khi ba tôi bị bịnh vào mùa đông ở Moscow, và được đưa sang Paris dưỡng sức vào mùa xuân năm 1972.
    Đứng giữa phòng khách nguy nga, tráng lệ của toà đại sứ, thảm đỏ dưới chân, với những bình bông đầy hoa tươi, với những bộ bàn ghế kiểu Tây phương quý giá, tôi chợt nhớ tới phòng làm việc của ba tôi ở một xứ hẻo lánh trong vùng giải phóng trước năm 1954. Tôi cảm thấy mình xa lạ với căn phòng lộng lẫy này, dù những người chung quanh đều tỏ vẻ thân mật với tôi.
    Khi ba má tôi vào phòng riêng để nói chuyện vài phút. Thái đưa tôi đi thăm sứ quán của Mặt trận giải phóng miền Nam một vòng. Anh tặng tôi một lá cờ của Mặt trận và cho biết lá cờ này đã được treo trước toà đại sứ lâu ngày. Tôi thầm nghĩ tôi đang cầm trong tay một di tích lịch sử. Vậy má tôi không mảy may xúc động như khi tôi nhìn thấy lá cờ vàng ba sọc đỏ. Sau này tôi tặng lá cờ đó cho Rob Hall để kỷ niệm ngày tôi “vào đồn giặc”. Những Rob cũng không muốn giữ nó, lại đem tặng ông chánh văn phòng của CIA tại Paris. Lá cờ được treo trên tường trong mấy ngày như một “chiến lợi phẩm” của mấy tay thợ săn.
    Trước khi trở lại phòng khách, tôi vào nhà vệ sinh. Khi mở đèn sàng, tôi lạnh toát người vì thấy trên sàn nhà có mấy lá cờ của Việt Nam Cộng hoà chung quanh cầu tiêu. Tôi cúi xuống, định cuốn mấy lá cờ lại, những chúng nặng trĩu nước. Tôi bỗng nhớ đến lá cờ phủ trên quan tài của em Hải Vân và những bạn bè chết trận. Cũng là lá cờ vàng ba sọc đỏ. Tôi nghen ngào nuốt nước mắt. Sau đó, tôi không còn biết gì nữa.
    Tôi xỉu đi không biết bao lâu, mấy người trong toà đại sứ không thấy tôi, phải chạy đi tìm. Họ gõ cửa ầm ấm phòng tắm làm tôi tỉnh lại. Tôi nghe tiếng ba tôi. Tôi vội nắm lấy áo ông, kéo vô phòng tắm, rồi đóng cửa lại ngay. Cũng chả có cần mọi người nghĩ gì lúc đó.
    Tôi chỉ xuống sàn nhà tám. Tôi nói vừa nghiến răng:
    - Ba coi nè, tụi này là do thú vật. Con sẽ trả mối thù này. Con thề với ba đó.
    Nói xong, tôi đẩy ông ra ngoài và lại đóng của. Tôi có vắt cho ráo nước lá cờ bị ướt, rồi lấy lá cờ khô gói lại, cất hết vô trong bóp. Về khách sạn, sau mấy tiếng đồng hồ cân nhắc, không còn cách nào hơn là gói mấy lá cờ trong bọc nylon, rồi miễn cưỡng nhẹ nhàng để vào thùng rác, như một kẻ hèn nhát. Khi về Mỹ,, chị em tôi hỏi sao tôi không giữ làm kỷ niệm? Tôi cho biết cứ lần nhìn thấy nó, tôi lại căm hờn cái đám người trong toà đại sứ quán.
    Nhưng chỉ hôm sau, tôi biết rõ hơn về “ý đồ” của CIA. Khi đọc bản báo cáo của tôi về chuyện viếng thăm sứ quán Mặt trận giải phóng miền Nam. Rob tỏ vẻ thất vọng, nhất là về mấy lá cờ Việt Nam Cộng hoà. CIA đâu cần đếm xía gì tới sự sống còn của Việt Nam Cộng hoà, kể cả nói đau khổ của người dân miền Nam sống dưới ách độc tài đảng trị của cộng sản. Họ chỉ cần tôi báo cáo những gì liên quan tới họ, những gì mà CIA muốn biết. Họ yêu cầu tôi vẽ lại sứ quán, rồi chỉ rõ cho ông biết một số chỗ như chõ nào là phòng khách, chỗ nào Phan Thanh Nam thường ngồi ăn uống, chuyện trò riêng tư, phòng làm việc cho nhân viên, chổ để điện thoại của phòng khách, v.v… May mà tôi mới vào sứ quán ngày hôm qua, nên còn nhớ rõ mọi thứ.

    _____________________________

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 36



    Tối hôm đó, chúng tôi được mời dùng cơm tại một nhà hàng Việt Nam trong quận 5 Paris. Cũng đi với chúng tôi có chú Thanh và anh Thái. Chủ nhà hàng là một người đàn ông Việt Nam chừng 45 tuổi, tên là Giang. Chắc anh ở Pháp đã lâu, có vợ đầm; tên chị Giang là Simone. Chị có vẻ hiểu nhiều về phong tục Việt Nam. Chị mừng rỡ khi thấy ba tôi bước vào nhà hàng, đã chạy ra đón, rồi hôn hai má ông. Anh Giang cùng tay bắt mặt mừng. Anh chị đều tỏ vẻ mừng rỡ khi ba tôi giới thiệu má và tôi. Anh cung kính chào má tôi, rồi nói:
    - Bác Nam và chúng cháu chỉ mong có ngày hôm nay, bác ơi! Gia đình bác được đoàn tụ, rồi đây đất nước mình sẽ yên vui.
    Chị Simone cung kính chắp tay lên ngực chào má tôi cung cách Việt Nam.
    Anh chị bắt tay tôi, rồi anh nói:
    - Chị giống bác trai quá. Chúng tôi rất mừng được chung vui bác Nam và gia đình chị ngày hôm nay. Rồi mình sẽ về quê hương với dân tộc mình, chị Dung ơi.
    Niềm vui lên cao, tôi lay cái vui của anh Giang. Tôi nghe có tiếng reo vui của dân tộc tôi đâu đây. Tôi hình dung ra đêm trăng sáng không còn tiếng súng. Ba má tôi sẽ dậy sớm đun nước pha tra để đối ẩm. Ban ngày thì đi thăm ba con lối xóm Cần Thơ, bên Ba Càng. Rồi tôi sẽ về thăm Cần Thơ… Nhưng tiếng ồn ào chung quanh kéo tôi trở lại thực tế.
    Simone đem ra một chai Johnny Walker đen, chưa khui, kéo một ly nhỏ để trước mặt chú Nam. Khi bắt đầu kêu món ăn, ba tôi nói:
    - Đây là bữa cơm đặc biệt, tôi phải uống rượu ăn mừng.
    Mọi người đều vui vẻ tán thành. Ba tới kêu một chai Cognac Rhone. Tôi cũng hay uống rượu nhưng giấu má tôi, nên Nam định rót rượu cho tôi, thì tôi vội từ chỏi. Lúc má tôi ra phòng tắm, tôi nói nhỏ với chú:
    - Chú cháu mình còn nhiều dịp uống rượu với nhau khi cháu đã về Việt Nam.
    Chú gật đầu cười đồng loã.
    Bữa cơm thịnh soạn, toàn những món ngon, đặc sản của miền Nam, vì anh Giang là người Sóc Trăng. Trước khi mang món ăn ra, anh nói:
    - Hôm nay chúng cháu chỉ đãi hai bác và chị các món ăn của dân Nam mình, không có món Bắc kỳ nào.
    Nghe giọng nói của anh, và nhớ lại thái độ của mấy người trong nhóm Mặt trận giải phóng miền Nam, tôi đoán có chuyện lủng củng gì giữa họ với Bắc Kỳ. Con anh Thái thì thuộc phe nào? Anh trung lập, hay là tai mắt của đại sứ Hà Nội, đi theo để dòn chừng ba má tôi?
    Về công tác tình báo của tôi, cho đến lúc ấy vẫn chưa rõ rằng. Rob chỉ dặn đi dặn lại là tôi cứ theo dõi những gì đang xảy ra trước mắt. Vì vậy, suốt bữa ăn, tôi để ý nhiều đến chú Nam và anh Thái. Chỉ mới uống có một ly rượu, mắt anh đã đỏ như gấc chín. Con chú Nam thì đã uống gần một phần tư chai Whiskey mà mặt cứ tái xanh, nặng như chì.
    Tôi dặn lòng là phải giữ gìn lời ăn tiếng nói, không uốn lưỡi đủ bảy lần thì cũng phải sáu lần. Tôi còn cố gắng xài những từ Việt Cộng, tuỳ cơ ứng biến, như một con cắc kè thay đổi màu sắc tuỳ theo hoàn cảnh. Vậy mà khi chú Nam khen đi khen lại rằng tôi tài tình khi tìm ra ba tôi ở Tokyo, tôi nói phần lớn cũng nhà tự do báo chí mà tôi tìm được ba tôi. Báo Japan Times đã đưa tin ngay phái đoàn của Mặt trận giải phóng miền Nam đến Tokyo. Khi nghe tôi nói vậy, mọi người trong bàn đều im lặng, một sự im lặng ngột ngạt, khó chịu. Ba tôi thì nhìn tôi bằng cặp mắt nghiêm nghị, trách móc. Má tôi đá nhẹ chân tôi dưới gầm bàn.
    Hồi nhỏ dì Bảy tôi dậy, trước khi nói phải suy nghĩ. Có thật không? Có cần nói không? Có tử tế không? Đúng 100%, không cần nói cho lắm. Có gì mà không tử tế, khi đó là sự thật ai cũng biết.
    Phan Thanh Nam chú động trong cuộc nói chuyện. Chú đặt nhiều câu hỏi riêng tư cho người đối thoại, vì vậy, tôi khó đoán nổi trong cái đầu hoa râm của chú đang thật sự nghĩ những gì. Tôi phải thận trọng khi nói chuyện với chú.
    Trước hết, chú hỏi tôi đến Mỹ bằng cách nào. Tôi cứ thật thật mà trả lời:
    - Cháu nghe nói Mỹ là nước tự do, có nhiều cơ hội để tiên thân và có thể tìm đến ba cháu được. Rõ ràng là cháu đang ngồi bên ba cháu nè.
    Chú đột ngột hỏi:
    - Cháu làm gì ở Mỹ?
    Chú nhìn tôi không chớp mắt, trong khi đó anh Thái xích lại gần chú hơn để nghe tôi trả lời.
    Tôi thành thật đáp:
    - Cháu dậy tiếng Việt cho quân đội Mỹ ở Fort Bliss tại tiểu bang Texas một thời gian, rồi sau đó cháu dọn qua Monterey, tiểu bang bằng California.
    Chú lại hỏi bằng một giọng nữa tò mò nửa nghi ngờ:
    - Làm sao cháu được chọn để dậy cho chánh phủ Mỹ?
    Tôi đáp ngay, không một chút rụt rè, suy nghĩ:
    - Chắc chú còn nhớ đại tá Phạm Ngọc Thảo, bị giết trong cuộc đảo chính ở Biên Hoà? Bà đại tá Thảo là…
    Chú cướp lời tôi:
    - Chị Phạm Thị Nhiệm, người của mình, Mỹ Dung biết không?
    - Cháu hy vọng là như vậy, bà ấy giúp cháu khi cháu dậy học.
    Phan Thanh Nam gật gù, mặt tươi hẳn lên, rồi nói với giọng đắc ý:
    - Mặc dù cháu phải sống xa ba cháu, không được ba chỉ dẫn nhưng cháu đã gần gũi với những người chính đáng. Chú rất hài lòng.
    - Con của ba cháu không có đi lạc đường đâu, chú!
    Chú lại hỏi:
    - Khi dậy lính Mỹ, cháu nói gì với họ về chiến tranh Việt Nam? Cháu có nói cho họ biết là sự có mặt của Mỹ là một sai lầm to lớn của chánh phủ họ không?
    Nghe hỏi, tôi nhớ ngay đến chiến dịch tuyên truyền của cộng sản. Cán bộ được đưa vào các trường dậy tiếng Việt ở Mỹ. ngoài giờ dậy, chúng la cà làm quen với các lính Mỹ, rồi xúi bảy họ đào ngũ. Bọn lính trẻ này là bọn bỏ học, bỏ nhà đi lính. Họ chưa bao giờ nghe nói tới Việt Nam, cũng không biết Việt Nam nằm ở chỗ nào trên trái đất nữa, thế mà khi nghe nói tới các mật khu sình lầy, rắn rết, thì họ đã hết hồn, có đường đào ngủ là thần tiên cho họ rồi. Dù sao họ cũng con là con nít, học hành dở dang.
    - Đó là một chiến dịch mật, cháu không được tuyển chọn, vì cháu còn non nớt, nhưng cháu biết tới chiến dịch đó.
    Phan Thanh Nam nhìn tôi chậm chạp, rồi nói với giọng nghiêm trang:
    - Thôi, Mỹ Dung à, chiến tranh đã chấm dứt, những dịp cho cháu đóng góp cho đất nước vẫn còn chờ cháu, nếu cháu muốn.
    - Nếu cháu muốn? Dĩ nhiên là cháu muốn chớ, chú Nam!
    Tôi vội trả lời như một Việt kiều nhẹ dạ, nghe mà mắc cỡ.
    Nam gật gù:
    - Chú cháu mình cần nhiều thời giờ ngồi lại với nhau sau khi ba má cháu về thành phố Hồ Chí Minh. Sẵn đây, chú báo cho cháu biết: Sài gòn đã đổi tên.
    Dù đã biết trước khi mất nước, nhưng nghe Phan Thanh Nam nói, tim tôi đau nhói. Sài gòn mất tên; Sài gòn không còn nữa.
    Sau bữa ăn, tôi hỏi nhỏ ba tôi là tôi có nên trả tiền cho anh Giang không, vì tôi biết tất cả mọi người trong sứ quán đều nghèo tả tơi? Ba tôi chưa kịp trả lời, thì Phan Thanh Nam nói:
    - Anh là người trong nhà cả. Bữa nay anh chị Giang đãi ba má cháu và cháu.
    Tôi không ngờ, truyền thống “dân phải nuôi đảng viên để đảng viên nuôi đảng” lại tràn sang tận Paris, dù xa cách rừng U Minh cả ngàn vạn dặm.
    Trên đường về, Nam cho biết các Việt kiều ở Paris đã tích cóp, đóng góp cho cách mạng. Họ đã hiến tiền bạc, thì giờ, phương tiện theo khả năng của họ. Có như vậy, cách mạng mới thành công.

    ***
    Hôm sau, tôi không tới Verrieres-la-Buisson thăm ba má, ở lại Paris để dò đường, tìm cách vô toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Trước khi đi, tôi nói với Rob, nếu 12 giờ khuya mà không trở về khách sạn, tôi muốn xác của Phan Thanh Nam treo ngược đầu trong phòng làm việc của ông giam đốc CIA. Câu nói nửa đùa nửa thật của tôi đã làm Rob lo lắng. Tôi mừng thầm sự lo lắng này, vì tôi không muốn họ quá tin tưởng vào sức tôi, rồi đưa tôi vào một hoàn cảnh khó khăn, nguy hiểm. Cho tới lúc đó, CIA chưa chánh thức huấn luyện tôi về chuyên món: hoàn toàn trông cậy vào cái khéo léo xứ sự của tôi thôi.
    Rob lo lắng hỏi:
    - Nếu cô không hoàn toàn thoải mái thì đừng đi.
    Tôi đáp:
    - Không bao giờ tôi thoải mái khi tới gần Việt Cộng, nhưng việc phải làm thì phải làm.
    Rob nhanh nhảu chúc tôi đi may mắn.
    Rob lớn hơn tôi chừng 10 tuổi, nên trong thời gian chúng tôi cùng làm việc, ông thường kêu tôi là kiddo (con nhỏ).
    Ở Paris, Rob chỉ dẫn tôi đủ mọi điều, nhưng lại quen không chỉ cho tôi cách đi xe điện ngầm ở Paris. Tôi phải lần mò, hỏi han người khác, rồi cũng đi được một chuyến metro từ khách sạn Montparnasse. Rồi lại phải tìm một hồi lâu mới biết đường tới Avenue de Madrid, nhưng tìm hoài mà không biết có đi đúng đường không, đành đi về hướng Neuilly, rồi đi taxi.
    Sứ quán của Mặt trận giải phóng miền Nam có bức tường cao che kín. Tôi bấm chuông ở cổng, nhưng không nghe ai trong intercome. Khi nhìn lên lầu, tôi thấy một người đan ông đứng bên cửa sổ văn phòng chú Nam nhìn xuống. Sau đó, tôi nghe có tiếng mở khoá cổng. Chú “tài xế” Thanh đón tôi vô. Lúc này chú có vẻ trịnh trọng và khách sáo. Chú dân tôi vào phòng khách và chỉ một cái ghế mời tôi ngồi chờ.
    Phan Thanh Nam có vẻ ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi, có thể ông lại cho là dịp tốt để khai thác tôi. Chúng tôi rời phòng khách, đi xuống phòng ăn của cơ quan. Phòng nhỏ ở trong bếp lạnh lẽo, vừa bước vô tôi nghe mùi thuốc lá hôi hám. Mùi đồ nấu ăn, mùi nước mắm quen thuộc. Nơi đây rất yên lặng, thuận tiện cho trùm gián điệp cộng sản tìm một tài năng mới.

    Không để mất thì giờ, chú đi thằng vào vấn đề. Chú hỏi về chồng con của tôi. Tôi không biết chú biết về gia cảnh của tôi đến đâu, tôi nghĩ, nói ít và nói thật là thượng sách. Chú hỏi rất nhiều chồng tôi, hỏi cả về gốc rễ, từ đâu di cư sang Mỹ. Tôi nói bên nội, bên ngoại của John là người Nam Tư. Chú nhận định y như ba tôi đã nói: “Như vậy, anh ấy không xa lạ gì với mình”. Tôi nghĩ bụng: “Ngu gì mà ngu thể! Ông bà của người ta di cư qua Mỹ để tỵ nạn cộng sản, ông Việt Cộng ơi!”. Nhưng tôi không dám nói ra.

    Nam tằng hắng, vẻ mặt trở nên nghiêm trọng. Tôi bình tĩnh sửa soạn tinh thần. Chú hỏi:
    - Chồng cháu làm nghế gì?
    Tôi giật mình và khó chịu, vì ở Mỹ không ai hỏi nhau làm việc gì. Nhưng tôi hiểu ngay rằng, dù làm trong ngành ngoại giao, Nam cúng vẫn chỉ là một kẻ xuất thân từ rừng U Minh, kinh nghiệm hơn là suốt đời lẩn lút trong bóng tối.
    - Anh ấy có bằng về thiên văn học và hải dương học, hiện đang làm cho đài khí tượng ở Hawaii.
    Phan Thanh Nam xoa hai tay vào nhau như thể cho ấm trong căn nhà bếp lạnh lẽo này. Nhưng nhìn mặt chú, tôi đoán biết ý muốn của chú. John Krall là một con mồi hấp dẫn của chú.
    - Nếu chú cháu mình khéo léo hỏi chồng cháu giúp mình, thì anh ấy sẽ có lợi ích cho Việt Nam vô cùng.
    Tôi giả bộ khờ khạo hỏi:
    - Chú có thể nói rõ hơn chú muốn gì không?
    - Chưa, chưa tới lúc. Chú cần nghiên cứu thêm. Những phải nói là vào địa vị ấy, chồng cháu sẽ đem lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, và chú sẽ tạo cho cháu một chỗ đứng tốt trong xã hội.
    Chỉ mới nghe Nam nói, tôi đã thấy mình có tội với dân tộc và những người di tản. Tôi có thể kể chuyện này cho CIA, nhưng làm sao tôi dám mở miệng nói với John. Tôi biết anh sẽ giận lắm.
    Nam nhìn tôi đăm đăm, rồi hạ thấp giọng hỏi:
    - Cháu có yêu nước không, Mỹ Dung?
    Tôi thầm nghĩ là ông này dám chọc cọp Thị Nghè thì cũng gan dạ thiệt. Tôi liền đáp một cách dõng dạc:
    - Cháu dám nói chắc với chú là cháu yêu nước hơn chú!
    Mắt chú mở to ra, và đôi môi chì mím lại. Tôi tiếp tục nói:
    - Cháu sanh trưởng ở miền Nam, con của một nhà cách mạng, cả gia đình cháu bên nội bên ngoại đều chống Pháp. Cháu lớn lên với đất nước, đã biết yêu, biết thương dân tộc, đã chia sẻ mọi đau khổ theo vận nước thăng trầm. Xác của em cháu, bạn cháu, trong lòng đất nước, bạn học cũng trường của cháu mất tích trong rừng, dưới sông, dưới biển… Trong khi đó, ở bên Tây, chú rheo dõi chiến tranh trên truyền hình, qua báo chí… Làm sao chú có thể yêu nước bằng cháu?
    Nói xong, tôi nhìn chú không chớp mắt. Chú binh tĩnh, đáp:
    - Hồi còn ở bên nhà, chú ở trong bộ đội. Như ba cháu, cũng hy sinh đời chú cho cách mạng. Chú không có thời giờ riêng cho chú, nên cũng không dám nghĩ đến chuyện vợ con.
    Chớ không phải bắt chước “bác Hồ” ở vậy không nuôi con. Tôi nghĩ thầm, rồi mỉm cười.
    - Không lập gia đình, chú cũng không mất mát gì lắm đâu. Vợ là nợ. Có vợ có con rồi đùm nhau để tản cư chạy giặc cực lắm!
    - Sao cháu biết?
    - Chú quên là trước khi đi Mỹ, cháu ở đâu sao? Cháu chạy giặc từ hồi cháu mới chập chững biết đi mà, chú.
    Phan Thanh Nam đổi đề tài:
    - Cháu nên thuyết phục má cháu trở về Việt Nam. Đó là thượng sách.
    Tôi đáp ngay:
    - Gia đình cháu có truyền thống tự do. Bất cứ ai quyền lựa chọn theo ý mình. Má cháu muốn về Việt Nam hay ở lại Mỹ là quyền của má cháu. Chị em cháu không được xía vô, không xúi má về, cũng không giữ má lại. Chị em cháu đã bắt tay nhau đồng ý như vậy rồi.
    Nam ngập ngừng:
    - Đôi khi người già không đủ sáng suốt để tính toán quan trọng, mình phải giúp ý kiến…

    Khi nghe Nam đánh giá thấp má tôi, coi bà như một bà già không đủ minh mẫn, tôi giận lắm, những phải cố nén xuống để khỏi đập tay lên bàn. Tôi lấy giọng ôn tồn nói:
    - Chú Nam, có thể chú chỉ biết ba cháu thôi, vì hai người là đồng chí. Bây giờ cháu xin nói về má cháu cho chú nghe, để chú biết má cháu. Bà đã tự do kết hôn với ba cháu. Khi biết ông theo cộng sản, bà vẫn lo tròn bổn phận một người vợ đảm đang, một mẹ hiền trong gia đình, dù ba cháu vắng mặt. Cháu dám quả quyết với chú là má cháu vượt xa hẳn những người đàn bà từng là “cách mạng”. Mà cháu thông minh, nhìn xa, hiểu rộng, chắc chắn không phải là một “bà già trầu” như chú tưởng. Bà chưa già, mới có 60 hả. Nếu có đầu thai lại 25 lần nữa, ba cháu cũng không thể tìm được một người đàn bà nào như má cháu để làm bạn đời đâu. Má cháu cũng không thương ai bằng thương ba cháu. Vì vậy, cháu đâu cần thuyết phục má về Việt Nam với ba cháu.
    - Tại sao lúc đó má cháu bỏ nước ra đi vậy?
    Vừa hỏi, Nam vừa móc túi lấy một cuốn số nhỏ để ghi.
    - Cháu sợ Sài gòn tắm máu như Việt Cộng doạ, nên phải tìm cách đưa bà ra khỏi cho nguy hiểm.
    - Tự cháu về Sài gòn rước má?
    Nam nhìn tôi bằng đôi mắt nghiêm nghị hỏi. Tôi lắc đầu:
    Ước gì cháu làm được việc đó. Chồng cháu phải về để cứu má và hai em cháu.
    Nghe nói có cả hai đứa em, Nam nhóm người lên, nói như ra lệnh:
    - Hai em cháu cũng phải trở và Việt Nam!
    Tôi nhún vai:
    Tuỳ tụi nó, chú à. Gia đình cháu là gia đình tự do, dân chủ, không ai có quyền ép buộc người khác làm điều trái ý của họ. Chị em cháu sẽ ăn thịt cháu, nếu cháu định chơi trò độc tài.
    Nam giũ im lặng một lát, rồi nghiêm giọng nói:
    - Mỹ Dung, cháu đừng quên là hai em của cháu có bổn phận phải về Việt Nam vì danh dự của ba cháu. Chúng nó sẽ làm tổn thương danh dự của ba cháu khi con cái của ba cháu đều sống trên đất nước của kẻ thù dân tộc.
    Tôi đưa hai lấy lên ra dấu cho Phan Thanh Nam bỏ qua đề tài này, rồi gạt đi bằng một giọng quả quyết:
    - Mình không nên để mất thì giờ cho việc này. Cháu không có ý kiến hay ảnh hưởng nào tới sự quyết định của em cháu.
    Nhưng Nam vẫn nói:
    - Khi má cháu vế rồi, cháu nên thuyết phục hai em cháu phải về theo.
    - Tại sao?
    - Ba của cháu là một vị đại sứ nổi tiếng ở Moscow. Các chị Liên Xô của ba cháu đã ký hộ chiếu cho má cháu ghé thăm Liên Xô trên đường trở về Việt Nam. Họ còn có nhã ý mời ba cháu đi máy bay Aeroflot từ Paris qua Moscow, rồi về Hà Nội không mất liền. Cháu có thấy đó là một vinh sự lớn cho gia đình cháu không?
    Tôi bướng bỉnh nói:
    - Cháu hiểu. Được Liên Xô ưu đãi là một vinh dự đối với chú và ba cháu. Nó hoàn toàn vô giá trị đối với cháu.
    - Khi mà cháu trở về Việt Nam là một thắng lợi nữa cho chúng ta, và cho Việt Nam nữa.
    Tôi đáp ngay với giọng mỉa mai:
    - Mà cháu ở đậu, có ăn nhậu gì đến ai. Má chỉ là một trong mấy trăm ngàn người tỵ nạn đến Mỹ mà thôi. Nếu Nguyễn Cao Kỳ xin tỵ, nạn chánh trị ở Hà Nội mới là chuyện đáng nói. Báo chí cả thế giới sẽ đăng tin này trên trang nhứt. Còn má cháu? Hay em cháu?
    Nam lắc đầu:
    - Mỹ Dung, cháu sai lầm rồi. Má cháu không phải là người tầm thường, mà là vợ của một vị đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam. Mà cháu là nạn nhân của một cuộc bắt cóc do CIA chủ mưu. Họ bắt má cháu đi để làm mất mặt Chánh phủ cách mạng. Việc mà cháu trở về có thể ví như một cái tát vào giữa mặt tổng thống Ford và chánh phủ Mỹ.
    Tôi giận đến run người khi nghe Phan Thanh Nam nói má tôi là nạn nhân của một vụ bắt cóc do CIA tổ chức. Như vậy, từ nãy tới giờ, ông không tin chồng tôi đã về Việt Nam rước má Mỹ. Để lấy lại bình tĩnh, tôi xin phép đi vào nhà vệ sinh, ra, tôi thấy trên bàn có hai chai bia. Tôi liền từ chối. Ông rót bia ra và mời tôi.

    Dường như Phan Thanh Nam đã có một loạt câu hỏi, và nóng này chờ tôi trả lời. Ông nhắc tới Hải Vân, em tôi. Tôi nghĩ rằng đời em không có gì phải giấu, vì em đã sống một cách hồn nhiên và danh dựr. Nhưng tôi lại nghĩ, anh cán bộ cộng sản này không xứng đáng nghe về em tôi.
    Phan Thanh Nam dựa lưng vô ghế, nhìn tôi với vẻ mặt thách đố, nói:
    - Cháu đừng quên những kẻ đã giết hại em cháu. Cháu phải bắt họ phải trả một giá thật đắt, phải chịu một hình phạt cho xứng đáng cho cái tội đã làm gia đình cháu đau khổ.
    Tôi không còn kiên nhẫn với nghệ thuật vụng về của Phan Thanh Nam nữa.
    - Cái chết của em cháu là bị thảm của gia đình cháu, chú Nam.
    Nhưng Phan Thanh Nam luôn luôn có giải pháp cho mọi vẫn đề, ông nói:
    - Gia đình của ba cháu cũng là gia đình của cách mạng. Mấy chú, mấy bác rất xót xa. Bây giờ lại được gặp má cháu và cháu, thì càng tội nghiệp hơn nhiều.
    Nói gì đây, với một người Cộng sản đang gieo mầm thù hận vào lòng tôi! Mục đích của tôi hôm nay là tìm hiểu con người ông, để đối phó với ông sau này. Biết đâu, có một ngày nào đó, tôi sẽ cho ông vào cái bẫy, mà chính ông đang muốn đẩy tôi vô? Nghĩ vậy, tôi phải tìm những lời nhẹ nhàng, để làm vui lòng ông:
    - Cháu mừng được gặp đồng chí của ba cháu. Cháu cần học với chú nhiều lắm. Ít nhứt cháu cũng phải hiểu việc làm của ba cháu, ý nguyện của ông, mục đích của ông, để có thể tiếp tay ba, nếu cho phép.
    Nam hãnh diện ra mặt, nói:
    - Chú sẵn sàng chỉ dẫn cho cháu khi ba cháu vắng mặt. Cháu có thể đóng góp thật nhiều cho công cuộc xây dựng lại đất nước chúng ta, bằng cách dùng khoa học, kỹ thuật của Mỹ. Bằng cách hày bằng cách khác, Mỹ phải có bổn phận xây dựng đất nước chúng ta.
    Tôi hùa theo:
    - Tối hôm qua, cháu nghe chú và ba cháu nói về chuyện Mỹ phải bồi thường chiến tranh. Vậy, theo chú, Mỹ nợ Việt Nam bao nhiêu?
    - Theo hiệp định Paris, họ nợ mình ba tỷ rưỡi Mỹ kim.
    Tôi biết câu nói sắp đến không nên nói, nhưng tôi hết kiên nhẫn với người nói ngang nói ngược rồi; có bị bắt bẻ, tôi sẽ nói là tôi không biết.
    - Rủi Mỹ nhắc cho Hà Nội nhớ lại là theo hiệp định Paris, Hà Nội không được thôn tính miền Nam. Chừng đó ăn làm sao, nói làm sao? -. Tôi hỏi.
    - Cháu ngây thơ lắm. Mình đâu có thôn tính miền Nam. Đúng hơn là mình giải phóng miền Nam khỏi tay để quốc Mỹ và bù nhìn! - Ông cười đắc ý.
    - À, cháu quên là Hà Nội giải phóng miền Nam.?
    Nam lại nói với một giọng hăm hở:
    - Khi về Mỹ, cháu phải vận động người Mỹ đòi hỏi Chánh phủ của họ phải tôn trọng Hiệp định Paris.
    Tôi thầm tự hỏi, tôi sẽ vận động ai? Bọn phản chiến đã chạy qua Gia Nã Đạii? Hay vận động thượng nghị sĩ Gorge McGovern? Thấy tôi mỉm cười vu vơ, Nam hỏi tôi nghĩ gì, tôi đáp:
    - Cháu đang nghĩ xem cháu có thể vận động ai được, người đó có đủ khả năng để thức đẩy quốc hội Mỹ chấp thuận đề nghị này không?
    Nam vội hỏi:
    - Ai vậy?
    Tôi cười:
    - Thượng nghị sĩ McGovern.
    Nam có giọng nghiêm trang:
    - Chú đã nghiên cứu về các thượng nghị sĩ Mỹ. Chú thấy ông McGovem là một trong số ít người có tinh thần phóng khoáng. Ông là người mà chung ta có thể tin tưởng được.
    Trời! Tôi thầm cầu xin tôi không phải là loại người “phóng khoáng” như ông cán bộ cộng sản này nói tới. Nếu “phóng khoáng” như vậy, tôi sẽ trở thành một thứ bù nhìn có lợi cho cộng sản. Tôi tự hỏi, không biết thượng nghị sĩ McGovem đã làm gì cho Hà Nội chưa? Tôi hỏi Nam:
    - Tại sao chú nghĩ ông ấy là người phóng khoáng?
    - Điều rõ ràng nhất là ông ấy chống chiến tranh.
    Tôi nghĩ rằng chú Nam hơi tầm thường, nhưng tôi lại nữa đùa nửa thật nói:
    - Chú à, cháu còn phải học chú nhiều lắm!
    Chú không hiểu ý tôi. Vừa lúc đó, có người vào bếp để sửa soạn bữa ăn trưa. Tôi muốn ở lại để tìm hiểu chú nhiều hơn, nhưng hôm nay tôi cho như vậy là đủ rồi, nên tôi xin phép ra về, dù chú cô giữ tôi lại.
    Vừa ra khỏi toà đại sứ, tôi đi thật lẹ như muốn chạy cho xa chỗ này, rồi kêu xe taxi để về khách sạn. Tôi cảm thấy tôi dơ bẩn, vì đã đi vào toà đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam, nói chuyện với cộng sản bên ly trà. Việc đầu tiên khi về đến khách sạn, tôi đi tắm gội, rồi bỏ hết quần áo vô bao để bỏ giặt ủi.


  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 37

    Cửa sổ phòng khách sạn Sheraton của tôi trông ra nghĩa trang Montparnasse. Sau khi tắm cho sạch hết những dơ bẩn của toà đại sứ, tôi đứng bên cửa sổ, đem tâm hồn trở về với cái thân mệt mỏi này. Một ý nghĩ vui vui hiện lên trong óc tôi. Trong nghĩa địa kia có người lính nào tử trận Điện Biên Phủ nằm không? Nghĩ tới cuộc chiến tranh của thực dân Pháp trên quê hương, tôi lại ghét thằng Tây nhiều nữa. Ác cảm của tôi với nước Pháp ở ngày một tăng, trong thời gian tôi ở đây. Cho tới cái tay vịn cầu thang bằng đồng cũng làm tôi nhỏ đến đạn đồng, bom đạn quân đội viễn chinh Pháp trút lên quê hương tôi.
    Tôi lắc đầu để có quen đi dĩ vãng, rồi đi ăn trưa và nghiên cứu bản đồ xe điện ngầm, tìm đường tới biệt thự của Mặt trận giải phóng miền Nam thăm ba má tôi. Khi ra khỏi trạm xe điện ở vùng ngoài ô Paris, tôi mở cửa một xe Taxi, đưa cho tài xế địa chỉ của biệt thự tại 49 đường Cambaceres.
    Ông tài xế liền hỏi tôi:
    - Bà định đến cơ quan của Việt Cộng?
    Khi tôi xác nhận bằng tiếng Anh, ông ta hỏi tôi có biết Pháp không. Tôi phải thú thật là tôi không biết. Ông bèn vén đồ thun lên để cho tôi thấy hai chữ “Việt Nam” xâm trên vai. Ông cũng cho biết ông đã từng ở Việt Nam năm 1952 và 1953
    Tôi hỏi ông có biết tiếng Anh không thì ông lấy tay ra hiệu “Biết chút chút”. Tôi liền hỏi:
    - À. Việt Minh đuổi ông xuống tầu?
    - Bà là Việt Cộng?
    - Không, tôi là người Quốc gia.
    Ông vui vẻ nói:
    - Tốt! Tốt!
    Rồi ông bắt đầu cho xe chạy. Khi đến nơi, ông cựu lính viến chinh không chịu thối tiền cho tôi, viện cớ không có tiền lẻ. Tôi tức giận định la ông, thì chợt trông thấy ba má tôi đứng trên bao lơn biệt thự nhìn xuống. Cảnh êm đềm hiếm có ấy làm tôi nguôi giận. Tôi vội vàng mở của xe bước ra.
    Má tôi đi vào phòng. Cảnh này làm tôi nhớ lại thời chúng tôi tầng lấu hai, chung cư trên đường Nguyễn Văn Sâm. Sài gòn. Má tôi thường đứng trên bao lơn đợi chúng tôi đi làm về. Khi thấy bóng chúng tôi, bà vội vào nhà để mở cửa cho con.
    Một ông già, hình như là một người giúp việc, đón tôi ở cửa, và nói bằng một giọng chân tinh:
    - Rất vui mừng được đón tiếp cô ở đây.
    Tôi chắp tay, cúi đầu chào ông theo kiểu Việt Nam. Ông cũng cúi khom lưng để đáp lễ. Tôi kêu ông bằng “ông Các”. Nhưng sau đó ba tôi dặn tôi kêu là “bác Các” cho thân mật.
    Trời tháng 9 của Paris có thể dễ chịu với người Pháp, nhưng lại lạnh đối với một người Việt Nam như má tôi. Bà đã quen khí hậu nóng ở Việt Nam và Hawaii. Bà đứng cạnh một bồn bông súng, mặc cái áo len dầy và trùm kín đầu bằng một khăn quàng mầu đỏ. Trong khi đó, ba tôi chỉ mặc một chiếc do sơ mi tay dài. Bác Các đưa chúng tôi vào một phòng khách và mang trà nóng ra. Sau đó, bác xuống nhà bếp để sửa soạn bữa ăn tối cho chúng tôi. Bác cho biết đây là một dịp đặc biệt, nên bác tự tay nấu nướng, dù bác nấu cũng không ngon lắm. Để tăng cường cho bác, sứ quán gọi hai người đàn bà tới phụ. Họ là hội viên của Việt kiều yêu nước.
    Sau khi bác ra khỏi phòng, má tôi và tôi nhìn nhau, không nói một lời, nhưng đều có ý không thích những người này ở gần chúng tôi i. Má tôi chỉ muốn được ở bên ba tôi mà không bị ai nhòm ngó, rình rập. Má tôi muốn tìm hoàn toàn ba tôi hơn, sau hai mươi năm xa cách. Má tôi cũng muốn biết ba tôi nghĩ gì về cuộc “giải phóng” tại quê nhà.
    Lợi dụng khi ba tôi ra khỏi phòng mấy phút, tôi hỏi má tôi thấy thể nào khi được gặp lại ba tôi. Má tôi khóc, bà nói:
    - Má muốn cho con biết để con yên lòng, là ba con muốn má về Việt Nam với ba. Còn họ, tụi Nga muốn má về, nên đã làm ầm ĩ chuyện này để tuyên truyền. Ba con chua dám nói thiệt với má, nhưng má đã biết hết rồi.
    Tôi xác nhận:
    - Má à, con nói chuyện với chú Nam, thì ra ý đồ của họ là như vậy. Con không quan tâm về chuyện tuyên truyền của họ; con chỉ muốn biết, khi má trở về Việt Nam, mà có được ăn toàn không?
    Má tôi nghẹn ngào nói:
    - Thằng John đã liều mạng, không kể hiểm nguy cho nghề nghiệp, để cứu má và hai đứa nhỏ. Không có một lý do nào, mà má phụ hết công lao do của vợ chồng con.
    Tôi vội lắc đầu lia lị, nói:
    - Đó là bổn phận của tụi con trong giờ phút đó. Quên công lao đó đi. Đó là chuyện quá khứ. Con nói chuyện bây giờ nè, má có về Việt Nam với ba không?
    Bà chưa kịp trả lời thì ba tôi trở vào phòng, ông ngỏ ý muốn đưa tôi đi xem quanh nhà, mà ông kêu là “biệt thự lịch sử” tỏ ra hãnh diện về ngôi nhà này. Thật ra thì cũng đáng hãnh diện vì đây là nơi trú ngụ của các lãnh tụ nổi tiếng trong khi dự hoà đàm Paris. Đó là ông Lê Đức Thọ và bà Nguyễn Thị Bình và nhiều nhân vật nổi tiếng khác nữa. Cũng chẳng có gì nhiều để coi vì nhà đang sửa lại, đồ đạc chất đống trong một căn phòng Nhưng tôi phải tỏ ra thích thú và thán phục khi đi vòng quanh nhà, cho ba tôi vui.
    Ngay cả khi chúng tôi nói chuyện về ngôi nhà, tôi thấy ba má tôi có vẻ buồn trong ánh mắt. Tôi thấy mình bất lực. Dù sao tôi cũng là người ngoài cuộc: chỉ có ba má tôi mới giải quyết chuyện riêng của hai người. Khi chúng tôi còn sống ở Sài gòn chị em tôi thường kêu tôi là người có “ba đầu sáu tay”, vì tôi có khả năng giải quyết nhiều chuyện khó khăn trong gia đình. Bây giờ mà có 6 đầu 18 tay cũng bất lực, vì đây là chuyện chỉ có thể giải quyết giữa hai trái tim.
    Ba tôi vui lắm bên vợ con, dù hoàn cảnh qua mong manh:
    - Ba à, con mơ ước ngày đoàn tụ của mình lâu quá rồi!
    Ba tôi vui vẻ nói:
    - Ba phải công nhận rằng con rất có công trong việc này. Con đã thu xếp cho má sang đây với ba, ngồi cùng một phòng nói chuyện với ba.
    Má tôi nói:
    - Con không thể nào chạy nửa vòng trái đất để được gặp ba con vài ngày, vài tuần, sau lưng đảng của ba con. Tới lúc con phải hiểu, những điều kiện nào hai cha con mới được gặp nhau?
    Trời ơi, má tôi đi guốc trong bụng cộng sản, mới hiểu mà thắc mắc vấn đề này. Chắc má tôi nghĩ rằng, tôi đã phải tuân theo những điều kiện của cộng sản, để được gặp ba tôi. Ba tôi nhắc má tôi:
    - Chuyện riêng tư thì từ từ giải quyết!
    Má tôi có giọng bất mãn:
    - Ở Nhựt, ông đã không dám cho “đồng chí” của ông biết nó là con gái ông. Tôi không thích như vậy!

    Tôi nháy mắt ra dấu cho má tôi hay giữ bình tĩnh, và đừng vì tôi mà trách móc ba tôi. Thật ra, hồi ở Nhựt tôi đau lắm, những tôi cho rằng đó là điều cần thiết, để ba tôi giữ uy tín với các cán bộ cộng sản, khi được chút tự do ra khỏi nước. Nếu cộng sản biết được rằng các con của ba tôi hiện sống ở Mỹ, vẫn tìm cách liên lạc với ông, thì chắc chắn họ sẽ không cho ông được hưởng chút tự do nào nữa.

    Bữa ăn tối rất ngon, với nhiều món đặc biệt và thuần tuý Việt Nam. Tôi ăn như người bị đói, đến nỗi ba má tôi hỏi tôi có ăn nữa không?

    Khi bác Các và hai người đàn bà dọn cơm xong, họ đóng cửa đi xuống nhà bếp; chúng tôi nói chuyện gia đình, nhắc tới những ngày xa xưa. Ba má tôi nói tới con cái, cả những tánh tốt lẫn điều xấu. Khi má tôi khen tôi - rất hiếm khi tôi được khen như vậy - bà cho biết các con đã tận tình săn sóc bà. Khi phê bình tôi, bà nói:
    - Con nhỏ này làm tôi bạc đầu, cho tới khi nó đi lấy chồng. Nó đúng là con gái của anh.
    Ba tôi cười và khen má tôi đã dậy dỗ chúng tôi nên người, rồi ba tôi nói tới Hoà Bình thì hai mắt của ông sáng lên. Ông vừa nói vừa nhìn tôi:
    - Ba nhớ Hoà Bình… hồi ở Kim Qui trời đẹp, mình hay ăn bên ngoài cái sân nước trước nhà. Nó cứ nhảy xuống sông, con mau mau nhảy theo với nó; ngày nào nó cũng làm vậy, và lần nào con cũng nhanh nhẹn nhảy theo vớt nó lên. Ba nhớ con chó của mình, nó hay nằm giữ Hoà Bình lắm.
    Tôi hỏi:
    - Ba có nhớ có lần ba làm thứ nước mắm không?
    Ba tôi chưa kịp nói gì, thì má tôi đã xen vô:
    - Tôi khổ vì hai cái thùng nước mắm thúi quắc đó.
    Chúng tôi cười phá lên vui vẻ. Sau đó, ba tôi hỏi má tôi làm gì hai thùng nước măm của ông? Bà đáp:
    - Anh không tin đâu, có một gia đình tới hỏi mua hai thùng nước mắm đó. Chắc họ muốn nuôi ruồi sau hè.
    Ba tôi vui vẻ nói:
    - Nước mắm của anh làm ngon hơn nước mắm em mua ở tiệm.
    - Đúng! - Má tôi vừa cười vừa nói bằng một giọng trêu ba tôi - Tằm của anh nuôi kéo nhiều tơ hơn tằm của người ta. Còn con của anh thì khôn hơn con của người ta vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dưa leo anh trồng lớn hơn dưa leo của anh Mười Cừ. Mía của anh cũng ngọt hơn mía của người khác trồng.
    Ước gì có chị em cũng chia sẻ những giây phút thần tiên đó.
    Hôm đó, có một người đàn ông ghé qua villa trong Verrieres-la-Buisson gặp ba tôi. Trong khi người tài xế của ông ngồi đợi trong xe, ông và ba tôi kéo nhau vào phòng khách để nói chuyện. Vì phòng đang được sửa sang, nên không có bàn ghế gì hết, hai người phải đứng bên cửa sổ thì thầm.

    Má tôi về phòng nằm nghỉ. Nhận lúc vắng vẻ, tôi lọt vô để xem xét, thăm dò. Trong một văn phòng sát phòng ngủ của má tôi, tôi thấy có nhiều ngăn đựng giấy tờ, có cả những ngăn chứa toàn hồ sơ cũ, giấy đã ngả sang mầu vàng. Tôi vuốt nhẹ tay những tờ giấy vàng đó, và nghĩ rằng những hồ sơ này có nhiều giá trị đối với chánh phủ Hoa Kỳ, mà tôi nên đọc qua, hoặc định chụp hình để đưa cho Rob. Nhưng phòng này không đủ ánh sáng nên máy hình của tôi không chụp được. Tôi đóng cửa phòng rồi bắt đầu quan sát. Tôi không dám bật đèn, vì sợ người tài xế Mercedes từ dưới nhìn lên có thể thấy rõ. Tôi mở một ngăn và đọc sơ qua một vài trang giấy, thì mới biết cái bàn này là của bà Nguyễn Thi Bình, bộ trưởng ngoại giao của Chánh phủ cách mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Tôi kéo ghế ngồi xuống. Tôi đọc lướt qua một vài tờ giấy nữa, rồi cảm thấy mắc cỡ vì ba ta cũng là một phụ nữ Việt Nam, mà lại phục vụ cho một tà đạo.

    Trong ngăn kéo, có một lá thơ của một người đàn bà Mỹ chúc bà Bình gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp trong hội nghị hoà đàm Paris. Người đàn bà này ca tụng bà Bình là một con người bản chất yêu chuộng hoà bình. Đoạn cuối của bức thơ, ba yêu cầu bà Bình và chánh phủ Hà Nội cũng như chánh phủ lâm thời miền Nam hay thả các tù binh Mỹ. Bà cho biết, cháu bá đã bị ép phải chiến đấu cho chánh phủ bù nhìn Nam Việt Nam và đã bị bắt àm tù binh.

    Bà Bình đã phê vô cuối lá thư: “Bà này điên khủng quá, không trả lời”.

    Lá thơ thứ hai của bà mẹ một anh lính trẻ đang chiến đấu ở Việt Nam. Bạ tự nhận là một người “phản chiến”. Bà khẩn khoản xin bà Bình và Chánh phủ Hà Nội cố gắng chấm dứt chiến tranh, và hỏi bà có thể làm gì, để giúp Mặt trận giải phóng miền Nam dứt chiến tranh.

    Tôi tin rằng em trai tôi sẽ không bao giờ cho phép má tôi đi xin với kẻ thù chấm dứt chiến tranh, để nó được về nhà với má.

    Bà Bình viết vào lá thơ cho thơ ký trả lời: “Bà này có thể khuyên con trai đời bồi thường khi nó về Mỹ, nhưng đừng viết vào thư trả lời. Bảo bà ấy hãy vận động và liên kết với hàng xóm giềng, chống chính sách của Chánh phủ về chiến tranh tại Việt Nam. Đồng ý với bà ấy là con bà phải được ở cạnh bà, chớ không phải ở Việt Nam”.

    Lá thơ thứ ba của một cô gái Mỹ, bầy tỏ lòng ngưỡng mộ bà Bình và “những cố gắng của bà để tiến tới hoà bình trên tổ quốc của bà. Tôi hổ thẹn làm công dân Mỹ trong giai đoạn này, Việt Nam là nước duy nhứt bầy tỏ lòng yêu chuộng hoà bình”. Lá thơ còn tỏ ra thiếu dè dặt khi cô gái viết: “Tôi mong rằng nhờ dân tộc Việt Nam mà chúng tôi có thể thấy lại được ánh sáng cho nước tôi, sau những ngày đen tối. Hơn thế nữa nước Mỹ hiểu rằng, dù là một cường quốc cũng phải tôn trọng hoà bình. Bà Bình viết cho thơ ký: “Tiếp tục gửi tài liệu cho cô gái này và cho người của chúng ta tiếp xúc với cô ấy. Đây là nhân vật có thể xài được”.

    Tôi định đọc tiếp, thì nghe tiếng ba tôi kêu. Tôi ngó qua lỗ khoá, thấy ông đang đứng giữa nhà nhìn dáo dác tìm tôi. Tôi mở cửa, lẻn ra, và rón rén bước xuống cầu thang ra vườn, vào nhà trở lại; tránh cho ba tôi thấy tôi trở ra từ văn phòng bà Bình.
    Tôi ghẹo ba tôi:
    - Việt Cộng gian ác tới gặp ba chi vậy?
    Ba tôi cười nụ cười héo hắt, trả lời:
    - Đó là nhân viên toà đại sứ đến lấy giấy tờ của má để chiếu khán cho má về Việt Nam, qua ngả Mạc Tư Khoa.
    Tôi không hiểu ba tôi có biết tôi cất giấy tờ của má tôi trong tủ sắt trong khách sạn không? Ba tôi cho nhân viên toà đại sứ biết rằng, má tôi còn cần suy nghĩ thêm một thời gian nữa. Tôi thấy đây là một chuyện rất khó khăn cho ba má tôi, khi phải đối mặt với thực tế. Nó có thể làm tan vỡ ảo tưởng về sự sum họp tại ngôi biệt thự này. Ba tôi có vẻ lo lắng trong khi má tôi lại tỏ ra chán nản. Tôi nhìn bà, định nói một câu gì, nhưng bà đã lên tiếng trước:
    - Tui không thích bị dồn vô cái thế này… đừng có để ai ép buộc tui.
    - Ai ép má? - Tôi hỏi.
    Ba tôi liền đi ra khỏi phòng, mà không nói một lời nào. Tôi im lặng nhìn theo ba tôi, rồi đến ngồi lên mép giường má nằm. Bá nói:
    - Họ tới cho ba con biết họ đã giữ chỗ cho ba má trên chuyến bay đi Mạc Tư Khoa, rồi về Hà Nội vào cuối tuần.
    Tại sao người ta lại sắp xếp ngày giờ cho ba má tôi đi? Hai người muốn đi chừng nào thì cho họ biết, chớ tại sao họ bắt ba má tôi biết chừng nào phải đi theo chỉt thị của họ? Hồ đó đến giờ, chưa có ai biểu má tôi đi thì đi, ở thì ở bao giờ.
    Chuyện này làm tôi nhớ lại một câu chuyện cổ tích đọc hồi nhỏ. Người ta tin có thiên đàng và địa ngục. Sưd giả của địa ngục là bọn quỷ sứ thường đi đón người sắp chết để về “dưới đó”. Một hôm, quỷ sứ đến gặp một bà già đang ốm nặng: “Mời ba đi. Đã đến lượt bà rồi”. Bà già cố ngồi gượng dậy và quát lớn: “Cút đi! Đến lượt nhà ngươi chớ không của ta,. Ta đợi con trai của ta con đi đánh giặc chưa về. Con của ta sẽ trở về sau cuộc chiến tranh để lấy vợ và sanh cho ta lũ cháu nội!”.

    Ba tôi để hai mẹ con tôi ngồi nói chuyện, rồi lên giường nằm ngủ.
    Lại sợ “vách có tai”, nên mà nắm tay tôi dẫn ra ngoài sân nói chuyện. Bà kể, bà hỏi ba tôi nửa đùa nửa thật:
    - Khi tôi về bên nhà, tụi “cán ngố” nó làm gì tôi hả anh?
    Ba tôi nhăn mặt:
    - Sao em dùng danh từ không hay chi vậy em?
    - Người người trong Nam của tui nói sao, tui nói vậy!
    Anh nợ em nhiều lắm, không làm sao trả hết, vì vậy, anh phải nói thật với em để sau này em không trách anh. Em về, các anh sẽ mời em lên nói chuyện. Có thể em sẽ đi họp vài ngày, rồi em về với anh.
    Má tôi nói lại rằng ba vừa tội nghiệp, vừa thương ba tôi, khi nghĩ rằng ông đã lấy hết can đảm, hết tình chồng vợ mà trút hết sự thật với má tôi, nhưng bà cũng la lên:
    - Vác cái mặt lên cho mấy thằng đó mắng chưởi chớ gì!
    - Không có có ai dám xúc phạm em, nhưng đi học tập ít ngày rồi về!
    - Tôi khôn hơn ông Hồ Chí Minh của anh, thương dân thương nòi hơn anh Ba Duẩn của anh, thì ai mà dậy tôi để mà học với tập! Thôi, tôi không về, cho đẹp lòng hai bên.
    Má tôi kể lại. Bà thấy ba tôi không nói, mà im lặng cả buổi trưa.
    Tôi thầm nửa mừng, nửa xót xa khi biết má tôi đã từ chối đường về Sài gòn. Tôi can má dùng giận ba tôi, vì đó không phải là ý của ông. Công bằng mà nói, cả tuần này ba tôi chịu má, nhượng bộ hết.


    ***


    Tôi gọi cho Rob nhiều lần, khi tôi đã trở về khách sạn vào 9 giờ tối, nhưng không gặp ông. Rỗi rảnh quá, tôi ngồi lại ngồi viết báo cáo về cuộc viếng thăm ngôi biệt thự. Nó hai dài, tôi thiếu loại giấy đặc biệt mà ông cho tôi hôm trước, nên tạm xài thêm giấy viết thơ.
    Tôi mong Rob đến lấy bản báo cáo ngay tối hôm đó, vì không muốn để nó trong phòng tôi, lor bị an ninh Pháp, gián điệp Nga KGB lên vô phòng tìm thấy thì rất phiền phức. Tôi đi quanh phòng để kiếm một chỗ an toàn, tạm giấu bản báo cáo này trong đêm nay. Mấy bức tường thì cứng ngắc, còn thả thì đóng chặt trên sàn. Trong chỗ máng quần áo có một giàn để máng áo phía chót của cái giàn bằng sắt tròn, có cái nắp bằng cao su đậy cái lỗ của thanh sắt, tôi gỡ cái nắp cao su đó, quấn tròn mấy trang báo cáo lại, rồi bỏ vô thanh sắt, đậy nắp lại. Xong xuôi, tôi rửa mặt, xúc miệng, lên giường ngủ, ngủ ngon như một em bé.

    Khoảng mười giờ sáng Rob tôi gặp tôi. Trao ngay cho ông bản báo cáo xong, tôi cảm thấy nhẹ nhõm trong người. Ông có vẻ ngạc nhiên, vì không ngờ lại có bản báo cáo sớm như vậy. cũng có thể, tối hôm qua ông đi chơi khuya, chưa sẵn sàng làm việc sáng nay, ông gấp bản báo cáo lại, rồi cất vào túi nilon.Tôi nửa đùa nửa thật nói:
    - Nếu ông bị cướp hỏi thăm, thì cho chúng nó cái Rolex và thẻ đi metro, đừng cho nó lấy bản báo cáo nhen.
    Rob cũng mê tín dị đoan, nên nhăn mặt mà nói:
    - Cái miệng của bà linh lắm, đừng nói vậy cho.

    Khi tôi kể lại cuộc “thám hiểm” của tôi trong văn phòng bà Bình, Rob hơi giựt mình, và khuyên tôi không tiếp tục nữa. Không phải là vì an ninh của tôi mà ông khuyên như vậy. Mãi sau này tôi mới biết rằng CIA không còn quan tâm, không muốn đã động đến đám phản chiến. Từ ngày chiến tranh chấm dứt, Mặt trận giải phóng miền Nam đã bị lu mờ và bị cộng sản Hà Nội nắm hết. Bây giờ CIA chỉ nhắm vào Nam đã đốt nhịp cầu của Chánh phủ cách mạng lâm thời Nam Việt Nam, sau khi bước qua với chánh quyền Hà Nội chớ không để cho cái bóng màacủa Chánh phủ cách mạng lâm thời nhát họ nữa.

    Một buổi sáng, tôi đi xe điện ngầm từ Gaite tới trung tâm rồi đi bộ trên lề đường để xem các quầy bán sách vở. Tôi có cảm tưởng tôi đang đi trên đường Lê Lợi ở Sài gòn. Tôi thấy vui vui. Chung quanh tôi, người ta toàn nói tiếng Pháp. Sau khi ăn điểm tâm tại một tiệm cà phê đối diện với nhà thờ Notre Dame (Đức Bà), tôi quyết định gọi Thái. Anh ở nhà vợ ở Mcudon, ngoại ô Paris. Bà mẹ vợ chưa cưới của anh nói anh hiện đang làm việc ở toà đại sứ của Hà Nội. Thế là tôi biết Thái không phải chỉ là sinh viên, mà còn là một nhân viên tại của toà đại sứ.

    Tôi biết rằng nếu tôi cho bà ta biết tôi là ai, thì tôi có thể biết thêm được một số tin tức khác. Tôi liền xưng danh, và nói rằng tôi tới Paris để tham viếng ba tôi là ông Đặng Quang Minh. Ba về reo lên:
    - Tôi biết anh Minh. Gia đình tôi rất quý anh. Cảm ơn cháu đã cho biết cháu là con gái anh Minh!
    Tôi hơi có mặc cảm tội lỗi khi nghe giọng thân mật của bà. Tôi không biết nói gì hơn nữa, chỉ xin bà cho anh Thái biết tôi đã kêu. Bà liền cho tôi số điện thoại của toà đại sứ Hà Nội và đề nghị tôi gọi cho Thái để cùng đi ăn trưa. Tôi nói tôi không muốn phiền anh khi anh đang làm việc. Nhưng bà nói thêm:
    - Cháu cứ kêu Thái đi. Anh ấy chắc chắn rất vui được gặp cháu. Cũng có thể Thái sẽ đưa cháu đến Hội Người Việt và giới thiệu với ông chủ tịch hội.



Trang 3 / 3 ĐầuĐầu 123

Chủ Đề Tương Tự

  1. Những câu chuyện ngụ ngôn hay nhất thế giới
    By giavui in forum Truyện Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-03-2014, 06:01 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:50 AM
  3. Màu ngọt ngào tràn ngập street style các bạn trẻ thế giới
    By sophienguyen in forum Thời Trang Bạn Gái
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-22-2013, 12:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •