Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Khi bắt đầu yêu tức là bắt đầu bước vào cuộc sống.
Tục ngữ Pháp
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 39

Chủ Đề: Vòng Xoáy Chết

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    135
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết

    03 Rose Vòng Xoáy Chết

    Vòng Xoáy Chết

    Tác giả: Suzuki Koji

    Dịch giả: Võ Hồng Long





    Last edited by giavui; 05-01-2014 at 03:09 PM.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 8
    Ando đi cạnh Nemoto trong hành lang mờ tối của trường y. Ando mặc chiếc áo blu không cài cúc, đuôi hất ra phía sau, tay giữ chặt chiếc đĩa trong túi áo jacket. Cả Myashita và Nemoto đều không hỏi anh về chiếc đĩa. Ando không có ý giấu giếm gì. Myashita mà hỏi, anh sẽ trả lời thành thật. Nếu họ biết chiếc đĩa có thể chứa chìa khóa của toàn bộ bí ẩn, chắc chắn bây giờ hai người đó đang bám riết anh.
    Tất nhiên Ando vẫn chưa nhìn thấy những gì có trong đĩa. Luôn tồn tại khả năng chiếc đĩa chứa cái gì đó hoàn toàn khác. Anh hoàn toàn không biết gì cho đến khi xem được nó trên màn hình. Dù vậy, anh cảm thấy nó bình thường trong tay mình: chiếc đĩa ấm nóng trong túi áo anh. Nó ấm gần với nhiệt độ cơ thể. Khi chạm vào chiếc đĩa, dường như anh biết rằng nó chứa những con chữ sống.
    Nemoto mở cửa phòng xét nghiệm khoa Sinh hóa. Ando lấy chiếc đĩa ra khỏi túi áo, chuyển nó sang tay trái, còn tay phải dùng để giữ cho cửa mở.
    "Này, Ueda." Nemoto ra hiệu cho người thanh niên gầy còm đang ngồi trong góc phòng.
    "Vâng?"
    Ueda xoay ghế về phía Nemoto, nhưng không đứng dậy. Nemoto tiến lại gần, mỉm cười, và đặt tay lên vai Ueda. "Máy xử lý văn bản của cậu có bận dùng gì bây giờ không?"
    "Không, không cần lắm."
    "Tuyệt. Cậu có phiền nếu bác sĩ Ando đây mượn nó một lúc được không?"
    Ueda ngước nhìn Ando và cúi đầu. "Xin chào."
    "Xin lỗi về chuyện này. Tôi có một chiếc đĩa cần phải mở, và nó không tương thích với máy của tôi." Ando đến cạnh Nemoto, giơ chiếc đĩa lên.
    "Anh cứ dùng đi," Ueda nói, lấy chiếc máy xử lý văn bản nằm ở sàn nhà gần chân anh ta đặt nó lên bàn.
    "Cậu có phiền không nếu tôi kiểm tra nó ngay tại đây, chỉ để chắc chắn thôi?"
    "Không sao đâu."
    Anh mở nắp máy xử lý văn bản và bật lên. Ngay sau đó menu chính xuất hiện trên màn hình. Trong số các tùy chọn được hiển thị, Ando chọn DOCUMENTS, rồi cho đĩa vào. Màn hình tiếp theo có hai tùy chọn. NEW DOCUMENT và OPEN DOCUMENT. Ando di chuyển con trỏ đến tùy chọn thứ hai và rồi nhấn tiếp. Với một tiếng kêu ro ro, máy bắt đầu đọc chiếc đĩa. Cuối cùng, tên của các file lưu trong đĩa xuất hiện trên màn hình.
    RING 9 1990/10/21
    RING 8 1990/10/20
    RING 7 1990/10/19
    RING 6 1990/10/17
    RING 5 1990/10/15
    RING 4 1990/10/12
    RING 3 1990/10/07
    RING 2 1990/10/04
    RING 1 1990/10/02
    Ando đọc các tên phai như mê sảng. "Ring, ring, ring, ring..."
    Ring!
    Cái quái gì thế này? Đúng từ mà anh tìm được khi giải mật mã lòi ra từ thi thể Ryuji.
    "Anh có sao không?" Nemoto nói, vẻ lo lắng. Anh ta nhìn vào vẻ mặt đột nhiên sửng sốt của Ando. Ando khó khăn lắm mới gật đầu được.
    Không thể nào có sự trùng hợp ngẫu nhiên đến thế. Asakawa đã viết một phóng sự chi tiết về toàn bộ chuỗi sự kiện lạ, lưu nó lại thành chín phần, đặt nhan đề là Ring. Và rồi chính cái nhan đề đó lại lòi ra từ bụng Ryuji.
    Giải thích kiểu này thế nào đây? Không thể nào như thế.
    Ando rơi vào trạng thái đờ đẫn. Thi thể của Ryuji đã hoàn toàn trống rỗng; anh ta giờ giống như một người bằng thiếc rồi. Vậy mà mình đang nói rằng anh ta gửi cho mình một thông điệp từ ổ bụng của anh ta? Rằng anh ta đang cố nói với mình về sự tồn tại của những file này?
    Ando mường tượng lại khuôn mặt Ryuji ngay sau ca mổ pháp y. Khuôn mặt vuông chữ điền của anh ta đang mỉm cười. Ando đã nghĩ, ngay trong giây phút đó anh ta đã bắt đầu cười chế nhạo anh, vẫn trần truồng trên bàn mỗ, xương hàm rung lên.
    Từ trong sâu thẳm, Ando có thể cảm thấy câu chuyện kỳ dị của Yoshino bắt đầu gây cảm giác có thực. Có lẽ nó hoàn toàn là thực. Có lẽ thực sự tồn tại một cuốn băng sẽ giết chết anh bảy ngày sau khi anh xem nó.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 9
    Chiếc máy xử lý văn bản kêu ro ro không ngớt trong khi chiếc máy in in ra hết trang này đến trang khác. Ando kéo mạnh từng trang giấy ra khỏi máy in khi nó trườn ra và đọc thật nhanh.
    Mỗi trang để cách dòng đơn, nhưng Ando vẫn có thể đọc nhanh hơn tốc độ máy in in ra. Vì muốn có một bản in, nên anh đã quyết định in ra toàn bộ thay vì đọc trên màn hình. Giờ thì anh đâm nản khi mất hai đến ba phút mới in được một trang.
    Cuối cùng anh đành mượn chiếc máy của Ueda về nhà. Kiểm tra sơ qua cho thấy toàn bộ phóng sự lên đến gần một trăm trang, nhiều hơn mức hợp lý mà anh có thể in ra ở phòng xét nghiệm. Anh không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải thức khuya ở nhà.
    Giờ mới đến cuối trang hai mốt của bản thảo, anh vừa đọc vừa tranh thủ ăn bữa tối mua ở một cửa hàng tạp phẩm trên đường về nhà. Cho đến lúc này, những gì anh đọc đúng y như Yoshino đã kể cho anh tuần trước đó. Nhưng nó khác với những gì Yoghino đã kể anh nghe trong quán cà phê ở chỗ, có thời gian và địa điểm cụ thể. Do đó nó thuyết phục hơn rất nhiều. Lối viết phóng sự - không hoa mỹ - cũng khiến bài viết càng đáng tin cậy hơn.
    Torng khi điều tra bốn cái chết đồng thời do đau tim của bốn thanh niên ở Tokyo và tỉnh Kanagawa vào tối mùng 5 tháng Chín, Asakawa đã đi đến ý tưởng cho rằng thủ phạm là một loại virus. Nói theo khoa học, đó là một kết luận hiển nhiên. Vì các ca mổ tử thi đã phát hiện ra một loại virus gần giống như virus đậu mùa, và linh cảm của Asakawa đã đúng. Theo phỏng đoán của Asakawa, do bốn người chết cùng một thời điểm, nên họ chắc phải nhiễm cùng một loại virus ở cùng một nơi. Anh ta nhận ra rằng mấu chốt cho toàn bộ vụ việc là phải tìm ra nơi họ phơi nhiễm với virus, nghĩa là xác định con đường lây truyền.
    Asakawa đã thành công trong việc tìm ra thời gian và địa điểm mà bốn người này ở cùng nhau: ngày 29 tháng Tám, đúng một tuần trước khi họ chết, tại Pacific Land, Nam Hakone, trong một căn nhà gỗ cho thuê. Villa Log, Cabin số B-4.
    Trang tiếp theo, trang hai hai, bắt đầu với việc Kazuyuki Asakawa tự tìm đến tận ngôi nhà gỗ này. Anh ta bắt tàu tốc hành đến Atami, rồi thuê một chiếc xe đi theo đường Atami-Kannami đến khu nghỉ mát cao nguyên. Trời mưa, bóng đêm hạn chế tầm nhìn, và con đường miền núi rất khủng khiếp. Anh ta đặt thuê nhà B-4 vào buổi trưa, nhưng mãi đến tận quá tám giờ tối mới làm thủ tục nhận phòng. Vậy đây là nơi bốn thanh niên đã ở qua đêm: ý nghĩ đó khiến Asakawa giật mình sợ hãi. Đúng một tuần sau khi ở trong ngôi nhà này, họ đã chết. Anh ta biết chính bàn tay ma quái kia cũng sẽ chạm vào mình. Nhưng anh ta không vượt qua được tính tò mò của một nhà báo nên cuối cùng đã lục lọi khắp ngôi nhà.
    Từ những gì các thanh niên kia viết trong một cuốn sổ tay để lại trong căn nhà, Asakawa xác định rằng tối hôm đó họ đã xem một cuốn băng video, nên anh ta đã đến phòng quản lý để tìm cuốn băng đó. Anh ta tìm thấy một cuốn băng không có nhãn, không có vỏ, nằm ở đáy tủ. Đây liệu có phải là cái mà anh ta đang tìm? Được sự cho phép của người quản lý, anh ta đưa cuốn băng trở lại nàh B-4, rồi, không còn cách nào khác, để biết điều gì có trong cuốn băng, anh ta đã đưa nó vào đầu máy VCR đặt trong phòng khách và xem một mạch từ đầu đến cuối.
    Lúc đầu, màn hình tối đen, Asakawa mô tả cảnh mở đầu thế này:
    Từ giữa màn hình đen, có một điểm sáng bắt đầu nhấp nháy. Nó lớn dần lên, lắc lư sang trái và sang phải, cuối cùng dừng lại phía bên trái. Rồi nó tỏa ra các nhánh, trở thành những đường sáng hỗn độn, trườn bò như những con sâu...
    Ando ngước nhìn lên trang sách. Dựa trên những gì đang đọc, anh có thể hình dung một cách khá rõ ràng hình ảnh có trên màn hình. Khi đọc đoạn mô tả mở đầu của Asakawa, một hình ảnh nhảy vào trong đầu anh như thể anh đã nhìn thấy nó đâu đó trước đây. Một con đom đóm bay trên một màn hình đen, lớn dần lên... rồi một điểm sáng lan rộng ra giống như những sợi của chiếc chổi quét sơn. Đó là một cảnh ngắn ngủi, nhưng đúng là cảnh mà anh nhớ là đã xem rồi, và rất gần đây.
    Ando mất không nhiều thời gian để nhớ ra. Ấy là khi anh ở trong căn hộ của Mai, cố tìm dấu vết của cô. Anh thấy một cuốn băng nằm trong đầu máy VCR, rồi anh nhấn nút play. Cuốn băng có nhan đề Frank Sinatra, Liza Minnelli, v.v..., ghi trên nhãn bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Vài giây đầu tiên của cuốn băng phù hợp với mô tả này một cách hoàn hảo.
    Nhưng trong cuốn băng ở nhà Mai, cảnh này chỉ kéo dài vài giây trước khi màn hình đột nhiên trở nên sáng hơn. Trong nỗ lực rõ ràng là nhằm xóa đi những gì có trong cuốn băng, Mai đã ghi lại các chương trình buổi sáng, chương trình phát lại vở kịch mê-lô về một samurai, bất cứ cái gì, cho đến khi cuốn băng chạy hết. Ngay lập tức Ando hiểu ra điều này có nghĩa là gì. Bằng cách nào đó, có thể là thông qua Ryuji, Mai đã được cuốn băng gây rắc rối kia và xem nó tại căn hộ của cô. Rồi khi xem xong, cô đã xóa bất cứ thứ gì chứa trong băng. Hẳn cô phải có lý do để xóa. Nhưng cô đã không thể xóa đoạn mở đầu, nên hình ảnh của vài giây đầu tiên vẫn còn lại, ẩn náu. Có phải thế nghĩa là cuốn băng Asakawa tìm thấy ở Villa Log Cabin đã bằng cách nào đấy tự tìm đường đến tay Mai?
    Anh cố gắng sắp xếp ý nghĩ. Không, không thể thế được. Cuốn băng Asakawa tìm thấy và cuốn băng Mai có rõ ràng là hai cuốn băng khác nhau. Theo bài phóng sự, cuốn băng ở trong ngôi nhà gỗ không có nhãn. Nhưng cuốn băng trong đầu máy VCR của Mai có nhan đề được viết bằng bút mực dạ đen. Điều đó có nghĩa nó là một bản sao.
    Cuốn băng ở ngôi nhà gỗ là bản gốc, và cuốn băng ở nhà Mai là bản sao. Vậy là cuốn băng đã được sao chép, ngụy trang, chuyển đi - một chuỗi thay đổi làm chóng mặt. Trong đầu Ando, cuốn băng, đang nằm tại một điểm đâu đó giữa vô sinh và hữu sinh, bắt đầu giống như một loại virus.
    Vậy sự biến mất của Mai có phải là kết quả của việc cô đã xem cuốn băng? Khả năng này khiến anh lo lắng. Từ lúc đó cô không trở về phòng. Cô không đến trường, thậm chí còn không gọi điện cho mẹ. Mặt khác, anh chưa nghe tin gì về việc người ta tìm thấy một phụ nữ trẻ chết vì những nguyên nhân không giải thích được.
    Anh để cho trí óc nghĩ lan man một lúc, trong khi cân nhắc mọi tình huống có thể xảy đến với cô. Có lẽ cô đã chết đơn độc ở một nơi không ai biết đến. Ý nghĩ ấy là anh đau nhói - cô chỉ mới hai mươi hai tuổi. Anh đã cảm thấy những xao động đầu tiên vì phải lòng cô, và việc này khiến cho sự việc trở nên khó chịu đựng hơn.
    Cuối cùng máy in cũng in xong một trang nữa, với một âm thanh làm Ando thoát ra khỏi dòng suy tưởng. Bất luận thế nào, thì giờ không phải lúc chuốc thêm rắc rối. Hiện tại, tốt hơn là anh nên tìm xem trong cuốn băng đó có gì trước tiên.

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 10
    Vài trang tiếp theo chứa những đoạn mô tả toàn bộ nội dung cuốn băng. Khi đọc nó, Ando có thể thấy trong đầu mình một màn hình TV chứa đầy hình ảnh thay đổi liên tục.
    Một thứ gì đó sền sệt màu đỏ phun lên màn hình. Tiếp sau là cảnh một ngọn núi mà nhìn qua cũng biết là núi lửa đang hoạt động. Dung nham trào ra từ miệng núi; mặt đất ầm ầm chuyển động. Cảnh phun trào chiếu sáng cả bầu trời đêm. Rồi cảnh này đột nhiên chấm dứt, thay thế bởi màn hình nền trắng, chỉ hiện lên chữ "núi" màu đen, chữ này mờ dần rồi biến mất. Sau đó là cảnh hai viên xúc xắc đang xoay dưới đáy bát.
    Cuối cùng một dáng người xuất hiện trên màn hình. Một bà cụ da nhăn nheo ngồi trên chiếu tatami. Bà cụ đang nhìn thẳng vào máy quay nói điều gì đó. Bà cụ nói một thứ phương ngữ gần như không thể hiểu được, nhưng ít nhiều qua những âm thanh phát ra, anh có thể chắc rằng bà cụ đang tiên đoán tương lai của ai đó, cảnh báo người ấy.
    Tiếp theo là một đứa trẻ sơ sinh đang gào khóc. Không hề có mối liên hệ rõ ràng giữa các cảnh. Cảnh này nối tiếp cảnh kia hoàn toàn bất ngờ và ngẫu nhiên như người ta rút những quân bài.
    Đứa trẻ biến mất, thay vào đó là hang trăm khuôn mặt tràn lấp màn hình cứ thế nhân lên như sự phân bào, trên nền hàng vô số giọng nói phát ra những lời buộc tội: Đồ dối trá! Quân lừa đảo! Sau đó là cảnh một chiếc tivi cũ, màn hình hiện lên chữ sada.
    Rồi khuôn mặt người đàn ông xuất hiện. Ông ta đang thở hổn hển và vã mồ hôi. Có thể thấy phía sau ông ta là một bụi cây rậm rạp. Mắt ông ta đỏ ngầu hung tợn; miệng chảy nước dãi và méo mó do cười thét lên. Bên vai trần của ông ta có một vết thương hõm sâu, máu từ đó túa ra. Rồi không biết từ đâu lại vang lên tiếng khóc của một đứa bé. Ở chính giữa màn hình là vầng trăng tròn, từ đó những hòn đá to bằng nắm tay rơi xuống, chạm đất với những tiếng kêu thịch thịch.
    Cuối cùng, có thêm nhiều chữ nữa xuất hiện trên màn hình.
    Những ai đã xem những hình ảnh này sẽ chết đúng giờ này tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, hãy làm theo đúng những chỉ dẫn sau...
    Rồi cảnh tượng thay đổi hoàn toàn. Thay vì mô tả biện pháp để tránh cái chết, màn hình bây giờ lại hiện lên chương trình quảng cáo hương diệt muỗi. Mục quảng cáo kết thúc và hình ảnh kỳ lạ trước đó xuất hiện, hay đúng hơn là ký ức về nó.
    Vào lúc kết thúc chuỗi hình ảnh kỳ lạ đó, Asakawa đã hiểu được chính xác hai điều. Thứ nhất, những ai đã xem cuộn băng này đều chịu số phận phải chết đúng một tuần sau khi xem. Và thứ hai, có một cách tránh được định mệnh này, nhưng giải pháp đó đã bị đè một cách cố ý. Bốn thanh niên, những người đầu tiên xem cuộn băng, đã xóa nó trong một trò đùa độc ác tinh quái. Điều duy nhất Asakawa có thể làm là bỏ cuốn băng vào trong túi đồ và vội vã rời khỏi nhà B-4.
    Ando thở sâu và đặt bản thảo thiên phóng sự sang bên cạnh.
    Chết tiệt.
    Trong bài phóng sự, Asakawa đã kể lại cẩn thận và chi tiết những hình ảnh kỳ quái kéo dài hai mươi phút trên cuốn băng. Anh ta đã vận dụng mọi nỗ lực để tái tạo, chỉ bằng ngôn ngữ, những gì chuyển tải thông qua hình ảnh và âm thanh, và đã rất thành công. Những cảnh đó vẫn khuấy đảo lên trong tâm trí Ando, rõ ràng như thể như chính anh đã nghe và xem chúng. Anh lại thở dài, đột nhiên thấy kiệt sức. Hay có lẽ đó không phải là mệt mỏi. Có lẽ giờ đây anh đang cảm thấy nỗi sợ của Asakawa là của chính mình, và muốn tống khứ nó đi bằng cách nào đó.
    Nhưng thậm chí một khắc ngừng nghỉ chỉ kích thích anh ham muốn được biết nhiều hơn. Anh nhấp một ngụm trà, cầm lên trang tiếp theo của bài phóng sự, và bắt đầu đọc tiếp, thậm chí còn đọc nhanh hơn trước.
    Điều đầu tiên Asakawa làm khi quay về Tokyo là gọi điện cho Ryuji Takayama và kể cho anh ta chuyện đã xảy ra. Asakawa không có thời gian hay can đảm để một mình giải quyết chuyện này. Anh ta cần một đối tác đáng tin cậy, và người đầu tiên anh nghĩ đến là Ryuji, bạn anh ta quen từ thời trung học. Anh ta cũng liên lạc với Yoshino, nhưng Yoshino từ chối xem cuốn video. Bất kể có thực sự tin vào cuốn băng hay không, nếu có một khả năng mỏng manh rằng thảm họa sẽ đổ xuống đầu anh ta do xem cuốn băng, thì Yoshino muốn tránh xem nó.
    Nhưng Ryuji không từ chối. Sau khi nghe nói đến cuốn băng sẽ giết chết bất cứ ai sau khi xem nó đúng một tuần, câu đầu tiên anh ta nói là, trước hết hãy để tôi xem cuốn băng đã.
    Do đó, Ryuji đã xem cuốn băng tại căn hộ của Asakawa, và bị mê hoặc. Xem xong anh ta đề nghị Asakawa sao chép cho một bản.
    Chữ "sao chép" khiến cho Ando ngồi thằng dậy và chú ý. Giờ anh nghĩ có thể hiểu được con đường di chuyển của cuốn băng. Bản gốc lấy từ Villa Log Cabin nhiều khả năng vẫn do Asakawa nắm giữ. Nó đã nằm trên chiếc đầu máy trên xe của Asakawa vào thời điểm tai nạn, được giao cho anh trai của Asakawa là Junichiro, sau đó bị vứt đi. Còn một cuốn băng khác, là cuốn băng ở trong căn hộ của Mai, chỉ còn lại một chút đoạn mở đầu. Đây có lẽ là bản mà Asakawa đã sao lại cho Ryuji vào đêm đầu tiên đó. Nó có nhan đề trên nhãn, bằng chữ viết tay của một người đàn ông. Có lẽ là của Asakawa. Khi Ryuji nhờ Asakawa sao cho một bản, thì thay vì lấy một cuốn băng mới, Asakawa dung lại cuốn băng cũ mà ban đầu anh ta dùng để ghi một chương trình ca nhạc. Cuốn băng này được truyền qua tay Ryuji rồi đến tay Mai. Điều đó rất hợp lý. Nhưng Mai nhận cuốn băng lúc nào? Mai chưa bao giờ nói với Ando rằng cô đã có được cuốn băng. Điều đó, theo Ando đoán, có nghĩa cô tình cờ thấy nó vài ngày sau khi Ryuji chết, và đã xem cuốn băng mà không biết rằng nó nguy hiểm.
    Trong trường hợp nào đi nữa, cuốn băng đã được sao chép lại ở căn hộ của Asakawa. Ando cảm thấy cần phải lưu ý điều này trong đầu.
    Vậy là Ryuji đã mang bản sao cuốn băng về nhà mình và bắt tay vào tìm thông điệp bị xóa (anh ta và Asakawa gọi điều này là "bùa phép"). Cả hai người đều thắc mắc, cuốn băng kỳ lạ này xuất hiện tại Villa Log Cabin để làm gì. Lúc đầu họ nghĩ rằng nó được một chiếc máy quay video ghi rồi để lại đấy, nhưng hóa ra không phải vậy. Ba ngày trước khi những thanh niên kém may mắn kia đến thuê phòng, đã có một gia đình ở trong nhà B-4; họ đã đặt một cuốn băng vào VCR và để chế độ RECORD. Sau đó họ quên bẵng nó và bỏ lại đấy khi ra về. Như vậy hình ảnh trong cuốn băng không phải được quay ở một nơi nào khác rồi mới đưa đến ngôi nhà gỗ, mà là một dạng truyền phát chưa biết đến đã được chụp lại trên cuốn băng khi đầu máy chạy chế độ ghi. Những người tiếp theo đến ngôi nhà gỗ là bốn nạn nhân trẻ kia. Rảnh rỗi, họ quyết định xem một chương trình video; khi họ bật máy VCR lên, cuốn băng chui ra. Họ đã xem nó. Lời đe dọa ở cuối cuốn băng hẳn đã làm họ thích thú. Làm như chúng ta sẽ chết thật trong một tuần nữa nếu không làm theo điều cuốn băng chỉ dẫn? Thế rồi họ quyết định chơi một trò tinh nghịch, bằng cách xóa đi phần giải pháp; điều đó sẽ làm cho vị khách tiếp theo đến thuê nhà phải sợ hãi. Tất nhiên, những chàng trai trẻ kia không bao giờ thật sự tin vào lời nguyền của cuốn băng. Nếu tin thì họ không bao giờ đi đến hành động nguy hiểm như thế. Dù sao đi nữa, ngày hôm sau người quản lý đã tìm thấy cuốn băng, ông ta để nó ở trên giá trong văn phòng, nó nằm đó không ai để ý cho đến khi Asakawa đến.
    Vậy thì: làm thế nào những hình ảnh được đưa vào chiếc đầu máy trong khi nó đang chạy chế độ ghi? Asakawa có ý rằng một sức mạnh kỳ lạ nào đó đã kiểm soát song trong không gian, do đó anh ta cố gắng xác định một nguồn phát sóng như thế. Trong lúc ấy, khi Asakawa đi ra ngoài, vợ và con gái anh ta thấy cuốn video vẫn nằm trong đầu máy VCR và đã xem nó. Giờ thì Asakawa bị thôi thúc bởi mong muốn giữ được không chỉ tính mạng mình, mà còn của vợ con anh ta nữa.
    Rồi Ryuju phát hiện ra một điều đáng kinh ngạc. Anh ta ngồi nhà xem đi xem lại cuốn băng rồi chợt nảy ra một ý tưởng. Anh ta vẽ ra một sơ đồ và phát hiện cuốn băng có thể chia thành mười hai cảnh, thuộc hai nhóm: nhóm những cảnh trừu tượng dường như gồm những điều có thể gọi là hình ảnh trong tâm trí, và nhóm những cảnh thực gồm những điều được nhìn thấy qua một đôi mắt thường. Ví dụ, cảnh núi lửa phun và khuôn mặt của người đàn ông rõ ràng là những điều nhìn thấy được trong thực tế, trong khi ánh sáng trong bóng đêm giống như đèn đom đóm lúc mở đầu cuốn băng thì giống như thứ do tâm trí gợi lên - như điều gì đó từ giấc mơ. Vậy nên Ryuji gọi hai nhóm là "thực" và "trừu tượng", để tiện cho việc so sánh. Xem xét sâu hơn nữa, anh ta nhận thấy trong những cảnh "thực", có những lúc màn hình bị che phủ bởi cái gì đó giống như một tấm mạng đen, chỉ trong một phần nhỏ của một giây. Trong những cảnh "thực", những khoảnh khắc này xảy ra với tần suất mười lăm lần mỗi phút, trong khi ở những cảnh "trừu tượng" chúng hoàn toàn không xuất hiện. Điều đó có nghĩa thế nào? Ryuchj kết luận tấm mạng đen đó trên thực tế chính là một lần chớp mắt. Dường như nhửng cảnh đó được nhìn bằng con mắt thường, chứ không phải là một chuỗi chỉ nhìn thấy được bằng "con mắt" của tâm trí. Ngoài ra tần số mạng đen xuất hiện khớp với tần số chớp mắt bình quân của nữ giới. Vì vậy, khá chắc chắn khi cho rằng chúng là những cái chớp mắt. Điều này đương nhiên dẫn tới kết luận rằng hình ảnh trên cuốn băng đã được chụp lại không phải bằng một máy quay video, mà là từ hình ảnh và sự tưởng tượng của một cá nhân và đưa lên cuốn băng bằng cách chiếu hình qua ý nghĩ.
    Ando thực sự khó mà tin được phần này. Ý nghĩ rằng người ta có thể ghi các hình ảnh lên một cuốn băng bằng trí óc vô cùng phi lý. Anh có thể sẵn sàng, dù chỉ phần nào thôi, chấp nhận khả năng ghi hình bằng ý nghĩ lên phim ảnh tĩnh, nhưng đối với ảnh động? Trước hết, đó là một cách thức khác hoàn toàn. Để tiếp tục, Ando phải tạm bỏ qua điểm này, thậm chí khi anh ngưỡng mộ trí tuệ của Ryuji.
    Giả sử rằng ai đó đã ghi lại cuốn băng một cách siêu nhiên, thì câu hỏi tiếp theo là: ai? Asakawa và Ryuji tập trung vào điểm này, họ tìm đến Phòng Tưởng niệm Tetsuzo Miura ờ Kamamura. Là một nhà nghiên cứu các hiện tượng tâm lunh lạ thường, ông Miura đã dành cả đời mình để truy tìm những điều huyền bí trên toàn Nhật Bản. Các tập hồ sơ chứa những phát hiện của ông được lưu lại ở nhà tưởng niệm. Hai người đã được phép vào xem hồ sơ, gồm trên một nghìn tập, họ nghĩ rằng một nhà ngoại cảm có sức mạnh đến mức ghi được hình động lên một cuốn băng video sẽ không thể vượt ra khỏi tầm chú ý của giáo sư Miura. Và sau nhiều giờ tìm kiếm, họ tìm thấy một ứng cử viên khả dĩ.
    Tên cô gái là Sadako Yamamura. Cô sinh ra ở thị trấn Sashikiji, trên đảo Izu Oshima.
    Theo một tập trong tập hồ sơ của cô, lúc mười tuổi cô đã có khả năng ghi các ký tự yama (núi) và sada, các ký tự trong tên viết của cô, lên một đoạn phim. Những ký tự này đã xuất hiện trên cuốn video. Khi chắc chắn Sadako Yamamura chính là người họ đang tìm, ngày hôm sau Ryuji và Asakawa lên một con thuyền đến đảo Izu Oshima. Họ hy vọng khi biết thêm cô được dạy dỗ thế nào, tính cách cô ra sao, sẽ soi sáng được một số bí mật trong cuốn băng. Sadako đã đe dọa bất ai cứ ai xem những hình ảnh của cô sẽ chết, nhằm mục đích buộc người xem phải làm gì đó. Chính cuốn băng đã chứa mong muốn của cô rằng hành động đó sẽ được thực hiện. Điều quan trọng là phải tìm ra được Sadako mong muốn cái gì. Tại thời điểm đó, Ryuji đã có ý nghĩ mơ hồ là Sadako không còn sống nữa. Anh ta tin rằng, lúc cận kề cái chết, cô đã bộc lộ ước muốn cuối cùng chưa được đáp ứng của mình dưới hình thức phóng chiếu hình ảnh bằng phép ngoại cảm, nghĩa là truyền lại ước muốn cho một người khác. Lòng căm thù sâu kín của cô cuối cùng cùng truyền vào cuốn băng.
    Với trợ giúp của một cộng tác viên tờ Tin tức Hằng ngày tại Oshima và sự giúp đỡ của Yoshino ở Tokyo, những người mà họ liên lạc thường xuyên, Asakawa và Ryuji đã gom được một tập hồ sơ về Sadako Yamamura.
    Cô sinh năm 1947, là con gái của bà Shizuko Yamamura, người từng là một hiện tượng huyền bí tạo nên tiếng vang lớn nhất thời trong giới truyền thông quốc gia, và ông Heihachiro, một phó giáo sư Tâm thần học tại Đại học Taido, ông đã tham gia nghiên cứu hiện tượng siêu nhiên mà đối tượng là Shizuko. Lúc đầu, ba người Ikuma, Shizuko và Sadako được công chúng đón nhận do trí tò mò đơn thuần, và thực tế họ đã trở thành con cưng của giới truyền thông như một thứ thời trang. Nhưng một tổ chức hàn lâm uy tín đã tuyên bố rằng sức mạnh của Shizuko là giả tạo, công chúng quay sang công kích họ, và họ trở thành chủ đề bị tấn công nặng nề trên báo chí. Ông Heihachiro bị sa thải khỏi trường đại học, rồi mắc bệnh lao, còn bà Shizuko bị suy nhược thần kinh và cuối cùng gieo mình xuống miệng núi Mihara, ngọn núi lửa trên đảo Izu Oshima.
    Sadako được họ hàng mang về nuôi trên đảo, cô sống ở đấy cho đến khi tốt nghiệp phổ thông. Một lần, vào năm học lớp bốn, cô trở nên nổi tiếng trong trường khi dự đoán núi lửa Mihara phun trào, nhưng ngoài chuyện đó ra cô dường như không thể hiện bất cứ năng lực nào được thừa hưởng từ người mẹ. Sau khi học xong phổ thông, cô chuyển đến Tokyo, tại đây cô tham gia một đoàn kịch với hy vọng trở thành diễn viên. Chính Yoshino là người tìm ra dấu vết của cô ở đoàn kịch này.
    Từ ngoài đảo, Asakawa gọi điện cho Yoshino và đề nghị anh ta tìm đến địa chỉ của đoàn kịch tại Yotsuya, Tokyo. Yoshino làm theo, và khi đến đó, anh ta được một người đàn ông tên là Arima, trưởng đoàn kịch, cho biết thêm nhiều thông tin về Sadako. Đã hai lăm năm kể từ khi Sadako gia nhập đoàn kịch, nhưng ông ta nhớ cô rất rõ. Cô dường như có một năng lực siêu nhiên; cô có thể dùng ý chí để chiếu các hình ảnh lên màn hình một chiếc tivi đã rút phích cắm. Nếu điều này là đúng, thì năng lực của Sadako vượt rất xa mẹ cô. Ở đoàn kịch, Yoshino lấy được một tấm hình chụp Sadako. Người ta vẫn giữ lại bản lý lịch của cô trong hồ sơ, và trong đó có hai tấm hình đen trắng chụp khi cô gia nhập đoàn kịch. Một tấm ảnh chụp chân dung, còn tấm kia chụp toàn thân. Cả hai tấm ảnh đều cho thấy Sadako có những đường nét cân đối hoàn hảo vượt xa khái niệm "đẹp".
    Yoshino không thể xác định những gì xảy ra với Sadako khi cô rời đoàn kịch, do đó anh ta gửi fax những tấm ảnh và các thông tin khác thu thập được cho Asakawa, lúc này ở tại văn phòng của báo Tin tức Hằng ngày ở đảo Izu Oshima.
    Khi đọc bản fax và biết được rằng dấu vết của Sadako đã bị mờ, Asakawa chán nản. Nếu họ không thể tìm thấy cô thì làm sao có thể hy vọng tìm ra bùa phép?
    Một lần nữa chính Ryuji lại nảy ra một ý. Anh ta nhận ra rằng có lẽ không nhất thiết phải lần theo từng cử động của Sadako. Thay vì thế, có lẽ họ nên tập trung vào hiện trường nhà Villa Log Cabin B-4 và cố tìm hiểu xem tại sao những hình ảnh lại xuất hiện ở đó. Hẳn Sadako phải có mối liên hệ nào đó với nơi này.
    Họ nhận ra tất cả những ngôi nhà ở Pacific Land, Nam Hakone, đều được xây mới. Không phải không có khả năng có những công trình gì khác từng tọa lạc ở đó. Asakawa liên lạc với Yoshino ở Tokyo và đề nghị anh ta thử theo hướng điều tra mới: tìm hiểu xem trước khi khu nghỉ mát được xây thì đã có cái gì ở đó.
    Yoshino gửi fax cho Asakawa sáng hôm sau. Thì ra trước đây ở khu đất này là bệnh viện lao phổi. Anh ta còn gửi cho họ một sơ đồ bệnh viện này. Kèm theo bản fax còn có tên, địa chí và lý lịch một người có tên Jotaro Nagao, 57 tuổi, một bác sĩ đa khoa và nhi khoa hành nghề ở Atami. Trong khoảng thời gian năm năm, từ 1962 đến 1967, ông ta làm việc ở Trại Điều dưỡng ở Nam Hakone. Điều này dường như gợi ý rằng muốn biết thêm bất kỳ điều gì nữa về viện điều dưỡng thì tốt nhất nên lấy từ Nagao.
    Do đó, chỉ với những thông tin có được từ Yoshino, Asakawa và Ryuji bắt chuyến phà cao tốc đến Atami. Đã được một tuần kể từ ngày Asakawa xem cuốn băng. Nếu họ không tìm ra "bùa phép" trước mười giờ tối, Asakawa sẽ chết. Hạn chót của Ryuji là mười giờ đêm tiếp theo. Giờ chết của vợ và con gái Asakawa sẽ là mười một giờ sáng hôm sau.
    Hai người đàn ông lên chiếc xe mà họ đã thuê và đi thẳng đến văn phòng bác sĩ Nagao. Hy vọng của họ về việc sẽ có được dù chỉ một chút thông tin từ vị bác sĩ này, đã được đền đáp. Khi đối mặt với vị bác sĩ, cả Asakawa và Ryuji đều nhận ra ông ta. Gần cuối cuốn băng là hình ảnh một người đàn ông từ phần thắt lưng trở lên, thở hổn hển và vã mồ hôi, máu chảy ra từ một vết rách sâu trên vai. Mặc dù ông ta đã già và rụng nhiều tóc, nhưng Nagao chắc chắn là người đàn ông đó. Nadako đã nhìn khuôn mặt ông ta rất sát. Không những thế, trong "đôi mắt" của cô, ông ta có cái gì đó độc ác.
    Bằng sự xấc xược điển hình, Ryuji đã dồn ép Nagao cho đến khi anh ta thú nhận hết. Ông ta kể cho họ tất cả về buổi chiều hè nóng rực cách đây hai mươi lăm năm...
    Nagao bị nhiễm bệnh đậu mùa từ một bệnh nhân khi ông ta đi khám bệnh tại một khu cách ly của viện điều dưỡng trên núi, và chiều hôm đó, những triệu chứng sơ khởi của bệnh bắt đầu xuất hiện. Nhưng, mặc dù bị đau đầu và sốt, lúc đầu ông ta không nhận ra rằng mình bị đậu mùa, tiếp tục đi chữa trị cho các bệnh nhân lao như bình thường. Ông ta nghĩ chỉ là bị cảm. Rồi ông ta gặp Sadako Yamamura trong sân bệnh viện. Cô thường đến bệnh viện để thăm cha mình đang là bệnh nhân ở đó. Vì mới rời khỏi đoàn kịch, Sadako không còn nơi nào khác để đi, nên cô hay đi thăm cha.
    Chỉ một lần thoáng nhìn Sadako, Nagao đã bị sắc đẹp của cô chinh phục. Ông ta tiến lại gần cô và họ bắt đầu trò chuyện, và rồi, như thể bị dẫn dắt bởi điều gì đó bên ngoài bản thân, ông ta dẫn cô đến một ngôi nhà bỏ hoang ở sâu trong rừng. Ở đó, trước một cái giếng cũ, ông ta đã cưỡng hiếp cô. Chính lúc ấy Sadako đã cắn vào vai ông ta trong nỗ lực vô vọng nhàm kháng cự. Giữa máu chảy và cơn điên cuồng sôi sục, ông ta mất một lúc mới nhận thấy sự đặc biệt của Sadako. Cô bị hội chứng tinh hoàn nữ giới, một tình trạng rất hiếm xảy ra, khi một người có cơ quan sinh dục của đàn ông lẫn đàn bà. Người bị hội chứng này thường có ngực và âm đạo, nhưng không có dạ con và ống dẫn trứng. Khi mặt quần áo, người đó có dáng vẻ hoàn toàn là một phụ nữ, nhưng nhiễm sắc thể lại có dạng XY của một người đàn ông, và không có khả năng mang thai.
    Nagao đã bóp cổ Sadako và ném xác cô xuống giếng.Rồi ông ta ném đá xuống giếng vùi xác cô.
    Sau khi nghe lời thú nhận của Nagao, Asakawa đưa cho ông ta xem sơ đồ khu nghỉ mát và đề nghị vị bác sĩ chỉ cho anh ta vị trí của cái giếng trên bản đồ. Nagao có thể chỉ khu vực theo cách chung chung, nơi đó hiện giờ là Villa Log Cabin. Asakawa và Ryuji ngay lập tức đến Pacific Land.
    Ở đó, họ bắt đầu tìm kiếm cái giếng ở vùng lân cận khu nhà gỗ. Họ tìm thấy nó ở dưới nhà B-4. Ngôi nhà gỗ được dựng trên một mặt đất nghiêng thoai thoải, và khi thăm dò khoảng không bên dưới hiên nhà, họ nhìn thấy mép của một cái giếng cũ có nắp bằng bê tông che lại. Nếu lòng căm thù của Sadako thoát ra ngoài giếng, nó sẽ tác động đến chiếc TV và đầu máy VCR trong ngôi nhà gỗ bên trên. Cuốn băng nằm ở vị trí hoàn hảo để nhận sự chiếu hình bằng phép ngoại cảm.
    Asakawa và Ryuji gỡ vài tấm ván, bò xuống dưới ngôi nhà, lật nắp giếng lên, và bắt đầu tìm di hài của Sadako. Cả Asakawa và Ryuji lúc đó đều giải thích "bùa phép" bị mất là: Sadako muốn người nào xem cuốn băng phải giải phóng cho cô khỏi nơi tối đen bưng bít đó. Hai người họ thay nhau xuống giếng và dung xô múc hết nước ra. Và khi cuối cùng cũng tìm được trong lớp bùn một hộp sọ mà họ cho là của Sadako, thì đã qua thời điểm mười giờ. Giờ chết của Asakawa đã đến và đi qua, mà anh ta không chết. Họ hài lòng rằng đã tìm ra bí mật cuốn băng.
    Sau đấy, Asakawa đưa di hài Sadako về đảo Izu Oshima, trong khi Ryuji về nhà mình ở Tokyo để viết một công trình nghiên cứu. Vụ việc đã được gác lại. Xương cốt của Sadako Yamamura, người sở hữu sức mạnh ngoại cảm đáng sợ, đã được giải thoát khỏi tận sâu lòng đất. Cô đã được khuây khỏa. Cả Asakawa lẫn Ryuji đều không chút nghi ngờ về chuyện đó.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 11
    Đọc đến đây, Ando đứng dậy, tay vẫn cầm bản phóng sự, và đi mở cửa sổ. Cảm giác như đang trèo xuống giếng bằng một sợi dây khiến anh nghẹt thở. Không gian bị thu hẹp bằng một nửa; dưới ngôi nhà gỗ, khoảng không vẫn tối dù là vào ban ngày, và ở đó có một cái giếng, rộng chưa đến một mét. Nó tạo cho anh một thoáng sợ hãi vì bị giam giữ; anh phải hít thở không khí bên ngoài. Ngay bên dưới cửa sổ, anh có thể nhìn thấy rừng cây tối om xung quanh Điện thờ Minh Trị Thiên hoàng lay động trong làn gió nhẹ. Những trang giấy trên tay anh cũng rung rinh bởi chính làn gió kia. Trang cuối của bản thảo bài phóng sự đang nằm ngay trong máy in. Một trang nữa là bài phóng sự của Asakawa sẽ được in xong. Ando nghe thấy âm thanh ủa chiếc máy in khi nó hoàn thành công việc. Anh quay lại nhìn máy xử lý văn bản và chỉ thấy một trang giấy gần như trống không đang nhìn lại anh.
    Anh cầm trang cuối cùng lên. Trên đó viết:
    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười
    Bản chất của virus là tự sinh sản.
    Bùa phép: sao một bản cuốn video.
    Và đó là tất cả. Nhưng nó là phần quan trọng nhất.
    21 tháng Mười là ngày Asakawa gặp tai nạn. Buổi sáng hôm trước, Ando mổ tử thi của Ryuji và đã gặp Mai tại văn phòng cơ quan giám định pháp y. Mặc dù bản thảo phóng sự kết thúc đột ngột, nhưng Ando có thể tự hiểu được phần còn lại của câu chuyện.
    Ngày 19 tháng Mười, di hài của Sadako Yamamura được giao lại cho người thân của cô. Nhưng rốt cuộc đó không phải là kết thúc của câu chuyện. Ngay khi Asakawa ngồi trong một khách sạn ở Oshima viết bài phóng sự chi tiết, thì Ryuji đang hấp hối ở nhà mình tại Đông Nakano. Khi về Tokyo và biết được cái chết của Ryuji, Asakawa tức tốc đến nhà Ryuji. Ở đó anh ta gặp Mai Takano và hỏi đi hỏi lại cô điều mà với cô dường như là những câu hỏi kỳ quặc và không phù hợp.
    Ryuji thực sự không nói gì với cô lúc lâm chung sao? Không một lời, chẳng hạn như, về một cuốn băng sao?
    Để hiểu tại sao Asakawa lại hoang mang. Anh ta tin rằng đã thoát được tử thần bằng cách tìm ra bí mật của cuốn băng, và giờ đây phát hiện ra mình đã nhầm. Lời nguyền vẫn còn đó. Và Asakawa được bỏ qua mà không có lấy một manh mối gì. Tại sao Ryuji chết còn Asakawa vẫn sống? Không chỉ thế, hạn chót cho vợ và con của Asakawa đang đến, 11 giờ ngày hôm sau. Do đó Asakawa phải tìm bùa phép lại từ đầu, lần này một mình và chỉ có vài tiếng đồng hồ để thực hiện. Theo logic, anh ta nhận ra rằng cho dù cuốn băng kia có muốn anh ta làm điều gì đi nữa, thì anh ta hẳn đã thực hiện điều đó tại một thời điểm trong tuần trước mà không hề biết. Điều mà anh ta có thể chắc chắn rằng Ryuji đã không làm. Có thể là gì đây? Có lẽ anh ta dành cả đêm để suy nghĩ. Và rồi cuối cùng, vào buổi sáng ngày 21, linh cảm của anh ta đã lóe lên, có lẽ như vậy, và vụt chạm đến điều mà anh ta chắc chắn là giải pháp. Anh ta nhanh chóng ghi nó lại trên máy xử lý văn bản.
    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười
    Bản chất của virus là tự sinh sản.
    Bùa phép: sao một bản cuốn video.
    Điều mà Asakawa ám chỉ ở đây không gì khác ngoài virus bệnh đậu mùa. Ngay trước khi chết, Sadako Yamamura có quan hệ xác thịt với nạn nhân bệnh đậu mùa cuối cùng của Nhật Bản, ông Jataro Nagao. Dĩ nhiên có thể giả định rằng virus đã xâm nhập vào cơ thể cô. Bị đẩy đến bờ tuyệt chủng, loại virus này đã mượn năng lực phi thường của Sadako để thực hiện mục đích tồn vong của nó, có nghĩa là tự sinh sản. Nhưng một khi ở dưới dạng một cuốn băng video, virus không tự sinh sản được. Nó phải làm việc đó thông qua con người, bắt buộc họ phải sao chép cuốn băng. Nếu phải điền vào phần đã mất ở cuối đoạn băng, phần đó sẽ như thế này:
    Người nào đã xem những hình này sẽ chịu định mệnh phải chết vào giờ này đúng một tuần sau. Nếu ngươi không muốn chết, phải làm theo đúng những chỉ dẫn sau. Sao cuốn băng ra một bản và đưa nó cho người khác xem.
    Theo hướng này, mọi việc đều hợp lý. Ngay hôm sau khi xem cuốn băng, Asakawa đã cho Ryuji xem, và anh ta cũng sao một bản cho Ryuji. Anh ta giúp virus phát tán mà không hề biết. Nhưng Ryuji không bao giờ sao chép lấy một bản.
    Khi chắc chắn đã có câu trả lời, Asakawa mang chiếc đầu máy VCR lên xe và lái đi đâu đó. Chắc chắn anh ta định sao thêm hai bản và đưa cho hai người nữa xem - một để cứu vợ, và một để cứu con gái nhỏ. Những người được anh ta cho xem cuốn băng, sau đó phải tìm những con mồi mới, những người khác để cho họ một bản sao cuốn băng. Nhưng đó không phải là vấn đề cấp thiết. Điều quan trọng là phải cứu tính mạng của vợ con anh ta.
    Nhưng ngay khi anh ta đang vô cùng nhẹ nhõm vì đã cứu được tính mạng của những người thương yêu, Asakawa đưa tay ra ghế sau chạm vào vợ và con gái mình và thấy họ đã lạnh toát. Anh ta mất lái.
    Ando có thể hiểu được tình trạng căng trương lực hiện giờ của Asakawa. Anh ta không chỉ suy sụp khi mất đi gia đình, mà chắc chắn còn bị hành hạ bới câu hỏi: bản chất thực sự của bùa phép là gì? Mỗi lần anh ta nghĩ là đã tìm ra, thì câu trả lời lại trôi tuột qua tay anh ta, lại thay đổi, và cướp đi một tính mạng khác. Giận dữ, đau đớn, và không ngớt lặp lại câu hỏi: Tại sao? Tại sao anh ta vẫn sống?
    Ando đặt các trang bản thảo thành một tập trên bàn. Rồi anh tự hỏi:
    Mình có thực sự tin vào chuyện vớ vẩn này không?
    Anh lắc đầu.
    Thực sự mình không biết.
    Anh không biết nói gì khác. Chính mắt anh nhìn thấy khối u bất thường trong động mạch vành của Ryuji. Bảy người khác bị chết vì cùng một nguyên nhân. Người ta tìm thấy trong máu của họ một loại virus gần giống với virus bệnh đậu mùa. Và Mai đã biến mất đi đâu? Còn bầu không khí quái dị trong căn hộ của cô thì sao, căn hộ dường như cô đã bỏ trống? Dấu hệu rợn tóc gáy rằng có cái gì đó trong căn hộ? Những dấu vết còn lại trên cuốn băng vẫn còn trong đầu máy VCR của Mai? Liệu cuốn băng có còn đang phát tán? Liệu nó có tiếp tục cướp đi sinh mạng của những nạn nhân mới? Càng nghĩ anh càng đặt thêm nhiều câu hỏi.
    Anh tắt máy xử lý văn bản và lấy chai whisky trên tủ. Anh biết đêm nay mình sẽ không ngủ được nếu không có rượu trợ giúp.

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 12
    Đầu tiên Ando ghé qua phòng xét nghiệm hóa sinh trả lại máy xử lý văn bản cho Ueda, rồi đi đến khoa bệnh học. Anh kẹp dưới tay bản phóng sự đã in đêm hôm trước. Anh định cho Miyashita đọc.
    Miyashita ngồi cúi xuống sát bàn, gãi gãi đầu bằng một chếc bút bi. Ando thả bài phóng sự lên mặt bàn cạnh Miyashita, anh ta ngước mắt lên nhìn ngạc nhiên.
    "Cậu đọc hộ tôi cái này được không?"
    Miyashita chỉ nhìn chằm chằm Ando, ngạc nhiên.
    "Có chuyện gì thế?"
    "Tôi muốn biết cậu nghĩ gì về cái này."
    Miyashita cầm tập văn bản lên. "Khá dài đấy."
    "Đúng thế, nhưng trong này có những thứ sẽ làm cậu thích thú đấy. Không mất nhiều thời gian để đọc đâu."
    "Cậu không định nói với tôi là cậu đang viết tiểu thuyết trong lúc rảnh rỗi đấy chứ?"
    "Kazuki Asakawa đã viết một bài phóng sự về những cái chết."
    "Ý cậu là Asakawa của chúng ta?"
    "Đúng."
    Miyashita bấy giờ trông có vẻ quan tâm khi anh ta lật qua một số trang. "Hừmm."
    "Tôi để nó ở đây. Lúc nào đọc xong thì cho tôi biết cậu nghĩ thế nào."
    Ando bắt đầu đi, nhưng Miyashita gọi anh lại. "Chờ đã."
    "Gì thế?"
    Miyashita chống tay lên má và gõ đầu bút bi lên bàn. "Cậu chơi trò giải mã giỏi lắm đúng không?"
    "Tôi sẽ không nói là tôi đặc biệt giỏi môn này. Hồi ở trường y, một số bạn tôi đã chơi trò này, nhưng chỉ thế thôi."
    "Hừmm", Miyashita nói, cầm bút gõ lên bàn.
    "Sao thế?"
    Miyashita nhấc khủy tay ra khỏi bản in mà anh ta đang xem và chuyển cho Ando. "Đây là lý do." Anh ta chỉ bút vào giữa trang giấy. Đó là bản in mà anh đã nhìn thấy ngày hôm trước, kết quả phân tích chuỗi virus tìm thấy trong máu Ryuji.
    "Cậu cho tôi xem hôm qua rồi mà."
    "Tôi biết, nhưng tôi không thể bỏ qua nó được."
    Ando cầm tờ giấy lên để trước mặt. Một dãy các bazơ xếp theo cùng một trật tự đã được chèn vào nhiều lần trong một chuỗi hỗn hợp các bazơ khác.
    ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA
    Rõ ràng, thật là kỳ lạ khi một dãy bốn hai bazơ xuất hiện vài lần với những khoảng cách phù hợp.
    "Và virus của Ryuji là loại virus duy nhất thế này?"
    "Đúng. Virus của anh ta là loại virus duy nhất có thêm những bazơ này," Miyashita nói, ánh mắt không rời khỏi Ando. "Cậu không thấy lạ à?"
    "Tất nhiên là có."
    Tiếng gõ bút bi dừng lại.
    "Ý nghĩ thoáng qua trong đầu tôi có thể là một dạng mật mã."
    Ando nấc lên. Anh không nhớ là đã kể gì cho Miyashita về chuyện xảy ra sau khi mổ tử thi Ryuji chưa. Không phải là góc tờ báo, và chắc chắn không phải là việc anh đã tìm ra được rừ "ring". Thế mà bây giờ Miyashita lại nói về mật mã.
    "Cứ cho đó là mật mã đi, thế thì ai gửi nó?"
    "Ryuji."
    Ando nhắm nghiền mắt lại. Đó là ý nghĩ anh đã hết sức cố gắng tránh nghĩ đến, và giờ Miyashita lại bày ra trước mặt anh.
    "Ryuji chết rồi. Chính tôi đã mổ tử thi."
    Miyashita không một chút bối rối. "Ờ, thế nào cũng được. Thử xem cậu có thể giải mã được không?"
    Liệu thực sự có khả năng rằng chuỗi bazơ kia có thể bằng cách nào đó được chuyển thành một từ được không? Giống như các chữ số 178136 đã nhanh chóng cho ra từ RING, có lẽ bốn mươi hai chữ cái này có thể được dùng để tạo thành những từ nào đó. Có lẽ chúng thực sự mang một thông điệp quan trọng. Có phải chính Ryuji, từ nơi hầm mộ, đã khắc đi khắc lại nó trong thi thể của anh ta?
    Tay Ando, đang nắm chặt bản in, run lên khi thấy chính mình đang bị đẩy vào ngõ tối giống như Asakawa. Nhưng không khi nào anh có thể từ chối lời đề nghị thẳng thắn của Miyashita. Ý nghĩ rằng nó có thể là một mật mã cũng đã xảy đến với Ando khi lần đầu tiên anh thấy chuỗi bazơ đó, nhưng anh đã chôn sâu ý nghĩ này trong não bộ. Anh sợ nếu không chôn nó, cái khuôn khổ khoa học mà anh gắn cuộc đời mình vào đấy sẽ bị biến dạng thêm nữa. Mọi chuyện đang đe dọa sẽ vượt qua khả năng lĩnh hội của anh.
    "Cậu cứ giữ lấy. Cứ thư thả thôi, xem cậu có thể làm gì với nó."
    Miyashita được cho là một nhà khoa học. Ando không thể hiểu, tại sao anh ta có thể nói về những ý tưởng phi khoa học này quá dễ dàng.
    "Tôi tin ở cậu. Cậu sẽ làm được," Miyashita nói, tay vỗ vào mông Ando.

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    PHẦN 3 - CHƯƠNG 1: GIẢI MÃ
    Ando và Miyashita đi theo cô phục vụ đến một bàn gần cửa sổ. Nhà hàng nằm ở tầng cao nhất của bệnh viện đại học và có tầm nhìn tuyệt đẹp ra Khu Ngoại viên của Đền thờ Minh Trị Thiên Hoàng. Bên cạnh đó, nhân viên của trường được giảm giá. Cả hai người đã cởi áo blu trước khi vào nhà hàng, nhưng nhìn thoáng qua cô nhân viên cũng biết họ không phải là khách đến thăm bệnh nhân. Cô đưa cho họ menu đồ ăn trưa đặc biệt dành riêng cho nhân viên. Cả Ando và Miyashita chỉ xem qua rồi gọi suất đặc biệt trong ngày và cà phê.
    Ngay khi cô phục vụ đi khỏi, Miyashita nói với một vẻ kỳ lạ. "Tôi đọc rồi". Từ khi Miyashita rủ anh đi ăn trưa, Ando biết anh ta sẽ mở đầu bằng câu nói đó. Miyashita đã đọc bài phóng sự Ring của Asakawa và bây giờ đã sẵn sàng nhận xét nó.
    "Cậu nghĩ sao?" Ando rướn người ra trước.
    "Tôi không nói dối đâu. Thật kinh ngạc."
    "Nhưng cậu có tin không?"
    "Khỉ thật. Vấn đề không phải là tin hay không. Còn nhiều hơn thế. Tên của các nạn nhân và thời điểm chết anh ta đưa ra đều chuẩn xác. Chúng ta, cả cậu và tôi, đã xem các báo cáo sự việc và biên bản mổ tử thi."
    Tất nhiên anh ta nói đúng. Họ có bản sao báo cáo những cái chết bất thường kia và cả những tài liệu liên quan đến bốn nạn nhân ở Villa Log Cabin. Thời gian chết ghi trong các bản báo cáo đó được Asakawa phản ánh rất chính xác. Không hề có sự mâu thuẫn nào. Nhưng điều làm Ando ngạc nhiên là một nhà nghiên cứu bệnh học sắc sảo như Miyashita lại không tỏ ra chống đối một cách rõ ràng cái ý tưởng rằng những lời nguyền và sức mạnh siêu nhiên đang đóng vai trò trong toàn bộ chuyện này.
    "Vậy là cậu chấp nhận nó?"
    "Ờ, không phải là tôi không có những nghi ngờ. Nhưng, cậu biết đấy, nghĩ kỹ lại thì khoa học hiện đại chưa tìm ra câu trả lời cho bất cứ câu hỏi cơ bản nhất nào. Sự sống đầu tiên trên trái đất xuất hiện ra sao? Tiến hóa xảy ra như thế nào? Là một loạt sự kiện ngẫu nhiên hay theo một hướng đã định sẵn? Có đủ các loại học thuyết, nhưng chúng ta chưa thể chứng minh được một cái nào. Cấu trúc nguyên tử không phải là hình ảnh thu nhỏ của hệ mặt trời, mà là cái gì đó khó nắm bắt hơn thế nhiều, với đầy rẫy những điều mà ta gọi là sức mạnh tiềm ẩn. Và khi chúng ta cố quan sát thế giới hạ nguyên tử, chúng ta nhận ra rằng tâm trí của người quan sát lại có ảnh hưởng theo một cách khó nhận thấy. Tâm trí, ông bạn ạ! Từ thời Descartes, những người đề xướng ra thuyết cơ giới về vũ trụ đã coi tâm trí lệ thuộc vào bộ máy cơ thể. Và giờ chúng ta nhận ra rằng tâm trí ảnh hưởng đến kết quả quan sát. Do đó, tôi từ bỏ. Chẳng có gì làm tôi ngạc nhiên nữa. Tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ điều gì xảy ra trên thế giới này. Tôi thực sự khá là ghen tị với những người vẫn còn có thể tin vào quyền lực tuyệt đối của khoa học hiện đại."
    Chính Ando cũng có ít nhất một chút nghi ngờ về cái gọi là quyền lực tuyệt đối của khoa học hiện đại, nhưng rõ ràng những nghi ngờ đó không mạnh mẽ như của Miyashita. Làm sao một người có thể cảm thấy thoải mái đứng trong hàng ngũ khoa học nếu như người đó vẫn chứa chấp sự hoài nghi như thế?
    "Thế là khá cực đoan đấy."
    "Tôi chưa bao giờ nói với cậu điều này, nhưng thực sự tôi là người theo triết học duy tâm."
    "Một kẻ duy tâm ư?"
    "Như đức Phật đã nói, sắc là không và không tức là sắc."
    Ando không chắc lắm Miyashita đang cố nói điều gì. Anh chắc giữa triết học duy tâm và cái thực tại là trống rỗng đó có rất nhiều điều chưa hiểu hết, nhưng giờ không phải là lúc để tìm hiểu rõ hơn luận điểm về thế giới quan của Miyashita.
    "Dù sao, trong bài phóng sự có điều gì đặc biệt khiến cậu băn khoăn không?" Ando muốn biết liệu Miyashita có nghi ngờ giống anh.
    "Ồ, cái gì cũng khiến tôi băn khoăn cả." Cà phê đã được mang đến, và Miyashita khuấy tách cà phê đầy kem và đường. Khuôn mặt đỏ ửng của anh hứng trọn ánh nắng chiếu qua cửa sổ. "Trước hết, tại sao lại là Asakawa và chỉ duy nhất Asakawa vẫn còn sống sau khi đã xem cuốn băng?"
    Miyashita nhấp một ngụm cà phê.
    "Vì anh ta đã tìm ra bùa phép, không phải à?"
    "Bùa phép?"
    "Cậu biết mà, phần bị xóa ở cuối cuốn băng."
    "Cái đoạn băng muốn buộc người xem phải làm điều gì đó."
    "Vậy nếu Asakawa đã làm mà không hề biết..."
    "Làm điều gì?"
    "Nó nằm ngay ở cuối bài phóng sự, đúng không? 'Bản chất của virus là tự sinh sản. Bùa phép: sao cuốn băng ra một bản.'"
    Rồi Ando giải thích cho Miyashita vài điều mà anh ta không biết. Có một đầu máy video trong xe của Asakawa vào thời điểm xảy ra tai nạn, và Ando tìm thấy trong căn hộ của Mai một bản sao cuốn băng đã bị ghi đè.
    Miyashita giờ dường như đã hiểu ra. "À ha, ra ý của anh ta là thế. Asakawa nghĩ bùa phép là sao cuốn băng ra một bản, và đưa cho người nào chưa xem cuốn băng xem nó."
    "Tôi chắc chắn đấy là điều anh ta đã nghĩ."
    "Vậy, anh ta đi đâu với chiếc máy VCR vào buổi sáng xảy ra tai nạn?"
    "Tất nhiên là tới nơi anh ta có thể tìm được hai người để xem cuốn băng. Anh ta hẳn phải rất sốt sắng cứu vợ và đứa con gái nhỏ."
    "Nhưng anh ta khó mà đưa được cuốn băng nguy hiểm kia cho một người hoàn toàn xa lạ xem."
    "Tôi cho rằng anh ta đến nhà bố mẹ vợ. Không thể là bố mẹ đẻ của anh ta được, vì bố anh ta còn sống khỏe mạnh. Tôi đã nói chuyện với ông ấy hôm trước."
    "Vậy là bố mẹ cô vợ đã tự đặt mình trước một mối nguy hiểm nhất thời để cứu con gái và cháu gái mình."
    "Có vẻ như chúng ta cần tìm ra họ sống ở đâu và đi hỏi cảnh sát địa phương."
    Nếu cuốn băng, kèm theo lời đe dọa, được sao chép và phổ biến, thì hẳn sẽ có thêm nhiều nạn nhân nữa trong khu vực xung quanh nhà của bố mẹ Shizu Asakawa. Nhưng nếu như vậy, thì giới truyền thông sẽ không bỏ qua. Cuốn băng còn được phổ biến ngấm ngầm, chưa được công chúng biết đến.
    Miyashita dường như cũng vừa có ý nghĩ rằng cuốn video có khả năng phát tán giống như một virus. Anh ta nói giọng chế giễu. "Có vẻ sắp tới cậu sẽ mổ nhiều tử thi lắm đây."
    Câu nói này khiến Ando chợt nhận ra một việc. Xét theo tình hình, nhiều khả năng là Mai đã xem cuốn băng. Kể từ khi cô biến mất đến giờ đã gần hai tuần. Có lẽ cuối cùng chính anh sẽ là người mổ tử thi của cô. Anh tưởng tượng cơ thể xinh đẹp của cô nằm trên bàn mổ, và điều đó khiến anh kinh hãi.
    "Nhưng Asakawa vẫn còn sống." Anh nói như cầu nguyện.
    "Vấn đề lớn nhất chúng ta đang gặp phải là: nếu Asakawa đã sao hai bản của cuốn băng, thì tại sao vợ và con gái anh ta vẫn chết?"
    "Nói cách khác, tại sao Asakawa vẫn còn sống?"
    "Tôi không biết. Virus đậu mùa có liên quan đến chuyện này, đúng không? Theo hướng đó thì hoàn toàn hợp lý khi cho rằng 'bùa phép' là sao cuốn băng nhằm giúp virus lan truyền."
    "Nó vẫn hợp lý cho đến cái chết của Ryuji. Nhưng cái chết của vợ và con gái Asakawa lại đặt ra câu hỏi đó một lần nữa."
    "Vậy, việc sao chép có phải là điều cuốn băng muốn?"
    "Tôi không biết."
    "Anh không biết giải thích tình huống này như thế nào. Hoặc là bùa phép đã chuyển sang cái gì khác, hoặc có điều gì đó không may đã xảy ra trong quá trình sao chép. Hay có lẽ cuốn băng giết bất cứ người nào xem nó bất kể họ có thực hiện theo bùa phép hay không. Nhưng như thế còn khó giải thích hơn tại sao Asakawa còn sống.
    Đồ ăn trưa đã được mang đến, hai người yên lặng một lúc, chú tâm vào việc ăn.
    Cuối cùng, Miyashita buông nĩa và nói, "Tôi thấy mình đang ở vào thế rất mâu thuẫn."
    "Ý cậu là sao?"
    "À, nếu có một cuốn băng như thế, tôi muốn xem nó. Nhưng nó có thể sẽ giết chết tôi. Tôi nói đó là một mâu thuẫn. Một tuần không phải là thời gian dài."
    "Không phải là thời gian dài?"
    "Để tìm hiểu. Nó thực sự khiến tôi tò mò. Về mặt khoa học mà nói, cái chúng ta có là một cuốn băng, một vật trung gian tấn công vào não người thông qua ý nghĩa của hình ảnh và âm thanh, bằng cách nào đó chúng có thể cấy vào cơ thể một loại virus giống virus bệnh đậu mùa."
    "Có lẽ không phải nó cấy virus. Có lẽ những hình ảnh trên cuốn băng bằng cách nào đó đã ảnh hưởng đến ADN của tế bào nạn nhân rồi biến đổi thành một loại virus bí ẩn."
    "Có thể cậu nói phần nào đúng. Tôi đang nghĩ về virus AIDS. Chúng ta không chắc chắn về nguồn gốc của nó, nhưng người ta cho rằng có gì đó đã khiến cho virus của loài người và loài khỉ, vốn tồn tại song song với nhau, tiến hóa, và đấy là điều đã sản sinh ra virus AIDS mà chúng ta biết. Dù sao thì, AIDS cũng không phải là một loại virus đã xuất hiện hàng mấy trăm năm. Phân tích chuỗi bazơ của nó cho thấy rõ ràng rằng nó phân ra thành hai chủng chỉ cách đây khoảng một trăm năm mươi năm. Thông qua một sự kiện ngẫu nhiên."
    "Và cậu muốn tìm ra trong trường hợp này sự kiện ngẫu nhiên đó là gì."
    "Tôi à, tôi nghĩ nó liên quan đến tâm trí." Miyashita nhoài người về trước cho đến khi mũi anh ta gần chạm mũi Ando.
    Tất nhiên, người ta đã biết rằng tâm trí, vốn trừu tượng và phi vật chất, có thể ảnh hưởng đến cơ thể theo nhiều cách khác nhau. Ando biết rất rõ điều này. Bằng chứng là chỉ cần suy nghĩ căng thẳng về điều gì đó sẽ dẫn đến thủng loét màng dạ dày. Bây giờ Ando và Miyashita đang cùng một hướng suy nghĩ. Trước hết, cuốn băng tạo ra cho người xem một trạng thái tâm lý đặc biệt, rồi bằng cách nào đó ảnh hưởng đến ADN của người xem, biến đổi nó đến khi loại virus bí ẩn giống virus đậu mùa sinh ra. Rồi, loại virus giống virus đậu mùa này gây ung thư trong động mạch vành xung quanh tim, dẫn đến xuất hiện khối u. Trong vòng một tuần, khối u đạt đến kích thước đỉnh điểm, chặn dòng máu và làm tim ngừng đập. Nhưng chính virus loại này giống như một kiểu virus gây ung thư, chức năng của nó là lần đường vào ADN và gây ra đột biến tế bào trong lớp giữa của động mạch vành, và nó không có tính lây nhiễm. Ít nhất, các phân tích cho đến bây giờ khiến họ nghĩ vậy.
    "Thôi nào, cậu không muốn xem à?" Miyashita thách thức.
    "À..."
    "Tôi chỉ muốn có cuốn băng đó."
    "Không, tôi nghĩ tốt hơn là không gây thêm rắc rối nữa. Cậu sẽ có kết cục như Ryuji thôi."
    "Nói về Ryuji, thế cậu đã giải mã được chưa?"
    "Chưa. Ngay cả khi đó là một mật mã, bốn mươi hai bazơ là con số quá nhỏ để làm được gì. Nó chỉ có thể chứa nhiều nhất là vài từ."
    Đây là một lời bào chữa. Thực tế Ando đã thử giải mật mã đó vài lần, nhưng mọi nỗ lực của anh đều kết thúc thất bại.
    "Tôi nghĩ mình đã biết cậu sẽ dùng ngày nghỉ để làm gì rồi."
    Lúc đó Ando mới nhận ra ngày hôm sau là dịp nghĩ lễ toàn quốc, Ngày Cảm tạ Lao động. Và do ngày kia, thứ Bảy, anh không phải làm việc, nghĩa là anh sẽ có một kỳ nghĩ cuối tuần ba ngày. Kể từ khi mất đi đứa con trai và ly thân vợ, anh không để ý nhiều lắm đến những ngày nghỉ. Ở nhà một mình chẳng được việc gì ngoài sự đau khổ, và ba ngày nghỉ cuối tuần mà không có kế hoạch làm gì khiến anh cực kỳ chán nản.
    "Ừ, à, tôi sẽ thử xem."
    Có điều, dành cả kỳ nghỉ cố đọc một thông điệp được mã hóa do một người chết gửi nghe có vẻ khá ảm đạm. Nhưng mặt khác, nếu thành công, nó cũng tạo cho anh chút cảm giác đã làm được việc. Ít nhất nó là một trò tiêu khiển.
    Do đó anh hứa với Miyashita sẽ tìm ra khi kỳ nghỉ kết thúc. "Đến thứ Hai tôi sẽ cho cậu biết Ryuji muốn nói gì."
    Miyashita với tay qua bàn đập vào vai trái Ando. "Giờ chuyện đó tùy thuộc vào cậu."

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 2
    Sau bữa trưa, Ando quay trở lại văn phòng của anh và gọi điện đến khoa Pháp y bệnh viện Đại học Joji, ở Utsunomiya, tỉnh Tochigi. Qua tìm hiểu một chút, anh đã có được thông tin rằng bố mẹ vợ của Asakawa sống ở Ashikaga, Tochigi. Bất kỳ cái chết khó hiểu nào xảy ra trong vùng đó sẽ do các bác sĩ ở Đại học Joji đảm trách mổ pháp y.
    Một vị phó giáo sư trả lời điện thoại, và Ando hỏi ông ta trong tháng trước có bệnh nhân nào chết vì suy tim do bị tắc động mạch vành không. Người đàn ông trả lời bằng một câu hỏi cộc lốc.
    "Xin lỗi, anh định nói gì thế?"
    Ando giải thích cho ông ta rằng người ta đã ghi nhận có bảy trường hợp chết vì cùng một nguyên nhân trong khu vực xung quanh Tokyo, và có những dấu hiệu cho thấy có thể có thêm nhiều nạn nhân nữa. Anh tránh nhắc đến hiện tượng dị thường.
    Điều này dường như không làm cho người đàn ông đó bớt nghi ngờ. "Vậy là anh liên lạc đến các trường y ở trong vùng?"
    "Không, không hẳn thế."
    "Thế tại sao anh lại gọi cho chúng tôi?"
    "Bởi vì khu vực của các anh có nguy cơ."
    "Có phải anh đang nói chúng tôi sẽ tìm thấy những thi thể ở Utsunomiya?"
    "Không, ở Ashikaga."
    "Ashikaga?" Việc nhắc đến cái tên này làm người đàn ông giật mình. Ông ta yên lặng, và Ando gần như cảm nhận được ông ta đang nắm chặt ống nghe.
    "Thật lạ quá. Tôi không tưởng tượng nổi làm sao anh biết được. Thực tế, vào ngày 28 tháng Mười, người ta phát hiện ở đấy có thi thể của đôi vợ chồng già. Chúng tôi đã mổ tử thi họ vào hôm sau đó."
    "Anh có thể cho tôi biết tên của họ được không?"
    "Họ của họ là Oda, tôi nghĩ vậy, còn tên cụ bà là Setsuko. Tôi quên mất tên cụ ông rồi."
    Ando kiểm tra tên bố mẹ của Shizu Asakawa: Toru và Setsuko Oda. Đó hẳn là họ rồi. Bây giờ đã có bằng chứng. Ngày 21 tháng Mười, Asakawa đã mang một đầu máy VCR lên chiếc ô tô mà anh ta thuê, rồi lái xe đến nhà bố mẹ vợ ở Ashikaga, ở đấy anh ta đưa hai bản sao của cuốn băng cho hai ông bà xem. Chắc chắn anh ta đã đảm bảo với họ rằng, nếu họ sao thêm các bản khác và cho những người khác xem trong vòng một tuần, thì tính mạng của họ sẽ không gặp nguy hiểm. Không cần phải thuyết phục nhiều, cho dù họ có hoàn toàn tin hay không câu chuyện kỳ dị của người con rể. Nếu có bất cứ cơ hội nào khiến cho tính mạng của con gái và cháu gái được bảo đảm, thì hẳn là họ sẽ sẵn sàng chấp nhận. Và thế là Asakawa đã sao hai bản, tin rằng làm như thế sẽ cứu được vợ con mình. Nhưng trên đường về nhà anh ta đã mất họ cùng một lúc, và rồi một tuần sau, hai ông bà cũng chết.
    "Tôi cá là anh sẽ rất ngạc nhiên vì điều anh phát hiện được khi mổ pháp y." Ando có thể tưởng tượng rõ ràng cú sốc của nhóm nhân viên mổ pháp y khi phát hiện ra cùng một triệu chứng trong hai thi thể.
    "Anh có thể nói điều đó sau. Ý tôi là, với thời gian chết cùng một lúc, cộng với việc họ đã để lại một bức thư, chúng tôi đương nhiên cho đó là một vụ cùng nhau tự tử. Nhưng khi mổ tử thi họ, thay vì tìm thấy chất độc, chúng tôi thấy những khối u lạ nơi động mạch vành. Ngạc nhiên không phải là từ đủ để mô tả."
    "Khoan đã," Ando cắt lời.
    "Sao?"
    "Anh nói họ để lại một bức thư?"
    "Đúng. Cũng không nhiều nhặn gì lắm, một bức thư được tìm thấy cạnh gối của họ. Có vẻ như họ viết nó ngay trước khi chết."
    Ando bối rối trước diễn biến này. Thế nghĩa là sao? Tại sao họ để lại một bức thư?
    "Anh có thể cho tôi biết bức thư nói gì không?"
    "Chờ một lúc." Vị phó giáo sư đặt ống nghe xuống, nhưng vài giây sau quay lại. "Sẽ phải mất khá lâu để tôi tìm được nó. Tôi gửi fax cho anh sau được không?"
    "Tôi rất cảm kích vì điều đó."
    Ando đọc cho người đàn ông số fax của anh rồi cúp máy.
    Sau đó anh không thể rời bàn của mình. Máy fax nằm trên ngăn giữa của chiếc bàn máy tính cách anh hai bàn. Anh xoay ghế theo góc 45 độ để hướng mặt về chiếc máy, đợi bản fax đến.
    Anh không thể thư giãn; anh thậm chí không thể dựa lưng lên ghế. Thay vì thế, trong khi ngồi đợi, trong đầu anh điểm lại dòng sự kiện cho đến tận bây giờ. Xem xét lại những việc đã xảy ra là tất cả những gì anh có thể làm. Anh quá bị phân tâm với việc bao giờ chiếc máy fax hoạt động nên cũng không suy nghĩ được gì.
    Cuối cùng, máy fax bắt đầu kêu ro ro và một bản fax bắt đầu chạy ra. Anh chờ đến khi nó kết thúc, rồi đứng dậy kéo ra. Anh quay lại ghế, trải bản fax lên bàn, và đọc:
    Gửi Bs. Ando, Trường Y Đại học Fukuzawa. Đây là bức thư ông bà Oda đã để lại. Làm ơn cho tôi biết bất kỳ diễn biến mới nào.
    Bs. Yokota
    Trường y Đại học Joji
    Dưới dòng chữ nguệch ngoạc của vị giáo sư là vài dòng có kèm theo tên của ông bà Oda. Chữ viết tay không phải của Yokota; hẳn anh ta đã sao từ bản gốc.
    Sáng 28 tháng Mười
    Chúng tôi nhận trách nhiệm xử lý những cuốn băng. Không còn gì phải lo lắng nữa. Chúng tôi mệt mỏi rồi. Yoshimi và Kazuko, hãy chăm lo mọi thứ.
    Toru Oda Setsuko Oda
    Nội dung rất ngắn, nhưng như vậy cũng đủ để rõ rằng họ biết mình đang đối mặt với cái chết. Yoshimi và Kazuko có lẽ là hai người con gái khác của họ. Nhưng câu trước là để nhắn nhủ cho ai.
    Nghĩa của chúng là gì, họ đã xử lý những cuốn băng?
    Có phải ý họ là đã vứt chúng đi? Chắc chắn không thể hiểu là họ đã sao chép chúng.
    Ando quyết định thử hình dung lại tình trạng tâm lý của ông bà Oda từ đầu.
    Chủ nhật, ngày 21 tháng Mười, con rể họ xuất hiện trước cửa và nói với họ rằng tính mạng của Shizu và Yoko đang bị đe dọa bởi lời nguyền trong một cuốn băng. Ông bà Oda đồng ý sao cuốn băng. Nhưng sau đấy, vào cùng ngày đó, Shizu và Yoko đã chết vào thời điểm được biết trước. Thậm chí nếu lúc đầu ông bà Oda có nghi ngờ về câu chuyện của Asakawa, thì giờ họ chắc chắn phải tin vào sức mạnh của cuốn băng. Rồi, sau lễ tang, họ biết được kết quả mổ tử thi: suy tim vì nguyên nhân không thể giải thích được. Lúc này, ông bà Oda hẳn đã quyết định từ bỏ hy vọng tự cứu mình. Con gái và cháu gái họ đã mất đi mạng sống cho dù đã tuân theo yêu cầu của cuốn băng. Ông bà Oda hẳn đã nghĩ rằng họ không thể thoát được cái chết cho dù họ có làm gì đi nữa. Mệt mỏi vì mọi nỗ lực đều dẫn đến cái chết, và có lẽ chán nản về cuộc sống nói chung, họ quyết định không sao cuốn băng và ngồi yên chờ đợi cái chết tiến đến. Nhưng nếu tin vào bức thư, trong khi chờ chết, họ đã "xử lý" cuốn băng là nguồn gốc của mọi đau khổ.
    Không có cách nào để Ando biết được họ đã xử lý cuốn băng như thế nào. Có lẽ họ đã xóa hoàn toàn và vứt chúng đi, hay họ đã chôn chúng trong sân. Trong trường hợp nào đi nữa, khi Ando thử vẽ sơ đồ đường đi của cuốn băng trên một tờ giấy nháp, lúc đó anh quyết định nghiêng về giả thiết cuốn băng bị xóa.
    Đầu tiên có một cuốn băng ở Villa Log Cabin, nhà số B-4, nguồn gốc của mọi tai họa, được tạo ra khi một đầu máy VCR để chế độ ghi đã chụp được những hình ảnh lên cuốn băng. Asakawa đã mang cuốn băng về nhà mình và sao một bản cho Ryuji. Đến lúc này có hai bản. Tuy nhiên, dường như bản sao Ryuji có đã tìm được đường đến tay Mai, và đã bị xóa gần như toàn bộ ngoại trừ mười giây đầu tiên. Trong khi đó bản sao do Asakawa giữ được chuyển cho anh trai anh ta là Junichiro, người này đã vứt nó đi cùng với chiếc đầu máy VCR bị hỏng. Bản gốc của Asakawa được sao thêm hai bản nữa, và được đưa cho ông bà Oda, nhưng hai bản sao này đã bị xử lý. Tóm lại, các cuốn băng chứa đựng lòng căm thù của Sadako Yamamura giờ đã biến mất khỏi trái đất.
    Ando xem đi xem lại sơ đồ hình cây mà anh đã tạo ra để chắc chắn là mình vẽ đúng. Nhưng thực sự cuốn băng dường như không đi đến tuyệt diệt. Chỉ hai tháng sau khi nó xuất hiện, kể từ cuối tháng Tám, nó đã giết chín nạn nhân, và giờ mối tai họa đó biến mất. Nhưng... Ando nghĩ. Nếu cuốn băng giết tất cả những ai xem nó bất kể họ có sao chép hay không, sớm muộn gì nó cũng đi đến tuyệt diệt. Chỉ bằng cách đe dọa nó mới có khả năng tái sinh, để thích nghi với môi trường và tồn tại. Một khi cái lối thoát duy nhất đó bị phát hiện ra là dối trá, thì cuốn băng sẽ không tránh khỏi bị dồn vào ngõ cụt.
    Nếu nó bị tuyệt diệt, nghĩ là người ta đã thấy những cái chết bí ẩn cuối cùng. Nếu không còn ai có thể phơi nhiễm với những hình ảnh đó, thì không còn phải lo có ai sẽ chết vì chứng suy tim khó hiểu nữa. Nhưng một điểm cơ bản lại chiếm lấy tâm trí Ando.
    Tại sao Asakawa vẫn còn sống?
    Câu hỏi này lại được nối tiếp bởi một câu hỏi khác.
    Mai Takano ở đâu?
    Theo logic, cuốn băng dường như đã biến mất. Nhưng linh tính của Ando phủ nhận điều đó. Chuyện này không thể qua đi dễ dàng như thế được. Có điều gì không ổn.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 3
    Ando lấy chìa khóa tại bàn thủ thư, rồi vừa cởi áo jacket vừa đi đến tủ đựng đồ. Trời lúc này vẫn đang mùa đông. Bất cứ ai thấy anh, chỉ mặc mỗi áo sơ mi, sẽ rùng mình thay cho anh. Nhưng Ando dễ đổ mồ hôi, khi mặc áo sơ mi anh cũng cảm thấy nóng ngay cả trong phòng thư viện có máy điều hòa. Anh lấy bút và sổ ra khỏi cặp, quấn áo jacket quanh cặp và nhét vào ngăn tủ.
    Trong cuốn sổ anh kẹp tờ giấy có bản phân tích ADN của virus tìm thấy trong máu Ryuji. Hôm nay Ando quyết tâm thúc đẩy việc giải mã, đó là lý do anh ở đây trong thư viện vào sáng sớm thế này, nhưng khi nhìn vào chuỗi ký tự vô nghĩa trên bản in, mắt anh đờ ra. Không cách nào để anh có thể giải được mật mã này. Nhưng nghĩ kỹ lại, anh làm việc này một phần là để giết thời gian. Anh không thể nghĩ ra điều gì tốt hơn để vượt qua được ba ngày nghỉ cuối tuần trống trải.
    Anh kẹp cuốn sổ vào dưới cánh tay và đi thẳng đến phòng đọc trên tầng ba, ở đó anh chọn một chỗ ngồi cạnh cửa sổ.
    Là một sinh viên từng chơi trò giải mật mã với Ryuji, ở nhà anh có khá nhiều sách về mật mã. Nhưng vì kết hôn và sau đó ly dị, anh đã chuyển nhà ba lần kể từ lúc ấy, còn chưa kể đến việc anh đã mất hứng thú với trò chơi này; những cuốn sách cứ biến mất dần theo thời gian. Có một số loại mật mã nhất định mà anh không thể hy vọng sẽ giải được mà không có sự trợ giúp của bản thay thế ký tự và sơ đồ tần số xuất hiện các chữ cái được trình bày trong những sách chuyên ngành, anh nghĩ sẽ chẳng thể làm được gì nếu không có sự trợ giúp này. Và quả là ngớ ngẩn khi đi mua mới toàn bộ số sách đó, nên cuối cùng anh phải đến thư viện.
    Đã có thời anh nắm khá chắc những kiến thức cơ bản về xây dựng và hóa giải các mật mã, nhưng đó là chuyện của mười năm trước đây, vì vậy trước hết anh đọc qua một cuốn sách cơ bản về mật mã. Anh quyết định rằng bước đầu tiên nên làm là quyết định xem loại mật mã nào chứa trong chuỗi bazơ của loài virus giống virus đậu mùa này.
    Nhìn chung mật mã có thể chia ra thành ba loại: mật mã thay thế, trong đó các chữ cái của thông điệp được thay thế bằng những chữ cái, biểu tượng hoặc con số khác; mật mã hoán vị, trong đó trật tự các từ trong thông điệp bị thay đổi; và mật mã chèn thêm, trong đó người ta chèn thêm một số từ vào giữa các từ của thông điệp. Những số lòi ra từ bụng Ryuji sau khi mổ, mà Ando có thể liên hệ đến từ tiếng Anh "ring" là một ví dụ tiêu biểu của mật mã thay thế đơn giản.
    Anh không mất nhiều thời gian cũng đoán được rằng mật mã trong virus phải thuộc dạng mật mã thay thế. Cái anh phải xử lý là một nhóm gồm bốn chữ cái, ATGC, tương ứng với bốn bazơ, vì vậy nhiều khả năng mật mã này bao gồm việc gán một ký tự cụ thể cho một nhóm các chữ cái. Như thế giống với mật mã nhất.
    Giống mật mã. Khi ý nghĩ đó nảy ra trong đầu, nó khiến anh ngồi thẳng dậy và suy nghĩ. Mục đích cơ bản của một mật mã là chuyển tải thông tin từ một bên cho bên khác mà không để bất cứ bên thứ ba nào có thể biết được. Đối với các sinh viên, mật mã chẳng là gì khác hơn một trò chơi, một thứ khiến người ta suy nghĩ nát óc. Nhưng, ví dụ trong chiến tranh, khi tính chất nhạy cảm với kết quả giải mật mã có thể làm dấy lên một làn sóng xung đột, sử dụng một mật mã "giống mật mã" là thực sự quá nguy hiểm. Nói cách khác, cách để kẻ thù không phá được mật mã là làm cho chúng không giống như những mật mã nếu nhìn qua. Nếu bắt được một tên gián điệp của kẻ thù và phát hiện ra hắn ta mang theo một cuốn sổ có những dãy số đáng ngờ, thì có thể dám chắc đó là thông tin tối mật đã được mã hóa. Thậm chí cho phép khả năng đó chỉ là cái bẫy, thì khi một mật mã được xác định như thế, khả năng nó bị hóa giải tăng lên đáng kể.
    Ando cố suy nghĩ một cách logic. Nếu mục đích của một mật mã là để tránh bên thứ ba khỏi biết được, thì mật mã chỉ nên "giống mật mã" đối với người mà thông tin được dự định được chuyển đến. Nhìn vào bốn hai chữ cái được thêm vào chuỗi bazơ của virus, Ando thấy chúng hoàn toàn giống mật mã. Đó là ấn tượng ngay từ lần đầu tiên anh nhìn vào dãy ký tự ấy.
    Vậy thì tại sao lại như thế?
    Anh cố phân tích nguồn gốc của ấn tượng đó. Tại sao anh lại thấy nó giống-mật-mã? Không phải vì chưa bao giờ người ta phát hiện thấy sự lặp lại khó hiểu đó trong quá trình phân tích trình tự ADN. Mà là vì, sự lặp lại đặc biệt này dường như mang ý nghĩa. Nó hiện ra ở mọi nơi người ta nhìn vào chuỗi, cho dù người ta có cắt ra ở đâu. Nó giống như thể đang gây sự chú ý, bảo rằng, ta là một mật mã đây, kẻ đần độn kia. Do Ando đã có kinh nghiệm với những con số lòi ra từ bụng Ryuji, nên anh thấy chuỗi ký tự ấy dường như giống mật mã một cách đặc biệt. Nói cách khác, có lẽ từ "ring" có hai mục đích khi nó chui ra ngay lúc ấy: nó không chỉ nhằm cảnh báo cho Ando sự tồn tại của phóng sự Ring, mà nó cũng chính là một dạng báo trước. Như thể Ryuji muốn nói với anh, có thể tôi sẽ dùng lại mật mã khi tình huống cho phép, cậu cứ chờ đợi và đừng bỏ lỡ. Và có lẽ anh ta đã dùng dạng mật mã thay thế đơn giản nhất như một lời ám chỉ.
    Với chuỗi bazơ bí ẩn chỉ tìm thấy trong virus trong người Ryuji, có thể chắc chắn khi cho rằng chính anh ta là người gửi mật mã. Tất nhiên, sự thật không thể chối cãi là Ryuji đã chết và thi thể anh ta đã hóa thành tro, nhưng mẫu mô của anh ta vẫn còn ở trong phòng xét nghiệm. Hàng vô số những mẫu ADN của anh ta, thiết kế tạo nên cá thể Ryuji, vẫn còn giữ lại trong các tế bào của mẫu mô đó. Nếu ADN đó kế thừa ý chí của Ryuji, và đang cố diễn tả điều gì đó bằng những con chữ thì sao?
    Đấy là một giả thuyết vô lý hoàn toàn vô giá trị đối với một nhà giải phẫu như Ando. Nhưng nếu anh thành công trong việc biến những ký tự kia thành những từ có nghĩa bằng phương pháp thay thế, thì nó sẽ thắng tất cả những lời giải thích khác về tình huống này. Theo lý thuyết, có thể lấy ADN từ mẫu máu của Ryuji và dùng nó để tạo ra một cá thể giống hệt như Ryuji, một người nhân bản vô tính. Tập hợp ADN này mang ý chí của Ryuji và gây ảnh hưởng đến virus có trong máu, chèn vào một hoặc nhiều từ. Bỗng nhiên Ando cảm thấy thiên tài tuyệt đối và sự láu cá của Ryuji đằng sau chuyện này. Tại sao anh ta chỉ chèn thông điệp vào virus, một kẻ xâm nhập, mà không chèn vào tế bào hồng cầu của anh ta? Bởi vì, với kiến thức về y khoa của mình, Ryuji biết rằng ADN từ những tế bào khác sẽ không có cơ hội nào được phân tích. Anh đã biết rằng chỉ có thể dựa vào loại virus gây ra những cái chết, thông điệp mới được chạy qua máy giải mã ADN, nên anh ta tập trung nỗ lực vào ADN của virus. Do đó những từ mà anh ta gửi đi sẽ được tiếp nhận.
    Tất cả những điều đó cuối cùng dẫn Ando đến một kết luận. Vì với anh mật mã này trông giống một mật mã, nên về cơ bản nó không hoạt động như một mật mã thông thường. Mà chỉ vì ADN của Ryuji không còn cách nào khác để giao tiếp với bên ngoài. Chuỗi xoắn kép ADN được tạo thành từ bốn bazơ, các bazơ này được biểu diễn bằng bốn chữ cái ATGC. Ando không thể nghĩ ra cách nào khác để biết được thông điệp của nó ngoài việc kết hợp bốn chữ cái đó theo nhiều cách khác nhau. Cách này được chọn vì không còn cách nào khác cả. Đây là biện pháp duy nhất sẵn có mà Ryuji có thể sử dụng.
    Bỗng nhiên mọi nỗi tuyệt vọng mà Ando cảm thấy cách đây vài giây đã biến mất, thay vào đó là sự tự tin phấn chấn.
    Có lẽ mình có thể giải được giải được mật mã này.
    Anh muốn hét lên. Nếu ý chí của Ryuji, rơi rớt lại trong ADN của anh ta, đang cố nói với Ando, thì dường như rất có lý khi nghĩ rằng từ ngữ được sử dụng sẽ là những từ Ando dễ dàng hóa giải. Tại sao chúng phải khó hơn mức cần thiết? Ando quay lại và kiểm nghiệm dòng lý lẽ của mình để xem có kẽ hở nào trong suy luận của anh không. Nếu bước đầu tiên anh đi sai, thì anh sẽ mãi lang thang mà không bao giờ tìm ra câu trả lời.
    Anh không còn thấy việc mình đang làm là để giết thời gian nữa. Giờ đây, khi cảm thấy rằng mình thực sự có thể giải mã được thông điệp, anh nóng lòng muốn biết nó nói gì.
    Phần còn lại của buổi sáng, cho đến giờ ăn trưa, Ando làm việc với hai cách tiếp cận.
    Chuỗi bazơ mà anh phải xử lý là:
    ATGGAAGAAGAATATCGTTATATTCCTCCTCCTCAACAACAA
    Vấn đề đầu tiên là nên phân chia các ký tự này như thế nào. Anh thử chia chúng thành các nhóm hai ký tự và nhóm ba ký tự.
    Trước hết, nhóm hai ký tự:
    AT GG AA GA AG AA TA TC
    GT TA TA TT CC TC CT CC
    TC AA CA AC AA
    Coi một cặp ký tự là một đơn vị, bốn ký tự sẵn có sẽ cho mười sáu cặp kết hợp khả dĩ. Anh tự hỏi liệu một cặp có thể đại diện cho một chữ cái không.
    Nhưng điều này ngay lập tức dẫn đến một câu hỏi khác: thông điệp này được viết bằng ngôn ngữ nào?
    Có lẽ không phải là tiếng Nhật tượng hình. Tiếng Nhật có gần năm mươi ký tự, quá nhiều so với con số mười sáu mà phương pháp chia theo cặp đôi cho phép. Tiếng Anh và tiếng Pháp đều có hai sáu chữ cái, trong khi tiếng Ý chỉ có hai mươi. Nhưng anh cũng biết mình không thể bỏ qua khả năng thông điệp được viết bằng tiếng Nhật Latin hóa. Đôi khi việc xác định ngôn ngữ của mật mã chiếm một nửa phần công việc.
    Nhưng với Ando vấn đề này đã được giải quyết. Việc anh có thể thay thế những con số 178136 để cho ra chữ "ring" có thể xem là một gợi ý của Ryuji rằng mật mã hiện tại cũng cho ra kết quả dưới dạng tiếng Anh. Ando chắc chắn về điểm này. Do đó vấn đề ngôn ngữ đã được giải quyết.
    Bốn mươi hai chữ cái của các bazơ có thể chia ra thành hai mốt cặp. Nhưng có một số cặp giống hệt nhau: có bốn cặp AA, ba cặp TA, ba cặp TC, và hai cặp CC. Chỉ có mười ba kiểu cặp đôi. Ando viết lại các con số lên một tờ giấy và giở một cuốn sách hướng dẫn giải mật mã đến khi tìm hiểu được biểu đồ trình bày tần số xuất hiện của các ký tự trong bảng chữ cái tiếng Anh.
    Anh biết mặc dù bảng chữ cái tiếng Anh có hai sáu chữ cái, không phải tất cả các chữ cái đó xuất hiện với số lần ngang nhau trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày. Ví dụ E, T và A là những chữ cái thường xuất hiện, trong khi đó Q và Z có lẽ chỉ xuất hiện một hoặc hai lần trên một trang sách. Hầu hết các tài liệu hướng dẫn giải mật mã đều có rất nhiều dạng bảng tần số xuất hiện chữ cái được trình bày ở phần cuối, bên cạnh những số liệu thống kê tham khảo khác. Sử dụng các bảng và thống kê đó giúp xác định dễ dàng hơn ngôn ngữ của thông điệp được mã hóa.
    Trong trường hợp này, những số liệu trong các bảng cho anh biết rằng trong một cụm từ tiếng Anh có hai mốt chữ cái thì số lượng bình quân của các chữ cái khác nhau được sử dụng là mười hai. Ando ngồi thần ra. Cái anh đang có là mười ba chữ cái khác nhau, không hề quá nhiều so với số bình quân. Điều này, xét về mặt thống kê, cho anh biết rằng chẳng có gì sai khi chia chuỗi bazơ ra thành hai mốt cặp và giả định mỗi cặp đại diện cho một chữ cái.
    Cân nhắc khả năng đó một lát, bước tiếp theo Ando chia chuỗi bazơ thành từng bộ ba chữ cái:
    ATG GAA GAAGAATAT CGT TAT
    CCT CCT CAACAA CAA ATT CCT
    Việc phân chia này cho mười bốn bộ ba, hay bảy kiểu bộ ba: ATG, GAA, TAT, CGT, ATT, CCT và CAA. Biểu đồ cho anh biết rằng một cụm từ tiếng Anh mười bốn chữ cái chứa bình quân chín chữ cái khác nhau. Không quá nhiều so với bảy chữ cái anh có.
    Ngay lập tức Ando nhận thấy rằng phân chia theo cách này có rất nhiều sự trùng lặp. GAA, CCT và CAA mỗi bộ xuất hiện ba lần, và TAT xuất hiện hai lần. Nhưng điều thực làm Ando băn khoăn GAA, CCT và CAA xuất hiện ba lần liên tiếp. Nếu anh gán cho mỗi bộ ba một chữ cái thuộc hệ alphabet, trong thông điệp ngắn ngủi này có ba trường hợp một chữ cái xuất hiện ba lần liên tiếp. Vốn tiếng Anh của Ando đủ để anh biết rằng hai chữ cái trùng lặp đứng cạnh nhau hoàn toàn không phải là hiếm. Nhưng anh không thể nghĩ ra một từ tiếng Anh nào có ba chữ cái giống nhau đứng cạnh nhau. Khả năng duy nhất anh có thể nghĩ đến là tình huống trong đó một từ kết thúc với hai chữ cái giống nhau, và từ tiếp theo bắt đầu bằng chính chữ cái đó, ví dụ "too old" hoặc "will link".
    Anh cầm lên một quyển sách tiếng Anh tình cờ tìm thấy ở gần đó và bắt đầu kiểm tra ngẫu nhiên một trang xem mức độ thường xuyên một chữ cái xuất hiện ba lần liên tiếp. Anh giở qua bốn hay năm trang gì đấy mới tìm được một trường hợp. Anh kết luận rằng khả năng sự xuất hiện này xảy ra ba lần trong một chuỗi mười bốn chữ cái về cơ bản là bằng không. Ngược lại, chia bốn hai chữ cái này theo các cặp đôi thì chỉ có một chữ cặp ký tự đứng cạnh nhau. Do đó, anh thấy rằng sẽ hợp lý hơn khi đi theo lựa chọn đầu tiên và chia bazơ thành các nhóm hai chữ cái.
    Anh đã thu hẹp các khả năng. Từ đây anh có thể tiếp tục bằng phương pháp thử và lỗi.
    AT GG AA GA AG AA TA TC
    GT TA TA TT CC TC CT CC
    TC AA CA AC AA
    Cặp AA xuất hiện bốn lần, điều đó có nghĩa là nó tương ứng với một chữ cái được dùng đến rất thường xuyên. Tham khảo một bảng khác, Ando khẳng định chữ cái thường được dùng nhất trong tiếng Anh là E. Do đó, anh giả sử rằng AA nghĩa là E. Cặp chữ phổ biến thứ hai trong dãy là TA và TC, mỗi cặp xuất hiện ba lần. Anh cũng nhận thấy TA đứng sau AA một lần, còn AA đứng sau TC một lần. Điều này có thể quan trọng, do cũng có những thống kê về sự kết hợp các chữ cái. Anh bắt đầu thử các khả năng khác nhau của TA và TC, bằng cách tham khảo các bảng thống kê.
    Với những chữ thường đứng sau chữ E và cũng là những chữ phổ biến, chữ A dường như là ứng cử viên khả dĩ nhất, điều đó có nghĩa là TA có thể là A. Theo logic này, anh nghĩ TC có lẽ tương ứng với chữ T. Hơn nữa, theo cách kết hợp với các chữ cái khác, anh đoán CC có thể là N. Cho đến lúc đó, các số liệu thống kê dường như phục vụ cho anh rất tốt. Ít ra anh không gặp phải trục trặc nào cả.
    Đây là những chữ cái anh đã tìm ra:
    ˍˍ E ˍˍ EAT ˍ AA ˍ NT ˍ NTE ˍˍ E
    Dãy bazơ, từng là mớ chữ cái lộn xộn, giờ dường như có vẻ giống với tiếng Anh. Bước tiếp anh cố điền vào những chỗ trống bằng cách dựa trên những điều anh biết về sự kết hợp giữa các phụ âm - nguyên âm, và vẫn tham khảo các bảng.
    SHERDEATYAALNTINTECME
    Ba chữ cái đầu tiên dường như tạo thành chữ "she", nhưng những chữ còn lại không lập thành chữ nào cả, cho dù anh có chia ra như thế nào. Anh cố đảo vị trí của các chữ E, A, T, N và thay đổi các chữ cái khác dựa vào linh cảm. Khi việc viết những khả năng ra trên giấy trở nên quá mất thời gian, anh xé những tờ giấy ra khỏi cuốn sổ, trước hết là để tạo ra hai sáu cái thẻ, mỗi thẻ ứng với một chữ cái. Mọi việc bắt đầu giống như một trò chơi.
    THEYWERBORRLNBINBECME
    Khi sắp xếp như thế này, cụm từ đầu tiên nảy ra trong đầu Ando là "they were born". Anh biết phần chính tả có đôi chút sai lệch, nhưng có lẽ cũng không quá sai. Vả lại anh thấy ý nghĩa của nó có phần nào hợp lý. Nhưng cảm giác rằng tồn tại đâu đó một cách sắp xếp khác hợp lý hơn, nên anh tiếp tục trò chơi.
    Sau khoảng mười phút mày mò, Ando nghĩ anh có thể đoán ra kết quả sẽ như thế nào, nên anh dừng lại. Nếu như bên cạnh có một máy vi tính, mọi việc sẽ dễ dàng hơn rất nhiều, anh nghĩ. Những chữ cái thứ ba, sáu, tám và hai mốt giống nhau. Chữ thứ bảy, mười và mười một giống nhau. Chữ thứ tám, mười bốn và mười bảy giống nhau. Chữ thứ mười ba và mười sáu giống nhau. Cụm từ dài hai mốt chữ cái. Nếu anh lập các điều kiện đó và đưa vào máy tính, có lẽ nó sẽ cho ra kết quả, với điều kiện anh có điều chỉnh phù hợp về chữ cái thường được sử dụng. Nhưng chắc chắn máy tính sẽ cho ra nhiều kết quả khả dĩ. Hẳn là phải có vô số cụm từ có nghĩa trong tiếng Anh thỏa mãn những điều kiện ấy. Làm sao anh có thể nói cụm từ nào là thông điệp Ryuji gửi cho anh? Chỉ khi có dấu hiệu nào trong đáp án có thể cho anh biết ngay khi nhìn qua rằng đó là thông điệp của Ryuji, giống như kiểu một chữ ký vào cuối bức thư. Nhưng nếu không có, anh sẽ lạc lối.
    Ando nhận ra rằng anh đang ở vào ngõ cụt. Anh gục đầu, thấy mình thật ngu ngốc vì đến giờ mới nhận ra điều này. Nếu trở lại thời sinh viên, khi linh cảm giải mật mã của anh được mài giũa sắc bén hơn, anh sẽ nắm được thông điệp này trong một hay vài phút. Anh phải thay đổi cách suy nghĩ. Anh cần một giả thiết mới.
    Ando mải mê đến nỗi không còn chú ý đến thời gian trôi qua. Anh nhìn đồng hồ, thấy đã gần một giờ chiều. Anh đói. Anh đứng dậy, định sẽ đi ăn ở quán ăn trên tầng bốn. Thay đổi quang cảnh xung quanh có thể tốt cho anh. Phương pháp loại suy cùng cảm hứng: anh sẽ cần cả hai nếu muốn tìm ra đáp án. Và anh thường tìm được cảm hứng trong khi ăn.
    Đáp án rồi sẽ phải rõ ràng thôi.
    Anh lẩm nhẩm như niệm thần chú trong khi đi lên tầng bốn.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 4
    Vừa ăn trưa, Ando vừa nhìn ra ngoài cửa sổ ngắm cây cối bên dưới, ngắm những đứa trẻ chơi xích đu và bập bênh trong công viên. Đã hơn một giờ, khi anh đến, quán ăn đông nghịt, nhưng bây giờ đã có nhiều ghế trống. Bản in chuỗi bazơ nằm trên bàn cạnh khay nhôm của anh, nhưng anh không nhìn vào đó.
    Một bức tường của quán ăn có những cửa sổ cao từ sàn lên trần, vì vậy không có gì cản tầm mắt anh ngắm bọn trẻ vui chơi. Giống như đang xem một bộ phim câm. Mỗi khi thấy một cậu bé tầm năm tuổi, ánh mắt Ando lại tập trung vào đó. Ando không hề nhận ra là mình đang nhìn chằm chằm cậu bé, và phải mất vài phút anh mới thoát ra khỏi trạng thái ấy.
    Đã có lần anh đến thư viện cùng con trai. Đó là một ngày Chủ nhật cách đây hai năm, khi anh còn sống ở căn hộ Nam Aoyama. Ando đột nhiên nhớ ra anh cần tìm một số dữ liệu cho bài thuyết trình định trình bày tại một buổi hội thảo nghiên cứu, cho nên anh quyết định đến thư viện. Anh dắt Takanori đi theo. Nhưng khi đến nơi, ở lối vào có một tấm biển đề TRẺ EM DƯỚI 18 TUỔI KHÔNG ĐƯỢC VÀO. Anh không thể yên tâm bắt thằng bé đợi ở ngoài trong khi anh nghiên cứu, do đó anh từ bỏ ý định và cùng đi chơi với con trong công viên. Anh vẫn còn nhớ mình đứng sau ghế xích đu, đẩy cho Takanori; anh còn nhớ cả nhịp đung đưa của ghế đu. Chính cái xích đu đó giờ đang đung đưa, dưới tán lá vàng của cây bạch quả. Anh không thể nghe thấy âm thanh, thậm chí không thể thấy biểu hiện trên nét mặt của lũ trẻ khi chúng lần lượt duỗi chân ra rồi co chân lại. Nhưng trong đầu anh, anh vẫn nghe rõ tiếng con mình.
    Nhưng anh lại đang lan man rồi. Anh quay lại nhìn trang giấy và cầm bút lên.
    Đã đến lúc phải trở lại với những kiến thức cơ bản về giải mã. Không có cách nào khác để phá mật mã này ngoài việc đưa ra nhiều giả thiết, và rồi đi theo từng giả thiết một. Khi một giả thiết trở nên rõ ràng là sai, điều tốt nhất nên làm là nhanh chóng bỏ qua nó và chuyển sang giả thiết khác. Với một thông điệp chỉ có hai mốt chữ cái, anh sẽ không thể chỉ dựa trên bảng tần số xuất hiện các chữ cái và quy tắc kết hợp chúng. Thực sự, nếu mật mã phức tạp đến mức đòi hỏi một giải pháp chuyển đổi đặc biệt, thì có nguy cơ là nó quá khó, và trong trường hợp ấy nó không thể chuyển tải cái mà nó muốn chuyển tải. Không, anh chỉ cần lần qua hết các giả thiết theo phương pháp loại suy. Nếu một giả thiết là sai, anh cần bỏ qua nó, chỉ có thế thôi.
    Tuy nhiên còn một giả thiết khác mà Ando nghĩ anh đã bỏ qua quá sớm. Anh chợt nghĩ mật mã này có thể là một phép đảo chữ cái.
    ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT
    CCT CCT CAA CAA CAA ATT CCT
    Anh đã bỏ qua cách tiếp cận này bởi vì nó dẫn đến sự lặp lại ba lần của cùng một chữ cái, một điều bất thường trong tiếng Anh. Nhưng nếu chính những ký tự đó cần được sắp xếp lại? Anh nghĩ đến một trường hợp mà anh đã từng đọc, trong đó câu "Bob opened the door" đã được mã hóa thành OOOOEEEBBDDTPNHR. Dĩ nhiên, một chuỗi có quá nhiều ký tự lặp lại không thể tạo thành một cụm từ có nghĩa trong tiếng Anh, nhưng khi sắp xếp lại theo những quy tắc nhất định, nó sẽ cho ra một câu hoàn toàn bình thường.
    Điều này có thể có tác dụng, anh nghĩ.
    Nhưng ngay khi chuẩn bị bắt tay vào việc, anh dừng lại. Anh cũng có thể biết được điều này sẽ dẫn đến đâu. Nếu anh không những cần xác định từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào, mà còn phải tìm cách để sắp xếp lại các ký tự, thì nhiệm vụ ấy đột nhiên trở nên khổng lồ. Và không chỉ là vấn đề thời gian. Nếu không có một chìa khóa ở dưới dạng nào đấy, rốt cuộc anh sẽ gặp phải vấn đề mà anh đã gặp lần trước: có quá nhiều giải pháp khả dĩ mà không biết chọn giải pháp nào. Anh nghĩ về những chữ số đã dẫn anh đến chữ "ring" và phân vân, liệu chúng có thể là một dạng chìa khóa không, để chỉ cho anh đi theo đúng trật tự sắp xếp các chữ cái. Nhưng trước hết anh còn phải tìm ra từng bộ ba đại diện cho chữ cái nào.
    Một ngõ cụt nữa.
    Mình cần một góc độ xem xét hoàn toàn mới, Ando tự nhủ. Anh đang cố tiếp tục với phương pháp loại suy, nhưng anh có cảm giác như đang lặp đi lặp lại cùng một việc. Có lẽ anh quá ràng buộc với ý tưởng gán mỗi cặp hai hoặc ba bazơ tương ứng với một chữ cái tiếng Anh.
    Đáp án phải là cái gì đấy rõ ràng, cái mình có thể tìm ra mà không phải trải qua một quá trình dài và phức tạp.
    Anh cảm thấy sự tập trung của mình chùng xuống, mắt anh lơ đễnh nhìn ra ngoài trang giấy. Đột nhiên anh nhận ra mình đang nhìn mái tóc của một thiếu nữ ngồi cùng bàn ở đầu bên kia. Khi ngả đầu xuống như thế, trông cô giống Mai Takano, đặc biệt là phần trán.
    Bây giờ cô ấy ở đâu?
    Anh lo lắng cho sự an nguy của cô, đặc biệt khi anh nghĩ đến việc cô từng là người tình của Ryuji.
    Có thể nào Ryuji thông qua mật mã này đang cố cho mình biết cô ấy ở đâu?
    Anh xem xét khả năng đó một lúc, nhưng rồi loại bỏ nó bằng một nụ cười chế giễu, vì thấy quá ư là giống truyện tranh. Thật trẻ con khi tưởng tượng mình là thám tử nổi tiếng đi cứu nữ nhân vật chính thoát khỏi tình huống nguy hiểm chết người. Đột nhiên Ando thấy toàn bộ chuyện này thật ngớ ngẩn. Có thể đây hoàn toàn không phải là một mật mã. Có lẽ có một sự giải thích hoàn toàn khoa học về việc làm thế nào các chuỗi bazơ đó có trong ADN của virus. Khi thừa nhận khả năng đó, Ando cảm thấy niềm say mê giải mã của anh hoàn toàn biến mất. Có phải anh chỉ đang giết thời gian? Thế mà anh đã làm việc cật lực với nó.
    Ánh mặt trời sắp lặn nhuộm vàng lông trên cánh tay anh. Mọi hăm hở sáng nay giờ đã biến mất. Anh nghĩ đến việc chuyển sang ngồi ghế khác, nơi mặt trời không chiếu vào anh, và nhổm dậy. Tuy nhiên, khi nhìn quanh, anh thấy bao quanh mình toàn là bọn trẻ, những sinh viên đại học hoặc học sinh trung học đang ôn thi đại học, tất cả đều ngập trong hàng núi sách vở. Chuyển sang chỗ khác không giúp anh lấy lại được sự tập trung. Toàn bộ phòng đọc chìm trong không khí uể oải. Ando lại ngồi xuống chỗ cũ.
    Hãy suy nghĩ một cách logic đi nào, anh tự nhủ. Phải có một công thức nào đó.
    Anh ngồi thẳng dậy. Anh đã và đang cố gán những bộ ba bazơ cho các ký tự trong bảng chữ cái, nhưng việc đó không tạo thành một công thức nào cả. Nếu anh có thể chuyển nó thành một hàm số song ánh, hoặc thậm chí một hàm số toàn ánh, câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng. Song ánh, có lẽ là toàn ánh... Chắc chắn cần phải tìm ra một công thức như thế.
    Anh đứng dậy. Nói một cách logic, không còn cách nào khác cả. Linh tính mách bảo rằng anh đã tiến thêm một bước gần tới đáp án, và nhận thức đó thổi bay mọi mệt mỏi trong anh, thúc đẩy anh hoạt động.
    Anh bước đến gian sách khoa học tự nhiên, tìm một cuốn về ADN, và bắt đầu điên cuồng lật trang. Khi sự phấn khích trỗi dậy, bàn tay anh lại đổ mồ hôi. Cái mà anh đang tìm là một bảng trình bày từng bộ bazơ sẽ tạo ra axit amin nào.
    Cuối cùng anh cũng tìm được một bảng như thế. Anh mang cuốn sách về đặt ngay ngắn trên bàn, giở đến trang có bảng đó, để cạnh thông điệp mã hóa.
    Khi một bộ bazơ, một codon, tạo ra một protein, thì codon được dịch thành axit amin. Bảng Ando đã tìm thấy có chứa những nguyên tắc phiên dịch các axit amin. Có hai mươi loại axit amin. Có bốn bazơ, nghĩa là có thể tạo ra sáu mươi tư bộ ba khác nhau. Sáu mươi tư bộ ba chỉ đại diện cho hai mươi axit amin, nghĩa là sẽ có khá nhiều sự trùng lặp. Đây là một ánh xạ toàn ánh. Mỗi bộ ba bazơ biểu thị cho một axit amin này hoặc axit amin khác (hoặc một mã kết thúc).
    Tham khảo bảng, Ando viết ra tên viết tắt của các axit amin ngay dưới bốn mươi hai bazơ của mật mã.
    ATG GAA GAA GAA TAT CGT TAT ATT CCT
    (Met) (Glu) (Glu) (Glu) (Tyr) (Arg) (Tyr) (Ile) (Pro)
    CCT CCT CAA CAA CAA
    (Pro) (Pro) (Gln) (Gln) (Gln)
    Tiếp theo, anh lấy chữ cái đầu tiên của từng axit và xếp chúng thành một dòng:
    MGGGTATIPPPGGG
    Nhưng dòng chữ này không có nghĩa gì cả. Và anh vẫn gặp phải trường hợp có ba chữ cái liên tục. Dù thế nào thì có vẻ anh vẫn sẽ phải tìm ra cách làm gì đó với chúng. Phải có một cách giải thích khác. Ví dụ lặp lại ba lần liên tiếp một chữ cái thì hai chữ đầu tiên được hiểu là một khoảng cách giữa các từ.
    Anh thử cách đó:
    MG TATIP G
    Cũng không phải là tiếng Anh.
    Nhưng ngay lập tức, Ando cảm thấy mình sắp đến nơi. Có thể nói anh đang tiến gần đến đáp án. Anh không biết tại sao, nhưng anh cảm thấy trong chốc lát nữa thôi anh có thể tìm ra một từ có nghĩa.
    Met, Pro và Gln là những chữ lặp lại ba lần. Anh cố viết chúng theo cách khác:
    Met
    Glu (x3)
    Tyr
    Arg
    Tyr
    Ile
    Pro (x3)
    Gln (x3)
    Anh nhìn chăm chú danh sách này trong khoảng một phút, và rồi thấy một từ tiếng Anh mà anh biết.
    Anh chợt nhận ra các codon lặp lại ba lần đó không ám chỉ "số ba" mà là "thứ ba". Nhưng trong này là chữ cái thứ ba tên viết tắt của axit amin.
    Nói cách khác:
    M et
    Glu
    T yr
    A rg
    T yr
    I le
    Pro
    Gln
    Điều đó có nghĩa đáp án là: Mutation.
    Quên mất mình đang ở đâu, Ando bật lên một tiếng kêu. Câu trả lời duy nhất mà anh có thể tìm ra là đây, một kết quả của logic, phương pháp loại suy. Nó là một câu trả lời rõ ràng, đơn giản và hẳn là đúng.
    Nhưng anh vẫn gục đầu. Anh biết nghĩa của từ tiếng Anh "mutation" - tức là anh biết nó có nghĩa gì trong tiến hóa sinh học. Nhưng anh hoàn toàn không có chút ý tưởng gì về việc phải hiểu nó như thế nào trong tình huống hiện tại.
    Cậu đang cố nói cái quái gì thế hả Ryuji? Anh không bật ra câu hỏi đó. Nhưng thậm chí trong đầu mình, Ando có thể nghe giọng anh đang run lên phấn khích vì đã giải mã được thông điệp.

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    CHƯƠNG 5
    Anh đi ra sảnh, tìm một chiếc điện thoại công cộng, rồi quay số nhà Miyashita. Anh ngờ là bạn mình không có nhà vì đang là tối thứ Bảy, ngay giữa kỳ nghỉ cuối tuần ba ngày, nhưng lạ quá, Miyashita ở nhà cùng gia đình. Ando có thể báo cho Miyashita biết anh nghĩ mình đã giải được mật mã.
    Ando đoán Miyashita có lẽ đang ở phòng khách kiêm phòng ăn; thực ra, anh có thể tưởng tượng rõ cảnh vợ con Miyashita đang chuẩn bị bữa tối. Dù Miyashita đã đặt một tay che ống nói để chặn tiếng ồn trong nhà, nhưng vẫn không thể ngăn nổi dấu hiệu của một cuộc sống gia đình yên ấm lọt qua đường dây.
    "Cừ lắm! Rất tuyệt. Nó nói gì?"
    Giọng Miyashita vốn đã rất to rồi, lại thêm tay của anh ta che quanh ống nói, âm thanh càng vang to hơn trong tai Ando.
    "À, không phải là một câu. Chỉ có một từ."
    "Ừ, vậy là chỉ có một từ duy nhất. Thế từ đó là gì?"
    "Mutation."
    "Mutation?" Miyashita nhắc lại từ đó nhiều lần, như thể đang cố định lượng nó.
    "Cậu có ý tưởng gì về ý nghĩa của nó không?" Ando hỏi.
    "Tôi không biết. Còn cậu? Có ý nói không?"
    "Chẳng ý gì sất."
    "Này. Sao cậu không đến đây?"
    Miyashita sống trong một khu chung cư trang nhã ở Bắc Terao, quận Tsurumi, Yokohama. Ando sẽ phải bắt tàu di Shinagawa rồi chuyển sang tuyến Keihin Express, nhưng anh có thể đến đó trong vòng chưa đầy một giờ.
    "Được thôi."
    "Gọi cho tôi khi cậu đến nhà ga. Tôi biết một quán ba rất hay gần ga, ở đó ta có thể vừa nhậu vừa nói chuyện."
    Cô con gái ở độ tuổi đi nhà trẻ của Miyashita dường như đoán được bố nó sắp đi ra ngoài. Nó níu hông anh ta nài nỉ, "Bố ơi! Bố ở nhà đi!" Chẳng để ý đến Ando, Miyashita lấy tay che ống nói và mắng cô bé. Ando có thể nghe thấy anh ta đang tha điện thoại quanh nhà, cố tránh xa khỏi cô con gái. Ando thấy có lỗi, cho dù không phải anh là người đầu tiên đưa ra ý tưởng đi ra ngoài. Đồng thời, anh còn có cảm giác mất mát và ghen tị một cách khó tả.
    "Để lúc khác cũng được, nếu cậu muốn."
    Nhưng Miyashita không chịu. "Không đời nào. Tôi muốn nghe tất cả chi tiết. Dù sao, hãy gọi cho tôi ở nhà ga, tôi sẽ đến đó ngay."
    Anh ta gác máy, không chờ Ando trả lời. Thở dài bất lực, Ando rời thư viện đến ga tàu điện ngầm, những âm thanh yên ấm trong ngôi nhà người bạn vẫn còn văng vẳng bên tai.
    Ando đã không đi tuyến Keihin Express kể từ hôm ghé thăm căn hộ của Mai tám ngày trước. Đâu đó gần nhà ga Kita Shinagawa, con tàu chạy ở tuyến đường sắt trên cao. Anh nhận ra mình đang nhìn xuống những ngôi nhà và bảng hiệu neon. Sáu giờ tối, một ngày cuối tháng Mười một, trời đã tối đen. Hướng mắt nhìn ra phía cảng, anh thấy những chung cư cao tầng Yashio ở hai bên kênh đào, những cửa sổ sáng tối xen kẽ tạo thành họa tiết bàn cờ. Số lượng cửa sổ tối đèn đáng ngạc nhiên trong một buổi tối cuối tuần. Ando thấy mình đang cố tìm những con chữ trong những họa tiết tạo nên ánh sáng và bóng tối đó; bộ não anh gần đây đã làm việc quá nhiều với mật mã. Từ một trong vô số tòa nhà, anh nghĩ đã nhìn thấy từ phiên âm ko - trẻ con? - nhưng tất nhiên nó chẳng có nghĩa gì cả.
    Mutation, mutation.
    Anh vừa liên tục lẩm nhẩm từ đó vừa nhìn xa xăm. Anh hy vọng có lẽ càng lẩm nhẩm từ đó nhiều thì ý định của Ryuji sẽ càng trở nên rõ ràng hơn.
    Anh nghe tiếng còi inh tai từ xa vọng lại. Con tàu chạy vào một nhà ga và dừng lại ở đó; có thông báo yêu cầu tàu dừng lại chờ cho một chuyến tàu cao tốc chạy qua. Ando đang ở toa cuối. Anh ngó đầu ra cửa để nhìn tên nhà ga. Chắc chắn đây là nơi Mai sống. Từ trên tàu anh có thể nhìn thấy con phố phía ngoài nhà ga, dọc theo phố là các cửa hàng, và dựa trên những ký ức cách đây tám ngày anh bắt đầu tìm căn hộ của Mai. Anh nhớ khi đứng trước phòng cô và nhìn ra cửa sổ, anh đã thấy nhà ga tàu Keihin Express đúng ngang tầm mắt. Anh có thể thấy mọi người đứng đợi ở ga, nghĩa là từ đây anh sẽ có thể nhìn thấy căn hộ của cô.
    Nhưng anh không thể nhìn rõ khi đứng bên trong tàu nên anh đứng dậy. Anh đi dọc xuống cuối sân ga và ngửa đầu lên nhìn qua hàng rào. Khu phố buôn bán chạy dài về phía Đông và tạo với đường ray thành một góc vuông. Cách không quá ba mươi mét, anh thấy một ngôi nhà bảy tầng quen thuộc.
    Đột nhiên, anh nghe thấy tiếng tàu tốc hành chạy tới từ phía Shinagawa. Một khi nó chạy qua, chuyến tàu nội thành mà Ando đang đi sẽ đóng cửa và tiếp tục đi theo hướng Kawasaki. Ando vội tìm cửa sổ căn hộ của Mai. Anh biết cô sống ở phòng 303, và đó là cánh cửa thứ ba nhìn từ bên phải. Giờ chuyến tàu tốc hành đã đi qua, và chuông đang báo chuyến tàu nội thành sắp khởi hành. Ando nhìn đồng hồ. Mới hơn sáu giờ. Miyashita có lẽ giờ này đang ăn tối với gia đình. Anh không muốn đến quá sớm và quấy rầy giây phút sum họp gia đình quý giá của họ. Anh nhận ra còn sớm hơn ba mươi phút so với dự kiến, nên anh quyết định bắt chuyến tàu sau. Anh để tàu chạy mà không có anh.
    Các cửa sổ tầng ba ít nhiều ngang tầm với sân ga nơi anh đang đứng. Anh nhìn cẩn thận vào từng cửa sổ một, nhưng không cái nào sáng đèn.
    Vậy là cô ấy không ở đó.
    Đó là một hy vọng yếu ớt, dễ dàng tan biến đi. Rồi, khi anh vừa định quay đi, ánh mắt bị giữ lại bởi một dải màu xanh nhạt phát ra từ cửa sổ thứ ba về phía bên phải. Anh nheo mắt nhìn, tự hỏi có phải mình đang tưởng tượng ra, nhưng nó có thật, đang phất phơ như một lá cờ màu xanh nhạt. Ánh sáng rất yếu ớt, thoắt ẩn thoắt hiện, đến mức anh có lẽ không nhận ra nếu không nhìn chăm chú. Anh rướn người về phía trước, nhưng nó ở quá xa. Anh không thể nhìn rõ được.
    Anh muốn quay trở lại căn hộ của cô. Việc này chắc chỉ mất chừng hai mươi phút, và anh sẽ vừa kịp giờ chuyến tàu tiếp theo. Không do dự thêm một phút nào nữa, anh bước qua cửa soát vé và đi vào con phố bên dưới.
    Chỉ khi đứng ngay dưới cửa sổ phòng cô, ngước nhìn lên đó, anh mới có thể nhận ra ánh sáng lạ ấy là gì. Cửa sổ đang mở, rèm đăng ten trắng bay ra ngoài, nhảy múa trong gió nhẹ, và ánh sáng từ bảng hiệu đèn neon của một hãng cho thuê ô tô phía bên kia đường phản chiếu lên màu trắng muốt của tấm rèm. Đôi khi những màu cơ bản chiếu lên vải trắng sẽ phát ra màu giống như huỳnh quang, điều đó giải thích cho dải sáng màu xanh nhạt mà anh thoáng thấy lúc ở nhà ga. Dù vậy, cảnh tượng này vẫn có điều gì đấy khiến Ando thấy không ổn. Cửa sổ đang mở và rèm cửa buông nửa chừng khi anh vào nhà tám ngày trước, nhưng anh nhớ rõ là đã đóng cửa và kéo rèm sang bên trước khi rời khỏi đó. Anh biết anh đã không để cửa sổ mở. Nhưng còn một điều làm anh băn khoăn hơn nữa. Vào buổi tối đầu mùa đông thế này không thể có gió được. Thế mà rèm cửa vẫn bị thổi bay gần như ngang với thanh treo rèm. Luồng gió đó bắt nguồn từ đâu? Anh không nghe thấy tiếng gió. Lá cây dọc bên đường không rung rinh. Thế mà ngay bên trên những cành cây không chút lay động kia, tấm rèm cửa đang nhảy múa. Cảnh tượng thường đến mức kỳ quái. Nhưng không có khách bộ hành nào ngước nhìn lên; dường như không có ai nhận ra hiện tượng kỳ lạ này.
    Cách giải thích duy nhất mà Ando có thể nghĩ ra là một lý giải cơ học. Có lẽ một chiếc quạt đang thổi trong căn phòng, tạo ra một luồng gió nhân tạo hướng ra ngoài. Nhưng tại sao? Trí tò mò của anh nổi lên.
    Anh vòng lại để tới sảnh. Cách duy nhất để tìm ra là vào phòng đó một lần nữa.
    Viên quản lý dường như nghỉ làm. Rèm cửa ở quầy trong văn phòng đã kéo xuống. Cả tòa nhà tĩnh lặng, không một dấu hiệu có người quanh đây.
    Anh đi thang máy lên tầng ba, rồi đi bộ đến phòng 303. Càng đến gần bước chân anh càng nhỏ và chậm hơn. Bản năng mách bảo anh quay lại, nhưng anh cần phải biết. Cửa ra hành lang bên ngoài đang mở, và xa hơn nữa anh có thể thấy một cầu thang hình xoắn ốc dùng trong trường hợp khẩn cấp. Nếu xảy ra chuyện gì, có lẽ mình không nên dùng thang máy. Có lẽ mình nên chạy xuống cầu thang... Ando thấy mình đang dự tính một con đường tẩu thoát mà không biết chính xác anh sợ cái gì.
    Anh đến cánh cửa đánh số 303. Dưới chuông cửa là một bảng đỏ ghi TAKANO. Mọi thứ đều giống như lúc trước. Ando lại gần để nhấn chuông, nhưng rồi nghĩ lại. Anh kiểm tra xem hành lang có ai không, rồi áp sát tai vào cửa. Anh không nghe thấy một âm thanh nào, chắc chắn không có tiếng động cơ quạt điện. Anh thắc mắc liệu lúc này tấm rèm còn bay lất phất ngoài cửa sổ không. Không nghe được gì phía sau cửa, anh khó mà tin được là nó còn đang bay.
    "Mai."
    Thay vì nhấn chuông, anh khẽ gọi tên cô, rồi gõ cửa. Không có tiếng trả lời.
    Mai đã xem cuốn băng, anh tự nhủ. Và cô, hoặc là ai đó, đã ghi đè lên cuốn băng ấy, chỉ hai ngày trước khi Ando đến. Ngày thứ năm kể từ khi cô biến mất. Ai đã làm điều đó, và tại sao?
    Đột nhiên, Ando có thể cảm nhận lại trên da mình bầu không khí kỳ lạ của căn phòng, giống như bên trong một thi thể. Nước ở đáy bồn tắm, tiếng chảy nhỏ giọt, cảm giác có gì chạm nhẹ lên Lỗi hệ thống của anh.
    Ando lùi xa cái cửa. Dù sao thì bốn bản của cuốn băng quỉ quái đó đã biến mất khỏi trái đất. Cuộc khủng hoảng đã kết thúc. Chắc chắn người ta sẽ sớm tìm thấy thi thể Mai. Loay hoay ở đây thêm nữa cũng chẳng giúp anh thay đổi được gì, Ando tự nhủ khi anh bắt đầu quay trở lại thang máy. Anh lại muốn thoát ra khỏi chỗ này, thậm chí đi mà chưa tìm ra lời giải thích. Anh không chắc tại sao, nhưng dường như lần nào đến đây anh cũng cảm thấy như thế này.
    Anh nhấn nút gọi thang máy. Trong khi chờ, anh vẫn lặp đi lặp lại trong đầu, mutation, mutation. Anh muốn nghĩ đến một cái gì khác, bất cứ cái gì. Thang máy dường như không bao giờ đến.
    Từ hành lang phía bên phải, anh nghe dội lại một tiếng tách do xoay ổ khóa. Ando cứng người. Thay vì xoay người lại nhìn, anh chỉ quay đầu vừa đủ để nhìn qua khóe mắt. Anh thấy cửa phòng 303 từ từ mở ra. Anh có thể nhìn thấy cái bảng đỏ: không cần nghi ngờ đó là cánh cửa phòng nào nữa. Một cách vô thức, Ando nhấn nút thang máy liên tục. Thang máy cứ nằm ở tầng trệt lâu đến tuyệt vọng.
    Thấy một bóng người xuất hiện từ ngưỡng cửa, Ando gồng mình. Một cô gái trong chiếc đầm xanh mùa hè. Cô ta lấy chìa khóa trong túi xách và khóa cửa, Ando có thể thấy khuôn mặt nghiêng của cô. Ando dò xét khuôn mặt. Cô ta đeo kính râm, dù vậy, chắc chắn đó không phải là Mai. Là một người khác. Anh chẳng có lý do gì để sợ cả, nhưng lúc đó cơ thể anh đã nằm ngoài tầm kiểm soát của tâm trí rồi.
    Cửa thang máy mở ra, Ando luồn vào trong. Anh định nhấn nút CLOSE, nhưng vô tình nhấn phải nút OPEN. Cuối cùng, sau vài giây, cửa cũng bắt đầu đóng. Rồi, vào giây cuối, một bàn tay trắng len vào khe hẹp giữa hai cánh cửa, khiến cửa lại mở ra. Cô gái đứng đó. Đôi kính râm che giấu mọi biểu hiện trong mắt, nhưng Ando có thể thấy cô gái khoảng tầm hai lăm, với các đường nét hài hòa tuyệt mỹ. Một tay đặt lên mép cửa, cô ta bước nhẹ vào thang máy, nhấn nút đóng, rồi chọn số một để xuống tầng một. Ando bồn chồn nhích dần ra phía sau cho đến khi lưng và khuỷu tay chạm vào thành thang máy và anh chỉ đứng trên đầu ngón chân. Từ vị trí đó, anh nhìn chằm chằm vào người phụ nữ lạ, người đã bước ra từ phòng 303, và hỏi cô ta một câu duy nhất từ phía sau:
    "Cô là ai?"
    Một mùi lạ, không phải nước hoa, xông vào mũi khiến anh nhăn mặt và nín thở. Có thể là mùi gì? Mùi giống như chứa sắt, giống mùi máu. Tóc cô gái dài ngang lưng, và bàn tay đặt trên thành thang máy trắng đến mức gần như trong suốt. Nhìn kỹ hơn, móng tay trên ngón trỏ của cô ta nứt ra. Chiếc váy quá mỏng, không có ống tay, không phù hợp để mặc vào mùa này. Hẳn cô ta đang lạnh cóng. Cô ta không đi bít tất dài, chân chỉ có đôi giày vải. Anh có thể nhìn thấy những vết thâm tím trên chân. Điều này khiến anh ghê tởm, nhưng anh không biết tại sao. Dù rất cố gắng, anh cũng không thể chặn nổi cơn run rẩy đang dồn lên từ sâu thẳm trong mình.
    Bị đóng kín trong buồng thang máy nhỏ bé một mình với cô gái kia, Ando thấy thời gian trôi qua quá chậm chạp. Cuối cùng, họ xuống đến tầng một, Ando nín thở cho đến khi cửa mở. Cô gái bước thẳng ra sảnh đi qua phố.
    Trông cô ta cao chừng hơn mét rưỡi, dáng cân đối. Chiếc váy ôm sát người ngắn trên đầu gối chừng năm centimet, làm nổi bật bộ hông tuyệt đẹp, bước đi của cô ta cũng thật uyển chuyển. Bắp chân cô lộ ra trắng một cách đặc biệt, cô không đi tất để che đi, làm cho những vết thâm tím càng nổi bật hơn. Trời đêm lạnh đến mức mọi người khác trên đường đều mặc áo khoác, vậy mà cô ta lại ra đường không mặc gì ngoài chiếc váy hè không tay.
    Ando ra khỏi thang máy rồi đứng lại một lúc, dõi theo cô gái trong bóng đêm..

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Mỹ Tâm: Không yêu thì sống thế nào được
    By giavui in forum Tin Tức Văn Nghệ
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-11-2010, 04:39 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-09-2010, 04:55 PM
  3. Lái chà máng trong thiát ká tÃu sÃn bay Trung Quác
    By giavui in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-24-2010, 05:07 PM
  4. Lái chà máng trong thiát ká tÃu sÃn bay Trung Quác
    By giavui in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-18-2010, 02:46 PM
  5. Tham thiền không bí quyết, chỉ cần sanh tử thiết.
    By hienchanh in forum Trang Phật Giáo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 10-12-2010, 02:09 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •