Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Tuổi trẻ là tuổi không ngại ngùng gì cả và không ghi ngờ gì cả.
Susanna March
Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 21 to 30 of 36

Chủ Đề: Âm Thanh và Cuồng Nộ

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose

    Âm Thanh và Cuồng Nộ

    William Faulkner

    Dịch giả: Phan Đan và Phan Linh Lan

    Lời giới thiệu

    Nguyên tác: The Sound and the Furry



    http://www.mediafire.com/file/vznoeu...hvacuongno.pdf



    William Faulkner (1897 – 1962) là một trong những gương mặt sáng chói của văn học hiện đại. Ngày nay, ở khắp nơi trên thế giới, tên tuổi ông được nhắc đến với niềm kính trọng sâu xa. Ông là một nhà cách tân táo bạo và là một tiểu thuyết gia lỗi lạc bậc nhất. Trong lĩnh vực tiểu thuyết, ông có thể sánh ngang những tượng đài bất diệt như F. Dostoervsky…và trong lĩnh vực khám phá sáng tạo văn học, ông cùng hàng ngũ với những người tiên phong như F. Kafka, J.Joyce, M. Proust…
    William Harrison Faulkner sinh ngày 25 tháng 9 năm 1897 tại Mississipi (Hoa Kỳ) và mất ngày 6 tháng 7 năm 1962. Đang học ở Đại học Mississippi, ông gia nhập Không lực Hoàng gia Canada năm 1918, sang châu Âu năm 1925 – 1926, rồi làm đủ nghề để mưu sinh trước khi trở thành một văn hào. W. Faulkner đã đoạt nhiều giải thưởng văn học lớn như giải Pulitzer, giải National Book và giải Nobel (1950).
    Cuốn tiểu thuyết thứ tư của W. Faulkner là The Sound and The Fury được ấn hành lần đầu tiên vào ngày 7 tháng 10 năm 1929 đã mang đến cho ông danh tiếng lẫy lừng, đầu tiên là trong giới văn học, sau đó là trong quảng đại quần chúng. Tuy nhiên, đến tận bây giờ, cuốn sách vẫn là một thách đố đầy quyến rũ cho bất kỳ độc giả nào muốn thâm nhập vào thế giới âm u, náo động, mãnh liệt và thấm đẫm tình người của W. Faulkner. Nhan đề cuốn sách được trích từ một câu thơ của W.Shakespeare, trong vở bi kịch Macbeth, cảnh 5 hồi 5; đó là một định nghĩa về cuộc đời "It is a tale told bắt an idiot, full of sound and fury, signifying nothing" (Đó là câu chuyện do một thằng ngốc kể, đầy những kêu la và cuồng nộ, chẳng có ý nghĩa gì).Thật vậy, phần thứ nhất của Âm thanh và Cuồng nộ là độc thoại nội tâm của một người đần độn bẩm sinh, gào khóc và điên giận, với những ý nghĩ rời rạc, mù mờ, chắp nối, hỗn độn, những hồi ức, liên tưởng nhảy cóc từ thời đỉêm này sang thời điểm khác, xuôi ngược trên dòng thời gian, lẫn lộn quá khứ, hiện tại, tương lai.
    Để độc giả có thể theo dõi câu chuyện mà không nhất thiết phải tìm hiểu những kỹ thuật mới mẻ và phức tạp trong bút pháp của W. Faulkner như kỹ thuật dòng ý thức hay thời gian đồng hiện, chúng ta dựa theo lời giới thiệu của Maurice E. Coindreau trong bản dịch tiếng Pháp Le Bruit et la Fureur (Editions Gallimard, 1949) để cung cấp một chìa khoá giải mã những ẩn ngữ của W. Faulkner.
    Câu chuyện diễn ra ở bang Mississippi, nước Mỹ, vào khoảng đầu thế kỷ XX, giữa các thành viên của một gia đình quý tộc miền Nam từ chỗ giàu sang và kiêu kỳ đã trở nên nghèo khổ và sa đoạ. Những nhân vật chính của gia đình quý tộc này gồm ba thế hệ: ông Jason Compson v bà vợ Caroline (tên thời con gái là Caroline Bascomb), cô con gái Candace (hay Caddy) và ba cậu con trai: Quentin, Jason và Maury (sau này gọi là Benjamin hay Benjy để khỏi làm ô danh ông cậu Maury Bascomb), sau cùng là cô cháu gái Quentin, con của Caddy. Sống với họ cũng có ba thế hệ những người hầu da đen: bà Dilsey và chồng là Roskus, với ba đứa con: T.P., Frony, Versh và sau cùng là Luster, con trai của Frony. Như vậy là có hai Jason và hai Quentin.
    Theo dõi ngày tháng của chương sách, độc giả sẽ thấy một sự đảo lộn trật tự thời gian. Chương đầu tiên là chuyện xảy ra ngày 7 tháng 4 năm 1928. Chương thứ hai lùi lại mười tám năm, ngày 2 tháng 6 năm 1910. Chương thứ ba lại là ngày 6 tháng 4 năm 1928 và chương thứ tư là hai ngày sau đó, 8 tháng 4 năm 1928. Ba chương đầu là độc thoại nội tâm của ba nhân vật: Benjy – thằng khùng, Quentin và Jason, chỉ có chương cuối mới được kể ở ngôi thứ ba. Trong những độc thoại nội tâm của ba nhân vật này, chuỗi hồi ức và liên tưởng sẽ cung cấp dần dần cho độc giả các sự kiện xảy ra ở thì hiện tại hay quá khứ, và dần dần, những sự kiện đó sẽ dính kết, chắp nối, làm sáng tỏ câu chuyện cũng như chân dung các nhân vật.
    Bố cục cuốn sách thường được các nhà nghiên cứu W. Faulkner so sánh với một bản giao hưởng thuộc trường phái ấn tượng mà các chủ đề xuất hiện, biến mất, tái hiện rồi lại biến mất cho đến khi bùng nổ trọn vẹn. các khó khăn ban đầu dường như đầy rẫy và khiến những độc giả thiếu kiên nhẫn sẽ chóng nản chí. Tuy nhiên, không cần phải hiểu cặn kẽ từng câu trong kiệt tác này mới có thể cảm nhận vẻ đẹp và sức quyến rũ của nó. Chính những vùng mờ tối, những mặt trái sáng, những mơ hồ lấp lửng sẽ dẫn dắt trí tưởng tượng của người đọc vào thế giới của W. Faulkner, một thế giới xao xuyến, chấn động và đầy bí ẩn như chính cuộc đời này vậy.
    Và bây giờ, chúng ta sẽ phác hoạ sơ đồ từng chương:
    - Chương thứ nhất (7/4/1928) Moderato.
    Độc thoại nội tâm của Benjy. Hôm đó là sinh nhật lần thứ ba mươi của Benjy. Hắn đang ở ngoài sân với Luster, đứa trẻ da đen, mười bảy tuổi. Luster đánh mất đồng hai mươi lăm xu và đang đi tìm. Benjy bị đần dộn từ nhỏ, chỉ có những cảm giác sinh vật như ngửi, sờ..vvkg biết gì hơn. Nhưng hắn có một thế giới riêng đầy ấn tượng và cảm xúc mà hắn không bao giờ cảm thấynhững ngăn cản của khái niệm không gian và thời gian. Chuỗi ý nghĩ của Benjy không có logic mà chỉ được gợi lên từ những cảm giác ngẫu nhiên. Nghe tiếng gọi "caddie" ccz người chơi golf, Benjy nhớ đến người chị Caddy mà hắn rất yêu quý và hắn thét lên đau khổ. Khi chui qua hàng rào bị vướng, Benjy đột ngột lùi vào quá khứ - lúc còn nhỏ hắn cũng bị vướng rào như thế khi cùng chị Caddy mang lá thư tình của cậu Maury cho bà Patterson. Từ torng mớ hỗn mang những hồi ức, liên tưởng của anh khùng Benjy, hai sự kiện được lộ ra dần: đám tang bà nội, lúc Caddy lên bảy và đám cưới Caddy (25/4/1910). Độc thoại nội tâm mơ hồ, lộn xộn của Benjy làm xuất hiện những chủ đề sẽ xuyên suốt tác phẩm, có khi chỉ vài chữ hoặc một hình ảnh, một âm thanh…và độc giả sẽ nhớ lại ở những chương sau, khi chúng tái hiện với một ý nghĩa sáng tỏ hơn.
    - Chương thứ hai (2/6/1910) Adagio.
    Độc thoại nội tâm của Quentin Compson, ngày anh tự tử ở Harvard. Quentin ở trong trạng thái bị ám ảnh điên cuồng, bởi những ý nghĩ loạn luân và tự sát. Quentin ghen vì quá yêu cô em gáiCaddy, khi Caddy lấy Sidney Herbert Head vào ngày 25/4/1910. (Trước đó, Caddy đã có người tình là Dalton Ames, và khi Caddy cảm thấy mình có mang, cũng là lúc Caddy theo mẹ tới nghỉ ở vùng suối nước nóng French Lick để kiếm một người chồng). Những ý nghĩ bệnh hoạn điên cuồng dồn dập trong tâm trí Quentin cùng những hồi ức êm dịu mà đau đớn về Caddy làm Quentin hoảng sợ và cố bóp nghẹt (dòng thời gian trôi đi vĩnh viễn mà anh cố níu giữ bằng cách đập nát đồng hồ, sức hút mơ hồ của mặt nước rình rập trong chuyến đi cuối cùng của anh) và kết cục là Quentin đã tự buộc hai chiếc bàn ủi vào chân để trầm mình.
    -Chương thứ ba (6/4/1928) Allergro.
    Độc thoại nội tâm của Jason hôm hắn phát hiện ra cô cháu gái Quentin (Caddy bị chồng xua đuổi đã bỏ lại cho cha mẹ đứa con gái mới sinh đặt tên là Quentin để tưởng nhớ anh trai) theo một gã kép ở gánh hát rong. Jason săn lùng cháu khiến Quentin phải trốn nhà đi. Những ý nghĩ thù hận cay đắng của Jason quyện quanh những mảng dĩ vãng: đám tang ông bố Jason, sự phá sản của gia đình Compson, không khí nặng nề phủ lên cuộc sống của cô cháu gái Quentin, trên phông nền những sự kiện đời sống thị trấn nơi gia đình Compson cư trú và tại cửa hàng đồ sắt nơi Jason làm thuê.
    - Chương thứ tư (8/4/1928)
    Kể chuyện trực tiếp: Mở đầu chương này là tiết tấu Allegro Furioso đầy hằn học với sự kiện cô cháu gái Quentin trốn theo trai đã cuỗm theo ba nghìn đô la của ông cậu Jason, khiến Jason phải săn đuổi và rồi bị đánh. Tiếp theo là tiết tấu Andante Religioso đượm màu tôn giáo với buổi lễ Phục sinh ở nhà thờ của người da đen, rồi đến tiết tấu nhanh Allegro Barbaro và tận cùng bình yên trong tiết tấu chậm rãi Lento.
    Bản giao hưởng The Sound and the Fury chỉ thiếu nét linh hoạt, vui tươi của một Scherzo. Từ đầu đến cuối vang rền tiếng kêu của Benjy từ âm vực thấp (rên rỉ, sướt mướt) tới âm vực cao (gào, rống, rú), đóng vai trò bộ trống trong dàn nhạc của W.Faulkner. còn nền hình tượng, đo 'là những khuôn mặt da đen, chứng nhân cho tấn bi kịch của gia đình Compson. Trong số đó, nổi bật gương mặt cao cả và nhẫn nại của Dilsey, bà vú nuôi đã cầm bánh lái con thuyền tan nát của gia đình Compson. Hình ảnh bà Dilsey ở đầu chương thứ tư, mộc mạc và kỳ vĩ, với một lương tri sáng láng, chính là hình ảnh tuyệt đẹp của CON NGƯỜI mà W. Faulkner đã sáng tạo và ngợi ca.
    Để nói về những gian nan trong việc đọc W. Faulkner, độc giả có thể dẫn ra hàng trang sách không có dấu chấm câu, những đại từ nhân xưng ngôi thứ ba không rõ chỉ vào ai, những ẩn dụ rắc rối, bí hiểm… nhất là độc thoại nội tâm của Benjy. Anh chàng khùng này sống với thế giới cảm giác riêng, cảm nhận những sự kiện xảy ra như một con thú, ngửi thấy và sờ thấy các biến cố. Benjy ngửi thấy Caddy "có mùi như cây" khi Caddy còn trinh, và trong đám cưới của Caddy, Benjy đã đuổi theo chị tới tận phòng tắm, bắt chị đi tắm để khi trở ra lại có "mùi như cây" và sự tươi mát trinh nguyên như xưa. Khi Benjy cảm nhận sự bình an và hạnh phúc, hắn thấy những mảng sáng êm đềm trôi lướt qua và vạn vật được an bài "vật nào chỗ nấy". Benjy phản ứng với thời gian chỉ bằng chuỗi âm thanh mơ hồ và đau đớn trải trên nhiều cung bậc, và tiếng kêu khóc triền miên, bất tận của Benjy – con người gần với cỏ cây, muông thú hơn hết – vang dội như thể kết tinh "mọi nỗi thống khổ dưới ánh mặt trời".
    Tác phẩm này của W. Faulkner, mặc dù đặt ra cho độc giả không ít khó khăn khi lĩnh hội, nhưng giá trị tự thân và ảnh hưởng lớn lao của nó đối với văn học hiện đại đã được khẳng định ngày càng mạnh mẽ.
    Cùng với The Sound and the Fury, các tác phẩm khác của W. Faulkner như Sanctuary (Thánh đường), Light in August (Nắng tháng Tám), Absalom, Abasalom!.. đã để lại cho kho tàng văn học nhân loại những di sản vô giá. Giá trị của tác phẩm W. Faulkner không chỉ là những sáng tạo về kỹ thuật hay bút pháp mà chính là ở thông điệp nhân bản của ông gửi đến các thế hệ sau.
    Trong quá trình dịch tác phẩm này, chúng tôi đã hết sức cố gắng để giữ được nhiều nhất không khí W. Faulkner trong văn phong, tuyệt đối tôn trọng cách viết của tác giả, từ những cung cách chấm câu đến lối nói lấp lửng…Tuy nhiên, việc đưa vào bản dịch tiếng Việt những biến âm trong lối nói của người Mỹ da đen là không thể, và điều đó sẽ làm nặng nề thêm tác phẩm vốn đã không dễ đọc.
    Những dịch giả như M. E. Coindreau, khi chuyển tác phẩm này sang Pháp ngữ, mặc dù đã có may mắn được đích thân W. Faulkner bình luận những điểm "tối tăm" nhất trong cuốn sách, vẫn cố làm cho bản dịch của mình được trong sáng và phần nào dễ hiểu hơn, vì nhận thức rõ những khó khăn khi chuyển ngữ một tác phẩm như The Sound and the Fury. Các chú thích trong bản dịch tiếng Việt, chúng tôi cũng tham khảo từ bản Pháp ngữ của M.E. Coindreau. Phần phụ lục của Âm thanh và Cuồng nộ do W. Faulkner viết cho cuốn The Portable Faulkner và được đưa vào tác phẩm từ ấn bản năm 1946 (bản dịch Pháp ngữ lược bỏ phần này).
    Những sai sót khi chuỷên một tác phẩm như The Sound and the Fury sang Việt ngữ là điều không thể tránh khỏi, nhưng chúng tôi hy vọng rằng, độc giả vẫn có thể thưởng thức được vẻ đẹp độc đáo của bản giao hưởng văn xuôi này, dù là đọc qua một tấm gương ít nhiều mờ tối.
    Người dịch.
    Last edited by giavui; 10-16-2020 at 06:12 PM.

  2. #21
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    7 -

    Cuối cùng tôi cũng thoát được hắn, nhưng mỗi lần toan lấy thư ra xem là lại có việc đến. Thiên hạ kéo đàn kéo lũ ra tỉnh xem triển lãm, vung tiền ra mua những thứ chẳng mang lại lợi lộc gì cho tỉnh mà cũng chẳng để lại gì ngoài khoản mà bọn tham nhũng ở Toà thị chính sẽ chia chác hết với nhau, còn Earl thì đi tới đi lui như gà mắc đẻ, miệng nói "Vâng thưa bà, ông Compson sẽ hầu bà. Jason, cậu đưa bà ấy xem cái đánh bơ với cái móc treo màn giá một xu kia kìa".
    Hừ, Jason hám việc lắm. Tôi bảo tôi không bao giờ vào đại học vì ở Harvard họ dạy người ta cách đi bơi đêm mà không cần biết bơi và ở Sewanee thậm chí nước họ cũng không bảo cho biết là cái gì. Tôi nói mẹ có thể gửi tôi đến đại học tiểu bang, có lẽ tôi sẽ học cách làm đứng đồng hồ bằng một cái hắt hơi rồi mẹ có thể gửi Ben vào hải quân, tôi nói, hay kỵ binh cũng được, trong kỵ binh họ dùng cả những tên hoạn đấy. Rồi khi chị ấy đem cả Quentin về nhà cho tôi nuôi, tôi nói thế nào cũng được, thay vì tôi phải đi lên miền Bắc kiếm việc thì họ sẽ gửi việc xuống đây cho tôi và rồi mẹ bắt đầu khóc và tôi nói chả phải tôi không muốn có nó trong nhà này, nếu nó làm mẹ hài lòng thì tôi sẽ nghỉ việc và tự tay chăm sóc nó để mẹ với Dilsey lo sao cho đầy thùng bột, hay Ben cũng được. Đem nó cho một gánh xiếc thuê, thế nào chả có người bỏ ra vài xu để xem, rồi bà lại càng khóc và cứ nói tội nghiệp thằng bé khốn khổ và tôi nói phải nó sẽ đỡ đần mẹ nhiều khi nó cao không phải chỉ có gấp rưỡi tôi bây giờ và bà nói chẳng bao lâu nữa bà sẽ chết và rồi chúng tôi sẽ thoát nợ và thế là tôi nói thôi được rồi, được rồi, mẹ cứ làm theo ý mẹ. Nó là cháu của mẹ, nó chẳng có ông bà ngoại nào tốt hơn cái đó có thể nói chắc. Chỉ có điều tôi nói chỉ có điều đó là vấn đề thời gian. Nếu tôi cứ tin chị ấy sẽ làm những gì chị ấy nói và không để tâm đến, thì tôi quả là đại ngốc vì đây là lần đầu tiên cứ luôn miệng cảm ơn Chúa vì con không phải là một Compson trừ cái tên, bởi vì con là tất cả những gì mẹ còn lại, con và Maury, và tôi nói ôi dào bản thân tôi cũng chẳng cần cậu Maury và rồi họ đến bảo là đã sẵn sàng. Thế là mẹ ngưng khóc. Bà buông mạng che mặt và chúng tôi đi xuống nhà. Cậu Maury từ phòng ăn đi ra, khăn tay ấp lên miệng. Họ đứng lại chừa một lối đi nhỏ và chúng tôi ra cửa vừa kịp lúc để thấy Dilsey đang đuổi Ben và T.P. Vòng qua góc nhà ra phía sau. Chúng tôi đi xuống bậc thềm và lên xe. Cậu Maury luôn miệng nói tội nghiệp chị, tội nghiệp cho chị, nói miệng vậy thôi và vỗ vỗ tay bà. Nói không thế để chẳng để làm gì.
    "Con đã đeo băng tang chưa?" bà nói. "Sao họ không đi đi, để thằng Benjamin lại ra làm trò cười cho thiên hạ bây giờ. Tội nghiệp thằng bé. Nó chẳng biết gì. Nó cũng không nhận thức được nữa".
    "Nào, nào" cậu Maury nói, vỗ vỗ tay bà, nói miệng thôi. "Thà thế còn hơn. Đừng để nó biết những chuyện buồn trừ khi nó buộc phải biết".
    "Người ta còn có con cái an ủi những lúc thế này" mẹ nói.
    "Chị còn có Jason với tôi mà" cậu nói.
    "Thật khủng khiếp quá" bà nói "Hai người trong không đầy hai năm".
    "Thôi thôi" cậu nói. Một lúc sau cậu lén đưa tay lên miệng rồi vứt ra ngoài cửa sổ. Vậy là tôi biết từ nãy đến giờ tôi ngửi thấy mùi gì. Mùi đinh hương. Tôi nghĩ chắc cậu tưởng ít ra cậu cũng có thể làm thế trong đám tang của bố hay có lẽ cái tủ rượu tưởng cậu vẫn là bố và khi cậu đi qua nó bắt hồn cậu. Như tôi nói, nếu bố phải bán cái gì đó cho Quentin đi học ở Harvard, thì mẹ kiếp phúc đức cho bọn tôi hơn hết là ông bán cái tủ rượu ấy rồi lấy một phần tiền mà mua một cái áo bó tay. Tôi nghĩ tất cả gia sản nhà Compson trôi dạt đi đến đâu hết trước khi đến được tay tôi như mẹ nói, thì cũng là vì ông uống rượu. ít nhất tôi cũng chưa bao giờ nghe ông tính bán cái gì cho tôi đi Harvard cả.
    Vậy là cậu vẫn vỗ vỗ tay mẹ nói "Tội nghiệp chị quá" vỗ lên tay bà bằng đôi găng đen mà bốn ngày sau chúng tôi nhận được hoá đơn bởi vì hôm ấy là ngày hăm sáu bởi vì trong ngày ấy tháng trước bố đến đó và đón con bé về nhà và chẳng nói gì về chuyện mẹ nó ở đâu hay gì cả và mẹ khóc và nói "Ông cũng chẳng buồn gặp thằng ấy à? Ông cũng không thèm bắt hắn chịu tiền nuôi dưỡng à" và bố nói "Không tôi sẽ không đụng đến tiền của thằng ấy một xu cũng không" và mẹ nói "Luật pháp sẽ buộc hắn. Hắn chẳng có chứng cớ gì trừ khi, Jason Compson" bà nói "hay là ông gàn dở tới mức nói ra".
    "Im đi Caroline!" bố nói rồi ông sai tôi đến giúp Dilsey lôi cái nôi cũ từ trên gác xép xuống và tôi nói:
    "Chà, hôm nay người ta còn đem việc về nhà cho tôi làm thêm nữa" bởi vì lúc nào chúng tôi cũng hy vọng sẽ dàn xếp ổn thoả và hắn sẽ giữ con bé bởi vì mẹ luôn nói rằng ít ra chị ấy cũng phải nhìn tới gia đình một chút để đừng có làm mất dịp may của tôi sau khi chị ấy và Quentin đã được lo lắng chu đáo.
    "Thế nó là con ai mới được chứ?" Dilsey nói "Ai sẽ nuôi nó ngoài tôi ? chả phải một tay tôi nuôi các cô các cậu hết người nọ đến người kia đấy sao?"
    "Phải, mẹ kiếp, mammy nuôi khéo lắm" tôi nói. "Dầu sao bây giờ bà cũng có cái để lo" Thế rồi chúng tôi đem nôi xuống và Dilsey thu dọn chỗ cho nó trong căn phòng cũ của chị ấy . Rồi dĩ nhiên mẹ lại bắt đầu.
    "Nín đi cô Caroline" Dilsey nói. "Cô sắp làm nó dậy bây giờ".
    "Ở đây à?" mẹ nói. "Để lại bị ô nhiễm bởi cái bầu không khí ấy à? Không thế nó cũng sẽ khó bảo lắm rồi, với cái dòng máu ấy".
    "Im đi" bố nói. "Đừng có ngốc".
    "Sao nó không ngủ trong này được?" Dilsey nói. "Ở phòng này đêm nào tôi chả đặt mẹ nó lên giường đến khi lớn tướng mới tự đi ngủ được".
    "Chị không biết" mẹ nói "có con gái bị chồng bỏ là như thế nào. Chỉ tội nghiệp con bé con thơ ngây" bà nhìn Quentin "Cháu sẽ chẳng bao giờ biết cháu đã gây ra bao đau khổ".
    "Im nào, Caroline" bố nói.
    "Sao cô cứ muốn giày vò Jason thế?" Dilsey nói.
    "Tôi vẫn cứ cố giữ gìn cho ông ấy" mẹ nói. "Tôi vẫn cố giữ cho ông ấy khỏi chuyện đó. Ít ra tôi cũng có thể cố sức để lo lắng cho con bé".
    "Ngủ trong phòng này thì con bé bị làm sao, tôi chẳng biết" Dilsey nói.
    "Tôi cũng không rõ" mẹ nói. "Tôi biết tôi chỉ là một bà già lắm chuyện. Nhưng tôi biết người ta chẳng thể nào tránh được trời quả báo".
    "Vớ vẩn" bố nói. "Thì đặt nó trong phòng cô Caroline vậy, Dilsey".
    "Ông cứ bảo là vớ vẩn" mẹ nói. "Nhưng nó sẽ không bao giờ được biết. Con bé sẽ không bao giờ được nghe cái tên ấy. Dilsey, tôi cấm từ nay không được nhắc đến cái tên ấy trước mặt nó. Nếu như nó lớn lên mà không biết rằng nó có một người mẹ thì tôi xin tạ ơn Chúa".
    "Đừng có điên rồ như thế" bố nói.
    "Tôi chưa bao giờ xen vào chuyện ông dạy dỗ con cái" mẹ nói. "nhưng bây giờ thì tôi không chịu nổi nữa rồi. Tôi với ông phải quyết định chuyện này ngay bây giờ, ngay tối nay. Hoặc là cái tên ấy không được nhắc đến nữa, hoặc nó phải đi, hoặc tôi đi. Ông chọn đi".
    "Im đi nào" bố nói. "Bà lại nghĩ quẩn rồi. Đặt nó vào đây, Dilsey".
    "Ông cũng sắp ốm đấy " Dilsey nói. "Trông ông đờ đẫn lắm. Ông đi nằm đi, tôi sẽ pha cho ông một ly rượu nóng xem có ngủ được không. Chắc ông mất ngủ từ hôm ấy đến tận bây giờ".
    "Không" mẹ nói. "Chị không biết bác sĩ bảo sao à? Lại còn xúi ông ấy uống nữa? Đấy chính là bệnh của ông ấy. Như tôi đây này, tôi cũng đau khổ, nhưng tôi chưa yếu đuối đến mức tự tử bằng rượu mạnh đâu".
    "Bậy bạ" bố nói. "Bác sĩ thì biết cái gì? Họ kiếm ăn bằng cách bắt người khác làm những cái mà họ chẳng bao giờ làm ít khi không tiến hoá cũng biết được chừng ấy. Lần sau bà phải gọi một mục sư đến mà giữ tay tôi". Rồi mẹ khóc và ông đi ra. Ông xuống nhà, và rồi tôi nghe thấy tủ rượu mở. Tôi tỉnh dậy lại thấy ông đi xuống lần nữa. Ông cũng cố nhẹ nhàng, vì tôi không nghe tiếng ông, chỉ thấy vạt áo ngủ và đôi chân trần của ông trước tủ rượu.
    Dilsey xếp gọn nôi, thay quần áo cho nó và đặt nó vào nôi. Nó vẫn không thức giấc từ lúc ông đem nó về.
    "Nó nằm chật cả nôi đây này" Dilsey nói. "Nào cô. Tôi sẽ đặt cái nệm rơm của tôi ngoài hành lang, như thế cô khỏi phải thức đêm".
    "Tôi cũng chả ngủ được" mẹ nói. "Chị cứ về đi. Tôi không sao đâu. Còn sống ngày nào để lo cho nó là tôi vui rồi, giá mà tôi ngăn được ".
    "Nín đi nào" Dilsey nói. "Mình sẽ chăm sóc nó. Còn cậu cũng đi ngủ đi" bà quay sang nói với tôi. "Ngày mai cậu còn phải đi học chứ".
    Rồi tôi đi ra, rồi mẹ gọi tôi lại và khóc với tôi một lúc nữa.
    "Con là hy vọng duy nhất của mẹ" bà nói. "Đêm nào mẹ cũng cầu Chúa cho con". Trong khi chúng tôi đợi họ khởi hành, bà nói ơn Chúa dù Ngài gọi ai thì Ngài cũng đã con lại cho mẹ chứ không phải Quentin. Ơn Chúa con không phải dòng Compson, bởi vì tất cả những gì mẹ còn l.ai là con và Maury và tôi nói, ôi dào bản thân con chẳng cần gì cậu Maury. Phải, cậu thì vừa vỗ vỗ tay bà với đôi găng đen ấy vừa quay đi nói chuyện với người khác. Cậu bỏ găng ra khi đến lượt cậu cầm xẻng. Cậu đi vượt lên ngang với đám người che ô, thỉnh thoảng lại dậm chân rũ bùn khỏi giày và lúng túng với cái xẻng đến nỗi làm cho nó long ra, nói mấy câu giả dối khi đất rơi trên đó, và khi tôi đi vòng ra sau cái xe tang tôi thấy cậu đứng khuất sau một ngôi mộ, tợp thêm một ngụm rượu nữa. Tôi nghĩ chắc cậu sẽ uống không ngừng bởi vì tôi cũng có dịp mặc bộ đồ mới, may sao bánh xe không dính nhiều bùn lắm, chỉ có mẹ thấy thế và nói chẳng biết bao giờ con mới có được bộ đồ khác và cậu Maury nói "Không sao, không sao. Chị đừng lo gì cả. Lúc nào chị cũng có tôi bên cạnh chị mà".
    và chúng tôi có cậu. Lúc nào cũng có. Lá thư thứ tư là của cậu. Nhưng chẳng cần phải mở. Tôi cũng có thể viết lại y hệt như thế, hoặc đọc thuộc lòng cho bà, thêm mười đô la nữa cho ăn chắc. Nhưng tôi có linh cảm về lá thư kia. Tôi cũng cảm thấy như chị sắp giở trò gì đây. Chị khôn ra nhiều sau lần ấy. Chị hiểu rất nhanh rằng tôi chẳng phải dòng dõi bố. Khi họ bắt đầu đắp cao lên dĩ nhiên mẹ lại khóc, vì thế cậu Maury đưa bà lênxe và cho xe đi. Cậu bảo cháu lên xe với ai đó, chắc là họ sẽ vui lòng cho cháu đi nhờ. Cậu phải đưa mẹ cháu đi và tôi đã định nói, vâng lẽ ra cậu phải đem hai chai chứ không phải một có điều tôi nghĩ lại mình đang ở đâu, nên tôi để họ đi. Họ cũng chẳng cần biết tôi ướt như thế nào, rồi họ sẽ lại lo cuống lên là tôi đến bị sưng phổi mất thôi.
    Tôi nghĩ vẩn vơ và nhìn họ ném đất vào đó, đắp đất lên cao như thể trát vữa hay xây hàng rào, và tôi bỗng cảm thấy cơ cực và vì thế tôi quyết định đi dạo một lát. Tôi nghĩ nếu tôi đi về phía thị trấn họ sẽ đuổi kịp và thế nào chả bảo tôi lên xe, nên tôi trở lại khu nghĩa trang da đen. Tôi đi dưới rạng bạch dương cho đỡ mưa, chỉ thỉnh thoảng lộp độp vài giọt, từ chỗ đó tôi thấy họ xong việc và bỏ đi. Một lúc sau họ đã đi hết, tôi đợi thêm vài phút rồi đi ra.
    Tôi phải dò dẫm theo con đường mòn để tránh cỏ ướt nên mãi đến khi đã khá gần tôi mới thấy chị đứng đó, mặc áo choàng đen, nhìn những vòng hoa. Tôi biết ngay đó là ai, trước khi chị quay lại nhìn tôi và vén mạng lên.
    "Chào em, Jason" chị nói, chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay nhau.
    "Chị làm gì ở đây?" tôi nói. "Tôi tưởng chị đã hứa với mẹ là sẽ không trở lại đây nữa mà. Tôi tưởng chị phải biết điều hơn chứ".
    "Cái gì?" chị nói. Chị nhìn lại mấy bó hoa. Chỗ ấy phải đáng năm mươi đô la. Có ai đã đặt một bó lên mộ Quentin. "Cậu nói sao?"
    "Dù sao tôi cũng chẳng ngạc nhiên" tôi nói. "Cái gì chị chẳng dám. Chị cần gì ai. Kệ xác mọi người, chị cần quái gì".
    "Ờ" chị nói. "chuyện đó" chị nhìn nấm mộ. "Chị tiếc về chuyện đó, Jason".
    "Chị tiếc là phải" tôi nói. "Chị nói thì nghe lành như đất ấy. Nhưng chị chả cần về làm gì. Chả còn gì đâu, cứ nhìn cậu Maury thì biết, nếu chị không tin tôi".
    "Chị chẳng cần gì cả" chị nói, nhìn xuống nấm mộ. "Sao không ai cho chị biết?" chị nói. "Chị tình cờ đọc được trên báo. Ở trang cuối. Chỉ tình cờ thôi".
    Tôi chẳng nói gì. Chúng tôi đứng đó nhìn nấm mộ và rồi tôi nghĩ tới ngày chúng tôi còn bé và đủ thứ chuyện, và tôi bỗng lại thấy kỳ cục, điên điên khùng khùng sao đó, nghĩ đến chuyện giờ đây lúc nào chúng tôi cũng có cậu Maury quanh quẩn trong nhà điều khiển công việc theo cái kiểu để mặc tôi đội mưa đi về một mình thế này. Tôi nói:
    "Chị quan tâm quá đấy. Bố chết là lẻn ra đây ngay. Nhưng chẳng được gì đâu. Chị đường tưởng có thể lợi dụng dịp này mà về. Đã lấy ngựa mà không cưỡi nổi thì phải đi bộ thôi". Tôi nói. "Ở nhà không ai biết đến cả tên chị" tôi nói. "Chị biết thế không? không còn ai biết chị và hắn và cả Quentin nữa" tôi nói. "Chị biết thế không?"
    "Chị biết" chị nói. "Jason" chị nói, vẫn nhìn nấm mộ "nếu cậu thu xếp để chị thấy con bé một phút thôi, chị sẽ biếu cậu năm mươi đô la".
    "Chị lấy đâu ra năm mươi đô la?" tôi nói.
    "Cậu chịu không?" chị nói, không nhìn tôi.
    "Cho xem đã" tôi nói. "Tôi không tin chị có nổi năm mươi đô la".
    Tôi thấy tay chị lần dưới áo choàng, rồi chị chìa tay ra. Mẹ kiếp nó đầy tiền. Tôi thấy hai, ba đồng vàng.
    "Hắn vẫn đưa tiền cho chị à?" tôi nói. "Hắn gửi cho chị bao nhiêu?"
    "Chị sẽ cho cậu một trăm" chị nói. "Chịu không?"
    "Một phút thôi nhé" tôi nói "và đúng như tôi dặn. Mẹ mà biết thì một ngàn đô la tôi cũng không thèm".
    "Phải" chị nói. "Sẽ đúng theo lời cậu. Chị chỉ cần nhìn nó một phút thôi. Chị sẽ không đòi hỏi điều gì nữa. Chị sẽ đi ngay lập tức".
    "Đưa tiền tôi đã" tôi nói.
    "Chị sẽ đưa cậu sau" chị nói.
    "Chị không tin tôi hả?" tôi nói.
    "Không" chị nói. "Chị biết cậu lắm. Chị lớn lên với cậu mà".
    "Nói chuyện tin người với chị thì hay thật đấy" tôi nói. "Bởi vậy" tôi nói "tôi phải đi không mưa ướt hết. Chào chị". Tôi làm như bỏ đi thật.
    "Jason" chị nói. Tôi dừng lại.
    "Cái gì?" tôi nói. "Nhanh lên. Tôi ướt hết rồi".
    "Thôi được". Chị nói. "Đây". Không có ai thấy. Tôi quay lại và lấy tiền. Chị vẫn giữ nó. "Cậu sẽ làm chứ?" chị nói nhìn tôi qua tấm mạng. "Cậu hứa chứ?"
    "Đưa đây" tôi nói. "Chị muốn người ta tới và cũng thấy à?"
    Chị buông ra. Tôi nhét tiền vào túi. "Cậu sẽ làm chứ Jason?" chị nói. "Giá như có cách nào khác, chị sẽ không phiền cậu".
    "Chị nói đúng lắm, chả còn cách nào khác" tôi nói. "Chắc chắn tôi sẽ làm. Tôi đã nói là làm. Có điều là chị phải theo đúng những gì tôi dặn".
    "Được" chị nói. "Chị sẽ theo". Thế là tôi nói địa điểm cho chị rồi đến chỗ cho thuê ngựa. Tôi đi gấp đến nơi vào lúc họ đang tháo ngựa. Tôi hỏi họ đã được trả tiền chưa họ nói chưa và tôi nói bà Compson còn quên chút việc và cần có ngựa một lát, nên họ để tôi lấy xe. Mink-cầm cương. Tôi cũng cho anh ta một điếu xì gà và thế là chúng tôi loanh quanh đi phố đến khi trời đổ tối ở các ngõ hẻm không còn nhìn rõ được ai với ai nữa. Rồi Mink nói anh ta phải đem ngựa về chuồng và thế là tôi nói tôi sẽ mua cho anh ta một điếu xì gà nữa rồi chúng tôi rẽ vào ngõ và tôi đi qua sân vào nhà. Tôi đứng ở trong hành lang tới khi nghe tiếng mẹ và cậu Maury trên gác, rồi tôi xuống bếp. Con bé và Ben đang ở đấy với Dilsey. Tôi bảo mẹ muốn bế nó và tôi đem nó lên nhà. Tôi tìm thấy cái áo khoác của cậu Maury và bọc quanh con bé rồi bế nó ra phía cửa lớn và lên xe. Tôi bảo Mink đánh xe đến nhà ga. Anh ta ngại đi qua tàu ngựa nên bọn tôi phải đi vòng, tôi thấy chị ấy đứng ở góc đường dưới ánh đèn và tôi dặn Mink đi sát lề đường, khi nào tôi bảo chạy thì quất ngựa thật mạnh. Rồi tôi bỏ áo khoác ra và đưa con bé tới cửa sổ xe. Caddy trông thấy nó và chị muốn nhảy chồm lên.
    "Quất ngựa, Mink!" tôi nói. Mink ra voi vun vút và chúng tôi chạy vụt qua chị như một chuyến xe lửa. "Bây giờ lên tàu như chị đã hứa đi" tôi nói. Qua cửa hậu tôi thấy chị chạy theo xe. "Quất ngựa đi, Mink!" tôi nói "mình về nhà". Khi chúng tôi ngoặt ở góc phố chị vẫn còn chạy.
    Rồi tối hôm đó tôi đếm lại chỗ tiền cất đi, và cảm thấy chẳng đến nỗi nào. Tôi chắc là chị đã biết tay tôi. Tôi nghĩ hẳn là chị biết rằng chị không thể không giữ lời hứa và không đi chuyến tàu đó. Nhưng hồi ấy tôi còn chưa biết nhiều về con người, tôi cũng chẳng khôn ngoan cho lắm người ta nói sao thì tôi tin vậy, bởi vì sáng hôm sau, mẹ kiếp chị đi thẳng vào cửa hàng, còn may là biết điều kéo mạng xuống và không nói chuyện với ai. Đó là sáng thứ Bảy, bởi vì tôi ở cửa hàng, và chị đi thẳng đến bàn giấy của tôi, bước vội vã.
    "Đồ dối trá" chị nói. "Đồ dối trá".
    "Chị điên hả?" tôi nói. "Chị muốn gì? Sao lại tự tiện vào đây như thế?" Chị định mở miệng nhưng tôi chặn họng ngay. Tôi nói "Chị đã làm tôi mất việc một lần rồi, chị muốn làm tôi mất việc ở đây nữa hay sao? Nếu chị cần nói gì với tôi tôi sẽ gặp chị vào buổi tối. Chị cần nói gì với tôi ?" tôi hỏi. "Chẳng phải tôi làm đúng những gì tôi nói à? Tôi bảo nhìn nó một phút thôi, đúng không? chị cũng nói thế, đúng không? " chị chỉ đứng nhìn tôi, lắc đầu lia lịa như lên cơn sốt rét, hai bàn tay co quắp giật giật. "Tôi chỉ làm đúng những gì tôi hứa" tôi nói "Chị mới là người dối trá. Chị hứa sẽ đi chuyến tàu ấy. Chị có hứa không, có không ? chị tưởng chị có thể đòi lại tiền, thì cứ thử xem. Dù có là một ngàn đô la đi nữa chị cũng vẫn còn nợ tôi khi tôi đã liều lĩnh như thế. Và nếu tôi còn thấy hay nghe nói chị ở lại sau chuyến 17" tôi nói "tôi sẽ nói với mẹ và cậu Maury. Lúc đó thì cứ gắng nói mà đợi ngày thấy lại con bé". Chị chỉ đứng đó, nhìn tôi, hai tay xoắn vào nhau.
    "Thằng chết bằm". Chị nói. "Thằng chết bằm".
    "Hẳn rồi" tôi nói. "Thế cũng được. Giờ thì nhớ những gì tôi vừa nói. Sau chuyến 17, là tôi sẽ kể với họ".
    Chị đi rồi tôi thở phào. Tôi nói tôi tưởng là chị phải nghĩ kỹ trước khi hất tôi khỏi chỗ làm người ta đã hứa với tôi chứ. Hồi đó tôi vẫn còn trẻ con. Người ta hứa làm sao thì tôi tin vậy. Từ đó đến nay tôi học được nhiều. Hơn nữa, như tôi nói tôi nghĩ mình chẳng cần ai giúp mới sống nổi, tôi có thể tự lực cánh sinh như xưa nay vẫn thế. Rồi đột nhiên tôi nhớ đến Dilsey và cậu Maury. Tôi nghĩ chị ấy sẽ nài nỉ Dilsey, còn cậu Maury ấy thì cứ cho mười đô la là chuyện gì cũng xong. Còn tôi thì ở đó, ngay cả bỏ cửa hiệu chạy về bảo vệ mẹ mình cũng không được. Như bà nói, nếu có đứa nào trong cáccon bị gọi đi thì ơn Chúa đã để con lại cho mẹ mẹ có thể nương tựa vào con và tôi nói phải chết tôi cũng chẳng đi đâu xa hơn cái cửa hiệu đến nỗi mẹ không gọi được. Phải có người giữ lấy chút gì còn lại của mình chứ, tôi nghĩ thế.

  3. #22
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nên vừa về đến nhà là tôi thu xếp với Dilsey. Tôi bảo Dilsey là chị ấy bị hủi và tôi lấy Kinh Thánh ra đọc đoạn có người bị thối rụng chân tay ra sao và tôi bảo bà rằng nếu chị ấy nhìn mammy hay Ben hay Quentin là lây bệnh cả đám đấy. Thế rồi tôi cứ tưởng mọi việc đã ổn thoả cho đến hôm đó khi tôi về nhà và thấy Ben đang khóc rống, gào rú như ma quỷ và không ai dỗ nổi. Mẹ nói "Thôi, lấy cho nó chiếc dép vậy". Dilsey làm ra vẻ không nghe thấy. Mẹ nhắc lại và tôi bảo tôi đi đây ồn ào khốn kiếp thế này ai mà chịu nổi. Như tôi nói tôi có thể chịu đựng được đủ thứ tôi chẳng mong đợi gì ở ai nhưng nếu tôi phải làm quần quật suốt ngày ở cái cửa hiệu chó chết ấy thì mẹ kiếp tôi tưởng mình cũng có quyền hưởng chút yên tĩnh mà nuốt trôi bữa chiều chứ. Nên tôi bảo tôi đi đây và Dilsey vội nói "Jason!"
    À, thoáng một cái tôi biết ngay chuyện gì, nhưng để cho chắc tôi đi lấy dép đem lại, và đúng như tôi nghĩ, khi nó thấy chiếc dép người ta tưởng như chúng tôi đang chọc tiết nó. Rồi tôi bắt Dilsey nói thật, rồi tôi kể cho mẹ. Chúng tôi phải dìu bà về giường và sau khi đã im ắng được đôi chút tôi mới đưa Chúa ra doạ Dilsey. Với bọn đen chỉ thế là tiện nhất. Đến bực mình với lũ đầy tớ da đen là khi chúng ở với mình lâu năm chúng đâm ra tự mãn đến mức không đáng lấy một xu. Chúng tưởng chúng cai quản cả gia đình chắc.
    "Tôi muốn biết cứ để cô ấy thăm nom con bé thì có hại gì" Dilsey nói "Nếu ông Jason mà còn sống thì đã khác".
    "Nhưng ông Jason không còn nữa" tôi nói "Tôi biết mammy không coi tôi là gì cả, nhưng tôi tưởng mammy còn biết nghe lời mẹ chứ? Mammy cứ làm bà lo lắng thế này, chả mấy chốc mammy cũng đưa bà ra nghĩa địa luôn, bấy giờ mammy tha hồ đem cái lũ rác rưởi ấy về đầy nhà. Nhưng tại sao mammy lại để cho cái thằng khùng khốn nạn gặp chị ấy làm gì chứ?"
    "Cậu Jason, cậu là người sắt đá, nếu quả cậu là con người" bà nói. "Ơn Chúa, tôi sống còn có tình hơn thế, dù đó là tình của dân đen".
    "Ít ra tôi cũng là người đủ để giữ cho thùng bột đầy" tôi nói. "Và nếu mammy còn làm thế nữa, thì mammy đừng có ăn cái thứ bột ấy".
    Nên lần sau tôi bảo chị ấy nếu chị còn lợi dụng Dilsey nữa thì mẹ sẽ đuổi Dilsey rồi gửi Ben đi Jackson và đưa Quentin đi nơi khác. Chị ấy nhìn tôi một lúc. Không có ngọn đèn đường nào ở gần và tôi không nhìn rõ mặt chị. Nhưng tôi cảm thấy chị đang nhìn tôi. Khi chúng tôi còn bé mỗi lần chị còn không biết phải làm thế nào, môi trênchị thường giật giật. Mỗi lần nó giật răng chị lại hé ra một chút, và suốt thời gian đó chị cứ đứng ngây ra như tượng, không hề nhúc nhích chỉ có môi trên giật giật để hở răng mỗi lúc mỗi cao. Nhưng chị không nói gì cả. Chị chỉ bảo:
    "Được rồi. Bao nhiêu?"
    "Thì cứ mỗi lần nhìn qua cửa xe là một trăm" tôi nói. Lần sau đó chị có phần biết điều, chỉ có một lần chị đòi xem tài khoản ở ngân hàng.
    "Tôi biết có ký nhận của mẹ đàng sau" chị nói. "Nhưng tôi muốn xem tài khoản ở ngân hàng. Tôi muốn tận mắt thấy các ngân phiếu ấy đi đâu".
    "Đó là chuyện riêng của mẹ" tôi nói. "Nếu chị cho là chị có quyền nhòm nhỏ vào việc riêng của mẹ, tôi sẽ nói lại với bà rằng chị bảo là những ngân phiếu kia bị biển thủ và đòi kiểm tra vì chị không tin bà".
    Chị không nói gì cũng không nhúc nhích. Tôi nghe tiếng chị lẩm bẩm đồ khốn nạn ôi quân khốn nạn ôi quân khốn nạn.
    "Nói hẳn ra đi" tôi nói. "Tôi tưởng chị với tôi thì biết nhau quá rồi có gì mà phải giấu. Chắc chị muốn đòi tiền lại?" tôi nói.
    "Nghe này Jason" chị nói. "Đừng có dối tôi. Về con bé ấy. Tôi không đòi xem gì cả. Nếu thế chưa đủ, hàng tháng tôi sẽ gửi thêm. Chỉ cần cậu hứa là nó – là nó – Cậu có thể làm thế mà. Những thứ vặt vãnh cho nó. Thương nó với. Những cái nhỏ nhặt mà tôi không thể, họ không thể...nhưng cậu chắc là không đâu. Có bao giờ có một giọt máu nóng trong lòng cậu. Nghe này" chị nói "nếu cậu nói với mẹ sao cho tôi lấy lại được con bé, tôi sẽ cho cậu một ngàn đô la".
    "Chị lấy đâu ra một ngàn đô la?" tôi nói. "Tôi biết chị chỉ nói láo".
    "Có, tôi có. Tôi sẽ có. Tôi có thể kiếm ra".
    "Và tôi biết chị làm cách nào để có" tôi nói "Chị lo kiếm tiền bằng cách chị đã có con bé chứ gì. Và khi nào nó đủ khôn lớn" Rồi tôi nghĩ chắc chị sắp đánh tôi, rồi tôi không biết chị định làm gì nữa. Trong giây lát, trông chị như món đồ chơi bị lên dây cót quá chặt muốn vỡ tung ra.
    "Ôi tôi điên mất" chị nói. "Tôi loạn óc mất. Tôi không có được nó. Giữ nó. Tôi đang nghĩ gì nhỉ? Jason". Chị nói, cầm lấy tay tôi. Tay chị nóng như đang lên cơn sốt. "Cậu phải hứa sẽ chăm sóc nó, sẽ - nó là cháu cậu, máu mủ ruột thịt của cậu mà. Hứa đi, Jason. Cậu cùng tên với bố, cậu xem có bao giờ tôi phải xin ông tới hai lần? Ngay cả một lần thôi?"
    "Thì ra thế" tôi nói. "Thì ra ông cũng có để lại cho chị cái gì đó. Chị muốn tôi làm gì" tôi nói. "Mua yếm dãi với xe tập đi à? Tôi đâu có lôi chị vào chuyện này" tôi nói. "Tôi còn mạo hiểm hơn chị nhiều, bởi vì chị có bị đe doạ gì đâu. Vậy thì chị chờ".
    "Không" chị nói, rồi chị bắt đầu cười và đồng thời cố kìm lại. "KHông, tôi chẳng bị đe doạ gì cả". Chị nói, vẫn cười thành tiếng, đưa tay lên che miệng. "Khô-ông khô-ông không gì cả" chị nói.
    "Này" tôi nói "Thôi đi!"
    "Tôi đang cô ố" chị nói, đưa cả hai tay lên bịt miệng. "Ôi trời ơi! Trời ơi!"
    "Tôi đi đây" tôi nói. "Tôi không muốn ai thấy tôi ở đây. Chị đi khỏi tỉnh ngay. Chị nghe không?"
    "Đợi đã" chị nói, túm lấy tay tôi. "Tôi nín rồi. Tôi không cười nữa. Cậu hứa đi, Jason?" chị nói, và tôi cảm thấy mắt chị như muốn bật tung ra đụng vào mắt tôi. "Cậu hứa chứ? Này – chỗ tiền ấy – nếu thỉnh thoảng nó có cần gì – Nếu tôi gửi ngân phiếu cho nó đến chỗ cậu, những cái khác ngoài mấy cái kia, cậu sẽ đưa cho nó chứ? Cậu không nói ra chứ? Cậu sẽ lo sao cho nó không thua kém bạn bè chứ?"
    "Chắc chắn rồi" tôi nói. "Chừng nào chị biết điều và làm theo lời tôi".
    Rồi khi Earl ra cửa trước mũ úp trên đầu và nói "Tôi ghé qua tiệm Roger kiếm cái gì nhét vào bụng. Mình không đủ thì giờ về nhà ăn trưa đâu, tôi nghĩ thế".
    "Làm gì đến nỗi không có thì giờ?" tôi nói.
    "Thì tại cái buổi diễn gì đấy" hắn nói. "Họ định cho diễn cả buổi chiều nữa, và thiên hạ ai cũng muốn mua bán cho xong để còn đi xem. Nên mình cứ chạy qua đàng Roger cho tiện".
    "Được rồi" tôi nói "anh đói thì cứ đi. Nếu anh muốn làm nô lệ cho công việc thì tôi cũng đành chịu".
    "Chắc hẳn cậu không làm nô lệ cho công việc nào cả" hắn nói.
    "Ngoại trừ công việc của Jason Compson" tôi nói.
    Nên khi tôi mở thư điều duy nhất làm tôi ngạc nhiên là một tờ bưu phiếu cứ không phải ngân phiếu. Vâng đúng thế đấy.
    Làm sao mà tin cái ngữ ấy được. Sau bao nhiêu lần mạo hiểm như thế, rồi lo mẹ biết chuyện chị ấy vẫn về đây một năm đôi ba lần và tôi cứ phải nói dối mẹ chuyện đó. Người ta trả ơn mình như vậy đấy. Và tôi chẳng lạ gì khi chị yêu cầu bưu điện không đưa tiền cho ai ngoài nó. Một co nranh con như thế mà cho những năm mươi đô la. Ngay như tôi mãi đến năm hai mươi mốt tuổi mới thấy tờ năm mươi đô la trong khi bạn bè nghỉ buổi chiều và cả ngày thứ Bảy thì tôi phải quần quật ở cửa hiệu. Tôi đã bảo mà, còn ai dạy được nó nữa khi mẹ nó lén cho nó tiền sau lưng mình. Nó cũng ở cùng nhà với mình, cũng được nuôi nấng như mình. Tôi nghĩ mẹ phải biết nó cần gì hơn chị chứ, chị có phải lo chuyện nhà cửa bao giờ. "Nếu chị muốn cho nó tiền" tôi bảo "thì chị cứ đưa cho mẹ, đừng cho thẳng nó. Nếu cứ vài tháng tôi lại phải liều một lần thế này thì chị phải nghe tôi, không là cắt đứt".
    Cũng tới lúc tôi sửa soạn để đi và nếu Earl tưởng rằng tôi sẽ nháo nhào ra phố nuốt vội vai miếng đến nghẹn vì lo kiếm lời cho hắn thì hắn quả là một gã đại ngốc. Có thể tôi không được ngồi gác chân lên bàn gỗ quý nhưng tôi ăn lương là để làm việc trong nhà và nếu ngoài giờ làm tôi không được sống cho ra sống thì biến đi đâu được là tôi biến ngay. Tôi có thể tự lực cánh sinh, tôi chẳng cần bàn gỗ quý của ai nâng đỡ tôi nên cũng đã tới lúc tôi sửa soạn để đi. Tôi sắp lại phải bỏ mọi thứ đấy để ra bán cho một anh cổ cày vai bừa một xu đinh hay cái gì đó, và Earl ở ngoài kia nuốt chửng miếng sandwich và đang trên đường về, cứ như không có gì xảy ra, và rồi tôi thấy mấy tờ khống phiếu đã hết sạch. Tôi nhớ lại là mình đã định đi xoay vài cái, nhưng giờ thì quá muộn rồi, tôi ngẩng lên và thấy Quentin đi thẳng vào. Bằng cửa sau. Tôi nghe nó hỏi già Job có tôi ở đây không. Tôi chỉ còn vừa đủ thời gian nhét tất cả vào ngăn kéo và đóng lại.
    Nó đi vòng tới chỗ bàn giấy. Tôi nhìn đồng hồ.
    "Mày về ăn trưa rồi đấy à?" tôi nói. "Mới đúng mười hai giờ, tao vừa nghe chuông. Mày định bay về nhà rồi quay lại trường ngay hay sao?"
    "Tôi không về nhà ăn trưa" nó nói. "Hôm nay tôi có thư không?"
    "Mày chờ thư à?" tôi nói. "Mày mà có một thằng bé biết viết sao?"
    "Của mẹ" nó nói. "Tôi có cái thư nào của mẹ không" nó nhìn tôi.
    "Bà có một cái thư của mẹ mày" tôi nói. "Tao chưa mở. Mày phải đợi bà mở đã. Tao tưởng thế nào bà chả cho mày xem".
    "Cậu Jason, xin cậu" nó nói, hờ hững. "Tôi có thư không?"
    "Chuyện gì vậy?" tôi nói. "Tao chưa bao giờ thấy mày trông mong ai. Mày đợi tiền mẹ mày chứ gì?"
    "Mẹ tôi bảo" nó nói. "Xin cậu, cậu Jason" nó nói. "Có thư không ?"
    "Dù sao hôm nay mày cũng có đi học thì phải" tôi nói. "Ở đâu mà họ lại dạy mày biết xin xỏ thế. Khoan đã, đợi tao hầu xong ông khách này".
    Tôi đi ra phục vụ khách. Khi tôi quay lại nó đã lúi húi ở phía sau bàn. Tôi chạy lại. Tôi vòng ra sau bàn và túm được nó ngay khi tay nó vừa rút ra khỏi ngăn kéo. Tôi giằng lá thư trong tay nó, đập mắt cá tay nó xuống bàn đến khi nó chịu buông ra.
    "Mày dám thế à?" tôi nói.
    "Đưa cho tôi" nó nói. "Cậu đã mở rồi. Đưa thư cho tôi. Cậu Jason, xin cậu. Thư của tôi. Tôi thấy tên mà".
    "Tao sẽ cho mày một cái dây cương" tôi nói. "Tao sẽ cho mày cái ấy đấy. Dám lục giấy tờ của tao".
    "có tiền trong đó không?" nó nói, cố với lấy thư. "Mẹ bảo sẽ gửi tiền cho tôi. Mẹ hứa sẽ gửi. Đưa cho tôi đì!"
    "Mày cần tiền để làm gì?" tôi nói.
    "Mẹ nói sẽ gửi" nó nói. "Đưa thư cho tôi. Xin cậu, cậu Jason. Tôi sẽ không bao giờ hỏi xin cậu cái gì nữa, nếu cậu cho tôi lần này".
    "Tao sẽ đưa, nếu mày để từ từ" tôi nói. Tôi lấy bức thư và tờ bưu phiếu, đưa cho nó bức thư. Nó chồm lên cố giật tờ bưu phiếu mà không buồn liếc qua lá thư. "Mày phải ký vào đây trước đã" tôi nói.
    "Bao nhiêu?" nó nói.
    "Đọc thư đi" tôi nói. "Tao chắc thư có nói".
    Nó đọc rất nhanh, chỉ liếc qua hai lượt.
    "Thư không nói" nó nói, ngước nhìn tôi. Nó vứt thư xuống sàn. "Bao nhiêu?"
    "Mười đô la" tôi nói.
    "Mười đô la?" nó nói, nhìn tôi chằm chằm.
    'Mày được thế là sướng chán rồi còn gì" tôi nói. "Nhãi ranh như mày. Sao bỗng dưng mày sùng sục lên đòi tiền thế?"
    "Mười đô la à?" nó nói, như thể nó đang nói mơ. "Chỉ có mươi đô la thôi?" nó đưa tay giật tờ bưu phiếu. "Cậu nói láo" nó nói. "Đồ ăn cướp!" nói nói "Đồ ăn cướp!"
    "Mày dám thế à?" tôi nói, đẩy nó ra.
    "Đưa cho tôi !" nó nói. "Của tôi mà. Mẹ gửi tiền cho tôi. Tôi phải xem. Tôi phải xem".
    "Mày phải xem à?" tôi nói, giữ tay nó. "Mày làm cách nào mà xem?"
    "Tôi chỉ xem thôi, cậu Jason" nó nói. "Xin cậu. Tôi sẽ không đòi cậu cái gì nữa".
    "Mày bảo tao nói láo phải không?" tôi nói. "Chỉ thế thôi mày cũng đã không đáng được xem".
    "Nhưng chỉ có mười đô la" nói nói. "Mẹ bảo là mẹ sẽ - mẹ bảo là – cậu Jason, xin cậu van cậu lạy cậu. Tôi phải có tiền. Tôi phải có. Đưa cho tôi đi, cậu Jason. Đưa cho tôi đi rồi cậu bảo gì tôi cũng nghe".
    "Nói tao biết mày cần tiền làm gì?" tôi nói.
    "Tôi phải có" nó nói. Nó đang nhìn tôi. Rồi bỗng dưng nó không nhìn tôi nữa, mắt mở lớn không chớp. Tôi biết nó sắp nói láo. "Tôi nợ người ta một ít tiền. Tôi phải trả nợ. Tôi phải trả ngay hôm nay".
    "Trả ai?" tôi nói. Nó xoắn hai tay lại. Tôi thấy rõ nó đang nghĩ cách nói dối. "Mày lại mua chịu ở cửa hàng chứ gì?" tôi nói. "Mày chả phải mất công bảo tao thế. Khắp cái thị trấn này tao đã dặn trước rồi mà lại còn có người bán chịu cho mày thì cứ đem đầu tao ra mà chặt".
    "Đấy là một con bạn" nó nói. "một con bạn. Tôi vay tiền của nó. Tôi phải trả. Cậu Jason, đưa tiền cho tôi. Xin cậu. Tôi sẽ làm mọi việc. Tôi phải có tiền. Mẹ sẽ trả cậu. Tôi sẽ viết thư bảo bà ấy trả cậu và tôi sẽ không xin xỏ gì bà ấy nữa. Cậu muốn xem thư thì xem. Xin cậu, cậu Jason. Tôi phải có tiền".
    "Nói cho tao biết mày cần tiền làm gì, rồi tao sẽ cho xem". Tôi nói. "Nói đi!" nó chỉ đứng đó, hai tay vò nhàu áo. "Thôi được " tôi nói. "Nếu mày chê mười đô la quá ít, tao sẽ đem về cho bà, rồi mày sẽ thấy chuyện gì xảy ra. Dĩ nhiên nếu mày giàu mày đâu cần mười đô la".
    Nó chỉ đứng đó cúi gầm mặt nhìn xuống đất, lẩm nhẩm trong miệng "Mẹ nói mẹ sẽ gửi cho mình ít tiền. Mẹ bảo mẹ gửi tiền đến đây còn cậu lại bảo mẹ không gửi gì. Mẹ bảo mẹ gửi rất nhiều tiền về đây. Mẹ bảo tiền gửi cho mình. Để mình có tiền tiêu. Còn cậu bảo mình chả có đồng nào".
    "Mày cũng biết rõ chuyện đó như tao" tôi nói. 'Mày đã thấy các ngân phiếu ấy ra sao rồi đấy thôi".
    "Phải" nó nói, nhìn xuống đất. "Mười đô la" nó nói. "Mười đô la".
    "Mười đô la còn hên đấy con ạ" tôi nói. "Đây" tôi nói. Tôi đặt bưu phiếu úp xuống mặt bàn, chặn tay lên. "Ký đi!"
    "Cậu cho tôi xem có được không?" nó nói. "Tôi chỉ muốn xem thôi. Dù bao nhiêu tôi cũng chỉ lấy mười đô la thôi. Còn thì cậu lấy. Tôi chỉ muốn xem thôi".
    "Mày láo thế đâu được" tôi nói. "Mày phải học lấy một điều là khi tao bảo mày làm gì, mày phải làm cái đó. Mày ký tên vào chỗ này này".
    Nó cầm lấy bút, nhưng thay vì ký, nó cứ đứng sững đầu cúi gục như cũ và cây bút rung bần bật trong tay. Hệt như mẹ nó. "Trời ơi!" nó nói "trời ơi!"
    "Phải" tôi nói. "Nếu mày chưa học được điều gì bao giờ thì hãy học lấy điều đó. Ký vào đây , rồi đi cho khuất mắt tao".
    Nó ký tên. "Tiền đâu?" nó nói. Tôi lấy tờ bưu phiếu thấm khô mực rồi bỏ vào túi. Rồi tôi đưa cho nó mười đô la.
    "Bây giờ mày trở lại trường học chiều nay đi, nghe không?" tôi nói. Nó không trả lời. Nó vò tờ bạc trong tay như vò mảnh giấy lộn hay gì đó và đi ra cửa trước vừa đúng lúc Earl đi vào. Một khách hàng vào cùng với hắn và họ dừng lại ở quầy. Tôi thu dọn rồi đội mũ và đi ra ngoài quầy.
    "Nãy giờ bận lắm hả?" Earl nói.
    "Không bận lắm" tôi nói. Hắn nhìn ra phía cửa.
    "Xe cậu để đàng kia phải không?" hắn nói. "Tốt hơn đừng về ăn nhà. Thế nào cũng bận túi bụi một đợt nữa trước buổi diễn. ăn qua loa ở đàng Roger và bỏ một cái vé vào ngăn kéo ấy!"
    "Đa tạ" tôi nói. "Tôi nghĩ là tôi vẫn còn đủ sức nuôi cái thân tôi
    Và hắn cứ đứng ở đó, chòng chọc nhìn ra cửa như một con diều hâucho đến khi tôi trở lại bước vào cửa. Hừm, thì hắn cứ việc nhìn ra cửa, tôi đã làm hết sức tôi rồi. Lần trước tôi đã bảo tờ này là tờ chót, mình phải nhớ kiếm vài tờ khác ngay. Nhưng cứ bận rối lên thế này ai mà nhớ được việc gì. Rồi buổi diễn thổ tả kia lại nhè đúng ngay cái ngày mà tôi phải lùng sục khắp tỉnh cho ra một tờ khống phiếu, đã thế lại còn bao nhiêu việc nhà việc cửa khác mà Earl thì cứ đứng canh cửa như một con diều hâu.
    Tôi đến xưởng in và bảo rgtg muốn đùa một người bạn, nhưng họ nói họ không có. Rồi họ bảo tôi đến tìm chỗ nhà hát cũ xem, ở đó người ta tồn trữ cả đống giấy tờ phế thải của Ngân hàng Nông thương khi nó phá sản, thế là tôi lại chạy xe ngược mấy con hẻm ngoắt ngoéo để Earl không thấy và cuối cùng tìm được ông già Simmons để lấy chìa khoá rồi lên đó lục lọi. Cuối cùng tôi tìm thấy một xấp của ngân hàng San Louis. Dĩ nhiên cho chị ấy chọn ngân hàng này thử một lần xem sao. Ờ, nó được việc chán.tôi chả còn thời gian đâu mà chần chừ.
    Tôi trở lại cửa hàng. "Quên mấy thứ giấy tờ. Mẹ tôi cần tới ngân hàng". Tôi nói. Tôi trở lại bàn làmgiả tấm ngân phiếu. Tôi làm vội vàng cho xong, bụng bảo dạ cũng may là mắt bà cụ kém rồi, chứ với cái con đĩ ranh ấy ở trong nhà, một bà già sùng đạo nhẫn nại như mẹ thì. Tôi bảo mẹ cũng biết rõ như tgrr nó sẽ ra cái thứ gì nhưng tôi nói đó là việc của mẹ, nếu mẹ muốn dung dưỡng nó ở nhà thì cũng chỉ vì bố. Rồi bà lại bắt đầu khóc và nói nó là máu mủ của bà nên tôi chỉ nói. Được rồi. Mẹ cứ làm theo ý mình. Mẹ chịu được thì tôi cũng chịu được.
    Tôi sửa lại lá thư, dán phong bì như cũ và đi ra.
    "Cô gắng về sớm một chút đỡ tôi một tay" Earl nói.
    "Được rồi". Tôi nói. Tôi đến bưu điện. Mấy thằng cha láu cá đã ở đó cả.
    "Các cậu đã ai kiếm được triệu nào chưa?" tôi nói.
    "Kiếm chác gì ở cái thị trường như thế này?" Doc nói.
    "Sao rồi?" tôi nói. Tôi vào xem. Thấp hơn lúc mới mở cửa ba điểm. "Các cậu để cho cái trò vặt như thị trường bông này đánh gục à?" tôi nói. "Tôi tưởng các cậu khôn ngoan có thừa chứ?"
    "Khôn ngoan cái quỷ gì" Doc nói. "Lúc mười hai giờ xuống mười hai điểm làm mình nhẵn túi".
    "Mười hai điểm?" tôi nói. "mẹ kiếp sao không ai cho tôi biết? sao không báo cho tôi?" tôi hỏi tay trực tổng đài.
    "Tôi chỉ biết có tin thì tôi nhận" anh ta nói. "Tôi đâu phải cửa hàng bán thùng".
    "Anh ma mãnh nhỉ?" tôi nói. "Tôi cho anh tiền mà anh không gọi cho tôi một tiếng được hay sao? Chắc là cái công ty chó chết của anh lại thông đồng với bọn cá mập biển Đông chứ gì?"
    Anh ta không nói gì. Anh ta làm ra vẻ hết sức bận rộn.
    "Anh mặc cái quần hơi quá cỡ đấy" tôi nói. "Trước tiên nên nhớ rằng anh phải kiếm miếng ăn bằng cách nào".
    "Chuyện gì vậy?" Doc nói. "Cậu còn được ba điểm mà".
    "Phải" tôi nói. "nếu tôi bán. Tôi nghĩ là tôi chưa hề thông báo ý định đó. Các cậu sạch túi chưa?"
    "Tôi bị hai cú rồi". Doc nói. "May mà xoay xở kịp".
    "Hừ" I.Ó. Snopes nói. "Tôi thì đã lãnh đủ. Thỉnh thoảng nó lại chơi mình một vố thế này thật ớn".

  4. #23
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - 8 -

    Thế rồi tôi để mặc cho họ mua bán với nhau mỗi điểm một đồng kền. Tôi túm được một gã đen và sai gã đi lấy xe cho tôi còn tôi đứng đợi ở góc phố. Vì đứng đây tôi không nhìn thấy cửa hiệu nên tôi cũng không thấy Earl ngó ngược ngó xuôi ra đường , một mắt vẫn liếc đồng hồ. Có lẽ phải đến cả thế kỷ sau gã đen mới đem xe tới.
    "Mày trốn ở đâu mà lâu thế?" tôi nói. "Đánh một vòng làm le với gái hả?"
    "Tôi lái thẳng lại đây chứ" gã nói. "Tôi phải đi vòng qua quảng trường vì vướng mấy cái xe ngựa".
    Tôi chưa thấy một thằng mọi đen nào lại không có tài viện lý do lý trấu cho bất kỳ việc gì nó làm. Nhưng cứ hễ giao xe cho đứa nào là đứa đó làm một màn trình diễn ngay. Tôi lên xe và vòng qua quảng trường. Tôi thoáng thấy Earl qua khe cửa bên kia quảng trường.
    Tôi đi thẳng xuống bếp và bảo Dilsey dọn bữa gấp.
    "Quentin chưa về" bà nói.
    "Thế là thế nào?" tôi nói. "lần sau chắc mammy bảo tôi đợi cả thằng Luster nữa hả? Quentin nó biết nhà này ăn vào giờ nào. Mammy dọn bàn nhanh lên!"
    Mẹ ở trong phòng. Tôi đưa thư cho bà. "Nào" tôi nói. "Đốt cho xong. Không mẹ lại khóc".
    Bà cầm diêm nhưng không đánh lửa. Bà cứ ngồi đó nhìn tờ ngân phiếu. Thật đúng như tôi nói.
    "Mẹ không muốn làm thế" bà nói." Thêm gánh nặng cho con vì con Quentin…"
    "Tôi nghĩ mình vẫn xoay xở được mà" tôi nói. "Nào, làm cho xong đi!"
    Nhưng bà cứ ngồi thừ ra cầm tờ ngân phiếu. "Tờ này lại ở ngân hàng khác" bà nói. "Các tờ trước đều là ở ngân hàng Indianapolis".
    "Phải" tôi nói. "Đàn bà cũng có quyền làm thế".
    "Làm gì?" bà nói.
    "Gởi tiền vào hai ngân hàng" tôi nói.
    "Ừ" bà nói. Bà nhìn tờ ngân phiếu một lúc. "Mẹ mừng thấy nó cũng …nó cũng khá… Chúa chứng giám là mẹ làm đúng", bà nói.
    "Nào" tôi nói "làm đi. Làm cho thanh thản".
    "Thanh thản à?" bà nói "Khi mẹ nghĩ"
    "Tôi tưởng mỗi tháng mẹ đốt hai trăm đô la thế là thanh thản chứ" tôi nói. "Nào, mẹ để tôi đánh diêm nhé?"
    "Mẹ nghĩ có nhận cũng không sao" bà nói. "Thì cũng cho con cái. Mẹ không phải khái tính gì".
    "Mẹ chẳng bao giờ vừa lòng" tôi nói. "mẹ biết thế mà. Mẹ đã quyết định thế nào thì cứ để mọi việc như thế. Mình vẫn có thể xoay xở được".
    "Mẹ để con quyết định mọi việc." bà nói. "Nhưng đôi khi mẹ sợ là làm như vậy mẹ đã tước đoạt của con những gì mà con có quyền hưởng. Có lẽ rồi mẹ sẽ phải trả giá cho chuyện đó. Nếu con muốn mẹ sẽ dẹp mọi tự ái mà nhận tiền".
    "Bây giờ mới bắt đầu thì còn hay ho gì nữa , khi mẹ đã đốt cả mười lăm năm trời?" tôi nói. "Nếu mẹ tiếp tục đốt thì mẹ chẳng mất gì cả. Nếu mẹ bắt đầu nhận coi như mẹ đã mất năm vạn đô la. Cho đến giờ mình vẫn xoay xở được, phải không nào?" tôi nói. "Mẹ vẫn chưa phải vào viện tế bần mà".
    "Phải" bà nói. "Họ Bascomb chúng ta đâu cần ai bố thí. Nhất là lại của một đứa con gái sa đoạ".
    Bà đánh diêm châm vào tờ ngân phiếu và để nó vào xẻng, rồi cả lá thư nữa và nhìn lửa cháy.
    "Con không bao giờ biết được" bà nói "Ơn Chúa con sẽ không bao giờ biết được nỗi lòng của một người mẹ ra sao".
    "Trên đời này thiếu gì đàn bà con gái chẳng hơn gì chị ấy" tôi nói.
    "Nhưng họ không phải con gái mẹ" bà nói. "Không phải vì mẹ" bà nói "mẹ sẵn lòng để nó trở về, dù nó có tội lỗi gì, nó là đứa con mẹ dứt ruột đẻ ra mà. Chỉ vì con Quentin…"
    Rõ thật là, tôi có thể bảo rằng còn ai làm con Quentin hư thêm được nữa, nhưng như tôi nói, tôi chẳng mong gì ngoài việc được yên thân đừng có mấy người đàn bà trong nhà hết cãi nhau rồi lại khóc lóc.
    "Cả vì con nữa" bà nói "Mẹ biết con nghĩ gì về chị con".
    "Cứ để chị ấy về" tôi nói. "Tôi thì sao cũng được".
    "Không" bà nói. "Mẹ làm thế là để yên lòng bố con".
    "Nhất là khi bố lúc nào cũng thuyết phục mẹ cho chị ấy về lúc Herbert tống cổ chị ấy ra khỏi cửa chứ gì?"
    "Con không hiểu" bà nói "Mẹ biết con không cố ý làm cho mẹ thêm khó xử. Nhưng con dại cái mang" bà nói. "Mẹ có thể chịu đựng được mà".
    "Theo tôi nghĩ thì mẹ hay tự giày vò không cần thiết". Tôi nói. Giấy đã cháy hết. Tôi đem đổ vào lò. "Tôi thấy đốt đi những khoản tiền có ích này cũng không phải" tôi nói.
    "Cầu cho mẹ không bao giờ thấy ngày con phải nhận nó. Thứ tiền dơ bẩn của tội lỗi" bà nói. "Thà mẹ thấy con nằm trong quan tài thì hơn".
    "Tuỳ mẹ thôi" tôi nói. "Mình ăn bữa chiều luôn thể chứ?" tôi nói. "Vì nếu không tôi phải đi làm đây. Hôm nay nhiều việc lắm". Bà đứng lên. "Tôi đã bảo mammy rồi" tôi nói. "Nhưng hình như bà ấy còn đợi Quentin hay Luster hay ai đó. Thôi mẹ, để tôi gọi. Chờ chút đi". Nhưng bà đã đi đến cầu thang và gọi.
    "Quentin nó chưa về" Dilsey nói.
    "Thôi tôi phải đi đây" tôi nói. "Tôi có thể ăn tạm miếng sandwich dưới phố. Tôi không muốn xen vào việc của Dilsey" tôi nói.
    Chỉ có thế là bà lại bắt đầu khóc, còn Dilsey thì khập khiễng đi tới đi lui lẩm bẩm.
    "Được rồi, được rồi. Tôi sẽ dọn thật nhanh ngay đây".
    "Mẹ đã cố làm vừa lòng tất cả" bà nói. "Mẹ đã cố làm sao cho các con được thoải mái".
    "Tôi có kêu tướng gì đâu?" tôi nói. "Có đúng là tôi chỉ sống tôi phải trở lại cửa hàng không?"
    "Mẹ biết" bà nói "mẹ biết con không được may mắn như mấy đứa kia, con phải chôn chân ở một cửa hiệu nhà quê, vặt vãnh. Mẹ cũng muốn con được tiến thân. Mẹ biết bố con không bao giờ chịu hiểu rằng chỉ con là có đầu óc kinh doanh, và rồi mọi sự đổ vỡ cả, mẹ cứ tin là sau khi chị con cưới, và Herbert…nó đã hứa…"
    "Thôi, có lẽ anh ta cũng nói dối" tôi nói. "Có khi anh ta cũng chẳng có ngân hàng ngân hiếc gì đâu. Và giá như có, tôi nghĩ anh ta chẳng dại gì đến tận Mississippi này để thuê người".
    Chúng tôi ngồi ăn một lúc. Tôi nghe tiếng Ben ở dưới bếp. Luster đang cho nó ăn. Như tôi nói, nếu phải cáng đáng thêm một miệng ăn nữa mà bà lại không chiịu nhận thứ tiền kia, sao không gửi quách nó đi Jackson cho rảnh nợ. Ở đấy với những thằng như nó, có khi nó lại sung sướng hơn. Tôi nói có Chúa biết nhà này chả còn sĩ diện vào đâu được nữa, nhưng đâu phải cứ mắc bệnh sĩ mới không muốn thấy một gã đàn ông ba mươi tuổi chơi rong ngoài sân với một thằng nhãi đen, chạy đi chạy lại dọc hàng rào và rống lên mỗi lần người ta đánh golf bên kia. Tôi bảo nếu cho nó đi Jackson ngay từ đầu thì bây giờ mình đã khá hơn. Tôi bảo mẹ đã làm tròn trách nhiệm của mẹ với nó rồi, mẹ đã làm tất cả những gì người ta chờ đợi ở mẹ và chẳng phải ai cũng làm được như mẹ, vậy sao không gửi nó vào đó và hưởng cái lợi của những thuế má mà mình đã đóng. Rồi bà nói chả mấy lúc mà mẹ chết mẹ biết mẹ chỉ là gánh nặng cho con và tôi nói mẹ nói chuyện ấy bao lần rồi đến nỗi tôi cũng bắt đầu tin đấy chỉ có điều tôi nói mẹ nên hiểu rõ và đừng báo cho tôi biết là mẹ đi vì ngay đêm đó tôi sẽ cho nó lên chuyến tàu số 12 và tôi nói tôi nghĩ là tôi còn biết một nơi họ nhận cả con bé kia nữa và đấy chẳng phải phố Sữa hay đại lộ Mật gì đâu. Rồi bà bắt đầu khóc và tôi nói được rồi được rồi tôi cũng hãnh diện về dòng dõi của mình như ai dẫu ngay cả họ từ đâu tới tôi cũng không biết.
    Chúng tôi ăn được một lúc. Mẹ lại bảo Dilsey ra cửa trước tìm Quentin.
    "Tôi đã nói với mẹ bao lần là nó không về ăn đâu mà" tôi nói.
    "Nó phải biết chứ" mẹ nói. "Nó phải biết rằng mẹ không cho phép nó la cà ngoài đường vào giờ ăn chứ. Dilsey xem kỹ chưa?"
    "Thì đừng cho nó đi" tôi nói.
    "Mẹ biết làm sao" bà nói. "Các con đứa nào chả coi thường mẹ. Xưa nay vẫn thế".
    "Nếu mẹ không can thiệp vào, tôi đã dạy cho nó biết" tôi nói. "Chỉ một lần thôi là đâu vào đấy ngay".
    "Con sẽ quá tay với nó" bà nói. "Con nóng nảy giống cậu Maury".
    Câu ấy nhắc tôi nhớ đến bức thư. Tôi lấy ra đưa cho bà. "Mẹ khỏi cần mở" tôi nói. "Ngân hàng sẽ báo cho mẹ biết lần này là bao nhiêu".
    "Địa chỉ gửi cho con mà" bà nói.
    "Mẹ cứ mở ra đi" tôi nói. Bà mở thư đọc và đưa cho tôi.
    "Cháu thân mến" thư viết.
    "Chắc cháu cũng mừng nếu biết rằng hiện giờ cậu đang có khả năng nắm được một cơ hội mà, vì những lý do cậu sẽ giải thích cho cháu sau, cậu không đi vào chi tiết để một dịp khác cậu sẽ tiết lộ cho chắc hơn. Kinh nghiệm kinh doanh của cậu đã dạy cậu là chỉ nên chuyển giao những điều riêng tư qua một phương tiện truyền đạt cụ thể hơn là ngôn ngữ, và sự thận trọng tối đa của cậu trong trường hợp này đủ cho cháu một ý niệm về giá trị của nó. Chắc cháu cũng biết, cậu vừa hoàn tất một cuộc khảo nghiệm hết sức gay go về mọi mặt, và cậu không hề lưỡng lự cho cháu hay rằng đây là cơ hội vàng chỉ đến một lần trong đời, và giờ đây cậu thấy rõ trước mắt mình cái đích mà cậu đã mong mỏi và theo đuổi không nản chí, tức là củng cố lần chót công cuộc của cậu nhờ đó cậu có thể khôi phục địa vị chính đáng của gia đình mà cậu có vinh hạnh là kẻ nối dõi duy nhất còn lại, cái gia đình mà lúc nào cậu cũng bao gồm thân mẫu của cháu và các con bà.
    Nhưng cũng ngẫu nhiên mà cậu không hoàn toàn có đủ lợi thế để tận dụng triệt để cơ hội này như nó đã hứa hẹn chắc chắn, nên thay vì tiến hành độc lập với gia đình, cậu xin rút ở tài khoản của mẹ cháu một số tiền nhỏ vừa đủ để bổ sung vào số đầu tư ban đầu của cậu, và vì thế cậu gửi kèm đây, gọi là đúng luật, chứng từ vay nợ của cậu với lãi suất tám phần trăm mỗi năm. Cũng chẳng cần nói rằng đó chỉ là vấn đề hình thức, để dự phòng an toàn cho mẹ cháu trong trường hợp con người chỉ là món đồ chơi của tạo hoá. Và dĩ nhiên cậu sẽ đầu tư số tiền đó như tiền của cậu và nhờ thế mẹ có thể được hưởng cái cơ hội mà cuộc khảo nghiệm gay go của cậu cho tôi đó là một mỏ vàng – cho phép cậu được nói nôm na – trinh nguyên nhất và tinh ròng nhất.
    Đây là chuyện riêng tư, chắc cháu cũng hiểu, giữa những nhà kinh doanh với nhau, rồi chúng ta sẽ có đất đai trại ấp riêng chứ phải không cháu? Cậu biết sức khoẻ mẹ cháu không được tốt, lại tính nhút nhát của các mệnh phụ miền Nam quen sống trong nhung lụa và cái thiên hướng hay tiết lộ những vấn đề này khi chuyện vãn, nên cậu đề nghị cháu đừng cho bà biết gì. Nghĩ cho kỹ cậu khuyên cháu nên làm vậy. Đơn giản là cứ một ngày nào đó hoàn lại số tiền vào ngân hàng, nghĩa là cả những khoản lặt vặt khác mà cậu còn nợ bà, và không nói gì hết thì tốt hơn. Bổn phận của chúng ta là tránh cho bà khỏi phải dính dấp với thế giới vật chất nhơ bẩn này được chừng nào hay chừng nấy.
    Cậu thân yêu của cháu,
    Maury L. Bascomb"
    "Mẹ nghĩ sao về chuyện này?" tôi nói, quẳng bức thư qua bàn.
    "Mẹ biết con bực mình vì mẹ cho cậu ấy" bà nói.
    "Tiền đó là của mẹ" tôi nói. "Mẹ muốn ném cho chim chóc thì cũng là việc của mẹ".
    "Cậu ấy là em ruột của mẹ" mẹ nói. "Cậu ấy là người cuối cùng của dòng họ Bascomb. Khi nào mẹ và cậu chết đi là không còn ai nữa".
    "Nghe mà nẫu ruột" tôi nói. "Được rồi, được rồi. Tiền của mẹ. Mẹ muốn làm gì thì làm. Mẹ muốn tôi bảo ngân hàng chi ra không?"
    "Mẹ biết con bực cậu ấy lắm" bà nói. Mẹ thấy con nặng gánh gia đình thế nào. Khi mẹ đi rồi con sẽ thoải mái hơn".
    "Ngay bây giờ tôi cũng thoải mái chứ sao" tôi nói. "Thôi được rồi, được rồi, tôi không nhắc lại chuyện đó nữa. Mẹ muốn lập cả cái bệnh viện tâm thần ở đây cũng được".
    "Nó là em ruột con" bà nói "dù nó có bệnh hoạn gì".
    "Tôi lấy sổ tiết kiệm của mẹ" tôi nói. "Hôm nay tôi gửi tiền".
    "Anh ta bắt con đợi những sáu ngày" mẹ nói."Con có chắc là công việc ở đấy sẽ suôn sẻ không ? mẹ thấy la. Một điều là việc làm ăn trôi chảy mà người ta lại không có tiền trả cho nhân viên ngay".
    "hẳn không sao đâu" tôi nói. "An toàn như nhà ngân hàng vậy. Tôi đã bảo hắn khỏi phải lo gì cho tôi đến khi quyết toán cuối tháng xong xuôi. Vì thế mà đôi khi muộn tiền".
    "Mẹ sẽ không chịu đựng nổi nếu con lại mất nốt chút vốn liếng mẹ thu góp được cho con". Bà nói "Mẹ cứ nghĩ Earl chả phải tay làm ăn cừ. Mẹ biết, anh ta chẳng tin cậy con đến mức bảo đảm cho cả những khoản đầu tư của con đâu. Mẹ phải nói chuyện với anh ta mới được".
    "Thôi mẹ cứ mặc hắn" tôi nói. "Đấy là việc của hắn".
    "Con bỏ vào đó những một ngàn đô la kia mà".
    "Mẹ cứ mặc hắn" tôi nói. "Tôi sẽ trông chừng mọi việc. Tôi có giấy uỷ quyền của mẹ rồi. Chẳng sao đâu".
    "Con không biết con là nguồn an ủi thế nào đối với mẹ" bà nói. "Con vẫn là niềm hãnh diện và niềm vui của mẹ nhưng khi tự ý con cứ nhất định gửi lương tháng của con vào tài khoản của mẹ, thì mẹ cảm tạ Chúa đã để con lại cho mẹ khi Chúa gọi đi những người khác".
    "Họ cũng được mà" tôi nói. "Họ đã làm hết sức mình còn gì".
    "Khi con nói thế là mẹ biết con còn oán bố con lắm" bà nói. "mẹ nghĩ con có quyền oán trách. Nhưng nghe con nói mẹ cứ đứt từng khúc ruột".
    Tôi đứng lên. "Nếu mẹ định khóc" tôi nói "thì mẹ sẽ phải khóc một mình đấy, vì tôi phải đi làm. Tôi lấy sổ tiết kiệm".
    "Để mẹ lấy" bà nói.

  5. #24
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Mẹ cứ ngồi" tôi nói "Tôi sẽ lấy". Tôi lên gác lấy cuốn sổ tiết kiệm trong ngăn kéo của bà và ra phố. Tôi đến ngân hàng gửi chỗ tiền trong ngân phiếu và bưu phiếu cộng với mười đô la nữa, và rẽ qua bưu điện. Cao hơn lúc mở cửa một điểm. Tôi đã mất tới mười ba điểm chỉ vì con ranh ấy đến gây chuyện ở đó lúc mười hai giờ, rầy rà tôi về lá thư.
    "Thông báo này đến lúc nào?"
    "Một giờ trước " hắn nói.
    "Một giờ trước?" tôi nói. "Vậy chúng tôi trả tiền cho anh để làm gì?" tôi nói. "Báo cáo hàng tuần chắc? thế này thì anh mong người ta làm ăn kiểu nào đây? Cả lũ mẹ kiếp có sạt nghiệp cũng không biết chứ đừng nói".
    "Tôi chẳng mong các ông làm kiểu nào cả" anh ta nói. "Người ta đổi đạo luật về việc đầu cơ thị trường bông rồi".
    "Đổi rồi à?" tôi nói. "Sao tôi không nghe? Chắc là họ đã gửi thông báo đến Liên hiệp miền Tây?"
    Tôi trở về cửa hàng. Mười ba điểm. Mẹ kiếp, tôi tin chắc chẳng có ma nào biết chuyện này trừ mấy thằng cha ngồi ở văn phòng New York nhìn lũ ngốc tứ phương đến xin dâng tiền cho chúng. Hừm, một tay mơ thì đào đâu ra lòng tin, và như tôi nói đấy nếu không nghe theo lời khuyên của họ thì trả tiền cho họ để làm gì. Hơn nữa, bọn họ ở trong cuộc, họ biết rõ đầu đuôi xuôi ngược. Tôi sờ thấy bức điện trong túi áo. Tôi còn phải chứng minh rằng họ dùng công ty điện tín để lừa gạt thiên hạ. Rồi nó sẽ thành một thứ cửa hàng bán thùng. Và tôi cũng chẳng cần phân vân lâu đến thế đâu. Chỉ có điều một công ty kếch xù như Liên hiệp miền Tây mà không thể có thông báo kịp thời thì quả là lạ. ít ra cũng nhanh bằng phân nửa thời gian họ gửi cho mình bức điện Tài khoản của ông đã có. Nhưng họ cần có gì đến ai. Họ thông đồng với bọn New York. Ai chả thấy.
    Khi tôi bước vào, Earl nhìn đồng hồ. Nhưng hắn không nói gì cả đến khi người khách hàng đã đi khỏi. Rồi hắn nói:
    ""Cậu về nhà ăn trưa hả?"
    "Tôi phải đến nha sĩ" tôi nói bởi vì việc tôi ăn ở đâu nhằm nhò gì đến hắn mà là việc tôi sẽ phải trông cửa hàng với hắn suốt buổi chiều kia. Miệng hắn cứ lèm bèm liên tục mặc dù tôi đã chịu đựng đến thế. Cứ bốn gã chủ hiệu ở cái xó nhà quê này thì phải có hai gã coi năm trăm đô la lớn bằng năm vạn.
    "Sao cậu không bảo tôi trước?" hắn nói "Tôi tưởng cậu đi rồi về ngay".
    "Tôi đổi cho anh cái răng này các thêm mười đô la nữa đấy" tôi nói "nếu anh không thích tôi như thế thì anh làm gì chứ làm".
    "Cũng có lúc tôi đã nghĩ vậy" hắn nói "Nếu không sợ bà cụ cậu thì tôi đã làm từ lâu rồi. Bà cụ là một người đàng hoàng, tôi rất mến, Jason ạ. Có điều là tôi biết nhều người sẽ không để vậy đâu".
    "Thì cứ việc giữ lấy cái cảm tình của anh" tôi nói. "Khi nào cần chúng tôi sẽ báo anh biết trước thật dài ngày".
    "Jason, tôi đã che chắn cho cậu chuyện ấy từ lâu" hắn nói.
    "Thế à?" tôi nói, đợi hắn tiếp tục. Để xem hắn nói gì trước khi tôi khiến hắn câm họng.
    "Tôi dám chắc tôi biết rõ hơn bà cụ là cái xe kia ở đâu ra"
    "Anh nghĩ thế hả?" tôi nói. "Khi nào thì anh sẽ đi rêu rao rằng tôi ăn cắp tiền của mẹ tôi đấy?"
    "Tôi không nói vậy" hắn nói. "Tôi biết cậu có giấy uỷ quyền của bà cụ. Và tôi cũng biết bà cụ vẫn tin rằng một ngàn đô la kia là bỏ vào cửa hiệu này".
    "Được rồi" tôi nói. "Anh đã biết rõ thế thì tôi còn cho anh biết rõ hơn, anh cứ đến ngân hàng hỏi xem mười hai năm nay cứ vào ngày đầu tháng tôi gửi một trăm sáu chục đô la vào tài khoản của ai".
    "Tôi không nói gì hết" hắn nói "Tôi chỉ bảo cậu từ nay trở đi nên cẩn thận hơn".
    Tôi không bao giờ nói hơn điều gì. Vô ich. Tôi hiểu ra rằng một khi người ta đã sa lầy tốt nhất là cứ mặc xác người ta. Và khi người ta đã nhất định rằng người ta nói ra là có lợi cho mình thì thôi, xin chào. Tôi cũng thấy mừng là mình không có cái lương tâm để cứ phải nâng niu ấp ủ suốt ngày như một con chó cưng ốm. Tôi mà lại chi li tính toán như hắn, co bèo gạt tép để ăn tám phân lãi thì thật chán. Tôi nghĩ chắc hắn chẳng dám tính lời quá tám phân vì sợ bị truy tố là cho vay nặng lãi. Chôn chân ở cái xó này với công việc như thế thì đến mãn kiếp chưa ngóc đầu lên được. Cái cửa hiệu của hắn, chỉ một năm nữa tôi sẽ mua lại còn hắn cứ việc ngồi đó mà hưởng, chỉ có điều là trước sau gì hắn cũgn đem cúng cho nhà thờ hoặc đâu đó hết thôi. Cái thứ làm cho tôi sôi máu là quân đạo đức giả khốn kiếp. Kẻ nào nghĩ rằng những chuyện mà hắn không hiểu rõ ất giáp ra sao hẳn phải là những chuyện bịp bợm thì hễ có dịp thế nào hắn cũng ngồi lê đôi mách những chuyện chẳng dính dáng gì đến hắn bằng một giọng đầy đạo đức. Như tôi nói đấy giả sử như có một người nào đó làm điều gì mà ta không hiểu tường tận rằng điều đó có phải là bịp bợm hay không thì đã có sổ sách kia mà tôi thiết tưởng chẳng đến nỗi khó khăn lắm mới rõ chẳng cần phải chạy đi kể lể với ai những chuyện hai năm rõ mười ấy, cứ theo như tôi biết giờ đây thiên hạ còn hiểu rõ chuyện ấy hơn tôi nhiều, mà giả sử như họ không hiểu cũng chẳng việc quái gì đến tôi và hắn nói "Sổ sách của tôi ai xem cũng được. Bất kỳ ai có yêu sách gì hay tưởng rằng có thể yêu sách gì trong chuyện này thì cứ lại mà xem xin mời".
    "Hẳn rồi, anh sẽ không nói" tôi nói. "Anh đâu có hối lộ lương tâm cái kiểu đó được. Anh đưa người ta đến để người ta tự tìm. Chứ như anh thì đời nào anh nói ra"
    "Tôi không cố xen vào việc của cậu đâu" hắn nói. "Tôi biết cô đã cũng mất mát ít nhiều như Quentin trước kia. Nhưng số phận mẹ cậu kể ra cũng không may, và nếu bà cụ có lại đây hỏi tại sao cậu bỏ việc thì tôi cũng đành nói chứ sao. Không phải vì một ngàn đô la. Cậu biết đấy. Mà là vì sổ sách không rõ ràng thì làm ăn sao được. Vả lại tôi sẽ không nói dối ai hết, dù vì mình hay vì người".
    "À ra thế" tôi nói "Tôi nghĩ chắc cái lương tâm ấy của anh là một thằng thư ký mẫn cán hơn tôi, nó không phải về nhà ăn trưa. Có điều đừng để nó làm tôi ăn mất ngon", tôi nói bởi vì tôi làm gì cho ra hồn được, với cái gia đình khốn nạn này và bà cụ không hề cố gắng kiểm soát con bé hay bất cứ ai, giống như có lần bà vô tình thấy một thằng hôn Caddy và suốt ngày hôm sau bà mặc áo đen đeo mạng rồi ngay cả bố cũng không cạy răng bà ra được một lời bà chỉ khóc và nói rằng đứa con gái bé bỏng của bà đã chết và Caddy lúc đó khoảng mười lăm tuổi có điều cứ đà ấy thì chỉ ba năm sau chắc là bà sẽ phải mặc áo vải gai hay áo giấy nhám. Thử nghĩ làm sao tôi chịu nổi khi nó lang thang ngoài đường với bất kỳ thằng đánh trống nào đến thị trấn này, tôi nói, rồi thằng đến trước mách thằng đến sau rằng tới Jefferson muốn có món bở thì tìm ở đâu. Tôi chẳng phải sĩ diện, chuyện đó tôi không kham được, lại còn nuôi một bếp ăn đầy bọn mọi đen và cướp của nhà thương điên tiểu bang một ngôi sao mới mọc nữa. Huyết thống, tôi nói thống đốc với chả đại tướng. Mẹ kiếp, phúc bảy mươi đời là con chưa đẻ ra vua hay tổng thống đấy, không thì cả nhà chắc đã xuống Jackson đuổi bướm. Tôi bảo giá như tôi khùng cứ không phải nó cũng đã đủ mạt rồi, điều ra cũng còn biết chắc khởi đầu là thằng khốn ấy, còn bây giờ thì đến cả Chúa cũng không dám chắc.
    Rồi một lúc sau tôi nghe thấy dàn nhạc bắt đầu chơi, và rồi mọi người biến đâu sạch. Đi xem hát tuốt, không chừa ai. Mặc cả một sợi dây cương hai mươi xu, để rồi có một bọn Yankee nào đến là sẵn sàng ném ra cả mười đô la để được yêu cầu một bản nhạc. Tôi đi ra phía sau.
    "Hừm" tôi nói "nếu lão cứ ngóng cổ ra ngoài, cái bù loong đó sẽ mọc chồi vào tay lão đấy. Rồi tôi sẽ phải lấy rìu mà chặt. Lão không lấy máy xới ra bán cho người ta làm vụ bông tới thì rồi người ta lấy gì mà ăn?" tôi nói. "Nhai ngải cứu chắc?"
    "Bọn gánh hát đang thổi kèn" lão nói. "Có thằng cha chơi nhạc bằng cái cưa như chơi đàn banjo ấy".
    "Nghe này" tôi nói. "Lão biết bọn gánh hát ấy phải trả bao nhiêu cho thị trấn này không? mười đô la" tôi nói. "Mười đô la ấy thằng cha Buck Turpin bây giờ đã đút túi rồi".
    "Họ đưa ông Buck mười đô la để làm gì?" lão nói.
    "Để được diễn ở đây" tôi nói. "Lão thấy là họ chơi những gì chứ?"
    "Ông nói họ phải trả mười đô la để được diễn ở đấy?" lão nói.
    "Đúng thế" tôi nói. "Lão có biết bao nhiêu…"
    "Chà chà" lão nói. "Ông bảo là họ phải trả tiền mới được diễn? Tôi mà có tiền, tôi chi ngay mười đô la để gã kia chơi nhạc bằng cái cưa cho tôi nghe. Cứ thế th` đến sớm mai tôi vẫn còn nợ họ chín đô la sáu xu ấy chứ".
    Và rồi một tay Yankee lên nói nghe nhức cả đầu rằng phải giúp dân đen tiến bộ. Giúp chúng tiến bộ, chuyện gì thế nhỉ. Giúp chúng tiến bộ để rồi cho chó săn lùngkp miền nam Louisville này cũng không ra một thằng. Bởi vì khi tôi bảo lão chỉ một đêm thứ Bảy họ đã vơ vét được của thị trấn này một ngàn đô la, lão nói:
    "Tôi thấy chả làm sao. Tôi cũng có được hai đồng".
    "Hai đồng quỷ nào" tôi nói. "Ăn nhằm gì. Hai đồng ấy hay với mười lăm xu lão sẽ mua một hộp kẹo hay thứ gì đó chỉ đáng hai xu. Còn thời gian mà lão đang phí phạm để dài cổ lên nghe cái ban nhạc ấy nữa chứ".
    "Đúng thế" lão nói. "Ờ, nếu mười hai giờ tôi về thì họ còn được thêm hai đồng nữa ở cái tỉnh này".
    "Thế thì lão là đồ ngốc" tôi nói.
    "Hừm" old nói "Tôi thấy chẳng làm sao. Nếu đấy là một tội thì bọn đeo xiềng đã chẳng phải toàn dân đen".
    Thì đúng lúc đó tôi vô tình nhìn ra đường và thấy con bé. Tôi bước lùi lại và xem đồng hồ nên lúc đó tôi không nhìn rõ thằng kia là ai bởi vì tôi mải xem đồng hồ. Hai giờ rưỡi, không ai trừ tôi mong thấy nó ngoài đường sớm những bốn mươi lăm phút như thế này. Vì thế khi tôi nhìn qua có lẽ cái đầu tiên đập vào mắt tôi là chiếc cà vạt đỏ trên cổ thằng kia và tôi nghĩ một thằng thắt cà vạt đỏ là loại người gì. Nhưng nó đang len lén đi ngoài phố, mắt canh chừng cửa, nên tôi không để ý đến thằng kia đến khi chúng đi khuất. Tôi tự hỏi liệu nó còn coi trọng tôi chút nào không khi mà nó không những bỏ học đi chơi mà còn dám ngang nhiên đi qua trước cửa hiệu để thách tôi thấy nó. Có điều nó không thể nhìn thấy gì trong cửa hiệu vì ánh nắng soi thẳng vào, chẳng khác nào nhìn qua đèn pha xe hơi, vì thế tôi đứng đó thấy nó đi ngang qua, mặt mũi bôi xanh bôi đỏ như mặt hề và tóc chải keo xoắn tít và cái áo thì quả thực hồi tôi còn nhỏ mấy mụ ở đường Gayoso hay Beale mặc ra đường mà không có cái gì che đậy chân cẳng thì co mà đi bộ. Mẹ kiếp chúng nó ăn mặc như thể mời mọc tất cả đàn ông trên nẻo phố chúng đi qua đưa tay ra vỗ lên đó. Và lúc tôi đang nghĩ một thằng đeo cà vạt đỏ là loại người chó chết nào thì đột nhiên tôi hiểu rằng nó là một thằng trong gánh hát chắc như chính nó bảo tôi vậy. Hừm, tôi tài chịu đựng lắm, chứ không thì mẹ kiếp tôi đâu thoát khỏi một mớ bòng bong, thế nên chúng vừa rẽ góc phố là tôi nhảy ra đi theo. Tôi, đầu không mũ, ngay giữa trưa, đi rình hết ngõ này đến hẻm kia cũng chỉ vì cái danh thơm của bà mẹ tôi. Như tôi nói nó nta làm gì được với một đứa con gái như thế. Nó đã có cái máu ấy trong người thì quả thật vô phương cứu chữa. Chỉ có cách là tống cổ nó đi, mặc xác nó sống với cái loại như nó.
    Tôi đi ra đường cái, nhưng chúng đã biến mất. Còn tôi thì đứng đó, đầu không mũ, trông chẳng khác gì thằng điên. Người ta hẳn phải nghĩ thế, chứ một thằng khùng một thằng nhảy sông tự tử còn một con bị chồng đá ra đường, những kẻ còn lại không điên sao được. Lúc nào tôi cũng thấy có đứa hau háu rình tôi như diều hâu, chờ dịp là phán. Đấy, biết ngay mà, thì tôi vẫn nghĩ nhà ấy toàn những đồ điên. Bán đất để gửi anh ta đi Harvard và nai lưng ra đóng thuế cho đại học tiểu bang mà tôi chẳng hề thấy gì ngoài hai trận bóng chày và không cho ai nhắc đến tên cô con gái ở đây đến khi ít lâu sau bố cũng không ra phố nữa chỉ ngồi ở nhà suốt ngày với cái bình rượu tôi thấy vạt áo ngủ với hai chân trần của ông và nghe thấy cái bình rượu lanh canh cuối cùng T.P. Phải rót cho ông và bà nói con không kính trọng vong linh bố con và tôi nói tôi không biết sao lại không chắc chắn là điều đó được bảo tồn đến cùng chỉ có điều nếu tôi cũng điên nốt thì có Chúa biết sẽ làm gì chỉ có nhìn nước thôi tôi cũng xây xẩm mặt mày rồi tôi cũng uống xăng như uống whisky và Lorraine bảo bạn bè rằng anh ấy không rượu chè nhưng mày bảo anh ấy không phải đàn ông thì để tao chỉ cho mày biết cách biết nàng bảo nếu em mà bắt được anh đi với một đứa nào thì anh biết em sẽ làm gì không em sẽ xé xác nó túm lấy nó mà xé chừng nào em còn thấy nó nàng nói và tôi nói anh uống hay không là chuyện riêng của anh nhưng em đã thấy bao giờ anh không biết điều chưa tôi nói nếu em muốn anh sẽ mua bia về cho em tắm bởi vì tôi biết tôn trọng một con điếm lương thiện bởi vì sức khoẻ của mẹ và cái địa vị mà tôi đang bám giữ qcó được nàng với những gì tôi cố làm cho nàng chẳng thể tỏ ra tôn trọng nàng hơn là giữ sao cho tên nàng và tên tôi và tên mẹ tôi đừng thành chuyện đàm tiếu trong tỉnh.
    Nó đã biến đâu mất. Chắc nó thấy tôi đi ra và lẩn vào một con hẻm khác, lượn lờ khắp đường ngang ngõ tắt với một thằng kép hát đeo cà vạt đỏ để bàn dân thiên hạ dòm ngó xì sầm cái thứ người thắt cà vạt là thứ người gì. Thằng bé vẫn nói với tôi và tôi cầm bức điện tín mà không biết là mình đã cầm. Tôi không hiểu chuyện gì đến khi tôi ký nhận xong. Tôi bóc ra mà cũng chẳng buồn đọc. Tôi biết thừa nó nói gì rồi. Thì chỉ có chuyện ấy chứ còn chuyện gì nữa, nấn ná đợi khi ngân phiếu được vào sổ.
    Tôi không hiểu sao một thành phố chỉ lớn bằng New York mà lại chứa đủ những tên bòn rút tiền bạc của bọn tay mơ thập phương chúng tôi. Làm như trâu như ngựa suốt ngày, gửi tiền cho chúng để rồi nhận lại một mảnh giấy báo. Kết toán tài khoản của ông là 20.62. Ve vãn mình chán rồi nhử mình chút lời lãi trên giấy, rồi đùng một cái! Kết toán tài khoản của ông là 20.62. Thế đã đủ đâu, còn phải trả mười đô la mỗi tháng cho một thằng khốn cho nó chỉ dẫn mình cách trắng tay sao cho nhanh, hoặc nó chẳng biết cái cóc khô gì hoặc nó đã móc ngoặc với công ty điện tín cũng nên. Thôi, tôi cũng xin chào thua chúng. Chúng rút ruột tôi lần này lần chót. Trừ những đứa khùng đi tin lời bọn Do Thái cứ ngu mấy cũng thấy ngay rằng thi trường vẫn đang khởi sắc, khi cả vùng hạ du sắp bị lụt và bông lại bật gốc trôi sạch như năm ngoái. Mùa màng của người ta thì cứ mặc cho mất trắng trong khi đó ở Washington họ vẫn chi mỗi ngày năm vạn đô laq duy trì đạo quân ở Nicaragua hay đâu đó. Hẳn nhiên là vụ này mất sạch rồi, và giá bông sẽ khoảng ba mươi xu một cân. Hừm, tôi chỉ muốn giã cho chúng một trận và đòi lại tiền. Tôi không muốn giết chóc, chỉ có dân cờ bạc tỉnh lẻ mới ưa sự giết chóc, tôi chỉ muốn lấy lại tiền mà bọn Do Thai khốn nạn đã gạt tôi bằng những tin mách nước bảo đảm. Xong là thôi chúng cứ việc liếm gót giày tôi may ra thì được một xu.
    Tôi trở lại cửa hàng. Đã gần ba giờ rưỡi. Không còn thời gian để làm một việc gì, nhưng tôi cũng quen rồi. Chẳng cần phải tới Harvard mới học được điều đó. Ban nhạc đã ngừng chơi. Người ta đã vào chật rạp, họ hơi đâu mà thổi mãi. Earl nói:
    "Nó tìm thấy cậu không? nó vừa dem tới đây lúc nãy. Tôi nghĩ cậu đứng đâu đó phía sau".
    "Phải" tôi nói "Tôi cầm rồi. Làm sao họ giữ được tôi cả buổi chiều? Thị trấn bé xíu ấy mà. Tôi phải về nhà một lát" tôi nói. "Anh cứ trừ lương tôi nếu muốn".
    "Cứ đi đi" hắn nói "Tôi xoay xở một mình cũng xong. Không có chuyện gì bực mình chứ?"
    "Anh đến bưu điện mà hỏi" tôi nói. "Họ sẽ nói anh biết. Tôi không có thời gian".
    "Tôi chỉ hỏi vậy thôi" hắn nói. "Bà cụ cậu biết là có thể tin ở tôi".
    "Bà cụ cảm ơn anh" tôi nói. "Xong việc là tôi về ngay".
    "Cứ thoải mái" hắn nói. "Bây giờ một mình tôi cũng đủ. Cậu cứ đi đi".
    Tôi lấy xe về nhà. Một lần buổi sáng, hai lần buổi trưa, lại bây giờ nữa, với bà già thì như thế, phải chạy theo rình mò nó khắp tỉnh để rồi về xin họ cho mình ăn chút gì trong khi mình còng lưng ra nuôi họ. Đôi khi tôi nghĩ những cái đó để làm gì. Gặp toàn những chuyện như thế mà vẫn tiếp tục sống thì tôi quả là điên. Và bây giờ tôi nghĩ mình về nhà thật đúng lúc qchạy như bòra sau một thúng cà chua hay gì đó suốt chặng đường dài rồi phải lộn về thị trấn sặc sụa mùi xí nghiệp long não khiến đầu tôi như sắp nổ tung trên vai. Tôi vẫn bảo bà cụ rằng aspirin chẳng có cái quái gì, ngoài bột hoà với nước cho những con bệnh tưởng. Tôi nói mẹ không biết nhức đầu là như thế nào đâu. Tôi nói mẹ tưởng tôi cứ ngồi trên cái xe quỷ ấy suốt ngày là vì tôi thích thế chắc. Tôi nói tôi không có xe cũng chẳng sao tôi quen không có nhiều thứ rồi nhưng nếu mẹ muốn phó thác cái mạng mình cho chiếc xe ngựa cà tàng kia với một thằng nhãi đen thì cũng được thôi bởi vì tôi nói Chúa phù hộ Ben, Chúa phải biết làm gì cho nó nhưng nếu mẹ tưởng tôi sẽ giao một cỗ máy tinh vi hàng ngàn đô la cho một thằng nhãi đen hoặc ngay cả một thằng đen lớn xác thì tốt nhất mẹ nên tự mua lấy một chiếc bởi vì tôi nói mẹ thích đi xe mẹ biết mẹ thích mà.
    Dilsey nói mẹ ở trong phòng. Tôi đi vào hành lang và lắng nghe, nhưng chẳng thấy gì cả. Tôi lên gác nhưng ngay khi tôi đi qua cửa phòng thì bà gọi.
    "Mẹ chỉ muốn biết ai đó thôi" bà nói. "Mẹ ở đây một mình lâu quá nên mẹ cứ lắng nghe mọi tiếng động".
    "Ai bắt mẹ ở đây đâu" tôi nói. "Sao mẹ không đi đây đó thăm hỏi mọi người như các bà ấy, nếu mẹ muốn". Bà đi ra cửa.
    "Mẹ nghĩ có lẽ con ốm" bà nói. "Ăn uống tất tưởi như thế".
    "Lần sau chắc may mắn hơn" tôi nói. "Mẹ cần gì không?"
    "Có chuyện gì vậy?" bà nói.
    "Chuyện gì được?" tôi nói. "Sao cứ hễ tôi về nhà buổi chiều là thấy nhà cửa loạn cả lên?"
    "Con có thấy Quentin không?"
    "Nó ở trường" tôi nói.
    "Hơn ba giờ rồi" bà nói. "Mẹ nghĩ chuông đánh cũng phải nửa tiếng trước. Giờ này lẽ ra nó phải có mặt ở nhà".
    "Lẽ ra?" tôi nói. "Có khi nào mẹ thấy nó về trước khi trời tối không?"
    "Lẽ ra nó phải về rồi" bà nói. "Hồi mẹ còn bé…"
    "Thì mẹ có người dạy bảo mẹ" tôi nói. "Nó thì không".
    "Mẹ làm gì được với nó?" bà nói. "Mẹ đã cố mãi rồi".
    "Chẳng hiểu tại sao mẹ không để tôi thử" tôi nói. "Lẽ ra mẹ phải hài lòng chứ?" tôi đi tiếp về phòng mình. Tôi vặn nhẹ chìa khoá và đợi đến khi tay nắm cửa xoay. Rồi bà nói:
    "Jason!"
    "Gì ạ?" tôi nói.
    "Mẹ nghĩ chắc có chuyện không hay".
    "Không phải ở đây" tôi nói. "Mẹ lầm chỗ rồi".
    "Mẹ không định làm phiền con" bà nói.
    "Nghe vậy mà tôi mừng" tôi nói. "Tôi không dám chắc. Tôi cứ tưởng tôi lầm. Mẹ có cần gì không?"
    Một lát sau bà mới nói "Thôi. Không có gì cả". Rồi bà bỏ đi. Tôi lấy cái hộp xuống, lấy tiền ra đếm rồi giấu cái hộp vào chỗ cũ và mở khoá cửa đi ra. Tôi nghĩ đến mùi long não, nhưng dù sao cũng quá muộn rồi .và tôi đã phải chạy xem một vòng. Bà đứng đợi ở cửa.
    "Mẹ có cần mua gì dưới phố không?" tôi nói.
    "Không" bà nói. "mẹ không muốn xen vào công việc của con. Jason, nhưng chẳng may mà con gặp chuyện gì không biết mẹ sẽ ra sao".
    "Tôi không sao" tôi nói. "Chỉ hơi nhức đầu".
    "Mẹ muốn con uống vài viên aspirin" bà nói. "Mẹ biết co ndw có chịu rời chiếc xe".
    "Xe thì dính dáng gì?" tôi nói. "Xe khiến người ta đau đầu làm sao được?"
    "Con biết đấy, con đâu có chịu được mùi xăng" bà nói. "Từ hồi bé con đã thế. Mẹ muốn con uống vài viên aspirin".
    "mẹ cứ việc muốn" tôi nói. "Chuyện ấy chả hại gì".

  6. #25
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tôi chui vào xe và trở lại thị trấn. Tôi vừa rẽ vào phố chính thì thấy một chiếc xe Ford phóng như bị ma đuổi về phía tôi. Đột ngột nó dừng lại. Tôi nghe cả tiếng bánh xe trượt nghiến rồi chiếc xe lộn lại phóng đi và đúng lúc tôi đang nghĩ không hiểu người ta định giở trò gì thì tôi thấy chiếc cà vạt đỏ. Rồi tôi nhận ra khuôn mặt nó ngoái lại qua cửa sổ xe. Nó ngoặt vào một con hẻm nhưng khi tôi tới đó thì nó đã biến mất hút, chạy như bị ma đuổi vậy. Tôi giận ứ máu. Lại thấy chiếc cà vạt đỏ sau khi tôi đã cạn lời với nó, tôi không còn nhớ gì nữa. Tôi quên cả nhức đầu tới lúc đến ngã ba đầu tiên và phải dừng xe lại. Mình đã đóng góp không biết bao nhiêu tiền để sửa đường sửa xá vậy mà mẹ kiê"p chẳng khác gì đi xe trên mái tôn lượn sóng. Ngay cả xe cút kít cũng chưa chắc đã giữ được thăng bằng. Tôi giữ gìn xe tôi lắm, tôi đâu có vừa đi vừa phá đến khi nó tan từng mảnh như chiếc xe Ford kia. Có khi đấy là xe chúng lấy cắp được, thế thì chúng cần quái gì. Tôi đã nói mà, huyết thống là thế đấy . Một khi người ta đã mang cái dòng máu như vậy thì cái gì mà người ta chẳng dám làm. Tôi bảo dù mẹ có bổn phận gì với nó thì mẹ cũng đã làm trọn, tôi bảo từ nay mẹ chỉ có thể tự trách mình thôi vì mẹ thừa biết nếu mẹ khôn ngoan thì phải làm thế nào. Tôi nói nếu tôi phải bỏ một nửa thời gian đi làm cái trò thám tử chết tiệt ấy thì thà tôi tìm chỗ nào họ trả lương cho tôi làm việc đó.
    Tôi phải dừng ở ngã ba ấy. Rồi tôi chợt nhớ đến chuyện nhức đầu. Tôi cảm thấy như có ai đang nện búa trong đầu tôi .tôi bảo tôi cố giữ cho mẹ khỏi buồn vì nó, tôi bảo nếu phải tay tôi thì nó có muốn xuống địa ngục cũng mặc, càng sớm lại càng hay. Tôi bảo mẹ mong gì nữa ngoài mấy thằng đánh trống với kép hát rẻ tiền mò đến đây còn ngay cả mấy thằng đĩ đực dưới thị trấn cũng chán nó rồi mẹ không biết chuyện gì đang xảy ra tôi nói mẹ không nghe người ta dè bỉu mẹ chỉ biết bắt tôi làm họ câm mồm. Tôi bảo ở đấy ai cũng có nô lệ vậy mà cửa hiệu chỉ bằng cái lỗ mũi còn đất đai chẳng thằng mọi đen nào thèm ngó ngàng.
    Giá mà chúng chịu cày cấy. May là Chúa còn dồi dào ơn phúc cho cái xứ này, cứ mấy thằng dân ở đây nào có làm gì cho nó. Chiều thứ Sáu đứng đây nhìn ra tôi thấy hàng dặm đất chưa hề được vỡ. Và bao nhiêu gã đàn ông sức dài vai rộng trong tỉnh đều kéo nhau ra phố xem hát. Giả sử tôi là kẻ từ xa tới sắp chết đói muốn hỏi thăm đường đến thị trấn cũng chẳng có ma nào mà hỏi. Còn bà cụ thì bắt mình uống aspirine. Tôi bảo khi nào đến bữa thì tôi vào bàn. Tôi bảo mẹ cứ kể lể rằng mẹ phải ăn nhịn để dành cho con cái ra sao trong khi tiền mua hàng đống thuốc chết tiệt kia đủ sắm mỗi năm mười bộ đồ. Thuốc với men mà làm gì tôi chỉ cần được nghỉ ngơi yên tĩnh không phải khổ sở chịu đựng họ nhưng chừng nào tôi còn phải làm mười tiếng một ngày để một ổ mọi đen dưới nếp sống theo cái lề thói của chúng xưa nay đã vậy còn phải cho chúng tiền đi xem hát như cả lũ đen trong tỉnh, chỉ có điều thằng đen kia đến muộn mất rồi. Lúc hắn đến thì người ta đã diễn xong.
    Một lát sau hắn đến cạnh xe và cuối cùng khi tôi nhồi được vào cái đầu hắn câu hỏi có thấy hai người trên chiếc Ford đi qua đây không thì hắn bảo có. Nên tôi đi tiếp và khi tới chỗ đường tàu rẽ thì tôi thấy vết bánh xe. Ab Russell đang đứng trên khu đất nhà hắn nhưng tôi không buồn hỏi và khi chuồng bò của hắn chưa khuất tôi đã thấy chiếc Ford. Chúng đã cố giấu chiếc xe. Nó giấu cũng giỏi như nó làm những việc khác.
    Như tôi nói chẳng phải tôi khó dễ gì, có lẽ nó không thể hơn khác, chẳng qua là vì nó đâu có thèm quan tâm gì đến gia đình để mà phải thận trọng giữ gìn. Chỉ sợ rồi có lúc tôi tóm được chúng nó ngay giữa phố hay dưới gầm xe trên quảng trường như hai con chó thôi.
    Tôi dừng xe và bước ra. Giờ thì tôi phải đi quanh và băng qua một thửa ruộng đã cày, thửa ruộng cày duy nhất mà tôi gặp từ lúc rời thị trấn, mỗi bước đi như có ai ở đàng sau đập chày vào đầu. Tôi cứ nghĩ rằng qua khỏi thửa ruộng ít ra đất cũng bằng phẳng, không đến nỗi mỗi bước lại như chui tụt xuống địa ngục thế này, nhưng khi tôi đến bìa rừng thì cây cối rậm rạp khiến tôi phải đi vòng vèo và tới một cái hào đầy những bụi gai. Tôi đi dọc hào một lúc, nhưng cây càng ngày càng rậm và bất cứ lúc nào Earl cũng có thể phôn về nhà hỏi tôi đâu và mẹ lại sắp lo cuống lên.
    Cuối cùng khi tôi thoát được đám cây đó tôi đã lạc hướng đến mức phải dừng lại và đoán xem chiếc xe ở phía nào. Tôi biết chúng không đi đâu xa, chỉ ở bụi cây nào đó quanh đây thôi vì vậy tôi quay lại và lần mò trở ra đường cái. Rồi không biết mình đã đi bao xa, tôi phải dừng lại lắng nghe, và như thế chân tôi không còn cần đến máu nữa nên máu dồn lên đầu khiến đầu tôi muốn nổ tung lập tức, và mặt trời lặn vừa đúng tầm để xói thẳng vào mắt tôi và tai tôi ù lên khiến tôi không nghe thấy gì cả. Tôi đi tiếp, cố bước thật êm, rồi tôi nghe tiếng một con chó hay cái gì đó và tôi biết rằng nếu nó đánh hơi thấy tôi nó sẽ bổ nhào tới như quỷ sứ và thế là hỏng bét.
    Bọ xít, cành khô và rác rưởi rơi đầy trên người tôi, vào cả quần áo và giày và khắp nơi, và rồi khi nhìn quanh tôi vô tình quờ tay phải bụi gai độc. Có điều tôi không hiểu tại sao lại chỉ là cành gai độc mà không phải là con rắn hay cái gì khác. Nên tôi cũng không buồn nhấc tay ra. Tôi chỉ đứng đó tới khi con chó bỏ đi. Rồi tôi lại đi tiếp.
    Giờ thì không còn biết cái xe nằm ở đâu nữa. Tôi cũng không nghĩ được gì ngoài cơn đau đầu, và tôi cứ đứng chôn chân ở đó băn khoăn không biết tôi có thấy chiếc Ford thực hay không, và tôi cũng chẳng cần biết mình có thấy hay không nữa. Như tôi đã bảo, cứ mặc xác nó lang chạ với bất cứ cái thứ gì mặc quần trong thị trấn này chẳng việc quái gì đến tôi. Tôi chẳng nợ nần gì cái đứa không coi tôi ra gì, khốn nạn là nó lại để chiếc Ford ở đó và làm tôi mất toi một buổi chiều và Earl không chừng lại đưa bà cụ tới cửa hiệu và cho bà xem sổ sách chỉ vì hắn quá đạo đức so với cái thế giới này. Tôi bảo anh có lên thiên đàng cũng sẽ thấy chán phè vì chẳng có công việc của ai để anh chõ mũi vào có điều đừng để tao bắt quả tang , tôi nói, tao nhắm mắt làm ngơ cũng vì bà ngoại mày, nhưng mày mà để tao tóm được mày làm bậy một lần thôi ở đây ở cái nơi mẹ tao đang sống. Bọn nhãi ranh đầu láng ấy cứ mong muốn làm ma làm quỷ gì cũng được chắc, thì để tao cho chúng biết ma quỷ nó thế nào tôi nói cả mày nữa. Tao sẽ cho thằng ấy thấy rằng cái cà vạt đỏ của nó sẽ là sợi dây lôi cổ nó xuống địa ngục, nó tưởng rằng nó có thể dắt cháu gái tao vào rừng làm trò khốn nạn được à?
    Nắng chói làm tôi hoa cả mắt và bốc máu lên đầu tôi cứ nghĩ đầu tôi sẽ vỡ tung lúc nào không biết và thế là xong, với gai góc và đủ mọi thứ móc vào người, rồi tôi cũng đến được rãnh cát chỗ chúng ẩn trước đó và tôi nhận ra cái cây nơi xe đậu, và tôi vừa bước ra khỏi rãnh cát và chạy đến thì tôi nghe tiếng xe rồ máy. Nó phóng vụt đi, bóp còi ầm ĩ. Chúng vẫn bóp còi như thể chiếc xe đang reo hò. Yah. Yah. Yaaaahhhhh. Rồi biến. Tôi ra đến đường cái chỉ kịp thấy chúng mất hút.
    Lúc tôi đến được chỗ xe tôi đậu thì vệt bụi của chúng cũng không còn, chỉ văng vẳng tiếng còi. Tôi cũng chẳng nghĩ đến điều đó ngoài việc nhủ thầm Chạy. Chạy về thị trấn. Chạy về thị trấn và trấn an bà rằng tao không hề thấy mày trên chiếc xe ấy. Cố làm cho bà tin rằng tao không biết thằng ấy là thằng nào. Cố làm cho bà tin rằng không phải tao chỉ chậm mười bước nên tóm hụt mày ở cái rãnh đó. Cố làm cho bà tin rằng mày cũng đang đứng.
    Tiếng còi vẫn kêu Yahhhh, Yahhhh, Yaaaahhhhh nhỏ dần. Rồi hết hẳn và tôi nghe tiếng bò rống ở chuồng gia súc nhà Russell. Và tôi vẫn chẳng nghi ngờ gì. Tôi đến bên xe mở cửa và đặt chân lên. Tôi thoáng nghĩ rằng chiếc xe nghiêng hơn độ dốc của đường, nhưng không nhận ra mãi đến khi tôi lên xe nổ máy.
    Thế là tôi ngồi đấy. Trời đã sâm sẩm và thị trấn cách chừng năm dặm. Chúng không đủ can đảm để chọc thủng hay cắt bánh xe. Chúng chỉ xì hơi. Tôi đứng sững một lúc nghĩ đến cả một nhà bếp đầy bọn đen mà không một đứa nào thèm nhấc một cái bánh xe lên giá hay siết vài con ốc cho mình. Kể cũng khôi hài vì ngay cả con ranh con chắc cũng không tính xa đến mức lấy cái bơm đi trừ khi nó chợt nghĩ đến điều đó lúc thằng kia đang xì hơi bánh xe. Có lẽ đứa nào đó lấy cho thằng Ben làm súng xịt nước thì chắc hơn, bởi vì nó mà đã đòi thì chúng dám tháo cái xe ra từng mảnh lắm và Dilsey nói, Ai đụng vào xe của cậu? ai ngu mà muốn đụng vào nó? và tôi bảo mammy là dân đen mammy có phước lắm mammy biết không? Tôi nói tôi sẵn sàng đổi chỗ với bà bất cứ lúc nào vì làm một người da trắng có được gì ngoài chuyện điên đầu vì hành động của một con đĩ ranh.
    Tôi đi bộ đến chỗ Russell. Hắn có bơm. Chắc hẳn chúng không nghĩ ra điều này. Có điều tôi vẫn không tin rằng nó táo gan đến thế. Tôi cứ nghĩ ngợi linh tinh. Tôi không hiểu tại sao hình như tôi không học được một điều là không có gì đàn bà lại không dám làm. Tôi vẫn nghĩ, mình hãy quên đi trong chốc lát cả những gì tao nghĩ về mày và mày nghĩ về tao: tao sẽ không chơi mày như thế. Tao sẽ không chơi lại mày dù mày đã chơi tao những vố như thế nào. Vì như tôi nói huyết thống là huyết thống làm sao tránh khỏi. Đây đâu phải trò đùa của một đứa bé lên tám, mà là việc để chính cậu của mày thành một trò cười cho một thằng thắt cà vạt đỏ. Chúng đến tỉnh này và gọi chúng ta là một lũ nhà quê và cho rằng cái tỉnh này quá nhỏ để dung nạp chúng. Hừm, hắn đâu ngờ rằng hắn nói quá đúng. Và cả con ranh kia nữa. Nếu nó cũng cảm thấy thế thì nên xéo ngay đi và thế là rảnh nợ.
    Tôi dừng lại trả bơm cho Russelll và lái xe về thị trấn. Tôi đến hiệu thuốc làm một ly Coca Cola rồi tạt qua bưu điện. Nó đứng ở 12.21, xuống bốn mươi điểm. Bốn mươi lần năm đô la, như thế thì còn mua cái gì nữa và nó sẽ nói, tôi phải có tiền tôi cần phải có và tôi sẽ nói cái đó thì quá tệ chắc mày phải hỏi ai khác thôi, tao làm gì có tiền, tao còn lúc nào rảnh để mà kiếm tiền.
    Tôi chỉ nhìn hắn.
    "Tôi sẽ nói cho anh một vài tin tức" tôi nói "Anh sẽ lấy làm lạ là tôi quan tâm đến thị trường bông" tôi nói. "Anh có bao giờ nghĩ thế chưa?"
    "Tôi đã cố hết sức giao nó cho ông" hắn nói. "Tôi đã thử đến cửa hàng hai lần và gọi điện về nhà ông, nhưng không ai biết ông ở đâu" hắn nói, lục lọi trong ngăn kéo.
    "Giao cái gì?" tôi nói. Hắn đưa tôi một bức điện . "Cái này đến lúc nào?" tôi nói.
    "Khoảng ba giờ rưỡi" hắn nói.
    "Và bây giờ là năm giờ năm phút" tôi nói.
    "Tôi đã cố giao nó cho ông" hắn nói. "Tôi không tìm được ông".
    "Nghĩa là đâu phải lỗi tại tôi, đúng không?" tôi nói. Tôi mở ra chỉ cốt để xem lần này họ bịp mình thế nào. Có hoạ là bọn vét đĩa mới phải đến tận Mississippi này để ăn cắp mỗi tháng mười đô la. Bán đi, bức điện viết. Thị trường sẽ hỗn loạn có xu hướng hạ. Đừng hoảng hốt làm theo thông báo của chính phủ.
    "Bức điện này hết bao nhiêu?" tôi nói. Hắn bảo tôi.
    "Họ trả rồi" hắn nói.
    ]"Vậy thì tôi nợ họ chừng đó" tôi nói. "Tôi biết tin ấy rồi. Gửi cho tôi bức điện này". Tôi nói và lấy một tờ mẫu. Mua, tôi viết, thị trường sắp đến điểm bùng nổ. Thỉnh thoảng lại nhốn nháo để câu thêm vài thằng nhà quê ngu dốt chưa kịp đến bưu điện. Đừng hoảng hốt. "Ghi người nhận trả" tôi nói.
    Hắn nhìn bức điện rồi nhìn đồng hồ. "Thị trường đóng cửa một giờ trước" hắn nói.
    "Hừm" tôi nói. "Cái đó cũng đâu phải lỗi tại tôi. Tôi đâu có bày ra cái trò này, tôi chỉ mua một ít và có cảm tưởng rằng công ty điện tín sẵn sàng báo cho tôi biết mọi chuyện đang xảy ra".
    "Lúc nào có thông báo là bọn tôi dán lên ngay" hắn nói.
    "Tôi đã đổi ý từ lâu" tôi nói. Tôi viết thêm một bức nữa và đếm tiền. "Cả bức này nữa, nếu anh biết đánh vần chữ m-u-a".
    Tôi trở lại cửa hàng. Tôi nghe thấy ban nhạc đang chơi ở cuối phố. Cấm rượu là một cái hay. Trước kia họ thường đến vào thứ Bảy cả nhà có dộc một đôi giày ông bố đi và họ kéo nhau đến bưu cục tốc hành lấy hàng, bây giờ tất cả bọn họ chân đất đi xem hát, đám nhà buôn đứng trong cửa như một lũ hổ trong chuồng nhìn họ đi qua. Earl nói:
    "Tôi hy vọng không có gì nghiêm trọng".
    "Cái gì?" tôi nói. Hắn nhìn đồng hồ. Rồi hắn đi ra cửa nhìn đồng hồ toà án. "Anh nên sắm lấy cái đồng hồ một đô la" tôi nói "Chẳng đến nỗi đắt để anh tin nó mỗi lầ nó nói dối anh".
    "Cái gì?" hắn nói.
    "Chẳng có gì" tôi nói. "Hy vọng là tôi không làm phiền anh".
    "Cũng không bận lắm" hắn nói. "Họ đi xem hát cả. Không sao".
    "Nếu có sao" tôi nói "anh định làm gì cứ làm".
    "Tôi bảo không sao mà" hắn nói.
    "Tôi nghe rồi" tôi nói. "Nếu có sao, anh định làm gì cứ làm".
    "Cậu muốn bỏ việc à?" hắn nói.
    "Đấy không phải chuyện của tôi" tôi nói. "Ý muốn của tôi đâu có quan trọng. Nhưng anh đừng nghĩ rằng anh giữ tôi lại là che chở tôi".
    "Này Jason, nếu cậu muốn cậu có thể trở thành nhà kinh doanh tài ba đấy".
    "Ít ra tôi cũng biết lo việc tôi và để mặc việc người" tôi nói.
    "Tôi không hiểu sao cậu cứ muốn làm tôi phải đuổi cậu" hắn nói. "Cậu biết là cậu có thể nghỉ việc lúc nào cũng được và giữa chúng ta vẫn chẳng có sứt mẻ gì".
    "Có lẽ vì thế mà tôi không nghĩ" tôi nói. "Chừng nào tôi còn làm tròn bổn phận, anh còn trả lương tôi mà". Tôi đi ra đàng sau uống nước và xuống luôn cửa hậu. Cuối cùng thì già Job cũng lắp xong mấy cái máy xới. Ở đây yên tĩnh nên chỉ một lát sau đầu tôi đỡ nhức. Tôi nghe tiếng họ hát, rồi ban nhạc lại chơi. Hừm, thì cứ để bọn họ vét sạch những đồng kền đồng xu ở cái xứ này, chả can gì đến tôi. Tôi đã làm hết sức mình rồi, đã sống đến tuổi này mà còn không biết lúc nào cần nghỉ việc hoạ có là thằng ngốc. Nhất là khi chẳng phải việc của tôi. Nếu nó là con giá tôi thì chuyện đã khác, bởi vì nó sẽ không có thì giờ, nó sẽ phải làm quần quật để nuôi mấy đứa điên khùng quặt quẹo với một lũ mọi đen nhưng tôi còn mặt mũi nào đưa ai về nhà nữa. Tôi phục sát đất ai làm được điều đó. Tôi là một thằng đàn ông, tôi chịu đựng được, đó là máu mủ của tôi, và tôi muốn nhìn tận mặt kẻ nào dám coi thường một người đàn bà là bạn tôi chính những người đàn bà tử tế đáng thương ấy mới làm được thế thử xem có người đàn bà ngoan đạo nay lễ mai bái nào bằng nửa Lorraine chưa, điếm với chả điếm. Như tôi nói nếu tôi lấy vợ thì mẹ sẽ sướng lên mây và mẹ biết thế mà và bà nói mẹ muốn con hạnh phúc có gia đình riêng chứ đâu muốn con suốt đời phải cực nhọc vì cái nhà này. Nhưng chẳng lâu nữa đâu mẹ sẽ chết rồi con có thể cưới vợ nhưng con sẽ chẳng bao giờ tìm thấy một người đàn bà nào xứng đáng với con và tôi nói có chứ. Mẹ sẽ dậy từ dưới mồ nếu mẹ biết. Tôi nói thôi cảm ơn mẹ giờ thì tôi chẳng thiếu đàn bà để chăm sóc nếu tôi mà lấy vợ nữa thì e vợ tôi cũng thành một đứa xì giữ hay gì đó mất thôi. Nhà này chỉ còn thiếu có thế, tôi nói.
    Mặt trời đã xuống phía sau nhà thờ Giám lý, đàn bồ câu lượn quanh tháp chuông, và khi ban nhạc ngừng chơi tôi nghe tiếng chim gù. Từ Giáng sinh đến nay cũng đã phải bốn tháng mà đàn bồ câu vẫn đông. Tôi nghĩ giờ này chắc Parasol Walthall đã ních chim đầy bụng rồi. Nói ra lại mang tiếng kể xấu thiên hạ, nhưng lão ta miệng thì thuyết giáo mà tay cứ lăm lăm khẩu súng bắn bồ câu. Vậy mà lải nhải nào là hoà bình trên Trái Đất, điều lành cho mọi người ngay cả một con sẻ cũng được yên thân. Nhưng lão thì cần gì đàn chim đông hay không, lão có bổn phận nào đâu, cũng chẳng cần quan tâm đến thời giờ. Lão không phải đóng thuế, quanh năm chẳng mất một xu lau chùi chiếc đồng hồ toà án mà nó vẫn chạy. Người ta vẫn phải bỏ ra bốn mươi lăm đô la để trả công lau chùi nó.
    Tôi đếm đến hơn một trăm con mới ra ràng đậu dưới đất. Không hiểu sao chúng ngu đến mức không bỏ cái tỉnh này mà đi. Tôi vẫn bảo là may mà tôi không bị ràng buộc gì hơn một con chim câu.
    Ban nhạc lại chơi, một điệu nhanh và ồn ào, có vẻ như để giải tán. Chắc bây giờ thì ai cũng mãn nguyện cả rồi. Có lẽ cũng đã đủ để người ta khoan khoái đánh ngựa nhanh mười lăm dặm về nhà rồi tháo yên cương trong bóng tối. Sau đó cho gia súc ăn và vắt sữa. Thế nào chả huýt sáo theo điệu nhạc vừa nghe và nói đùa với lũ bò ngựa trong chuồng, rồi thử tính nhẩm là nếu không đưa gia súc đi xem hát thì tiết kiệm được bao nhiêu tiền. Một gia đình có cả thảy năm đứa con với bảy con la sẽ mất toi một đồng tư nếu như cả người lẫn la cùng đi xem hát. Đúng thế đấy. Earl trở lại với hai gói hàng.
    "Có mấy thứ này để gửi đi" hắn nói. "Già Job đâu rồi?"
    "Chắc lại chuồn đi xem" tôi nói. "Không canh chừng lão là không xong".
    "Lão không đi đâu" hắn nói. "Có thể tin lão được".
    "Anh nói cạnh tôi đấy à?" tôi nói.
    Hắn đi tới cửa nhìn ra ngoài, lắng tai nghe.
    "Ban nhạc này chơi được đấy" hắn nói. "Chắc cũng đến giờ giải tán rồi, tôi đoán thế".
    "Nếu như họ không ngủ đêm luôn tại đó" tôi nói. Chim chóc bắt đầu bay ra, và tôi nghe thấy đàn sẻ lách chách tụ tập trong tán cây bên sân toà án. Chốc chốc chúng lại bay vù lên lượn trên mái nhà, rồi bay đi. Theo tôi thì chúng cũng khó chịu chả khác gì bồ câu. Ngay cả ngồi ở sân toà án cũng không yên với chúng. Lập tức đánh bịch một cái. Đúng vào mũ mình. Giá thử có bỏ năm xu là bắn được một con thì phải triệu phú mới dám. Chỉ cần rải ít thuốc độc ra quảng trường thì sau một ngày là thoát nợ, còn như một gã lái ngựa mà không biết giữ ngựa khỏi chạy lung tung thì tốt nhất ngoài đuổi gà ra gã chỉ nên buôn một thứ gì không phải ăn, như máy cày hay hành tây. Và nếu người ta không cần đến chó giữ nhà thì bởi vì người ta không thích nuôi chó hoặc là người chả có gì để mà canh với giữ. Như tôi nói nếu tất cả các tay buôn thành phố lại làm ăn theo kiểu nhà quê thì đấy sẽ là một cái thành phố nhà quê.
    "Nếu tan rạp bây giờ kể cũng bất tiện" tôi nói. "Người ta phải đóng ngựa và về nhà vào lúc nửa đêm".
    "Ờ" hắn nói "họ lại thích thế. Thỉnh thoảng cũng phải để họ có chỗ giải trí và tiêu tiền một chút chứ. Nông dân vùng trung du làm thì cực mà kiếm chẳng được là bao".
    "Ai bắt họ phải lên đồi làm ruộng" tôi nói "hay phải làm ở nơi này nơi nọ đâu".
    "Nếu họ không ở đấy thì tôi với cậu ở đâu?" hắn nói.
    "Thì bây giờ đã ở nhà" tôi nói "nằm dài mà chườm nước đá lên đầu rồi".
    "Lúc nào cũng thấy cậu đau đầu" hắn nói. "Sao cậu không khám răng cho cẩn thận? cả buổi sáng cũng không khámxong à?"
    "Ai khám?" tôi nói.
    "Cậu bảo sáng nay cậu đến nha sĩ mà".
    "Anh không cho tôi được phép nhức đầu trong giờ của anh chắc?" tôi nói. "Giải tán thật à?" Người ta đang băng qua hẻm từ phía rạp hát.
    "Họ đến kia kìa" hắn nói "Để tôi ra đàng trước". Hắn đi ra. Thật kỳ cục chẳng biết mình bị làm sao mà một thằng cha thì cứ bảo mình đi khám răng còn một bà già thì cứ xui mình lấy vợ. Toàn những người chẳng làm nên trò trống gì lại cứ đi dạy khôn mình. Như cái bọn giáo sư đại học không có tiền mua một đôi tất lại dạy người ta cách vớ bạc triệu chỉ trong mười năm, và một mụ đàn bà không kiếm nổi tấm chồng lại dạy người ta cách cai quản gia đình.
    Già Job đánh xe về. Một lúc sau lão mới quấn xong sợi dây vào cán roi.
    "Thế nào" tôi nói "diễn hay chứ?"
    "Tôi đã xem đâu" lão nói "Nhưng tối nay thế nào tôi cũng phải chui vào cái lều ấy mới được".
    "Lão mà chui vào thì trời sập" tôi nói. "Lão đi từ lúc ba giờ. Ông Earl vừa đến đây tìm lão đấy".
    "Tôi bận công việc" lão nói. "Ông Earl phải biết tôi ở đâu chứ"
    "Lão cứ việc gạt ông ta" tôi nói. "Tôi không tố cáo lão đâu".
    "Nếu thế thì chỉ có mỗi ông ấy là tôi phải gạt thôi" lão nói. "Tôi phí thì giờ đi gạt một người mà tôi chả cần biết có gặp tối thứ Bảy không làm gì? Tôi chả gạt ông đâu" lão nói. "Ông thì khôn quá rồi. Cả tỉnh này có ai khôn bằng ông. Ông còn gạt được một người khôn đến mức lừa được cả chính mình kia" lão nói, leo lên xe và tháo dây cương.
    "Ai vậy?" tôi nói.
    "Đó là ông Jason Compson" lão nói. "Đi nào, Dan!"

  7. #26
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Một bánh xe gần như long khỏi trục. Tôi đứng xem lão có ra đến đường trước khi nó văng ra hay không. Cứ giao xe cộ cho bọn mọi đen là như thế đấy. Tôi nói lão già ba hoa này đúng là cái gai trong mắt, còn mình cứ việc đứng chờ trong nhà xe dễ đến cả trăm năm để thằng nhãi ấy mỗi tuần một lần rong xe đến nghĩa trang. Tôi nói nó đâu phải đứa đầu tiên phải làm những điều nó không muốn. Tôi sẽ bắt nó ngồi xe cho đàng hoàng không thì ở nhà. Nó làm sao biết được nó đang đi đâu hay nó đang cưỡi trên cái gì, còn chúng tôi thì phải sắm xe ngựa để nó đi dạo chiều Chủ Nhật.
    Lão Job thì cần gì biết bánh xe có long ra hay không miễn sao không phải cuốc bộ một quãng xa là được. Như tôi nói chỗ cho chúng là ở ngoài đồng, nơi chúng phải còng lưng từ lúc tinh mơ đến tối mịt kia. Chúng đâu có đáng được hưởng sự sung túc hay công việc nhẹ nhàng. Hễ đứa nào sống quanh quẩn với người da trắng ít lâu là y rằng đổ đốn. Chúng sẽ bịp mình, trốn việc ngay trước mắt mình, như Roskus đã phạm cái lỗi lầm duy nhất của lão là một lần lão cẩu thả và bỏ mạng. Trốn việc, ăn cắp và ngày càng láo xược đến lúc người ta phải lấy chày nện vào đầu. Hừ, đó là việc của Earl. Nhưng tôi ghét chuyện của mình bị đem kháo khắp tỉnh từ miệng một thằng khọm đen đi không vững với một cái xe mà mỗi lần rẽ tưởng đâu sắp văng ra từng mảnh.
    Bây giờ ánh nắng đã hắt ngược lên trời và trong nhà bắt đầu tối. Tôi ra cửa trước. Quảng trường vắng tanh. Earl ra phía sau khoá tủ sắt và chuông đồng hồ bắt đầu điểm.
    "Cậu khoá giùm cửa sau" hắn nói. Tôi xuống khoá cửa rồi trở lại. "Tối nay cậu đi xem chứ?" hắn nói. "Hôm qua tôi đưa cậu hai vé rồi phải không?"
    "Phải" tôi nói. "Anh muốn lấy lại hả?"
    "Không, không" hắn nói "Tôi quên không biết đã đưa cho cậu chưa. Đừng bỏ phí".
    Hắn khoá cửa và nói về nhé rồi đi. Đàn sẻ vẫn nhốn nháo trong tàn cây, nhưng quảng trường đã vắng ngắt chỉ còn vài chiếc xe. Trước hiệu thuốc có một chiếc Ford, nhưng tôi chẳng buồn nhìn. Tôi biết lúc nào là lúc tôi chán ngấy mọi sự.chẳng phải tôi ngại cứu vớt nó, nhưng tôi chán quá rồi. Tôi nghĩ mình có thể dạy thằng Luster lái xe, rồi ai muốn theo rình nó suốt ngày thì theo, còn mình sẽ nằm nhà chơi với thằng Ben.
    Tôi bước vào mua hai điếu xì gà. Rồi tôi nghĩ có khi mình lại sắp lên cơn nhức đầu nữa cũng nên và tôi đứng lại nói chuyện với họ một lúc.
    "Thế nào?" Mac nói. "Tôi đoán năm nay chắc cậu lại cá tụi Yankee".
    "Cá cái gì?"
    "Đoạt Pennant[1]" hắn nói. "Không đội nào trong Liên đoàn địch nổi bọn ấy đâu".
    "Chuyện tào lao" tôi nói. "Bọn ấy sụm rồi, có ai mà gặp may mãi được".
    "Đâu phải chuyện gặp may" Mac nói.
    "Tôi nhất định không cá trận nào có thằng cha Ruth chơi" tôi nói. "Dù trận đó chắc thắng mấy đi nữa".
    "Sao vậy?" Mac nói.'
    "Trong liên đoàn có hàng tá cầu thủ chơi hay hơn hắn"
    "Sao cậu kỵ thằng cha Ruth đến thế?"
    "Kỵ gì đâu" tôi nói. "Tôi chẳng có chuyện gì với hắn, cái mặt hắn tôi cũng chẳng buồn nhìn nữa là". Tôi đi ra. Phố đã lên đèn và người ta vội vã về nhà. Đôi khi phải đến tối mịt bầy chim sẻ mới im tiếng. Vào cái đêm họ mắc dây đèn mới quanh sân toà án, chúng bị mất giấc ngủ, bay tán loạn và đâm đầu vào đèn suốt đêm. Cứ thế hai ba đêm liền, rồi một buổi sáng chúng kéo nhau đi sạch. Thế rồi khoảng hai tháng sau chúng lại về đông đủ.
    gì, mẹ muốn người ta làm gì với thằng Ben thì mẹ bảo. Và nếu mẹ không hiểu tôi nói gì, mẹ hỏi Dilsey khắc rõ.
    Phòng mẹ có ánh đèn. Tôi cất xe rồi xuống bếp. Luster và Ben đang ở đó.
    "Dilsey đâu rồi?" tôi nói. "Chưa dọn bữa à?"
    "Mammy ở trên gác với cô Cahline" Luster nói. "Họ lại ầm ĩ ở trên ấy. Suốt từ lúc cô Quentin về đến giờ, mammy phải giữ cho họ đừng đánh nhau. Gánh hát chưa đến hả cậu Jason?"
    "Rồi" tôi nói.
    "Cháu nghe tiếng kèn" nó nói. "Ước gì được đi xem nhỉ" nói nói. "Có đồng kền là cháu đi ngay".
    Dilsey bước vào. "Cậu về đấy à?" bà nói. "Cả buổi chiều cậu đi đâu? Cậu biết tôi bận thế nào chứ ? sao cậu không về đúng bữa?"
    "Có lẽ tôi đi xem hát" tôi nói. "Sắp ăn chưa?"
    "Ước gì mình được đi" Luster nói. "Có đồng kền là tha hồ".
    "Mày không có xem hát xem hiếc gì hết" Dilsey nói. "Vào nhà rồi ngồi yên đấy" bà nói. "Đừng có lên gác để rồi người ta lại ầm ĩ nữa nghe chưa".
    "Chuyện gì vậy?"
    "Quentin về ban nãy bảo cậu đi theo dõi nó cả buổi chiều thế là cô Cahline la nó. Cậu không để mặc nó được à? Cậu cháu ruột ở cùng nhà mà cứ phải dằn vặt nhau thế à?"
    "Tôi dằn vặt nó sao được?" tôi nói "từ sáng đến giờ tôi có thấy mặt mũi nó đâu? Nó định đổ vạ gì cho tôi nữa đây? tại tôi bắt nó đi học chắc? hết chịu nổi rồi" tôi nói.
    "Cậu cứ lo việc của cậu còn để mặc nó" Dilsey nói "nếu cậu và cô Cahline cho phép thì cứ để nó cho tôi. Cậu lên trên kia đi và đừng gây chuyện gì cả để tôi dọn bữa chiều".
    "Giá như tôi có một đồng kền" Luster nói "thì tôi đã đi xem hát".
    "Và giá thử mày có cánh mày bay lên thiên đàng chắc". Dilsey nói "Tao không muốn nghe câu nào nhắc đến hát hỏng nữa đâu đấy".
    "Mày nhắc tao mới nhớ" tôi nói "tao có hai cái vé người ta cho". Tôi lấy trong túi áo ra.
    "Cậu có định đi không ?" Luster nói.
    "Tao thì không" tôi nói "cho ta mười đô la tao cũng không thèm đi".
    "Cậu Jason, cho cháu một cái đi" nó nói.
    "Tao bán cho mày đấy" tôi nói. "Thế nào?"
    "Cháu có tiền đâu" nó nói.
    "Vậy khỏi" tôi nói. Tôi vờ bỏ đi.
    "Cậu Jason, cho cháu một cái đi" nó nói. "Cậu cần gì tới hai cái".
    "Câm miệng" Dilsey nói "mày không biết là cậu ấy chẳng cho không cái gì bao giờ à?"
    "Cậu bán bao nhiêu?" nó nói.
    "Năm xu" tôi nói
    "Cháu làm gì có nhiều thế" nó nói.
    "Mày có bao nhiêu?" tôi nói.
    "Cháu chẳng có gì cả" nó nói.
    "Thì thôi" tôi nói. Tôi bỏ đi.
    "Cậu Jason" nó nói.
    "Mày có câm ngay không?" Dilsey nói. "Cậu ấy trêu mày đấy. Cậu ấy cũng dùng đến chứ? Đi đi Jason, mặc kệ nó".
    "Tao chẳng dùng đến" tôi nói. Tôi tới gần lò. "Tao vào đây để đốt nó đi. Mày có mua mỗi vé một xu không?" tôi nói, nhìn nó và mở nắp lò.
    "Cháu không có tiền" nó nói.
    "Thôi vậy", tôi nói. Tôi vứt một tấm vào lò.
    "Cậu Jason" Dilsey nói. "Cậu không biết xấu hổ hả?"
    "Cậu Jason" nó nói. "Cháu xin cậu. Cháu sẽ trông coi bánh xe hàng ngày cho cậu một tháng liền".
    "Tao cần tiền mặt" tôi nói. "Mày cứ đưa đây một xu là có".
    "Câm ngay Luster!" Dilsey nói. Bà kéo nó lại. "Đốt đi!" bà nói. "Ném vào lò kia đi! Đốt đi! Cho xong chuyện".
    "Mày chỉ đưa một xu là có" tôi nói.
    "Đốt đi!" Dilsey nói. "Nó không có xu nào đâu. Đốt đi! Ném vào lò đi!"
    "Thôi vậy" tôi nói. Tôi ném vào lò và Dilsey sập nắp lò xuống.
    "Lớn đầu như cậu" bà nói. "Ra khỏi bếp đi! Câm miệng!" bà bảo Luster. "Mày sắp làm Benjy khóc bây giờ. Tối nay tao sẽ xin Frony một đồng cho mày rồi tối mai mày đi xem. Giờ thì im ngay".
    Tôi đi lên phòng khách. Tôi không nghe trên gác có động tĩnh gì cả. Tôi giở tờ báo. Một lát sau Ben và Luster vào. Ben đi đến chỗ tường bị vết ố nơi trước kia treo tấm gương, xoa xoa tay lên đó rồi khóc sướt mướt và rên rỉ. Luster bắt đầu cời lửa.
    "Mày làm gì đấy?" tôi nói. "Tối nay đâu cần đốt lửa".
    "Cháu dỗ cậu ấy nín" nó nói. "Phục sinh bao giờ cũng lạnh".
    "Nhưng hôm nay đâu phải Phục sinh" tôi nói. "Kệ nó đấy!"
    Nó cất thanh cời lò và lấy cái nệm ghế của mẹ cho Ben, rồi nó ngồi co ro trước cửa lò và nín thinh.
    Tôi đọc báo. Trên gác vẫn không một tiếng động khi Dilsey vào đuổi Ben và Luster xuống bếp và bảo bữa chiều đã dọn.
    "Được rồi" tôi nói. Bà đi ra. Tôi cứ ngồi đó đọc báo. Một lát sau tôi cảm thấy Dilsey đứng ở cửa nhìn vào.
    "Sao cậu không xuống ăn?" bà nói.
    "Tôi đợi dọn bàn" tôi nói.
    "Dọn lên bàn rồi" bà nói. "Tôi đã bảo cậu rồi mà".
    "Thế à?" tôi nói. "xin lỗi. Sao tôi không nghe thấy ai xuống cả?"
    "Họ không xuống đâu" bà nói. "Cậu đi ăn đi, để tôi còn đem lên cho họ".
    "Họ ốm à?" tôi nói. "Bác sĩ bảo sao? Hy vọng không phải lên đậu chứ?"
    "Xuống ăn đi, Jason" bà nói. "Để tôi còn dọn dẹp".
    "Được rồi" tôi nói, lại cầm tờ báo lên. "Tôi chờ".
    Tôi cảm thấy bà đứng ở cửa nhìn tôi. Tôi vẫn đọc báo.
    "Cậu định làm trò gì thế?" bà nói. "Cậu phải biết là tôi cũng đã đủ chuyện buồn bực rồi chứ?"
    "Nếu mẹ ốm hơn mọi ngày không xuống ăn được thì thôi" tôi nói. "Nhưng chừng nào tôi còn phải nuôi các ông trẻ bà trẻ thì các ông trẻ bà trẻ ấy phải xuống bàn mà ăn chứ. Bao giờ dọn bàn xong hãy gọi tôi" tôi nói và lại đọc báo. Tôi nghe tiếng bà lên cầu thang, kéo lê chân và càu nhàu rên rỉ như thể cầu thang dựng đứng và mỗi bậc cách nhau cả thước vậy. Tôi nghe tiếng bà ở phòng mẹ, rồi bà gọi Quentin, có vẻ như cửa khoá, rồi bà trở xuống phòng mẹ và mẹ đi ra nói với Quentin. Rồi họ xuống cầu thang. Tôi vẫn đọc báo.
    Dilsey trở lại cửa. "Đi ăn đi" bà nói "cậu lại sắp nghĩ ra những trò ma quỷ nữa bây giờ. Tối nay mấy người cứ tự hành hạ mình".
    Tôi đi sang phòng ăn. Quentin ngồi đầu cúi gằm. Nó lại tô mặt vẽ mày nữa. Mũi nó bóng như cái ống sứ cách điện.
    "Tôi mừng là mẹ vẫn đủ sức xuống phòng ăn" tôi nói với mẹ.
    "Xuống nhà ăn cho con vui đâu có đáng kể gì" bà nói. "Dù mẹ có bệnh thế nào đi nữa, mẹ cũng hiểu rằng một người đã làm việc quần quật suốt ngày thích được ngồi ăn tối quây quần cả gia đình. Mẹ muốn làm vui lòng con. Mẹ chỉ ước gì con với Quentin hoà thuận hơn. Được thế mẹ sẽ yên tâm".
    "Chúng tôi có chuyện gì với nhau đâu" tôi nói. "Nó có khoá cửa giam mình trong phòng cả ngày cũng không sao. Nhưng tới bữa ăn tôi không muốn thấy cái cảnh nhốn nháo sưng sỉa thế này. Tôi biết như vậy là đòi hỏi ở nó quá nhiều, nhưng sống trong nhà của tôi là phải như thế. Ý tôi muốn nói là nhà của mẹ".
    "Nhà này của con" mẹ nói "giờ thì con là chủ nhà".
    Quentin không ngẩng đầu lên. Tôi xúc thức ăn vào đĩa và nó bắt đầu ăn.
    "Thịt ăn được không ?" tôi nói. "Nếu không tao lựa cho miếng khác ngon hơn".
    Nó không nói gì cả.
    "Tao hỏi thịt có được không?" tôi nói.
    "Cái gì?" nó nói. "À, được rồi".
    "Cần thêm không?" tôi nói.
    "Không" nó nói.
    "Để tao lấy cho ít nữa" tôi nói.
    "Tôi đủ rồi" nó nói.
    "Không có gì" tôi nói. "Cứ tự nhiên".
    "Con đỡ đau đầu chưa?" mẹ nói.
    "Đau đầu à?" tôi nói.
    "À," tôi nói. "Không, về sau không đau nữa. Bận túi bụi cả buổi đến nỗi quên phắt chuyện đó".
    "Có phải vì thế mà con về muộn không ?" mẹ nói. Tôi nhìn thấy Quentin đang lắng nghe. Tôi nhìn nó. Dao nĩa của nó vẫn hoạt động nhưng tôi bắt gặp nó liếc nhìn tôi, rồi lại cúi xuống đĩa. Tôi nói:
    "Không. Tôi cho một thằng bạn mượn xe lúc ba giờ và phải đợi nó quay lại" tôi ngồi ăn một lúc.
    "Ai thế?" mẹ nói.
    Chú thích:
    [1] Pennant: cờ luân lưu trao cho hai đội bóng chày đứng đầu hai liên đoàn bóng chày (National và American) của Mỹ thời đó

  8. #27
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    9 -

    "Một đứa trong gánh hát" tôi nói. "Hình như anh rể nó đi với cô nào dưới phố, nó muốn dò theo".
    Quentin ngồi im phăng phắc, chỉ cử động hàm.
    "Con không nên cho những người như thế mượn xe" mẹ nói. "Con dễ dãi những chuyện ấy quá. Cũng vì thế bất đắc dĩ lắm mẹ mới nhờ đến xe con".
    "Mới đầu tôi cũng nghĩ vậy" tôi nói. "Nhưng rồi nó quay lại, thôi cũng được. Nó nói nó đã tìm thấy cái nó cần".
    "Cô nào thế?" mẹ nói.
    "Tôi sẽ nói với mẹ sau" tôi nói. "Tôi không muốn kể những chuyện như vậy trước mặt Quentin".
    Quentin đã bỏ ăn. Chốc chốc nó lại uống nước, rồi nó ngồi đó bóp vụn những mẩu bánh quy, mặt cúi gằm xuống đĩa.
    "Phải" mẹ nói. "Mẹ nghĩ những người đàn bà sống ru rú trong nhà như mẹ làm sao biết được chuyện ngoài đường ngoài phố".
    "Phải" tôi nói. "Làm sao mà biết được".
    "Thời mẹ còn trẻ khác hẳn bây giờ" mẹ nói. "Ơn Chúa mẹ không biết đến những tội lỗi như thế. Mẹ cũng không muốn biết đến nữa. Mẹ không như phần đông người ta".
    Tôi không nói gì thêm. Quentin vẫn ngồi đó bẻ vụn bánh quy đến khi tôi ăn xong, nó mới nói:
    "Tôi đi được chưa?", cũng không nhìn ại
    "Cái gì?" tôi nói. "Hẳn rồi. Mày cứ đi. Mày hầu chúng tao hay sao?"
    Nó nhìn tôi. Nó đã bóp vụn chiếc bánh quy, nhưng tay nó vẫn đang bẻ và mắt nó như lác xệch sang một bên, nó bắt đầu cắn môi như thể bị đầu độc vì lớp son đỏ chót ấy.
    "Bà" nó nói. "Bà".
    "Mày muốn ăn thêm chút gì hả?" tôi nói.
    "Sao cậu ấy lại tàn tệ với con như thế hở bà?" nó nói. "Con có bao giờ làm gì cậu ấy đâu".
    "Mẹ chỉ muốn các con hoà thuận với nhau" mẹ nói, "Các con là tất cả những gì còn lại, và mẹ thực lòng chỉ muốn các con hoà thuận hơn".
    "Lỗi tại cậu ấy" nó nói "Cậu ấy không để con yên mà con thì chỉ cần thế. Nếu cậu ấy không muốn con ở đây nữa, sao cậu ấy không để con về với.."
    "Đủ rồi" tôi nói. "Đừng thêm một lời nào nữa".
    "Vậy sao cậu ấy không để con yên?" nó nói. "Cậu ấy, cậu ấy chỉ"
    "Cậu ấy gần như là cha của cháu" mẹ nói. Cả bà và cháu đang ăn miếgn bánh của cậu ấy. Cậu ấy có quyền được thấy cháu vâng lời."
    "Lỗi tại cậu ấy" nó nói. Nó đứng phắt lên. "Cậu ấy khiến con làm thế. Nếu cậu ấy chỉ" nó nhìn tôi, mắt lác xệch, hai tay run bần bật bên sườn.
    "Nếu tao chỉ làm sao?" tôi nói.
    "Tôi làm cái gì cũng là lỗi tại cậu" nó nói. "Tôi hư, đó là vì tôi phải hư. Cậu làm tôi hư. Tôi chỉ muốn chết cho xong. Tôi ước gì tất cả chết hết đi". Rồi nó bỏ chạy. Tôi nghe tiếng nó chạy lên gác. Rồi tiếng cửa đóng sầm lại.
    "Đến bây giờ nó mới nói một câu nghe được" tôi nói.
    "Hôm nay nó không đi học" mẹ nói.
    "Sao mẹ biết?" tôi nói. "Mẹ xuống phố à?"
    "Mẹ biết" bà nói. "Mẹ muốn con đối xử với nó nhẹ nhàng hơn".
    "Nếu thế thì tôi phải có dịp thấy mặt nó hơn một lần mỗi ngày", tôi nói. "Mẹ phải làm sao để tới bữa ăn là nó ngồi vào bàn. Mỗi lần như thế tôi sẽ cho nó thêm một miếng thịt"
    "Có những cái vặt vãnh con có thể bỏ qua được" bà nói.
    "Chẳng hạn như không buồn để ý khi mẹ bảo tôi xem nó có đi học hay không chứ gì?" tôi nói.
    "Hôm nay nó không đi học" bà nói. "Mẹ chỉ biết là nó không đi học. Nó nói chiều nay nó đi xe hơi chơi với một đứa bạn và con đi theo rình nó".
    "Làm sao rình nó được" tôi nói, "trong khi người ta mượn xe tôi cả buổi chiều. Chuyện hôm nay nó có đến trường hay không đã qua rồi" tôi nói. "Nếu mẹ lo thì hãy lo thứ Hai tới đây này".
    "Mẹ muốn con và nó hoà thuận hơn" bà nói. "Nhưng nó thừa hưởng cái tính bướng bỉnh di truyền ấy. Quentin cũng vậy. Lúc đó mẹ nghĩ nó đã thừa hưởng cái bản tính ấy thì mẹ đặt tên cho nó như thế. Đôi khi mẹ nghĩ nó là bản án mà Caddy và Quentin dành cho mẹ".
    "Trời ơi" tôi nói. "Mẹ nghĩ hay thật đấy. Thảo nào mà đau ốm suốt đời".
    "Cái gì?" bà nói. "Mẹ không hiểu".
    'Tôi lại mong như vậy" tôi nói. "một người đàn bà tử tế mà phải chịu đựng nhìều mất mát thì không nên biết những cái đó làm gì".
    "Cả hai đứa đều thế" bà nói. "Khi mẹ định dạy dỗ chúng nó thì chúng nó làm áp lực với bố con để chống lại mẹ. Lúc nào bố con cũng nói không cần kiểm soát chúng nó, rằng chúng nó đã biết thế nào là trong sạch và ngay thẳng, và người ta chỉ cần học có thế. Giờ đây chắc bố con đã thoả lòng".
    "Mẹ còn có thằng Ben để trông cậy" tôi nói. "Mẹ vui lên đi".
    "Người ta cố tình ngăn mẹ dạy dỗ chúng nó" bà nói. 'Lúc nào cũng là nó với thằng Quentin. Tất cả lo lắng vào hùa chống lại mẹ. Chống lại cả con nữa. Dù con còn bé có hiểu gì đâu. Người ta luôn coi mẹ và con như người ngoài, như với cậu Maury vậy. Mẹ vẫn bảo với bố con rằng chúng nó được tự do quá nhiều, chúng nó gần gũi nhau quá nhiều. Khi Quentin bắt đầu đi học là năm sau cũng phải cho nó đi, để hai đứa có nhau. Thấy con làm gì mà nó không làm được là nó không chịu nổi. Nó đầy kiêu căng và tự ái hão huyền. Và khi nó bắt đầu gây chuyện mẹ biết ngay thằng Quentin cũng cảm thấy phải làm một trò gì đó tương tự. Nhưng mẹ không ngờ rằng nó lại ích kỷ đến mức…Mẹ không ngờ nó…."
    "Có lẽ anh ấy biết trước sẽ là con gái" tôi nói. "Thêm một đứa như thế nữa làm sao anh ấy chịu nổi".
    "Nó có thể bảo được em nó" bà nói. "nó hầu như là người duy nhất mà con bé còn biết nghe lời. Nhưng mẹ nghĩ âu cũng là cái nghiệp báo".
    'Phải" tôi nói. "Khổ một nỗi rằng đó là anh ấy chứ không phải tôi. Không thì mẹ đã khá hơn nhiều".
    "Con nói thế làm mẹ đau lòng" bà nói. "Mẹ cũng đáng phải chịu lắm. Khi bắt đầu bán đất cho thằng Quentin đi Harvard mẹ đã bảo bố con phải dành một phần như thế cho con. Rồi khi Herbert đề nghị đưa con vào làm ở ngân hàng mẹ bảo, giờ thì Jason có nơi có chốn rồi, đến khi nợ nần chồng chất mẹ phải bán đồ đạc và cả phần đất còn lại mẹ viết thư cho nó ngay bởi vì mẹ đã nói là nó sẽ hiểu ra rằng nó và thằng Quentin đã hưởng phần mình và cả phần của thằng Jason nữa và tùy nó nghĩ sao cho phải mà đền bù cho em nó. Mẹ nghĩ chắc là nó sẽ nghe lời vì nó biết điều. Lúc ấy mẹ tin như thế. Nhưng mẹ chỉ là một bà già khốn khổ, mẹ được dạy dỗ để tin rằng người ta ai cũng sẵn sàng quên mình vì máu mủ ruột thịt của mình. Đó là lỗi tại mẹ. Con trách mẹ cũng phải".
    "mẹ tưởng là tôi cần phải ai giúp mới sống nổi hay sao?" tôi nói. "Đừng nói gì một người đàn bà không biết con mình đẻ ra là giọt máu của ai".
    "Jason" mẹ nói.
    "Thôi được" tôi nói. "Tôi không có ý nói thế. Dĩ nhiên không".
    "Mẹ đã đau khổ lắm rồi, nếu mẹ còn tin chuyện ấy là thật nữa thì…"
    "Dĩ nhiên không" tôi nói. "Tôi không có ý nói thế".
    "Mẹ hy vọng ít ra là mẹ cũng không phải chịu nỗi đau ấy" bà nói.
    "Hẳn thế rồi", tôi nói "nó giống cả hai người quá làm sao không ngờ cho được".
    "Mẹ không thể chịu đựng được chuyện đó" bà nói.
    "Vậy thì đừng nghĩ đến nữa" tôi nói. "Nó còn bắt mẹ lo lắng về chuyện nó đi chơi đêm nữa không?"
    "Không. Mẹ nói cho nó hiểu rằng chẳng qua cũng là vì nó và một ngày nào đó nó sẽ cảm ơn mẹ. Nó đem sách theo và ngồi học khi mẹ khoá cửa. Có đêm mẹ thấy nó để đèn đến mười một giờ".
    "Làm sao mẹ biết nó có học hay không?" tôi nói.
    "Mẹ đâu biết, ngồi trong ấy một mình nó còn làm gì khác" bà nói. "Nó có bao giờ đọc sách gì khác đâu".
    "Không đâu" tôi nói. "Mẹ không biết đâu. Thế là mẹ may mắn đấy", tôi nói. Có điều nói ra thì lợi lộc gì. Chỉ khiến bà lại sụt sùi kể lể thôi.
    Tôi nghe tiếng bà lên gác. Rồi bà gọi Quentin và Quentin nói gì hả bà qua khe cửa. "Ngủ ngon nghe cháu" mẹ nói. Rồi tôi nghe tiếng chìa khoá xoay trong ổ, và mẹ đi về phòng.
    Khi tôi hút xong điếu xì gà và đi lên gác, đèn vẫn còn sáng. Tôi thấy lỗ khoá trống, nhưng tôi không nghe động tĩnh gì. Nó học lặng lẽ. Có lẽ nó học được điều ấy ở trường. Tôi chúc mẹ ngủ ngon rồi về phòng mình và lấy cái hộp ra đếm lại tiền. Tôi nghe thấy gã Người Mỹ Lại Cái Vĩ Đại ngáy như một xưởng xẻ gỗ. Tôi có đọc ở đâu đó rằng người ta thiến đàn ông để họ có giọng đàn bà. Nhưng có lẽ nó cũng không biết người ta làm gì nó. Tôi nghĩ nó không biết ngay cả điều mà nó cố làm hay tại sao ông Burgess lại vác cọc rào nện nó bất tỉnh. Và nếu người ta cho nó hít thuốc mê rồi chở đi Jackson nó cũng chẳng thấy có gì khác. Nhưng một người họ Compson mà chỉ nghĩ được có thế thì quá tầm thường, phải phức tạp gấp đôi thế may ra mới đủ. Phải đến khi nó vượt hàng rào đuổi theo một con bé ngoài phố mà bố con bé lại trông thấy và nện nó. Hừm, như tôi đã nói, họ không bao giờ tiến hành thiến ngay đâu, và họ cũng kết thúc nhanh quá. Tôi biết có ít nhất hai đứa nữa cũng cần cái gì đại loại như thế, và một đứa chỉ ở cách đây chưa tới một dặm. Nhưng rồi tôi nghĩ ngay cả làm thế cũng không ích gì. Tôi đã bảo mà cái thứ điếm đàng ấy thì vô phương. Cứ cho tôi hai mươi bốn giờ đồng hồ gk có những tên Do Thái New York khốn kiếp xui khôn xui dại tôi thế này thế kia. Tôi chẳng muốn giết chóc, để chuyện đó cho bọn cờ bạc bịp. Tôi chỉ cần có một cơ hội công bằng để lấy lại tiền của tôi. Và khi lấy lại được tiền rồi thì dù họ có muốn đem cả cái nhà thổ phố Beale hay bệnh viện tâm thần về đây dù hai đứa chúng nó chiếm giường tôi mà ngủ còn một đứa khác chiếm ghế tôi mà ngồi ăn tôi cũng mặc xác.

  9. #28
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    10 -

    MÙNG TÁM THÁNG TƯ, 1928
    Ngày mới rạng, lạnh lẽo và ảm đạm, một bức tường ánh sáng xám di động từ phía đông bắc, thay vì tan thành hơi ấm dường như lại rã ra thành những phân tử li ti và độc như một đám bụi, và khi Dilsey mở cửa lều chui ra, chúng chích vào da thịt bà, không đọng lại thành hơi ấm mà thành một chất từa tựa dầu loãng chưa đông hẳn. Bà đội một chiếc mũ rơm cứng quèo trên vành khăn quấn đầu, và khoác thêm ngoài chiếc áo dài lụa màu tía một chiếc áo choàng nhung màu hạt dẻ viền một thứ lông thú xơ xác không thể xác định được, bà đứng ở cửa một lúc ngước bộ mặt nhăn nhúm hốc hác lên hứng sương gió, bàn tay gầy guộc nhợt nhạt như bụng cá, rồi bà phanh áo choàng ra, ngắm nghía ngực áo dài.
    Chiếc áo rủ xuống buồn thảm từ vai đến bộ ngực chảy nhẽo, bó lại phía trên bụng, rồi lại rủ xuống trên những váy lót mà bà sẽ cởi bỏ từng lớp khi xuân tới hẳn với sắc màu vương giả và suy tàn. Trước kia bà là một phụ nữ to lớn, nhưng giờ đây khung xương đã nhô lên dưới lớp da bùng nhùng, tuy nhiên, lớp da này một lần nữa thít lại trên cái bụng gần như phù thũng, như thể cơ và mô một thời từng là can đảm và chịu đựng ngoan cường đã bị năm tháng gặm mòn cho đến khi chỉ còn bộ xương bất khuất trồi lên như một tàn tích hay một cột mốc dựng trên can trường và đờ đẫn, và trên nữa là khuôn mặt sụp xuống khiến người ta có cảm tưởng như xương ở ngoài da, gương mặt ngước lên đón một ngày cuồn cuộn với vẻ vừa an phận vừa như một đứa trẻ thất vọng ngỡ ngàng, rồi bà quay vào lều và đóng cửa.
    Khoảnh đất ngay trước cửa trơ trụi. Nó nhẵn bóng, như thể đã được mài bằng gót chân trần của bao thế hệ, như đồng bạc cũ hay bức tường nhà đất trát bằng tay của người Mexico. Cạnh nhà là ba cây dâu, toả bóng vào mùa hè, những chiếc lá đã xanh mướt xoè ra êm ả như những bàn tay mềm mại lật trở theo từng luồng không khí. Một đôi chim giẻ không biết từ đâu đến, lượn vòng trong gió như hai mảnh vải hay giấy sặc sỡ rồi đậu xuống những cây dâu, nơi chúng chuyền qua chuyền lại và đâu khẩu bằng giọng khàn khàn rồi đứng yên, kêu rít lên, gió xé tiếng kêu khàn khàn của chúng thành từng mảnh như vải hay giấy. Rồi có ba con nữa nhập đàn, chúng cùng nhau bay nhảy và cãi cọ trong đám lá cành xoắn xuýt , cùng kêu rít chói tai. Cửa lều mở và Dilsey chui ra lần nữa. Lần này bà đội một cái mũ nỉ của đàn ông và mặc một chiếc áo lính, bên dưới là cái váy vải bông kẻ xanh lồng phồng, lụng thụng quanh bà khi bà đi qua sân và leo lên những bậc thềm tới cửa bếp.
    Một lúc sau bà trở ra, tay cầm chiếc dù đã mở nghiêng nghiêng chắn gió, bà đi tới cạnh đống củi và đặt chiếc dù vẫn mở xuống. Rồi ngay lập tức bà chụp lấy dù, đứng yên một lát, nhìn xung quanh. Rồi bà khép dù đặt xuống và xếp củi lên tay, ghì vào ngực và lại nhặt dù lên, cuối cùng bà cũng mở được nó và trở lại bậc thềm, bà vừa giữ ôm củi chênh vênh vừa cố khép dù và để vào góc nhà cạnh cửa. Bà vứt củi vào cái thùng sau lò. Rồi bà bỏ áo khoác và mũ ra, lấy chiếc tạp dề bẩn trên tường xuống mặc vào và nhóm lò. Trong lúc bà làm việc đó, vỉ lò và nắp lò lách cách loảng xoảng thì bà Compson gọi trên đầu cầu thang.
    Bà mặc một áo xa tanh kép đen, giữ cổ áo sát lên tận cằm. Tay vương bà cầm một bình nước nóng bằng cao su màu đỏ và bà đứng ở đầu cầu thang sau, gọi "Dilsey", tiếng gọi cách quãng đều đặn và đơn điệu vọng vào lòng cầu thang im ắng đi xuống bóng tối hoàn toàn và lại trổ ra ở một khung cửa sổ xám. "Dilsey" bà gọi bằng giọng không âm điệu, không nhấn câu cũng không vội vã, như thể bà không hề chờ tiếng trả lời. "Dilsey".
    Dilsey đáp và ngưng lách cách nắp lò, nhưng bà chưa kịp ra khỏi bếp thì bà Compson lại gọi, và trước khi bà đi qua hết phòng ăn rồi tựa đầu vào cánh cửa sổ xám nghỉ lấy hơi, lại một tiếng gọi nữa.
    "Được rồi" Dilsey nói. "Được rồi, tôi đây. Có nước nóng là tôi sẽ đổ đầy bình ngay". Bà vén váy và leo lên cầu thang, che khuất cả luồng ánh sáng xám. "Cô đặt bình xuống đó và về giường đi".
    "Tôi không hiểu có chuyện gì" bà Compson nói. "Tôi nằm thao thức ít ra cũng cả tiếng đồng hồ mà không nghe động tĩnh gì dưới bếp".
    "Cô cứ đặt bình xuống đó và đi nằm ngay đi" Dilsey nói. Bà khổ sở leo lên cầu thang, ì ạch và hổn hển. "Một lát nữa là có lửa, thêm một lát nữa là có nước nóng".
    "Tôi nằm đây cũng cả tiếng đồng hồ rồi" bà Compson nói. "Tôi tưởng chị đợi tôi xuống nhóm lửa chứ".
    Dilsey lên tới đầu cầu thang và lấy bình nước. "Tôi sẽ đổ đầy bình ngay" bà nói. "Sáng nay thằng Luster dậy muộn vì hôm qua nó đi xem hát tới nửa đêm. Tôi phải nhóm bếp. Đi vào đi, không cô lại sắp đánh thức cả nhà dậy bây giờ, để tôi sửa soạn nào".
    "Chị để thằng Luster bê trễ công việc thì chị phải chịu" bà Compson nói. "Jason mà nghe thấy chuyện này là lại bực mình. Chị biết thế chứ?"
    "Nó đi xem có mất xu nào của cậu Jason đâu" Dilsey nói. "Mấy khi có buổi diễn". Bà đi xuống cầu thang. Bà Compson về phòng. Nằm vào giường rồi bà vẫn nghe tiếng Dilsey xuống cầu thang từng bước chậm chạp khổ sở, ghê gớm khiến người ta phát điên lên được nếu như nó không chấm dứt sau tiếng ken két nhỏ dần của cánh cửa phòng ăn.
    Bà vào bếp cời lửa cháy và chuẩn bị bữa sáng. Nửa chừng bà ngừng tay tới cửa sổ nhìn về phía lều của mình, rồi bà đi mở cửa và gọi to vào khoảng không đầy gió và lạnh lẽo.
    "Luster!" bà gọi to rồi đứng nghe ngóng, nghiêng mặt tránh gió. "Luster, mày đấy hả?" bà lắng nghe rồi khi bà sắp gọi nữa thì Luster xuất hiện từ đầu nhà bếp.
    "Mammy gọi gì con?" nó nói một cách vô tội, đến nỗi Dilsey đứng lặng nhìn nó một lúc, với vẻ mặt không phải chỉ là ngạc nhiên.
    "Mày ở đâu?" bà nói.
    "Chả ở đâu cả" nói nói. "ngay dưới hầm rượu đây này".
    "Mày làm gì ở dưới đó?" bà nói. "Đừng có đứng như thế, đồ ngốc", bà nói.
    "Chả làm gì cả" nói nói. Nó leo lên bậc thềm.
    "mày vào mà không ôm theo được một ít củi à?" bà nói. "Xem tao đã phải lấy củi và nhóm bếp cho mày rồi đây này. Tao đã bảo là tối qua mày đừng có đi đâu trước khi thùng củi đầy đến miệng cơ mà".
    "Con lấy rồi" nó nói. "con đã lấy đầy rồi mà".
    "Thế củi đi đâu?"
    "Con không biết. Con đâu có đụng vào".
    "Bây giờ xếp cho đầy thùng đi" bà nói. "Rồi lên gác xem Benjy thế nào".
    Bà đóng cửa lại. Luster đi lại đống củi. Năm con chim giẻ lượn trên nóc nhà, kêu khàn khàn the thé, rồi bay vào đám lá dâu. Nó đứng ngắm chim. Nó nhặt một hòn đá và ném chúng. "Xuỳ" nó nói. "Bay đi đâu thì đi đi, đồ quỷ. Đã đến thứ hai đâu!"[1]
    Nó ôm một đống củi có ngọn. Nó không nhìn thấy đường, loạng choạng leo lên thềm và vấp chân làm củi rơi lỏng chỏng. Rồi Dilsey ra mở cửa cho nó và nó loạng choạng đi qua bếp. "Luster!" bà kêu lên, nhưng nó đã ném củi vào thùng đánh rầm một cái. "Ái chà!" nó nói.
    "Mày định đánh thức cả nhà dậy hay sao đấy?" Dilsey nói. Bà bợp vào gáy nó. "Lên gác mặc quần áo cho Benjy ngay đi".
    "Vâng ạ" nói nói. Nó ra cửa sau.
    "Mày đi đâu đấy?" Dilsey nói.
    "Con tưởng phải đi vòng ra cửa trước mà vào, để khỏi đánh thức cô Cahline với mọi người".
    "Mày đi thẳng lên gác như tao bảo và mặc quần áo cho Benjy" Dilsey nói. "Nào đi đi".
    "Vâng ạ" Luster nói. Nó quay lại và đi qua phòng ăn. Một lúc sau cánh cửa ngưng kèn kẹt. Dilsey chuẩn bị làm bánh quy. Trong khi bà lắc đều chiếc rây bột trên khuôn bánh, bà hát, lúc đầu nho nhỏ trong cổ họng, một giai điệu mơ hồ và không rõ lời, lặp đi lặp lại, than vãn, phiền muộn và đơn điệu trong khi bà vẫn rải đều một lớp bột mỏng trắng muốt lên khuôn bánh. Bếp lò đã bắt đầu suởi nóng căn phòng, tiếng củi cháy xèo xèo, và bà cất giọng cao hơn, như thể giọng bà tan ra nhờ hơi ấm, và rồi trong nhà vọng ra tiếng bà Compson gọi. Dilsey ngẩng đầu lên tưởng như mắt bà có thể nhìn xuyên qua tường và trần nhà và thấy bà già trong chiếc áo kép đứng ở đầu cầu thang gọi tên bà đều đều như máy.
    "Trời ơi" Dilsey nói. Bà để chiếc rây xuống kéo vạt tạp dề để lau tay và cầm cái bình trên ghế rồi lại lấy vạt tạp dề để lót quai chiếc ấm đang phun phì phì. "Chút nữa thôi" bà nói với lên. 'Nước sắp sôi rồi".
    Tuy nhiên, bà Compson đâu cần bình nước, bà nắm cổ bình như nắm một con gà chết, Dilsey đến chân cầu thang ngước mắt nhìn.
    "Luster đã lên với cậu ấy chưa?" bà nói.
    "Luster chưa vào nhà. Tôi nằm nghe ngóng nó từ nãy. Tôi biết nó sẽ dậy trễ nhưng tôi mong Luster tới kịp để giữ cho Benjamin đừng làm mất giấc ngủ của Jason vào ngày duy nhất trong tuần Jason được ngủ muộn".
    "Tôi không hiểu làm sao có ai ngủ yên được khi vừa tảng sáng cô đã đứng giữa nhà la lối mọi người như thế". Dilsey nói. Bà bắt đầu lên thang, nặng nề ì ạch. "Tôi đã bảo thằng ranh ấy lên đây cả nửa tiếng đồng hồ rồi mà".
    Bà Compson đứng nhìn theo Dilsey, kéo áo lên kín cổ. "Chị định làm gì?" bà hỏi.
    "Mặc áo quần cho Benjy rồi đem cậu ấy xuống nhà để khỏi làm mất giấc ngủ của Jason với Quentin" Dilsey nói.
    "Chị làm bữa sáng chưa?"
    "Tôi sẽ làm" Dilsey nói. "Cô nên về phòng nằm đi rồi Luster sẽ đốt lò sưởi cho cô. Sáng nay trời lạnh quá".
    "Tôi biết" bà Compson nói. "Chân tôi cóng như nước đá. Lạnh quá tôi không ngủ được" bà đứng nhìn Dilsey leo cầu thang. Mất một lúc lâu, bà mới lên hết cầu thang. "Chị biết bữa sáng mà muộn Jason sẽ bực thế nào rồi đấy".
    "Tôi đâu có ba đầu sáu tay" Dilsey nói. "Cô về nằm nghỉ đi. Sáng nay tôi lại bận cả cho cô nữa".
    'Nếu chị vứt hết mọi việc dưới đấy để lên mặc quần áo cho Benjamin, chắc tôi phải xuống làm bữa sáng. Chị cũng biết như tôi là Jason sẽ rầy rà thế nào nếu ăn sáng muộn mà".
    "Cô làm thì ai mà nuốt nổi?" Dilsey nói. "Cô nói xem nào. Về phòng đi" bà nói, ì ạch leo lên. Bà Compson đứng nhìn bà lên từng bước, một tay vịn tường còn tay kia giữ váy.
    "Chị định đánh thức nó để mặc quần áo cho nó à?" bà hỏi.
    Dilsey dừng lại. Một chân còn đặt lên bậc thang trên, tay vịn tường, sau lưng là khung cửa sổ màu xám, bà đứng đó nhìn lên.
    "Cậu ấy chưa dậy à?" bà nói.
    "Lúc tôi ngó vào thì nó chưa dậy" bà Compson nói. "Nhưng quá giờ nó dậy rồi. Nó không bao giờ ngủ quá bảy giờ rưỡi, chị biết chứ".
    Dilsey lặng thinh. Bà không hề nhúc nhích nhưng mặc dù chỉ thấy lờ mờ một hìn hthù gần như tròn và dẹt, bà Compson cũng biết rằng Dilsey đã hơi cúi mặt xuống và đứng sững ở đó như con bò cái dưới trời mưa, tay cầm cổ cái bình không.
    "Chị đâu phải là người duy nhất chịu đựng" bà Compson nói. "Đâu phải bổn phận của chị. Chị đi đi. Chị việc gì phải còng lưng gánh vác hết ngày này sang ngày khác. Chị đâu có nợ nần gì chúng nó, nợ nần gì vong linh ông Compson. Tôi biết chị đâu có thương thằng Jason. Chị cũng chẳng giấu điều ấy bao giờ".
    Dilsey vẫn lặng thinh. Bà chậm chạp quay người và đi xuống, đặt chân xuống từng bậc một như một đứa bé, tay bám vào tường. "Co cứ đi đi, để mặc cậu ấy ngủ" bà nói. "Đừng vào đấy nữa, tôi thấy Luster bảo nó sẽ lên ngay. Bây giờ cứ để mặc cậu ấy".
    Bà trở lại bếp. Bà nhìn vào lò, rồi bà cởi tạp dề qua đầu và khoác chiếc áo lính vào và mở cửa sau nhìn quanh sân. Gió lạnh tạt vào da thịt bà, rát và thấm thía, nhưng bốn bề vắng tanh không một bóng người hay vật. Bà bước xuống thềm, rón rén, như cố giữ không một tiếng động, và đi vòng qua góc bếp. Vừa lúc ấy Luster chui nhanh ra từ cửa hầmrz với vẻ vô tội.
    Dilsey đứng lại. "Mày lại giở trò gì đấy?" bà nói.
    "Có gì đâu" nó nói. "Cậu Jason bảo con vào hầm rượu xem nước ở đâu chảy ra".
    "Cậu ấy bảo mày từ hồi nào?" Dilsey nói. "Tết năm ngoái chắc?"
    "Con định vào xem trong lúc họ ngủ" Luster nói. Dilsey đi đến cửa hầm rượu. Nó né sang một bên và bà liếc vào cái tối tăm nồng nàn mùi đất ẩm, mùi mốc và mùi cao su.
    "Hừm" bà nói. Bà lại nhìn Luster. Nó nhìn lại bà với vẻ ngoan ngoãn ngây thơ và vô tội. "Tao không biết mày định giở trò gì, nhưng mày không có việc gì ở đây cả. Sáng nay người ta gây chuyện với tao nên mày cũng gây chuyện với tao phải không? Mày lên nhà trông Benjy nghe chưa?"
    "Vâng ạ" Luster nói. Nó nhanh nhẹn đi về phía cửa bếp.
    "Này" Dilsey nói. "Nhân tiện mày còn ở đây thì lấy thêm cho tao ít củi".
    "Vâng ạ" nó nói. Nó đi ngang qua bà đến đống củi. Một lúc sau, ôm lù lù một đống củi che khuất cả mặt, nó không thấy đường và lại va vào cửa, Dilsey ra mở cửa và giữ chặt nó dẫn qua bếp.
    "Mày ném bừa vào thùng xem nào" bà nói. "Cứ ném thử xem".
    "Thì phải vậy" Luster nói, thở hổn hển. "chứ còn làm thế nào được nữa".
    "Cứ đứng im một lát đã" Dilsey nói. Bà nhấc xuống từng thanh củi một. "Hôm nay mày mắc chứng gì thế hả? Những lần trước tao sai mày lấy củi mày có bao giờ lấy quá sáu thanh, vi sợ nhọc cái thân xác mày. Tao không biết rồi mày làm trò gì. Cái gánh hát ấy đã đi chưa?"
    "Dạ đi rồi".
    Bà vứt thanh củi cuối cùng vào thùng. "Bây giờ lên gác trông Benjy như tao đã bảo" bà nói. "Và tao không muốn ai đứng trên nhà mà hét vào mặt tao cho đến khi tao rung chuông. Mày nghe rồi chứ?"
    "Vâng ạ" nó biến mất sau cánh cửa xoay. Dilsey bỏ thêm củi vào lò và quay lại bàn làm bánh. Bà lại cất tiếng hát.
    Căn phòng ấm dần lên. Chẳng mấy chốc nhìn da Dilsey có vẻ bong bẩy MỠ màng hơn, chả bù lúc nãy trông bà và Luster sạm như tro, và bà đi lại trong bếp, sắp xếp quanh mình đủ thứ để làm bữa sáng. Trên tường phía trên chạn là một chiếc đồng hồ quả lắc kêu tích tắc, hầu như vô hình, trừ ban đêm khi có ánh đèn đường, và ngay cả lúc ấy trông nó vẫn có vẻ huyền bí vì chỉ có độc nhất một cây kim, rồi với tiếng rền rền mở đầu như thể hắng giọng, nó gõ năm tiếng.
    "Tám giờ" Dilsey nói. Bà ngừng tay ngẩng đầu lên nghe ngóng. Nhưng không có âm thanh nào khác ngoài tiếng đồng hồ và tiếng lửa. Bà mở lò nhìn vào chảo bánh, rồi cúi xuống nghe tiếng chân ai đó xuống cầu thang. Bà nghe tiếng họ đi qua phòng ăn, rồi cánh cửa xoay bật ra và Luster đi vào, theo sau là một anh chàng cao lớn trông như nặn bằng một thứ vật chất không chịu dính kết vào nhau hoặc dính vào cái khung xương đỡ nó. Da dẻ hắn nhợt nhạt như da người chết và không có lông, trông như bị phù thũng, hắn đi lết chân như con gấu trong rạp xiếc. Tóc hắn nhợt màu và mịn màng. Mớ tóc trước trán chảy mượt xuống chân mày như tóc trẻ con trong các tấm hình chụp. Đôi mắt trong trẻo, màu xanh nhạt dịu dàng của hoa ngô, miệng dày há hốc, hơi chảy dãi.

  10. #29
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    "Cậu ấy có lạnh không?" Dilsey nói. Bà lau tay vào tạp dề và sờ tay hắn.
    "Nếu cậu ấy không lạnh thì là con lạnh" Luster nói "Hễ Phục sinh là lạnh. Chả bao giờ sai. Cô Cahline bảo nếu mammy không có thì giờ đun nước nóng thì thôi không sao".
    "Trời ơi" Dilsey nói. Bà kéo một chiếc ghế vào khoảng giữa lò sưởi và thùng củi. Hắn ngoan ngoãn lại đó ngồi. "Vào phòng ăn xem tao để cái bình đâu đó" Dilsey nói. Luster lấy cái bình bên phòng ăn và Dilsey đổ đầy nước rồi đưa cho nó "Đi nhanh lên" bà nói. "Xem cậu Jason dậy chưa. Bảo họ là xong cả rồi".
    Luster chạy đi. Ben ngồi cạnh bếp lò. Hắn ngồi sõng sượt, hoàn toàn bất động chỉ trừ cái đầu lắc lư liên tục trong khi hắn vẫn nhìn Dilsey qua lại với ánh mắt lơ đãng dịu dàng. Luster trở lại.
    "Cậu ấy dậy rồi" nó nói. "Cô Cahline bảo là để lên bàn". Nó đến bên cạnh lò xoè tay trên nắp lò. "Cậu ấy cũng dậy rồi" nó nói. "Sáng nay cậu ấy có vẻ cáu kỉnh lắm".
    "Lại chuyện gì nữa?" Dilsey nói. "Lui ra chỗ khác. Mày đứng chắn trước lò tao còn làm ăn gì được?"
    "Con lạnh" Luster nói.
    "Sao lúc xuống hầm rượu mày không kêu" Dilsey nói. "Cậu Jason làm sao?"
    "Bảo con với Benjy nậy cánh cửa sổ phòng cậu ấy".
    "Cửa bị nậy à?" Dilsey nói.
    "Cậu ấy bảo thế" Luster nói. "Bảo là con nậy".
    "Làm sao mà mày nậy được? cậu khoá kỹ cả ngày lẫn đêm mà".
    "Bảo con lấy đá đập vỡ" Luster nói.
    "Thế mày có nậy không?"
    "Không hề" Luster nói.
    "Đừng nói dối tao con ạ" Dilsey nói.
    "Con không bao giờ làm chuyện ấy" Luster nói. "Hỏi Benjy thì biết. Con chưa lại gần cái cửa ấy lần nào".
    "Ai mà nậy được cái cửa ấy nhỉ?" Dilsey nói. "Cậu ấy lại làm ồn để đánh thức Quentin chứ gì?" bà nói, lấy khay bánh quy ra khỏi lò.
    "Chắc thế" Luster nói. "Mấy người này đến là kỳ cục. May mà mình không phải là họ."
    "Không phải là ai?" Dilsey nói. "Này thằng nhãi con, tao bảo cho mày biết, mày cũng có trong người cái máu quỷ quái của dòng họ Compson như bất cứ ai trong bọn họ. Mày không nậy cái cửa sổ ấy thật chứ?"
    "Con nậy để làm gì?"
    "Thế mày làm những trò quỷ của mày để làm gì?" Dilsey nói "Trông cậu ấy đây này, không cậu ấy lại bỏng tay, để tao dọn bàn".
    Bà vào phòng ăn, và chung nghe thấy bà loay hoay trong đó, rồi trở lại đặt một cái đĩa lên bàn bếp và xúc thức ăn vào đĩa. Ben nhìn bà, miệng chảy dãi, khẽ kêu ư ử thèm khát.
    "Được rồi cưng" bà nói. "Bữa sáng của cưng đây. Đem ghế lại nào, Luster!" Luster đem ghế đến và Ben ngồi vào, vẫn lè nhè và chảy dãi. Dilsey buộc khăn quanh cổ hắn và cầm góc khăn chùi miệng hắn. "Để xem lần này mày có làm bẩn quần áo cậu ấy hay không" bà nói và đưa cho Luster một cái thìa.
    Ben thôi khóc. Hắn nhìn cái thìa đưa lên miệng hắn. Như thể cái háo hức biến thành xương thành thịt hắn cùng với cái đói câm lặng không được biết tới. Luster khéo léo và lơ đãng cho hắn ăn. Thỉnh thoảng nó mới để tâm trở lai vừa đủ để nhử cái thìa cho Ben đớp hụt không khí, nhưng rõ ràng đầu óc nó đang ở đâu đâu . Tay kia nó để trên lưng ghế và trên cái mặt gỗ vô tri ấy tay nó lặp lại một cử động tinh tế khéo léo, như thể nó đang bắt lấy một giai điệu âm thầm từ hư vô, và có lúc nó quên cả trêu chọc Ben bằng cái thìa trong khi tay nó gõ lên mặt gỗ chết những hợp âm rải lặng câm và phức tạp cho đến khi Ben lại khóc ư ử để nhắc nó.
    Dilsey đi đi lại lại trong phòng ăn. Rồi bà rung một cái chuông nhỏ từng hồi rành rọt, ở trong bếp Luster nghe tiếng chân bà Compson và Jason đi xuống, và giọng của Jason, và nó trợn ngược mắt lên nghe ngóng.
    "Phải rồi, tôi biết chúng không nậy" Jason nói "Phải rồi, tôi biết thế. Có lẽ thời tiết thay đổi làm nó vỡ".
    "Mẹ không hiểu tại sao lại vỡ được" bà Compson nói. "Phòng con khoá chặt cả ngày lẫn đêm, suốt từ lúc con rời nhà xuống phố. Ở nhà có ai vào đấy làm gì, trừ ngày chủ nhật để quét dọn. Mẹ cũng muốn để con biết rằng nơi nào không cần thì mẹ không bao giờ đặt chân đến v mẹ cũng không cho phép người khác đến".
    "Tôi có bảo mẹ nậy cửa đâu,đúng không?" Jason nói.
    "Mẹ không muốn vào phòng của con" bà Compson nói. "Mẹ tôn trọng sự riêng tư của người khác. Dù mẹ có chìa khoá mẹ cũng không bước chân qua ngưỡng cửa đâu".
    "Phải" Jason nói. "tôi biết chìa khoá của mẹ không khớp. Vì thế tôi mới thay khoá. Tôi chỉ mới biết tại sao cánh cửa sổ lại bị nậy".
    "Luster nói nó không làm" Dilsey nói.
    "Chẳng cần hỏi nó tôi cũng biết thế" Jason nói. "Quentin đâu?"
    "Ở chỗ mà sáng chủ nhật nào nó chẳng ở" Dilsey nói. "Mấy hôm naycj làm sao thế?"
    "Thế này thì phải thay đổi hết thôi" Jason nói. "Lên bảo nó là bữa sáng đã dọn xong".
    "Cậu Jason, cậu để nó yên" Dilsey nói. "Sáng nào nó cũng dậy ăn sáng, còn chủ nhật cô Cahline cho nó ngủ muộn. Cậu biết rồi mà".
    "Tôi không thể nuôi cả một lũ người chỉ để chiều chuộng nó, dù tôi có muốn đi nữa" Jason nói. "Lên bảo nó xuống ăn sáng".
    "Có ai phải chờ nó đâu" Dilsey nói. "Tôi để phần nó trong lò hấp và nó.."
    "Bà có nghe tôi nói gì không?"
    "Tôi có nghe" Dilsey nói. "Khi nào có cậu ở nhà là tôi chẳng nghe thấy ai khác. Nếu không phải là cậu gây sự với Quentin, thì là với Luster và Benjy. Cô Cahline, cô để cậu ấy ngang ngược thế là thế nào chứ?"
    "Chị nên làm theo lời nó bảo" bà Compson nói. "Giờ nó là chủ cái nhà này. Nó có quyền bắt chúng ta phải tôn trọng các ý muốn của nó. Tôi đã cố gắng và nếu tôi làm được thì chị cũng làm được ".
    "Tự nhiên cáu kỉnh vô lối. Bắt con Quentin dậy sớm để chỉ thoả mãn ý riêng của mình" Dilsey nói. "Có lẽ cậu ấy tưởng nó nậy cửa sổ chắc".
    "Nó mà nghĩ ra thì nó cũng dám làm đấy" Jason nói. "Bà cứ làm theo lời tôi nói".
    "Nó có nậy tôi cũng chẳng trách" Dilsey nói, đi về phía cầu thang. "Cậu ở nhà lúc nào là cậu quạu với nó lúc ấy".
    "Im đi, Dilsey" bà Compson nói. "Cả tôi và chị đều không có tư cách để bảo Jason phải làm gì. Đôi khi tôi cũng thấy nó sai, nhưng tôi cố gắng làm theo mọi ý muốn của nó cho tất cả được yên ổn. Tôi còn đủ sức xuống bàn ăn được thì Quentin cũng xuống được".
    Dilsey đi ra. Họ nghe thấy bà lên cầu thang. Họ nghe tiếng chân bà trên các bậc thang rất lâu.
    "Mẹ nuôi toàn những đầy tớ thượng hạng cả" Jason nói. Hắn lấy thức ăn cho mẹ hắn và cho mình. "Mẹ đã nuôi được đứa nào đáng đem làm thịt chưa nhỉ? chắc cũng phải có vài đứa từ hồi tôi chưa đủ lớn để nhớ chứ".
    "Mẹ phải chiều ý mọi người" bà Compson nói. "Mẹ bị phụ thuộc hoàn toàn vào người khác. Mẹ lại ốm đau bệnh tật. Giá như mẹ mạnh chân khoẻ tay. Giá như mẹ có thể làm hết việc nhà cho con. Ít ra mẹ cũng đỡ được cho con phần nào cái gánh nặng ấy".
    "Và nhà này thì đỡ như một cái chuồng heo" Jason nói. "Nhanh chân lên, Dilsey" hắn hét lên.
    "Mẹ biết con trách mẹ" bà Compson nói "vì đã cho họ nghỉ để đi nhà thờ hôm nay".
    "Đi đâu?" Jason nói. "Thế là gánh hát chết tiệt ấy chưa đi à?"
    "Đi nhà thờ" bà Compson nói. "Người da đen có một buổi lễ Phục sinh đặc biệt. Cách đây hai tuần mẹ đã hứa với Dilsey cho họ nghỉ".
    "Thế nghĩa là mình sẽ phải ăn đồ nguội" Jason nói "hoặc là không có gì mà ăn hết".
    "Mẹ biết lỗi tại mẹ" bà Compson nói. "Mẹ biết con trách mẹ".
    "Trách cái gì?" Jason nói. "Mẹ có làm Kitô phục sinh đâu, phải không?"
    Chú thích:
    [1] Người da đen ở vùng này tin là những con chim giẻ xuống địa ngục từ ngày thứ Tư đến ngày thứ hai. Sáng thứ hai chúng trở lại trần gian

  11. #30
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,672
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    11 -

    Họ nghe tiếng Dilsey lên tới đầu cầu thang, rồi tiếng chân bà chậm chạp lết phía trên đầu.
    "Quentin" bà nói. Bà vừa cất tiếng gọi Jason liền bỏ dao nĩa xuống và hai mẹ con ngồi hai bên bàn dường như chờ nhau với điệu bộ y hệt, kẻ thì lạnh lùng tinh quái, với mái tóc nâu gợn sóng chải xuống thành hai cái móc bướng bỉnh ở hai bên trán như một anh bồi quầy rượu, với đôi mắt màu hạt dẻ và hai con người đen láy tròn xoe như hai hòn bi, người thì rầu rĩ than thở, với mái tóc bạc trắng và đôi mắt có quầng sưng húp và chảy xệ và tối đen đến mức tưởng như chỉ toàn tròng đen hay chỉ có con ngươi.
    "Quentin" Dilsey nói "Dậy đi cưng. Mọi người chờ cưng xuống ăn sáng kìa".
    "Mẹ không hiểu làm sao cánh cửa sổ ấy gãy được" bà Compson nói. "Con có chắc là nó gãy hôm qua không? Trời nóng thế này, có khi nó gãy từ lâu rồi. Nhất là cái cánh cửa góc trên, sau tấm rèm ấy".
    "Tôi nhắc lại với mẹ lần cuối cùng rằng nó gãy hôm qua" Jason nói. "Phòng tôi ở sao tôi lại không biết? cửa sổ gãy thủng một lỗ bằng bàn tay chẳng lẽ ở cả tuần mới biết" giọng hắn bỗng khựng lại, im bặt, hắn chằm chằm nhìn bà mẹ một lúc với đôi mắt hoàn toàn trống rỗng. Đôi mắt hắn như thể đang nén giữ hơi thở của cả hai trong khi mẹ hắn nhìn lại hắn vẻ yếu đuối và phiền muộn, sâu thẳm, thấu suốt nhưng đờ đẫn. Giữa lúc họ ngồi như thế Dilsey lại lên tiếng:
    "Quentin, đừng đùa nữa cưng. Xuống ăn sáng đi. Cả nhà đợi cưng kìa".
    "Mẹ không hiểu" bà Compson nói. "Cứ cho là có người cạy cửa vào nhà" Jason nhảy chồm dậy. Chiếc ghế bật ngửa kêu răng rắc. "Cái gì?" bà Compson nói, trố mắt nhìn hắn chạy ngang qua bà và nhảy lên cầu thang, nơi hắn đụng phải Dilsey. Mặt hắn bị khuất trong bóng tối. Và Dilsey nói:
    "Nó dỗi. Má cậu chưa mở khoá". Nhưng Jason chạy qua bà dọc theo hành lang đến một cái cửa. Hắn không gọi. Hắn nắm quả đấm và cố vặn, rồi hắn đứng giữ quả đấm trong tay và đầu hơi cúi, như thể hắn đang lắng nghe một cái gì mơ hồ ở đâu đó bên kia căn phòng sau cánh cửa, cái mà hắn đã từng nghe. Dáng điệu của hắn là dáng điệu của kẻ làm ra vẻ lắng nghe để tự lừa mình rằng mình đã nghe lầm. Sau lưng hắn, bà Compson đang lên thang, miệng gọi tên hắn. Rồi bà thấy Dilsey và thôi không gọi hắn nữa mà quay sang gọi Dilsey.
    "Tôi đã bảo cậu là bà chưa mở khoá kia mà" Dilsey nói.
    Trong khi đó thì hắn quay lại chạy đến chỗ bà, nhưng giọng hắn đã thực sự trầm tĩnh trở lại. "Bà ấy cầm chìa khoá theo?" hắn nói. "Bây giỜ bà ấy vẫn giữ chìa khoá, tôi muốn nói, hay là bà ấy sẽ".
    "Dilsey" bà Compson đứng ở cầu thang nói.
    "Cái gì thế?" Dilsey nói. "Sao cậu không để"
    "Chìa khoá" Jason nói "của cái phòng đó. Bà ấy lúc nào cũng đem theo chìa khoá chứ? Mẹ à" rồi hắn thấy bà Compson và hắn chạy xuống thang đến chỗ bà. "Đưa chìa khoá cho tôi" hắn nói. Hắn nhào tới túm lấy túi áo của chiếc áo dài đen bạc thếch bà đang mặc. Bà giằng lại.
    "Jason" bà nói "Jason! Con với Dilsey lại định bắt mẹ nằm liệt giường nữa à?" bà nói, cố gạt hắn ra. "Ngày chủ nhật, mẹ cũng không được yên à?"
    "Chìa khoá" Jason nói, túm lấy bà. "Đưa chìa khoá đây!" hắn quay lại nhìn cánh cửa, như thể hắn mong nó bật tung ra trước khi hắn trở lại với chiếc chìa khoá mà hắn chưa có.
    "Dilsey!" bà Compson nói, quấn chặt áo quanh người.
    "Đưa chìa khóa đây, bà già lẩn thẩn!" Jason bỗng hét lên. Hắn lôi từ trong túi bà ra một chùm chìa khoá to tướng đã gỉ sét móc vào một cái vòng sắt như một cái xiềng thời trung cổ và chạy lên hành lang với hai người đàn bà theo sau.
    "Con, Jason!" bà Compson nói. "Nó làm sao tìm được đúng chìa khoá đó" bà nói. "Chị biết tôi có bao giờ cho ai đụng vào chìa khoá của tôi đâu, Dilsey" bà nói. Bà bắt đầu rên rỉ.
    "Nín đi" Dilsey nói. "Cậu ấy không làm gì được nó đâu. Tôi không để cậu ấy như thế đâu".
    "Nhưng lại đúng vào sáng chủ nhật, ngay trong nhà tôi" bà Compson nói "trong khi tôi đã cố hết sức để nuôi dạy chúng thành những con chiên của Chúa. Jason, để mẹ tìm chìa khoá cho" bà nói. Bà đặt tay lên cánh tay hắn. Rồi bà giằng co với hắn, nhưng hắn xô bà văng ra bằng khuỷu tay và quay nhìn bà một lúc, đôi mắt lạnh lùng và bực bội, rồi hắn quay lại với cánh cửa và chùm chìa khoá rắc rối.
    "Nín đi nào" Dilsey nói. "Cậu Jason!"
    "Chắc đã xảy ra chuyện gì kinh khủng lắm" bà Compson rên rĩ "Tôi biết thế mà, Jason à" bà nói và lại nắm lấy tay hắn. "Một căn phòng trong nhà tôi mà nó cũng không để tôi tìm chìa khoá!"
    "Thôi nào, thôi nào" Dilsey nói "Có chuyện gì đâu? Tôi ở đây rồi. Tôi không để cậu ấy làm gì nó đâu, Quentin" bà cao giọng "Đừng sợ cưng. Có tôi đây".
    Cửa mở tung. Hắn đứng chặn giữa cửa một lúc, che khuất căn phòng rồi bước sang bên cạnh. "Vào đi!" hắn nói, giọng nhỏ và khản đặc. Họ bước vào. Đó không phải là phòng một cô gái. Cũng không phải là phòng của bất cứ ai, mùi son phấn rẻ tiền thoang thoảng và vài vật dụng đàn bà cùng một vài bằng chứng khác của sự cố gắng sống sượng và vô vọng để phụ nữ hoá căn phòng chỉ khiến nó càng trở nên vô danh, mang lại vẻ tạm bợ vô hồn và rập khuôn của các căn phòng trọ. Giường nệm vẫn chưa ai đụng đến. Một chiếc váy lót bằng lụa rẻ tiền màu hồng đậm lay lắt trên sàn, một chiếc tất lơ lửng buông thõng từ mép một ngăn kéo rút ra nửa chừng. Cửa sổ mở toang. Một cây lê mọc ngay đó, sát vào tường nhà. Cây đang độ nở hoa và cành lá cọ vào tường ràn rạt, gió ào ào tràn qua cửa sổ mang vào phòng mùi hương bị bỏ rơi của hoa lê.
    "Thế nào?" Dilsey nói. "Tôi đã bảo nó không sao mà".
    "Không sao à?" bà Compson nói. Dilsey theo bà vào phòng và khẽ chạm tay vào người bà.
    "Bây giờ cô về nằm nghỉ đi" bà nói. "Mười phút nữa tôi sẽ tìm ra nó".
    Bà Compson hất tay bà ra. "Tìm bức thư" bà nói. "Hồi trước khi thằng Quentin đi nó cũng viết thư để lại".
    "Được rồi" Dilsey nói. "Tôi sẽ tìm. Cô về phòng đi!"
    "Tôi biết chuyện này sẽ xảy ra ngay từ khi người ta đặt tên cho nó là Quentin" bà Compson nói. Bà đi tới bàn học và bắt đầu lục lọi những đồ dùng bừa bộn – mấy lọ nước hoa, một hộp phấn, một chiếc bút bị gặm đầu , cây kéo gãy một lưỡi nằm trên một chiếc khăn quàng đan dính đầy phấn và loang lổ vết son. "Tìm tờ giấy" bà nói.
    "Tôi sẽ tìm" Dilsey nói. "cô đi đi. Tôi và Jason sẽ tìm. Cô về phòng đi!"
    "Jason" bà Compson nói. "Jason đâu rồi?" bà đi ra cửa. Dilsey đi theo. Bà ra ngoài hành lang, đến một cánh cửa khác. Cửa đóng chặt. "Jason" bà gọi qua cửa. Không có tiếng trả lời. Bà vặn thử quả đấm cửa, rồi lại gọi. Vẫn không có tiếng trả lời, vì hắn đang lúi húi hất tung đồ đạc trong tủ ra sau lưng: quần áo, giày dép, cả một chiếc vali. Rồi hắn chui ra mang theo một đoạn ván có mộng đã bị cưa và đặt nó xuống rồi lại chui vào tủ và bê ra một cái hộp sắt. Hắn đặt cái hộp trên giường sững sờ nhìn ổ khoá gãy, hắn móc chùm chìa khoá trong túi ra và chọn một cái chìa, và hắn lại sững một lúc lâu nữa nhìn chằm hcằm vào ổ khoá gãy, tay cầm chìa khoá, rồi hắn bỏ chùm chìa khóa vào túi và cẩn thận nghiêng hộp đổ ra tất cả những gì bên trong lên giường. Vẫn cẩn thận như thế hắn phân loại giấy tờ, nhấc từng tờ một lên và rũ rũ. Đoạn hắn dốc ngược cái hộp và lắc thật kỹ rồi chậm chạp xếp lại giấy tờ và lại đứng nhìn ổ khoá gãy, với cái hộp cầm trong tay và đầu cúi gục. Ngoài cửa sổ hắn nghe tiếng mấy con chim giẻ bay tới rít lên khàn khàn, rồi bay đi, tiếng kêu xé gió, một chiếc xe chạy qua đâu đó và bặt dần. Mẹ hắn gọi tên hắn bên ngoài cửa, nhưng hắn không nhúc nhích. Hắn nghe tiếng Dilsey dìu bà đi dọc hành lang và rồi một cánh cửa khép lại. Hắn để chiếc hộp vào tủ như cũ, quăng quần áo vào rồi xuống thang tới máy điện thoại. Trong khi hắn đứng đấy, ống nghe áp tai và chờ đợi, Dilsey xuống thang. Bà nhìn hắn không dừng chân và đi tiếp.
    Đường dây được nối. "Jason Compson đây" hắn nói, giọng hắn gay gắt và khản đặc đến nỗi tự hắn phải lặp lại "Jason Compson" hắn nói, cố nén giọng. "Chuẩn bị sẵn một chiếc xe, với một viên cảnh sát trong mười phút nữa, nếu ông không đi được. Tôi sẽ đến đó – Cái gì? – Ăn trộm. Trong nhà tôi. Tôi biết đó là ai – Tôi bảo là ăn trộm. Chuẩn bị một chiếc xe. Cái gì? Ông không phải ăn lương để thi hành luật pháp à? – phải, năm phút nữa tôi sẽ ở đó. Chuẩn bị xe để đi ngay tức khắc. Nếu không tôi sẽ trình lên ông thống đốc".
    Hắn đặt ống nghe xuống và đi qua phòng ăn, nơi bữa sáng hiếm khi bị bỏ đang nguội lạnh trên bàn, và vào bếp. Dilsey đang đổ đầy bình nước nóng. Ben ngồi yên lặng và trống rỗng. Bên cạnh, Luster như một con chó nhỏ, tỉnh táo canh gác. Nó đang ăn cái gì đó. Jason đi qua bếp.
    "Cậu không ăn sáng à?" Dilsey nói. Hắn không buồn để ý đến bà. "Jason, ăn sáng đi đã". Hắn đi tiếp. Cánh cửa ngoài đóng sầm lại sau lưng hắn. Luster đứng dậy đi ra cửa sổ nhìn.
    "Chà" nó nói "Trên ấy có chuyện gì thế? Cậu ấy lại đánh cô Quentin phải không?"
    "Mày câm mồm đi" Dilsey nói. "Mày mà làm Benjy giở chứng thì tao đập vào đầu. Mày trông cho cậu ấy yên đến khi tao quay lại". Bà văn nắp bình và đi ra. Chúng nghe tiếng chân bà lên cầu thang, rồi tiếng Jason chạy xe qua nhà. Rồi trong bếp không còn âm thanh nào khác ngoài tiếng thầm thì nghèn nghẹt của ấm nước và chiếc đồng hồ.
    "Cậu biết tôi cuộc điều gì không?" Luster nói . "Tôi cuộc là cậu ấy vừa đánh cô ấy. Tôi cuộc là cậu ấy đánh cô ấy vào đầu và bây giờ phải đi gọi bác sĩ. Tôi cuộc là thế đấy". Chiếc đồng hồ kêu tích tắc, trịnh trọng và thâm trầm. Có lẽ đấy chính là nhịp đập khô khốc của ngôi nhà đang tàn tạ này, một lát sau nó kêu rè rè, hắng giọng và đánh sáu tiếng. Ben ngước nhìn lên, rồi nhìn bóng cái đầu hình viên đạn của Luster trên cửa sổ và hắn bắt đầu gục gặc đầu, miệng chảy dãi. Hắn khóc thút thít.
    "Nín đi, ông khùng" Luster nói mà không quay lại. "Cứ thế này thì hôm nay mình chẳng được đi nhà thờ nào mất". Ben ngồi ở ghế, hai bàn tay to lớn mềm oặt buông thõng giữa hai đầu gối, rên rỉ khe khẽ. Bỗng nhiên hắn oà khóc, một tiếng rống chậm rãi, vô nghĩa và kéo dài. "Câm ngay" Luster nói. Nó quay lại và đưa tay lên. "Cậu muốn ăn đòn hả?" nhưng Ben nhìn nó, mỗi lần thở ra lại rống lên chậm rãi. Luster đến gần và lay người hắn. "Có nín ngay không?" nó hét lên. "Lại đây" nó nói. Nó lôi Ben ra khỏi ghế và kéo ghế lại phía trước lò, mở cửa lò và đẩy Ben ngồi xuống ghế. Trông chúng như một chiếc tàu đẩy thúc mũi vào chiếc tàu chở dầu kềnh càng trong một bến cảng chật hẹp. Ben lại ngồi xuống trước bếp lò đỏ rực. Hắn nín. Rồi chúng lại nghe tiếng đồng hồ, và Dilsey chậm chạp xuống thang. Khi bà bước vào hắn lại bắt đầu khóc thút thít. Rồi hắn khóc lớn hơn.
    "Mày lại làm gì cậu ấy thế?" Dilsey nói. "Sao cả buổi sáng nay mày không để cậu ấy yên được hả?"
    "Con có làm gì cậu ấy đâu" Luster nói. "Cậu Jason làm cậu ấy sợ, có thế thôi. Cậu Jason không giết chết cô Quentin chứ?"
    "Nín đi Benjy" Dilsey nói. Hắn nín. Bà đi đến cửa sổ và nhìn ra. "Mưa tạnh rồi à?" bà nói.
    "Vâng" Luster nói. "Tạnh lâu rồi".
    "Vậy chúng mày ra ngoài chơi một lúc đi" bà nói. "Tao phải dỗ cô Cahline khỏi khóc".
    "Mình có đi nhà thờ không?" Luster nói.
    "Khi nào đến giờ thì tao bảo. Mày giữ cậu ấy chơi ngoài kia đến khi tao gọi".
    "Con ra đồng cỏ được không?" Luster nói.
    "Được. Miễn là mày giữ cậu ấy chơi ngoài đó. Tao hết chịu nổi rồi ".
    "Vâng ạ" Luster nói. "Cậu Jason đi đâu thế hả mammy?"
    "Chuyện của mày đấy à?" Dilsey nói. Bà bắt đầu dọn bàn. "Nín đi Benjy, Luster dẫn đi chơi bây giờ đấy".
    "Cậu ấy làm gì cô Quentin hả mammy?" Luster nói.
    "Chẳng làm gì cả. Chúng mày có đi khỏi đây ngay không?"
    "Con cuộc là cô ấy không có nhà" Luster nói.
    Dilsey nhìn nó. "Sao mày biết cô ấy không ở nhà?"
    "Con và Benjy nhìn thấy cô ấy leo ra cửa sổ đêm hôm qua. Đúng không Benjy?"
    "Mày thấy à?" Dilsey nói, nhìn nó.
    "Đêm nào con cũng thấy cô ấy làm thế" Luster nói "Trèo xuống chỗ cây lê ấy".
    "Thằng nhãi con, mày nói láo với tao hả?" Dilsey nói.
    "Con không nói láo. Hỏi Benjy thì biết".
    "Thế sao mày không kể ra?"
    "Đâu phải chuyện của con" Luster nói. "Con không muốn dính vào chuyện của dân trắng. Lại đây Benjy, mình đi chơi thôi".
    Chúng ra ngoài. Dilsey đứng cạnh bàn một lúc, rồi bà đi ra dọn dẹp đồ ăn còn trên bàn, và ăn sáng và dọn bếp. Đọan bà cởi tạp dề treo lên và đi đến chân cầu thang lắng nghe một lúc. Không một tiếng động. Bà mặc áo khoác, đội mũ và đi về lều.
    Mưa đã tạnh. Gió thổi từ phía đông nam, xé toạc ra từng mảnh trời xanh trên đầu bà. Trên một đỉnh đồi đàng sau những rặng cây, mái nhà và tháp chuông của thị trấn, ánh nắng trải dài như một tấm vải nhợt nhạt, rồi bị xoá đi. Một tiếng chuông rung động trên không, rồi như theo một hiệu lệnh, các tiếng chuông khác hoà âm và lặp lại.
    Cửa lều mở và Dilsey chui ra, lại mặc chiếc áo lụa tím và quàng khăn màu hạt dẻ, mang đôi găng trắng bẩn dài đến khuỷu tay, và lần này bà bỏ khăn trùm đầu. Bà đi ra sân và gọi Luster. Bà đợi một lúc, rồi đi lên nhà, vòng sang phía cửa hầm rượu, nép sát tường và nhìn vào cửa hầm. Ben ngồi ở bậc thềm. Trước mặt hắn Luster ngồi xổm trên nền đất ẩm. Nó giữ một cái cưa bằng tay trái, lưỡi cưa oằn cong do nó ấn mạnh tay và nó đang đập lưỡi cưa bằng cái vồ gỗ cũ mà bà đã dùng để dập bánh quy hơn ba mươi năm nay. Lưỡi cưa phát ra một tiếng tăng tăng uể oải đơn điệu, rồi tắt ngấm khô khan, chỉ còn lại một đường cong mỏng mảnh giữa tay Luster và mặt đất. Lưỡi cưa vẫn uốn cong bí hiểm.
    "Anh ta làm như thế đấy" Luster nói. "Có điều tôi chưa tìm được đúng cái để đánh vào lưỡi cưa".
    "Thì ra mày chơi trò này?" Dilsey nói. "Đưa cái vồ cho tao" bà nói.
    "Con có làm hỏng nó đâu?" Luster nói.
    "Đưa đây" Dilsey nói. "Lấy cưa ở đâu thì cất vào đấy như cũ".
    Nó cất cái cưa đi và đưa cái vồ cho bà. Rồi Ben lại rền rĩ, dằng dặc và vô vọng. Chẳng là cái gì cả. Chỉ là một tiếng kêu. Có lẽ tất cả thời gian bất công và đau khổ cùng một lúc cất thành tiếng bởi sự giao hội của các vì tinh tú.
    "Nghe cậu ấy kìa" Luster nói. "Cậu ấy cứ thế từ lúc mammy bảo ra ngoài chơi đến giờ. Chả hiểu sáng nay có cái gì nhập vào cậu ấy".
    "Dẫn cậu ấy lại đây" Dilsey nói.
    "Lại đây, Benjy" Luster nói. Nó bước xuống mấy bậc thềm và nắm tay Ben. Ben ngoan ngoãn đi theo và rền rĩ, cái tiếng kêu chậm rãi khàn khàn như tiếng tàu thuỷ, dường như nó cất lên trước khi tiếng kêu bắt đầu, và tắt lặng trước khi tiếng kêu chấm dứt.
    "Đi lấy mũ cho cậu ấy" Dilsey nói. "Đừng làm ồn kẻo cô Cahline nghe thấy. Nhanh chân lên. Mình đi muộn rồi đấy".
    "Bà ấy sẽ nghe thấy bây giờ, nếu mammy không dỗ cậu ấy nín ngay đi".
    "Mình cứ đi là cậu ấy nín" Dilsey nói "Cậu ấy đánh hơi thấy rồi. Đúng như thế".
    "Đánh hơi thấy cái gì hả mammy?" Luster nói.
    "Mày đi lấy mũ đi", Luster đi. Họ đứng ở cửa hầm rượu. Ben đứng dưới bà một bậc thềm. Trời vỡ ra thành từng mảng mây trôi dạt kéo nhanh những bóng râm ra khỏi khu vườn tiều tuỵ, qua hàng rào đổ nát và qua sân. Dilsey xoa đầu Ben, đều đều chậm chậm vuốt mớ tóc trước trán hắn. Ben khóc lặng lẽ và chậm rãi. "Nín đi" Disley nói. "Nào nín ngay. Mình đi bây giờ đây. Nin ngay!" Hắn vẫn rền rĩ từng đợt âm thầm.
    Luster quay lại, đội một chiếc mũ rơm cứng mới tinh có dải băng màu và cầm trong tay một chiếc mũ vải. Chiếc mũ rơm dường như tách biệt với cái đầu của Luster, nó nổi bật lên như một ngọn đèn sân khấu trong mắt khán giả, dưới mỗi bình diện và góc cạnh riêng biệt của nó. Hình dáng cái mũ độc đáo một cách kỳ dị đến mức mới thoạt nhìn người ta tưởng chiếc mũ ở trên đầu một ai đó đứng sau Luster. Dilsey nhìn chiếc mũ.
    "Sao mày không đội cái mũ cũ?" bà nói.
    "Con không tìm thấy"Luster nói.
    "Tao biết ngay là mày không tìm thấy. Tao cuộc là đêm hôm qua mày đã giấu đi để không tìm được. Mày cố tình làm hỏng nó mà".
    "Kìa mammy" Luster nói. "Trời có mưa nữa đâu".
    "Làm sao mày biết? mày đi về lấy cái mũ cũ và cất cái mới này đi".
    "Kìa, mammy"
    "Thế thì đi lấy dù".
    "Kìa mamy".
    "Mày chọn đi" Dilsey nói. "Đội mũ cũ không thì mang dù. Thế nào cũng được."
    Luster đi về lều. Ben lặng lẽ rền rĩ.

Trang 3 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Nộ Kiếm Cuồng Sa - 20 Tập [DVDRIP USLT]
    By duckhai in forum Phim HK-TVB
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-21-2012, 04:34 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-01-2012, 12:54 PM
  3. Âm thanh kỳ lạ ở nơi linh thiêng nhất nước Anh
    By giahamdzui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-21-2012, 03:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •