Khu giải trí Kemah bên bờ vịnh với hàng chục nhà hàng sang trọng, đã lên đèn sáng chưng. Chiếc đèn hải đăng bên phải hồ, gần mấy biệt thự lợp ngói đỏ, thỉnh thoảng lại quét một vạch sáng trên nền trời như muốn nhắc nhở ai đó, trên mấy chiếc du thuyền, hãy mau mau cập bến. Ngoài xa tít kia là vịnh Gaveston, một vài tầu chở dầu đang nối đuôi nhau đi vào Ship Chanel của hải cảng Houston. Những chiếc tàu dài gấp hai ba lần sân đá banh, và cao hơn một cao ốc 20 tầng, nổi lềnh bềnh trên mặt nước, Từ xa trông chẳng khác gì mấy chiếc thuyền ba lá bên quê nhà. Vài đàn ngỗng trời bay về phương nam trốn lạnh, từng hàng cánh trắng lấp lánh, phản chiếu chút ánh nắng yếu ớt còn sót lại. Trời vào thu đã lâu, gần tới ngày lễ Thanksgiving rồi. Tôi cảm thấy se lạnh và cô đơn giữa đám đông người.
Có ai đó đập khẽ trên vai tôi:
-Anh Lập ơi, có ai hỏi thăm anh nè, gớm tìm anh mãi mới ra, sao lại đứng đây một mình vậy. Chắc đang mơ mộng người đẹp nào phải không?
Tôi quay lại, đó là Đạt, người bạn học cùng lớp khi còn ở Đại Học, chúng tôi đã từng gặp nhau trong những lần họp mặt trước đây nên nhận ra anh ngay. Tôi giật mình, nhìn người đàn bà trung niên, đứng bên cạnh:
-Có phải Quỳnh-Hoa đây không? Ôi! Thật là bất ngờ. Anh tìm em khắp chân trời góc biển không ra. Ngọn gió nào thổi em tới đây?
-Ngọn gió Bấc đấy, bởi em ở gần Bắc Cực, anh có biết không?
Nàng chỉ nói được có bấy nhiêu rồi nước mắt vòng quanh. Tôi cũng không cầm được nước mắt. Đạt đã kiếm cớ lỉnh đi. Quỳnh-Hoa nói trong tiếng nghẹn ngào:
-Em đã chịu bao nhiêu đăng cay cực khổ để chờ đợi anh trên xó rừng cao nguyên đó, nhưng anh chẳng bao giờ trở lại. Em đã tưởng anh chết mất xác đâu đó rồi. Không ngờ Trời Phật run rủi lại gặp anh ở đây.
Tôi cứ để nàng khóc và kể lể như vậy một lúc lâu cho vơi đi bao nhiêu uất ức, sầu hận. Một vài người tò mò đi ngang nhìn chúng tôi rồi bỏ đi. Cũng may, phòng hội rộng thênh thang, chỗ tôi đứng ở cuối phòng xa hẳn đám đông nên ít người để ý. Hôm nay chắc cũng nhiều người, gặp nhau lần đầu, phải đổ nhiều nước mắt.
-Anh xin lỗi em, lúc mất Quảng Trị, đơn vị anh từ vùng giới tuyến rút về Saigon, anh đã tìm em ở tất cả những nơi có người tị nạn từ miền trung hay cao nguyên chạy về, có lần ra tận Tuy Hòa nữa nhưng chẳng biết nhà mẹ em ở đâu. Anh chỉ sợ em lạc loài đâu đó trong đám người rút theo tỉnh lộ số bảy từ cao nguyên về Tuy Hòa.
Nàng hờn dỗi;
-Anh chỉ mong em chết đi phải không?
Tôi biết nàng bao giờ cũng yêu tôi hết lòng và hiểu rõ lòng tôi cũng vậy, đó chỉ là lời trách móc nhẹ nhàng mà thôi.
Nhạc trổi lên, ban tổ chức yêu cầu mọi người vào chỗ ngồi để buổi tiệc được bắt đầu đúng giờ. Nàng chẳng quen ai ngoại trừ vợ chồng Đạt nên tôi quyết định nhập chung với đám Đạt cho vui, toàn là bạn cùng khóa thời sinh viên. Ban tổ chức không xếp chỗ, ai ngồi đâu cũng được miễn là đủ 10 người một bàn. Tôi giới thiệu nàng với mọi người cùng bàn:
-Thưa các anh các chị, đây là Quỳnh-Hoa, người bạn rất thân, quen nhau từ thời tôi còn trong quân đội, chúng tôi đã suýt lấy nhau, nếu không có vụ tan hàng hồi 30 Tháng Tư.
Có nhiều tiếng lao sao chọc ghẹo nàng:
-Tên đẹp như người, anh Lập thật là có mắt.
- May quá không có vụ “30 Tháng Tư”, anh Lập không bị đi tù cải tạo cũng bị tù chung thân.
- Ê, có bao nhiêu người biết bị tù chung thân mà vẫn chui vào đó thôi.
- Chắc chúng mình sắp được uống rượu nữa rồi.
Nàng cười bẽn lẽn, hai má đỏ hồng, lúm đồng tiền vẫn còn đó, bây giờ đã là thiếu phụ trung niên, vẻ ngây thơ hồn nhiên không còn nữa, có mập ra một chút, hai bên khóe mắt đã xuất hiện “dấu chân chim” nhưng thân hình vẫn cân đối trong chiếc áo dài màu tím. Nước da trắng bóc, có lẽ ít khi ra nắng.
Chương trình văn nghệ bắt đầu với giọng ca quyến rũ của Nguyên Khang, bài “Tinh Tự Mùa Xuân” của nhạc sĩ họ Từ:
“Em, lại đây với anh, ngồi đây với anh, trong cuộc đời này”
“Nghe, thời gian lướt qua, mùa xuân khẽ sang”
“Chừng như không gian đang sưởi ấm những giọt tình nồng”
….
Tiếng hát vẫn vang vang, nhưng tôi không còn nghe được lời nào, lỗ tai lùng bùng, đoạn phim dĩ vãng lai trở về trong đầu tôi.
Ngày ấy, xa lắm rồi. Quỳnh Hoa tuổi đôi mươi, là cô giáo dạy ở trường tiểu học Phú Nhơn, quận Cheo Reo. Tôi mới đến vùng này, là một Thiếu Úy trẻ măng vừa đổi về đơn vị mới thành lập. Thời mới thân quen, có lần tôi hỏi nàng:
- Qùynh Hoa ở Phú Nhơn lâu chưa ?
- Độ gần một năm thôi, em ra trường sư phạm cấp tốc rồi xin đổi về đây ngay.
- Sao em không xin dạy ở gần nhà có phải tiện hơn không ?
- Ngày xưa, Ba em làm Quận Trưởng Phú Nhơn. Người đã bỏ cả cuộc đời để xây dựng cái quận đèo heo hút gío này. Thời Đệ Nhất Cộng Hòa, dân chúng từ miền ven biển và từ ngòai Bắc di cư lên đây lập nghiệp, đã được Ba em tận tình giúp đỡ. Nhưng rồi trong một cuộc đi thăm đồn điền của một xã phía Tây Quận Lỵ, Ba em đã lọt vào ổ phục kích và bị sát hại. Khi ra trường, chính em đã chọn nơi này để trở lại...
Quỳnh Hoa không kể nhiều, nhưng đã đủ để tôi thấy vừa kính nể vừa thương hại người con gái mới lớn. Dần dà, chúng tôi thấy gần gũi nhau hơn. Tôi tìm thấy ở nàng một niềm vui, một ước mơ, một mái ấm gia đình cho tương lai. Vùng đất hoang vu này trở nên tươi mát đáng yêu bởi vì chỗ nào cũng thấy đoá Hoa Quỳnh nở rộn ràng.
Chúng tôi đã yêu nhau, có núi rừng và con sông nhỏ Adrang chảy qua quận lỵ làm chứng. Con sông thật hiền hoà và dễ thương như người tôi yêu. Bên bờ sông những hàng cây Phượng Vĩ nở đỏ rực mỗi mùa hè. Mùa mưa nước phù xa đỏ ửng từ trên ngàn chảy cuồn cuộn xuống ngập gần hết cây cầu sắt nhỏ bắc qua sông. Cây cầu nhỏ sơ sài có vài nhịp, bề ngang chỉ đủ cho một chiếc xe đò qua lại. Mùa nắng, nước cạn trơ những bãi cát trắng tinh. Người ta đào cát thành những vũng nước trong, gánh về để uống. Giữa lòng sông nước trong vắt nhìn thấy cát và sỏi tận dưới đáy, nước chảy lững lờ.
Chúng tôi đã ngồi bên nhau trên cây cầu sắt cũ kỹ bắc qua dòng sông, bốn chân để thõng xuống dưới đong đưa. Dòng sông nước chảy lững lờ trong vắt nhìn tận tới đáy. Mùa nước cạn, hai đứa rủ nhau lội qua sông, sang phía hàng phượng vĩ mọc bên kia bờ. Nàng nhặt đầy giỏ sách những cánh phượng màu đỏ tươi để trang trí lớp học cho đám học trò nhỏ của nàng. Những đứa bé tiểu học mặt mũi nhếch nhác nhưng nàng luôn săn sóc như những đứa em út. Chúng tôi đã hôn nhau lần đầu ở đó, thề nguyền mãi mãi bên nhau ở đó. Một lần bên nhau, tôi đã ghi vào vai cầu hai câu thơ con cóc: “Chiều về thấp thóang bên sông, Thấy Qùynh thơm ngát thấy lòng xôn xao...”
Nhưng rồi, cuộc triệt thoái cao nguyên quá đột ngột, rồi nước mất nhà tan! Trôi dạt qua tới Mỹ, tôi chẳng hy vọng có ngày gặp lại nàng.
Tiếng vỗ tay vang rần lẫn trong tiếng huýt sáo inh ỏi kéo tôi về thực tại. Nhìn sang Quỳnh-Hoa, mắt nàng cũng đỏ hoe. Nàng lí nhí mấy câu xin lỗi rồi rời khỏi bàn đi về phía cửa. Tôi vôi vàng đuổi theo nàng. Chúng tôi ra phía sân sau khách sạn, vượt qua mấy bậc thềm và hướng về phía cầu đá bên hồ. Cầu đá thực sự là những tảng đá lớn xếp bên nhau thành một con đường ngắn, nhô ra khỏi hồ để người ta câu cá.
Chúng tôi ngồi trên một tảng đá bằng phẳng bên nhau như ngày nào ngồi trên chiếc cầu “Biên Giới” trong xó rừng cao nguyên. Cứ ngồi như thế một lúc lâu, im lặng, nhìn mông ra ngoài hồ, xa tận những ánh đèn bên khu giải trí Kemah, tận ngoài vịnh Gaveston, xa mãi ngoài biển Đông, về tận Saigon và lên đến xó rừng cao nguyên.
Tôi cởi áo vest ra đưa cho nàng:
-Em mặc thêm áo vào kẻo lạnh.
-Em không lạnh, ở xứ lạnh quen rồi anh ạ.
Nàng từ chối, nhưng vẫn đưa tay cho tôi khoác áo vào.
-Em sang đây lâu chưa?
-Mới hôm qua, cùng với anh chị Đạt, chúng em đặt phòng ngay trong khách sạn này.
-Em định cư ở đâu?
-Na Uy anh ạ. Xứ ấy lạnh lẽo quanh năm, nhưng tình người rất ấm. Họ giúp đỡ người tị nạn tận tình. Lúc mới qua, được cấp cho nhà ở, bảo hiểm sức khỏe đầy đủ, tiền ăn học và tìm việc cho mình. Dân số rất ít nhưng đời sông đầy đủ tiện nghi chẳng khác gì Mỹ, nhưng lạnh quanh năm. Qua Houston thấy trời ấm áp em thích lắm.
-Làm sao em trôi dạt qua tận Na Uy lận?
-Lúc quân đội rút khỏi cao nguyên, em ở mãi xó rừng chẳng có phương tiện gì di chuyển cả, một lũ học trò bám theo em, không thể nào dẫn các em theo được, nếu đi bằng đường bộ.
-Nên em quyết định ở lại?
-Dạ, sau này em mới biết, đó là cái may của em. Bao nhiêu người đã chết trên đường số 7 từ Phú Bổn về Tuy Hòa, con đường đó nguy hiểm quá.
-Đúng vậy, lúc còn ở trên cao nguyên, có lần anh đóng quân ở quận Phú Túc, đó là một quận nhỏ nằm giữa đường số 7. Con đường thì nhỏ, nhiều ổ gà, cầu cống hư hỏng nhiều, hai bên là rừng, rất dễ bị phục kích.
- Những ngày tháng ấy, em đợi anh đến tuyệt vọng. Em nhớ lới anh thề nguyện hai đứa sẽ thành hôn. Nào ngờ...
-Anh cũng muốn trở lại lắm chứ, nhưng anh chẳng làm chủ được định mệnh của mình. Anh như cánh lục bình trên dòng sông, nước đưa đến đâu thì trôi đến đó. Em có nhớ dòng sông của hai đứa?
- Chiều nào em cũng ra ngồi trên “Cây Cầu Biên Giới” của chúng mình, nhìn qua bên kia bờ sông, sờ tay trên hai câu thơ anh khắc trên đó...
- Khoan kể, khoan nhắc. Để anh đọc thêm hai câu tiếp theo: “Chiều về chiều vẫn một mình, Trách người năm cũ bỏ tình bơ vơ...”
Quỳnh Hoa kêu:
- Anh... Anh có về tìm em thật à.
- Sao không thật! Ngay khi có thể bay về Việt Nam, anh đã đến Phú Nhơn tìm em...
Tôi kể cho Quỳnh Hoa nghe chuyến trở về của mình. Quang cảnh vẫn không thay đổi mấy, ngôi trường tiểu học vẫn như xưa. thời gian như ngừng trôi Ớ quận lỵ nhỏ bé này. Phố chợ đìu hiu vẫn còn kia, hàng rào kẽm gai chung quanh doanh trại nơi tôi đóng quân vẫn còn đó, nhưng chẳng ai biết đến một người con gái đẹp như hoa Qùynh đã từng in dấu chân nơi chốn này. Hình ảnh ngày xưa vẫn còn đủ chỉ thiếu một người. Quỳnh Hoa ngậm ngùi:
-Tiếc nhỉ, lúc đó em đã bỏ đi lâu rồi, mấy thằng cán bộ cứ theo chọc em, rồi hăm dọa em, em nói em đã có chồng rồi, giống như chi Lan, chị Mai, chị Tú đều bị gọi là vợ ngụy quân cả. em cũng nhập chung với các chị ấy. Có vài chị độc thân không chịu nổi áp lực, đành phải lấy cán bộ. Còn em, có lúc muốn đâm đầu xuống sông chết cho rồi. Nhưng lại nghĩ tới anh nên ráng chịu đựng. Trong lòng em lúc nào cũng chỉ nghĩ đến chuyện vươt biên thôi. Ngày nọ em xin nghỉ phép để về thăm nhà, rồi cùng Mẹ và hai đứa em trốn ra Vũng Tàu, ở tá túc nhà ông chú. Gia đình chú tổ chức vượt biên, em gom được ba cây rưỡi vàng giao cho chú. Số vàng này em để giành từ trước năm 75 định sẽ chi tiêu vào dip đám cưới của chúng ta.
-Tội nghiệp em, rồi sao nữa.
-Thuyền ra khỏi hải phận vài giờ thì hư máy, bao nhiêu tàu buôn đi ngang qua nhưng chẳng ai ngó ngàng tới. Cho đến một ngày, một chiếc thuyền buôn của Na Uy chịu cứu vớt và chở thẳng vào Mã Lai, sau đó Na Uy đã bảo lãnh tất cả số người trên tàu. Lúc đó em thật bơ vơ, một mình phải lo cho mẹ và hai đứa em nhỏ, chẳng biết trông cậy vào ai. Em lại nghĩ đến anh, vừa buồn vừa tủi thân. Chính phủ Na Uy giúp cho chỗ ăn ở và giúp cho mấy chị em đi học, Mẹ thì được một việc làm trong siêu thị. Đời sống chật vật lúc khởi đầu nhưng cũng tạm ổn định.
-Em học về ngành gì vậy?
-Em học kế toán, lúc đầu cũng thật khó khăn, nhưng nhờ các giáo sư thông cảm và tận tình chỉ dạy rồi em cũng tốt nghiệp, hai đứa em của em cũng ra trường kỹ sư một thời gian sau đó. Còn anh sao qua được Mỹ?
Sau khi kể lại chuyện ra đi ngày 30 tháng Tư của mình cho Quỳnh Hoa nghe, chúng tôi ngồi yên lặng bên nhau.
Tôi muốn nói với nàng trăm ngàn điều nhưng vẫn không mở miệng được. Thời gian đã khác, hoàn cảnh đã khác. Khuôn mặt nàng hiện lờ mờ trong bóng tối. Tôi khóc lúc nào mà không biết. Không biết tôi khóc cho số phận gian truân của chúng tôi, của cả dân tộc tôi bị đọa đầy hay cho hạnh phúc muộn màng của hai đứa chúng tôi. Hạnh phúc dù đến muộn màng nhưng vẫn là báu vật Trời ban cho.
Minh Đạo & Nguyễn Thach-Hãn