Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc nào cũng phải đánh đổi bằng ít nhiều đau khổ.
Margaret Oliphant
Results 1 to 4 of 4

Chủ Đề: Những Bí Mật Lớn Nhất Lịch Sử

  1. #1
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    1,151
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết

    01 Note Những Bí Mật Lớn Nhất Lịch Sử

    Những Bí Mật Quân Sự Lớn Nhất Lịch Sử

    Theo ANTG

    Trong thời gian diễn ra Chiến tranh thế giới thứ II, Mỹ đã từng tiến hành cuộc chạy đua sản xuất vũ khí với các cường quốc như Đức, Nga và Anh.

    1. Dự án Projectile Rockets

    Theo nguồn tin tình báo, khi Đức đã bí mật sản xuất được tên lửa V-2 nhưng Mỹ vẫn không tin và cho đây là kế hoạch quảng cáo nhằm đánh lừa thiên hạ, nhưng thực tế Đức đã đưa vào sử dụng, tấn công một số mục tiêu tại Paris, Antwerp và London. Phải nói ngay rằng, vào giai đoạn này vũ khí tên lửa của phe đồng minh phụ thuộc phần lớn vào "bệ phóng tên lửa Katsyusha Liên Xô".

    Năm 1943, Chính phủ Mỹ quyết định triển khai dự án Projectile Rockets chuyên sản xuất các loại hỏa tiễn. Để bắt tay vào thực hiện dự án, Mỹ đã tuyển dụng một số kỹ sư Đức làm việc cho một chương trình bí mật có tên là Operation Paperclip, yêu cầu các nhà khoa học Đức cung cấp bí quyết đã từng được Đức sử dụng để sản xuất các loại hỏa tiễn V-2 trước đây.

    2. Chiến dịch Sao Diêm Vương

    Chiến dịch Sao Diêm Vương (Operation Pluto) tiến hành đúng vào thời điểm Nhật Bản đầu hàng Đồng minh. Dự án đã được đề cập trong tài liệu mật 8 trang tựa đề "Now It Be Told " (tạm dịch: Chuyện bây giờ mới kể), trong đó tiết lộ các thiết bị bí mật đã được phát triển bởi các kỹ sư người Mỹ và Anh.

    Một trong những thành tích đạt được trong Chiến dịch Sao Diêm Vương là xây dựng 20 đường ống dẫn ngầm dọc theo kênh đào English Channel để bơm trên 1 triệu gallon nhiên liệu cho quân Đồng minh tại Pháp. Hệ thống đường ống này được làm bằng hai loại ống, một từ thép Hamel dễ uốn và loại kia bằng vật liệu "Conun". Dự án này đã được xây dựng thành công và vận chuyển được một khối lượng nhiên liệu khổng lồ mà chính Đức Quốc xã không hề hay biết...

    3. Trận địa lửa

    Trận địa lửa hay Địa ngục lửa là tên gọi của dự án bí mật mà Mỹ đã thực hiện trên bờ biển Anh nhằm thiêu cháy quân Đức hồi tháng 8/1945 bằng các loại vũ khí hạng nặng ở Dunkirk, kèm theo hệ thống phun lửa, máy bơm dầu từ trên vách đá để tạo ra những dòng sông lửa.

    Ngọn lửa phun dài tới trên 100 yard , thiêu rụi các binh lính Đức ngay sau khi nhảy dù và lọt vào "vành đại dương lửa", trong đó có cả hệ thống ống ngầm đặt dưới biển đột ngột dựng lên phun các tác nhân trợ cháy calcium phosphide.

    4. Bom khí LSD

    Một trong những dự án bí mật được bưng bít trong nhiều thập kỷ là dự án sản xuất bom khí LSD (Lysergic Acid Diethylamide) - loại ma túy gây ảo giác cực kỳ mạnh) được Mỹ thai nghén từ đầu thập niên 60 của thế kỷ trước.

    Dư luận Mỹ gọi đây là "vũ khí gây điên dại", bởi nó dùng loại hóa chất độc hại gây bệnh thần kinh cho con người, không phải giết người ngay mà nó để lại hậu quả lâu dài.

    Theo Chemical Corps, nơi sản xuất sản phẩm này thì LSD có thể làm nhiễm độc nguồn nước của đối phương. Còn theo tướng William M. Creasy, cựu Chánh Văn phòng hóa chất thuộc Quân đội Mỹ đã phát biểu công khai trước Hạ viện Mỹ rằng đây là vũ khí lợi hại cho đối phương. Mặc dù LSD là loại thuốc gây ảnh hưởng rất lớn đến thần kinh nhưng Mỹ lại coi là vô hại và không xếp vào danh mục vũ khí chiến tranh.

    5. Bom tia neutron-ray

    Nguyên thủy bom tia neutron-ray hay "bom n" được thai nghén bởi một người Mỹ có tên là Samuel Cohen, công tác ở Phòng Nghiên cứu thí nghiệm quốc gia Lawrence Livermore National Laboratory hồi năm 1958 nhằm phục vụ cho cuộc Chiến tranh lạnh. Đây là loại bom có sức công phá cực lớn, có khả năng tiêu diệt bộ phận lớn dân cư mà không làm hư hại một tòa nhà hoặc gây bụi phóng xạ.

    Dự án được khởi động tại cơ sở Nevada vào năm 1963 và đến năm 1978 đã được Tổng thống Jimmy Carter cho ngưng lại nhưng đến năm 1981 lại được Tổng thống Ronald Reagan cho tái khởi động và đến nay không ai biết Mỹ có bao nhiêu loại bom này.

    6. Dự án Máy bay siêu thanh "đen"

    Bắt đầu từ năm 1990, Chính phủ Mỹ đã bật đèn xanh cho phía quân đội thực hiện một dự án đầy tham vọng, sản xuất loại máy bay siêu thanh màu đen có tên là Aurora. Các nhà phân tích thừa nhận Aurora là một máy bay gián điệp có thiết kế cực kỳ hiện đại thay thế cho Lockheed SR-71 Blackbird, có tốc độ Mach 3+ và đã từng được sử dụng trong Chiến dịch Bão táp sa mạc tại Iraq.

    Sự thật về loại máy bay này vẫn đang "nửa kín nửa hở", có người nói họ đã nhìn thấy nhưng ông Rich, Ben, cựu lãnh đạo Lockheed Advanced Development Company lại từ chối công nhận Aurora là máy bay siêu thanh. Thực hư dự án này ra sao chưa ai rõ, nhưng có một sự thực là nó đã ngốn hết trên 9 tỉ USD ngân sách kể từ khi được khởi động hồi tháng 3/1993.

    7. Chương trình HAARP

    Chương trình HAARP (High Frequency Active Auroral Research Program- Chương trình nghiên cứu cực quang kích hoạt tần số cao) được tài trợ bởi không quân, hải quân , DARPA và Đại học Alaska của Mỹ. Tháng 9/1995, chương trình này bắt đầu được khởi động và được xem là dự án quân sự kỳ lạ.

    Theo đó, người ta xây dựng các nhà máy vũ khí ngầm sâu trong lòng đất có thể làm thay đổi thời tiết địa phương, và khả năng sao chép các quá trình điện ly dùng cho truyền thông và quân sự. Mục đích ứng dụng rất rộng như sưởi ấm tầng điện ly, tạo ra các "thấu kính" để phản chiếu tần số vô tuyến nhằm phát hiện tên lửa và máy bay tàng hình của đối phương .

    Đối với nhiều người, HAARP tưởng như vô hại nhưng tác động của nó thì không thể tính hết nên đã bị phản đối, thậm chí có thể tạo ra những rủi ro cực kỳ nguy hiểm như dẫn đến mất điện, gây tai nạn hàng không và cả những hiểm họa về môi trường và thiên tai khác mà người ta chưa lường hết.

    vietwn.com

  2. #2
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    1,151
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết
    KHÁI QUÁT VỀ NỀN VĂN MINH HITTITE


    Khoảng 2.000 năm trước Công nguyên, những giáo sĩ gốc Ấn – Âu đã đến sinh cơ lập nghiệp tại Anatolie. Họ mau chóng thiết lập mộtđế quốc hùng mạnh tại vùng tiểu Á. Bằng việc thuần dưỡng ngựa, phát minh ra bánh xe và chiến xa, sản xuất được cả sắt thép… Họ đã tạo được một nền văn minh rực rỡ, cho tới khi bị tiêu diệt và bị chìm vào quên lãng…

    Anatolie là một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi, có nhiều mỏ sắt và đồng, ngũ cốc mọc tự nhiên. Các giáo sĩ Ấn – Âu cùng với đoàn du mụccó thể đã từ Đông Âu vượt Bosphore hoặc qua miền Bắc Caucase trước khi dừng lại ở trung tâm Anatolie thuộc xứ sở Hatti. Từ địa danh ấy, người ta quen gọi những người dân vùng này là Hittite.

    Sau khi hùng mạnh, năm 1595 trước Công nguyên, người Hittite đã chinh phục được Syrie, Chypre và Babylone. Sức mạnh và tinh thần quật cường cho phép họ bành trướng ra tới biển.

    Cách cố đô Ankara của Thổ Nhĩ Kì 140km về phía đông, kế cận ngôi làng Bogazkoy hiện nay, là thủ đô hattousa của đế quốc Hittite (thế kỉ XIII – XIV trước Công nguyên) dưới triều đại Souppilouliouma. Ko những người ta tìm thấy trong phế tích của nó những tài liệu lưu trữ của các vua Hittite viết bằng tiếng Ấn – Âu và sao chép lại chữ hình góc, mà còn tìm thấy dấu vết 5 ngôi đền và một tòa lâu đài nằm chót vót trên cao, với một vòng thành bao quanh 6km. Những cái cửa (nhất là cửa sư tử) được trang hoàng bằng hình điêu khắc rất đẹp. Trong tài liệu lưu trữ bấy giờ đã có những văn bản luật lệ với đầy đủ chi tiết và một sách chuyên luận nghiên cứu ngựa viết bằng chữ hình góc – chữ viết của dân Sumérien mà người Hittite đã ứng dụng. Ngay từ thế kỉ XV trước Công nguyên, người Hittite cũng đã có chữ tượng hình riêng, được sử dụng trong kinh sách và ấn của nhà vua. Đến nay, người ta vẫn chưa thể đưa ra ánh sáng tất cả những bí mật của dân tộc này.

    Nhưng kì lạ nhất là một điện thờ nằm trong hốc đá ở Yazilikaya, với 2 phòng lộ thiên, cách Hattusa 1500km. Trên một vách đá vôi, còn lại vết tích điêu khắc đám rước 12 vị thần tế lễ vào dịp xuân sang. Vua Souppilouliouma I, vào thế kỉ XIV trước Công nguyên, đã biến một trong hai căn phòng ấy thành một ngôi đền thờ vua cha Toudhaliya III. Tại Alaca – Hoyuk ở phía Bắc làng Bogazkoy hiện nay, người ta đã phát hiện hai thành phố chồng chất lên nhau: một của người Hatti, cổ nhất , và một của người Hittite, những kẻ xâm lăng họ. Hai dân tộc ấy, có lúc đã là láng giềng của nhau, có ngôn ngữ riêng, sống hòa đồng cho tới khi Hatti hoàn toàn bị Hittite chinh phục.

    Như vậy, người ta đã khám phá được nhiều ngôi mộ của các vương thân Hatti trong các niên đại từ 2300 đến 2000 năm trước Công nguyên. Các vương thân đã được mai táng với những vật dụng quý giá nhất của họ. Người ta đã tìm thấy tại thành phố này những vật bằng vàng (mũ, miện, bình) và bằng đồng (con hươu cao 52cm, cần và mạ bạc, bò rừng, báo). Những cửa ở lối vào thành phố (1400 năm trước Công nguyên) được bảo vệ bởi những con nhân sư to lớn, chạm trắc trên những cột chống bằng đá.

    Tín ngưỡng của người Hittite chịu ảnh hưởng của các nước lân cận: Babylone, Hourrite, Syrie. Nhưng những sáng tạo nghệ thuật của họ đã có một sắc thái riêng biệt. Các vị tầhn tỏa ra sức mạnh và ánh sáng. Họ ở trong thành phố và trong các ngôi đền. Nhà vua kiêm chức giáo chủ, cùng các giáo sĩ chịu trách nhiệm tắm rửa, mặc quần áo, chăm sóc và giải trí cho các vị thần bằng âm nhạc và vũ điệu. Trước các vị thần, nhà vua đại diện cho toàn dân, và sau khi băng hà, vua được tôn vinh là thần.

    Người Hittite giữ vai trò quan trọng trong việc nhập giống ngựa đã được thuần dưỡng vào phương Đông. Đó là một cuộc cách mạng trong phương tiện vận chuyển. Trước cuộc cách mạng này, phương tiện vận chuyển vẫn còn rất thô sơ. Chẳng hạn như một bánh xe được tìm thấy ở vùng Mésopotamie (Lưỡng Hà) vào năm 3500 trước Công nguyên là một bánh xe đặc, đơn giản được gắn vào xe do bò hoặc “onagre” – một giống lừa to lớn – kéo, chỉ dùng để chở hàng hóa tới những kho của lâu đài hay đền thờ. Khi phải chuyên chở đi xa, người ta thường chất lên lưng con vật hay ngay cả trên lưng người. Sự thuần dưỡng ngựa đã làm nảy sinh một phát minh mới: chiến xa nhẹ, với bánh xe có nan hoa, như người ta đã nhìn thấy trên các bức phù điêu thời đó. Trong ngôi đền ở Abou Simbel, thuộc Thượng Ai Cập, có một bức bích họa mô tả trận đánh nhau bằng chiến xa giữa lực lượng của pharaoh Rámès II và quân đội của Mouwatalli – vua xứ Hittite. Trong cuộc chiến này, quân đội Hittite đã huy động gần 2500 chiến xa với 7500 binh lính. Mãi tới năm 1000 trước Công nguyên, ngựa mới được dùng để cưỡi; và yên ngựa chỉ xuất hiện vào thế kỉ thứ IV sau Công nguyên. Người Hittite đã vượt hẳn các quốc gia khác đương thời về mặt quân sự cùng với việc độc quyền sản xuất sắt. Thời bấy giờ, sắt được coi là một kim loại quý hiếm. Các pharaoh Ai Cập đã nhận được quá biếu là những đồ vật bằng sắt của người Hittite.

    Vào thế kỉ XII trước Công nguyên, đế quốc Hittite sụp đổ sau những trận chiến tranh liên miên với các dân tộc ở vùng biển hoặc các bộ tộc man rợ cũng có nguồn gốc Ấn – Âu. Tuy nhiên, nền văn minh Hittite vẫn được kế thừa trong những quốc gia tân – Hittite ở miền Bắc Syrie và miền Đông Anatolie cho tới thế kỉ VII trước Công nguyên. Nền văn minh Hittite rực rỡ đã bị chìm hẳn vào quên lãng, đến nỗi Hérodote, nhà sử gia Hi Lạp lỗi lạc, đã đặt chân tới Anatolie vào thế kỉ V trước Công nguyên mà cũng ko hề viết được một dòng nào về dân tộc Hittite. Phải đợi đến thế kỉ XIX và XX, nền văn minh Hittite mới được các nhà khảo cổ khai quật để mổ xẻ và soi rọi những bí mật về nó.

    Tenkens smile. DV.com

  3. #3
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    1,151
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết
    CHÂU PHI



    "Lục địa đen" là nơi luôn chứa đựng những điều huyền bí, những tập tục kì quái và man rợ, đôi khi còn quái gở trong đó nổi bật nhất là các tập tục của các bộ tộc, bộ lạc. Những điều huyền bí này vẫn được lưu giữ cho đến nay.


    Tập tục hành xác ở Nammibia

    Bộ tộc Leimba là một trong những bộ tộc kỳ bí và lâu đời nhất của Nammibia. Thổ dân xứ này được gọi là những đứa con bị đày đọa của trời do sở thích hành xác. Tập tục ấn tượng nhất ở đây là xẻo môi và cho kiến đốt. Các cô gái đến tuổi 16 bắt buộc phải được đánh dấu bằng những vết cắt xẻo ở môi. Người hành lễ là những già làng. Họ dùng một mảnh đá sắc để cắt môi dưới của những cô gái. Vết thương dài thường bị nhiễm trùng nặng, có khi còn gây tử vong. Những ai may mắn qua khỏi thì cũng không ăn uống được gì suốt cả tuần lễ. Kì quái hơn là những người đàn ông trong bộ tộc này chỉ thực sự được coi là đàn ông khi được bỏ vào tổ kiến rừng lúc 13 tuổi. Người này phải đứng trong tổ kiến hàng ngàn vạn con khoảng 5 phút mà không được nhăn nhó hay kêu la. Khi vượt qua thử thách này anh ta mới có quyền lấy vợ và đi săn. Nhưng cuộc hành xác này chỉ mang tính may rủi bởi không ít người chỉ trong vòng vài phút đã bị kiến leo lên tận mặt đốt và khoét mắt.


    Thử thách kỳ lạ khi cưới hỏi ở Sudan

    Bộ tộc Diaka ở Sudan có tập tục hết sức quái gở và... mất vệ sinh trong mùa cưới, những chàng trai phải trải qua thử thách này mới lấy được vợ. Trước khi hỏi vợ, chàng trai phải đem đến nhà vợ ba con bò, anh ta phải thọc tay vào hậu môn con vật (ngập đến tận khuỷu tay) và lôi cho kỳ được phân bò ra ngoài. Những ai sau ba lần thử thách mà không lôi ra được hiện vật thì phải chờ đến mùa cưới năm sau. Khi chàng trai thành công thì cô gái sẽ tỏ ý chấp thuận bằng cách bôi phân bò lên người và lên mặt.


    Tập tục múa sậy tìm chồng ở Kenya

    Bộ tộc Swazi ở bắc Kenya có phong tục múa sậy tìm chồng. Những cô gái trinh nữ sẽ hái thật nhiều lau sậy, nhuộm màu sắc sặc sỡ rồi cầm ở tay hoặc gắn lên người để nhảy múa. Mỗi cô gái sẽ chọn lựa một trong số những người đàn ông đang ngồi yên, khi chọn được người vừa ý họ sẽ dùng dây leo kifa (gai rất nhọn) quất lên đầu anh ta. Chàng trai sẽ về nhà vợ cùng với chiếc đầu đầy máu của mình.


    Chọn vợ theo hình dáng bộ ngực

    Những người đàn ông của bộ lạc Ndébéle chọn vợ theo hình dạng cặp vú mà không cần quan tâm tới bất kỳ điều gì. Hàng năm ở bộ tộc này có lễ hội phô bày bộ ngực để các chàng trai chọn vợ. Những cô gái quấn khố sặc sỡ hoặc mặc quần Jean đội mũ nồi, đeo nhiều đồ trang sức và để trần bộ ngực của mình. Đây quả là ngày hội cho đàn ông bản xứ và nhiều nơi khác.


    Tạp hôn ở Ghana

    Bộ tộc Shai ở Ghana có tập tục hết sức ấn tượng, tất cả những thiếu nữ khi 18 tuổi phải chung chạ với mọi người đàn ông trong bộ tộc để có kinh nghiệm phục vụ chồng về sau. Hình thức này đã tồn tại ở Ghana từ 2000 năm nay. Nếu cô gái nào tỏ ý chống cự thì ngay lập tức sẽ bị cách ly vĩnh viễn khỏi cộng đồng và gia đình phải nộp vạ rất nặng. Để nhận biết những cô gái ở tuổi dậy thì phải chú ý đến cách trang điểm, họ thường đeo rất nhiều đồ trang sức bằng đá quý.

    Cho đến tận ngày nay những tập tục kỳ quái này vẫn còn tồn tại, chứa đựng những điều huyền bí mà ngay cả những nhà nhân chủng học cũng chưa thể giải thích được.


    Theo Sắc mầu văn hóa

    Tenkens Smile

  4. #4
    Join Date
    Oct 2010
    Bài Viết
    1,151
    Thanks
    0
    Được Cám Ơn 0 Lần
    Trong 0 Bài Viết
    Các Nền Văn Minh Nổi Tiếng Thế Giới


    Vùng Tây Á là nơi xuất hiện sớm nhất nhiều quốc gia có nền văn minh nổi tiếng như Lưỡng Hà , Babylonia , Asssyria , Phoenicia , Palestine ... Văn minh Tây Á cũng là sự tổng hợp , hôi tụ của nhiều nền văn minh . Những nền văn minh ấy vừa có sắc thái riêng , vừa có sự kế thừa và phát triển đồng thời tác động lẫn nhau . Trong số đó , văn minh Lưỡng HÀ có trình độ phát triển về mặt kinh tế , chính trị và văn hóa cao hơn cả .


    Nền văn minh Babylon và mối liên hệ với Bible


    Sự thật vẫn là sự thật !

    Trong thế giới sơ khai có rất nhiều dân tộc thờ Thần Cá. Người Babylon tin Chúa Cứu Thế là Cá. Trong Kinh Thánh cổ Talmud của đạo Do Thái, danh từ Chúa Cứu Thế (Messiah) còn được gọi là DAG có nghĩa là cá . Các dân tộc Bắc Âu từ thuở xa xưa thờ thần Cá Frigga và họ kiêng thịt chỉ ăn cá vào ngày thứ sáụ Từ đó, danh từ trong Anh ngữ của dân Anglo-Saxon (gốc Bắc Âu) mới có chữ Friday là ngày Thứ Sáụ Trong Đạo Hindu của Ấn Độ thì Thượng đế Vishnu là vị thần nửa người nửa cá (half fish - half man).

    Người Hy Lạp đặt ra tên JESUS bằng cách ghép chữ đầu của tiếng ICHTBUS, nghĩa là Cá (Fish) là các chữ đầu của cụm từ EOU UIOS SOTER, nghĩa là Con của Đức Chúa Trời (Son of God) để tạo thành tên IESOUS (hàm ý JESUS là Thần Cá Cứu Thế, Con của Thượng Đế). Điều này cho thấy ngay tên của JESUS cũng là một sản phẩm thần thoạị có nguồn gốc tôn giáo của thời kỳ bán khai của nhân loạị Nguời Anh và Pháp phiên âm danh từ Hy Lạp IESOUS thành JESUS. ("Deceptions and Myths of the Bible" - Lloyd M. Graham, pg 326- 327)

    Sử gia Hoa Kỳ Lloyd M. Graham đã bỏ công nghiên cứu rất công phu những tội ác của Công Giáo La Mã. Truớc hết là tội lừa bịp và mê hoặc dân chúng bằng những huyền thoại của Babylon và Syriạ Ông tố cáo tội ăn cắp trắng trợn của tà giáo ác ôn này ngay trên trang bìa tác phẩm trứ danh của ông : Deceptions and Myths of The Bible (484 trang, A Citadel Press Book, 1991) : " Kinh Thánh chẳng phải là Lời Chúa mà là những thứ ăn cắp của ngoại giáo (các tôn giáo khác). Huyền thoại Vườn Địa Đàng với Adam Evà ăn cắp từ kho Babylon. Các huyền thoại như Trận Đại Hồng Thủy, tàu No-e, Isaac, Salomon, Samson và thậm chí ngay cả tên thánh Mai-sen cũng đều là đồ ăn cắp từ thần thoại của Syriạ" (The Bible is not the word of God but a steal from pagan sources. Its Eden, including Adam and Eve, were taken from the Babylonian account, its Flood and Deluge ...its Ark and Ararat their equivalents in a score of of Deluge myths, even the names of Noahs sonsare copies, so also were Isaacs sacrifice, Salomons judgement and Samson s pillar act. Moses is fashioned after the Syrian Mises.) Như vậy thì hư thật thế nào, xin mời các bạn theo dõi các chi tiết sau:

    Theo kết quả của những công trình khảo cổ từ đầu thế kỷ 19 đến nay, cái nôi của nền văn minh Tây Phương đã được xác nhận là vùng đồng bằng rộng lớn ở miền Cận Đông. Đất đai của vùng này rất phì nhiêu vì nó đã được tạo nên bởi đất bồi từ những con sông dài gồm có sông Nil (Ai Cập), sông Jordan (Palestine), sông Syria và nhất là hai dòng sông Euphrate và Tigris đều xuất phát từ Tiểu Á để cùng đổ vào vịnh Ba Tư. Nếu ta tô màu các miền đồng bằng phì nhiêu này trên bản đồ, ta sẽ thấy hiện lên một hình vòng cung trông giống như một cái lưỡi liềm chạy dài từ Ai Cập qua Palestine, Jerusalem, Babylon (tức Iraq và Koweit ngày nay) đến vịnh Ba tự Các nhà khảo cổ gọi vùng ngày là Vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu Cận Đông (The Fertile Cressent of the Near-East).

    Để truy tìm các di vật của nền văn minh tại vùng này, rất nhiều cuộc đào xới qui mô của các nhà khoa học ngành khảo cổ thuộc nhiều quốc tịch đã được thực hiện trong hai thế kỷ quạ Tuy nhiên, phải đợi đến cuối thế kỷ 19, do những sự tình cờ, các nhà khảo cổ đã may mắn phát giác ra những tấm đất sét phơi khô (sun-baked clay tablets) có ghi những dấu hiệu kỳ lạ.

    Cho tới nay, người ta đã thu lượm được hàng chục ngàn tấm đất sét phơi khộ Đa số các tấm đất sét này có cỡ trung bình khoảng 10cm x 20cm, một số ít có hình lăng trụ (prism) hoặc hình trục lăn (cyclinder). Sau nhiều chục năm nghiên cứu kiên nhẫn, các nhà khảo cổ trên khắp thế giới, nhất là tại các phân khoa khảo cổ thuộc các trường Đại Học Mỹ, Pháp, Anh, Thổ Nhĩ Kỳ. . . đã phát giác ra những tấm đất sét khô đó chính là những "cuốn sách" của dân tộc Sumerians, giống người đầu tiên định cư tại Babylon. Người Hy Lạp gọi Babylon là Mesopotamia, tức Lưỡng Hà Châu (Meso: In The Middle, Potamia: Rivers). Các nhà khảo cổ đã lập ra một môn học chuyên nghiên cứu về ngôn ngữ của dân tộc này gọi là Sumerologỵ Những nỗ lực của các nhà khoa học khảo cổ đã đưa đến kết quả là hầu hết những "cuốn sách" của dân tộc Sumer đã được dịch ra nhiều thứ tiếng.

    Thoạt đầu, người Sumerians phát minh ra loại chữ tượng hình (pictographic characters) nhưng chỉ trong một thời gian ngắn sau đó, loại chữ này được thay thế bằng hệ thống chữ viết ghi âm (phonetic system of writing) gồm có 18 dấu hiệu tượng trưng cho 18 âm căn bản. Các dấu hiệu này phần lớn đều có hình tam giác, góc nhọn, hình thoi nhọn đầụ.. trông giống như những cái nêm cối. Do đó các nhà khảo cổ gọi nó là Cuneiform, do căn ngữ La tinh "Cunei" có nghĩa là cái nêm (wedge).

    Tới giữa thế kỷ 20, nhiều bộ tự điển và sách dạy văn phạm về loại chữ này đã được xuất bản khiến cho công cuộc dịch thuật cả một kho tàng vĩ đại những sách cổ của dân tộc Sumer trở nên dễ dàng hơn. Nhờ đó, cánh cửa bí mật của lịch sử văn minh Tây phương đã được mở rộng. Loại chữ viết đầu tiên của dân tộc Sumer được phỏng định đã xuất hiện vào năm 3150 TCN. Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu lịch sử nhân loại. Tất cả những gì xảy ra trước năm 3150 TCN đều được coi là Thời Tiền Sử (prehistoric).

    Dò tìm các đấu tích do con người để lại trên các vách đá, trong các hang động và khảo nghiệm các vật dụng do con người chế tạo bằng đá, bằng đồng, gỗ, đất nung... Các nhà khảo cổ đã dần dần tìm hiểu được lịch sử tiến hóa của loài người trong moị sinh hoạt của đời sống cá nhân và tập thể cho tới giới hạn thời gian 25 ngàn năm
    Để có một ý niệm khái quát về thời tiền sử này, thiết tưởng cũng nên đề cập qua về những cái mốc thời gian quan trọng (viết theo tài liệu Archaeology in The Land of The Bible của Avraham Negev - Shoken Books N.Ỵ1977) :

    - Thời Đồ Đá Cổ Đại (Old Stone Age) từ 25.000 -10.000 Trước Công Nguyên (TCN)
    Con người chỉ biết săn bắt, hái lượm và sống trong hang động.

    - Thời Đồ Đá Trung Đại (Miđle Stone Age) 10.000-7500 TCN

    Con người biết trồng cấy, thuần hóa thú vật, chế tạo gạch và đồ gốm. Một số thành phố nhỏ xuất hiện với thành quách vây quanh. Đáng chú ý là thành phố Jericho được xây cất tại đồng bằng sông Jordan ở phía bắc Biển Chết (The Dead Sea) vào khoảng 8000 năm TCN. Cho tới nay, người ta tin rằng đây là thành phố đầu tiên trong lịch sử nhân loại đánh dấu sự chuyển hướng của con người từ cuộc sống lang thang du cư đến cuộc sống định cự

    - Thời Đồ Đá Cận Đại (New Stone Age) 7500-4000 TCN.

    Nhiều làng mạc và thành phố xuất hiện, ngừời ta biết trồng trọt nhiều loại hoa màu và cây ăn trái, nuôi nhiều loại gia sức. Tục lệ thờ cúng xuất hiện.

    - Thời Đồ Đồng (Chacolitic) 4000-3150 TCN.

    Đồng (copper) nguyên chất được xử dụng để chế tạo dụng cụ. Con người biết xây dựng nhà nhiều tầng và biết làm hầm (basement) để trú ngụ.

    - Thời Đồng Thau (Bronze Age) 3150-1200 TCN.

    Người ta biết pha thiếc vào đồng nguyên chất để chế tạo hợp kim cứng hơn. Đồng thời chữ viết được phát minh tại Sumer chấm dứt thời tiền sử. Chữ viết của người Do Thái (Hebrew), mãi tới hơn 1000 năm sau mới xuất hiện. Cũng trong Thời Đồng Thau, những con đường giao thông qua biển Địa Trung Hải và trên bộ đã nối liền các thành phố trong vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu với nhaụ Nền văn minh của Sumer (tức Babylon) đã lan rộng tới toàn vùng, nhất là tại Ai Cập và Do Tháị Điều đáng chú ý là cách đây 3400 năm (1400 TCN), ngôn ngữ của dân tộc Sumer đã trở thành một ngôn ngữ quốc tế cho vùng Lưỡi Liềm Phì Nhiêu nàỵ Các nhà khảo cổ đã tình cờ tìm thấy nhiều tấm đất sét ghi chữ hình nêm (cuneiform) của Babylon tại Tell Amarina trên bờ sông Nil (Ai Cập). Sau khi nghiên cứu mới biết đó là những văn kiện ngoại giao giữa vua thuộc dòng Kassite của Babylon và Pharaoh Tutankhamen của Ai Cập.

    Các tài liệu này cũng đề cập tới những tranh chấp khiếu nại về các vấn đề buôn bán, triều cống, việc hôn nhân giữa hoàng gia hai nước với nhaụ Đặc biệt là các tấm đất sét này còn in dấu ấn (seal) được khắc theo hình vẽ do những trục lăn tạo ra để thay cho chữ ký.

    Tất cả các khám phá này cho thấy Babylon là nguồn gốc văn hóa rất quan trọng đối với Do Thái. Các Kinh Thánh Cựu Ước của Do Thái hầu như đã chép lại hoặc mô phỏng từ các huyền thoại hay từ các tôn giáo của Babylon. Sở dĩ sau này ít ai biết nguồn gốc đầu tiên của Kinh Thánh là Babylon vì vào thế kỷ 4 TCN, Babylon đã bị hoàn toàn phá hủy bởi một cơn lụt lớn do sự đổi dòng đột ngột của sông Euphratẹ Babylon đã bị chôn vùi dưới lớp cát sa mạc từ 24 thế kỷ qua nên thế giới không còn ai biết tới dân tộc Sumer là tác giả của các huyền thoại đó

    Sơ lược lịch sử của dân tộc Sumer và địa danh Babylon

    Theo sự tường thuật của nhà bác học H. Mellersh, tác giả nhiều cuốn sách giá trị đặc sắc về lịch sử và khảo cổ, trong đó có Archaeological Section của bộ Great Encyclopedic Dictionary và cuốn Sumer and Babylon (NY Crowell 1965), xin tóm lược như sau:

    Babylon là một thành phố cổ mà trước đó nhiều thế kỷ nó được gọi là Sumer. Babylon nằm trên vùng châu thổ tả ngạn sông Euphrate và ở vị trí gần nhất với sông Tigris, ngang vĩ tuyến 30. Hàng chục ngàn năm về trước, giống người khôn ngoan như chúng ta hiện nay (homo sapiens) đã biết chăn nuôi và trồng trọt. Khoảng 6000 năm TCN, những người "homo sapiens" từ các vùng đồi núi tràn xuống vùng châu thổ phì nhiêu định cự Cuộc sống định cư là nguồn gốc phát sinh nền văn minh. Danh từ Civilization do căn ngữ Latin "Civis" có nghĩa là dân cư (citizen). Cuộc sống định cư muốn được ổn định phải có tổ chức và sự kiểm soát nên đã nảy sinh ra chính quyền (government) và chấm dứt thời kỳ bộ lạc.

    Luật pháp và tục lệ phát triển. Hai loại người chiếm ưu thế trong xã hội này là vua quan và tu sĩ. Hàng loạt đô thị mọc lên trên miền châu thổ của hai con sông Euphrate và Tigris là Larsa, Lagash, Erech Isin, Ur và Eridụ Thành phố Ur và Eridu nằm về phía Nam của Babylon và gần giáp biên giới Kuwati ngày naỵ Ur nổi tiếng trong thế giới Kitô Giáo, thậm chí Giáo Hoàng Jean Paul II cũng dự tính đi thăm thành phố này trong năm 2000.

    Sách Sáng Thế Ký (Genesis) là cuốn sách đầu tiên của bộ Thánh Kinh Cựu Ước đã nói tới thành phố Ur như sau : "Thành phố Ur là nơi sinh trưởng của Terah. Terah dẫn con trai là Abraham và con dâu (vợ Abraham) là Sarah đi từ UR đến miền đất Canaan để lập quốc Do Thái". Sau này các nhà học giả nghiên cứu các huyền thoại của dân Sumer đã phát giác ra là Thánh Kinh Cựu Ước đã chép lại gần nguyên văn câu chuyện thần thoại ở Babylon. Chuyện kể rằng : Vị Thần Đất ở thành phố Ur là Thần Terah sinh ra nam thần Abarama và nữ thần Sarai . Sau lớn lên thần Abarama đã lấy em gái mình làm vợ... giống như Kinh Thánh Cựu Ước như đã trích ở trên.

    Vì lý do những chuyện thần thoại của Babylon đã được truyền bá từ xa xưa trong khắp vùng Cận đông và vùng Địa Trung Hải nên tiếng La tinh từ xưa đã du nhập tên vị thần Đất "TERAH" của Babylon làm nguyên ngữ của chữ "TERRA" nghĩa là Đất. Sau đó đến lượt Pháp ngữ mượn tiếng Terra của Latinh làm căn ngữ cho chữ "LA TERRE" cũng nghĩa là Đất. Chữ "Ur" theo tiếng Sumer có nghĩa là Ánh Sáng (Light) cũng tương tự như người Pháp gọi Paris là "Kinh Thành Ánh Sáng" vậỵ Khám phá này cho thấy Abraham đã từng được coi là tổ phụ của các dân tộc Do Thái và Ả Rập, đồng thời cũng là ông tổ của các đạo thờ Chúa không phải là nhân vật có thật mà chỉ là nhân vật thần thoại của Babylon.

    Người Babylon biết nung gạch và chế ra hồ để xây nhiều ngôi đền theo hình tháp có đáy hình tròn rất lớn. Họ xây những đường đi bậc thang chung quanh tháp theo hình xoắn ốc. Trên đỉnh tháp là một ngôi đền nhỏ. Loại đền thờ hình tháp này gọi là Ziggurat. Có nhiều tháp rất cao, tới cả 100 mét. Đây là nguồn cảm hứng cho người Do Thái viết chuyện tháp Babel trong Kinh Thánh Cựu Ước. Người Babylon tưởng tượng cứ xây tháp thật cao sẽ có lúc đụng tới trời. Họ tin Babylon là cái cổng của trời vì chữ Babylon được cấu tạo bởi hai chữ Bab là trời (god) và ili là cái cổng (gate). Babylon chính là Gate of God (Cổng trời).

    Vào năm 1917, nhà khảo cổ nổi tiếng người Anh là Sir Leonard Wooley tổ chức một cuộc khai quật thành phố Ur và ông rất ngạc nhiên đã khám phá ra nhiều mồ chôn tập thể. Ngôi mộ lớn nhất là mộ nữ hoàng Shubad. Trong mộ có một cái hang rộng với những bộ xương người nằm ngay ngắn thành nhiều hàng với đầy đủ dấu tích của quần áo, nữ trang, yên ngựa và vũ khí. Bên dưới cái hang này là một con đường dốc dẫn xuống một cái hang hình vuông rộng lớn hơn, tại đó có mộ của nữ hoàng. Dọc đường đi có những bộ xương của một đàn bò (oxen) và chung quanh mộ nữ hoàng là những bộ xương của các nhạc sĩ vì bên cạnh họ có những cây đàn hạc (harps). Tất cả đều nằm ngay ngắn thứ tự chứng tỏ không hề có một sự phản kháng nàọ Bên cạnh mỗi bộ xương có một cái tách chứng tỏ họ đã uống thuốc ngủ hoặc thuốc an thần để đi vào kiếp sau với nữ hoàng một cách êm áị

    Thành phố Ur được xây cất vào khoảng năm 5000 TCN ( đọc sách dẫn chiếu tới đây, nơi trang 16-18, kẻ viết bài này chợt liên tưởng đến vụ tự sát tập thể của những người thuộc giáo phái "Adventist" Cổng Trời ở San Diego cách đây mấy năm. Thật không ngờ tâm linh của những người Kitô Giáo đương thời của chúng ta chẳng khác gì tâm linh của những người sơ khai (primitive) ở Ur cách đây trên 7000 năm!) .Từ thời đó, người Babylon biết khai thác mỏ lấy đồng và thiếc). Họ biết pha 10% thiếc vào đồng nấu chảy để hòa với nhau thành hợp kim gọi là thau để đúc thành các vật dụng cứng như lưỡi cày, vũ khí, mũi tên, bánh xe

    Họ là những người đã chế ra bánh xe và từ đó tạo ra những toa xe (wagon) hoặc xe chở người do ngựa hoặc bò kéọ Vàng được dùng làm nữ trang và thiếc được dùng để làm các tượng thần.

    Mỗi thành phố là một quốc gia đô thị (giống như Quốc gia Đô thị Vatican = Stato Citta del Vaticano) và thường hay có chiến tranh với nhaụ( giống như quân của giáo hoàng kéo đến tấn công quốc gia đô thị Florence, quê hương của nhà danh họa Michel Angelo vào thế kỷ 16 tàn sát trên 3000 người dân tại đây). Với những phát minh về bánh xe và thau, họ đã làm cho ngành giao thông thương mại phát triển. Với lưỡi cày cứng, họ làm cho đồng ruộng được cày sâu nên hoa màu tươi tốt hơn. Nhưng đồng thời với những vũ khí cải tiến, chiến tranh giữa họ với nhau cũng đẩm máu và tàn phá ghê gớm hơn. Sau đây là một trích đọan rút ra từ một trang báo National Geographic Magazine phù hợp với nội dung của các phần đã trình bày :

    An awsome record of human achievement defines the history of Mesopotamia - the Land between the rivers.

    Traditional birthplace of man for Jews, Christians and Muslim. It provided seed and soil for nearly all that is good and evil in modern life, litterature, medicine and science, despotism and warfare. Unprotected by natural barrier at the mercy of unpredictable rivers, the region endured and profited from legion of invaders and migrants whose blood mingles with that today Iraq. Babylon had been the capital more than a thousand years when it was shacked by the Assyrians in 689 B.C., under Nebuchadnezza, it rose phoenix-like to become the greatest city in the world. Traditional birthplace of Abraham, the Royal City of Ur was abandoned in the fourth century B.C. after the Euphrate changed course , leaving UR enclosed by desert. Artifacts excavated at Eridu date from before 5,000 B.C. fixing it as Mesopotamia s oldest city. IRAQ S ANCIENT HERITAGẸ National Geographic Magazine May- 1991)

    Trong số các phát minh của dân tộc Sumer, sự phát minh ra chữ viết cuneiform phải được kể là quan trọng hơn cả. Nhờ đó nhà vua đã có thể ban ra các chỉ thị cho các viên chức, quân lính và thần dân. Các tu sĩ làm ra các bài kinh, các câu thơ, các huyền thoại lưu truyền khắp dân gian và lan sang các nước lân cận. Họ không thể tưởng tượng được những huyền thoại do họ sáng tác đã làm thay đổi bộ mặt thế giới một các sâu rộng cho tới ngày naỵ Thí dụ như chuyện Noah đóng tàu lớn để tránh nạn lụt (người Sumer gọi Noah là Nipishtim). Huyền thoại về Đấng Cứu Thế Tammuz (Tammuz, The Savior) người Do Thái dịch ra là Messiah từ thiên niên kỷ thứ hai TCN. Năm 332 TCN, Alexander the Great chinh phục toàn vùng Cận Đông, trong đó có Do Thái và Babylon mở đầu thời kỳ truyền bá văn hóa Hy Lạp (Hellenistic Period) kéo dài 180 năm từ 332 đến 152 TCN. Hầu hết mọi người Do Thái trí thức đều nói và viết tiếng Hy Lạp. Do đó,toàn bộ Kinh Thánh Cựu Ước đã được dịch sang tiếng Hy Lạp trong thời kỳ nàỵ Sau này, từ giữa đến cuối thế kỷ I sau Công Nguyên, các Kinh Thánh Tân Ước đều được người Do Thái viết bằng tiếng Hy Lạp, mặc dù Chúa Jesus và các tông đồ đều không biết tiếng Hy Lạp và cũng không biết tiếng Hebrew mà chỉ nói tiếng Aramic là ngôn ngữ của người Syriạ Người ta dịch chữ Messiah (Đấng Cứu Thế) ra tiếng Hy Lạp là Christos. Anh và Pháp phiên âm thành Christ. Các cha cố Tây Ban Nha sang Việt Nam truyền đạo gọi Chúa Cứu Thế là Cristọ Công Giáo Việt Nam phiên âm thành Ki-ri-xi-tộ Sau này giáo hội Công Giáo Việt Nam đã bỏ không xài danh từ Ki-ri-xi-tô nữa vì nghe nó có vẻ vừa Tây vừa dài quá nên rút gọn lại thành "Ki-tô"Thiết nghĩ chúng ta nên rút gọn hơn nữa là chỉ dùng một tiếng để gọi tên Ngài thôi, hoặc Ki hoặc Tô, ai muốn chọn chữ nào thì tùy ý.

    Xin đừng lầm "Ki Tô" phiên âm từ tiếng Tây Ban Nha CRISTO với "Gia-tô" là tiếng người Hoa phiên âm tên của JESUS. Nguời Hoa viết là "Gia Tô" nhưng phát âm thành "Giê Su" vì các vần "T" trong tiếng Việt người Hoa phát âm thành "S". Thí du: Tam Đa thành Samtor, Tam nguyên thành sám mắn, Đại tiểu thành Tài-sỉu, Tây Cống thành Sài Gòn v. v... Trên thế giới này chỉ có Đạo Kitô tức Christianity chứ không có đạo nào gọi là Đạo Giê Su hay đạo Gia Tô (never Religion of Jesus) như người Việt mình ngày xưa thường gọi saị

    Kitô là huyền thoại xuất phát từ Babylon đã có từ nhiều ngàn năm trước Công Nguyên. Còn Jesus là một thợ mộc Do Thái, thất học mù chữ, sinh khoảng năm thứ 4 TCN, cao 6 ft, nặng 12 stones rưỡi ( đơn vị đo lường thời cổ của Do Thái ) tương đương 1 mét 82 và 79 kí lộ Jesus đã được thần thánh hóa bằng huyền thoại Kitô của Babylon (Jesus was Christed to become God!) để trở thành Ngôi Lời Nhập Thể hay Nhập Tràng cho những kẻ thờ phượng.

    DV.com

Chủ Đề Tương Tự

  1. Lịch sử nhà thờ Đức Bà Sàigòn
    By Lạc Việt in forum Tài Liệu Lịch Sử
    Trả Lời: 2
    Bài Viết Cuối: 11-20-2014, 03:00 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-04-2014, 08:32 PM
  3. Những cái chết 'oái oăm' nhất trong lịch sử
    By giavui in forum Chuyện Lạ Đó Đây
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-27-2011, 06:25 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 12-14-2010, 06:54 PM
  5. Lịch Sử Bí Mật Đế Chế Hoa Kỳ
    By Mặc Vũ in forum Tài Liệu Lịch Sử
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-08-2010, 07:27 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •