Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Hạnh phúc cũng giống như một chiếc đồng hồ, loại nào đơn giản nhất là thứ ít hư hỏng nhất.
Chamfort
Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12
Results 11 to 17 of 17

Chủ Đề: Ngư ông vớt xác người vượt biển

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Ngư ông vớt xác người vượt biển

    Tác giả: Nguyễn Vĩnh Long Hồ


    ĐẦU THÁNG CHẠP NĂM 1983.


    Tại một làng chài hẻo lánh bên vàm rạch Tiêu Dừa, thuộc huyện U Minh, nằm sát vịnh Thái Lan vào mùa biển động. Trong một túp lều xiêu vẹo của chú Năm Hớn trở thành địa điểm “ém quân” của 12 người, kể cả ba má tôi và tôi là Tuấn, lúc đó vừa tròn 15 tuổi. Tất cả đều là chiến hữu với ba tôi trước năm 1975, chuẩn bị một cuộc vượt biển đi tìm tự do. Trưa hôm đó, ai nấy đều mang tâm trạng khắc khoải, lo âu vì biển cả thì quá bao la mà những con thuyền vượt biển quá nhỏ bé mong manh; thỉnh thoảng, tôi nhìn ra biển khơi với ánh mắt buâng khuâng đầy lo lắng, bồn chồn nhìn những ngọn sóng hình lưỡi búa cuồn cuộn đuổi nhau ỳ ầm vào bãi bùn. Má tôi ngồi bó gối bên cạnh chái bếp sau hè, tay lần chuỗi hột “mân côi” lâm râm cầu nguyện. Còn ba tôi trải tấm bản đồ trên cái chõng tre, rồi cùng người tài công và một vài người có kinh nghiệm đi biển bàn kế hoạch vượt biển.

    Ba tôi lạc quan, nói:

    - “Đêm nay, chúng ta rời khỏi nơi nầy. Nếu thuận buồm xuôi gió, sẽ mất khoảng hai ngày, ba đêm thì đến Mã Lai. Cam đoan ghe sẽ tấp vào đất liền khoảng giữa Kota Baharu và Kuala Dungun hoặc xuống chút nữa sẽ đụng Pedang Tioman. Sau đó, mọi người sẽ được đưa đến trại tỵ nạn “Bidong” làm thủ tục, chờ ngày đi định cư ở một nước thứ ba.”

    Bác Chín Dần lái tàu nói đùa:

    - “Đường biển đến trại tị nạn “Bi Đông”, phải qua “Bi đát” trước. Nhưng, mấy anh cứ tin vào tay nghề của tôi! Lái giang thuyền, chống đặc công thủy Việt Cộng là nghề của tui trước 1975 mà mấy cha! ”

    Còn chú Năm Hớn, em họ của ba tôi, thổ địa ở vùng biển nầy. Chú theo nghề biển từ hồi còn trẻ cho đến bây giờ đã ngoài ngũ tuần. Chú Năm ngồi bẹp trên bờ biền, theo dõi những ngọn sóng bạc đầu, lớp sau dồn lớp trước vỗ ầm ầm vào bờ biển. Xế chiều, một cái ráng màu vàng chói chang, pha một chút sắc hồng, bất ngờ xuất hiện ở hướng mặt trời lặn. Trong khoảnh khắc, một dãy mây đen xếp chồng lên nhau như vảy cá, mang hình thù quái vị, từ phía chân trời chầm chậm kéo đến. Màu đen tang tóc, thê lương lấn dần ánh nắng mặt trời. Chú Năm Hớn biến sắc, vội vã đứng dậy đi vào nhà, nhìn mọi người, giọng nghiêm trang, nói:

    - “Biển sắp động rồi đó! Chuyến ra khơi dự trù đêm nay, phải hoãn vào một ngày khác thôi!”

    Ba tôi nói:

    - “Hồi sáng, tôi đã theo dõi bản tin dự báo thời tiết của đài Hà Nội và đài Sài Gòn rồi: không có gió mùa đông bắc, cũng không dự đoán có bão trong vùng vịnh Thái Lan. Biển chỉ động một chút thôi mà, chú Năm!”

    - “Anh tin đài, chớ không tin tôi! Thôi, cũng được,” giọng chú Năm Hớn có vẻ trách móc. “Nhưng, theo kinh nghiệm nghề đi biển cho tôi biết rằng: mỗi lần con ráng màu vàng pha lẫn sắc hồng và những đám mây đen xếp chồng lên nhau hình vảy cá xuất hiện ở chân trời là đêm nay, hoặc trể lắm tối mai, sẽ có giông bão nổi lên cho mà coi!”

    Bác Chín Dần đề nghị:

    - “Anh Năm ra ngoài bãi biển với tôi. Còn anh em nên ở lại trong nhà tránh tàu tuần dương của bọn Việt Cộng quan sát từ xa!”

    Cả hai vừa rời nhà ra bãi biển. Mọi người lo lắng hỏi ba tôi:

    - “Anh Năm Hớn nói như vậy đó! Anh tính sao đây, xếp?”

    - “Mình chờ họ vô, bàn lại thật kỹ rồi biểu quyết! Đi hay hoãn lại tùy theo ý kiến của đa số!”

    Khoảng nửa giờ sau, hai người trở vô nhà. Bác Chín Dần vẫn lạc quan, nói:

    - “Theo tôi, biển chỉ động một tí thôi! Những ngọn sóng bạc đầu chiều nay cũng giống như ngày hôm qua. Biển trở dòng thôi mà! Bây giờ chưa tới 4 giờ chiều. Nếu từ đây đến chạng vạng mà triều cường tiếp tục dữ dội hơn, chúng ta sẽ bàn lại để lấy quyết định sau cùng,” bác tài công nhìn mọi người, hỏi. “Ý kiến anh em như thế nào?”
    Last edited by giavui; 04-26-2014 at 08:23 PM.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Bác Tám nói:

    - “Trong thời gian điều trị vết thương cho cháu Yên, bác được anh Út Trương cho biết: bác có tên danh sách truy nã của chánh quyền huyện Tri Tôn. Vì vậy, bác phải dẫn cháu Yên cao bay xa chạy đến hòn đảo vắng vẻ nầy để sám hối tội lỗi của mình đã gây ra.”

    Thật vậy, trong những ngày lưu lại đảo “Sám Hối”. Sau những ngày biển động, tôi thấy bác Tám thường lang thang trên bờ biển vắng một mình để đón những xác thuyền nhân xấu số, vô thừa nhận, trôi dạt theo thủy triều, tấp vào đảo nầy để được bác chôn cất họ tử tế. Có những xác gần như đã thối rửa, có những xác chết nằm co quắp trên bãi biển dưới sương khuya hoặc dưới ánh mặt trời nóng bỏng, có những xác thiếu phụ, trẻ thơ chết không một mảnh vải che thân, có những xác chết bị đập vỡ sọ đầu, mình lỗ chỗ vết đạn AK hoặc bị chém cụt tay, cụt chân. Có một lần, tôi thấy bác Tám bồng xác chết của một bé gái Việt Nam chưa quá tuổi vị thành niên bị bọn hải tặc Thái Lan hãm hiếp, rồi vất xác xuống biển mà hai hàng nước mắt của bác Tám chảy ròng ròng...

    Tờ mờ sáng hôm sau. Sau khi ăn qua loa vài chén cơm nguội với khô cá biển. Bác Tám kê vai vác cây cột buồm đã gẫy lên vai, rảo bước về phía nghĩa trang của người vượt biển. Yên và tôi lẽo đẽo theo sau, ngược xuống phía nam đảo, vượt qua mấy gềnh đá thì gặp một con suối nhỏ từ trên núi chảy ra biển. Nước suối trong vắt và lạnh buốt. Chúng tôi xăn quần, bì bõm lội suối. Vượt qua khỏi rặng cây xanh, cách bờ biển độ 200 thước thì gặp một nghĩa trang nằm bên phải. Tôi đếm tất cả 152 nấm mồ, đấp đơn sơ bằng đất cát đã được bác Tám chôn cất ngay hàng thẳng lối; dù sao, nghĩa tử là nghĩa tận. Nghĩa trang hướng về phía mặt trời lặn thật trang nghiêm. Mỗi dãy gồm 15 nấm mồ, mẹ tôi ở đầu dãy thứ 16. Còn thi hài của hai mẹ con người đàn bà xấu số mà bác Tám vớt được ngày hôm qua trên bãi biển, được chôn cất bên cạnh mẹ tôi. Tôi chạy băng vào rừng, hái được bó hoa dại đặt trước nấm mồ đất đấp chưa khô.

    Thời gian trôi qua thật nhanh. Mới đó mà đã trung tuần tháng giêng rồi. Một buổi sáng nắng ấm, Yên đang dạy tôi cách dùng chĩa săn tôm hùm trốn tại các hốc đá ở trong vịnh. Tôi vừa trồi lên khỏi mặt nước; bất ngờ, thấy một chiếc tàu lạ xuất, đang từ từ tiến vào trong vịnh. Tôi vội vàng nhoài mình xuống nước, ra dấu cho Yên trồi lên mặt nước. Vừa nhìn thấy chiếc tàu, Yên mừng lắm, nói: “Tàu bủa lưới cá mập của chú Tư Sún đó! Tụi mình có dịp ra khơi rồi, Tuấn ơi!”. Yên chụm hai bàn tay lại làm loa, gọi lớn: “Con là thằng Yên nè! Chú Tư ơi!”. Yên lội sãi ra đón tàu, còn tôi lội nhanh vô bờ đứng chờ họ.

    Đó là một chiếc tàu loại đi bủa lưới “cá mập” trọng tải trên mấy trăm tấn, chiều dài khoảng 25 thước, cabin chiếm một phần ba, trang bị bởi một máy nổ 400 sức ngựa, có thể hoạt động liên tục ngoài biển cả tháng mà không cần tiếp tế lương thực, xăng dầu. Thuyền trưởng kiêm tài công là chú Tư Sún và thủy thủ đoàn 21 người đa số là họ hàng với nhau, hợp đồng ăn chia với nhà nước cộng sản. Thủy thủ trẻ nhất trạc tuổi tôi là Nguyệt - con gái duy nhất của chú Tư - Nguyệt mồ côi mẹ nên chuyến hải hành nào Nguyệt cũng đi theo cha để học nghề săn “cọp biển”. Tôi còn nhớ, chú Tư thường hay nói đùa: “Đứa nào muốn làm rể tao, phải đủ sức câu một con cá mập nặng cở 10 tấn trở lên!” Mấy cậu thanh niên nghe đều lắc đầu, le lưỡi, hít hà...

    Thủy thủ đoàn thả neo cho tàu đậu trong vịnh tránh gió, rồi lần lượt lên bờ mang theo lương thực, chủ yếu là gạo tiếp tế cho bác Tám, đủ sống ít nhất đôi ba tháng, chờ chuyến sau. Họ dựng lều trên sân ngủ qua đêm. Trong lúc họ say giấc, tôi một mình, mang theo vài nén nhang đi lên nghĩa trang viếng mộ mẹ. Sương đêm giăng giăng khắp nơi trong nghĩa trang lạnh lẽo. Tôi đốt ba nén nhang thắp trước ngôi mộ mẹ, nhìn làn khói trắng mỏng manh, tỏa ra lẫn vào màn sương đêm mịt mù. Tôi gối đầu lên mộ mẹ ngủ thiếp đi trong tiếng sóng biển rì rào, ngọt ngào như lời ru của mẹ.

    Tiếng ai gọi tôi từ dưới bãi biển vọng lên ơi ới: “Tuấn ơi! Tuấn ơi!...” làm tôi giật mình, mở mắt ra thì trời đã sáng bửng. Tôi liền chạy bay ra bãi biển về nhà thì gặp Yên đang lội bì bõm dưới suối. Bắt gặp tôi, Yên mừng lắm,nói:

    - “Đêm qua, mầy ngủ ở đâu vậy?”

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    - “Nằm ngủ quên trên nghĩa trang!” tôi nói.

    - “Lẽn đi mà không cho ai biết làm tao và bác Tám lo quá chừng,” Yên giục. “Thôi, về nhà lẹ lên đi! Chờ mầy về là tàu nhổ neo đó!”

    Thấy tôi và Yên chạy lúp xúp từ đằng xa, bác Tám mừng rỡ vẫy tay, gọi lớn: “Lẹ lên đi tụi bây! Tàu sắp nhổ neo rồi đó!”. Tôi hỏi:

    - “Mấy người trên tàu đâu rồi, bác Tám?”

    - “Họ đi lên tàu hết rồi để chuẩn bị nhổ neo. Lần sau, có đi đâu thì phải cho bác hoặc thằng Yên biết nghe cháu,” bác đưa cho tôi và Yên, mỗi đứa một bọc áo quần. Còn bác vác trên vai một cái thùng gỗ dài khá nặng. Bác giục. “Thôi, đi lên tàu kẻo mọi người chờ đợi.”

    *

    Sau khi mọi người lên tàu, Nguyệt có nhiệm vụ điểm danh thủy thủ đoàn, rồi chạy lăng xăng đếm từng người. Có lẽ, lần đầu chạm mặt tôi, Nguyệt hỏi rất tự nhiên:

    - “Anh tên gì vậy?”

    - “Lê Trần Tuấn!” tôi trả lời.

    - “Anh là thủy thủ mang số 25 đó nghen!” nàng cười hóm hỉnh, rồi leo lên buồng lái phía trước mũi tàu.

    Vài phút sau. Con tàu nổ máy, rẽ sóng hướng ra biển khơi. Tôi chui vào trong cabin, rồi đi ra đằng sau lái tàu, nhìn về phía đảo “Sám Hối”. Trên bãi cát trắng xóa, hàng dừa cao cong vút chồm ra biển, những tàu lá xanh mướt, phe phẩy đón gió như những cánh tay vươn ra, vẫy chào tạm biệt. Rừng cây xanh trên đồi núi nhạt nhòa dần trong tầm mắt và tôi lại thẫn thờ nhớ đến mẹ, người vĩnh viễn ở lại nghĩa trang của người vượt biển như người vợ thủy chung, hướng về phía mặt trời lặn để chờ đợi cha tôi...

    Một ngày ở trên tàu, chỉ có tôi là người vô tích sự, ăn không ngồi rồi. Mấy người trong thủy thủ đoàn tất bật công việc, chủ yếu là hoàn chỉnh lại lưới bủa, khâu lại các chỗ rách hoặc hở. Lưới bủa là một sợi dây triên dài 20 ngàn thước, toàn cước “ni long” mà đường kính đến 3, 4 ly. Sợi triên nầy có nhiều “dây thẻo” dài 25 thước do 3 sợi bện lại thành 1 nên rất chắc. Dưới cùng là một chùm lưỡi câu khoảng 10 cái, đúc bằng thép có ngạnh, to bằng đầu đũa ăn, dùng để móc mồi câu cá mập. Một vài người khác chuyên lo việc mài giũa lưỡi câu cho thật sắc.

    Cuối cùng, tôi tìm ra một công việc rất thích hợp là phụ với Nguyệt và Yên lo việc nấu ăn cho thủy thủ đoàn. Thực phẩm căn bản vẫn là thịt cá mập dưới dạng thịt khô hoặc đông lạnh trong hầm chứa nước đá dưới khoang tàu. Thịt nạc có màu trắng, không có mở, chiên lên thành món steak ăn ngon như thịt bò. Sau bữa cơm trưa và chiều thì lo dọn dẹp, rửa chén bát; thỉnh thoảng, bác Tám và và chú Tư , cha của Nguyệt từ trên buồng lái xuống thăm chúng tôi. Chú Tư nhìn anh Yên chăm chú, rồi nói thì thầm với bác Tám điều gì đó rồi cả hai phá lên cười; hình như, Nguyệt biết chuyện, mặt nàng bỗng đỏ gay vì thẹn...

    Đêm đó, tàu bỏ neo tại hòn tại Hòn Khoai phía dưới mũi Cà Mau ngủ qua đêm. Sau bữa cơm chiều, chúng tôi lại làm thêm món nhậu cho mọi người uống rượu lấy gân. Đó là món da cá mập phơi khô, cạo sạch chất nhám bên ngoài, rồi ngâm nước sôi cho mềm trước khi cắt từng miếng nhỏ trộn với dưa chua và rắc đậu phộng lên, ăn ngon tuyệt. Thủy thủ đoàn tụm ba, tụm bảy trên mui, đằng mũi tàu hoặc trong cabin. Rượu vào lời ra, tiếng cười dòn như pháo nổ. Đến 9 giờ tối, mọi người đi ngủ sớm để ngày mai bắt đầu bủa lưới cá mập.

    Tôi nằm trong một góc khoang, bên cạnh bác Tám và anh Yên.. Trong giấc ngủ chập chờn, tôi lại nằm mơ thấy mẹ tôi đang ngồi bó gối trên bãi biển chiều hôm, đôi mắt mẹ thật buồn, ngó mong lung ra ngoài trùng khơi sóng vỗ như chờ đợi cha tôi. Dáng mẹ ngồi lặng lẽ, câm lặng như bức tượng đá. Bất chợt, hai hạt lệ trào ra khóe mắt, chảy dài xuống đôi má cằn cỗi. Tôi chỉ gọi được hai tiếng: “Mẹ ơi!...” rồi giật mình ngồi bật dậy. Trong cabin tràn ngập ánh trăng rằm.


  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Quấn cái mền quanh mình cho ấm, tôi đi ra đằng sau lái rồi leo lên mui tàu. Tôi ngồi yên lặng như con cú dưới ánh trăng. Trăng trên biển sáng và rực rỡ quá và gần như tôi thấy được màu xanh của rừng trên Hòn Khoai. Làng chài ven biển trên Hòn Khoai, đèn nhà ai vẫn còn ánh lên những đốm lửa chập chờn. Sau lưng Hòn Khoai là quê hương tôi, chỉ cách một vài giờ tàu lướt sóng là đưa tôi trở lại đất liền. Những ngọn đèn bão của những chiếc ghe câu mực, di động lung linh trên mặt biển làm tôi nhớ quá cửa Định An, nơi dòng sông Hậu đổ ra biển là quê nhà tôi đó, nơi tôi sanh ra đời và lớn lên theo từng mùa nước nổi...Bước chân của ai rón rén, đi trên mui lợp thiếc phập phều làm tôi giật mình, quay đầu nhìn lại, thì ra là Nguyệt, nàng ngồi xuống cạnh tôi, nói: “Khuya rồi! Đi ngủ đi, anh Tuấn!” Tôi gật đầu và theo nàng trở xuống cabin.

    Tiếng kẻng đánh thức mọi người dậy vào lúc 6 giờ sáng. Trong lúc tàu chạy vào vùng ngư trường, mọi người chuẩn bị móc mồi cá vào lưỡi câu. Vào khoảng vài tiếng sau, chú Tư Sún bắt đầu cho tàu giảm tốc, chạy ngược lên phía bắc về phía Côn Đảo và trong suốt hải trình 20 hải lý, bằng chiều dài của sợi dây triển. Dàn lưới bủa lần lượt được thả xuống biển. Mỗi sợi dây thẻo cách nhau 100 thước, trên có đánh dấu bằng một cái phao tròn như quả banh, có cắm lá cờ trắng để dánh dấu. Tôi đếm 200 cái phao tất cả; thỉnh thoảng, bác Tư ném xuống biển một miếng thịt trâu còn đẫm máu xuống biển, để nhử cá mập bu tới. Đánh hơi thấy mùi máu tươi, bầy cá mập từ dưới biển nổi lên mặt biển, tranh nhau đớp mồi, vi của chúng nhô lên khỏi mặt nước cả thước. Bất ngờ, một con cá mập trắng nặng cả tấn, từ dưới biển bất thần phóng mình lên khỏi mặt nước, rồi rơi ùm xuống biển làm bắn nước tung tóe lên tàu. Đến xế chiều, việc bủa lưới lưới hoàn tất. Chú Tư cho mọi người nghỉ ngơi lấy sức để chuẩn bị công việc vô cùng vất vả cho ngày hôm sau: xẻ thịt cá mập.

    Đêm đó, tàu bỏ neo giữa biển. Đến 3 giờ sáng, tiếng kẻng đánh thức mọi người dậy thật sớm. Sau khi ăn lót dạ, chú Tư cho nổ máy tàu, chạy thật chậm ngược theo hàng cờ nhỏ cắm trên mấy cái phao nổi, để cho thủy thủ đoàn cuộn lưới bủa lên sàn tàu cùng với những con cá mập nặng từ nửa tấn mắc câu, được xẻ thịt liền tại chỗ rồi phân loại theo đúng tiêu chuẩn: “Nhất vi, nhì gan, tam bì, tứ nạc”. Ngày đầu tiên, thu hoạch được khoảng 30 con “cọp biển” nặng từ 200 ký đến 500 ký. Chủ yếu là lấy vi cá, có giá trị kinh tế cao nhất, một bộ vi chiếm 1% trọng lượng toàn thân. Tôi tập sự lấy gan cá mập dồn vào thùng phuy, tiếp tay với họ.

    Mấy ngày hôm sau, bủa trúng một con cá mập loại trắng khổng lồ, nặng cở 3 tấn, loại cá mập nầy nổi tiếng khát máu và hung dư.õ Cái miệng rộng toác hoác, đưa hai cái bàn nạo với hai hàm răng nhọn bén như dao cạo, hai bên mép nhô ra hai cái răng cưa có khả năng nghiền nát cả một khúc gỗ lớn như cột buồm, đó là nỗi kinh hoàng của thuyền nhân, chẳng may bị bão tố quật xuống biển.

    Con cá mập trắng đập đuôi vùng vẫy dữ dội khi bị kéo vào sát mạn tàu. Chú Tư cho vài người lực lưỡng dùng chĩa đâm chết trước khi trục lên khoang tàu xẻ thịt. Nhìn con cá mập trắng nằm chình ình trên khoang tàu, chú Tư khoái quá cười toe toét, nói với bác Tám: “Chuyến nầy trúng mối rồi!”. Quả thật, chỉ có bộ vi đã cắt được gần 40 kí rồi, nội bộ gan đã chứa gần đầy cái phuy. Trước khi vất bao bì xuống biển để tránh cho tàu khỏi quá tải, Nguyệt nhờ bác Tám dùng dao bén mổ cái dạ dầy, để tìm những vật lạ không thể tiêu hóa được. Lần nầy, Nguyệt tìm thấy vài tấm thẻ bài và vài đôi giày “bốt” của những người lính thuộc QLVNCH; rất có thể, họ đã chết trên đường di tản hoặc đã tận lực chiến đấu với bọn lính biên phòng VC ngoài biển khơi lúc vượt biển tìm tự do?”

    Tôi ngạc nhiên, hỏi:

    - “Nguyệt sưu tầm những vật nầy để làm gì vậy?”

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Nàng không trả lời, chỉ nhờ tôi múc nước biển tẩy sạch máu cá bám trên những vật nầy, trước khi đem phơi nắng trên nóc ca bin. Xong đâu đó, nàng nắm tay tôi đi vào trong một gốc khoang, lôi ra một cái rương gỗ khá to. Nàng nói: “Nguyệt đã tìm thấy những vật nầy trong bụng những con mập bị vướng lưới, anh cứ mở nắp rương ra coi!”

    Tôi tò mò mở nắp rương ra xem, đó là một bộ sưu tập của những người lính thuộc QLVNCH đủ mọi quân binh chủng, từ những khẩu súng Colt 45 đã rĩ sét, những đôi giày bốt, những huy hiệu, huy chương, những cái bút nịt còn đính huy hiệu nhãy dù, thủy quân lục chiến, những cánh bay còn nguyên vẹn, những bộ quân phục rách rưới, tả tơi...

    - “Nguyệt góp nhặt những vật nầy để làm gì?” tôi ngạc nhiên, hỏi. “Dùng để bán cho những người sưu tầm những kỹ vật của chiến tranh?”

    - “Những di vật vô giá nầy thuộc về những chiến sĩ vô danh QLVNCH. Họ đã một thời xã thân chống bọn cộng sản xâm lược để bão vệ nền Độc Lập - Tự Do - Dân Chủ thực sự của Miền Nam Việt Nam trước đây,” Nguyệt nhìn tôi, tiếp. “Rằm tháng 7 năm nay, Nguyệt sẽ đem những vật nầy lên chùa để nhờ các sư chân tu tụng kinh siêu độ cho họ.”

    Tôi lại càng ngạc nhiên về sự hiểu biết của nàng. Tôi hỏi:

    - “Ai nói cho Nguyệt biết về những điều nầy vậy?”

    - “Bác Tám chớ ai,” Nguyệt chỉ cái radio hiệu National, máng tòn ten ở trên vách, nói. “Ngoài ra, Nguyệt còn nghe mấy đài phát sóng ở nước ngoài nữa cà!”

    Tàu bủa lưới cá mập lênh đênh trên vùng biển đông sang đến đầu tuần lễ thứ ba, khai thác được trên chục tấn hải sản đủ loại. Sau khi neo tàu, ngủ qua đêm cách Hòn Khoai về phía nam độ 30 hải lý. Chú Tư quyết định cho quay mũi tàu hướng về Vũng Tàu để bán tươi sản phẩm cho thị trường hải sản là công ty xuất khẩu Phan Thiết - Vũng Tàu. Nhưng một biến cố bất ngờ xãy ra làm ảnh hưởng đến cả cuộc đời của tôi...

    Theo đúng kế hoạch. Trời vừa rạng đông, trong lúc thủy thủ đoàn còn đang yên giấc, ngủ dưởng sức sau gần 3 tuần lễ lao động vất vả trên biển cả. Chú Tư cho tàu nổ máy, quay mũi tàu về hướng Vũng Tàu. Bác Tám, tôi và anh Yên phụ giúp nhổ neo rồi đứng trên mũi tàu hóng gió biển. Bác Tám nói:

    - “Về đến bến bãi, bác và thằng Yên sẽ đưa cháu trở lại quê nhà. Cháu nghĩ sao?”

    - “Bác đưa cháu về đến Sài Gòn là được rồi. Cháu có người dì ruột ở tại Tân Định,” tôi nắm tay anh Yên, nói. “Nhờ anh chăm sóc dùm ngôi mộ của má tôi.”

    Yên vỗ vai tôi, nói:

    - “Đừng lo, chuyện nhỏ thôi mà!”

    - “Làm sao, tôi liên lạc được với bác Tám và anh?” tôi hỏi.


  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Bác Tám nói:

    - “Cháu cứ viết thơ, gởi về địa chỉ nhà của chú Tư tại thị trấn Dương Đông - Phú Quốc là được rồi!”

    Bất ngờ, nhìn thấy một cột khói đen kịt bốc lên đằng phía chân trời, chú Tư từ trên buồng lái trên cabin, gọi vọng xuống:

    - “Nhìn về hướng 2 giờ. Tôi thấy khói lửa dậy ở chân trời!”. Bác Tám lấy tay che mắt cho đở chói nắng, nhìn về hướng chú Tư chỉ, hốt hoảng nói:

    - “Xảy chuyện rồi đó chú Tư!” bác Tám quay qua, bảo anh Yên. “Con vào trong cabin, mở nắp thùng gổ, lấy cái ống dòm đem ra cho bác Tám.”

    Vài phút sau, anh Yên trở ra đưa cái ống dòm cho bác Tám. Tất cả đi lên buồng lái gặp chú Tư. Bác Tám đưa cái dòm lên ngang với tầm mắt vừa quan sát, vừa kể lại diễn tiến những gì đang xảy ra ở đằng chân trời:

    - “Bọn hải tặc đang khống chế hai chiếc ghe của thuyền nhân. Chúng đã tách rời họ ra, đàn bà trẻ con qua một chiếc để cưỡng hiếp. Còn đàn ông và thanh niên bị dồn qua một chiếc ghe khác, trước khi phóng hỏa đốt ghe. Tôi còn thấy nhiều người phóng xuống biển, đang lội bì bõm dưới biển bị bọn chúng dùng chĩa nhọn đâm họ như đâm cá. Máu loang đỏ mặt nước,” bác Tám chữi thề. “Đ. m tụi hãi tặc Thái Lan thiệt dã man mà! May quá, một tàu tuần dương có treo lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện.”

    Chú Tư Sún mừng quá, reo lên:

    - “Như vậy là đồng bào được công an biên phòng cứu rồi đó!”

    - “Cứu cái con mẹ gì chớ!” bác Tám văng tục. “Mẹ bà nó! Tụi nó đâu có thèm tiếp cứu đồng bào đâu nà. Chúng đang quay mũi tàu trở lại Côn Đảo thì phải.”

    - “Tính sao đây, anh Tám?”

    - “Bằng mọi giá, mình phải cứu đồng bào thôi!”

    - “Lấy cái gì chơi tụi hải tặc Thái Lan đây?”

    - “Đừng lo, tui có đồ nghề chơi tụi nó mà,” bác Tám bình tỉnh, nói. “Anh cứ cho tàu tăng tốc, chạy cập hông chúng nó. Tui xuống cabin lấy đồ nghề và đánh thức tất cả anh em dậy, chuẩn bị chiến đấu.”

    Tiếng kẻng báo động vừa vang lên. Tất cả thủy thủ đoàn chạy đều chạy ùa ra hai bên mạn tàu. Còn bác Tám vác cái thùng đồ nghề ra, đặt xuống hông trái tàu. Hai tàu chạy ngược chiều nhau, khoảng cách rút ngắn dần. Bây giờ, mắt thường cũng thấy mũi tàu của bọn hải tặc Thái Lan hiện rõ dần. Bác Tám ngước mặt lên phòng lái, nói:

    - “Chạy cập hông! Nhớ giữ cự ly 20 thước là được rồi!”

    Chú Tư nói vọng xuống:

    - “Tui nghe rõ rồi, anh Tám!”

    Bác mở nắp thùng gỗ, xách một khẩu B40 và một khẩu AK47 dựng bên mạn tàu, rồi lắp đạn vào. Và mọi hồi hộp chờ đợi giây phút quyết liệt sắp xảy đến, vì chiếc ghe của thuyền nhân bị kéo phía sau, chỉ cách tàu của bọn hải tặc có vài thước. Nếu quả B40 chệch hướng, sẽ trúng ghe của thuyền nhân, nó sẽ nổ tan như xác pháo.


  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Khoảng cách rút ngắn từ 100 thước, còn 50 thước... Tàu hải tặc khai hỏa trước, một loạt đạn AK47 nổ ròn rã, tiếng đạn bay veo véo trên đầu chúng tôi. Bác Tám bình tỉnh đặt khẩu B40 lên vai phải, song song với mạn tàu, ngón tay trỏ đặt vào cò súng. Chú Tư Sún giảm tốc. Tàu của bọn hải tặc lao vút tới sẵn sàng va chạm. Chú Tư lách con tàu sang bên phải. Vừa thấy mũi tàu của bọn hãi tặc trờ tới, bác Tám vươn vai đứng dậy, nhanh chóng xiết cò. Một ánh lửa phụt hậu lóe lên, đầu đạn B40 rời nồng lao thẳng vào mục tiêu...Một tiếng nổ “ầm” dữ dội phát ra làm nhức tai, buốt óc. Chiếc tàu hải tặc bốc cháy, trước khi nổ bung ra thành những mảnh vụn, chìm xuống biển. Một cái đầu lâu của tên hải tặc nào đó văng lên tàu. Thuận chân, anh Yên đá nó bay xuống biển. Tôi chồm lên mạn tàu nhìn phía ghe của thuyền nhân. Vừa thấy cả chục tên hải tặc còn trần truồng từ trên ghe phóng mình xuống biển thoát thân. Bác Tám nộ khí xung thiên, vớ lấy khẩu AK47 nhả đạn, mặt biển loang máu, bọn hải tặc Thái Lan bị tiêu diệt toàn bộ. Chiếc ghe của thuyền nhân trôi dạt về phía sau...

    Chú Tư lái tàu cập sát vào chiếc ghe của các nạn nhân. Bác Tám ôm khẩu AK47 nhảy xuống trước, anh Yên và tôi nhảy xuống sau. Nguyệt thả cuộn thang dây, leo xuống ghe sau cùng. Một cảnh tượng vô cùng thương tâm đập vào mắt tôi. Trong khoang tàu, chỉ có đàn bà và trẻ con, gương mặt người nào cũng lộ vẻ kinh hoàng, ràn rụa nước mắt. Một người đàn bà ngồi thu mình trong một gốc khoang, đôi mắt thất thần như người mất trí, đang ôm một đứa con gái bé bỏng không một mảnh vải che thân vào lòng. Một người đàn bà đứng tuổi, gương mặt rắn rỏi, đôi mắt cương nghị. Thấy bác Tám cầm khẩu AK47 trong tay, bà hỏi:

    - “Ông là bộ đội Việt Cộng?”

    - “Đúng, trong thời chiến tranh giải phóng tôi là cán bộ VC. Nhưng,” bác Tám cười, nói. “Bây giờ tôi đã thức tỉnh rồi! Thực chất của chiến tranh giải phóng dân tộc chỉ là một cuộc chiến tranh xâm lược Miền Nam để hôi của, bọn quan cách mạng gốc miền Bắc xa hội chủ nghĩa cai trị dân miền Nam mình còn dã man, tàn bạo gắp trăm lần bọn thực dân Pháp. Tôi giã từ chủ nghĩa Cộng sản từ khuya rồi, cô ơi!”

    - “Cám ơn ông đã cứu chúng tôi, thoát khỏi tay bọn hải tặc Thái Lan!”

    - “Ơn nghĩa gì, mình là người Việt Nam cả mà! Tôi chưa đến đổi mất hẳn tính người như bọn công an biên phòng VC,” bác Tám hỏi. “Tất cả mọi người trên ghe đều bình yên cả chớ?”

    - “Người nào cũng bị chúng cưỡng hiếp tập thể. Người lớn chúng tôi còn đủ sức chịu đựng. Chỉ tội nghiệp cháu gái đó, mới có 10 tuổi đầu mà bị cả chục thằng hải tặc lực lưỡng như trâu, thay phiên nhau cưỡng hiếp. Cháu đang hấp hối trên tay mẹ.”

    Nguyệt nhìn người đàn bà đó, hỏi:

    - “Xin lổi, dì tên chi?”

    - “Dì tên Trúc!”

    Trúc dẫn mọi người đến gặp mẹ con người đàn bà đáng thương đó. Nguyệt quỳ xuống bên cạnh người đàn bà, nhìn gương mặt em bé đẹp như thiên thần, đang thở những hơi thở cuối cùng trên tay mẹ. Những giọt nước mắt mong manh ứa ra khỏi khóe mắt, tinh khiết như những giọt sương mai, đọng trên một đóa hoa hồng vừa chớm nở, lặng lẽ chảy thành dòng trên đôi má ngây thơ. Em thở hắt ra, rồi nghẽo đầu sang một như một cánh chim non bị trúng đạn. Tiếng khóc của người mẹ vở ra thành một chuỗi âm thanh uất nghẹn, đớn đau. Bà rú lên như điên dại và mọi người trên ghe nhoài người tới, ôm chầm lấy bà...

    Chỉ riêng có dì Trúc là còn giữ được bình tỉnh. Theo tôi, đó là một người đàn bà đầy bản lãnh, đứng trên đầu sóng, ngọn gió mà không hề nao núng. Dì Trúc nhìn bác Tám, hỏi:

    - “Ông có thể giúp chúng tôi được không?”

    - “Cô cần gì, cứ nói!”

    - “Xăng dầu và lương thực để tiếp tục cuộc hành trình còn dở dang.”


  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Bác Tám ngạc nhiên, hỏi:

    - “Ai là người lái ghe?”

    - “Tôi!” dì nói đầy vẽ tự tin, tiếp. “Chồng tôi là Hãi Quân Đại Úy, tôi đã phụ với chồng tôi lái chiếc ghe xấu số nầy! Tất cả đàn ông, thanh niên trên ghe đều bị bọn hải tặc giết chết hết hồi nãy!”

    - “Thôi được, tôi đưa cô lên tàu gặp chú Tư Sún, coi chú có thể giúp được việc gì cho cô không?”

    Khoảng một tiếng đồng hồ sau. Dì Trúc trở xuống ghe tuyên bố với mọi người: “Cuộc hành trình vượt biển tìm tự do vẫn tiếp tục! Tôi là người lái ghe! Người nào tin tưởng tôi thì ở lại, còn muốn trở về đất liền thì leo lên tàu đánh cá! Trễ lắm là ngày mốt, tàu sẽ đưa mấy chị em về đến bến cảng Vũng Tàu! Ai muốn tiếp tục cuộc hành trình thì đưa tay lên!”

    Tất cả mọi người đều đồng ý tiếp tục cuộc hành trình. Trong lúc mọi người chuyền xăng dầu, lương thực, nước ngọt từ tàu đánh cá xuống ghe. Bác Tám kêu tôi ra đứng đằng mũi ghe, hỏi:

    - “Cháu có muốn đi theo họ không?”

    Tôi mạnh dạn, đáp:

    - “Dạ muốn chớ!”

    - “Hay lắm!” bác Tám nói. “Để bác gởi gấm cháu cho cô Trúc, chăm sóc cháu trong thời gian ở trại tỵ nạn.”

    Tôi nói:

    - “Con tự lo liệu được mà, bác Tám!”

    Xế chiều, tôi trở lên tàu đánh cá từ giã mọi người. Gởi gấm mộ mẹ cho anh Yên chăm sóc dùm. Bác Tám xiết chặc tay tôi, chúc: “thượng lộ bình an”. Còn Nguyệt nhìn tôi, nói: “Em có cái nầy tặng anh Tuấn.” Tôi chưa kịp trả lời, Nguyệt khoát lên người tôi một cái áo len còn thơm mùi chỉ mới. Tôi trở xuống ghe, mọi người ùa ra mạn tàu vẫy tay chào từ giã. Chiếc ghe quay mũi hướng ra biển đông, tiếp tục cuộc hành trình vượt biển tìm tự do. Chú Tư cho tàu đánh cá nổ máy hướng vào đất liền. Tôi lưu luyến nhìn theo cho đến khi chiếc tàu mất hút đằng sau chân trời...

    Hoàng hôn trên biển. Màn đêm buông xuống thật chậm và biển hôm nay lặng gió. Sóng biển vỗ vào mạn ghe nhè nhẹ, êm như tiếng ru hời của mẹ. Biển tối dần, bầu trời như hẹp lại bởi con trăng lưỡi liềm không đủ sức tỏa ra ánh sáng rực rỡ. Người đàn bà bất hạnh ôm xác con thơ, đi ra ngồi trước mũi ghe, lặng lẽ như cành liễu rũ già nua bên bờ hồ, rồi bà cất tiếng ru con, điệu ru nước mắt như nghẹn trong cổ họng, rồi vỡ thành tiếng khóc nức nở. Mọi người trong ghe quây quần chung quanh bà yên lặng cầu nguyện. Bà không đủ can đảm thả xác con xuống biển. Dì Trúc phải làm công việc nầy thay cho bà. Dì đặt em nằm trên tấm ván ghe, âu yếm đặt lên má em một nụ hôn vĩnh biệt trước khi thả em xuống biển. Nhìn xác con trôi dật dờ theo sóng biển, bà mẹ đau đớn, thét lên một tiếng: “Trời ơi!” rồi ngất đi...

    Bây giờ chỉ còn lại mình tôi đứng trước mũi ghe, nhìn xác em trôi bồng bềnh như cánh hoa lục bình lẽ loi dạt ra cửa biển quê tôi. Sóng biển sẽ đưa thân xác em trôi về đâu? Vào trong cõi luân hồi mù mịt khói mây hay tan vào lòng đại dương ngàn năm lạnh lẽo. Tôi vẫy tay chào vĩnh biệt em lần cuối cùng, khi xác em trôi khuất dần sau tầm nhìn của tôi...

    Sau ba ngày đêm không ngủ, Dì Trúc vẫn dũng cảm và vững vàng trên tay lái, đưa chiếc ghe định mệnh đến bến cảng Tarampa, trạm đầu tiên thuộc quần đảo Nam Dương, trước khi được chuyển tiếp đến trại tỵ nạn Galang: NGƯỠNG CỬA CỦA TỰ DO!

    Nguyễn Vĩnh Long Hồ

Trang 2 / 2 ĐầuĐầu 12

Chủ Đề Tương Tự

  1. Diệt Ma Khẩu
    By giavui in forum Audio Ma Kinh Dị
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 10-05-2015, 11:28 PM
  2. Bộ đôi 'kình ngư' trên biển Đông
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-07-2011, 11:29 AM
  3. Gần 1,000 người vượt biển tới Sicily
    By duyanh in forum Tin Tức Quốc Tế
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 06-02-2011, 12:23 PM
  4. Người mẹ vượt trùng dương qua nhận xác con
    By duyanh in forum Sự Kiện Đời Sống
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-23-2011, 12:55 PM
  5. Ngư dân trúng lộc biển
    By duyanh in forum Tin Tức Việt Nam
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 01-07-2011, 01:14 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •