***
Tôi nhớ hoài một buổi chiều vàng thật bẽ bàng, ngang trái, trên con sông trước của nhà chúng tôi. Hôm đó, hai chị Kim, Cương ngồi trên bờ sông trong chừng Hoà Bình và Minh Tâm đang tắm sông. Còn Hải Vân và tôi thì ném ngói vụn cho bay lướt trên mặt nước, hai chị em thách nhau coi đứa nào ném xa hơn. Mà đã rời nhà từ hừng sáng để ra Cần Thơ tìm chỗ ở mới cho hai chị em tôi tiếp tục việc học hành, và cũng là để cho việc làm của má thêm thuận tiện. Bỗng chị Kim vùng đứng dậy, chỉ tay về hướng vườn quít. Miệng chị há hốc, nhưng không thốt nên lời, chúng tôi nhìn theo tay chị, thấy một nông dân đang đi tới. Ông bước những bước nặng nề đi về hướng chúng tôi. Hai ống quần ướt xũng tới đầu gối. Khi ông tới gần, tôi nhận ra vẻ quen thuộc nơi ông. Rồi chúng tôi cùng la lớn: “Ba về!”.
Chúng tôi chạy ào tới đón ba. Ông quỳ xuống đất ôm chầm lấy, hôn chúng tôi liên hồi như ông đã xa chúng tôi cả ngàn năm.
“Má con đâu”. Ba hỏi chị Kim.
Chị nhìn xuống đất, ngập ngừng, rồi trả lời:
“Con không biết! Mà… mà má dặn… không được nói cho ai biết má đi đâu”.
Ba thốt kêu lên với giọng nửa ngạc nhiên nửa trách hờn:
“Con ai, ba đâu phải là người xa lạ. Nói cho ba biết má ở đâu đi Kim”.
“Con nói thiệt, con không biết mà”. Chị Kim một mực từ chối.
“Kim, ba về để rước má và các con ra Hà Nội với ba. Ba đổi ý rồi, ba muốn má và tụi con đi theo ba. Con cho ba biết má ở đâu đi”. Ba năn nỉ.
Trong khi chị Kim đang bối rối thì Hải Vân chợt nói:
“Má con ở nhà cô giáo Chức”.
Cô giáo Chức và ba má tôi là chỗ thân thiết với nhau trước khi ba tôi đưa gia đình vào vùng kháng chiến. Vì vậy, ba tôi biết nhà cô ở trên đường Nhà Đèn. Hai chị Kim, Cương cũng cho biết ba không thể ra chợ Cần Thơ tìm má vì rất nguy hiểm. Công An quốc gia đã nhiều lần tới nhà kiếm ba. Ba tôi trấn an con cái, rồi dẫn chúng tôi vô nhà, ông không muốn ông bà ngoại biết ông đi tìm má, chỉ có dì Bảy là biết ba tôi về thôi. Ông hoá trang thành một người hành khất, rồi dặn chúng tôi phải ở trong nhà. Nếu má chịu theo ba ra Hà Nội, dì Bảy sẽ chèo ghe đưa chúng tôi vô Xẻo Môn. Trước khi bỏ đi, ba con dặn thêm chị Kim: “Phải nhớ lời ba, nghe con”. Rồi ba hôn Hoà Bình và ôm Minh Tâm vào lòng. Ba hôn những ngón tay bé nhỏ của em tôi và nâng niu bàn chân của em còn thơm mùi sữa. Như muốn em tôi nhận ra, cha nựng Minh Tâm: “Ba… ba nè”. Xong, ba lau nước mắt, mím môi lại rồi bước nhanh ra khỏi cửa, biến dạng trong khu vườn xanh ngắt.
Tôi hôm đó hai chị Kim, Cương đóng chặt cửa, còn chèn bàn tròn nữa. Tôi thầm thắc mắc, không biết hai chị không muốn cho ba vô nhà, hay sợ Công An? Hoà Bình nhớ má khóc hoài. Hải Vân ru Minh Tâm trên võng giăng trong mùng. Khi cả nhà đã ngủ yên, trong khoảng đêm trường tĩnh mịch, tôi băn khoăn nghĩ lại chuyện vừa xảy ra. Tôi không hiểu tại sao chị Kim lại không muốn ba gặp má? Sự xuất hiện bất ngờ và ngắn ngủi của ba đã làm tinh thần của chị em chúng tôi bị xáo trộn. Căn nhà lúc này sao mà trống vắng, lại bao trùm một mối lo âu, sợ sệt không rõ ràng.
Trái tim nhỏ bé của tôi cũng bị xé ra làm hai. Lúc thì tôi ước ba gặp được má ở Cần Thơ, rồi lúc khác tôi cầu xin Trời Phật giấu má để ba không tìm ra. Trong tận đáy lòng, tôi không muốn đi theo ba ra Hà Nội, mà tôi cũng không muốn má bị ép buộc phải đi. Tôi đã hiểu rằng nhà cầm quyền Hà Nội sẽ không cho má tôi tự do may vá kiếm tiền nuôi con. Mà phải đi vào trong các công xưởng. Trời ơi, cái tiếng “xưởng” nghe khủng khiếp làm sao! Nó là nơi đầy đoạ kiếp con người trong cái gọi là “xã hội chủ nghĩa” mà ba tôi đang tôn thờ.
Mới đây, làm con của nhà cách mạng chống Pháp nó danh dự, nó quý giá; nay lại thấy xấu hổ, hết giá trị, khi biết Quốc gia lùng kiếm cha tôi.
Trên bộ ngựa giữa nhà, tôi suy nghĩ mông lung. Với bộ óc non nớt của đứa con nít lên chín, tôi bỗng khám phá rằng tôi lại muốn tự bảo vệ cái thân mình. Tôi cũng chưa ý thức được tôi tự bảo vệ là tôi chống lại chính quyền Hà Nội, hay chỉ chống ba tôi thôi. Tôi nhớ lại những đêm tôi nằm nghe ba má cãi nhau. Má nói đi nói lại nhiều lần là người và súc vật khác nhau. Con người có tình cảm và biết cách biểu lộ được tình cảm. Vậy mà Chánh phủ cộng sản ở ngoài Bắc không cho người ta ăn nói, tự do yêu thương nhau. Tất cả trở thành chai đá như những bức tượng đồng bên Liên Xô. Má tôi chọn đời sống giản dị của người miền Nam. Những ba tôi sống, thở, nằm ngủ và cảm thấy có hạnh phúc với “xã hội chủ nghĩa”. Má tôi tuyệt đối không bóc Iột bất cứ một ai, kể cả người giúp việc nhà. Đồng thời ba cũng không muốn cho ai bức chế đời sống riêng tư của gia đình bà.
Nhưng còn đời sống của ba ở ngoài Bắc sẽ ra sao? Ông sẽ héo mòn vì nhớ vợ, nhớ con, ông sẽ cảm thấy rất cô đơn khi các đồng chí khác vui sống với gia đình của họ. Ông không còn được nghe tiếng cười, tiếng nói, tiếng khua đũa, khua chén của chúng tôi trong những bữa cơm nữa. Rồi ai đàn cho ba nghe? Ai đòi ba kể chuyện đời xưa? Chuyện Thần hổ xám ba kể chưa hết. Mấy con ma trong chuyện đường trường cách mạng đang nằm đợi trong những mái nhà tranh hoang vắng, mà ba tôi còn bỏ dở. Ba tôi thường cho biết ông đã bị nhiều cực hình khi bị Tây đầy ra Côn Đảo. Chúng biệt giam ông, chúng bẻ gẫy tay ông, một hoạ sĩ tài hoa. Vậy mà ông cũng coi là thường. Nhưng nỗi đau phải xa vợ con thì ông không chịu nổi.
Càng nghĩ, tôi càng thấy tim tôi nhói đau, mắt tôi cay, miệng tôi đắng. Tôi ngoảnh nhìn hai chị Kim, Cương như muốn cầu cứu, nhưng hình như hai chị cũng bối rối như tôi vậy, có khi còn bối rối hơn nữa. Chị Cương nhìn cái mặt buồn xo của tôi rồi bảo “Đi ngủ đi cưng!”.
Tôi vô mùng nằm, không thèm đánh răng, rửa mặt như mỗi tối nữa. Nằm trong bóng tối của màn đêm, tôi nghe tiếng tim tôi đập, nghe tiếng muỗi vo ve ngoài mùng, tiếng mấy con thằn lằn chặc lưỡi trên nóc nhà. Nằm im hồi lâu mà vẫn không ngủ được, tôi rón rén bò ra khỏi giường. Tôi bò ra khỏi nhà qua cái lỗ chó của con Nó, vì tôi không muốn làm kinh động hai chị khi tôi đụng tới cái bàn chặn cửa.
Ngoài sân, sao đầy trời. Vậy mà chẳng có ngôi sao nào có thể soi sáng lòng tôi. Chung quanh tôi, đom đóm bay lượn chập chờn, khi tối khi sáng, làm tôi nhớ đến câu chuyện “mắt ma”, mà trước kia chị vú giữ Hải Vân đã kể cho chúng tôi nghe. Tôi chạy một hơi qua nhà ông bà ngoại, chui qua lỗ chó, rồi đánh thức dì Bảy dậy. Dì bảo tôi lên giường nằm cạnh dì. Có lần dì đã khuyên tôi không nên khóc khi nhớ ba, vì khóc chỉ làm má buồn thêm mà thôi. Dì gãi lưng tôi và ru tôi ngủ bằng những câu hò gặt luá. Nhưng tôi chưa ngủ được thì dì đã ngáy.
Đến nửa đêm thì mưa bắt đầu rơi. Tôi nghe như tiếng nức nở trong lòng tôi hoà lẫn với tiếng mưa rồi ngoài trời. Có lúc tôi lại tưởng tiếng rơi của nước mắt, của ngàn giọt lệ chia ly. Ngàn giọt lệ ấy có trong gia đình tôi, trong mỗi gia đình có cha có anh đi tập kết. lệ đang rơi trên quê hương rách nát, vì những người làm chánh trị, tự nhận là các nhà ái quốc, đã chia ranh, xé bờ đất nước thân yêu của chúng ta. Cả ngàn, cả triệu giọt lệ đang rơi ngập cả hai miền Nam Bắc.
Đến sáng, chị Kim qua nhà ông bà ngoại, dẫn tôi về để sửa soạn đi học. Tôi hỏi chị có muốn đi Hà Nội với ba không? Chị Kim lắc đầu, nhưng không nói một lời nào.
Tôi đi học về rồi mà vẫn chưa thấy má đâu. Thật tình tôi cũng không muốn má tôi về ngay sáng hôm đó, vì nếu má về có nghĩa là má đồng ý đi với ba ra Hà Nội. Tôi thấy mình tội lỗi khi mong ước như vậy. Sự thật, chúng tôi đã rất hài lòng với cuộc sống tạm yên bên cạnh ông bà ngoại rồi.
Rồi chỉ vài ngày sau, tôi quên khuấy đi việc ba tôi trở về.
Tâm hồn non dại của chúng tôi dễ xúc động trước những chuyện bất ngờ xảy ra, mà cũng dễ quên đi vì những thú vui trước mắt. Ngày nào tôi cũng mong cho mau tối rồi mau sáng để được đi học. Ở trường, tôi búng dây thun vào loại siêu đẳng nên ăn hết dây thun của các bạn học. Đánh đũa, tôi chỉ thua có chị Thảo. Còn trò chơi bắn culi tôi ăn được cả trăm viên.
Chúng tôi - anh Quốc, Hải Vân và tôi - thường đến trường trễ, nhưng thầy giáo không biết, vì lớp học của chúng tôi lộn xộn lắm, chỉ có một phòng mà có tới 60 học trò của ba cấp lớp: lớp hai, lớp ba, lớp rư. Sở dĩ chúng tôi hay đi trễ, vì chúng tôi vừa đi vừa chơi trên quốc lộ. Cũng cùng một đường lộ, nhưng sáng nào cũng là một ngày mới, một con lộ mới, có biết bao nhiêu cái mới lah để tìm tòi. Mấy ngày, chúng tôi đi coi tài bắt rắn của một anh lính Miên ở bót 21 trên quốc lộ đi Sóc Trăng. Anh ta úp một cái rọ bằng tre lên miệng một cái lỗ mà anh nghi là hang rắn rồi tìm một cái lỗ nhỏ, lấy que tre dài thọc vô lỗ đó. Thế là mấy con rắn bò ra chui hết vô rọ. Anh lính Miên nắm đầu mấy con răn, bẻ răng và xỏ vào một cây nhọn thành một xâu. Tôi không dám đến gần phần vì sợ rắn, phần vì anh hôi mùi rượu và mùi mô hôi khét lẹt. Mùi hôi nực nồng khiến tôi buồn nôn. Anh đưa xâu rắn ngắm nghía, rồi cười sung sướng với một vẻ tự hào, nói một câu tiếng Việt theo giọng Miên: “Coi nè, coi nè, hết bót đủ một tối ngày”. Hải Vân tò mò chạy theo anh. Anh quay lại hỏi anh Quốc và Hải Vân:
“Tụi bây có biết ăn con rắn hông?”
Anh quốc trả lời:
“Hông”
Người lính Miền nói:
“Tan học lại bót tao cho ăn”.
Trưa hôm đó, anh Quốc và Hảt Vân xin phép chị Yvonne cho ở lại trường để bắn đạn culi. Nhưng tôi biết hai người đi lại đằng bót.

Hôm sau, Hải Vân cho biết thịt rắn nướng ăn ngon lắm. Những nó cũng cho biết khi ăn thịt răn, nó cứ nhớ đến mấy con rắn từ trong hang chui ra, da bóng lưỡng thì lại lợm giọng muốn ói. Anh Quốc lại cho biết họ hứa sẽ cho ăn thịt chó khi nào họ bắt được con chó trong làng. Từ đó, chúng tôi không dám dắt con chó Nô đến trường nữa. Nhưng dù chúng tôi đã cẩn thận đề phòng, vậy mà mấy tháng sau con Nô cũng vẫn bị lọt vô bếp ăn anh lính Miên. Nó không bị anh bắt giết, mà nó bị xe đò Nhơn Hoà đụng chết; anh đem xác nó về bót làm thịt. Má và chị em chúng tôi khóc hết nước mắt vì cái chết thảm thương của con chó trung thành. Giận mấy người lính Miên. Rồi em bà con của má nhắc lại cũng những người Miền trên bót 18 cướp má của cậu mấy năm trước, rồi đâm ba chết, thả xuống sông gần chợ Bang Thạch. Cậu căm hờn nói: “Người nó con đâm chết, chó nó bắt nó ăn, là chuyện thường”. Đây không phải là lời an ủi, mà cậu lính làm chúng tôi ghét người Miền hơn nữa.
Khi má tôi từ Cần Thơ về, Hải Vân và tôi bị đuổi “ra sân chơi” để người lớn nói chuyện quan trọng. Sau đó, má cho biết má quyết định ở lại miền Nam, vì “hai năm nữa ba sẽ về”. Thì tương lai của chúng tôi đã được quyết định.

_____________________________

Chương 4

Ông ngoại tôi thường nói với con cháu là gia đình mình là gia đình nông dân, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông coi sóc vườn như bà ngoại và dì Bảy. Mỗi ngày ông bách bộ ra vườn quít, rồi đi thăm mả cậu Út Thế. Trên đường dẫn ra ruộng t cây cầu bắc ngang qua một con lạch. Cầu đã nhỏ lại yếu, khi có người bước lên, nó run rẩy như muốn sụm xuống. Ông ngoại già rồi, đi đứng cũng yếu, nên không dám leo lên cầu, sợ té xuống lạch. Vì lý do đó, miếng vườn bí mật của dì Bảy, lọt theo ruộng lúa, không bao giờ bị ông khám phá ra.
Miếng vườn này dì trồng đậu ve, đậu bắp, cà tím, cả chua, ớt hiềm, ớt sừng trâu. Miếng vườn được giữ bí mật, vì lãi tức của nó để mua thuốc men cho những cán bộ Việt Cộng. Nếu ông biết được chuyện này thì sẽ “chết cả đám”. Để giữ hoàn toàn bí mật, dì Bảy không mướn người ngoài gia đình, chỉ có đám cháu của dì thi đua với nhau phụ giúp đi hái rau, bẻ trái, làm cỏ, vun xới cho miếng vườn được tốt tươi thôi.
Thật ra, trong thâm tâm, tôi không mê cái việc cứu một tên cán bộ Việt Cộng. Tôi ra vườn tiếp dì một tay vì thấy dì qua vất vả. Nhưng tôi cũng hiểu rằng giúp dì chăm lo miếng vườn bí mật là tôi gián tiếp giúp đỡ Việt Cộng nằm vùng. Vì vậy, mỗi khi có tin Việt Cộng giết người, tôi lại thấy mình tội lỗi đầy đầu.
Một lần, tôi thắc mắc hỏi dì Bảy tại sao những cán bộ hay đắp mô, phá đường, phá câu, làm cản trở lưu thông, thậm chí có khi giết cả đàn bà con nít, mà chưa bao giờ dám đụng đến các xe nhà binh của phe quốc gia, hoặc xe mấy ông lớn? Không phải tôi thách thức Việt Cộng làm chuyện đó, nhưng tôi có quyền chất vấn hanh động của họ, vì tôi là con của ba tôi. Dì chỉ đáp buông xuôi rằng: “Cháu con nhỏ, làm sao hiểu được chiến tranh du kích”. Trong lòng, tôi không phục mà không dám nói ra.

Lâu sau, má tôi cũng bị “người ta” yêu cầu ủng hộ phong trào, mà không dám vô nhà gặp thẳng má tôi, vì họ sợ đụng độ với ông ngoại, nên đã nhờ dì Bảy làm trung gian. Hồi đó, tôi không hiểu má bị ép buộc hay tự nguyện đóng góp. Rồi má ra chợ Cần Thơ mua vải về may mấy chục bộ bà ba đen.
Mỗi ngày sau giờ ngủ trưa, ông ngoại tôi thường qua nhà ngồi uống trà, trò chuyện với má tôi. Bà vừa may vừa tiếp chuyện cha. Thế rồi một chuyện bất ngờ xảy đến. Buổi trưa hôm đó, má tôi đang may đồ ba ba đen cho Việt Cộng thì ông ngoại bất chợy đi vô. Ông biết ngay là má tôi đang làm việc gì. Ông liền bước trở ra ngoài rồi réo lớn:
“Nhãn qua đây cho tao hỏi. Bay toa rập cái gì nữa đây?”.
Tội nghiệp, dì tôi không đi mà chạy qua gặp ông để bị rầy. Ông hỏi:
“Ai bắt em mày nối giáo cho giặc?”.
Má tôi tìm cách gỡ cho dì Bảy, nên thưa với ông:
“Cũng không tốn kém gì nhiều đâu, cậu. Chỉ tốn có một chút vải, một chút công của con thôi”.
Đây là lần đầu tiên má và dì Bảy bị rầy, mà ông quên không đuổi đám con nít chúng tôi đi chỗ khác chơi. Ông nổi giận, la lớn:
“Bay có biết là tui nó khủng bố em của bay không? Nó hy sinh tới mức này chưa đủ sao. Từ ngày lấy thằng Quang nó làm mọi cho thằng cộng sản, một mình lo nuôi dưỡng bảy đứa con thơ, thức khuya dậy sớm, ngồi máy còng lưng, bay con muốn nó làm cái gì nữa đây?”.
Dì Bảy nhìn xuống đất không dám trả lời ông, trong khi ông tiếp tục chửi lay qua cộng sản nằm vùng.
Mỗi lần ông ngoại chửi Việt Cộng, ông thường nhắc cho con cháu biết “nuôi Việt Cộng là nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”. Ông nói bữa nay má tôi may áo che cho họ ấm lưng, dì Bảy cho họ ăn đẫy bụng, ngày mai nếu hai bà từ chối tiếp tế họ, hai bà sẽ bị ghép vô tội phản phúc. Ông chửi “cách mạng”; ông không tin có mặt nào muốn làm cách mạng thiệt tình. Họ là quân cướp có tổ chức. Ông hăm doạ hoài, ông nói Cộng sản ngoài Bắc sẽ vô đây cướp giựt, và vết tới cạn miền Nam, bắt dân miền Nam làm tôi mọi cho đảng cộng sản, ông ngoại biết dì Bảy và Hồng Nga, Hoàng Mai hoạt động mật với Việt Cộng, nên ông ra lịnh cấm bất cứ con cháu nào của ông bước ra khỏi miếng đất này với lý do không chính đáng.
Ông ngoại kêu Việt Cộng là đồ “khát máu”. Chị Yvonne lớn tuổi; 9 tuổi tôi mới vô lớp năm, còn chị đã học lớp nhì rồi, nên chị chơi chữ với tụi tôi. Chị đố tôi và chị Thuận có hiểu ý nghĩa của danh từ “khát máu” không? Tôi thì nói có nghĩa là muốn máu, muốn giết người để uống máu. Chị Thuậti thì nói “khát máu” là không cùng một dân tộc, không cùng một giống nòi. Chị Yvonne ngoe ngoải đi, rồi nói: “Hai đứa bay đúng mà sai”. Tôi ghé tai nói nhỏ với chị Thuận: “Lớn đầu mà ăn hiếp con nít”.

Ông ngoại rầy la thì cu rầy la, dì Bảy hội họp với cán bộ nằm vùng thì cứ hội họp, nhưng kín đáo hơn, để ông ngoại không hay biết gì hết. Dì cũng không ngưng việc ủng hộ và đóng góp cho Việt Cộng.
Có lần, một ông công an nói với ông ngoại tôi:
- Ghé thử coi có gặp con rể của ông ãa về chơi không?
Ông ngoại tôi liền trả miếng:
- Tôi trọng thưởng mấy chú, nếu mấy chú bắt được con rể đem nó về đây cho vợ con nó. Làm ơn đừng có tới lui đây hoài, gây rắc rối gia đình tôi lắm.
Hộ không bao giờ được mời vô nhà nghỉ chân, hay được uống một ly nước mưa, nhưng họ vẫn tới, vẫn rình rập.
Đúng như má tôi đã nói, hoàn cảnh của chúng tôi rất tế nhị, đứng giữa hai làn ranh, bị cả hai bên nghi ngờ, làm khó làm dễ. Rồi cái ngày tai hoạ giáng xuống gia đình tôi đã tới. Một hôm, má tôi đi Cần Thơ với chị Thảo. Đến chiều, chỉ có một mình chị về với bộ mặt tái mét, hớt hơ hớt hải báo tin má đã bị công an bắt giam để điều tra. Ông ngoại liền phản ứng một cách mau lẹ. Ông thuê ngay một chuyến xe đò, một mình ra Cần Thơ tìm cách cứu má tôi. Đám con nít chúng tôi sợ quá. Tôi khóc thét lên, Hải Vân lầm lì im lặng như một người câm. Tôi hôm đó, chị em tôi không dám ngủ nhà, phải chạy qua ngủ nhà bà ngoại. Bà ngoại đốt nhang cầu xin Phật Bà Quan Âm.
Lúc rời nhà, ông ngoại quả quyết là sáng hôm sau nếu đường xá an ninh, ông sẽ đem má tôi về. Dù vậy, chúng tôi vẫn mong má về sớm hơn, nên mỗi khi nghe có tiếng động bên ngoài, chúng tôi chạy ra cửa với hy vọng thấy má về. Tối đó, tất cả lũ con ông cậu, hai dì, cùng con cháu của các ông bà ngồi đầy nhà bà ngoại chờ tin má.
Về sự ra đi của ba tôi, má dặn đi dặn lại là nếu có ai hỏi thìi trả lời “Ba mất tích”. Chúng tôi chỉ biết vâng lời, nhưng thật ra, không có ai thèm hỏi đám con nít chúng tôi. Bấy giờ nghe tin má bị công an bắt, Hải Vân chỉ sợ người ta giết mất má, nên sụt sịt khóc mà nói:
“Sao má không nói cho họ biết là ba đi ra Hà Nội rồi. Mà người ta đánh chết mà thì làm sao?”.
Chị Yến bồng Hải Vân lên, vỗ về:
“Cưng à, người ta không có đánh má đâu. Má không có tội tình gì hết. Người ta chỉ muốn hỏi má một vài điều rồi cho má về. Đừng có lo gì hết”.
Đúng như lời quả quyết trước khi ra Cần Thơ, sáng hôm sau, ông ngoại dẫn má tôi về bình yên. Ông nắm tay má tôi dẫn đi như dẫn một đứa con nít. Mặt má tôi buồn xỉu, như một con chim sẻ bị thương. Tôi thầm tự nhủ tôi sẽ phải giúp đỡ má nhiều hơn, phải giấu cái buồn, phải đừng cho má biết tôi nhớ ba và anh Khôi, và tôi cũng mong bà ngoại và mọi người an ủi má tôi bằng những lời êm dịu, ngọt ngào. Chúng tôi chợt để ý đến vẻ lo âu hiện trên gương mặt ông ngoại, tôi đoán ngay rằng phải có chuyện không êm, ông ngoại mới lo như vậy.
Má tôi được Công an cho ra về thong thả, vì ông ngoại tôi gặp thẳng ông trưởng ty Công an và cho biết ông từng là Xã trường của Bang Thạch trong nhiều năm, có uy tín trong dân chúng. Ông xin bảo lãnh cho má tôi, ông cũng quả quyết rằng tất cả gia đình tôi không ai biết ba tôi và các cậu đi đâu và hiên ở đâu. Ông còn nói thêm rằng chúng tôi không về phe cộng sản để phá hoại nền trị an của miền Nam. Nghe ông trình bày như vậy ông trưởng ty công an bằng lòng cho má tôi được tự do.
Khi má tôi ra khỏi nhà giam, ông đưa má tôi tới nhà cậu mợ Hai Định ở gần trường canh nông để tạm nghỉ qua đêm. Ông cũng cho biết là ông không thể cản trở công an rình mò, theo dõi để kiếm cho ra ba tôi và các cậu, ông cũng không có quyền hạn gì cấm đoán họ tiếp tục làm khó dễ má tôi, hay lại bắt má tôi nữa. Ông kết luận là má tôi phải tìm cách thoát ra khỏi cảnh “chạy ông mà mắc ông mả”, một bên là phe quốc gia miền Nam, một bên là các cán bộ cộng sản nằm vùng, vừa đe doạ vừa ép buộc má tôi phải theo họ.

_____________________________

Chương 5

Sau khi bị công an bắt giam, má tôi quyết định rời khỏi Cần Thơ. Gia đình tôi phải đến một nơi mà không ai biết dĩ vãng của chúng tôi, để không bị quấy nhiễu nữa. Má tôi năn nỉ ông ngoại đừng buồn vì sự ra đi này. Má tôi biết ông bà ngoại không bao giờ muốn con cháu xa Cần Thơ. Nhưng má tôi cũng biết ông bà không thể bảo vệ chúng tôi được. Ông ngoại, bà ngoại tôi buồn lắm, đành chấp nhận sự xa cách. Ông thở dài dặn má tôi:
“Con đi đâu thì đi, miễn là chỗ tử tế, bình yên cho sắp nhỏ tiếp tục học hành là cậu mừng”.
Muốn không ai biết lý lịch của mình, chúng tôi phải đến chỗ đông người. Chỗ ấy, ngoài Sài gòn ra, không còn nơi nào khác nữa. Sài gòn cách Bang Thạch cả 375 cây số, đủ xa để không còn bị công an phe quốc gia dòm ngó, mà bọn cán bộ Việt Cộng nằm vùng không thể uy hiếp bắt ủng hộ hay đóng góp nữa, hy vọng là được tạm yên.
Từ ngày đó, má tôi phải làm việc nhiều hơn để có dư tiền trong thời gian đầu ở nơi đất lạ. Theo sự tính toán của má, một người trong gia đình tôi phải đi Sài gòn để gặp người lo chuyện nơi ăn chốn ở. Hai chị Kim, Cương mắc đi học, khi về nhà con phải giữ em cho má làm việc. Tôi mới học lớp năm ở trường làng. Thầy giáo Dần là bạn học của má, nên ông thông cảm cho sự vắng mặt của tôi, nghĩa là tôi sẽ không bị thầy cho “hột vịt”. Tôi trở thành một giao liên tý hon, với nhiệm vụ lên Sài gòn trước để gặp người bạn cũ của ba má tôi là có Ba. Tôi tin không một ai trong nhà lại có thể nghĩ rằng má tôi đã giao cho trách nhiệm nặng nề này. Suốt tuổi ấu thơ, tôi chỉ quen sống trong vùng giải phóng rèng nú, quê mùa. Gần đây mới được đến chốn thành thị, còn bỡ ngỡ, chân chưa hết phèn, mà dám đi Sài gòn một mình. Trong lòng, tôi vừa sợ vừa mừng. Sợ, vì tôi thường nghe nói Sài gòn là nơi đô hội, nhiều cạm bẫy, lừa lọc, mà tôi chỉ là một đứa con nít nhà quê. Mừng, vì sắp được đi Sài gòn coi nó ra làm sao. Trước đó, ông ngoại có dậu qua câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Chị Yvonne hay chị Thảo vẫn chưa đặt chân lên Sài gòn, chưa mạo hiểm như tôi, một đứa vai em.
Cho đến nay, tôi vẫn chưa quên được cuộc phiêu lưu của đứa bé nhà quê lên tỉnh, đi tới một thành phố lớn nhứt nước, đi tới “Hòn ngọc Viễn Đông”. Má và bà ngoại cho tiền bỏ túi, nên tha hồ ăn hàng suốt từ Cần Thơ tới Sài gòn! Từ Bắc Cần Thcr, Bắc Mỹ Thuận, ở bến xe Vĩnh Long, bến xe Taâ An, rồi cầu Bến Lức, nơi nào tôi cũng thưởng thức món ăn đặc biệt của nơi đó, và tôi không hiểu làm sao cái bụng nhỏ bé của một đứa con nít mới mười tuổi mà chưa được nhiều như vậy. Nào là bánh phộng khoai, bánh lá dừa, chuối nếp nướng; nào là mía, ổi, mận, trái cóc, khóm, rồi cả na muối, me ngào, v.v… ăn món nào tôi cũng ước nó có em tôi cùng ăn với mình. Khi xe đến Phú Lâm thì không còn hàng quán nữa, tôi giải trí bằng cách coi bảng quảng cáo hai bên đường, vừa hay vừa lạ. Chẳng hạn, người ta quảng cáo thuốc đánh răng Hynos bằng hình ảnh một người đen thui, nhe hai hàm răng trắng bóc ra cười. Sự tương phản của mầu sắc đã tăng giá trị của món hàng được quảng cáo. Dầu cù là Mac Phsu trị bá chứng cạnh tranh với dầu Khuynh Diệp bác sĩ Tín. Dầu nào cũng khoe mình hay, mình tốt nhứt. Lại có một tấm bảng quảng cáo thuốc lá với câu “Người sành điệu, hút thuốc Mélia”. Tôi nghĩ ngay tới ông ngoại và cười thầm, vì ông tôi chỉ hút thuốc rê, như vậy là ông không “sành điệu” rồi! Mà cần gì sành điệu ông cứ hiền từ, yêu thương, đùm bọc con cháu là chúng tôi vui rồi. Với ý nghĩ đó, tôi cười một mình.
Má tôi không có địa chỉ của cô Ba, chỉ biết địa chỉ của cô Mỹ Ngọc, chủ trường nữ công Mỹ Ngọc. Cô Mỹ Ngọc là bạn thân, cũng là những người trong đại gia đình Việt Minh trước kia. Má tin rằng tôi gặp được cô Mỹ Ngọc là sẽ gặp được cô Ba.
Khi bước ra khỏi xe ở bến xe đò Sài gòn, tôi vừa hoang mang, vừa sợ sệt. Trước đôi mắt nhỏ bé của đứa con nít như tôi, bến xe đò Sài gòn sao mà rộng mênh mông. Bến xe Cần Thơ, đối với tôi là rất lớn, vậy mà so với bến xe Sài gòn thì thua xa, tiếng động chung quanh cũng làm tôi náo nức. Tiếng rao hàng, tiếng nổ của những máy xe, tiếng chào mời khách của các anh lơ… cũng khác lạ với tiếng ồn ào của bến xe Cần Thơ. Mùi xăng nồng nặc trộn với mùi rác rến bị đốt, cũng làm tôi có cảm giác xa lạ. Cần Thơ có xe lôi, Sài gòn thì có xích lô đạp. Chỉ nhìn mấy bác lái xe xích lô máy chạy vun vút trên đường, tôi cũng đã thấy sợ rồi. Tôi nghĩ rằng mấy người ngồi xích lô máy phải gan lì lắm, vì với tốc độ ấy, xích lô máy có thể đâm bổ vô xe taxi chạy trước bất kỳ lúc nào.
Tôi cẩn thận đưa tay nắn túi để biết chắc lá thơ má tôi viết cho cô Ba còn nằm yên trong đó, rồi kêu một chiếc xích lô đạp để tới trường nữ công Mỹ Ngọc ở đường Trần Hưng Đạo.
Cô ba Mỹ Ngọc đi vắng, nhưng may mắn là có một chị học trò của cô biết má tôi. Chị kêu tôi vô nhà tắm rửa, nghỉ ngơi chờ cô Ba, dượng Ba về. Tôi rất áy náy về sự đón tiếp nồng hậu của dượng Ba và cô Ba. Cả hai người thay nhau vồn vã hỏi thăm má tôi và các chị em tôi. Cô Ba còn nhét tiền vô túi tôi để “ăn kẹo”. Cuối cùng, cô Ba kêu xích lô, trả giá rồi trả tiền trước, bảo họ chở tôi tới nhà cô Ba.
Có Ba đẹp như những nàng tiên trong các chuyện cổ tích má tôi được nghe kể từ hồi còn nhỏ. Có ôm choàng lấy tôi như vừa được gặp lại đứa cháu yêu thất lạc từ nhiều năm, sau khi nghe lời xưng danh: “Cháu là con ông Đặng Văn Quang”. Rồi cô rối rít hỏi tôi về má, về anh chị chúng tôi. Cô đặt một lúc nhiều câu hỏi quá, khiến tôi trả lời không kịp. Sau khi đóng của ngoài lại, cô dẫn vô phòng khách. Hai cô cháu ngồi trên một cái ghế trường kỷ. Lúc đó tôi mới gỡ cây kim tây, mở túi áo, lấy thơ của má đưa cô. Nửa chừng, cô ngưng đọc, nhìn tôi, vừa nói vừa lắc đầu: “Ba cháu dại quá, dại như mấy người theo tiếng gọi của núi sông, kể cả dượng của cháu đây”. Có chỉ tay lên hình của một người đàn ông trên bàn thờ.
Chiều hôm đó, sau khi ăn cơm, có để tôi ở nhà một mình, cô phải gặp mấy người bạn để nhờ họ giúp má tôi tìm nơi ăn chốn trên Sài gòn. Cô dặn tôi phải tắm rửa sạch sẽ trước khi đi ngủ. Lúc mới tới nhà cô Ba Mỹ Ngọc tôi đã tắm một lần, vì quần áo và người tôi đày bụi đường xa. Lần tắm này thật ra không cần thiết, nhưng tôi tò mò muốn biết cái nhà tắm của dân Sài gòn nó ra làm sao. Trời ai, sao nó vừa đẹp vừa thơm, ngoài sự tưởng tượng của tôi. Cái bông sen thật lớn, nước chảy mạnh ào ào. Tôi để nước xối lên đầu thật lâu mà không muốn tắt. Cái khăn lau mình có mùi thơm như mùi phấn em bé. Tôi nghĩ đến ba đứa em tôi ở nhà, đến cây đèn đốt bằng dầu lửa. Tôi bỗng nhớ nhà vô cùng. Lúc đó, nếu cho tôi đổi mùi thơm của cục xà bông để lấy mùi dầu lửa, tôi sẽ chọn mùi dầu lửa ngay, để được gần gia đình. Chỉ mới xa nhà có một ngày mà tôi đã nhớ nhà quá rồi!
Tắm xong, tôi chợt nhận ra rằng tôi đang ở một trong căn nhà rộng thênh thang. Chung quanh chỉ có một sự im lặng đến sợ. Đâu đó, một vài con muỗi vo ve, và trên trần, con thạch thùng thỉnh thoảng lại chạc lưỡi. Hình Đức Mẹ đồng trinh treo cao, phía dưới là hình một người đàn ông trạc bốn mươi. Bỗng dưng tôi nhớ lại một chuyện ma mà ba tôi đã kể cho chúng tôi nghe. Đó là chuyện một người đàn bà sống cô độc trong một ngôi nhà lớn. Chồng và con trai ba chết sớm. Đáng lẽ bà phải chôn cất hai người đó, nhưng vì qua tiếc thương, bà ướp hai cái xác đó để trong hai cái hòm, rồi ngày ngày mở ra nhìn. Một mình đứng giữa căn nhà trống vắng tràn ngập một sự im lặng đáng sợ, tôi là nạn nhân của trí tưởng tượng phong phú của chính tôi. Tôi bỗng tưởng như ai đang sờ ót tôi. Thế là tôi không còn hồn vía nào nữa, có giò phóng nhanh ra ngoài sân, ngồi ở bậc thêm chờ cô Ba.
Cô Ba đem một hộp cà-rem về cho tôi. Kem thơm mùi sầu riêng. Tôi thầm ước có em tôi cùng thưởng thức hương vị lạ này. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn cà-rem.
Tôi đang ăn, cô Ba chợt hỏi tôi có muốn làm con nuôi của có? Cô không có con. Có hứa sẽ yêu thương tôi như má tôi yêu thương tôi vậy. Tận đáy lòng, tôi không tin có ai trên đời này thương con bằng má tôi thương chúng tôi. Nhưng tôi không dám nói ra điều đó.
Cô Ba cố gắng thuyết phục tôi:
- Con à, má con có một mình mà phải nuôi sáu miệng ăn. Để cô tiếp má con cho nhẹ bớt cái gánh nặng.
Tôi ngây thơ thành thật trả lời:
- Con đâu phải là gánh nặng của má con. Con giúp má con nhiều chuyện lắm. Nếu con theo cô, má con nhớ con chết.
Có Ba nhìn tôi âu yếm, làm tôi cũng thấy e ngại. Nhưng tôi không thể trở thành con nuôi của cô được. Tôi đã mất ba, khoiii lẽ bấy giờ tôi lại mất má nữa sao? Tôi không muốn trở thành một đứa bé lạc loài. Hai tiếng “con nuôi” nghe buồn quá, vì vậy tôi quyết liệt từ chối mà không sợ cô giận. Dù vậy, tôi vẫn tỏ ý cảm ơn lòng tốt của cô, và hứa khi nào gia đình tôi dọn lên Sài gòn tôi sẽ dẫn em tôi tới thăm cô, và có thể ngủ lại với cô. Biết không thể thuyết phục được tôi, cồ đành dặn tôi phải giữ lời hứa, rồi vò đầu kêu tôi đi ngủ trước, vì cô còn phải thức để viết thơ cho má tôi.
Sáng hôm sau, có đánh thức tôi dậy sớm, dẫn tôi đến một nhà tt hang Tây để ăn sáng. Tôi ăn bánh croissant và uống một ly sữa với chocolat. Đây cũng là những món ngon vật lạ, lần đầu tiên được thưởng thức. Mỗi lần được ăn ngon, tôi lại nhớ đến các em tôi. Tôi cảm thấy bồi hồi, nóng bụng, mong sao được về lại Cần Thơ lẹ lẹ, dù ở đó tôi chỉ có hột gà chiên, hoặc cháo với hạt muối mỗi buổi sáng trước khi đi học. Miếng ngon vật lạ không đủ sức quyến rũ tôi, vì lúc nào tôi cũng nặng tình với gia đình
Ăn xong, cô Ba đưa tôi ra bến xe đò lục tỉnh. Má tôi đã đưa tiền để tôi mua giấy xe bận về, những cô Ba vẫn nhét tiêdn vào túi tôi. Có biểu cất đi để dành “ăn bánh”. Tôi cất tiền chung với lá thơ cô viết cho má tôi vào một túi áo bên trong, rồi lấy kim ghim kỹ để khỏi bị móc túi. Trước khi tôi đi Sài gòn, mấy chị bà con của tôi căn dặn đủ điều. Nào là phải coi chừng bọn móc túi, nào là phải đề phòng người ta bỏ thuốc mê…
Trước khi xe chạy, cô Ba dặn tôi nói với má cứ an tâm mà lên Sài gòn, cô sẽ lo liệu đầy đủ cho gia đình tôi. Cô còn thêm:
- Trên Sài gòn, bạn của ba con, bạn của mấy cậu của con nhiều lắm. Ai cũng sẵn sàng giúp gia đình con.
Cô chờ cho tới khi xe đò của tôi rời bến cô mới bước đi. Nhìn theo cô từ xa, tôi thấy cô vừa đẹp, vừa phúc hậu. Tôi nghe mùi nước hoa và hơi ấm của cô hãy còn phảng phất chung quanh tôi
Khi xe ra khỏi thành phố, tôi bỗng nghe lòng rộn rã vui tin Một thứ tình cảm làm cho tôi thấy mình mới mẻ, lớn hơn ngày đi Cần Thơ. Tôi biết rồi, vì tôi đang mang trong túi những tin tốt về cho má tôi.

_____________________________