Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Bí quyết để sống hạnh phúc là biết chờ đợi hạnh phúc của mình.
H. Riviere
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 29

Chủ Đề: Ngàn Giọt Lệ Rơi

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ngàn Giọt Lệ Rơi

    Ngàn Giọt Lệ Rơi


    Yung Krall Đặng Mỹ Dung




    Đặng Mỹ Dung, con gái của ông Đặng Quang Minh (tên thật Đặng Văn Quang) nguyên đại sứ của Mặt trận giải phóng miền Nam tại Liên Xô thời kỳ 1966-1972.
    Đặng Mỹ Dung cộng tác với CIA và FBI để mạng lưới gián điệp Việt Nam hoạt động tại Mỹ thời kỳ 1976-1978, khiến ông Đinh Bá Thi, đại sứ Việt Nam tại Liên hợp quốc bị trục xuất
    *****
    Chương 1

    Trong buổi cơm chiều hôm đó, tôi móc tờ truyền đơn trong túi quần đùi ra khoe tài biết đọc. Đọc xong, tôi hỏi ba tôi là truyền đơn nói gì. Ba tôi nói Hà Nội và Pháp đã đi đến một thoả thuận tại hội nghị Geneve, thoả thuận này mang đến hoà bình cho đất nước của chúng ta. Tây không còn giết chóc dân lành của mình nữa. Thằng Tây thua trận Điện Biên Phủ, mình thắng rồi, Tây sẽ xuống tầu về Tây.

    Điện Biên Phủ, cái tên vang lừng mà tôi thuộc nằm lòng, một địa danh đem đến nhiều hy vọng cho dân tộc Việt Nam. Biết bao nhiêu chiến sĩ đã hy sinh dưới lá cờ của Việt Minh; chiến thắng, là hàng vạn quân thù đã bỏ thây nơi trận địa này, rồi mang theo giấc mơ thống trị Việt Nam trong giấc ngủ thiên thu của họ. Tướng Võ Nguyên Giáp, vị tướng lãnh chỉ huy trận đánh lịch sử này trở thành anh hùng dân tộc. Bấy giờ, gia đình nào có con em đi bộ đội, gặp nhau ồn ào ra mặt. Người người hãnh diện với chiến thắng này, với sự đóng góp và hy sinh của gia đình họ.

    Má tôi đếm trên những ngón tay mềm mại của bà rồi dặn tôi, đừng quên lúc tôi lên tám, hoà bình đã trở lại trên xứ sở của mình. Bà dặn đi dặn lại đừng bao giờ quên lúc tôi lên tám Tây thua trận, dân tộc Việt Nam đuổi Tây về Tây, nước Việt Nam được độc lập, tự do. Dù không có tám cây đèn cầy cho tôi thổi để ước được những món quà mà tôi hằng mong ước, nhưng ngược lại, những ước mơ lớn bằng bầu trời của nước Việt đã thành sự thật trên từng tấc đất của quê hương. Ngày đó, tôi hiểu được ý nghĩa của trận mưa xanh.

    Hoà bình! Hoà bình! Hoà bình! Niềm vui rạng rớ trên mặt của ba tôi, trên nụ cười. trong những bước đi lẹ làng của người, khi ông dãn tôi và Hải Vân đến trường làng buổi sáng hôm sau. Đám học trò xếp hàng chào quốc kỳ. Đây là những việc chúng tôi làm hàng ngày, nó đã thành thói quen, nhưng sáng nay buổi chào cờ trở thành trọng đại hơn, và danh dự cho những ai đứng dưới lá quốc kỳ. Khi tụi nhỏ hát bài quốc ca. ba tôi hát với chúng tôi; tôi liếc nhìn, bắt gặp nụ cười trong mắt người. Trong nắng ấm của buổi ban mai này, bỗng nhiên tôi nổi da gà từ đầu cho đến hết cơ thể bé nhỏ của tôi.

    Trong những ngày hạnh phúc tuyệt vời đó, trời đất cũng theo nhịp điệu những con tim rạng rỡ của người dân giành lại được độc lập tự do. Trăng sáng trên sông, thuỷ triều lên cao, cá nhảy trước bến nhà. Gia đình tôi nói đến chuyện dọn nhà về bên ngoại. Tôi vụt nghĩ đến cậu Hai Hợi, người thợ mộc tài ba trong Xẻo Môn đã từng săn sóc, giúp đỡ gia đình tôi mỗi lần phải tản cư. Rồi cậu sẽ vô rước chúng tôi về làng; thế nào cậu cũng sẽ lặp đi lặp lại cái câu quen thuộc: “Dân mình đá đít thằng Tây”. Rồi cậu ăn mừng bằng một xị đế nặc nồng.

    Đời sống của chúng tôi sẽ thay đổi kể từ giờ phút này. Dân trong làng của ông bà ngoại ở ngoài “vùng giải phóng” sẽ không còn sợ sệt, với hai tay cầm nón cung kính khi nói chuyện với quan Tây hay quan thầy nữa. Những người trong xóm “coolie” được trở về làng mạc của họ, để sống với danh dự của nhà nông. Tôi sung sướng khi nh(in thức rằng chúng tôi không còn phải chạy xuống hầm núp trốn máy bay, và tránh những trận mưa bom nữa. Từ đây không còn những trận máy bay oanh tạc. hết xác chết trôi sông, hết nhà cháy, hết thấy mấy con trâu vô tội phơi thây ngoài ruộng lúa và cả người lẫn thú hết sợ thằng Tây!

    Tôi nghe trong tiếng đờn vĩ cầm của ba tôi có những sung sướng này, những tiếng nhạc từ phương xa ba tôi thường giải trí vợ con, đã lâu ông mới đờn lại. Linh hồn của những chiến sĩ đã hy sinh ở Điện Biên Phủ hình như đang lại vang đâu đây với chúng tôi, và tự do đến gần với tầm tay, mà tôi tưởng là mình có thể với tay được.

    Nhưng, những người chế tạo hoà bình ở Hà Nội có những meu đồ khác. Hoà bình theo ý dân chưa đủ: hoà bình giản dị như chúng tôi và người đãn Việt mong muốn không phải là thứ hoà bình mà mấy người ngoài Hà Nội bàn tính với nhau. Tôi không hiểu họ muốn cái gì, khi tôi nghe lỏm những lần ba má tôi cãi lộn nhau. Rồi, tinh thần Điện Biên Phủ chết non trong gia đình tôi. Ba má tôi cãi nhau có khi đến khuya về “xã hội chủ nghĩa” hay con khỉ khô gì đó; còn nhỏ quá tôi không hiểu được. Nhưng hai người cãi nhau, chung qui về cái “xã hội chủ nghĩa”. Má tôi khóc cũng tại nó. Con cái trong nhà, đứa nào cũng đau lòng về những cuộc cãi vã này. Ba tôi bắt má tôi ngồi nghe ông giảng bài cách mạng, ông lại là một người lánh nạn, với một giải thưởng đắt giá treo trên cổ ông. Vì vậy, những giờ phút được gặp vợ con thật là quý báu. Khi nào an ninh được bảo vệ thi ông lén về thăm vợ mới, con thơ.

    Một tên sĩ quan tình báo Pháp nhận đặc trách theo dõi ông. Nó tìm hiểu về những thói quen của ông, biết cặn kẽ về mối liên hệ trong gia đình, về kẻ quen người thuộc của ông. Nó còn biết đến những thứ tiêu khiển, cũng như cái say mê trong lòng của người đàn ông yêu nước này. Nó biết ông sẽ phải về thăm người cha già đang đau nặng. Rồi một buổi trưa nọ, trong khi mọi người đang nghỉ trưa, một thằng Tây và tên tay sai người Việt xóc bảng xuống đến nhà cha mẹ của ông.

    Chúng tưởng chúng đến bất ngờ. Nhưng trong lúc chúng mang giầy Tây đi lụi đụi trên con đường đất dẫn vô nhà ông bang biện Cận, có một thanh niên nhận ra chúng. Anh vội phóng đường tắt về nhà báo động. Ba tôi nhanh nhẹn lấy bộ đồ bà ba của người làm ruộng mặc vô, quấn trên đầu cái khăn sọc của người em gái, giả dạng một thôn nữ, rồi leo lên cây vú sữa, làm bộ hái trái. Tên Việt gian trờ đến, đứng dưới gốc cây, tay che mặt ngẩng đầu lên hỏi cô thôn nữ có biết “thầy giáo Quang” ở đâu không? “Chú vô hỏi vợ thầy hoặc má thầy thử coi” ba tôi trả lời.

    Tên sĩ quan tình báo Tây và tay sai vội làm theo lời ba tôi. Vào nhà, chúng tỏ ra lịch sự, ngọt ngào với má tôi. Chúng nói chúng là những người mến mộ ba tôi, đến xem tác phẩm nghệ thuật của ba tôi (một vài tấm gỗ ba tôi chạm hồi còn đi học). Tên sĩ quan Tây nhìn anh Khôi gật gù khen anh giống cha nhiều lắm. Họ hoi má, ba tôi đâu rồi. Tên tay sai cố làm cho má tôi yên lòng nên nói: “Tôi là bạn của ảnh, chúng tôi từng dậy cùng một trường ở Vĩnh Long cho tới khi tôi đổi qua học mỹ thuật, chị ạ. Chị tin tôi đi”. Câu nói đó không lay chuyển được má tôi. Bà đáp: “Khó mà biết ai tin được, bởi vì chó còn ăn thịt chó nữa kia, ông ơi”.
    Tên sĩ quan Tây vò đầu con của kẻ thù, rồi nói câu thòng trước khi bỏ đi: “Cho cha mi hay là ta sẽ trở lại”.


    Sau khi họ đi rồi, ba tôi từ trên cay tuột xuống ôm lấy vợ con. Lúc đó má tôi đang mang bầu. Ba dặn mà đừng bao giờ trả lời kẻ thù những gì khác hơn là “không biết”. Ông ôm chặt đứa con trai vào lòng thật lâu, rồi xin cha mẹ thương yêu săn sóc vợ con. Sau do ông biến dạng.
    Ngày tháng trôi qua, má tôi không thấy mặt cũng chẳng nghe tin tức gì của chồng. Một đồng chí tin cẩn cho biết là ba tôi đã được lịnh đi bên Xiêm mua khí giới cho cách mạng. Má tôi quyết định dẫn con về làng của bà, vì cũng sắp đến ngày sanh nở. Kỳ nghén này, sức khoẻ của má tôi rất kém; mà lại có song thai, vậy bà cần về bên ngoại để được chị của má săn sóc. Đến ngày má đi sanh. ba xuất hiện một cách bí mật và bất ngờ, lẻn vào nhà thương Cần Thơ chứng kiến một sự nhiệm mầu. Má tôi sanh hai người con gái, trước sau ba mươi phút. Đây không phải là hai cục vàng mà là hai viên kim cương; ba tôi đặt hai chị là Kim và Cương. Một lần nữa, để bảo vệ an ninh cho chính mình, ba tôi lại phải ra đi ngay lập tức.

    Hai năm sau, ba tôi thật sự “biến mất”. Khó mà biết ông ở đâu vì đối với ông, vắng mặt thật lâu đã trở thành thói quen. Nhưng lần này có tin cho biết ba tôi đã bị Tây bắt. Má tôi không tin, nhưng rồi cũng phải tin, vì chính tên sĩ quan tình báo đã một lần đến nhà tôi khoe rằng chính nó đã bắt ba tôi. Ba tôi bị đầy ra Côn Nôn.
    Má tôi che giấu nỗi tuyệt vọng khi thằng Tây ra giá với bà: nếu bà chịu khai với mật thám Tây về những hoạt động cách mạng của ba tôi, thì bà sẽ được phép đi thăm nuôi. Những bà nói là việc thăm nuôi không có ích lợi gì, vì bà đang đau và phải chăm sóc gia đình. Bà nói: Tôi là vợ, chớ tôi không là đồng chí của ổng nên hỏi tôi về việc chánh trị tôi mịt mù không biết gì đâu. Mấy chuyện tôi biết chẳng quan trọng gì với ông. Tôi chỉ biết chuyện thay tã và giờ giấc cho con bú thôi.
    Mấy tháng trôi qua, không có tin tức trực tiếp gì của ba tôi và các cậu. Những người được phóng thích từ khám lớn trở về ghé thăm má tôi. Họ cho biết là ba tôi và hai người anh của ba đã chịu đựng hết các cuộc tra tấn khủng khiếp. Họ khuyên má viết thơ cho ba tôi khuyên ông nhượng bộ để tránh những cuộc khẩu cung dẫn những trận tra tấn dã man. Khi má tôi nghe họ kể tỉ mỉ về những trận tra tấn trong tù và các tù nhân khác, qua xúc động bà muốn nghe lời họ. Nhưng khi má hỏi ý kiến ông ngoại, ông nói “Con nên nghe lời nó dặn lúc nó còn ở nhà. Nó biết chuyện nó làm. Con đừng có nghe lời người ngoài chi biểu. Kiên nhẫn, chịu đựng và đừng viết thơ”.
    Từ tháng này qua năm khác, gia đình không ai nhận được một lá thơ nào của ba. Má tôi cùng hai người chị dâu, mợ Tư Diệp và mợ Năm Sắc, âm thầm chờ chồng. Gia đình chỉ sống với những tia hy vọng mỏng manh qua lời nhắn của những người được phóng thích sớm. Nào là mấy ổng còn sống, mấy ổng còn ở trong tù, mấy ổng bị bịnh, v.v… Có người tình nguyện đem thơ và hình của má và anh chị tôi, vì ba tôi xin được thấy hình vợ con. Má tôi vội dẫn anh Khôi, và hai chị Kim, Cương đi chụp hình. Má làm được việc này hai lần trong suốt năm nam. Như ông ngoại đã dậy, má nhẫn nại nuôi con, chờ chồng. Nhờ tài may vá kiếm đủ ăn, bà còn dành dụm chút ít, với hy vọng trong tương lai sẽ cùng ba sống trong một mái ấm gia đình.
    Tháng Tám, năm 1945, Đệ nhị thế chiến chấm dứt. Ba tôi cùng hàng vạn người làm cách mạng khác bị Tây giam giữ ở Côn Đảo rợi khỏi địa ngục này vào khoảng trung tuấn tháng Tám năm đó. Ông là một trong số hành khách trên chuyến tầu đầu tiên cập bến Đại Ngãi, Sóc Trăng.
    Cau Năm Sắc bị lao phổi nặng. Cậu về trong chuyến tầu thứ hai cập bến tại Cần Thơ cùng với cậu Tư Diệp và 200 đồng chí của hai cậu. Những người còn đủ sức khoẻ đã cong cậu Năm ra khỏi trại xuống tầu. Người thì chống gậy, kẻ lê lết. Họ gào thét trong sung sướng khi an vị trên tầu.
    Ba tôi kể lại: nhiều người qua kiệt sức vì bịnh nặng, vì thiếu dinh dưỡng, nên đã chết trên đường về đất liền. Bởi trong tù, Tây cho ăn cá muối ướp với vôi trắng. nên bị phù thũng. Nhiều người đi không nổi, bạn bè phải dìu dắt ra khỏi những cái chuồng. Việc đầu tiên của những người bị biệt giam là chạy tìm nhau coi ai mất ai còn. Những vòng tay ôm lấy nhau trong ngày ấy cũng trở thành những vòng tay siết chặt trong công cuộc đoàn kết đấu tranh sau này trong vùng giải phóng chống ngoại bang.
    Rồi họ lần lượt xuống tầu rời Côn Đảo, trở về với mái ấm gia đình. Trong cơ thể ba tôi, nhiều ống xương bị gẫy. Bàn tay trại giầy đinh đạp gẫy mấy lóng tay. Mấy lần được thả ra khỏi hầm, ba tôi lấy than vẽ cảnh hoạt động trong sân trại. Bị bọn cai tù cấm nhiều lần, nhưng ông không nghe lời, nên bị chúng đạp lên bàn tay. Ba trải qua không biết bao nhiêu trận tra tấn đớn đau. Những trận tra tấn đó để lại những vết thẹo trên lưng, trên vai, trên tay người làm cách mạng, và sau hơn nữa, có những vết thương trong lòng người đàn ông yêu nước. Nhưng kẻ thù đã thất bại vì nhà cách mạng này không dễ bị lung lạc, không chồn bước và tinh thần lúc nào cũng vững như thành đồng. Đó là tinh thần của một người Việt Nam yêu nước, quyết tâm giành độc lập, tự do cho quê hương mình.
    Tháng chín năm 1945 lại mở đầu cho một chiến dịch mới của Việt Minh. Ba tôi và các cậu rút vô trong bưng, vợ con lần lượt tản cư theo.
    Tháng 5-1946, tôi ra đời, và ba năm sau em tôi nối tiếp. Ba đặt tên em là Hải Vân vì lúc đó bộ đội vừa đánh đèo Hải Vân. Công cuộc chiến đấu của ba tôi không ngừng cũng như cuộc xâm lăng của ngoại bang vẫn tiếp diễn.
    Tôi còn nhớ có một lần gia đình tôi phải bỏ chạy, vì Tây ập đến đốt nhà, phá làng. Gia đình tôi phải chạy xuống một chiếc ghe, tản cư đến một làng khác; nơi đó, gia đình tôi lại bắt đầu cuộc sống mới trong một ngôi nhà mới.
    Như một phim tài liệu trắng đen chiếu đi chiếu lại trong tâm thảm của tôi, mà má tôi là người kể chuyện. Tôi nhà hoài ngôi nhà gần ngã từ Ong Vèo, nằm trong một làng nhỏ cũng trong tỉnh Rạch Giá. Tôi năm tuổi. Hải Vân hai tuổi, má tôi đang mang bầu sắp sanh. Ngôi nhà ngói đỏ, trước hiên có bốn cây cột gỗ mun to tưởng. tôi ôm mà không hết vòng tay. Nhà này không phải là nhà riêng, mà là cơ quan hoạt động chánh trị của ba tôi. Má tôi biết Việt Minh lấy nhà của những chủ điền giầu có để làm trụ sở, các cơ quan và nhà ở cho gia đình cán bộ. Những chủ điền mất nhà phải trở về ruộng cất nhà khác, hoặc phải tạm ở đậu với tá điền.
    Ba tôi không thích chủ trương cướp nhà kiểu này, mà phải âm thầm sống trong hoàn cảnh trái với lương tâm mình. Nhưng rồi má tôi xin tiền của ông bà ngoại để lén trả tiền mướn nhà và đất cho chủ điền. Hành động “phản đường lối” này chỉ có má tôi và chủ điền biết thôi, và mỗi lần di chuyển đến địa phương khác, Việt Minh vẫn mướn nhà, mướn đất như vậy. Má tôi tiếp tục “phản đường lố”. để không bị lương tâm cắn rứt.
    Khi chúng tôi ở Ong Vèo, nhà luôn luôn đông khách. Họ tới để họp với ba tôi hoặc tạm trú để đi chữa răng ở một trạm nha y gần đó. Có người từ miền xa đi công tác ghé qua ăn một bữa cơm gia đình. Con đông, khách nhiều, một mình má tôi lo không xuể. Bà nhắn về Bang Thạch xin ông bà ngoại giúp đỡ, đồng thời gửi cho ba hai người giúp việc. Bà ngoại mướn hai người em cô cậu ruột của má là Dì Mận và Dì Chi vô giúp má tôi; lại thêm chị Hiển, con của người trong làng Bang Thạch để giữ em.
    Thỉnh thoảng có hai người tù đến chèo ghe cho ba tôi đi công tác. Đó là chú Hương và chú Đời. Họ cũng tá túc trong nhà chúng tôi một vài ngày chở ba tôi đi công tác. Họ không có tội gì nặng hay nguy hiểm, nên chị em chúng tôi không sợ. Tội của họ là buôn lậu những đồ từ ngoài thành đem vô.
    Khách của ba tôi là các đồng chí của ông. Họ đến hội họp, ăn uống, đôi khi ngủ lại. Họ chiếm gần nửa căn nhà. Trong khi đó, má tôi chỉ có hai người khách quý, đó là ông bà ngoại của chúng tôi. Thỉnh thoảng nghe Tây bố ở trong khu, nóng ruột vì sự an ninh của con cháu, ông bà vô thăm nom, nhưng không bao giờ để lộ sự lo âu cho ba tôi thấy.
    Một trong những người khách thường xuyên của gia đình là chú Lê Đức Mai. em trai của bác Lê Đức Thọ. Gia đình tôi là gia đình thứ nhì của chú, vì gia đình của chú ở tận ngoài Bắc. Anh Khôi là người bạn tí hơn của chú, và má tôi là người cho chú ăn những bữa cơm thanh đạm của miền Nam.
    Nhà tôi ở gần trạm nha y, nơi bộ đội và những người trong tổ chức cách mạng khắp miền Tây đến chữa răng. Cũng tại cái trạm nha y này mà Ong Vèo không còn là một nơi an cư nữa cho dân làng. Khi Tây phát giác ra trạm nha y và những trụ sở của Việt Minh chung quanh đó, Ong Vèo trở thành mục tiêu cho những trận không tạc khủng khiếp không ngừng.

    Gia đình tôi phải tập đi tập lại để thuộc lòng con đường chạy trốn máy bay. Hầm núp cũng thay đổi vị trí hoài. Tất cả người dân đều được phân công rõ ràng, mỗi người có một trách nhiệm khi nghe tiếng máy bay từ xa. Dì Mận và Dì Chi có trách nhiệm mang theo những đồ quý giá trong nhà lúc chạy máy bay. Tôi nhớ là nhà tôi trong vùng kháng chiến không có cái gì quý giá, chỉ có tánh mạng chúng tôi và cái bàn máy may của má. Lần nào chạy máy bay, cái đầu máy cũng được mang trước. Nó nằm trong bụi tre cho tới khi Tây bay đi xa rồi mới được đem vô nhà.
    Tôi được dặn kỹ là phải chạy theo sát bên má, trong khi má bồng Hải Vân. Để không chết chùm, hầm trú ẩn của ai thì người này phải trốn vô đó. Riêng má tôi và Hải Vân thì cùng xuống một hầm vì nó còn nhỏ quá, không thể để nó một mình.
    Có một thời, anh Khôi và hai chị Kim, Cương đi học ở một trường nội trú tỉnh Bạc Liêu. Mỗi lần máy bay của Tây tấn công Ong Vèo, má lại lo cho ba người ở xa. Rồi chính ngôi trường đó bị Tây bỏ bom cháy rụi; ba anh em phải trở về nhà, chừng đó má và thêm ba đứa con để trông chừng mỗi lần chạy máy bay. Tóm lại cuộc sống trong bưng biền của chúng tôi, ở đâu rồi cũng sợ. Sợ chết chùm, sợ chết lẻ loi, sợ chết trôi chết nổi, sợ phơi thây ở rừng sâu nước đọc. Sợ thằng Tây lông lá, sợ người Việt ngã lòng vì không khuất phục được những thử thách quá khó khăn.
    Tôi thường nhớ đến tuổi thơ của tôi, đến quãng đời với nỗi sợ hãi đó. Kỷ niệm về cuộc sống ở Ong Vèo vẫn còn trong trí nhớ của tôi, vẫn còn ấm trong con tim của người fon gái đã sống với đất nước và dân tộc.
    Nhà tôi ở không xa cái chợ chồm hổm, nơi dân làng tụ hội, ăn uống, đổi chác cá, khoai, gà, vịt. Người ta cũng tới đây ban đêm để nghe Việt Minh tuyên truyền, nghe đi nghe lại những khẩu hiệu chống Pháp cứu nước. Có một lần chị Hiển, người giữ Hati Vân, bồng em và dẫn tôi theo chị ra đầu làng coi “Bà Bông”. Cái Bà gì mà dơ dáy, bẩn thỉu, bị nhốt trong cái chuồng để ở giữa chợ chồm hổm cho người ta tới coi. Mặt “Bà” bị bầm tím, đầu tóc rối nùi. Một anh bộ đội mang súng trên vai đứng canh người đàn bà bất hạnh đó. Má tôi cũng không hiểu sao bá ấy cứ la: “Tui là đàn bà, chứ không phải là đàn ông, thả tui ra”. Bà còn vạch áo cho người là bu chung quanh chuồng thấy áo nịt ngực, rồi la lớn hơn : “Coi nè, tui là đàn bà!”.
    Tôi càng không hiểu, vì người đó không có vú như mấy dì, em bà con của má. Ngực của người đó lép như ngực của chú Hương và chú Đời. Về sau tôi mới hiểu người đàn ông đó trá hình đàn bà. Nhà cầm quyền địa phương nhốt ông ta vô chuồng để răn những ai dám phô trương họ thuộc loại đồng tính luyến ái.
    Tôi không dám nói với ai là tôi thương hại người đó, và tiếng kêu gào của người trong chuồng làm tôi thao thức nhiều đêm.

    Ở Ong Vèo, ba tôi có những công tác gần nhà, nên người thường có mặt ở nhà. Vì vậy, ông chơi với chúng tôi nhiều hơn trước. Ba tôi thường đờn vĩ cầm, và dậy anh Khôi những ngón đờn mà anh hay bị trật lên trật xuống. Tôi mò mẫm được mấy bài hát nho nhỏ qua cây đờn mandoline của anh Khôi. Ba tôi đã kèm cho tôi đờn được bài quốc ca. Tôi còn nhớ bàn tay bé nhỏ của Hải Vân trên những sợi dây đờn. Nó dùng ngón trỏ móc những dây cho kêu lên để cả nhà vỗ tay tán thưởng, vào thời đó, nhà tôi vui lắm, luôn luôn có tiếng đờn tiếng hát của người lớn lẫn trẻ thơ, tiếng má ru em, tiếng mấy dì “hò khoan”, tiếng chị Hiển “ù ơi, dí dầu” để ru ngủ Hải Vân trên cái võng. Anh chị em chúng tôi hay nghêu ngao hát bài “Tình đồng chí”.
    Quê hương anh nước mặn đồng chua
    Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
    Anh với tôi đôi người xa lạ
    Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
    Súng bên súng, đầu sát bên đầu
    Đêm rét chung chăn, thành đôi tri kỉ
    Đồng chí!
    Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
    Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
    Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính
    Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
    Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
    Áo anh rách vai
    Quần tôi có vài mảnh vá
    Miệng cười buốt giá
    Chân không giày
    Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.
    Đêm nay rừng hoang sương muối
    Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
    Đầu súng trăng treo
    (1948)
    Chúng tôi hát cho quê hương nghèo khổ, giặc giã, cho tình đồng chí trung kiên. Chúng tôi ca ngợi những chàng trai yêu nước, các anh vệ quốc quân nằm gai nếm mật, những bà mẹ chiến sĩ thương con, thương cả những người con xa gia đình> Mối thù quan xâm lăng đã vĩ đại trong từng con tim nhỏ bé của chúng tôi từ lúc ấy, và tình yêu đất nước có sẵn trong tim và nó tự nhiên như tình yêu ông ba, cha mẹ.
    Sáng sớm, ba má tôi hay ra bắt sâu, nhổ cỏ trong cái vườn nhỏ sau hè. Ba tôi trong sâm cho má uống để có thêm chất bổ, cho “mẹ tròn con vuông”, vì má tôi đang có thai.
    Một hôm đi ăn giỗ về, vừa mở cửa bước vô nhà, ba tôi vui vẻ khoe rằng có người dưới xóm chỉ cách cho ông nuôi tằm lấy tơ. Má tôi nghe xong chỉ lắc đầu cười. Nhưng ba tôi như một đứa trẻ vừa có món đồ chơi mới. Ông chọn cái hiên bên hông nhà, rồi cùng anh Khôi xây dựng cho nuôi tằm, ông vừa làm vừa hát. Người nuôi tằm cho ba tôi hai vỉ tiằ. Trò giải trí của ba tôi chẳng bao lâu trở thành công việc bận hàng ngày của má, dì Chi và dì Mận. Khi tằm sinh sôi nảy nở quá nhiều, má phải mướn người xắt lá dâu cho tằm ăn. Tôi thấy mỗi lần rải lá dâu lên những con tằm trong vỉ, là chúng trườn lên đống lá ngay, ăn lẹ hơn con của má tôi ăn vặt.
    Ba tôi đi công tác xa đến gần Tết mới về, và dẫn theo một người con trai trạc tuổi anh Khôi, mười lăm hay hay mười sáu gì đó, tên là Nhãi. Anh Nhã ốm như cây tre miễu, tóc anh hớt ngắn, trông xấu xí như có lần anh Khôi bị một người thợ lạ làm hư mái tóc đến nỗi anh phát khóc. Khi ba tôi giới thiệu người con trai nhút nhát, nhỏ nhẹ này với má, tôi mới biết là ba má đã nhận 4 người con nuôi hồi nào má tôi không biết, nay dẫn về nhà ra mắt má và các em. Lúc vắng mặt anh Nhã, anh Khôi cho tôi biết má của anh Nhã chết trong một trận máy bay oanh tạc ở làng của anh. Còn ba anh thì bị ho lao chắc cũng sẽ chết. Kể từ ngày gia đình tan nát, anh ở với ông nội. Nay ông cũng đã quá già. Ông nội và ba anh đã xin ba má tôi nhận anh làm con nuôi. Trong những năm loạn lạc, ba má tôi làm cha mẹ đỡ đầu, cha mẹ nuôi của nhiều trẻ mồ côi. Lúc đầu, vừa nghe anh Nhã kêu má tôi là “má”, tôi coi anh là đối thủ liền. Tôi ganh với anh, vì mấy ngày đầu, ba má săn sóc anh nhiều quá. Anh Khôi hiểu được nỗi lòng của tôi qua những cử chỉ và ánh mắt của tôi, nên anh dẫn tôi ra sau hè, rầy cho một trận. Anh nói mình nên chia sẽ cái diễm phúc của gia đình mình, chia tình thương của ba má cho anh Nhã; phải thương anh ấy. Tôi lắng nghe nhưng không hứa hẹn gì hết, vì còn muốn coi anh ấy có đáng được thương không. Anh Khôi chê tôi là “đồ xấu bụng”. Tôi không sợ mà chỉ biết là tôi đang ghen với “cây tre miễu” này. Những sau đó thấy anh Nhã hiền, hoà mình với tất cả mọi người trong nhà. Anh kiên nhẫn chơi với con nít. Một buổi sáng nọ, ba tôi ngồi trước mái hiên nói chuyện với con cái, trong đó có cả anh Nhã. Ba dậy cho chúng tôi biết ánh sáng của mặt trời là một nguồn năng lượng quý giá. Khi ở tù, mỗi lần bị biệt giam dưới hầm đất ẩm ướt, ba ts khổ cực vì chật chội chỉ đủ để trở mình; lúc ngủ thì phải nằm co như cái bào thai trong bụng mẹ. Chỉ tiếp xúc được với thế giới bên ngoài nhờ một cái lỗ nhỏ đủ rộng cho cai tù đưa đồ ăn xuống. Ba tôi bị ghẻ lở đầy người. Để giữ gìn sức khoẻ, sáng nào cũng chờ mặt trời lên cao, ba tôi cởi hết quần áo ra, kiên nhẫn “tắm nắng” dưới tia sáng của mặt trời qua cái lỗ nhỏ. Cuối cùng, khi ông được kéo lên khỏi hầm, thằng Tây cai tù ngạc nhiên nhìn cái vai rám nắng của ba tôi. Nó đưa tay lên chào tỏ vẻ thán phục.
    Mỗi lần nghe ba kể chuyện ở tù ngoài Côn Đảo, hai chị Kim Cương đều ôm ba khóc. Anh Khôi thì tỏ vẻ tức giận những kẻ hành hạ ba. Tôi thầm hãnh diện về người cha can đảm của mình.
    Nghe xong chuyện năng lượng rnặt trời, tôi quyết định đi kiếm chút mặt trời cho mình, vì ba còn cho biết ánh sáng mặt trời không những bồi bổ cho da, mà còn có thể giết vi trùng lao nữa. Như những đứa trẻ khác, tôi sợ người cùi, tôi sợ ma. Nhưng chưa bao giờ tôi thấy cùi hay ma. Bây giờ tôi sợ luôn vi trùng lao, vì cậu Năm của tôi đi tù về đã chết vì bịnh lao. Từ đó tôi sợ anh Nhã đem vi trùng lao của ba anh về nhà này, những cũng không dám thổ lộ cho người lớn biết, sợ bị chê là “do xấu bụng” nữa.
    Sáng hôm saui, tôi lấy chiếc chiếu trải giữa đường đi từ nhà ra hè, nhắm mắt lại (vì ba dặn không nên nhìn thẳng tia nắng sẽ làm hư mắt). Một lát sau, đang thiu thiu ngủ, tôi nghe như có tiếng của một đàn trâu đi tới từ đang nhà chú Tư Nhờ - một chủ điền giầu có trong vùng. Ông có một bầy trâu lớn lắm. Tiếng động càng lúc càng lớn haơ, gần hơn, làm tôi phải mở mắt ra mới biết rằng tôi không mơ, mà có cả trăm con trâu chen lấn nhau đi về phía tôi. Cùng một lúc, tôi nghe kêu hốt hoảng, tiếng của hai chị xen lẫn vào tiếng chân của đàn trâu. Lại có tiếng người la lớn: “Nằm xuống, đừng nhũ nhích”. Tôi vội nằm sát xuống mặt đất, không dám cựa quậy, hé mắt nhìn bầy trâu chuyển hướng. Chúng rẽ thành hai hàng, rồi từng con trâu khổng lồ đi qua chỗ tôi nằm, những con não cũng tránh đạp lên mình tôi. Khi con trâu cuối cùng đi khỏi, anh là người đầu tiên chạy ra xớt tôi lên. Như có một sự mầu nhiệm, tôi không bị hề hấn gì.
    Lớn lên tôi sống trong cảnh nồi da xáo thịt của đất nước, nhiều lận tôi hỏi Thượng Đế: “Sao Ngài dậy được con trâu không giết tôi mà không dậy được con người đừng giết nhau?”.
    Ở đây có giông bão, có muda mưa nước lụt, có bầy trâu của ông Tư Nhờ mà má tôi sợ. Nhưng thiên tai không phải là nguy cơ. Tây mới là thảm hoạ, vì họ đã khám phá ra nha y và những hoạt động của Việt Minh tại Ong Vèo. Nhà cầm quyền cách mạng bắt đầ cbh để dời các cơ quan đến một địa điểm bí mật khác. Mhg chưa kịp tản cư thì căn cứ Ong Vèo bị oanh tạc liên tiếp mấy ngày trời. Nhiều nhà trong làng bị cháy; họ không cònchỗ nào trú ẩn nữa. Nhiều người nghĩ rằng người Pháp đem Thiên chúa giáo tới đây, có thể máy bay của chúng vị nể Chúa của họ, sẽ không bỏ bom nhà thờ. Vì vậy có nhiều người khi thấy máy bay từ xa, xúm nhau chạy vô nhà thờ trốn. Nhưng máy bay cũng bỏ bom nhà thờ; người chết đầy dưới chân Chúa.
    Trong những ngày bom đạn đổ xuống làng tôi, thì ba tôi lại đi công tác chưa về. Trong nhà không có đàn ông, chỉ có anh Khôi. Một hôm, khi nghe tiếng máy bay đến gần, anh dẫn hai chị em xuống hầm núp, má bồng Hải Vân, tôi chạy sát bên má. Lúc ba mẹ con băng qua cây cầu dừa, một chiếc máy bay sà xuống bắn, đạn bay tứ tung, cây cầu sập. Nhưng tôi chạy trước nên phóng qua bên kia bờ được. Má và Hải Vân rơi theo cây cầu xuống rạch rồi bị lún sình; Hải Vân khóc thét lên làm tôi hoảng hơn, tưởng em bị đạn. Mà la lớn, cho biết là em vì sợ mà kêu, chớ không hề hấn gì. Mà kêu tôi tới tiếp má bồng em để má leo lên bờ. Nhưng Hải Vân sợ quá, không chịu buông má ra. Má nhìn quanh, thấy cái vỏ đạn đồng sáng trưng, còn nóng hổi, bèn lượm lên đưa cho Hải Vân cầm chơi. Nó quên sợ, đưa tay cho tôi ẵm. Má tôi nặng nhọc với cái bụng bầu, bò lên khỏi cái rạch sình lầy.
    Chúng tôi ngồi trên bờ một lát, chưa biết máy bay có trở lại nữa không. Có khi chúng quay lại bỏ bom lần nữa, có khi cả tuần dân chúng được bình yên. Bỗng lại có tiếng máy bay. Má tôi vội vàng tuột ngay xuống mương, bồng Hải Vân theo. Tôi nằm up như dán mình xuống sát đất. Lần này có hai chiếc máy bay nối đuôi nhau. Chúng vừa bỏ bom, vừa ria súng bắn xuống đất, đạn bay vèo vèo. Đất văng vô mặt, vô mình tôi. Tôi ép sát mình xuống đất hơn nữa. Tôi van với Trời Phật, van vái linh hồn của ông bà, những người thân thuộc đã chết về phù hộ, che chở chúng tôi. Ông bà nội tôi đã qua đời trước khi tôi ra đời, nên tôi thường than van với ông bà mỗi khi chúng tôi gặp hoạn nạn.
    Sau mỗi cuộc oanh tạc, biết mình được an toàn, chúng tôi thường nhớn nhác chạy tìm nhau để xem ai còn, ai mất, hoặc có ai bị thương tích gì không. Lần này cũng vậy, tôi theo má đi tìm anh Khôi, hai chị Kim, Cương, dì Mận, dì Chi và chị Hiển. Tất cả đều binh yên vô sự. Những mồ mả của gia đình ông chủ đất bị trúng bom. Xương khồ từ dưới mồ văng lên ngổn ngang trên mặt đất.
    Gia đình tôi rời Ong Vèo vào một buổi chiều. Hôm đó hình như trời có sắc vàng hơn những buổi chiều trước đó. Tại sao. Chắc Ong Vèo muốn đứa bé tinh nghịch này nhớ thương mảnh đất đó suốt đời. Làm sao mà quên được! Tôi đem theo trong lòng mầu lá non của cây ôti trước nhà. Miệng tôi còn nghe vị chát đắng của những trái ổi non mà tôi không đủ kiên nhẫn chờ đến lúc chín được, và dĩ nhiên là những trái ổi chín ngọt chim ăn mất một nửa trên tán ngọn cây, tôi ăn phần còn lại. Anh Khôi cất cái nhà trên cây để tôi chơi nhà chồi. Gần như suốt ngày tôi sống trên trên cây ổi này, tôi được nghe lỏm những câu chuyện giữa chú Lê Đức Mai và anh Khôi. Có lần anh Khôi hỏi cách nào em bé ra khỏi bụng má. Chú Mai cười với tiếng Bắc chú trả lời …


    Từ cái nhà này tôi đã nghe chú dậy cho anh Khôi biết những gì về Hồ Chí Minh. Chú thường lặp đi lặp lại với anh hai những bài học “Bác Hồ” dậy.
    Những đêm trăng sáng ở Ong Vèo, ba tôi hay bơi xuồng chở tôi và Hải Vân giữa sông, dậy cho chúng tôi tên của những vì sao. Lúc đó còn nhỏ quá, tôi và Hải Vân chỉ biết có chị Hằng và chú Cuội. Có một đên trăng chưa tròn, Hải Vân nhìn mặt trăng hỏi ba:
    - Nửa cái mặt trăng kia đâu rồi?
    - Ba không biết.
    - Con bẻ mặt trăng làm hai, con liệng nó xuống sông kia”.
    Ba tôi yêu đêm đó và đứa con thông mình tuyệt vời suốt đời.
    Con sông dẫn vào Ba Ngọn từ từ nhỏ lại. Dừa nước và Ô rô mọc đầy hai bên bờ. Nước đục chảy lừ đừ buồn bã. Ghe chở chúng tôi đến một thôn làng vắng vẻ. Nơi đây không có một dấu hiệu gì hứa hẹn cuộc sống của chúng tôi sẽ vui như ở Ong Vèo. Đêm cũng như ngày, tiếng muỗi kêu không dứt. Những ngôi nhàđã bị phá huỷ, nền nhà cỏ mọc cao. Ngói đỏ của những mái nhà bay văng rải rác khắp nơi. Trong cảnh chết chóc của ngôi làng hoang vắng này chỉ có sự sống tầm thường mới có mặt một cách âm thầm. Đó là mấy con nòng nọc và bèo cám nở đấy trên mặt nước trong những hố bom. Má tôi buồn bã nhìn quanh, rồi lắc đầu nhìn cảnh điêu tàn. Sau đó, bà cùng ba tôi và cậu Hai Hợi đi quanh miếng đất, tìm chỗ thích họp để xây tổ ấm mới cho gia đình
    Ba Ngọn hoang vắng, điêu tàn, nhưng rồi như đã có hẹn trước, một người đàn ông dắt theo con chó đến gặp ba tôi. Ông dẫn ba và cậu Hai Hợi đi quan sát chung quanh. Cậu Hai sẽ cất nhà cho chúng tôi. Trong khi người lớn đi tìm đất cất nhà, thì con nít tụi tôi phải ngồi lại trong ghe. Trước khi đi, cậu Hai chặt cho một buồng dừa nước để tụi tôi có thể ngồi trong ghe vài giờ. Ở Ong Vèo vườn đất có đủ loại trái cây; Ba Ngọn chỉ có dừa nước. Anh tôi chặt từng trái dừa cho mấy đứa em ăn cho qua thì giờ.
    Sợ máy bay thám thính phát giác, cậu Hai chặt là dừa phủ lế mui ghe. Công việc này nhằm mục đích bảo vệ tánh mạng chúng tôi. Nhưng mỗi lần gia đình tôi càng được bảo vệ, tôi càng biết là tôi có thể bị Tây bắn. Từ đó, tôi đâm ra sợ chết. Rồi tôi bị ám ảnh là mình sẽ bị máy bay bắn chết dưới sông, ba ngày sau mới nổi lên mặt nước, sình trương. Mối lo sợ của tôi bắt nguồn từ những “thằng chòng” trôi lếnh bềnh trên nhiều khúc sông mỗi khi chúng tôi đi tản cư qua.

    Cậu Hai Hợi nói: “Ba Ngọn, cho chó ở, chó cũng hổng thèm”. Có lẽ cậu nói đúng, bởi vì chúng tôi không được lội sông ở đây. Dân địa phương cho biết vào mùa cá Bông đẻ, nó giữ con, nên có ai lại gần, nó cắn. Anh Khôi về nhà kể chuyện về một ngư phủ đi chái với đứa con trai. Lúc cái lưới chài bị mắc kẹt dưới sông, ông lặn xuống để gỡ, thì bỗng dưng đứa con thấy mấu nổi lên mặt nước. Nó kêu cứu. Khi dân làng đem được ông lên thì “chỗ kín” của ông bị cá cắn mất tiêu! Tôi hỏi má “chỗ kín” là chỗ nào, má chỉ sau đầu gối, rồi tôi thấy người lớn cười. Anh Khôi nói, dù anh có thèm tắm sông tới đâu anh cũng không xuống cái sông đó.
    Mấy tuần sau, chờ khi nước ròng, ba và anh Khôi giăng luới quanh cái cầu dưới bến để chặn cá bông, cho anh em tôi tắm sông được an toàn. Nếu chúng tôi không được bơi lội tự do dưới sông, thì đời con gì là thú vị nữa.

    Mùa xuân năm 1952 em gái tôi ra đời. Sự có mặt của em đem lại sự sống cho con rạch đục ngầy vắng vẻ đó, cho cái xóm hoang tàn sống lại với tiếng cười, tiếng hát trong gia đình tôi. Ba đặt tên em là Hoà Bình, lấy theo tên của một tỉnh ngoài Bắc vừa giành lại khỏi tay của thực dân Pháp.

    Và ba tôi nói hoà bình là hết giặc, vì ông mơ ước có hoà bìnhcho mọi người dân Việt Nam lúc bấy giờ. Hoà bình là hết giặc, hết chạy xuống hầm núp. Với tôi, hoà bình chỉ giản dị và ngay thật như vậy; và hoà bình đẹp như em Hoà bình của tôi vậy.

    Trong thời chiến, thảm họa có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Nó không đi xa mình. Kể cả trong những ngày giờ hạnh phúc nhất của đời người, thảm hoạ cũng có thể đến gõ của nhà mình được. Em tôi còn thơm mùi sữa thì có một người lạ đem một hung tin đến. Anh liêm của cậu Năm Sắc (má tôi thứ tám) bị Tây bắn chết vài tháng trước. Anh đi ghe xuống Bạc Liêu để về trường Việt Minh, tiếp tục học trung học. Anh bị Tây bắn từ tầu tuần tiễu của chúng. Anh chết trong nhà một người quen cách xóm chúng tôi không bao xa. Người ta chôn anh trên đất hoang. Nhờ lời trăng trối của anh mà người ta tìm được chúng tôi. Anh Liêm chỉ mới có mười bẩy tuổi mà đã bị chết một cách tức tưởi. Anh là con trai trưởng của cậu Năm Sắc. Ba anh mất sau khi ra khỏi nhà tù Côn Đảo. Mẹ anh theo kháng chiến để anh và ba người em cho ông bà nội nuôi.

    Riêng gia đình tôi còn nhiều may mắn, vì vẫn có nhau. Chúng tôi nhặt nhạnh những gì còn lại để sống; sống với thâm tình trong cái xóm mà cậu Hai Hợi gọi là “cái đất trời hại”.
    Má tôi dần dần quen với những người ở các làng lân cận và may vá kiếm tiền nuôi con, nuôi chống. Cả bốn người học trò đến học may. Họ là con gái của những gia đình khá giả. Học may để may vá trong gia đình, và cũng để sửa soạn làm người vợ đảm đang khéo tay khi lấy chống.

    Chị Hồng Nga, con của cậu Tư Diệp đi học ở Bạc Liêu, ghé thăm chúng tôi. Chị nói bác sĩ ở trong khu khuyên mỗi gia đình nên trồng sả, vì sả ngừa được nhiều bịnh, nhứt là trong thời gian đó nhiều người bị bịnh lao. Chị đi rồi, má tôi nhờ mấy người trong cơ quan trồng sả hai bên đường đi vào nhà tôi.



  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 2

    Chỉ một thời gian ngắn sau khi gia đình tôi đến “cái đất trời hại” này, nhiều cơ quan khác của Việt Minh cũng nối đuôi theo. Họ lập ra trường huấn luyện quân sự để đào tạo bộ đội trẻ. Cậu Chín Thuỷ, em của má tôi đến mở nhà in để làm báo, in truyền đơn cho những hoạt động của Việt Minh. Nhiều cơ quan khác mọc lên để huấn luyện thanh niên nam nữ. Cán bộ từ phương xa đến, có người nói giọng Nam, có người nói giọng Huế, giọng Trung; và có cả người nói giọng Bắc. Các anh chị tôi thường bàn tán với nhau: “Chú này ở đâu, cô nọ ở miền nào”. Riêng tôi, biết là họ đến từ “bốn phương tám hướng” như lời cậu Hai Hợi nói. Cậu không thích họ, vì họ không phải là người miền Nam. Cậu kêu họ là “người Huế, người Sâm, người Bắc Kỳ”. Đối với ba tôi thì người ở miền nào đến đây cũng là đồng chí của ông.
    Ba tôi cho anh Khôi và hai chị Kim, Cương biết là tổ chức sẽ mở trường học. Trong khi chờ đợi, ba bắt mấy anh chị lấy sách ra, tự mà học. Anh Khôi khao khát học hỏi, nên tự khép mình vào kỷ luật của chính anh. Nhpừ vậy, anh học một cách dễ dàng và chăm chỉ. Ngược lại hai chị Kim, Cương cằn nhằn là học mà không có bạn học thì học không vô. Nhưng hai chị cũng phải học dưới đôi mắt của ông “giám thị”. Đặng Văn Khôi.

    Dọn đến Ba Ngọn khốn khổ bao nhiêu thì xa Ba Ngọn lại đau lòng gấp bội. Mấy chục bụi sả vừa bén thì ba tôi cho gia đình biết là ba sẽ dẫn chúng tôi đi một nơi khác. Ai nấy không nói một lời nào để bày tỏ sự bất mãn đối với ba. Nhưng người nói tổ chức của người ở một nơi xa xôi chưa ai trong tổ chức đặt chân tới, tên là Kim Qui. Ba vẽ trên mặt đất cho anh Khôi thấy Kim Qui ở đâu. Nó là một khu rừng tràm sát bên rừng U Minh, có con kinh chạy ra biển, gần Đá Bạc, cũng còn trong vùng giải phóng ở Rạch Giá. Thế là có sự hiện diện của nhiều khuôn mắt “đưa đám” trong nhà. Má tôi, anh Khôi, hai chị Kim, Cương cằn nhằn rằng ba tôi coi gia đình còn thua mấy bụi sả. Rễ vừa mọc ba lại muốn nhổ đi trồng chỗ khác.
    Rồi tôi không nghe ba má tôi nói chuyện với nhau như mọi bữa. Sự yên lặng giữa hai người lên đến độ khó thở cho con cái. Ba biết má giận lắm. Nhưng tôi biết, lúc đó nếu ông trời xuất hiện cấm ba tôi dọn đi, ông cũng không nghe. Đâu có ai ép buộc được ba đi Kim Qui. Ông muốn đi, vì ở đó người ta cần ông. Trong trí óc trẻ thơ tôi nghĩ rằng khi được người ta cần, coi bộ rắc rối chớ không vinh dự gì, nhưng ba tôi thì vui như anh em tôi đón Tết.
    Hành trình từ Ba Ngọn đến Kim Qui dài lê thê và tẻ nhạt như cháo trắng không đường. Tôi không nhớ đi mấy ngày thì đến Kim Qui, chỉ nhà là đêm đi, ngày nghỉ; hay nói đúng hơn là đêm đi, ngày trốn. Ghe chúng tôi chỉ đi ban đêm. Vì đi trên sông cái ban ngày sợ đụng đầu với tầu chiến hoặc máy bay thám thidnh. Ba và anh Khôi thay phiên nhau thức, ngồi ở mũi thuyền canh chừng mà không để đèn được. Người đi ghe nghe được tiếng mái chèo trong đêm vắng, nếu nói “bát” là đi phía bên phải, “cạy” là đi phía bên trái. Người đi trên sông ngày đem đã ăn ý với nhau, vì vậy xuồng ghe đi ban đêm, dù không sao không trăng cũng không bị đụng nhau.
    Có một đêm, anh Khôi bỏ gác để đi ngủ, chẳng may ghe chúng tôi đụng phải ghe của người khác. Đó là ghe của một cặp vợ chồng. Chúng tôi hoảng hốt thức dậy và tuá ra coi. Người đàn bà ở ghe kia to tiếng chửi cậu Hai túi bụi. Nào là cậu đui, nào là cậu điếc vì không thấy ghe của bả. Cậu nói với người đàn bà kia: “Anh bụm cái miệng con vợ anh lại, không là tôi cho bả một chèo cho hết nói đó”. Sau đó, đường ai nấy đi. Anh Khôi xin lỗi cậu Hai cái tội bỏ gác. Nhưng cậu Hai cưng chúng tôi lắm. Cháu của cậu đâu có lỗi; lỗi ở cái miệng hỗn láo của con đàn bà kia.
    Má tôi ru cho em ngủ lại khi ghe lại bắt đầu lướt sóng: “Trên dòng sông Lô, thuyền tôi buông lái như xua, sau lúc phong ba, thuyền tôi qua bến qua bờ”.
    Không ai tưởng tượng được Kim Qui là một nơi như thế nào trên mặt đt này. Anh Khôi nói Kim Qui có nghĩa là con rùa vàng. Đá Bạc là cục đá bằng bạc, như trong chuyện “Cây đèn thần”, anh Khôi lại nói có thể nơi này xấu quá, người ta đặt tên đẹp cho nó, để “đánh lừa những người dại như mình”.
    Ghe từ sông cái cái rẽ vào một con kinh nhỏ. Chắc lâu lắm rồi không có ai đi qua con kinh này, nên lục bình và cỏ mọc đầy kinh. Ghe đi được một khoảng thì chèo không được nữa. Cậu Hai gác mái chèo lên. Ba tôi và anh Khôi chống xuồng bằng sào tre trong khi cậu Hai lom khom trước mũi ghe, dùng cây mã tấu khai quang cho ghe từ từ đi sâu vô rừng thẳm. Hai bên bờ lau sậy che mắt chân trời. Tôi nghĩ là mình đi lạc vào một thế giới khác, như những nơi xa lạ trong truyện cổ tích mà ba má tôi thường kể cho chúng tôi nghe. Tôi bắt đầu sợ ma, nhưng không dám cho ai biết, sợ ma nó nghe.
    Người ta hay nói “muỗi đầy như trấu”. Mà thật ở đây muỗi nhiều lắm. Nhưng bấy giờ là đêm giữa ban ngày, vì chị em chúng tôi lúc nào cũng phải chui vô mùng tránh muỗi. Tội nghiệp con chó Nô, vì nó là chó nên không được vô mùng như chúng tôi. Nên bị muỗi bu đến, con nào con nấy bụng no tròn đầy máu của nó. Sau anh Khôi phải cho nó xuống nằm dưới lượm ghe. Chắc má tôi giận lắm, nhưng chỉ để bụng. Ba không hề lên tiếng trách móc than thở, chỉ vừa nấu cơm vừa hát nho nhỏ: “Rừng Kim Qui có tiếng muỗi nhiều, nó bay vi vo'. Anh chị tôi nhìn nhau cười khúc khích.
    Đoạn đường dài trong khu rừng già này cũng làm cho ba má tôi già theo vì vất vả. Anh Khôi, chị Kim, chị Cương khóc than sau lưng ba. Má tôi chinh phục rừng thiêng bằng sự yên lặng chịu đựng của bà. Cậu Hai Hợi lấy hết sức mạnh của một người nông dân để đưa chúng tôi đến nơi đến chốn. Chỉ có ba tôi là người hớn hở mong cho mau tới nơi.
    Bị ngồi trong mùng mấy ngày, tôi chịu hết nổi. Ra ngoài bị khói vô mắt vì trước mũi ghe có cái lò ràng hun khói bay mịt mù để đuổi muỗi. Tôi hỏi anh Khôi: “Nếu em ra ngồi sau ghe cậu Hai cho muỗi cắn, rồi bị rét rừng, anh có nghĩ là ba sẽ quay trở lại nhà ở Ngả Cũ không anh?”. Anh lắc đầu: “Mình theo ba ở gần ba, cưng à”. Không chịu thua, tôi nghĩ tới con rắn hổ cậu Hai chặt chết lúc lên bờ mót củi để hun. Tôi lại hỏi anh: “Nếu rắn hổ cắn em bị nọc độc, ba có trở lại không?”. Lần này, anh Khôi đổ quạu, nạt tôi và cấm tôi hỏi ngu nữa.
    Rồi ghe ghé lại ven một khu rừng tràm. Gốc cây mọc từ dưới nước lên, đậm đen; ngọn cây cao vút lên tận mây xanh. Nhiều tiếng chim kêu ríu rít. Anh Khôi nhại giọng chim trả lời nó; rồi lũ chim trên cành hót với nhau. Anh yêu thú vật lắm. Anh biết nhân dân loại loại chim, giống thú. Lần đầu tiên trong chuyến đi, ba tôi mới thấy nụ cười của thằng con trai cũng của ông, nên ông hài lòng lắm. Ba con dụ anh là ở Kim Qui có mèo rừng, có cả hổ nữa, anh Khôi khoái lắm.
    Có lẽ chính quyền cách mạng địa phương đã báo trước, nên nơi đến, có mấy người ra đón ; đó là gia đình một ngư phủ. Họ mời chúng tôi lên nhà, rồi làm cơm thết đãi chúng tôi. Những ngày phải ăn những bữa cơm nhạt nhẽo trên ghe, phải ngồi tring mui ghe mà ăn nên cảm thấy tù túng mất ngon. Lúc này có cá lóc nướng trui, cá khô kho tiêu, có gỏi ngó nữa. Ông bà chủ nhà còn sai người con trai lớn bắt vịt nấu cháo nữa. Mùi thơm của cá nướng cũng đã đủ làm tôi thèm chảy nước miếng rồi, nói chi đến cháo vịt. Ông chủ nhà tên là ông Tư Tháo, ông lớn hơn tuổi ba tôi nên chúng tôi kêu ông là Bác Tư. Bác Tư vận quần xà lỏn đen. Cái áo bà ba đen bạc mầu của bác có nhiều miếng vá, nhưng bác không nghèo, vì bác có nhiều hồ cá, có đất, có rừng tràm chim bay thẳng cánh. Bác khoẻ mạnh, mặt tươi vui như đang ở hội hè, đình đám. Bác gái cũng vui vẻ, đon đả với chúng tôi.
    Bác Tư gái dọn cơm trên một bộ ngựa, một bên cho đàn bà và con nít, một bên cho ba người đàn ông. Ngoài ra, con mấy cái đũa để cúng người đã khuất. Gia đình tôi thì khác. Đàn ông, đàn bà, con nít và người đã khuất ngồi ăn chung một bàn. Ăn xong, ra sân chơi, tôi nói nhỏ với anh Khôi là chắc con nít ở đây ăn uống hỗn láo nên mới bị bị hai bác Tư bắt ăn riêng. Thế là anh Khôi củ cho tôi một cái.
    Tôi hỏi anh tại sao khi ăn, con bác Tư từ lớn tới nhỏ đều nhìn mình không chớp mắt. Họ chẳng nói năng gì hết, trừ hai tiếng “có”, khi anh hỏi chuyện. Mấy đứa nhỏ cỡ tuổi tôi và Hải Vân thì thầm với nhau rồi cười khúc khich. Anh giải thích là chúng nó chưa bao giờ gặp người lạ nên bỡ ngỡ, rụt rè. Anh đã hiến kế dậy chúng học, vì chưa có đứa nào biết chứ, kể cả hai thằng lớn hơn tôi.
    Ít ngày sau, bác Tư trai dẫn gia đình tôi đi quan sát một giải đất dọc bờ kinh để chọn một miếng đất tốt cất nhà. Đó là đất đất hoang, lau sậy mọc cao khỏi đầu người. Đi được một đỗi, bỗng cậu Hai Hợi nổi giận bỏ xuống ghe. Cậu không tin là người đàn bà nhỏ yếu cậu quý như em cậu mà đến chỗ nước mặn đồng chua này để tìm đất cất nhà, trong khi cha mẹ ở một làng có ruộng đất phì nhiêu.
    Mỗi lần buồn hay giận, cậu thường lấy rượu để giải khuây. Khi uống rượu, cậu không muốn nói chuyện với ai, chỉ khóc thôi. Má tôi phải xuống ghe năn nỉ cậu và xin cậu đừng buồn. Má cho biết sẽ mướn người đốn cây, phá rừng để cất nhà. Cậu vừa khóc vừa nói: “Làm sao cô với sắp nhỏ ở chỗ này được! Cái chỗ trời quên đất bỏ này, cô Tám?”. Má tôi trấn an cậu: “Người ta ở được thì mình ở được, anh Hai đừng lo”. Nghe má tôi nói, tôi mừng trong bụng, tin rằng khi má nói vậy với cậu Hai là má đã tìm ra bí quyết sống ở Kim Qui với bác Tư gái. Cậu cho biết cậu không bao giờ nói dối ông bà ngoại, nhưng lần này về nhà, cậu sẽ phải giấu ông bà ngoại sự thật về Kim Qui.
    Sương hãy còn đọng trên cây cỏ, lau sậy, mà má đã dậy sớm cho anh chị em chúng tôi lên bờ, tại miếng đất đã chọn để cất nhà. Bà đặt mấy chén cơm và một ít muối trên mặt đất, rồi đốt nhang khấn vái. Bà xin ông Thổ thần che chở, phù hộ gia đình tôi. Bà xin vong linh của những người đã khuất, từng sống và chết trên miếng đất này, cho chúng tôi ở nhờ. Câu vái van này làm tôi sợ ma suốt thời gian ở Kim Qui và tới lớn luôn.
    Những người thợ rừng từ một trại cưa đến với thợ cất nhà để gặp ba tôi và cậu Hai Hợi. Họ bắt đầu đốn cây, đốt những bụi rậm. Con nít phải ngồi dưới ghe, không được lên bờ vì thợ rừng vừa đập chết mấy con rắn hổ. Tôi không thấy rắn, những thấy có mấy con rùa bị nướng cháy, mây ông thợ mộc ăn ngon lành. Tôi mừng là ba tôi không nhập tiệc với họ, vì tối đó trong bữa cơm dưới ghe, cậu Hai kêu họ là “đồ mọi rợ”. Cậu ăn chay mỗi tháng hai lần. Cậu Hai Hợi lớn hơn má tôi năm, bảy tuổi, là một nông dân chất phác, lễ độ, trung tín. Cậu là người cùng làng, nhưng thương má tôi như em ruột. Dù cậu không phải là họ hàng với ba má tôi, hay là một nhà cách mạng từ Bắc vào Nam để truyền bá chủ nghĩa cộng sản của Hồ Chí Minh, nhưng cái gì cậu đây là tôi nghe, những cái gì vâuk làm, tôi bắt chước. Tôi biết mài dao với nhào đất bùn là do cậu dậy.
    Căn nhà mới được dựng trên một mảnh đất cao, cửa trước trông ra bờ kinh, cửa sau nhìn vào rừng tràm. Bác Tư Tháo cho cái sân nước sau hè, nằm trên cái ao cá lớn của bác. Bác cho phép chúng tôi tự do câu cá lên ăn. Chừng nào hết cá, bác sẽ cho bơm nước vào ao. Thật ra, nếu chúng tôi ở Kim Qui suốt đời chắc cũng chẳng hết cá của bác. Bác còn một cái đìa lớn hơn, nước trong vắt. Chúng tôi tôi hay nằm trên cầu nhìn bóng mình trên mặt nước. Cá trong cái hồ này, bác đem bán ngoài chợ Kim Qui.
    Vì không phải là thợ cất nhà, nên suốt thời gian thợ mộc làm, ba và anh Khôi chỉ đừng nhìn thôi. Tuy nhiên, hai người có một công tác không kém phần quan trọng, là cất cây cầu tiêu với bốn cách che cao, có nóc lợp bằng lá dừa. Một hôm, có một nhỏ tên Xom ở xóm chài hỏi vô chơi. Nó nói với anh Khôi “cái cầu tiêu của anh tốt quá làm sao ai dám?”. Anh em chúng tôi cười lăn ra. Ba tôi thì hãnh diện về cái cầu tiêu “tốt quá” của mình.
    Chúng tôi vừa dọn lên nhà mới thì mùa mưa tới, mưa như cầm tĩnh mà đổ, mua một trăm ngày, một trăm đêm, đúng như tôi thường than thở, mưa cho tôi không còn thấy được rừng tràm sau hè. Trời gầm, sấm sét, làm con chó Nô ngồi đứng không yên. Đất sét trên bờ chảy xuống làm cho nước sông vừa bẩn vừa đục. Mưa như vậy cá không ăn câu, nhưng có cái thích của nước lũ là tắm sông “đã” lắm! Nước ấm thì trầm dưới nước lâu không bị lạnh. Vui hơn nữa, là nước phù sa đóng từ trên đấu xuống tới chân. Hải Vân và tôi kêu cả nhà ra coi hai con khỉ lông lá. Sau đó hai chị em đứng dưới máng xối để má tôi tắm cho sạch bằng nước mua, rồi mới được vô nhà. Những tóc chưa khô, khi em lại nhảy xuống sông nữa. Cứ như vậy, hai chị em tôi vui chơi suốt mùa mưa.
    Có thể Kim Qui đúng là nơi “trời quên, đất bỏ” như cậu Hai nói. Nhưng lúc Thượng Đế bỏ Kim Qui mà đi, ngài cũng có để lại một vài tạo vật. Dù đất chai cứng, trong rừng không có một cái gì cho loài người có thể ăn được, chỉ có trái nhãn lồng, nhưng dưới sông, dưới kinh, và trong những ao đầm, có đáy các loại cá.
    Trong rừng, khi nước lụt, cá cũng lên đẻ. Một hôm anh Khôi đi rừng về, hớn hở dẫn chị em chúng tôi vào rừng bắt cá. Chúng tôi chỉ ngồi, đưa hai tay bắt. Trong chốc lát cá đã đầy cả ba cái cần xé, đến nỗi nặng quá không xách nổi. phải bỏ bớt lại.
    Hạnh phúc của tôi lúc đó là tôi đã đủ lớn để biết được những phút giây đầm ấm có má, có ba, và anh chị em chúng tôi trong một mái nhà ở giữa rừng già. Những kỷ niệm do nuôi tâm hồn tôi, như má tôi nuôi tôi bằng sữa. Trong căn nhà đó, có đêm ba tôi đờn, chúng tôi tôi hát, anh Khôi đánh muỗng. Có đêm, má tôi kể chuyện đời xua. Có đêm, ba tôi bắt chúng tôi đấm bóp cho ông rồi ông mới kể tiếp chuyện Thần hổ xám. Thế là chúng tôi phải làm theo ý ba để nghe chuyện. Ba tôi thường kéo câu chuyện cho dái thêm ra, để hôm sau lại được đấm bóp.
    Tôi cám ơn Thượng để đã cho ba tôi có một thời, dù ngắn ngủi, được cái diễm phúc làm con của ông bà nội tôi, làm chồng má tôi, làm cha chúng tôi, làm người Việt Nam có tự do yêu nước, có tự do đánh đuổi quân thù xâm lăng bờ cõi. Tôi thương ba tôi có những năm tháng dài chịu cảnh cô độc ở ngoài Hà Nội. Ông bỏ lại nơi chôn nhau cắt rún người vợ hiền và sáu đứa con thơ. Kể từ đó, tôi không biết ba tôi nghĩ gì? Lòng yêu nước của ông, một người đã dám làm cách mạng cứu nước ở tuổi còn xuân, tìm ông có bị rỉ máu khi đã nhận ra sự thật của chủ nghĩa cộng sản, hay đã biến thành chai đá? Tôi hoàn toàn không biết, đến giờ này, ba tôi đã ra người thiên cổ, tôi chỉ biết ông yêu má tôi trọn đời. Ông chung thuỷ với bà trọn vẹn, và ông yêu chúng tôi vô bờ bến. Đó là hạnh phúc của chúng tôi, và cũng là nỗi đau cho một gia đình phải xa cách để tồn tại.
    Ở Kim Qui chỉ có cây chuối là sống được thôi, nhưng trái chuối thì ốm nhom như mảnh đất nghèo nàn này. Cá là món ăn trường kỳ của gia đình tôi. Sáng ăn cháo cá, trưa ăn canh cá, đến chiều ăn cá nướng, cá kho, cá muối xả ớt… Nếu có đổi món. Là đổi loại cá thôi. Thỉnh thoảng, người đi biến về ghé qua cho tôm, cho cả biển. Khi nào anh Khôi bơi xuồng đưa má đi chợ ngoài Kim Qui mới mua được thịt heo. Anh Khôi hỏi tại sao mấy con vịt nuôi lâu lớn quá. Chị Kim và chị Cương vội cho biết là con vịt đó của hai chị là súc vật nuôi làm cảnh, không phải để ăn thịt. Nhưng tôi nhớ là mà đã làm thịt một con vịt nhân dịp ba tôi ở xa về.
    Hai chị em của tôi không thích đời sống khó khăn, thiếu thốn ở Kim Qui. Ai cũng không thích ứng với đời sống của tiều phu, vì dân thị thành và ba con thân thuộc. Có lần chúng tôi hết kem răng, phải đánh bằng muối! Xá bông thì quí như thuốc men, tiếp tế chậm và thất thường. Hồi còn ở Ong Vèo, mỗi lần tắm, tôi xài xà bông thả của. Nhưng ở Kim Qui, chúng tôi phải hà tiện lại, không dám đem xà bông xuống sông, sợ lỡ tuột tay thì mấy luôn.
    Rồi đến cái nạn hà ăn chân. Ai cùng bị hà ăn chân, chỉ trừ má. Chúng tôi ham chơi, lội sông, lên rừng, xuống rãnh suốt ngày. Ba tôi đem phèn chua về cho hai chị ngâm chan. Tôi ham chơi không chịu ngồi ngâm. Anh Khôi đi qua đi lại, nhìn hai chị rồi ghẹo: “Một lần cho tởn tới già. Đừng đi nước mặn mà hà ăn chân”. Ba tôi nó nói khi nào mình rời khỏi Kim Qui sẽ hết hà ăn chân. Nhưng lời đó chỉ làm ba bị rắc rối thêm thôi, vì chị Kim liền hỏi: “Chừng nào mình rời khỏi Kim Qui hả ba?”. Ba không trả lời.
    Riêng tôi, tôi lại thích Kim Qui vì chúng tôi không phải chạy trốn máy bay như những nơi khác. Tôi cũng không nghe nói có người bị máy bay bắn chết trong khu rừng này,
    Chúng tôi sống lẻ loi, đơn độc, mà ba tôi lại hay vắng nhà. Ông thường đi với những người từ ngoài Bắc vô. Nếu có ở nhà, ông vẫn bận rộn với công việc, và hội họp với các đồng chí của ông. Những lúc ba tôi vắng nhà, không một người khách nào tới thăm. Ngang sông, chỉ có bác Mười Cử vợ chết, người chị và người con gái của bác là chị Kỳ Hoa, thường qua lại với chúng tôi bằng cầu khỉ khi do bác Tư và anh Khôi bắc. Anh Khôi để ý chị Kỳ Hoa, nên chỉ một mình anh âm thầm thích Kim Qui. Gần Tết, chúng tôi nhận được tin mưdng là anh Chánh, con của thấy Mười, bạn của ba má tôi ở chợ Cần Thơ, sẽ về ăn Tết với chúng tôi. Cả nhà chưa ai gặp anh Chánh lần nào. Anh Khôi và tôi mong cho ngày qua mau, để sớm được gặp anh Chánh.
    Không như bà con của chúng tôi ở Bang Thạch thường tới với cây trái, gạo nếp, bột đường, áo mới, anh Chánh đến với chiếc ba lô nghèo nàn của một anh bộ đội. Anh có cái khăn bàn cũ kỹ, cái áo bằng kaki, cái bàn chải đánh răng mòn hàng xuương, cái chén làm bằng miếng dừa khô bóng loáng, đôi đũa vót tròn ở hai đầu. Để giữ vệ sinh chung, các anh bộ đội trở đầu đũa để gắp thức ăn. Sự thất vọng vì không có quà chỉ thoáng qua, vì được gặp anh là đủ rồi. Anh đến như Xuân về, Tết đến. Anh là áo mới. Anh ngọt hơn mứt dừa. Anh vui như đoàn văn công về làng. Anh nồng nhiệt và gần gũi như đứa con mới đi xa về thăm cha mẹ, thăm đàn em dại.
    Anh Chánh lớn hơn anh Khôi. Anh cao như ba tôi. Anh kể cho má tôi nghe những khó khăn cách trở khiến cha mẹ anh không thể đi lại thăm hỏi gia đình chúng tôi. Anh cũng cho biết, từ ngày vào chiến khu, anh chỉ có thể về thăm ba má anh có một lần ở Cần Thơ. Sau đó, hoàn cảnh không cho phép anh rời vùng giải phóng. Đã có người bị Tây bắt, mà cũng có người bị Việt Minh giữ để tra khảo. Lại có người bị lạc đạn chết khi hai bên đụng độ. Có người lặn lội tìm thăm con, tới nơi mới biết đơn vị của con đã dời đi nơi khác, mà đi đâu là điều bí mật của chính quyền Việt Minh, cho nên không ai cho biết là đi đâu. Gia đình tôi cũng không lạ gì việc thăm viếng khó khăn này, vì ba má tôi đã cho không biết bao nhiêu thân nhân của những người đi theo kháng chiến từ ngoài thành đến tá túc.
    Anh Chánh báo một tin mừng cho anh Khôi, là trường nội trú đã hoàn thành, anh Khôi nên sửa soạn ngay để đến miệt Bạc Liêu nhập học. Tin này bỗng biến anh Khôi trở thành một người con ngoan ngoan. Anh gánh vác hết mọi việc nặng, nhẹ trong nhà. Anh cửa củi xếp chung quanh nhà cho má. Anh cắt cỏ, anh dọn dẹp sạch sẽ con đường từ nhà tới cầu tiêu. Đó là việc mà hai chị Kim, Cương nằn nì anh làm cả tháng trước, nhưng anh cứ làm ngơ.
    Trong dịp nghỉ phép ở nhà tôi, anh Chánh muốn câu cá lắm, vì ba tôi đã khoe là Kim Qui có cá lội đầy sông. Tôi giành dẫn anh đi câu ở cái đầm mà tôi tin anh sẽ mê lắm. Đó là cái đầm mà bác Tư nuôi cá chớ lớn sẽ đem ra chợ bán. Anh vừa thả câu mà đã có một con cá lóc tợp mồi liền, rồi con thứ nhì, con thứ ba… Nhưng câu cá nuôi dễ dàng quá làm anh chán, không thích câu trong đầm nữa, mà muốn câu cá dưới kinh, nên chúng tôi bơi xuồng vô một con kinh nhỏ.
    Anh Khôi hay nói chuyện của người lớn, chuyện giết giặc, chuyện yêu nước, chuyện quân thù… Có một bữa, anh Khôi lấy hai viên đạn của anh Chánh, cậy thuốc súng ra rồi rải một đường dài dọc mé sông, anh quẹt lửa đốt, thuốc súng cháy một đường dài sáng trurng. Tôi hít mùi thuốc súng và hiểu được bí mật của sự hăng say của các anh bộ đội khi nghe mùi thuốc súng, nà anh Chánh kể lại.

    Anh ăn Tết với chúng tôi rồi trở về đơn vị. Anh đi, nhà bỗng trở nên trống vắng. Không biết tôi yêu anh Chánh hay yêu anh bộ đội. Anh yêu nhà, yêu nước, yêu lũ em nhỏ như chúng tôi. Anh đâu biết sau này khi lớn lên tôi yêu quê hương cũng do anh đã ươm mầm cho tình yêu đó nẩy nở trong lòng tôi.

    Ba về nhà sau một chuyến công tác lâu ngày, nhưng tôi không nhớ chắc là bao lâu, tôi chỉ nhớ rằng khi ba tôi vừa đi khỏi, chị em chúng tôi bị nhặm mắt. Khi ông về, chúng tôi đã hết bịnh. Như vậy có thể là ông vắng nhà khoảng hai hay ba tuần lễ. Trong bữa cơm tối hôm đó, ba cho gia đình biết ba sẽ dẫn anh Khôi xuống Bạc Liêu đi học. Anh sung sướng lắm. Nhưng tôi lại tháy buồn vì sắp phải xa anh. Sự học của anh Khôi đã bị gián đoạn một năm trời. Cái chết của anh Liêm tôi trước đây còn ám ảnh tôi hoài. Vì vậy, tôi lại lo sợ vẩn vơ, rủi anh Khôi cũng bị Tây bắn đọc đường thì sao? Anh Liêm chết, gia đình không thấy xác, mà người trong làng chôn anh rồi cho ba má tôi hay tin. Đêm đó tôi thao thức ngủ không được, nhưng tôi không dám nói với ai.

    Đối với anh Khôi, việc học quan trọng hơn thức ăn, mạnh hơn kí ninh vàng trị sốt rét trong khu rừng già này. Anh có những ước mơ lớn lắm, những chiến tranh làm việc học của anh bị gián đoạn, nên những giấc mơ cũng vỡ theo, trong những cảnh sụp đổ, tan nát vì những cuộc oanh tạc của máy bay Pháp.

    Cả nhà sửa soạn nhộn nhịp cho anh Khôi lên đường. Má tôi may cho anh hai chiếc sơ mi trắng cụt tay bằng xấp vải bàđể dành từ lâu. Chị Kim tặng anh hai khăn tay chị đã cất kỹ. Chị Cương mở túi nhái lấy tiền cho anh. Tiền này chị để dành chờ hết giặc mua đôi bông. Tôi không có gì để tặng anh, nhưng tôi tin rằng dù ở xa đến đâu anh vẫn không quên tôi. Hoà Bình theo hôn anh hoài, và để anh vui, nó không bỏ mứa khi anh đút cơm cho nó chiều hôm đó. Hải Vân đờn mandoline cho anh Hai nghe.


    Sau khi anh Khôi đi, nhà tôi trống vắng một cách lạ thường. Không còn một dư vang nào của anh. Chúng tôi chỉ nghe tiếng má hỉ mũi; má khóc một mình. Má nhớ thương con trai cưng của má. Tôi bắt đầu gần gũi với hai chị Kim, Cương hơn trước, hai chị cho tôi vô ngủ chung một giường.

    Lúc học trường nội trú ở Bạc Liêu, cả hai chị đều thích hoạt động văn nghệ và đã từng đóng kịch trong trường. Vì vậy, khi về nhà hai chị ca hát suốt ngày. Cả ba và anh Khôi vắng nhà cùng một lúc, làm chúng tôi buồn quá, không ai chịu ngủ trưa. Hai chị tập cho tôi và Hải Vân đóng kịch. Tôi được làm y tá, Hải Vân thì đóng với anh bộ đội bị thương. Chị Kim là bác sĩ quân y, chị Cương đóng với một quả phụ, chồng là bộ đội đã hy sinh ngoài mặt trận. Mỗi lần chúng tôi đóng kịch, Hoà Bình bỏ đi theo má chắc nó không thích nghe bà quả phụ khóc chống não nuột lắm. Mỗi lần chôn anh bộ đội, tôi hay hỏi chị tôi: “Hồn của anh ấy đi đâu?”. Chị Kim trả lời rằng ảnh về phù hộ cho vợ. chúng tôi không bao giờ nghe nói đến thiên đàng, chỉ nghe hồn người chết thường vấn vương theo người họ thường mến, đi bất cứ đâu. Hồi ở Ong Vèo, chị Hiển hay kể chuyện ma, chuyện người chết đi đâu và ở đâu cho chúng tôi nghe. Có lẽ vì không muốn chúng tôi tin những điều mê tín dị đoan ấy nên ba má tôi trả chị Hiển về gia đình chị, nhưng lại lấy cớ là muốn bảo vệ tánh mạng chị.

    Mùa thu năm 1953, ba tôi lại được lịnh đổi đi nữa. Chúng tôi lại thu xếp dọn nhà. Anh Khôi phải tạm xếp bút nghiên để về phụ má. Anh làm việc “cực như con trâu của ông Tư Nhờ”. Anh nửa đùa nửa thật, nói rằng anh ước anh biến thành một thiếu nữ, để anh có thể lấy một tấm chồng, rồi bắt chồng ở rể trong mấy ngày ba má dọn nhà. Cậu Hai Hợi xuống tiếp sức với chúng tôi. Những người đàn ông ở xóm chài lưới cũng vô phụ giúp. Rồi cùng vợ con, và cái tài sản khiêm tốn và con chó, người dân đầy nhiệt tình yêu nước, xuống ghe đi theo tiếng gọi của non sông. Chúng tôi đi đến Cảng Chú Hàng.

    Đây là một trong những thôn làng thuộc tỉnh Chương Thiện, dân chúng đông hơn những nơi chúng tôi đã đi qua. Cảng Chú Hàng một nơi mà mỗi buổi sáng lá cờ giải phóng ngang nhiên phấp phới trong gió. Những người yêu nước đã từ bỏ cuộc sống riêng tư, tự về đây để cùng nhau bảo vệ quê cha đất tổ.

    Người ta đắp càng bằng hàng ngàn cây tràm, cây đước, cắm ra đáy sông, chỉ chừa đủ cho ghe xuồng nhỏ đi qua. Tầu chiến của Tây không vào được vùng giải phóng. Lúc cảng mới dựng, tụi Tây lợi dụng khi nước lớn đã xấn vô trong, nhưng chúng đã bỏ thây ở đây không ít.
    Tôi ở cách cảng Chú Hàng ba cây số, cũng do tay cậu Hai dựng. Nhà này giống y nhà ở Kim Qui. Chỉ nền nhà và đất là khác thôi. Bà chủ đất là một bà chủ điền giầu có. Sau khi gặp ba má tôi, ba liền bảo chúng tôi kêu bà bằng ba nội. Thì ra bà từng là một bà mẹ chiến sĩ. Ba tôi kêu bà bằng má nhưng má tôi chỉ kêu bà bằng bà thôi. Má nói chỉ có bà ngoại là má của bà thôi.

    Đất này lành nên chim đậu, ca hát líu lo. Cậu Hai cất nhà gần. Anh em chúng tôi tôi chỉ chạy vài bước là phóng ngay xuống nước vào những buổi trưa nóng bức. Ở đây lại gần làng của ông bà ngoại, nên bà con ở Bang Thạch vô thăm thường hơn. Do và con thăm viếng, má tôi bớt lẻ loi. Điềi tôi mê nhứt là ai vô thăm cũng có quà mua từ ngoài thành cho anh chị em chúng tôi. Ba tôi đi công tác thường hơn, lâu hơn. Mà không hiểu sao các đồng chí của ba tôi biết giờ giấc ba về mà họ kéo đến nhà. Ba không có khách bà con, mà chỉ toàn các đồng chí đến hội họp và thảo luận. Họ “uống trà quạu” để thức khuya. Nhiều lần tôi đã ngủ ngon lành trên vế của ba tôi giữa lúc ông và các đồng chí bàn việc nước, việc nhà, việc đảng phái.
    Nhiều khách từ phương xa đến, nhưng họ và ba tôi không xa lạ gì nhau. Họ cùng một chí hướng là đánh đuổi quân xâm lăng, giành độc lập cho xứ sở. Họ là bác sĩ, kỹ sư, luật sư hay dược sĩ, giáo sư, sinh viên ở các trường đại học… Họ đến từ những thành thị, hoặc từ các vùng quê hẻo lánh. Kẻ giàu, người nghèo, đàn ông cũng có, mà đàn bà cũng nhiều. Người là trí thức, kử thuộc thành phần tư sản hay vô sản. Có những người đã từng du học bên Pháp. Họ làm việc cho Pháp nhưng lại chống đối Pháp. Họ cũng yêu nước như những người làm cách mạng trong bưng biền. Những người khách ấy dù không phải là họ hàng, thân thích, đều đem theo những niềm vui cho anh chị em chúng tôi.

    Một hôm, ba tôi cho biết sẽ có một người khách rất quan trọng đến thăm. Khách chưa đến mà ba tôi đã nôn nao bàn tính với má tôi về cách đón tiếp ông. Lần đầu tiên tôi thấy má ghi chép những món ăn đặc biệt đãi khách. Mà muốn chỉ có ba anh Khôi ngồi ăn cơm chung với khách thôi. Những ba lại muốn cả gia đình cùng ăn. Mấy ngày sau đó, hai chị Kim, Cương dặn đi dặn lại đến mẻ răng, ba đứa em phải ăn uống cho đàng hoàng, nghiêm chỉnh. Nào là không được ngậm đũa, nào là cấm ăn bốc. Lúc nhỏ tôi hư lắm, cam đưa không vurng, nên hay bốc đồ ăn rồi ghim vô chiếc đũa. Anh Khôi không được đánh muỗng trên bàn ăn. Hải Vân không được gõ đũa trên miệng chén khi nhà có khách. Hoà Bình không được đòi ba bồng, để ba nói chuyện với khách. Những ba tôi thì nói cứ tự nhiên, với những sinh hoatbình thường của gia đình, không cần làm mầu làm mè trước mặt khách. Ba tôi dặn tôi và Hải Vân phải bạo dạn khi khách muốn nghe chúng tôi đàn hát.

    Chúng tôi mong từng ngày, đếm từng giờ, chờ người khách quý đến chơi. Rồi cái ngày trọng đại đó cũng đến. Khách ở tận ngoài Ha Nội vô thăm Nam Bộ. Đó là ông Lê Đức Thọ, anh của chú Lê Đức Mai, người khách thường xuyên của gia đình tôi hồi còn ở Ong Vèo.
    Bác Lê Đức Thọ lớn tuổi hơn ba tôi nên chúng tôi kêu bằng bác. Hai người tay bắt mặt mừng, khách vò đầu thằng em tôi rồi hỏi: “Kỷ niệm chiến thắng ở Đèo Hải Vân của chúng ta đây phải không?”. Hai ông đồng chí cùng cười. Bác Thọ đem theo một hộp nhỏ bằng cây, đẹp lắm, ông liệng cái ba lô vào một góc nhà nhưng ôm khư khư cái hộp cây rất cẩn thận. Tôi và Hải Vân tò mò, nóng lòng muốn chết, vì không biết cái hộp ấy là hộp gì. Bác Thọ hứa sẽ cho chúng tôi nghe tiếng nói của “Bác Hồ” phát ra từ cái hộp này.

    Bộ óc ngây thơ non nớt của tôi cho rằng không ai có tài ảo thuật giỏi hơn anh Cầu của tôi. Hai chị em tôi sống trong vùng kháng chiến từ lúc mới sinh ra đời nên làm sao biết được đó là máy thu thanh. Chỉ có anh Khôi và hai chị Kim, Cương là ít hỏi, vì mấy người đã sống ở ngoài thành trước khi vô kháng chiến. Lúc bác Thọ vặn máy lên, cả nhà im lặng ngồi nghe diễn văn của “bác Hồ”. Những cái máy truyền thanh mới lạ đối với tôi và Hải Vân. Chúng tôi tò mò muốn biết làm sao mà ở mãi tận đây mà nghe được tiếng nói của “Bác Hồ” từ Bắc xa xôi. Lúc ông dứt lời, cả nhà vỗ tay reo mừng vì ông bảo “hoà bình sẽ tái lập từ ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau”.

    Chú Hàng là thiên đàng, nếu so với rừng Kim Qui. Ở Chú Hàng, đồng xanh cò bay thẳng cánh, dòng sông dài âu yếm mảnh đất phì nhiêu. Vườn của bà nội cây trái xum xuê. Bà cho phép chúng tôi thích trái gì cứ ra vườn mà hái. Trên miếng đất bà cho gia đình tôi cất nhà, ở phía sau có xoài, mận, ổi, vú sữa, mãng cầu Xiêm, Le Ki Ma, Xa Bô Chê. Dù được ba đã cho má tôi vẫn cấm. Má dặn rằng nếu chúng tôi muốn ăn thì tới nhà bác Hai mà mua, hoặc hái trái xong phải đem lại nhà bác Hai tính tiền rồi mới được ăn. Nhiều khi mang rổ ôi hay quýt sang nhà bà nội, tôi đã ăn mấy trái trước rồi.

    Một hôm trời nổi cơn giông bão làm con chó Nô sợ, chun xuống sàn, trong khi anh Khôi và tôi mừng quýnh, vì xoài ttượng bị rụng nhiều khi gio lớn. Má tôi cho phép chúng tôi lượm những quả rụng chớ không được hái trên cây. Hai anh em tôi vội chạy đến lượm xoài. Tôi còn nhỏ nên khiêng nổi được bốn trái lớn. Anh Khôi đuổi tôi vô nhà trước. Anh Khôi lanh trí… buộc túm quần lại, rồi lượm xoài bỏ vô. Một lát sau, trong bếp có một đống xoài tượng. Lúc cả nhà ngồi in xoài với nước mắm, hai anh em tôi nhìn nhau cười khúc khích. Má hỏi tại sao chúng tôi cười, anh Khôi bèn thú thật về cái “túi” đựng xoài. Má mắng yêu, trong khi cả nhà cười rộ lên.

    Đã sống trong hiểm nguy như những gia đình Việt Minh khác, ơn trên, gia đình tôi cũng có những giây phút hạnh phúc trong tiếng vui cười, qua ánh mắt của cha mẹ. Có hôm, bà nội nói “Cảng Chú Hàng là đất lành, nên mặt má các con sáng như trăng rằm. Mặt má tôi “sáng như trăng rằm” vì má tôi đang mang thai.

    Nhưng nơi đây cũng có một nỗi buồn, vì chúng tôi ít khi được gần gũi ba tôi, dù ôug ở nhà thường hơn đi công tác, bận hội họp liên miên, lúc thì với với các đồng chí ở trong bưng, khi thì với khách lạ từ bốn phương tới. Cứ ăn cơm chiều xong, nhà bắt đầu có khách. Tôi không biết ba tôi họp đến giờ nào, chỉ nhớ rằng ông thường đánh thức Hải Vân, Hoà Bình và tôi, để nói “Ba thương con lắm” và hôn chúng tôi trước khi đi ngủ. Buồn ngủ cách mấy, chị em tôi cũng vừa dụi mắt vừa nói “Con cũng thương ba lắm” rồi lại lăn ra ngủ tiếp.

    Nhà đông khách, đông con nhưng ba má tôi vẫn tìm được những giờ phút riêng tư êm ái để tâm sự với nhau. Hai người có thói quen dậy thật sớm, ngồi trên bộ ngựa, bên cạnh bếp lử hồng bập bùng, nói chuyện thì thầm chờ ấm nước sôi pha trà. Điều lạ, là ban đêm ba má bất đồng ý kiến về chánh trị, cãi nhau hoài, vậy mà sáng, hai người lại cẩn trọng lời nói khi bấy giờ ngày mới, cũng những cứ chỉ tử tế, ân cần với nhau. Có lẽ ba má nghĩ rằng ban đêm bọn con nít ngủ hết, nên có thể tự do tranh cãi.

    Thường thường sau khi uống trà, ba tôi tập thể dục. Tập Tài Chi và ăn uống điều độ, là hai điều ba tôi giữ đúng hàng ngày. Ba tôi tin rằng nếu giữ được tinh thần minh mẫn và thân thể tráng kiện, có thể ngăn ngừa được nhiều chứng bịnh. Ba tôi thường khuyên con cái theo gương ông. Anh Khôi và chị Kim là hai môn đệ trung thành. Hồi nhỏ, tôi rất kén ăn. Con chó Nô rất mến tôi vì tôi cho nó ăn cơm của tôi mỗi bữa. Đổi lại, tôi cũng thương nó lắm, vì nó đã giúp tôi thanh toán hết chén cơm tôi bỏ mứa.

    Ba tôi thường dẫn má tôi và chúng tôi ra đồng để chờ mặt trời mọc từ những mái tranh phía bên kia làng. Ngồi bên bờ đê, ba má tôi nhìn chúng tôi chạy nhảy. Tôi không sao quên được gương mặt rạng rỡ và đầy tự tin của ba, khi người ngồi cạnh má tôi, đối với tôi lúc bấy giờ, ba má tôi là sự sống, là tình yêu, là trăng, là nước, là ánh sáng, là những bài hát ru em, là những bài ca yêu nước mà anh em chúng tôi đều được hưởng tất cả những nhiệm mầu này.
    Ở cảng Chú Hàng, anh Khôi cứ mải mê với việc học. Ba tôi mang sách từ một trường ở một tỉnh khác trong vùng giải phóng về để anh tự học. Trường anh học năm trước đã bị Tây bỏ bom nát mất tiêu. Bạn học của anh kẻ chết, người tàn tật. Vì vậy, má không cho anh đi trường khác, sợ rủi ro. Vào những buổi trưa, khi cả nhà chìm trong giấc ngủ, chỉ có anh Khôi và tôi thức. Tôi không thích ngủ trưa, dù ông ngoại dặn đi dặn lại rằng “ngủ cho mau lớn, mau cao”. Anh Khôi thì lợi dụng sự yên lặng này để học bài. Tôi hay năn nỉ anh ngưng học để chơi với tôi, nhưng anh không chịu. Lúc bấy giờ tôi không hiểu tại sao việc học lại quan trọng như vậy. Anh giải thích là phải có bằng trung học mới lên đại học được.

    Sống giữa làn tên mũi đạn, anh tôi không sợ chết, chỉ sợ lớn nên trở thành một người đàn ông dốt nát. Anh không cần quần là áo lượt, cần xa xỉ phẩm như hai chị của tôi, mà chỉ cần có cây đàn vĩ cầm, và cần đi học.

    Gia đình tôi này dời, mai đổi, ba tôi đi vắng thường xuyên, chưa bao giờ anh chị em chúng tôi phải ở nhà một mình, lúc thì có mà; khi má đi vắng, chúng tôi có ba bên cạnh. Nhưng một hôm ba tôi thay đổi hẳn chương trình làm việc, vì ông phải sửa soạn đưa má tôi đi nhà bảo sanh. Trước đó mấy hôm, má tôi đã sắp xếp mọi việc đâu vào đó, vì má đã biết gần tới ngày sinh. Những gì cần đem theo, má cho vô một cái túi vải, và ghi những điều anh, chị tôi phải làm, rồi dán lên cây cột giữa nhà. Má còn dặn anh Khôi đừng làm phiền bà nội (bà chủ đất), trừ khi có gì liên quan đến sống chết. Anh chỉ chúng tôi mà nói “Như đám quỷ này chết đuối dưới sông”. Hai chị Kim, Cương liền hăm sẽ không nấu cơm cho anh ăn. Má tôi phải giảng hoà mới yên. Nhiệm vụ của anh Khôi là giữ Hải Vân. Chị Kim và Cương coi sóc Hoà Bình. Tôi phải vâng lời ba người lớn và không được xuống sông một mình. Má dặn nhiều lắm, ban đêm khi đi ngủ phải nhớ khoá cửa, mà viết cả trang giấy dán lên cột nhà.

    Rồi khi chiếc ghe chở ba má tôi mất dạng nơi khúc quanh con sông, căn nhà bỗng tra nên trống trải, im lặng một cách khác thường.

    Hoà Bình chạy ngày vô buồng của ba má lấy cái gối của má đem ra bộ ngựa gỗ, úp mặt lên gối, bắt đầu khóc thút thít. Tôi bèn doạ: “Nín đi, ông cùi nghe được ông bò tới cho mà coi”. Thế là nó vội liệng cái gối xuống đất, chạy lại ôm lấy chị Kim cầu cứu. Hai mắt nó ráo hoảnh. Má tôi đã câm tôi không được nhát em ông cùi, nhưng chỉ có ông cùi mới làm nó sợ mà nín khóc.

    Nhà vắng tanh, không có gì thú vị hết, nên chiều đó hai chị cho chúng tôi ăn cơm sớm hơn mọi ngày, ăn cho qua ngày. Ăn xong, anh Khôi rủ chơi trốn kiếm, nhưng mới nửa chừng, tôi chưa kiếm được Hải Vân Ihi anh dẹp cuộc chơi.

    Một lát sau bà nội và con Quít, cháu nội của bà tới thăm chúng tôi. Bà đem một rổ đầy bánh tét, banh ít và trái cây. Bà dặn chúng tôi khi má đem em về nhà, chúng tôi không được nói chuyện lớn tiếng, để má ngủ, và cũng không được gây nhiều tiếng động, sợ em nhỏ giựt mình. Hai chị Kim, Cương khỏi cần nấu cơm cho má. Bà và bác Hai gái biết món nào bồi bổ cho người mới sanh, ăn cho có sữa cho em bũ. Ba lãnh phần quan trọng đó. Bà căn dặn là má cần tĩnh dưỡng kỹ lưỡng, cần ăn uống đầy đủ bổ dưỡng, cho có sữa em bú. Bà tin dị đoan lắm, nên không quên dặn chúng tôi đừng khen em bé đẹp, sợ ma quỷ nghe được, sẽ bắt em đi.
    Đêm đó, Hải Vân và tôi ngủ chung giường với anh Khôi. Hoà Bình ngủ với hai chị Kim, chị Cương trên giường của ba má. Hải Vân hỏi nhỏ anh Hai: “Má đẻ em nhỏ, có khi nào má chết không anh?”. Anh Khôi nạt: “Không, đừng có hỏi như vậy nữa nghe chưa!”.
    Anh em chúng tôi nằm bên nhau trong sự im lặng và lo âu trong cửa nhà vắng vẻ. Tiếng muỗi kêu vo vi bên ngoài mùng. Tôi nhớ má, cắn gối dằn tiếng khóc, sợ Hải Vân tưởng má chết, tội nghiệp nó.

    Sáng sớm hôm sau; chúng tôi nghe tiếng ba tôi từ xa vọng lại. Chiếc xuồng chèo chậm chạp trên nước ngược. Chúng tôi chạy xuống bến. Tôi không không chờ nổi nên bứi nút áo, liệng áo trên cầu, phống xuống sông lội ra phía chiếc ghe. Vừa lội, tôi vừa nghe ba tôi reo mừng: “Má sanh em gái!”. Trên bờ tiếng anh Khôi vọng xuống: “Thôi rồi, thêm một đứa vô dụng, hung dữ vô cái nhà này nữa!”. Rồi anh cười lớn. Vô nhà, ba tôi kể lại chuyện má sanh em nhỏ. Ông trả lời hết những thắc mắc của anh chị của sức khoẻ của má. Rồi ông cho biết ông cần tắm rửa và nghỉ một lát trước khi phải đi xa ba ngày, ông cũng cho biết ông phải kịp về đón má và em bé về nhà. Chị Cương lo lắng, nếu nhỡ không kịp thì sao? Ba trả lời: “Má sẽ thông cảm cho ba”. Anh Khôi tỏ vẻ tức giận, hậm hực hỏi: “Tại sao má cứ phải là người “thông cảm” hoài vậy?”. Ba tôi tỏ vẻ không bằng lòng câu nói của anh, ông liền bắt hết anh chị em chúng tôi ngồi xuống, kể cả Hoà Bình dù còn nhỏ xíu cũng không được miễn. người ít rầy con cái, những khi cần rầy thì chúng tôi khổ lắm vì lại giảng đạo đức dông dài, làm chúng tôi chán vô cùng. Lần này ông “thuyết” về vấn đề “Tổ quốc và gia đình”, ông muốn chúng tôi giúp ông đặt tổ quốc trên gia đình.

    Ba tôi đặt nhiều tin tưởng và trách nhiệm vào anh Khôi lắm, vì anh là cn trai trưởng. Anh phải làm gương cho các em. Trong lúc đó, anh bực bội nói: “Con chán cái nghề làm gương tốt lắm rồi. Nhiều khi con có cảm tưởng con là một ông già mười bẩy tuổi. Không ai nghĩ tới chuyện học hành của con. Ba phải để cho con được đi học trước khi râu con dài tới rún”.
    Ba yên lặng ngồi nghe, rồi nghiêm nghị nói: “Con là đàn ông nhà này khi ba đi vắng”. Tôi nghe mà không hiểu ba và anh Khôi nói chuyện gì. Nhưng có một điều tôi biết, là tôi muốn anh tôi làm người lớn, vì làm người lớn là phải sống gương mẫu, phải hy sinh, phải chịu đựng, phải chia cơm, xẻ áo cho đồng chí, cho bộ đội, cho kháng chiến. Tôi chỉ muốn anh Khôi là anh hai của tôi mà thôi.

    Rồi mọi việc đâu cũng vào đó. Ba tôi về kịp ngày rước má tôi về nhà. Bà nội cho ba tôi mượn chiếc ghe lớn có mui. Ba tôi cho an và Hoà Bình đi theo, con tất cả phải ở nhà để nghe bà dặn dò những việc nên và không nên làm khi má về. Bà bắt mấy ngày đầu tôi phải dẫn hai em tới nhà bà chơi với con Quít cháu nội của bà đến tối mới được về. Tôi rất thích được ăn cơm ở nhà bà vì ngon hôm cơm ở nhà tôi. Chỉ có cái kẹt là ở nhà bà không được đùa giỡn tự do như ở nhà tôi.

    Ba tôi đặt tên cho em bé là Minh Tâm. Ba nói Minh là minh bạch, trong sáng. Tâm là tấm lòng, là trái tìm. Ông hãnh diện vì gia đình tôi có những tấm lòng trong sáng.

    Ngày ăn đầy tháng của em tôi vui hơn hôm ngày làng được đoàn dân ca về trình diễn kỷ niệm sinh nhựt “cụ Hồ”. Minh Tâm cũng sanh vào ngày 19 tháng 5. Ba nội cho rất nhiều quà. Người hàng xóm ở bên kia sông cũng sang chung vui với gia đình tôi. Tôi nhớ lời bà nội dặn là không được khen em đẹp, nhưng nhìn em, tôi thầm vui sướng vì em tôi đẹp nhứt vùng này.

    Nhưng buồn thay, những giờ phút tuyệt vời ấy trong gia đình tôi không được lâu. Sau những ngày vui tươi sáng lần ấy. Gia đình tôi bị bao phủ bởi một bầu trời không trăng sao, không một ngọn đuốc, dù chỉ sáng lẻ loi, khi ba tôi nói đến chuyện đi Hà Nội. Ông sẽ tập kết ra Bắc, chỉ đem anh Khôi theo. Má tôi và chị em chúng tôi phải ở lại trong Nam. Ông tin rằng trong hai năm sẽ trở về. Thượng đế vừa cho gia đình tôi một em bé, sao Ngài lại bắt chúng tôi xa hai người mà tôi yêu thương nhất cõi đời này!

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 3


    Sau một thời gian khá lâu, kể từ ngày ba tôi và anh Khôi ra Bắc, chúng tôi phải ở lại Bang Thạch, tôi vẫn nghĩ ngợi thắc mắc về sự mất mát khủng khiếp này.
    Tôi đã nếm mùi khói lửa của chiến tranh. Tôi hiểu trách nhiệm người dân yêu nước khi phải sống dưới ách đô hộ của phương Tây, qua đời sống của gia đình tôi, và tôi cũng hiểu đại khái về xã hội chủ nghĩa. Nhưng tôi không hiểu sức mạnh của nó đã đánh vào điểm nào trong trái tim của ba tôi, người mà đêm khuya vẫn dựng đầu chị em tôi dậy để nhắc nhở: “Ba thương các con lắm!”.
    Lúc còn nhỏ “xã hội chủ nghĩa” ví như là một ngọn gió thổi từ xa tới. Nó trong lành. Nó vừa lạ vừa quen, quyến rũ một các lạ lùng. Nó quyến rũu vì ba tôi chính là nó, vì ba tôi là tiêu chuẩn cho những nguyên tắc cơ bản của nó. Những khúc dân ca của Đông Au, những điệu múa của người Liên Xô, cho tới lá cờ lưỡi liềm của họ, đối với tôi cũng không có gì xa lạ, vì Liên Xô không phải là “ngoại bang” đối với ba tôi, mà nó là “đồng chí” của ông.
    “Xã hội chủ nghĩa” là những tiếng thông thường trong gia đình tôi, nhưng tôi cũng biết có nhiều người trong làng, kể cả bà em của má tôi, sợ nó lắm. Lúc ba tôi vắng nhà, mấy người em bà của cô cậu má tôi nói họ sợ xã hội chủ nghĩa như ma quỷ, như dịch tả,, như gió độc.
    Hai chữ “Cộng sản” ít được nhắc tới. Có lẽ bốn chữ “xã hội chủ nghĩa” nghe hay hơn. Nó cũng che giấu được lối cai trị tàn bạo ở Bắc, do những lãnh tụ cộng sản chủ trương. Người em bà con của má tôi thường nói lén như vậy. Cậu kể cho má tôi ở ngoài Bắc, Cộng sản giết chủ điền, cướp tiền của người giầu. Họ dám giết cha mẹ nếu cha mẹ không nghe lời Chánh phủ. Trong khi đó, các đảng viên Cộng sản ở miền Nam còn là những Việt Minh thật thà, yêu nước, thương dân, không hung bạo như Cộng sản ngoài Bắc.
    Lúc bấy giờ, nếu lớn tuổi hơn hay tinh khôn hơn một chút, có thể tôi đã hiểu, giữa ba má tôi có một con sông ngăn cách, mà hai năm ba đi tập kết về Bắc, con sông đó cũng không nhỏ lại; cũng không có cây cầu nào bắc được cho hai người xích lại gần nhau trong tư tưởng. Má tôi muốn tự do, tự lập. Còn ba tôi, ông theo chủ nghĩa của ông Hồ ngoài Bắc; ông phục vụ cho đảng, dân chúng phục vụ ông để đảng được mạnh. Tuy vậy, trong tình vợ chồng, ông bà vẫn khăng khít, thương yêu nhau, vì chính sự trái ngược đã bổ túc cho nhau để có thể chung sống trong hạnh phúc gia đình. Nhờ bà gánh vác và bảo vệ gia đình, ông được tự do làm một nhà cách mạng gương mẫu. Ngoài ra, nên giáo dục cổ xưa đã đào tạo má tôi thành một vợ thuỷ chung và gương mẫu. Lấy chống, bà chỉ biết có chống, khi có con, bà hết lòng lo cho con cái. Đó là người đàn bà của nền nếp cổ xưa thuần tuý Á Đông. Phải nói rằng ba tôi đã may mắn lấy được má tôi, để ông có tất cả thì ông mới vững tâm làm cách mạng.
    Đời sống của ba tôi trong thời kháng chiến chống Pháp luôn luôn bất ổn, nên cứ thay đổi hoài hoài. Má tôi kiên nhẫn thích ứng nhanh chóng với sự thay đổi đó. Nhờ có mà, chúng tôi được sống êm ấm trong tình thương của cả cha lẫn mẹ. Nơi nào có mặt ba tôi, nơi đó sẽ có nhiều mầm non cách mạng. Trong khi đó, nơi nào má tôi xuất hiện, đàn bà con gái trong làng đó ham học nữ công. Nhà chúng tôi ở tươm tất, vẹn khéo. Nhờ vậy, ba tôi lúc nào cũng vui tươi, và hài lòng với hạnh phúc gia đình.
    Không như những gia đình khác, gia đình tôi được tự do nói chuyện và nghe chuyện. Chúng tôi nghe đủ mọi thứ chuyện, từ chuyện đám cưới, đám hỏi, đến chuyện sanh để, chết chóc… nghĩa là chẳng còn thiếu một văn học gì hết. Tuy nhiên, cũng có một vài điều mà chúng tôi không được phép nhắc tới, đó là nhu cầu ham muốn về vật chất. Thật ra, chỉ khi có mặt ba tôi là chúng tôi không dám nói tới vấn đề đó, vì ông quan niệm rằng ham muốn vật chất là còn làm nô lệ cho vật chất, còn dựa vào thế giới bên ngoài (như thằng Tây chẳng hạn). Minh phải “tự lực cánh sinh”, ba tôi nói như vậy hoài. Khi ông đi vắng, chúng tôi vẫn lén thầm thì bàn với nhau về những nhu cầu vật chất.
    Kể từ ngày ba tôi cắt hết mối liên hệ với thành phố, đưa vợ con vô vùng “giải phóng”, gia đình tôi đã có cuộc sống gương mẫu dưới sự điều khiến của đảng, không còn lệ thuộc vào ai, và chúng tôi đã cố gắng “tự lực cánh sinh”. Nhưng thiệt thà mà nói, một người đàn bà với 6, 7 đứa con thơ đi theo ông chồng làm cách mạng, thì tay chân, sức lực và thì giờ đâu mà “tự lực cánh sinh”. Mà lén ba, nhờ ông ngoại bà ngoại tiếp tế, để có thêm tiền ăn. Đi tới đâu thì dân ủng hộ đất đai nhà cửa tới đó. Vậy thì ý nghĩa của “tự lực cánh sinh” không còn trung thực nữa.
    Bạn bè của ba má tôi từ thành phố vô thăm, ai nấy đến khen lối sống vô sản của gia đình cách mạng này. Tuy nhiên, họ tỏ ra gần như công khai lòng thương cảm đối với chúng tôi, nhứt là tội nghiệp cho chị em tôi.
    Nhưng tôi biết, ba tôi mãn nguyện với tất cả cả những gì ông đạt được. Ông cho là ông đã có hạnh phúc gia đình, và ông hãnh diện khi chọn con đường ông đang đi! Mỗi lần anh chị em tôi than cực, than thiếu thốn và đổ lỗi cho ba đã làm gián đoạn việc học của chúng tôi, thì má lại bênh vực ba. Bà nói thời buổi chiến tranh, những người yêu nước đều phải xung phong giết giặc cho xứng với đấng nam nhi của đất Việt. Rồi bà hỏi: “Tụi con muốn ba theo Tây hay theo kháng chiến?”. Thế là bọn tôi hết dám nói năng gì nữa. Nhưng không dám nói năng không có nghĩa là trở nên yêu thích cuộc sống khổ cực, thiếu thốn trong vùng kháng chiến Vì vậy, thỉnh thoảng má tôi vẫn nghe thấy tiếng thở dài của anh chị tôi, đồng thời bà vẫn phải yểm trợ cuộc tranh đấu hăng say của ba tôi. Chúng tôi kiên nhẫn chịu đựng cuộc sống trước mắt và không thần thánh hoá ông Hồ Chí Minh như trong gia đình của đồng chí ba tôi, vì má tôi không thần thánh một ai ngoài tổ tiên và ông bà của chúng tôi.
    Dần dần tôi nhận ra rằng không phải tất cả những ai bỏ thành để ra bưng biền chống Tây đều theo cộng sản. Một năm sau khi gia đình tôi dọn tới Kim Qui, có thêm bốn gia đình khác theo cách mạng cũng tới đó. Bên kia con kinh là nhà của bác Mười Cử và người con gái duy nhứt của bác, chị Kỳ Hoa. Bác Mười gái là bạn học cũ của má tôi. Bà đã qua đời ở Cần Thơ. Phía nam của kinh có gia đình bác Tư Thành. Bác là một cán bộ kinh tài cao cấp của Nam Bộ. Ngang nhà bác Tư, có gia đình bác Nam Hưng và bác Tư Thạch Son. Má tôi cho biết các bác đều là dân “trí thức” đã từ bỏ chăn êm nệm ấm, và cuộc sống sang giầu để đi theo Việt Minh.
    Bác Mười Cử theo Việt Minh, những kịch liệt chống lại đường lối của cộng sản. Có lần tôi đã nghe bác nói chuyện với ba tôi mà lớn tiếng chỉ trích đường lối sai lầm của cộng sản. Trong khi đó, hai bác Tư Thành và bác Nam Hưng theo một phe với ba tôi. Bác Tư Thạch Son thì khác. Bác trung lập, theo Việt Minh, nhưng bác không theo cộng sản. Bác không dám chỉ trích hay phê bình công khai cộng sản. Vì lập trường trung lập này mà bác Thạch Sơn bị mấy bác kia kêu là “nửa người nửa ngợm”.
    Với sự hiểu biết non nớt của một đứa nhỏ bảy tuổi, tôi cứ thắc mắc hoài về những người đồng tâm, đồng chí chống thực dân Pháp này. Tất cả đều có tâm huyết, đều một lòng muốn giải phóng đất nước khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, vậy mà sao giữa họ vẫn có sự ngăn cách? Hồi đó, tôi còn nhỏ quá nên không biết ai phải ai trái. Muốn hỏi ba tôi nhưng không biết hỏi cách nào, tôi không đủ chứ nghĩa để đặt câu hỏi.
    Khi ngồi trên ghe nhìn thẳng về phía trước, tôi thấy chân trời và mặt nước ở cuối con sông dính liền nhau. Vậy mà ghe cứ đi hoài đi mãi cũng không đi tới được chân trời. Một hôm tôi hỏi nhỏ anh Khôi: “Chừng nào mình mới tới được chân trời?”. Anh vò đầu tôi rồi nói: “Trái đất tròn, người ở đông ở tây có thể gặp nhau, nhưng không ai tới được chân trời”. Tuy chưa thoả mãn với lời giải thích đó, tôi không dám hỏi thêm, vì sợ anh chê là ngu. Anh thường khen tôi thông mình, làm tôi phổng mũi, tự đắc. Thôi thì cứ để anh tưởng tôi thông mình thiệt. Tôi nghe dân trong vùng giải phóng cũng không tin tưởng vào Chánh phủ Hồ Chí Minh, họ chỉ tin ở hai bàn tay cần cù, chai cứng của họ thôi, ông ngoại tôi càng không ưa ông Hồ Chí Minh. Có lần tôi nghe ngoại kêu Hồ Chí Minh là “thằng già râu”. Tuy nhiên là ba tôi không bằng lòng lời kêu đó, những ông chỉ nhăn mặt thôi, không dám có phản ứng gì.
    Cậu Hai Hợi cũng có ảnh hưởng lớn với tuổi thơ của tôi. Qua cậu, tôi biết bên ngoài vùng giải phóng, không hẳn chỉ có người thao Tây hay phản quốc. Người dân trong vùng bị Tây chiếm cũng sống với gia đình riêng của họ. Có kẻ được hưởng hạnh phúc ấm no, thì cũng có người chịu cảnh cơ cực, lầm than. Tất cả đều có bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình và tổ quốc, khác gì những người sống trong vùng giải phóng như chúng tôi. Cậu Hai còn cho biết ngoài trách nhiệm làm con cháu “cậu Hồ”, con nít còn có nhiều thú vui và niềm tin khác nữa. Theo cậu, bao giờ hết giặc, chúng tôi được trở về làng sẽ hiểu hơn.

    Má tôi thờ cúng ông bà. Tôi thường nghe bà khấn vái, cầu cả người đã khuất. Cũng có khi bà cầu Trời, khấn Phật. Lời khấn của bà nhỏ quá, tôi không hiểu bà cầu xin việc gì. Cậu Hai Hợi không tin ở Trời, Phật. Cậu dậy chúng tôi rằng Trời, Phật ngự ở hai vai con người để chứng giám mọi hành vi, tư tưởng của chúng ta. Cậu vẫn nói rằng nhờ Trời cậu luôn luôn được mạnh giỏi để có sức khoẻ cất nhà cho má tôi. Cậu cũng tạ ơn Trời, Phật mỗi khi qua khỏi một tai nạn. Có lần cậu hỏi tôi đã có bao giờ tôi cầu Trời, Phật chưa? Tôi lắc đầu và cho cậu biết tôi không tin ở Trời, Phật. Không những vậy, tôi còn nói một câu làm cậu giận: “Nếu Trời, Phật thiêng thiệt, cho cháu gặp mặt trong giấc chiêm bao của cháu”. Một hôm, cậu bảo tôi rằng ông Hồ chỉ là một trong hàng tỷ chúng sinh của Trời, Phật và ông Hồ đã đi lạc đường vì ông chủ trương không thờ phượng Trời, Phật. Tất nhiên, tôi không tin lời cậu, một phần vì tôi còn quá nhỏ, phần khác làm sao tôi biết lời nói của cậu là đúng. Trong khi các nhà ái quốc Việt Nam quyết tâm tranh đấu giành độc lập cho nước nhà khỏi ách nii lệ của ngoại bang, Hồ Chí Minh và các đàn em của ông (kể cả ba tôi) lại muốn áp đặt lên đầu lên cổ dân ta một lý tưởng ngoại lai, đó là chú nghĩa cộng sản!
    Anh Khôi tập kết ra Bắc, gia đình tôi, gồm người mẹ và sáu con tha, phải tranh đấu hà ngày để tự tồn tại. Má tôi lúc đó có 38 tuổi. Chị em tôi thường hỏi lẫn nhau, bao giờ mới được gặp lại ba và anh Khôi! Thiếu ba và anh Khôi, gia đình h tôi cảm thấy bị mát mát quá lớn. Ngày chia tay, ba ân cần dặn dò chúng tôi: “hãy ngoan ngoãn chờ ba về!”. Nhưng có ai ngờ rằng ngày ba tôi về tôi lại trở thành một nữ điệp viên chống cộng sản.
    ***
    Những người đàn ông ra đi đã đem theo một phần lo sợ, những người ở lại cảm thấy an tâm hơn. Cuộc sống của chúng tôi trong làng Bang Thạch được ổn định nhanh chóng, nhưng không kém ồn ào của một đại gia đình nhiều con nít. Tuy là bà con ruột thịt, bọn chúng tôi cũng ganh ghét nhau. Có lần, mấy người con của cậu Tư Diệp nói với chị em chúng tôi: “Tụi tao là cháu nội của ông bà nên được ông bà thương hơn”. Tôi đâu có chịu thua, liền trả miếng: “Má em là con gái út của ông bà, còn má chị chỉ là con dâu thôi”. Chị Yvonne tức quá, liền chạy đi khóc với dì Bẩy. Dì bèn bắt tôi phải xin lỗi chị. Nhưng từ đó, chị không nhắc tại chuyện cháu nội cháu ngoại nữa.
    Chị Yvonne lớn hơn tôi ba tuổi, nên khôn lanh hơn tôi, biết cách khiêu khích và biết làm cho tôi bị đòn, bị phạt. Ngày xưa, người Việt thường không cho con nít nhắc đến tên tục của người lớn, vì cho như vậy là phạm thượng. Vậy mà chị dám nói “Phàm làm người ai cùng biết nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”. Phàm là tên má tôi. Tôi tức lắm, những đâu có chịu thua, nhứt định phải trả đũa dù có bị ăn đòn. Tôi nói với Hải Vân: “Chừng nào có dịp ra ngoài chơi, mình hái đu đủ ăn”. Chị Yvonne oà lên khóc chạy đi méc dì Bảy. Tên ba của chị là Diệp, và mà là Đu. Tôi bị phạt không được ra khỏi nhà mấy bữa.
    Có những trận chiến cần phải tham dự dù biết sức mình yếu hơn đối phương, những can đảm vẫn sẽ thắng.
    Tội nghiệp dì Bảy, tối ngày cứ phải đi hoà giải cho cái đám cháu sống chung dưới một mái nhà. Những tranh chấp nhỏ này không bào giờ hết. Nhưng, dù có sóng gió đến chừng nào, ruột thịt vẫn là ruột thịt. Chúng tôi yêu thương đùm bọc nhau. Trong thời gian ở chung này, tôi học được bài học “Chị ngã, em nâng”.
    Cậu Chín Thuỷ để lại người vợ mới của cậu trước khi tập kết ra Bắc. Mợ Chín, tên con gái là Bích Lan, có thể coi như đẹp nhứt làng Bang Thạch. Mợ là con gái duy nhứt của bà Cả Ngài ngoài Cân Thơ.
    Mợ mà đã qua đời. Thỉnh thoảng bà Cả vô thăm con đi bằng một chiếc ghe lườn thật đẹp, ăn mặc cũng thật đẹp. Má nói bà không thích con gái ba mặc quần áo vải. Nhưng ở đây ai cũng mặc đồ vải hết. Chỉ khi nào có đám, có tiệc người ta mới mặc quần áo gấm. Bà ngoại tôi thương và chiều mợ Chín lắm. Mợ là vợ của người con trai út của ông bà. Mợ có phòng riêng và cửa sổ có treo màn. Bà ngoại mướn người trong làng cất thêm hai căn nhà cho chúng tôi ra ở riêng. Nhà của chị Yến được cất trước vì chị sắp sanh đứa con thứ ba. Bà ngoại muốn ổn định trước ngày sanh em bé. Ngoại còn mua một cái nôi mới toanh cho cục cưng tương lai.

    Nhà riêng của gia đình tôi cất giữa nhà ông bà ngoại và nhà chị Yến. Nền nhà là nên nhà cũ của ông bà. Nhà này trước kia bị đốt rụi, khi họ vô lùng bắt hai câu Tư Diệp và Năm Sắc. Vì bắt hụt hai cậu nên họ giận dữ, nổi lửa đốt nhà. Sau trở lại vườn cũ, ông bà tôi không chịu cất nhà trên nền nhà bị đốt, chúng tôi không biết tại sao. Phải chăng ông muốn giữ lại nền nhà trơ trụi, cháy nám, để ghi nhớ cái thảm cảnh của bọn Tây lộng hành đốt nhà và tìm bắt con của ông.
    Giữa nhà mới của chúng tôi và nhà của ông bà ngoại là cái ao thả cá, giữa nhà tôi và nhà chị Yến là một miếng vườn trồng rau cải, cây trái. Nó chỉ là miếng vườn có cây, có trái như những miếng vườn khác má tôi đã từng đi qua trong tuổi thơ của mình. Nhưng cái khác của nó là vườn riêng của ông bà tôi. Đất ở đấy mới là của mình thật sự, chứ chúng tôi không chiếm đất của người khác. Thật ra, khi chúng tôi sống trên đất của người khác, má tôi vẫn lén ba tôi trả tiền cho chủ đất. Cái cảm giác vừa lạ vừa kiêu hãnh khiến chúng tôi thấy tự đo, hãnh diện vì được sống ở nhà. Má tôi cũng sung sướng lắm. Mỗi lần dẫn chúng tôi ra vườn hái rau, bẻ trái, bà thường nói: “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”.
    Ở vùng giải phóng, con nít như tôi có bao giờ được thấy đồ chơi, ngoài cây đàn mandoline. Chị em chúng tôi vui với thiên nhiên và những gì có sẵn trên mặt đất. Khi cải xanh trổ bông vàng, ong bướm bay đầy vườn để hút mật. Chúng tôi bắt ông bầu để “phát mình” ra một cái máy hát. Bọn chúng tôi bắt mấy con ong, bỏ vô một cái keo, rồi từ từ thả ong vào một thùng thiếc, dùng khu chén đè thật nhẹ lên con ông, đẩy nó đi vòng tròn, nó sẽ phát ra một âm thanh rè rè và vui tai. Bao giờ ông mệt đến chết, chúng tôi sẽ cho vô một hộp quẹt giấy rồi đem chôn. Chơi trò “đĩa hát” này thế nào cũng bị ong chích. Bọn chúng tôi không đứa nào tránh khỏi. Nhưng càng bị ong chích, chúng tôi càng có kinh nghiệm để có thể tạo nên những tiếng nhạc của ong hay hơn. Ong chết được chôn trong một nghĩa địa riêng mà chúng tôi đã chôn đủ loại côn trùng: thằn lằn, chuột con, rắn mối, chim con, dế mèn nhỏ xíu…
    ***

    Mùa nhập học năm 1954 trùng với mùa cam, quít chín ở trong vườn của ngoại tôi. Nhiều lái buôn từ Sóc Trăng chèo ghe lên Bang Thạch định giá quít, cam để mua mão. Họ đi hết bờ này, qua bờ khác, chú ý xem xét từng chùm quít để phỏng đoán số trái của những cây này. Có người đếm tới đếm lui ba bốn lần, nhưng không một ai dùng giấy mực để ghi chép hay tính toán. Họ có cách tính riêng của họ, đó là cách đếm lạt tre: “cây dài một chục, cây cụt một trăm”. Đến tối, họ xuống ghe ngủ để sáng hôm sau xem kỹ lại một lần nữa, rồi mới vào nhà gặp bà ngoại và dỉ Bảy để trả giá. Năm đó, người trả giá cao nhứt là 55.000 đồng. Từ nhỏ, vì sống trong vùng “giải phóng”, tôi chỉ biết tiền “cụ Họ” nên không biết giá trị của 55 ngàn đồng là bao nhiêu. Tôi chỉ nghe ông ngoại cho biết năm này trúng mùa và hứa sẽ đưa chúng tôi ra chợ mua sắm thả cửa.
    Ông dẫn chúng tôi ra chợ Bang Thạch ăn mừng, và cũng sắm sửa giấy mực cho ngày tựu trường sắp tới. Mười sáu đứa cháu chắt vừa nội vừa ngoại đi theo ông. Đứa chạy trước, đứa chạy sau, mặt mày hớn hở. Mấy chị lớn đi gần ông ngoại trên con đường mòn dẫn ra chợ Bang Thạch. Tiệm ăn không đủ ghế cho tất cả chúng tôi, ông chủ tiệm phải chạy về nhà lấy thêm. Người nấu bếp nhìn dám con nít với vẻ hài lòng. Ông ngoại dõng dạc nói với chủ tiệm: “Đứa nào muốn ăn uống món gì cứ nấu cho nó, trừ rượu với cà phê”. Mọi người nhìn anh Quốc và tôi rồi cười khúc khích. Cách đây mấy ngày, anh Quốc và tôi được nhiệm vụ đi mua rượu đế cho ông ngoại ở tiệm hàng xén Bên Xáng (làng bị xáng múc thời Tây, nên người ta đặt tên là Bên Xáng). Anh Tân chủ tiệm hay khoe rượu hôm này ngon hôm rượu hôm trước, vì kỳ này có nếp tốt nên rượu ngon lắm. Một lần, hai anh em nửa đường, nối tính tò mò nên thử, nhưng nếm hơi nhiều, rượu còn ít quá, chúng tôi lấy nước dưới rạch chế vô cho đủ. Lúc uống, ngoại chê là rượu hư, bắt anh em tôi đem trả. Hai đứa nhìn nhau rồi đành thú tội. Thế là từ đó chúng tôi bị mất việc đi mua rượu. Không được đi mua rượu nữa, chúng tôi bị thiệt hại nặng lại còn bị xấu họ với các anh chị em trong gia đình. Thiệt hại về tài chánh là chúng tôi không còn được hưởng số tiền lẻ tiệm thối lại, vậy là chúng tôi không có tiền mua kẹo, mua dây thun và đạn cu-li. Hai anh em tôi vừa buồn vừa mắc cỡ!
    Buổi đi ăn hàng đầu tiên với ông ngoại cũng là lần đầu tiên Hải Vân và tôi được thưởng thức cái ngon ngọt lạ thường của rượu xá xị. Tôi không nhớ là tôi uống mấy chai, nhưng tôi bắt đầu thấy khó chịu trong người mà không dám nói cho ai hay, cũng là lần đầu tiên ông ngoại dẫn một bầy con nít ra uống nước. Khi trả tiền xong ông lẩm bẩm nói một mình: “Lần này bà mày phải đưa thêm tiền”. Thật ra, ngoại vẫn có dư tiền để trả cho chúng tôi đi sắm đồ. Khi tới trước một tiệm, ông dặn dò chúng tôi: “Nhớ sắm cái gì mình cần trước, rồi mua cái gì mình muốn sau, nghe chưa”. Hải Vân và tôi có biết cái gì mình cần cho việc học đâu. Vì vậy, chúng tôi để chị Kim, chị Cương lo giùm. Từ lâu mơ ước khi hết giặc sẽ mua nhiều thứ lắm. Cuốn “sách ước” của tôi dầy cộm, vậy mà bấy giờ tôi chỉ nhớ được có hai thứ là kẹo chanh và cây dù. À, còn đôi giầy có quai mầu đỏ nữa. Nhưng tôi tìm hoài không thấy trong mấy tiệm ở cái chợ nhỏ này. Dù thì nhiều lắm, nhưng cây nào cũng cao hơn đầu, nghĩa là chẳng có giầy mà cũng không có dù. Rốt cuộc chỉ có thể mua được kẹo chanh trong tiệm ông Sáu Em. Dù không biết một kilo là bao nhiêu, nhưng thường nghe người lớn mua đồ nói tới kilo, tôi nói với ông ngoại, tôi mua một kilo kẹo. Ông ngoại kêu ông Sáu Em cân cho cháu ông một kilo kẹo. Ôm một kilo kẹo trước ngực, tôi thầm tự hỏi không biết đến chừng nào tôi mới ăn hết cả gói kẹo này? Tôi bốc một nắm mời ông ngoại, nhưng ông từ chối, và cho biết răng ông rụng mấy cái rồi, nếu ăn kẹo có thể bị sâu răng mà rụng luôn mấy cái còn lại. Ông bào tôi chia cho mấy anh chị em. Mọi người đều thò tay vô bọc bốc kẹo ăn. Người nào cũng bốc một nắm lớn, mà còn nói là ăn giùm tôi.
    Hải Vân và anh Quốc hớn hở ra khỏi tiệm với mấy gói đạn culi và hai gói dây thun. Đó là những món cần thiết mà hai người chuẩn bị cho ngày tựu trường.
    Còn các chị tôi mua nào là đồ nịt ngực, lược chải đầu, kẹp tóc, kiếng để bàn, kiếng bỏ túi. Tôi thì chưa biết trang điểm, mấy cục kẹo là vật quý giá nhất đối với tôi rồi. Hương vị ngọt ngào của kẹo, tôi coi như hương vị của hoà bình. Khi còn ở trong bưng biền, tôi mơ ước nhiều thứ lắm, và thầm ước ao sẽ mua, sẽ hưởng khi hết giặc. Vậy mà bây giờ những thứ đó không còn quan trọng nữa. Phải chăng tôi hằng mơ ước tự do, mà cứ tưởng mình thèm muốn mấy món đồ vật chất? Bấy giờ được tự do rồi, những thèm muốn vật chất đó bỗng không còn quan trọng nữa.
    Ông ngoại tôi là xã trưởng của xã này đã về hưu, vì vậy đi đến đâu cũng gặp người quen, ông khoe đàn cháu của ông với mọi người: “Đây là con Tư Diệp, kia là con Năm Sắc, hoặc Tám Phàm…”. Suốt buổi sáng bọn tôi cứ phải khoanh tay, cúi đầu chào đến mệt luôn. Trước khi chúng tôi đi theo ông ngoại, dì Bảy và má tôi đã dặn đi dặn lại là bọn tôi phải giữ lễ phép với tất cả mọi người. Ai cũng vâng lời người lớn hết, chỉ có chị Yvonne hay bướng bỉnh cãi lại. Chị nói: “Con nít nhà này có bao giờ không lễ phép; sao cứ nhắc hoài vậy?”.
    Ông ngoại dẫn chúng tôi tới Nhà Việc ở giữa làng. Nơi đây ông đã từng làm Xã trưởng. Ông Xã mới là một người con trẻ. Chúng tôi gội ông là Cậu Hai, ông tên là ông Hai Trứ, cũng có người kêu là ông Hào Tứr. Ông tươi cười, hãnh diện nói: “Cậu học chung với ba má tụi cháu hồi ông nội, ông ngoại tụi bay làm ông Xã ở đây”. Sau đó tôi nghe lỏm cậu Hai hỏi ông ngoại tôi, sao không cản ba và các cậu, lại để họ đi ra Hà Nội. Tôi không nghe rõ ông ngoại trả lời ra sao, chỉ nghe ông nói má tôi có thể lo nổi. Rồi ông tiếp: “Dù sao, nuôi dậy con là việc của đàn bà từ hồi xưa tới giờ”. Ông Xa trẻ nhìn chúng tôi tỏ vẻ thương hại. Nhưng thật ra trong thâm tâm tôi lại cảm thấy vui sướng và may mắn, sống ở trong bưng bao nhiêu năm trời mà không bị Tây ban chết hoặc bị thương, bấy giờ lại được về sống với ông bà ngoại, được ông bà cưng chiều, được khoanh tay cúi đầu chào dân trong làng của ông mình. Như vậy không là hồng phước sao?
    Tôi cảm thấy gần gũi ông bà ngoại, vì má tôi trước kia thường nhắc đến ông bà. Má tôi kể, có lần má tôi bị một anh du kích xét ghe và giấy đi đường. Anh thấy trong những giấy tờ có tấm hình của ông ngoại. Anh du kích ngắm hình hỏi: “Thời buổi này mà bà còn giữ hình Tây làm gì?”. Má tôi vừa giựt lại tấm hình vừa nói: “Mấy chú ơi, hình của ba tôi đấy chớ Tây với u gì đâu; vì phải xa cha mẹ, tôi chỉ có tấm hình này để coi cho đỡ nhớ”. Tình thương của má dành cho ông bà âm thầm nhưng đậm đà. Có thể vì má tôi bị mặc cảm tội lỗi, đã không chăm sóc được cha meh già, nên lúc nào cũng xót xa khi nhắc đến ông bà.
    Hồi làm xã trưởng, ông ngoại tôi là một ông xã rộng lượng. Tình thương của ông đối với gia đình và dân làng bao là như giòng sông của làng Bang Thạch. Nhờ vậy, ông được mọi người từ lớn chí nhỏ kính trọng, quý mến. Điều đó cũng không lạ, vì ông đã nhiều lần lấy tiền lương của mình đóng thuế cho những người thiếu huỵ, chẳng hạn những nhà nông bị mất mùa.
    Được sống gần ông, tôi mới hiểu tại sao anh Khôi coi ông là một vĩ nhân. Tinh thần ông bao giờ cũng phấn khởi, sống gần ông, ngày nào cũng là một ngày mới, một trang sách phiêu lưu mới. Lòng ông lúc nào cũng rộng mở, nồng nàn với các cháu. Nhờ vậy, tôi dần dần vui lên và không có mặc cảm bị bỏ rơi nữa. Đi bên cạnh ông, tôi không sợ bất cứ ai. Mọi người trong làng đều là những người thân với gia đình tôi. Ông ngoại là một vị trọng tài công bằng, dù phải đương đầu với hơn một chục cháu nội, ngoại, cháu cóc. Tinh thương của ông ban cho chúng tôi rất nồng nàn, rõ rệt. Ông kiên nhẫn, rộng lượng và quý các cháu như vàng. Trước kia, ông thương yêu con cái như thế nào, thì bây giờ ông thương các cháu của ông như vậy. Cậu Năm Sắc qua đời khi được tha từ Côn Nôn về. Cậu Út mất về bịnh ban đen. Chúng tôi biết lòng ông tôi cũng đã một phần chết theo hai cậu.
    Ông thường nói với chúng tôi, là ông nội hay ông ngoại khác với cha. Cha nghiêm khắc, kỷ luật để dậy dỗ con cái. Trong khi đó, ông thì thương, thì cưng các cháu. Ông không bao giờ đánh cháu. Mỗi sáng, chúng tôi chạy qua nhà ăn sáng với ông trước khi đi học. Khi đi học về, sau khi thưa với mà, Hải Vân và tôi lại chạy qua nhà ngoại ăn trưa, rồi ở đó làm bài dưới sự chỉ dẫn của ông.
    Lòng thương yêu các cháu của ông thì bao la như vậy, những đối với vấn đề chính trị, ông nghiêm khác lắm. Thỉnh thoảng, khi đi chợ Bang Thạch, ông ghé Nhà Việc lấy mấy tờ báo về xem. Ông nguyền rủa hội nghị Geneve đã chia đôi đất nước. Một nửa phía Bắc trao cho bọn cộng sản, một nửa phía Nam cho “công giáo Bắc kỳ” cai trị. Di Bảy cũng tức giận theo ông. Dì là người nhiều tình cảm nên có lúc giận quá đến phát khóc. Ông thường hậm hực nguyền rủa: “Thằng chó đẻ biến đổi con tao”. Ngoại không muốn kêu tên Hồ Chí Minh mà chỉ nói là “thằng chó đẻ” thôi. Nhưng chúng tôi biết ông muốn ám chỉ ai. Người Nam chúng tôi coi hai tiếng “chó đẻ” là một câu chửi rất nặng. Vì vậy, chúng tôi biết ông thù ghét Hồ Chí Minh đến mức nào. Có lần tôi bắt chước ông, gọi chị Yvonne là “đồ chó đẻ” thì chị nổi điên lên, khóc bù lu bù loa. Thế là tôi bị phạt hai ngày không được tắm sông với đám con nít trong gia đình.
    Khi Tết sắp đến, ông mua giấy đỏ để viết liễn và câu đối. Ông còn dậy chúng tôi viết chữ Nho nữa. Ông giảng nghĩa những câu chữ Nho ông viết. Đó là những lời chúc mừng tốt đẹp cho nắm mới. Tôi không bao giờ quên được những chữ “Nhân, Nghĩa, Lế, Trí, Tín” mà ông quả quyết rằng: “Làm cháu của ông thì phải có những đức tính này”. Chữ ông viết được dán trên vách, trên cột nhà đã đành, vì rất đẹp. Nhưng cả những chữ vung về của chúng tôi cũng được ông trưng bày. Tết năm đó là cái Tết đầu tiên của tuổi thơ, tôi hưởng trong thanh bình của đất nước
    Từ ngày ba tôi và anh Khôi đi tập kết, chúng tôi về ở với bà ngoại, tôi rất sợ những buổi chiều. Ban ngày tôi ở nhà ông ngoại, được ông cưng chiều, quên đi nỗi thương nhớ cha và anh. Nhưng đến chiều, tôi phải về nhà. Cứ trông thấy má, tôi lại không khỏi nghĩ tới những người đi xa. Ban đêm, nằm một mình ôm gối mà trong lòng thấy trống vắng lạ lùng. Tôi thường nhìn ra cửa sổ, nhắm mắt lại, khấn thấm để xin một điều: “Cầu Trời khấn Phật cho con được thấy ba con và anh Khôi khi con mở mắt ra”. Đêm nào tôi cũng ước như vậy suốt mấy tháng trời liền. Cho đến một hôm, tôi bỗng nhớ lại lời nói của anh Khôi: “Trời có hiện ra trên trần gian này khuyên ba đừng đi Kim Qui, ba cũng đi”. Tôi biết chắc rằng ba thương yêu tôi lắm, nhưng lòng thương yêu không thể giữ chân ông ở lại miền Nam với gia đình. Vậy thì tốt hơn hết là tôi không nên làm phiền Trời Phật nữa. Từ đó, tôi mới ngưng cầu xin, mong ước được gặp lại ba và anh, mà chỉ xin hai người được bình an trở về với chúng tôi như ông đã hứa.
    Điều may mắn lớn cho chúng tôi là phải xa ba, nhưng lại được hưởng tình thương của dì Bảy. Như vậy cũng an ủi được rất nhiều. Dì là người có nhiều nhiệt tình với cách mạng. Dì không lấy chôdng để thay thể các anh và em trai gánh vác việc gia đình, chăm sóc ông bà ngoại. Một tay dì lo hết việc cai quản ruộng nương. Dì hiếu thảo với cha mẹ, bao bọc đại gia đình. Dì đã làm tròn trách nhiệm của một người giữ hương hoả. Chỉ có điều đáng tiếc là tâm hồn dì đã trao trọn vẹn cho cách mạng, cho đất nước, cho dân tộc Việt Nam, kể từ ngày các anh của dì đi theo kháng chiến chống Pháp. Dì được lối xóm láng giềng, từ già đến trẻ quý mến. Dì là người mẫu mực, sống cho danh dự và tiếng tốt của gia đình. Ông ngoại tôi nhận xét về dì như sau: “Nó là tín đồ của Cộng sản, mà thằng chó đẻ đem từ nước ngoài về làm hại dân, hại nước“.
    Chúng tôi rất hãnh diện được làm cháu của dì Bảy. Người làng Bang Thạch đều quý mến dì, nên chúng tôi được hưởng nhiều ưu đãi. Dì tôi biết vậy, nên thường nhắc nhở chúng tôi không nên lợi dụng lòng tốt của bà con lối xóm. Tất nhiên là chúng tôi không bao giờ dám trái lời dì.
    Đi làm quần quật suốt ngày, lúc thì việc trong nhà, lúc thì việc vườn tược, điều khiển người giúp việc ruộng nương, vì vậy bàn tay dì chai cứng, không được mềm mại như của tôi. Nhưng hai bàn tay đó đã nấu những bữa cơm ngon hầu ông bà ngoại tôi, đã làm những cái bánh ngọt ngào cho lũcháu. Dì là người đàn bà gương mẫu, trinh trắng, trung hậu với gia đình, với non sông, đất nước. Tôi thường theo phụ giúp dì khi đi tưới bờ trầu cho bà ngoại, hay lúc đi hái đậu, bẻ cà.

    Đêm nào tôi được ngủ với dì, dì cho tôi thức khuya với dì. Dì đọc cho tôi nghe những bài thơ dì làm. Dì còn dạy tôi làm thơ nữa. Dì bảo tôi: “Cháu làm thơ thầm trong lòng cháu, rồi khi có thời gian cháu viết ra giấy”. Có những bài thơ của dì làm tôi không cầm được nước mắt. Tôi còn nhớ một bài tả một đứa trẻ mồ côi sống sót sau một trận mưa bom. Khi một anh Vệ quốc quân đến an ủi, em kể Tây đến đó đốt nhà giết cả cha lẫn mẹ. Lại có những bài thơ hùng tráng ca ngợi những chiến thắng vử vang của kháng chiến, như trận Đèo Hải Vân, trận Điện Biên Phủ. Thơ của dì được các phụ nữ trong vùng giải phóng chuyền tay nhau đọc.
    Dì cũng biết ngâm thơ nữa. Nằm trên võng vào những buổi trưa hè nóng nực, dì ngâm thơ cho tôi ngủ.
    Sau khi Tây thất trận, trong vùng Việt Minh, người ta thấy một bài thơ dài tựa đề “Một thế kỷ, mấy vần thơ”, không biết tác giả là ai, những dì Bảy bắt tôi học thuộc lòng, nên cho đến nay tôi vẫn còn nhớ. Theo dì, nội dung bài thơ này đã nói hết tâm sự của ba tôi, cũng như của tất cả những người yên nước. Dì ngâm bài tho này hoài, bất cứ lúc nào, bất cứ làm việc gì. “Một thế kỷ, mấy vần thơ” như sau:
    Ánh hồng chói rạng chân trời mới
    Ngọn lửa đao binh tắt lịm rồi.
    Có kẻ chiều nay về cổ quận.
    Âm thầm không biết hận hay vui.
    Chiều nay…
    Kèn kêu tức tưởi nghẹn lời,
    Tiếng ngân xúc động dạ người viễn chinh.
    Chiều nay…
    Trên nghĩa địa
    Có một đoán tinh binh
    Cờ rủ và súng xếp
    Cúi đầu và lặng thinh
    Nghẹn ngào giã biệt người thiên cổ
    Đất lạ, trời xa sớm bỏ mình.
    Thịt nát, xương tan hồn thảm bại
    Nghìn năm ôm hân cõi u minh
    Hỡi ai lính viễn chinh
    Chiều nay bước xuống tầu binh trở về
    Tàu xúp lê! Tàu xúp lê!
    Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn,
    Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê
    Bước đi những bước nặng nề
    Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay,
    Giựt mình bấm đốt ngón tay
    Trăm năm một giấc mộng dài hãi kinh,
    Ngày anh đến đây,
    Thành Đà Nẵng tan hoang vì đại bác,
    Xác anh hùng Đinh, Lý hoá tro bay
    Giữ Gia Định, Duy Ninh liều mạng thác,
    Ôm quốc kỳ tuẫn tiết giữa vòng vây,
    Phan Thanh Giản nuốt hờn pha thuốc độc
    Bởi xâm lăng bất nhượng nước non này.
    Và Thăng Long máu hoà bá lớp đất
    Thất kinh thành Hoàng Diệu ngã trên thây,
    Hỡi ơi xương máu dẫy đầy
    Chân anh dẫm đến, đất này tóc tang
    Tay gươm tay súng
    Bước nghinh bước ngang
    Anh bắn anh giết
    Anh đân anh dẫm
    Anh đầy Bà Rá, Côn Nôn
    Anh đoạ Sơn La, Lao Bảo
    Anh đoạt hết cơm hết áo
    Anh giựy hết bạc hết vàng
    Chặt đầu ông lão treo hàng thịt
    Mổ mật thanh niên giữa chiến trường
    Côi quết trẻ thơ văng máu óc
    Ở nhà vợ đợi con trông
    Vắng anh tình nặng, nghĩa hồng cũng phai
    Tàu xúp lê một!
    Tàu xúp lê hai!
    Cửa Hàm Tử lao xao sóng gợn,
    Bến Bạch Đằng lởn vởn hồn quê
    Bước đi những bước nặng nề
    Ngày đi chẳng biết, ngày về chẳng hay,
    Tàu xúp lê một!
    Tàu xúp lê hai!
    Dù được sống bình yên trong sự chăm sóc, yêu thương ông bà ngoại và dì Bảy, tui vẫn không sao quên được Ba tôi và anh Khôi. Vì vậy tôi rất cô đơn, hay lẽo đẽo theo dì Bảy. Muốn an ủi tôi, dì hay ca tụng Chánh phủ Hà Nội. Dì vẫn tin rằng, chỉ hai năm nữa ba tôi sẽ về đoàn tụ với gia đình, và nước nhà sẽ được độc lập, tự do. Dì lúc nào cũng lạc quan. Dì bao dung, ruộng lượng, vị tha, và tuyệt vời nhứt là dì đem tôi gần với dân tộc và đất nước.

    ***

    Những năm sống trong vùng giải phóng, chúng tôi không hề biết đồng bạc Đông Dương ra sao mà chỉ biết tiền “Cụ Hồ”. Trước khi ba tôi và anh Khôi lên đường tập kết, má tôi gom góp còn được bao nhiêu tiền “cụ Hồ” đưa hết cho hai người, vì thứ tiền này ở thành phố không có giá trị gì hết, thua cả tờ nhật trình cũ, vì ít ra tờ nhật trình cũ còn gói được miếng thịt, con cá khi đi chợ. Dù vậy, ai còn giữ tiền “cụ Hồ” lại có thể bị “ủ tờ”.
    Ba đi rồi, má không còn một xu dính túi. Nhưng may là ngoại vừa bán được quít, chia cho má một phần. Nhưng má là người muốn tự lập, không muốn nhờ vả ông bà ngoại và dì Bảy nên bà bắt đầu tìm việc làm nuôi con.
    Có hai tiệm bán quần áo ở chợ Cần Thơ giao cho má tôi việc may áo dài. Mỗi tuần má ra chợ Cần Thơ nhận vải về may, rồi giao hàng cho họ. Mỗi lần má tôi đi Cần Thơ, thường đưa con, hoặc một đứa cháu của má. Chúng tôi ai cũng nao nức chờ đến lượt mình làm “nhà quê ra tỉnh”. Hồi đó, quãng đường dài 20 cây số từ làng Bang Thạch tới Cần Thơ sao mà dài lê thê. Xe đò từ Cà Mau, Bạc Liêu hay Sóc Trăng đã đầy khách trước khi tôi bót 18 hay chợ Bang Thạch mà anh lơ xe vẫn tham lam rước thêm khách ở dọc đường nên dù xe đã chật cứng, mà không bao giờ thiếu chỗ cho người lên sau.
    Rồi cũng đến phiên tôi được theo má ra chợ Cần Thơ. Đem không sao ngủ được, chỉ mong cho trời mau sáng, tôi dậy khi gà gáy sáng. Mấy người tá điền của ông bà ngoại tôi vẻ ngạc nhiên khi tôi ngồi ăn sáng với họ. Ăn xong mọi người ra đồng, còn tôi đến ngồi cạnh bà ngoại để coi bà nấu, phụ bà đưa củi dừa vô lò. Bà chỉ cho tôi cách nấu khuyên tôi phải biết kiên nhẫn khi quấy nồi tấm; mạnh quá sẽ lủng đít nồi, vì nồi bằng đất; nhẹ tay thì tấm sẽ khét. Bà nói: “Làm gì thì con cũng phải để tâm vô thì mới thành”. Lời khuyên của bà theo tôi suốt cuộc đời. Sau này, những gì tôi thích đã làm với trái tìm của bà, và bàn tay say mê việc mình làm.
    Sau khi nấu tấm heo, bà dẫn tôi ra đốt nhang ngoài miễu ông Thổ thần. Miễu này được dựng lên từ ngày ông bà được ông tổ giao miếng đất làm của, nghĩa là cái miễu đã lâu đời, trên 60 năm. Bà tôi đốt nhang, khấn vái. Tôi không nghe bà xin xỏ điều gì, chỉ nghe bà tạ ơn Ông đã cho chúng tôi được mùa năm đó.
    Khi theo má tôi ra tỉnh, tôi mặc một bộ đồ mới nhứt. Tôi đội cái nón có nơ màu hồng ông ngoại tôi mua cho trước đó. Bà cho tôi đi chợ và dặn “Con cứ mua cái gì mà hồi đó tới giờ muốn, đừng có mua thêm dây thun với đạn culi nữa nghe hông”. Điều đó bà không lo, vì tôi đã có cả keo đạn cất giấu trong nhà, sau công cuộc bắn culi ở trường.
    Chợ Cần Thơ ồn ào, nào nhiệt với một rừng người tới lui mua bán. Tôi sợ bị lạc nên cứ phải nắm vạt áo của má. Nheng chung quanh tôi, tiếng rao hàng, trả giá, tiếng con nít khóc… toàn là những âm thanh xa lạ, quyến rũ tôi, làm tim tôi đập liên hỏi. Tôi nhìn không chớp mắt những người quần là áo lượt trước những tiệm vàng, tiệm vải Ấn Độ.
    Kỳ lên tỉnh này hoàn toàn tốt đẹp. Tôi không có bị lạc, nhưng có một điều làm cho tôi, đứa bé chín tuổi, phải hổ thẹn và tủi thân, may là chỉ có má tôi biết thôi. Sau khi giao hàng, má tôi dẫn tôi đến thăm cô giáo Chức, bạn cũ của ba má tôi trước khi ba má tôi vô vùng giải phóng. Trong lúc ngồi đợi ở phòng khách, má tôi ngồi trên một cái ghế mây, còn tôi lại ngồi vắt vẻo trên một cái bàn giữa mấy cái ghế salon. Má tôi gọi tôi lại bên bà, rồi cắt nghĩa:
    “Con ngồi lên bàn nước, cái đó không phải cái ghế ngồi”.
    Dù chỉ có mình, mà thấy cái nhà quê của tôi, má tôi cũng xấu hổ vô cùng. Suốt buổi sáng đó tôi nghe lòng buồn man mác, cái buồn của đứa con bị bỏ rơi. Ba tôi đã đem con bỏ chợ, không có một sự dậy bảo nào để hội nhập với đời sống quá khác xa với vùng giải phóng. Nhưng rồi chuyện đó cũng qua, khi tôi được đến tiệm bán dù. Đứng trước cả trăm cây dù trong tiệm, tôi bỗng thấy tim đập loạn xạ. Đây rồi, đây là ước mơ của đứa bé trong khu chợ, hết giặc về thành, mua cho được cây dù che nắng, che mưa. Nhưng sau một hồi coi đi coi lại mấy chục kiểu dù, tôi lại thấy mình không muốn mua nữa. Má tôi ngạc nhiên khi má hỏi tôi chọn cây nào, tôi lắc đầu: “Dòm vô kiếng, thấy mình lùn xịt, nhỏ xíu mà che cây dù, thấy con vừa ngu, vừa nhà quê, con hết muốn mua dù rồi”. Nhưng đôi giầy sandale là một chuyện khác tôi phải có đôi giầy sandale mầu đỏ trước khi về Bang Thạch. Đôi giầy này cũng có trong sách ước của tôi, hồi Tây nó còn bỏ bom trên đầu trên cổ chúng tôi. Mua được đôi sandale rồi, tôi mang vô liền, lấy đôi guốc bỏ vô cái giỏ đi chợ của má. Mỗi lần đi ngang qua tiệm nào có kiếng, tôi liếc nhìn bóng mình với đôi sandale màu đỏ. Chừng đó tôi mới hả dạ. Tôi nhờ má giúp tôi mua cho ông ngoại cái hộp quẹt máy, vì cái họp quẹt ông đang có cũ lắm rồi. Ông vẫn nói ông thương nó nhưng mỗi lần thấy ông quẹt ngón tay cái của ông trợt lên trợt xuống cái bánh xe đã mòn láng, tôi hứa thầm sẽ mua cái mới cho ông khi có dịp.
    Tôi mới ra tỉnh lần đầu, nên mùi đông quê con vương trên tóc, trong cặp mắt mở thao láo trước những cảnh lạ, người lạ của chốn thị thành. Tôi so sánh cái nhộn nhịp của thành phố với sự cô quạnh của những khu rừng già heo lánh mà gia đình tôi đã từng sống trong vùng giải phóng. Có một lần anh Khôi nói với chúng tôi: “Ai cũng có thể sống ở thành phố được, nhưng chỉ có một số rất ít người tìm được hạnh phúc trong đời sống của ba mình”. Chị tôi trả lời rằng nếu chúng tôi có hạnh phúc là vì tôi luôn luôn có cha có mẹ bên cạnh, chớ không ai lại đi về cuộc sống tiều phu trong rừng sâu hẻo lánh này đâu.
    Chiều hôm đó, trên đường về Bang Thạch, tôi nghe lòng lâng lâng với dư âm của thị thành. Chị Yvonne và chị Thảo, hai người con trung thành với cách mạng, mắng tôi khi biết tôi về nhà với bóng thị thành đầy ắp trong tìm. Một chị nói “Mình ra chợ cì công việc, chớ mình không phải là dân thành thị”. Chị kia thì hăm he: “Thành đô khổ lắm em ơi. Vui chẳng dám cười, buồn chẳng dám than”.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    ***
    Tôi nhớ hoài một buổi chiều vàng thật bẽ bàng, ngang trái, trên con sông trước của nhà chúng tôi. Hôm đó, hai chị Kim, Cương ngồi trên bờ sông trong chừng Hoà Bình và Minh Tâm đang tắm sông. Còn Hải Vân và tôi thì ném ngói vụn cho bay lướt trên mặt nước, hai chị em thách nhau coi đứa nào ném xa hơn. Mà đã rời nhà từ hừng sáng để ra Cần Thơ tìm chỗ ở mới cho hai chị em tôi tiếp tục việc học hành, và cũng là để cho việc làm của má thêm thuận tiện. Bỗng chị Kim vùng đứng dậy, chỉ tay về hướng vườn quít. Miệng chị há hốc, nhưng không thốt nên lời, chúng tôi nhìn theo tay chị, thấy một nông dân đang đi tới. Ông bước những bước nặng nề đi về hướng chúng tôi. Hai ống quần ướt xũng tới đầu gối. Khi ông tới gần, tôi nhận ra vẻ quen thuộc nơi ông. Rồi chúng tôi cùng la lớn: “Ba về!”.
    Chúng tôi chạy ào tới đón ba. Ông quỳ xuống đất ôm chầm lấy, hôn chúng tôi liên hồi như ông đã xa chúng tôi cả ngàn năm.
    “Má con đâu”. Ba hỏi chị Kim.
    Chị nhìn xuống đất, ngập ngừng, rồi trả lời:
    “Con không biết! Mà… mà má dặn… không được nói cho ai biết má đi đâu”.
    Ba thốt kêu lên với giọng nửa ngạc nhiên nửa trách hờn:
    “Con ai, ba đâu phải là người xa lạ. Nói cho ba biết má ở đâu đi Kim”.
    “Con nói thiệt, con không biết mà”. Chị Kim một mực từ chối.
    “Kim, ba về để rước má và các con ra Hà Nội với ba. Ba đổi ý rồi, ba muốn má và tụi con đi theo ba. Con cho ba biết má ở đâu đi”. Ba năn nỉ.
    Trong khi chị Kim đang bối rối thì Hải Vân chợt nói:
    “Má con ở nhà cô giáo Chức”.
    Cô giáo Chức và ba má tôi là chỗ thân thiết với nhau trước khi ba tôi đưa gia đình vào vùng kháng chiến. Vì vậy, ba tôi biết nhà cô ở trên đường Nhà Đèn. Hai chị Kim, Cương cũng cho biết ba không thể ra chợ Cần Thơ tìm má vì rất nguy hiểm. Công An quốc gia đã nhiều lần tới nhà kiếm ba. Ba tôi trấn an con cái, rồi dẫn chúng tôi vô nhà, ông không muốn ông bà ngoại biết ông đi tìm má, chỉ có dì Bảy là biết ba tôi về thôi. Ông hoá trang thành một người hành khất, rồi dặn chúng tôi phải ở trong nhà. Nếu má chịu theo ba ra Hà Nội, dì Bảy sẽ chèo ghe đưa chúng tôi vô Xẻo Môn. Trước khi bỏ đi, ba con dặn thêm chị Kim: “Phải nhớ lời ba, nghe con”. Rồi ba hôn Hoà Bình và ôm Minh Tâm vào lòng. Ba hôn những ngón tay bé nhỏ của em tôi và nâng niu bàn chân của em còn thơm mùi sữa. Như muốn em tôi nhận ra, cha nựng Minh Tâm: “Ba… ba nè”. Xong, ba lau nước mắt, mím môi lại rồi bước nhanh ra khỏi cửa, biến dạng trong khu vườn xanh ngắt.
    Tôi hôm đó hai chị Kim, Cương đóng chặt cửa, còn chèn bàn tròn nữa. Tôi thầm thắc mắc, không biết hai chị không muốn cho ba vô nhà, hay sợ Công An? Hoà Bình nhớ má khóc hoài. Hải Vân ru Minh Tâm trên võng giăng trong mùng. Khi cả nhà đã ngủ yên, trong khoảng đêm trường tĩnh mịch, tôi băn khoăn nghĩ lại chuyện vừa xảy ra. Tôi không hiểu tại sao chị Kim lại không muốn ba gặp má? Sự xuất hiện bất ngờ và ngắn ngủi của ba đã làm tinh thần của chị em chúng tôi bị xáo trộn. Căn nhà lúc này sao mà trống vắng, lại bao trùm một mối lo âu, sợ sệt không rõ ràng.
    Trái tim nhỏ bé của tôi cũng bị xé ra làm hai. Lúc thì tôi ước ba gặp được má ở Cần Thơ, rồi lúc khác tôi cầu xin Trời Phật giấu má để ba không tìm ra. Trong tận đáy lòng, tôi không muốn đi theo ba ra Hà Nội, mà tôi cũng không muốn má bị ép buộc phải đi. Tôi đã hiểu rằng nhà cầm quyền Hà Nội sẽ không cho má tôi tự do may vá kiếm tiền nuôi con. Mà phải đi vào trong các công xưởng. Trời ơi, cái tiếng “xưởng” nghe khủng khiếp làm sao! Nó là nơi đầy đoạ kiếp con người trong cái gọi là “xã hội chủ nghĩa” mà ba tôi đang tôn thờ.
    Mới đây, làm con của nhà cách mạng chống Pháp nó danh dự, nó quý giá; nay lại thấy xấu hổ, hết giá trị, khi biết Quốc gia lùng kiếm cha tôi.
    Trên bộ ngựa giữa nhà, tôi suy nghĩ mông lung. Với bộ óc non nớt của đứa con nít lên chín, tôi bỗng khám phá rằng tôi lại muốn tự bảo vệ cái thân mình. Tôi cũng chưa ý thức được tôi tự bảo vệ là tôi chống lại chính quyền Hà Nội, hay chỉ chống ba tôi thôi. Tôi nhớ lại những đêm tôi nằm nghe ba má cãi nhau. Má nói đi nói lại nhiều lần là người và súc vật khác nhau. Con người có tình cảm và biết cách biểu lộ được tình cảm. Vậy mà Chánh phủ cộng sản ở ngoài Bắc không cho người ta ăn nói, tự do yêu thương nhau. Tất cả trở thành chai đá như những bức tượng đồng bên Liên Xô. Má tôi chọn đời sống giản dị của người miền Nam. Những ba tôi sống, thở, nằm ngủ và cảm thấy có hạnh phúc với “xã hội chủ nghĩa”. Má tôi tuyệt đối không bóc Iột bất cứ một ai, kể cả người giúp việc nhà. Đồng thời ba cũng không muốn cho ai bức chế đời sống riêng tư của gia đình bà.
    Nhưng còn đời sống của ba ở ngoài Bắc sẽ ra sao? Ông sẽ héo mòn vì nhớ vợ, nhớ con, ông sẽ cảm thấy rất cô đơn khi các đồng chí khác vui sống với gia đình của họ. Ông không còn được nghe tiếng cười, tiếng nói, tiếng khua đũa, khua chén của chúng tôi trong những bữa cơm nữa. Rồi ai đàn cho ba nghe? Ai đòi ba kể chuyện đời xưa? Chuyện Thần hổ xám ba kể chưa hết. Mấy con ma trong chuyện đường trường cách mạng đang nằm đợi trong những mái nhà tranh hoang vắng, mà ba tôi còn bỏ dở. Ba tôi thường cho biết ông đã bị nhiều cực hình khi bị Tây đầy ra Côn Đảo. Chúng biệt giam ông, chúng bẻ gẫy tay ông, một hoạ sĩ tài hoa. Vậy mà ông cũng coi là thường. Nhưng nỗi đau phải xa vợ con thì ông không chịu nổi.
    Càng nghĩ, tôi càng thấy tim tôi nhói đau, mắt tôi cay, miệng tôi đắng. Tôi ngoảnh nhìn hai chị Kim, Cương như muốn cầu cứu, nhưng hình như hai chị cũng bối rối như tôi vậy, có khi còn bối rối hơn nữa. Chị Cương nhìn cái mặt buồn xo của tôi rồi bảo “Đi ngủ đi cưng!”.
    Tôi vô mùng nằm, không thèm đánh răng, rửa mặt như mỗi tối nữa. Nằm trong bóng tối của màn đêm, tôi nghe tiếng tim tôi đập, nghe tiếng muỗi vo ve ngoài mùng, tiếng mấy con thằn lằn chặc lưỡi trên nóc nhà. Nằm im hồi lâu mà vẫn không ngủ được, tôi rón rén bò ra khỏi giường. Tôi bò ra khỏi nhà qua cái lỗ chó của con Nó, vì tôi không muốn làm kinh động hai chị khi tôi đụng tới cái bàn chặn cửa.
    Ngoài sân, sao đầy trời. Vậy mà chẳng có ngôi sao nào có thể soi sáng lòng tôi. Chung quanh tôi, đom đóm bay lượn chập chờn, khi tối khi sáng, làm tôi nhớ đến câu chuyện “mắt ma”, mà trước kia chị vú giữ Hải Vân đã kể cho chúng tôi nghe. Tôi chạy một hơi qua nhà ông bà ngoại, chui qua lỗ chó, rồi đánh thức dì Bảy dậy. Dì bảo tôi lên giường nằm cạnh dì. Có lần dì đã khuyên tôi không nên khóc khi nhớ ba, vì khóc chỉ làm má buồn thêm mà thôi. Dì gãi lưng tôi và ru tôi ngủ bằng những câu hò gặt luá. Nhưng tôi chưa ngủ được thì dì đã ngáy.
    Đến nửa đêm thì mưa bắt đầu rơi. Tôi nghe như tiếng nức nở trong lòng tôi hoà lẫn với tiếng mưa rồi ngoài trời. Có lúc tôi lại tưởng tiếng rơi của nước mắt, của ngàn giọt lệ chia ly. Ngàn giọt lệ ấy có trong gia đình tôi, trong mỗi gia đình có cha có anh đi tập kết. lệ đang rơi trên quê hương rách nát, vì những người làm chánh trị, tự nhận là các nhà ái quốc, đã chia ranh, xé bờ đất nước thân yêu của chúng ta. Cả ngàn, cả triệu giọt lệ đang rơi ngập cả hai miền Nam Bắc.
    Đến sáng, chị Kim qua nhà ông bà ngoại, dẫn tôi về để sửa soạn đi học. Tôi hỏi chị có muốn đi Hà Nội với ba không? Chị Kim lắc đầu, nhưng không nói một lời nào.
    Tôi đi học về rồi mà vẫn chưa thấy má đâu. Thật tình tôi cũng không muốn má tôi về ngay sáng hôm đó, vì nếu má về có nghĩa là má đồng ý đi với ba ra Hà Nội. Tôi thấy mình tội lỗi khi mong ước như vậy. Sự thật, chúng tôi đã rất hài lòng với cuộc sống tạm yên bên cạnh ông bà ngoại rồi.
    Rồi chỉ vài ngày sau, tôi quên khuấy đi việc ba tôi trở về.
    Tâm hồn non dại của chúng tôi dễ xúc động trước những chuyện bất ngờ xảy ra, mà cũng dễ quên đi vì những thú vui trước mắt. Ngày nào tôi cũng mong cho mau tối rồi mau sáng để được đi học. Ở trường, tôi búng dây thun vào loại siêu đẳng nên ăn hết dây thun của các bạn học. Đánh đũa, tôi chỉ thua có chị Thảo. Còn trò chơi bắn culi tôi ăn được cả trăm viên.
    Chúng tôi - anh Quốc, Hải Vân và tôi - thường đến trường trễ, nhưng thầy giáo không biết, vì lớp học của chúng tôi lộn xộn lắm, chỉ có một phòng mà có tới 60 học trò của ba cấp lớp: lớp hai, lớp ba, lớp rư. Sở dĩ chúng tôi hay đi trễ, vì chúng tôi vừa đi vừa chơi trên quốc lộ. Cũng cùng một đường lộ, nhưng sáng nào cũng là một ngày mới, một con lộ mới, có biết bao nhiêu cái mới lah để tìm tòi. Mấy ngày, chúng tôi đi coi tài bắt rắn của một anh lính Miên ở bót 21 trên quốc lộ đi Sóc Trăng. Anh ta úp một cái rọ bằng tre lên miệng một cái lỗ mà anh nghi là hang rắn rồi tìm một cái lỗ nhỏ, lấy que tre dài thọc vô lỗ đó. Thế là mấy con rắn bò ra chui hết vô rọ. Anh lính Miên nắm đầu mấy con răn, bẻ răng và xỏ vào một cây nhọn thành một xâu. Tôi không dám đến gần phần vì sợ rắn, phần vì anh hôi mùi rượu và mùi mô hôi khét lẹt. Mùi hôi nực nồng khiến tôi buồn nôn. Anh đưa xâu rắn ngắm nghía, rồi cười sung sướng với một vẻ tự hào, nói một câu tiếng Việt theo giọng Miên: “Coi nè, coi nè, hết bót đủ một tối ngày”. Hải Vân tò mò chạy theo anh. Anh quay lại hỏi anh Quốc và Hải Vân:
    “Tụi bây có biết ăn con rắn hông?”
    Anh quốc trả lời:
    “Hông”
    Người lính Miền nói:
    “Tan học lại bót tao cho ăn”.
    Trưa hôm đó, anh Quốc và Hảt Vân xin phép chị Yvonne cho ở lại trường để bắn đạn culi. Nhưng tôi biết hai người đi lại đằng bót.

    Hôm sau, Hải Vân cho biết thịt rắn nướng ăn ngon lắm. Những nó cũng cho biết khi ăn thịt răn, nó cứ nhớ đến mấy con rắn từ trong hang chui ra, da bóng lưỡng thì lại lợm giọng muốn ói. Anh Quốc lại cho biết họ hứa sẽ cho ăn thịt chó khi nào họ bắt được con chó trong làng. Từ đó, chúng tôi không dám dắt con chó Nô đến trường nữa. Nhưng dù chúng tôi đã cẩn thận đề phòng, vậy mà mấy tháng sau con Nô cũng vẫn bị lọt vô bếp ăn anh lính Miên. Nó không bị anh bắt giết, mà nó bị xe đò Nhơn Hoà đụng chết; anh đem xác nó về bót làm thịt. Má và chị em chúng tôi khóc hết nước mắt vì cái chết thảm thương của con chó trung thành. Giận mấy người lính Miên. Rồi em bà con của má nhắc lại cũng những người Miền trên bót 18 cướp má của cậu mấy năm trước, rồi đâm ba chết, thả xuống sông gần chợ Bang Thạch. Cậu căm hờn nói: “Người nó con đâm chết, chó nó bắt nó ăn, là chuyện thường”. Đây không phải là lời an ủi, mà cậu lính làm chúng tôi ghét người Miền hơn nữa.
    Khi má tôi từ Cần Thơ về, Hải Vân và tôi bị đuổi “ra sân chơi” để người lớn nói chuyện quan trọng. Sau đó, má cho biết má quyết định ở lại miền Nam, vì “hai năm nữa ba sẽ về”. Thì tương lai của chúng tôi đã được quyết định.

    _____________________________

    Chương 4

    Ông ngoại tôi thường nói với con cháu là gia đình mình là gia đình nông dân, nhưng tôi chưa bao giờ thấy ông coi sóc vườn như bà ngoại và dì Bảy. Mỗi ngày ông bách bộ ra vườn quít, rồi đi thăm mả cậu Út Thế. Trên đường dẫn ra ruộng t cây cầu bắc ngang qua một con lạch. Cầu đã nhỏ lại yếu, khi có người bước lên, nó run rẩy như muốn sụm xuống. Ông ngoại già rồi, đi đứng cũng yếu, nên không dám leo lên cầu, sợ té xuống lạch. Vì lý do đó, miếng vườn bí mật của dì Bảy, lọt theo ruộng lúa, không bao giờ bị ông khám phá ra.
    Miếng vườn này dì trồng đậu ve, đậu bắp, cà tím, cả chua, ớt hiềm, ớt sừng trâu. Miếng vườn được giữ bí mật, vì lãi tức của nó để mua thuốc men cho những cán bộ Việt Cộng. Nếu ông biết được chuyện này thì sẽ “chết cả đám”. Để giữ hoàn toàn bí mật, dì Bảy không mướn người ngoài gia đình, chỉ có đám cháu của dì thi đua với nhau phụ giúp đi hái rau, bẻ trái, làm cỏ, vun xới cho miếng vườn được tốt tươi thôi.
    Thật ra, trong thâm tâm, tôi không mê cái việc cứu một tên cán bộ Việt Cộng. Tôi ra vườn tiếp dì một tay vì thấy dì qua vất vả. Nhưng tôi cũng hiểu rằng giúp dì chăm lo miếng vườn bí mật là tôi gián tiếp giúp đỡ Việt Cộng nằm vùng. Vì vậy, mỗi khi có tin Việt Cộng giết người, tôi lại thấy mình tội lỗi đầy đầu.
    Một lần, tôi thắc mắc hỏi dì Bảy tại sao những cán bộ hay đắp mô, phá đường, phá câu, làm cản trở lưu thông, thậm chí có khi giết cả đàn bà con nít, mà chưa bao giờ dám đụng đến các xe nhà binh của phe quốc gia, hoặc xe mấy ông lớn? Không phải tôi thách thức Việt Cộng làm chuyện đó, nhưng tôi có quyền chất vấn hanh động của họ, vì tôi là con của ba tôi. Dì chỉ đáp buông xuôi rằng: “Cháu con nhỏ, làm sao hiểu được chiến tranh du kích”. Trong lòng, tôi không phục mà không dám nói ra.

    Lâu sau, má tôi cũng bị “người ta” yêu cầu ủng hộ phong trào, mà không dám vô nhà gặp thẳng má tôi, vì họ sợ đụng độ với ông ngoại, nên đã nhờ dì Bảy làm trung gian. Hồi đó, tôi không hiểu má bị ép buộc hay tự nguyện đóng góp. Rồi má ra chợ Cần Thơ mua vải về may mấy chục bộ bà ba đen.
    Mỗi ngày sau giờ ngủ trưa, ông ngoại tôi thường qua nhà ngồi uống trà, trò chuyện với má tôi. Bà vừa may vừa tiếp chuyện cha. Thế rồi một chuyện bất ngờ xảy đến. Buổi trưa hôm đó, má tôi đang may đồ ba ba đen cho Việt Cộng thì ông ngoại bất chợy đi vô. Ông biết ngay là má tôi đang làm việc gì. Ông liền bước trở ra ngoài rồi réo lớn:
    “Nhãn qua đây cho tao hỏi. Bay toa rập cái gì nữa đây?”.
    Tội nghiệp, dì tôi không đi mà chạy qua gặp ông để bị rầy. Ông hỏi:
    “Ai bắt em mày nối giáo cho giặc?”.
    Má tôi tìm cách gỡ cho dì Bảy, nên thưa với ông:
    “Cũng không tốn kém gì nhiều đâu, cậu. Chỉ tốn có một chút vải, một chút công của con thôi”.
    Đây là lần đầu tiên má và dì Bảy bị rầy, mà ông quên không đuổi đám con nít chúng tôi đi chỗ khác chơi. Ông nổi giận, la lớn:
    “Bay có biết là tui nó khủng bố em của bay không? Nó hy sinh tới mức này chưa đủ sao. Từ ngày lấy thằng Quang nó làm mọi cho thằng cộng sản, một mình lo nuôi dưỡng bảy đứa con thơ, thức khuya dậy sớm, ngồi máy còng lưng, bay con muốn nó làm cái gì nữa đây?”.
    Dì Bảy nhìn xuống đất không dám trả lời ông, trong khi ông tiếp tục chửi lay qua cộng sản nằm vùng.
    Mỗi lần ông ngoại chửi Việt Cộng, ông thường nhắc cho con cháu biết “nuôi Việt Cộng là nuôi ong tay áo, nuôi khỉ dòm nhà”. Ông nói bữa nay má tôi may áo che cho họ ấm lưng, dì Bảy cho họ ăn đẫy bụng, ngày mai nếu hai bà từ chối tiếp tế họ, hai bà sẽ bị ghép vô tội phản phúc. Ông chửi “cách mạng”; ông không tin có mặt nào muốn làm cách mạng thiệt tình. Họ là quân cướp có tổ chức. Ông hăm doạ hoài, ông nói Cộng sản ngoài Bắc sẽ vô đây cướp giựt, và vết tới cạn miền Nam, bắt dân miền Nam làm tôi mọi cho đảng cộng sản, ông ngoại biết dì Bảy và Hồng Nga, Hoàng Mai hoạt động mật với Việt Cộng, nên ông ra lịnh cấm bất cứ con cháu nào của ông bước ra khỏi miếng đất này với lý do không chính đáng.
    Ông ngoại kêu Việt Cộng là đồ “khát máu”. Chị Yvonne lớn tuổi; 9 tuổi tôi mới vô lớp năm, còn chị đã học lớp nhì rồi, nên chị chơi chữ với tụi tôi. Chị đố tôi và chị Thuận có hiểu ý nghĩa của danh từ “khát máu” không? Tôi thì nói có nghĩa là muốn máu, muốn giết người để uống máu. Chị Thuậti thì nói “khát máu” là không cùng một dân tộc, không cùng một giống nòi. Chị Yvonne ngoe ngoải đi, rồi nói: “Hai đứa bay đúng mà sai”. Tôi ghé tai nói nhỏ với chị Thuận: “Lớn đầu mà ăn hiếp con nít”.

    Ông ngoại rầy la thì cu rầy la, dì Bảy hội họp với cán bộ nằm vùng thì cứ hội họp, nhưng kín đáo hơn, để ông ngoại không hay biết gì hết. Dì cũng không ngưng việc ủng hộ và đóng góp cho Việt Cộng.
    Có lần, một ông công an nói với ông ngoại tôi:
    - Ghé thử coi có gặp con rể của ông ãa về chơi không?
    Ông ngoại tôi liền trả miếng:
    - Tôi trọng thưởng mấy chú, nếu mấy chú bắt được con rể đem nó về đây cho vợ con nó. Làm ơn đừng có tới lui đây hoài, gây rắc rối gia đình tôi lắm.
    Hộ không bao giờ được mời vô nhà nghỉ chân, hay được uống một ly nước mưa, nhưng họ vẫn tới, vẫn rình rập.
    Đúng như má tôi đã nói, hoàn cảnh của chúng tôi rất tế nhị, đứng giữa hai làn ranh, bị cả hai bên nghi ngờ, làm khó làm dễ. Rồi cái ngày tai hoạ giáng xuống gia đình tôi đã tới. Một hôm, má tôi đi Cần Thơ với chị Thảo. Đến chiều, chỉ có một mình chị về với bộ mặt tái mét, hớt hơ hớt hải báo tin má đã bị công an bắt giam để điều tra. Ông ngoại liền phản ứng một cách mau lẹ. Ông thuê ngay một chuyến xe đò, một mình ra Cần Thơ tìm cách cứu má tôi. Đám con nít chúng tôi sợ quá. Tôi khóc thét lên, Hải Vân lầm lì im lặng như một người câm. Tôi hôm đó, chị em tôi không dám ngủ nhà, phải chạy qua ngủ nhà bà ngoại. Bà ngoại đốt nhang cầu xin Phật Bà Quan Âm.
    Lúc rời nhà, ông ngoại quả quyết là sáng hôm sau nếu đường xá an ninh, ông sẽ đem má tôi về. Dù vậy, chúng tôi vẫn mong má về sớm hơn, nên mỗi khi nghe có tiếng động bên ngoài, chúng tôi chạy ra cửa với hy vọng thấy má về. Tối đó, tất cả lũ con ông cậu, hai dì, cùng con cháu của các ông bà ngồi đầy nhà bà ngoại chờ tin má.
    Về sự ra đi của ba tôi, má dặn đi dặn lại là nếu có ai hỏi thìi trả lời “Ba mất tích”. Chúng tôi chỉ biết vâng lời, nhưng thật ra, không có ai thèm hỏi đám con nít chúng tôi. Bấy giờ nghe tin má bị công an bắt, Hải Vân chỉ sợ người ta giết mất má, nên sụt sịt khóc mà nói:
    “Sao má không nói cho họ biết là ba đi ra Hà Nội rồi. Mà người ta đánh chết mà thì làm sao?”.
    Chị Yến bồng Hải Vân lên, vỗ về:
    “Cưng à, người ta không có đánh má đâu. Má không có tội tình gì hết. Người ta chỉ muốn hỏi má một vài điều rồi cho má về. Đừng có lo gì hết”.
    Đúng như lời quả quyết trước khi ra Cần Thơ, sáng hôm sau, ông ngoại dẫn má tôi về bình yên. Ông nắm tay má tôi dẫn đi như dẫn một đứa con nít. Mặt má tôi buồn xỉu, như một con chim sẻ bị thương. Tôi thầm tự nhủ tôi sẽ phải giúp đỡ má nhiều hơn, phải giấu cái buồn, phải đừng cho má biết tôi nhớ ba và anh Khôi, và tôi cũng mong bà ngoại và mọi người an ủi má tôi bằng những lời êm dịu, ngọt ngào. Chúng tôi chợt để ý đến vẻ lo âu hiện trên gương mặt ông ngoại, tôi đoán ngay rằng phải có chuyện không êm, ông ngoại mới lo như vậy.
    Má tôi được Công an cho ra về thong thả, vì ông ngoại tôi gặp thẳng ông trưởng ty Công an và cho biết ông từng là Xã trường của Bang Thạch trong nhiều năm, có uy tín trong dân chúng. Ông xin bảo lãnh cho má tôi, ông cũng quả quyết rằng tất cả gia đình tôi không ai biết ba tôi và các cậu đi đâu và hiên ở đâu. Ông còn nói thêm rằng chúng tôi không về phe cộng sản để phá hoại nền trị an của miền Nam. Nghe ông trình bày như vậy ông trưởng ty công an bằng lòng cho má tôi được tự do.
    Khi má tôi ra khỏi nhà giam, ông đưa má tôi tới nhà cậu mợ Hai Định ở gần trường canh nông để tạm nghỉ qua đêm. Ông cũng cho biết là ông không thể cản trở công an rình mò, theo dõi để kiếm cho ra ba tôi và các cậu, ông cũng không có quyền hạn gì cấm đoán họ tiếp tục làm khó dễ má tôi, hay lại bắt má tôi nữa. Ông kết luận là má tôi phải tìm cách thoát ra khỏi cảnh “chạy ông mà mắc ông mả”, một bên là phe quốc gia miền Nam, một bên là các cán bộ cộng sản nằm vùng, vừa đe doạ vừa ép buộc má tôi phải theo họ.

    _____________________________

    Chương 5

    Sau khi bị công an bắt giam, má tôi quyết định rời khỏi Cần Thơ. Gia đình tôi phải đến một nơi mà không ai biết dĩ vãng của chúng tôi, để không bị quấy nhiễu nữa. Má tôi năn nỉ ông ngoại đừng buồn vì sự ra đi này. Má tôi biết ông bà ngoại không bao giờ muốn con cháu xa Cần Thơ. Nhưng má tôi cũng biết ông bà không thể bảo vệ chúng tôi được. Ông ngoại, bà ngoại tôi buồn lắm, đành chấp nhận sự xa cách. Ông thở dài dặn má tôi:
    “Con đi đâu thì đi, miễn là chỗ tử tế, bình yên cho sắp nhỏ tiếp tục học hành là cậu mừng”.
    Muốn không ai biết lý lịch của mình, chúng tôi phải đến chỗ đông người. Chỗ ấy, ngoài Sài gòn ra, không còn nơi nào khác nữa. Sài gòn cách Bang Thạch cả 375 cây số, đủ xa để không còn bị công an phe quốc gia dòm ngó, mà bọn cán bộ Việt Cộng nằm vùng không thể uy hiếp bắt ủng hộ hay đóng góp nữa, hy vọng là được tạm yên.
    Từ ngày đó, má tôi phải làm việc nhiều hơn để có dư tiền trong thời gian đầu ở nơi đất lạ. Theo sự tính toán của má, một người trong gia đình tôi phải đi Sài gòn để gặp người lo chuyện nơi ăn chốn ở. Hai chị Kim, Cương mắc đi học, khi về nhà con phải giữ em cho má làm việc. Tôi mới học lớp năm ở trường làng. Thầy giáo Dần là bạn học của má, nên ông thông cảm cho sự vắng mặt của tôi, nghĩa là tôi sẽ không bị thầy cho “hột vịt”. Tôi trở thành một giao liên tý hon, với nhiệm vụ lên Sài gòn trước để gặp người bạn cũ của ba má tôi là có Ba. Tôi tin không một ai trong nhà lại có thể nghĩ rằng má tôi đã giao cho trách nhiệm nặng nề này. Suốt tuổi ấu thơ, tôi chỉ quen sống trong vùng giải phóng rèng nú, quê mùa. Gần đây mới được đến chốn thành thị, còn bỡ ngỡ, chân chưa hết phèn, mà dám đi Sài gòn một mình. Trong lòng, tôi vừa sợ vừa mừng. Sợ, vì tôi thường nghe nói Sài gòn là nơi đô hội, nhiều cạm bẫy, lừa lọc, mà tôi chỉ là một đứa con nít nhà quê. Mừng, vì sắp được đi Sài gòn coi nó ra làm sao. Trước đó, ông ngoại có dậu qua câu “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Chị Yvonne hay chị Thảo vẫn chưa đặt chân lên Sài gòn, chưa mạo hiểm như tôi, một đứa vai em.
    Cho đến nay, tôi vẫn chưa quên được cuộc phiêu lưu của đứa bé nhà quê lên tỉnh, đi tới một thành phố lớn nhứt nước, đi tới “Hòn ngọc Viễn Đông”. Má và bà ngoại cho tiền bỏ túi, nên tha hồ ăn hàng suốt từ Cần Thơ tới Sài gòn! Từ Bắc Cần Thcr, Bắc Mỹ Thuận, ở bến xe Vĩnh Long, bến xe Taâ An, rồi cầu Bến Lức, nơi nào tôi cũng thưởng thức món ăn đặc biệt của nơi đó, và tôi không hiểu làm sao cái bụng nhỏ bé của một đứa con nít mới mười tuổi mà chưa được nhiều như vậy. Nào là bánh phộng khoai, bánh lá dừa, chuối nếp nướng; nào là mía, ổi, mận, trái cóc, khóm, rồi cả na muối, me ngào, v.v… ăn món nào tôi cũng ước nó có em tôi cùng ăn với mình. Khi xe đến Phú Lâm thì không còn hàng quán nữa, tôi giải trí bằng cách coi bảng quảng cáo hai bên đường, vừa hay vừa lạ. Chẳng hạn, người ta quảng cáo thuốc đánh răng Hynos bằng hình ảnh một người đen thui, nhe hai hàm răng trắng bóc ra cười. Sự tương phản của mầu sắc đã tăng giá trị của món hàng được quảng cáo. Dầu cù là Mac Phsu trị bá chứng cạnh tranh với dầu Khuynh Diệp bác sĩ Tín. Dầu nào cũng khoe mình hay, mình tốt nhứt. Lại có một tấm bảng quảng cáo thuốc lá với câu “Người sành điệu, hút thuốc Mélia”. Tôi nghĩ ngay tới ông ngoại và cười thầm, vì ông tôi chỉ hút thuốc rê, như vậy là ông không “sành điệu” rồi! Mà cần gì sành điệu ông cứ hiền từ, yêu thương, đùm bọc con cháu là chúng tôi vui rồi. Với ý nghĩ đó, tôi cười một mình.
    Má tôi không có địa chỉ của cô Ba, chỉ biết địa chỉ của cô Mỹ Ngọc, chủ trường nữ công Mỹ Ngọc. Cô Mỹ Ngọc là bạn thân, cũng là những người trong đại gia đình Việt Minh trước kia. Má tin rằng tôi gặp được cô Mỹ Ngọc là sẽ gặp được cô Ba.
    Khi bước ra khỏi xe ở bến xe đò Sài gòn, tôi vừa hoang mang, vừa sợ sệt. Trước đôi mắt nhỏ bé của đứa con nít như tôi, bến xe đò Sài gòn sao mà rộng mênh mông. Bến xe Cần Thơ, đối với tôi là rất lớn, vậy mà so với bến xe Sài gòn thì thua xa, tiếng động chung quanh cũng làm tôi náo nức. Tiếng rao hàng, tiếng nổ của những máy xe, tiếng chào mời khách của các anh lơ… cũng khác lạ với tiếng ồn ào của bến xe Cần Thơ. Mùi xăng nồng nặc trộn với mùi rác rến bị đốt, cũng làm tôi có cảm giác xa lạ. Cần Thơ có xe lôi, Sài gòn thì có xích lô đạp. Chỉ nhìn mấy bác lái xe xích lô máy chạy vun vút trên đường, tôi cũng đã thấy sợ rồi. Tôi nghĩ rằng mấy người ngồi xích lô máy phải gan lì lắm, vì với tốc độ ấy, xích lô máy có thể đâm bổ vô xe taxi chạy trước bất kỳ lúc nào.
    Tôi cẩn thận đưa tay nắn túi để biết chắc lá thơ má tôi viết cho cô Ba còn nằm yên trong đó, rồi kêu một chiếc xích lô đạp để tới trường nữ công Mỹ Ngọc ở đường Trần Hưng Đạo.
    Cô ba Mỹ Ngọc đi vắng, nhưng may mắn là có một chị học trò của cô biết má tôi. Chị kêu tôi vô nhà tắm rửa, nghỉ ngơi chờ cô Ba, dượng Ba về. Tôi rất áy náy về sự đón tiếp nồng hậu của dượng Ba và cô Ba. Cả hai người thay nhau vồn vã hỏi thăm má tôi và các chị em tôi. Cô Ba còn nhét tiền vô túi tôi để “ăn kẹo”. Cuối cùng, cô Ba kêu xích lô, trả giá rồi trả tiền trước, bảo họ chở tôi tới nhà cô Ba.
    Có Ba đẹp như những nàng tiên trong các chuyện cổ tích má tôi được nghe kể từ hồi còn nhỏ. Có ôm choàng lấy tôi như vừa được gặp lại đứa cháu yêu thất lạc từ nhiều năm, sau khi nghe lời xưng danh: “Cháu là con ông Đặng Văn Quang”. Rồi cô rối rít hỏi tôi về má, về anh chị chúng tôi. Cô đặt một lúc nhiều câu hỏi quá, khiến tôi trả lời không kịp. Sau khi đóng của ngoài lại, cô dẫn vô phòng khách. Hai cô cháu ngồi trên một cái ghế trường kỷ. Lúc đó tôi mới gỡ cây kim tây, mở túi áo, lấy thơ của má đưa cô. Nửa chừng, cô ngưng đọc, nhìn tôi, vừa nói vừa lắc đầu: “Ba cháu dại quá, dại như mấy người theo tiếng gọi của núi sông, kể cả dượng của cháu đây”. Có chỉ tay lên hình của một người đàn ông trên bàn thờ.
    Chiều hôm đó, sau khi ăn cơm, có để tôi ở nhà một mình, cô phải gặp mấy người bạn để nhờ họ giúp má tôi tìm nơi ăn chốn trên Sài gòn. Cô dặn tôi phải tắm rửa sạch sẽ trước khi đi ngủ. Lúc mới tới nhà cô Ba Mỹ Ngọc tôi đã tắm một lần, vì quần áo và người tôi đày bụi đường xa. Lần tắm này thật ra không cần thiết, nhưng tôi tò mò muốn biết cái nhà tắm của dân Sài gòn nó ra làm sao. Trời ai, sao nó vừa đẹp vừa thơm, ngoài sự tưởng tượng của tôi. Cái bông sen thật lớn, nước chảy mạnh ào ào. Tôi để nước xối lên đầu thật lâu mà không muốn tắt. Cái khăn lau mình có mùi thơm như mùi phấn em bé. Tôi nghĩ đến ba đứa em tôi ở nhà, đến cây đèn đốt bằng dầu lửa. Tôi bỗng nhớ nhà vô cùng. Lúc đó, nếu cho tôi đổi mùi thơm của cục xà bông để lấy mùi dầu lửa, tôi sẽ chọn mùi dầu lửa ngay, để được gần gia đình. Chỉ mới xa nhà có một ngày mà tôi đã nhớ nhà quá rồi!
    Tắm xong, tôi chợt nhận ra rằng tôi đang ở một trong căn nhà rộng thênh thang. Chung quanh chỉ có một sự im lặng đến sợ. Đâu đó, một vài con muỗi vo ve, và trên trần, con thạch thùng thỉnh thoảng lại chạc lưỡi. Hình Đức Mẹ đồng trinh treo cao, phía dưới là hình một người đàn ông trạc bốn mươi. Bỗng dưng tôi nhớ lại một chuyện ma mà ba tôi đã kể cho chúng tôi nghe. Đó là chuyện một người đàn bà sống cô độc trong một ngôi nhà lớn. Chồng và con trai ba chết sớm. Đáng lẽ bà phải chôn cất hai người đó, nhưng vì qua tiếc thương, bà ướp hai cái xác đó để trong hai cái hòm, rồi ngày ngày mở ra nhìn. Một mình đứng giữa căn nhà trống vắng tràn ngập một sự im lặng đáng sợ, tôi là nạn nhân của trí tưởng tượng phong phú của chính tôi. Tôi bỗng tưởng như ai đang sờ ót tôi. Thế là tôi không còn hồn vía nào nữa, có giò phóng nhanh ra ngoài sân, ngồi ở bậc thêm chờ cô Ba.
    Cô Ba đem một hộp cà-rem về cho tôi. Kem thơm mùi sầu riêng. Tôi thầm ước có em tôi cùng thưởng thức hương vị lạ này. Đây là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn cà-rem.
    Tôi đang ăn, cô Ba chợt hỏi tôi có muốn làm con nuôi của có? Cô không có con. Có hứa sẽ yêu thương tôi như má tôi yêu thương tôi vậy. Tận đáy lòng, tôi không tin có ai trên đời này thương con bằng má tôi thương chúng tôi. Nhưng tôi không dám nói ra điều đó.
    Cô Ba cố gắng thuyết phục tôi:
    - Con à, má con có một mình mà phải nuôi sáu miệng ăn. Để cô tiếp má con cho nhẹ bớt cái gánh nặng.
    Tôi ngây thơ thành thật trả lời:
    - Con đâu phải là gánh nặng của má con. Con giúp má con nhiều chuyện lắm. Nếu con theo cô, má con nhớ con chết.
    Có Ba nhìn tôi âu yếm, làm tôi cũng thấy e ngại. Nhưng tôi không thể trở thành con nuôi của cô được. Tôi đã mất ba, khoiii lẽ bấy giờ tôi lại mất má nữa sao? Tôi không muốn trở thành một đứa bé lạc loài. Hai tiếng “con nuôi” nghe buồn quá, vì vậy tôi quyết liệt từ chối mà không sợ cô giận. Dù vậy, tôi vẫn tỏ ý cảm ơn lòng tốt của cô, và hứa khi nào gia đình tôi dọn lên Sài gòn tôi sẽ dẫn em tôi tới thăm cô, và có thể ngủ lại với cô. Biết không thể thuyết phục được tôi, cồ đành dặn tôi phải giữ lời hứa, rồi vò đầu kêu tôi đi ngủ trước, vì cô còn phải thức để viết thơ cho má tôi.
    Sáng hôm sau, có đánh thức tôi dậy sớm, dẫn tôi đến một nhà tt hang Tây để ăn sáng. Tôi ăn bánh croissant và uống một ly sữa với chocolat. Đây cũng là những món ngon vật lạ, lần đầu tiên được thưởng thức. Mỗi lần được ăn ngon, tôi lại nhớ đến các em tôi. Tôi cảm thấy bồi hồi, nóng bụng, mong sao được về lại Cần Thơ lẹ lẹ, dù ở đó tôi chỉ có hột gà chiên, hoặc cháo với hạt muối mỗi buổi sáng trước khi đi học. Miếng ngon vật lạ không đủ sức quyến rũ tôi, vì lúc nào tôi cũng nặng tình với gia đình
    Ăn xong, cô Ba đưa tôi ra bến xe đò lục tỉnh. Má tôi đã đưa tiền để tôi mua giấy xe bận về, những cô Ba vẫn nhét tiêdn vào túi tôi. Có biểu cất đi để dành “ăn bánh”. Tôi cất tiền chung với lá thơ cô viết cho má tôi vào một túi áo bên trong, rồi lấy kim ghim kỹ để khỏi bị móc túi. Trước khi tôi đi Sài gòn, mấy chị bà con của tôi căn dặn đủ điều. Nào là phải coi chừng bọn móc túi, nào là phải đề phòng người ta bỏ thuốc mê…
    Trước khi xe chạy, cô Ba dặn tôi nói với má cứ an tâm mà lên Sài gòn, cô sẽ lo liệu đầy đủ cho gia đình tôi. Cô còn thêm:
    - Trên Sài gòn, bạn của ba con, bạn của mấy cậu của con nhiều lắm. Ai cũng sẵn sàng giúp gia đình con.
    Cô chờ cho tới khi xe đò của tôi rời bến cô mới bước đi. Nhìn theo cô từ xa, tôi thấy cô vừa đẹp, vừa phúc hậu. Tôi nghe mùi nước hoa và hơi ấm của cô hãy còn phảng phất chung quanh tôi
    Khi xe ra khỏi thành phố, tôi bỗng nghe lòng rộn rã vui tin Một thứ tình cảm làm cho tôi thấy mình mới mẻ, lớn hơn ngày đi Cần Thơ. Tôi biết rồi, vì tôi đang mang trong túi những tin tốt về cho má tôi.

    _____________________________

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 6


    Cô Ba đã cho cô Ba Trần Giầu biết gia đình tôi sắp dọn lên Sài gòn. Cô Ba Giầu là má của anh Chánh, tức anh Lưu Công Chánh, bộ đội của tiểu đoàn 307. Khi chúng tôi ở Kim Qui, một anh bộ đội bị đau bao tử phải tạm trú ở nhà tôi để chữa bịnh, đó chính là anh Chánh. Bấy giờ tới lượt Cô Ba Giầu giúp lại gia đình tôi.
    Có Ba Giầu có một cửa tiệm bán quần áo và đồ thêu ở đường Lê Thánh Tôn. Như vậy, khi má tôi lên Sài gòn là có việc làm ngay. Cô Ba Giầu cho gia đình tôi ở riêng một từng trong căn nhà hai từng của cô ở đường Lê Công Kiều.
    Vì nhà nhỏ nên má tôi cho hai chị Kim, Cương ở trọ nhà cô Mỹ Ngọc. Hai chị tôi và Hải Vân được đi học ngay, còn tôi phải tạm ở nhà để giữ Hoà Bình và Minh Tâm. Má tôi viết thơ về Cần Thơ, nhờ dì Bảy mướn giùm một người giữ em.
    Được ở nhà, dù chỉ là tạm thời, tôi mừng thầm trong bụng. Đối với tôi, trên đời này làm gì có trường nào vui bằng trường làng Bang Thạch, có thầy nào thương học trò bằng thầy giáo Dần. Nghi tới chuyện phải đi học trường lạ, đêm nằm tôi thao thức không ngủ được, lật gối cả mấy chục lần, vì lo sợ ma cũ ăn hiếp ma mới, mà ma này là ma Sài gòn nữa!
    Căn lầu nhỏ, chật chội, nên rất nóng bức. Những buổi trưa ở Sài gòn, trời nóng hơn Cần Thơ. Tôi thường phải dẫn em qua rạp hát bóng Cathay, vừa để hóng mát vừa coi những hình ảnh quảng cáo trên tường.
    Mỗi sáng, sau khi cho chúng tôi ăn sáng, đưa Hải Vân tới trường, má tôi xuống lầu một, ngồi may cho tới tối. Rồi sau ktv ăn cơm tối, chờ cho chị em tôi đi ngủ hết, má tôi trở xuống hầm một, tiếp tục làm việc. Tôi cũng không biết má tôi đi ngủ lúc mấy giờ. Điều quan trọng là tôi thấy má vui với công việc, lại không bị công an tới làm phiền, và cũng không có người của phe kia tới quấy rầy.
    Hạnh phúc của con người là biết ước mơ, và nói bất hạnh là nuôi nhiều tham vọng. Tôi có nhiều ước mơ rất bình thường khiêm tốn. Tôi ước ao được sống chung với ba má và anh chị em dưới một mái nhà, như những đứa trẻ khác. Nhưng tôi đã phải sống trong một gia đình chia cách, với những giấc mộng dở dang, từ hồi còn nhỏ xíu, tôi đã nhận ra rằng những ước mơ có thành sự thật, chỉ có trong chuyện cổ tích thần thoại thôi.
    Đêm đêm khi mọi người an giấc, tôi nằm nhớ đến những xóm làng, những căn nhà mà ba má và anh chị em chúng tôi đã sống chung. Một dĩ vãng thật êm đềm và ấm cúng. Rồi tôi cố hình dung ra đất Bắc, nơi ba tôi và anh Khôi đang sống, và tôi tự hỏi hai người đang làm gì lúc này. Nhưng tôi hoàn toàn thất bại trong sự tưởng tượng đó, vì tôi chưa hề biết đất Bắc ra làm sao, tôi chỉ còn nhớ văng vẳng bên tai lời hứa của ba tôi: “Ba đi hai năm, ba về với má và các con”. Cậu Thuỷ của tôi bỏ lại vợ mới cưới hứa với ông bà ngoại là hai năm cậu trở về để ông bà có cháu nội. Cậu hứa với mợ Chín là hai năm nữa hai người sẽ có nhà riêng!
    Tôi tin lời hứa của ba tôi, vì ông là người luôn luôn giữ chữ tín với đứa con nít. Một lần ba tôi đi công tác xa, tôi xin một con két khi ông trở về. Ông đã trả lời nước đôi như sau: “Ba hứa là ba sẽ mua cho con con két, nếu ba gặp người bán, nhưng rủi nếu ba không gặp người bán chim, thì ba sẽ không biết làm sao”.
    Câu trả lời ấy đã làm tôi thất vọng và buồn. Tôi cho rằng ba không muốn mua con két cho tôi. Nhưng về sau, tôi hiểu rằng ba tôi đặt danh dự trên lời hứa.
    Trong căn nhà nóng như lò lửa đỏ ở đường Lê Công Kiều, trong thâm tâm, tôi bắt đầu nghi ngờ lời hứa của ba tôi. Nhờ những mẩu chuyện người lớn nói với nhau má tôi nghe lỏm, tôi hiểu rằng phe của ba tôi khó có thể trở về trong hai năm. Làn sóng di cư của người Bắc tràn vô Nam nhanh hơn nước lũ. Ai cũng muốn sống tự do. Những tinh hoa từ miền Bắc vô Nam như trăm hoa đua nở. Mỗi người một sức một tài, chen vai thích cánh với người Nam, làm cho thủ đô Sài gòn mỗi lúc một thêm phồn thịnh. Người di cư liên kết với ông Diệm để chống lại Hà Nội. Chắc là ba tôi và ông Hồ Chí Minh không lấy miền Nam nhanh như họ mơ tưởng.
    Chúng tôi sống trong cái lò lửa ở đường Lê Công Kiều được sáu tháng. Má tôi không than thở một lời nào, nlurng tôi biết là rất mệt mỏi. Bà ốm đi, đôi mắt có quầng đen vì thức khuya dậy sớm. Tôi cũng không nghe tiếng má cười, từ ngày chúng tôi rời khỏi nhà ông bà ngoại. Sự im lặng ấy làm tôi nhớ tiếng nhạc tiếng ca, tiếng đàn và tiếng anh Khôi gõ muỗng.
    Quen sống tự lập, má tôi không muốn ở đậu nhà cô Ba Giầu lâu, dù cô rất tử tế với gia đình tôi. Má tôi đã dành dụm đủ tiền để dọn ra ở riêng. Má tìm được một căn nhà ở một xóm đạo. Bà viết thơ cho mợ Bích Lan và chị Hoàng Mai, con của cậu Tư Đức lên ở chung, để khi bà mở lớp dậy may, hai người có thể làm nghề may được.
    Những ngày đầu sống trong xóm đạo, tôi rất ngỡ ngàng khó chịu, vì ai cũng hỏi chúng tôi “có đạo không?”. Phần đông dân ở làng này “có đạo”. Họ không những hãnh diện là người “có đạo”, mà còn lấy làm vinh dự, vì vị lãnh tụ miền Nam cũng là người “có đạo”.
    Má tôi dẫn Hải Vân và tôi đi tìm trường nhà nước, nhưng trường quá xa, lại phải băng qua nhiều đường đông xe cộ qua lại, nên chị em tôi đành phải học ngay ở ngôi trường trong khu nhà thờ Huyện Sĩ. Trường cũng cho học miễn phí một số học sinh nghèo.
    Dì phước tiếp má tôi trong văn phòng là một người đàn bà đẹp và dịu dàng. Nước da của dì trắng hồng, khiến tôi có cẩm tưởng dì chưa bao giờ ra nắng, ra mưa. Dì nghiêm nghị khi hỏi chúng tôi theo đạo gì? Má tôi cho biết gia đình chúng tôi “thờ ông bà”. Dì lại hỏi tại sao lại cho chúng tôi học trường đạo. Má thành thật trả lời:
    - Gia đình con mới dọn tới đây, mà chung quanh đây khỏi có trường nào gần.
    Dì lại hỏi:
    - Cô có muốn cho con có vô đạo không?
    - Con của con tin đạo nào thì con cho nó theo đạo đó, thưa dì!
    Dì phước mang kiếng lên mắt, ghi tên hai chị em tôi vào hai lá đơn. Tôi không biết trong đơn ghi những gì, nhưng má tôi đọc và ký tên.
    Việc học của tôi đã bị gián đoạn mấy lần, cho nên tôi rất vui khi biết mình sắp được trở lại trường. Tôi mong cho mau tối, mau sáng để được đi học. Đến trường không những được học mà còn có bạn nữa. Ít nhứt tôi cũng được làm con nít mấy tiếng đồng hồ trong một ngày.
    Tôi không nghĩ đến ba tôi trong lúc nhảy lò cò, đánh đũa, búng hột me với bạn. Tôi không nhớ anh Khôi khi bắn culi mà tôi là tay vô địch. Nhưng ở ngôi trường đạo này, tôi đã học được một bài học của trường đời, dù mới chỉ có mười tuổi đâu. Đó là việc để truyền đạo. Họ dụ dỗ chị em tôi, gần như là ép buộc chúng tôi phải theo đạo.
    Ngày đầu tiên nhập học lớp ba, có giáo của tôi là một dì vẻ mặt khó đăm đăm. Bà nghiêm nghị hỏi tôi:
    - Có đạo không?
    Tôi lễ phép đáp:
    - Dạ, không.
    Bà gặn giọng hỏi:
    - Sao lại không?
    Nhưng bà không đợi tôi trả lời mà hầm hầm bước xuống cuối lớp. Tôi phân vân không biết phải làm gì, thì nghe tiếng bà ra lịnh:
    - Xuống đây. Trò ngồi chung với mấy đứa ngoại đạo, nghe chưa.
    Trong một thoảng, tôi lại nhớ tới ngôi trường nhỏ bé của làng Bang Thạch, nhớ tới thầy Dần. Ở đó, học trò là học trò, không phân biệt giầu nghèo, không ai nhắc đến đạo gì vì ai cũng theo đạo thờ ông bà.
    Bà phước vừa bước đi, thì con nhỏ ngồi cạnh kề tới tôi hăm:
    - Mày ráng học kinh Kinh Mừng, kinh Lậy Cha đi, hông thôi bà giết mày đó!
    - Tao không có đạo, làm sao tao biết Kinh mừng ai, ai là cha. - Tôi đáp.
    Con ma cũ liền cho biết ba phước sẽ cho tôi mượn một cuốn kinh, rồi bắt tôi phải học thuộc lòng hai bài đó. Tôi bướng bỉnh hỏi:
    - Rủi tao không thuộc hết có sao hông?
    - Thì không được ra chơi.
    Hàng ngày, lớp học bắt đầu bằng mấy phút đọc kinh. Cả lớp cùng đọc kinh Kinh Mừng. Đám học trò có đạo đọc kinh nhuần nhuyễn, nghe êm tai, quyến rũ lạ lùng. Tôi cũng thấy cảm động. Trong khi đó, cái đám ngoại đạo chúng tôi phải mở quyển kinh ra, dò từng chữ, nghe thật gượng gạo, vụng về, vụng về chẳng có hồn trong lời cầu nguyện.
    Giờ ra chơi đầu tiên, tôi bị bà phước bắt ở lại lớp học kinh. Bụng tôi nóng như lửa, chỉ muốn gặp em tôi, để coi buổi học đầu tiên của nó ra sao. Tôi xin đi tiểu, nhưng bị bà phước từ chối. Bà bắt tôi phải đọc kinh theo giọng của bà. Một lát sau, biết tôi thật sự cần đi, ba mới cho phép tôi rời khỏi lớp. Ra tới cửa, tôi mới sực nhớ là không biết cầu tiêu của nhà trường ở đâu. Tôi điếng người lên, toàn thân nổi ốc. Lỡ có làm sao, chắc tôi phải bỏ trường mà đi, chả mặt mũi nào mà trở lại nữa. May là tôi tim thấy kịp thời.
    Rồi giờ ra chơi thứ nhì tôi cũng bị ở lại với đám con nít ngoại đạo để học kinh. Chúng tôi tôi đọc theo bà phước kinh Kinh Mừng, kinh Lậy Cha. Miệng đọc, tai nghe, nhưng lòng thì lạnh tanh, chẳng có một cảm xúc nào. Đã vậy, tôi còn nghĩ rằng mình đọc kinh như vậy là mình đã phản bội tổ tiên, ông bà mình ở dưới quê. Nhưng tôi lại nghĩ rằng hình như người lớn không quan tâm đến chuyện đọc kinh, mà điều cần thiết lúc này là bằng mọi cách tôi phải học ở trường Huyện Sĩ, mà học ở đây là phải thuộc lòng kinh do bà phước dậy.
    Tinh thần Hải Vân, em tôi, lúc nào cũng vững hơn tôi, mạnh hơn tôi. Nó bất chấp việc học kinh. Nó còn nói:
    - Chỉ phải thuộc có hai bài kinh mà được học khỏi trả tiền, sao chị không ráng mà học cho thuộc đi. Lộn xộn hoài.
    Tôi đành phải nghe lời Hải Vân.
    Mùa hè ở căn nhà trong xóm đạo nóng như thiếu như đốt. Nhưng nóng chưa kịp chạy đã thì má tôi đã lại cho hay là gia đình tôi phải dọn nhà nữa. Trước nhà chúng tôi, có một gia đình sống một căn nhà xinh xắn. Người đàn ông, nghe nói là công chức, nghĩa là ông làm việc cho Chánh phủ, nhưng ông luôn tỏ ra hiền lành, tử tế. Hai đứa con của ông hàng ngày vẫn đi với chúng tôi đến trường. Nhưng chính ông lại là người đã khám phá ra tông tích gia đình chúng tôi. Một hôm, ông nói với má tôi rằng ông biết mấy người đàn ông trong gia đình tôi đi tập kết, ông sẽ không tố cáo mà vẫn giúp đỡ, với điều kiện là má mợ Ngọc Lan phải làm vợ nhỏ của ông. Nghe lời hăm doạ quái đản đó, má tôi sợ quá, và quyết định chúng tôi phải trở về Bang Thạch. Riêng hai chị Kim, Cương được ở lại để tiếp tục học, và trú ở nhà cô và dượng Ba ở trường Mỹ Ngọc.

    _____________________________


    Chương 7

    Trở về Cần Thơ, chúng tôi lại ở chung với ông bà ngoại và dì Bảy. Người lớn trong gia đình phụ má tôi lo tính công việc làm ăn để nuôi một bầy con, bầy cháu phá gạo. Chị em tôi ví như chim sổ lòng khi được sống gần bà con thân thuộc. Má mướn một chị giữ Hoà Bình và Minh Tâm. Còn tôi, Hải Vân, anh Quốc (con cậu Tư Diệp) rong chơi từ đất của ông bà ngoại tới vườn cao của ông Mười, ông Út, em của bà ngoại. Hai ông là em ruột của ngoại tôi. Được về lại Bang Thạch, chúng tôi như chim về rừng. Tha hồ bay nhảy, tha hồ phá phách. Chúng tôi không một chút nào luyến tiếc Sài gòn. Ruộng đồng, vườn tược, mới là nơi chúng tôi vẫy vùng ngang dọc suốt ngày. Chúng tôi hết đi vớt cá thia thia ở mấy con rạch, lại đi bắt ong, bắt bướm. Ban đêm bắt đom đóm bo vô chai. Chúng tôi thường đi kiếm mấy cái tầu dừa khô đã rủ xuống đất để đánh đu từ bờ mương này qua kia. Con của ông Út, chỉ có một người mười sáu tuổi là lớn hơn chúng tôi. Còn những người kia đều nhỏ hơm chúng tôi ba, bốn tuổi. Vì vai vế, chúng tôi phải kêu bằng dì, bằng cậu, nhưng vẫn chơi trò “lớn hiếp nhỏ”. Tôi, anh Quốc, Hải Vân đánh đu chờ mấy tầu dừaa gần đứt mới nhường cho mấy dì, mấy cậu. Dì, cậu đung đưa qua lại chỉ được mấy lần là tầu dừa đứt luôn, họ lọt xuống mương, ướt như chuột lột. Anh em tụi tôi cười lăn lộn dưới đất. Dù tinh nghịch, phá phách như vậy, chúng tôi vẫn còn là con nít. Về nhà còn kể lại cho chị Yvonne nghe thành tích nghịch ngợm ấy. Chị liền méc dì Bảy. Cả ba đứa chúng tôi ăn đòn. Cái tội chánh là vai cháu mà không biết kính nể, nhún nhịn người trên. Dì Bảy còn doạ treo chân chúng tôi lên nóc nhà. Dì doạ như vậy đã nhiều lần, nhưng chưa ai bị hình phạt đó.
    Cả ba đứa chúng tôi đều biết lội, chỉ có mấy dì và cậu con nhỏ của ông Út là chưa. Mới lần xuống sông, họ phải ôm cây chuối, lời lõm bõm ở chỗ nước cạn. Tụi tôi lại âm mưu với nhau để chọc phá mấy người đó. Anh Quốc lội lại gần hai dì Nghĩa, dì Lý và cậu Cư, lúc đó mới sáu, bảy tuổi, chỉ cách cho họ mau biết lội, là nên cho chuồn chuồn cắn rún vài ba lần. Hải Vân và tôi bắt chuồn chuồn. Ba chị em dì theo chúng tôi lên vạch rún cho chuồn chuồn cắn. Cũng đau lắm, nhưng mấy người ham cho mau biết lội, nên cắn răng chịu đựng. Thấy họ nhăn mặt và đau, bọn quỷ sứ chúng tôi chạy vô bổ lúa ôm bụng cười. Sau hai ba lần cho chuồn chuồn cắn rún, họ cũng cũng chưa biết lội. Ông Út biết chuyện, liền cho kêu bọn tôi tới, la cho một trận tơi bời.
    Dì Bảy là người biết thưởng phạt công minh. Tội nhỏ, dì rầy và bắt xin lỗi, rồi bắt chúng tôi hứa không tái phạm. Tội nặng dì mới dùng roi vọt. Nhưng dì không bao giờ có sẵn roi trong nhà. Dì bắt một đứa có lỗi, sắp ăn đòn, phải ra bụi mây ở ranh đất, róc một cây roi. Nhưng nng tôi ma le, chỉ lựa cây mây non, đánh ít đau hơn cây già. Chúng tôi luôn luôn tìm cách “câu giờ”, vừa róc roi thật chậm chạp, tìm cách báo động cho bà ngoại biết. Bà ngoại không muốn đánh đòn đám cháu, nên sẵn sàng can thiệp và chúng tôi được tha. Nể bà, dì Bảy phải tha. Đôi khi, nếu tội nặng, dì nhất quyết phải trừng phạt chúng tôi thì bà ngoại nói:
    - Vậy thì mày đánh tao đi, đừng đánh cháu tao.
    Đến nước đó thì dì Bảy phải nhượng bộ.
    Ông ngoại thì không bao giờ can thiệp vào việc dì Bảy răn lũ chúng tôi. Tuy vậy, không bao giờ ông đánh các cháu. Trong gia đình tôi cháu trai hay gái đều được thương yêu, đối xử ngang nhau. Riêng đám con nít chúng tôi lại có ý cưng chiều hai người là anh Quốc và Hải Vân. Chị Thuận và tôi sẵn sàng nhận làm thế cho họ. Đã vậy, chúng tôi không bắt họ làm việc nhiều, thay nhau rửa chén và quét nhà. Có một lần tôi đề nghị với anh Quốc, khi chúng tôi xách cây roi mây về để bị đòn, anh và tôi nên bó lá chuối cho đỡ đau. Anh phì cười mà nói rằng phải lấy mo cau bó đít mới đỡ đau. Tôi cãi lại rằng nếu xài mó, lúc đánh lên đít nó kêu cái bộp, dì Bảy sẽ biết liền, thì anh thêm một tội nữa. Anh Quốc dành nghe lời tôi. Hai anh em lấy tầu lá chuối bó đít. Nhưng làm sao qua mặt dì Bảy được. Chỉ một quất roi là dì khám phá ra mưu gian của cháu dì. Dì ngạc nhiên đến phát khóc vì cháu của dì “ma quỷ” quá, dám lừa dối cả dì. Hai anh em tôi ra sau hè cười lăn cười lộn. Nhưng lần đó cũng là lần chót mà chúng tôi làm cho dì khóc.
    Tôi yêu tuổi thơ vì tình ruột thịt họ hàng đằm thắm, vì những trò chơi thú vị lành mạnh, quê mùa, vì những bó tre cao vút bao quanh làng mạc, vì hàng đậu đũa ra bông trắng nõn, thơm ngào ngạt. Tuổi thơ là cái bếp lửa hồng của dì Bảy tôi luôn luôn nóng hổi, vì đám cháu của dì “ăn như tằm ăn lên”. Dì làm bánh tét, bánh u, bánh lá dừa. Ban đêm dì nấu tấm heo ngoài sân, thì đám con nít đòi ăn bánh phồng, dì nướng bánh phồng. Tôi không quên loại cỏ tên là “cỏ cứt heo”. Dù có tên xấu như vậy, nó lại ra cái bông màu xanh là cây, chung quanh mầu vàng. Tụi tôi thấy mợ Bích Lan được bà ngoại cho một đôi bông cẩm thạch vàng, cũng giống như bông cỏ cứt heo. Tôi còn nhỏ nên bà chưa cho đeo bông, nhưng đã xỏ lỗ tai rồi. Tôi và chị Thuận từ trang điểm bằng bông của cỏ cứt heo. Đôi này héo lại có đôi khác thế vô.
    Hai bên bờ đê thì một bên là ruộng lúa xanh rì, một bên là đầm sen. Anh em tôi tha hồ hái gương sen để ăn hột. Mỗi lần hái sen, chị Thảo cũng đem bông về cho bà ngoại chưng trên bàn thờ.
    Tôi yêu nước tôi, vì tôi biết một cách thâm thuý những hy sinh cao cả của những người chống Pháp, trong đó có cậu Năm Sắc của tôi. Cạu bị binh lao ở trong tù, rồi khi được tự do thì bịnh đã quá nặng, không sao cứu chữa được nữa. Cậu chết, bỏ lại bầy con thơ cho ông bà ngoại tôi nuôi. Trong khi đó, mợ Năm vẫn miệt mài theo kháng chiến.
    Tôi yêu mảnh đất của ông bà tôi, vì nơi đây bà con bên ngoại của tôi đã lần lượt theo nhau đi vào lòng đất, trong đó có cậu Thế. Tôi thường nghe má tôi kể về cậu Út. Cậu học giỏi, đẹp trai. Cậu tôi hiếu thảo, hiền lành, luôn luôn làm vui lòng cha mẹ và các các anh chị trong nhà. Vì vậy, khi cậu mất đi, cả nhà ai cũng thương tiếc. Mấy chục năm dài, ngày nào bà ngoại cũng ra thăm mộ cậu. Lúc chưa có chúng tôi về, bà đi một mình thăm mộ cậu. Khi đám con nít về, chiều nào cũng có một hai đứa cháu đi theo bà.
    Sau ngày cộng sản xâm chiếm Miền Nam, nghĩa trang quân đội Biên Hoà bị phá bỏ, mộ của em Hải Vân tôi phải chuyển về Bang Thạch, nằm dưới chân ông ngoại và cậu Út Thế.
    Tôi thương người Việt, vì tôi nhớ hoài cảnh chạy giặc, cảnh lính Tây bắt người dân quê trói như trói heo đem ra chợ bán. Tôi yêu người Việt, vì trong đó có ba tôi, người đàn ông chỉ biết có gia đình và lấy gia đình làm sức mạnh để bảo vệ đất nước.
    Mùa hè qua, chúng tôi sửa soạn cho niên học mới, thì má tôi mua được một căn nhà ở gần sân banh trên đường Lý Thái Tổ, Cần Thơ. Ở đây phố xá tấp nập, dân cư đông đúc, nhưng không náo nhiệt như Sài gòn. Hai dẫy phố từ sân banh xuống chợ Tham Tướng, nhà nào cũng đẹp, trước sân nhiều nhà có cây ăn trái, lại có nhà trồng kiểng. Cũng có những nhà đặt bàn thờ ông Thiên ở trước cửa.
    Tôi thương khu phố thanh tịnh này lắm. Nếu có đi xa, tôi vẫn nhớ hàng cây trứng cá bên kia đường và mấy cây chùm ruột trước tiệm hàng xén. Mỗi lần tôi qua tiệm hàng xén, thể nào tôi cũng hái một nắm chùm ruột, trái thì chua, trái thì chát, nhưng tôi cũng ăn từ bên này qua bên kia đường.
    Nhà chúng tôi ở là tiệm may của má tôi. Bấy giờ má tôi phải nuôi thấm mấy cháu, vì trường làng đã hết lớp cho mấy chị con của cậu Tư và cậu Nam. Đó là các chị Thảo, Thuận, Yvonne và Quốc. Đám con nít chúng tôi ở với má từ thứ hai tới thứ sáu, về Bang Thạch đến chiều Chúa nhựt. Mợ Bích Lan và chị Hoàng Mai cũng ra ở chung để học may. Tiệm chưa chính thức khai trương mà đã có thêm sáu người xin học may.
    Má tôi vừa làm mẹ, vừa làm cha, vừa dậy học, vừa may vá cho khách hàng, bận rộn suốt ngày. Nhưng bà hài lòng lắm, vì đây là bước đầu để tạo an cư lạc nghiệp. Có đêm mọi người đi ngủ, một mình má ngồi cắt sẵn quần áo mẫu để ngày mai dậy học trò. Tôi nghe bà hát nhỏ nhỏ: “Ngày trở về, anh bước lê trên quãng đường đê bên bên luỹ tre. Nắng vàng hoe, đến bên luỹ tre, vườn rau trước hè vui đón người về. Mẹ lần mò, ra trước ao… nắm áo người xưa ngỡ trong giấc mơ… Tiếc rằng ta, đôi mắt đã rơi lệ quá đợi chờ”… Lần nào hát đến đây má tôi cũng nghẹn lại, rồi không hát tiếp được nữa. Tôi cắn môi để dằn tiếng khóc vào sâu trong trái tim thổn thức của mình.
    Trong bưng, người ta loan truyền rằng những người đi tập kết có chương trình nhắn tin từ ngoài Bắc về cho vợ con còn ở Miền Nam. Má tôi, mợ Bích Lan và chị Hoàng Mai hùn tiền mua một cái radio. Đêm khuya thanh vắng, năm người gồm có má tôi, mợ Bích Lan và các chị Thảo, Yvonne, Hoàng Mai dụm lại nghe radio phát đi từ Hà Nội xem có nhận được tin tức gì của ba tôi và các cậu, các anh không. Tuyệt nhiên không! Vậy mà người trong khu quả quyết đã nghe ba tôi nhắn tin về cho gia đình mấy chục lần. Họ khuyên chúng tôi rằng kiên nhẫn đón nghe mỗi đêm. Đã vậy, họ còn khoe là đã nghe được tiếng người thân của họ. Thậm chí họ còn khen tiếng vĩ cầm của anh Khôi rất điêu luyện. Anh đàn để tặng Hải Vân và tôi.
    Vào thời buổi đó, nghe đài phát thanh hạ Hà Nội phạm pháp. Nhưng nghe được tiếng nói của người thân nơi xa xôi là một điều rất quyến rũ cho những gia đình có người đi tập kết. Mỗi lần nghe đài Hà Nội, má tôi cắt một người đứng canh ở bên cửa nếu thay xe công an, phải lập tức báo động.
    Một đêm, khi đám con nít chúng tôi đã ngủ yên, bỗng có người đập cả cửa trước lẫn cửa sau. Hết cả nhà hoảng hốt chồm tỉnh dậy. Mấy ông công an ào vô. Trong cảnh hỗn loạn đó, không biết có tất cả bao nhiêu người. Họ tịch thâu cái radio, đưa cho má tôi và mợ Bích Lan mỗi người một tờ giấy mợi lên bót Công an sáng hôm sau. Khi má tôi và mà Bích Lan đi chị em chúng tôi chờ đợi ở nhà trong lo sợ Những chỉ một lát sau, hai người trở về tươi cười cho biết công an chỉ tịch thu radio, và bắt hứa sẽ không lén nghe đài Hà Nội nữa.
    Chỉ mấy ngày sau, mấy bà lại hùn tiền mua một cái radio khác. Rồi đêm này qua đêm khác, mọi người chờ đợi nghe lén nhắn tin từ Hà Nội. Cuối cùng chỉ là nỗi thất vọng ê chề. Nhiều đêm, sau khi chương trình chấm dứt, má tôi tức giận nói:
    - Uổng công tao quá, lần này là lần chót, tao không có làm mọi cho cái radio mắc dịch này nữa đâu!
    Nhưng đêm sau, khi mọi người xúm quanh cái radio, má tôi cũng chen vô ngồi với họ, mắt bà nhắm, tai bà kề sát máy phát nghe tiếng nói của chống, con mình.
    Má tôi than với ông ngoại là tại sao ai cũng nghe ba tôi nhắn tin mà má tôi lại không nghe được. Ông giải thích:
    - Tụi đó là đồ lưu manh, một mặt bắt con nuôi hy vọng, một mặt nghe nó tuyên truyền.
    Từ đó má tôi mới thôi không nghe lén đài phát thanh Hà Nội nữa.
    Hai mươi năm sau, tôi mới biết ông ngoại tôi là người nhìn xa thấy rộng, hiểu thấu tâm địa của cộng sản. Khi chúng tôi gặp nhau ở Luân Đôn vào năm 1977, má tôi nhắc lại những chuyện vui buồn trong khoảng thời gian xa cách ấy, chúng tôi mới vỡ lẽ ra rằng từ năm 1954 đến năm 1960, ba tôi vẫn còn ở miền Nam để vận động và tổ chức cho Mặt trận giải phóng miền Nam thành hình. Năm 1961, khi được bầu vào trung ương Đảng, ông mới ra Bắc. Làm sao một đứa trẻ mới lên mười như tôi có thể hiểu được những man trá, gian manh của cộng sản, của chánh trị. Tuổi thơ của chúng tôi gánh chịu tất những ảnh hưởng của sự man trá, lừa bịp đó.

    _____________________________

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 8

    Cuộc sống ở căn nhà gần sân banh qua đi như một giấc chiêm bao ngắn ngủi. Công việc làm ăn của má tôi trôi chảy tốt đẹp. Từ ngày gia đình tôi chia cách, lần đầu tiên má tôi không thiếu hụt. Mà mướn người từ Bang Thạch ra giữ Hoà Binh, Minh Tâm để Hải Vân và tôi được cắp sách tới trường. Chị em chúng tôi có nhiều quần áo mới. Hải Vân còn được mua cái cặp mới. Trong khi má tôi đang làm ăn phát đạt, đám nữ cán bộ cộng sản nằm vùng móc nối với các chị Thảo, Yvonne, Hoàng Mai để vận động công tác thành. Chị Hồng Nga từ Cái Nhum lên, bắt đầu họp hành bí mật. Các chị là những thiếu nữ trẻ vô tư, không bị công an dòm ngó, nghi ngờ. Họ không làm phiền tôi. Họ cũng không choán nhiều chỗ, vì họ thường tớì vào lúc chúng tôi đã đi ngủ. Đôi khi họ bất ngờ đến vào giữa bữa cơm nhưng không bao giờ họ chịu ngồi ăn với chúng tôi, dù má tôi mời. Nhưng sự có mặt của các nữ cán bộ này làm không khí trong gia đình tôi căng thẳng, ngột ngạt. Tôi bắt đầu có cảm tưởng nhà tôi đã trở thành một nước Việt Nam thu nhỏ, có tranh chấp giữa Nam và Bắc. Điều nguy hiểm cho cả hai phía nhà tôi không có một cây cầu Hiền Lương, nên chúng tôi cứ ở chung chạ, lẫn lộn. Má tôi hoàn toàn bất lựcc trước những hoạt động của các cô cháu gái.
    I'hia trước nhà tôi là của tiệm, nơi má tôi dậy may vá. Khách hàng của bà là những công chức trong toà hành chánh, là vợ các sĩ quan trong mấy trại lính gần nhà. Cả vợ các ông công an cũng thích tới tiệm má tôi may quần áo. Con phía sau cửa tiệm là cái ổ bí mật của các nữ cán bộ Việt Cộng nằm vùng chống “Mỹ Diệm”.
    Tôi không hiểu má tôi sẽ phải đối phó với hoàn cảnh khó khăn này như thế nào. Thường thường, các gia đình có người tân đi tập kết phải tuân theo những đòi hỏi của các cán bộ cộng sản nằm vùng. Họ bắt “hy sinh” tiền bạc, ruộng vườn, nhà cửa cho “cách mạng”, thì phải đáp ứng ngay, nếu không sẽ bị quy là thành phần “phản động”. Khi đám cộng sản nằm vùng rêu rao nào rằng làng nào đã hậu thuẫn cho “cách mạng”, mọi người nên hiểu rằng dân của những làng, những âp đó đã bị ép buộc phải “chống Mỹ cứu nước”. Dân quê miền Nam đã phải sống một cổ đôi tròng. Ban ngày, họ phải tuân theo những luật lệ của phe quốc gia a, ban đêm lại phải học tập chính sách, chủ trương để chống “Mỹ Diệm”. Cứ phải sống hai mặt riết như vậy rồi cái bản chất thật thà của người dân quê biến đổi bản năng tự tồn làm họ thành những con người giá dối, cũng như tôi, dù sống ở thị thành, được phe quốc gia bảo vệ, thành con người có hai cuộc sống khác nhau. Đến sáng phải chào lá quốc kỳ mầu vàng ba sọc đổ, trong khi đó đêm đêm các nữ cán bộ Việt Cộng vẫn họp hành bí mật ở gác nhà tôi.
    Trong khi Việt Cộng nằm vùng vẫn lén lút vào cửsau, phía cửa tiêm may của má tôi, công an quốc gia đã bắt đầu nghi ngờ. Cũng vào dịp này, những người có thân nhân đi tập kết đã biết tin chồng con họ chưa ra Bắc. Họ lén lút vô bưng thăm chồng hay con. Gần nhà tôi có một bà cũng lén đi thăm chồng. Lúc về, vài tháng sau cái bụng của bã mỗi ngày một lớn. Rồi bà bị công an đưa về ty thẩm vấn, nhưng được ra về thong thả. Còn má tôi, một hôm có mấy người công an mặc thường phụ bất thình lình vào tiệm may, đuổi hết khách hàng và các chị học may ra khỏi tiệm. Chúng tôi ngồi bên cạnh má khi các nhân viên công an thẩm vấn bà. Họ hỏi rằng mới đây má tôi có gặp ba tôi không? Má tôi trả lời một cách bình tĩnh:
    - Trước mặt con tôi, không bao giờ tôi nói dối bất cứ một việc gì. Vậy xin thưa để các ông rõ là kể từ ngày chúng tôi dọn về đây đã hai năm, tôi chưa hề gặp ba nó lần nào.
    Tôi không biết họ có tin lại mà tôi không, nhưng họ muốn má chứng minh không có liên lạc gì với cộng sản nữa, bằng cách báo họ biết những ai lén vào bưng thăm chồng con. Mà liền trả lời là má tôi không thể làm được việc đó, vì hàng ngày bận kiếm gạo nuôi con. Sau đó họ còn trở lại nhiều lần. Việc qua lại của họ làm cho công việc làm ăn buôn bán của má tôi gặp khó khăn. Học trò của má tôi là những cô gái miệt vườn, rất có thể họ cũng có người thân đi tập kết, hay là cán bộ Việt Cộng, vì vậy họ đâm sợ, nên bỏ học. Khách hàng thấy công an đến tiệm hoài cũng sợ, tìm tiệm khác an toàn hơn. Mợ Bích Lan bỏ má để lên Sài gòn sống với người em trai của mợ. Chị Hoàng Mai trở về Bang Thạch…
    Má tôi không còn cách nào hơn là bán nhà, bán cửa tiệm. Ông bà ngoại tôi cho người nhắn má tôi về Băng Thạch ở, với bản tánh cương nghị và tự lập, má từ chối. Bà giải thích rằng từ nhỏ, bà đã được ông bà ngoại nuôi nấng đàng hoàng, bây giờ gia đình riêng, phải tự lo lấy, không thể là một gánh nặng được nữa.
    Riêng đối với Hải Vân và tôi, việc mà dẹp tiệm may là một biến cố lớn. Những ngày tươi đẹp của tuổi thơ sao quá ngắn ngủi. Hồi đó, hai chị em tôi đang học trường tiểu học Minf Đức. Hà Nội lớp tư, tôi lớp ba. Chúng tôi đang được thấy thương mến, bấy giờ lại phải dọn đi nơi khác, sao mà không luyến tiếc cho được! Hải Vân là học trò của thầy Thành, một bạn học của má tôi hồi nhỏ. Khỏi cần nói, ai cũng biết nó được thầy cưng. Còn cô giáo lớp ba của tôi là có Công Tằng Tôn Nữ Mai Hương Cô vừa đẹp, vừa hiền, rất thương yêu học trò. Tôi học với cô giáo mới hết một niên khoá mà hình ảnh cô in sâu vào tâm tưởng tôi đến ngày nay. Một chuyện làm tôi nhớ hoài. Ngày ấy, tôi với một cái cặp da rách nên thường bị mất viết mà không biết. Một hôm cô Mai Hương hỏi tôi tại sao tôi cứ làm mất viết hoài, tôi thành thật trả lời là cái cặp da của tôi quá cũ, bị rách nên viết rớt hồi nào tôi không hay. Mấy bữa sau, vào giờ ra chơi, tôi gọi ở lại lớp để cho tôi một cái cặp đã cũ nhưng còn lành lặn. Cặp đó của người con trưởng của cô, anh Tăng Bảo Can nay học trung học, không cần cái cặp nhỏ này nữa. Nhìn cái cặp tôi cảm động nghẹn ngào cám ơn cô.
    Năm đó là năm 1956, năm mà ba tôi hứa sẽ trở về trong vinh quang. Nhưng trên thực tế, năm đó tình thế có vẻ gay go hơn năm trước nữa. Chánh phủ của tổng thống Ngô Đình Diệm quyết tâm diệt Cộng và nhất định không hợp tác với Chánh phủ Hà Nội để tổ chức tổng tuyển cử như hiệp định Geneve tong tuyển dự liệu, cộng sản ở trong Nam cũng ráo riết tổ chức cuộc chống đối quốc gia.
    Để sống và tồn tại và cũng để tránh bọn cộng sản nằm vùng quấy nhiễu, đường chúng tôi lại phải dọn lên Sài gòn lần nữa.
    Chúng tôi lên tam trú tại nhà ông bà hội đồng Huùnh Ngọc Wi Nhậu ở đường Chi Lăng, Gia Định. Bà Nhuận trước là trưởng trường Như Vân ở Cần Thơ. Trước khi có gia đình, bà là nữ sinh nội trú của trung đoàn này. Trước khi lên Sài gòn, má tôi có thơ nhờ bà tìm giúp cho một căn nhà nhỏ để năm mẹ con chúng tôi tạm trú. Bà cho biết má tôi cứ đưa chúng tôi lên Sài gòn ở chỗ bà cũng tiện, vì ông bà đang ở trong một biệt thự rộng. Bên cạnh biệt thự, có một căn nhà đầy đủ tiện nghi. Đó là nơi cho gia đình tôi.
    Khi gặp chúng tôi, sau với câu chuyẹn mở đầu, bà Nhuận coi chúng tôi như con cháu trong gia đình. Ba bảo chúng tôi kêu ông bà là ông bà ngoại. Tôi nghe vậy, lòng không yên, nói nhỏ với má:
    - Mình có ông bà ngoại ở Bang Thạch rồi, làm sao có thêm ông bà ngoại nữa.
    Hải Vân trả lời:
    - Chỉ mất có tiếng gọi ông bà má được ở nhà rộng rài không hà? Chị lộn xộn hoài.
    Sống với ông bà Huỳnh Ngọc Nhuận được ít lâu, tôi biết ông bà đã yểm trợ Việt Minh trước đó, và bấy giờ thì có liên lạc với cộng sản nằm vùng. Ông bà vẫn đóng góp tiền bạc ủng hộhọ. Từ khi có gia đình tôi đến ở, ông bà ngưng việc giúp ấy và cho rằng giúp một gia đình có người đi tập kết là có đóng góp rồi.
    Ngoài ra, trong biệt thự của ông bà, từng lầu hai có một phòng trống. Một phòng gành cho cậu Amin, cháu gọi bà nội, đã từng hoạt động cho Vipt Minh. Sức khoẻ đã không cho phép cậu tập kết ra Bắc. Nhưng cậu vẫn hoạt động ngầm. Để bảo vệ an ninh cho cậu, mới khi cậu bịnh, ông bà cho mời bác sĩ đến tận nhà để khám bịnh và cho toa mua. Ngay chính ông bác sĩ này cũng là người thân Cộng. Hàng bữa ăn chung với ông bà Nhuận, những khi nhà có khách, một người hầu phải bưng cơm lên phòng riêng của cậu.
    Trong một phòng khác của từng lâu này, có bác Hồ Thu cũng ngấm ngầm hoạt động cho cộng sản. Bác đã từng du học bên Pháp và đỗ đạt thành tài. Khi về nước, bác hoạt động cho Việt Minh. Bác là đồng chí của ba tôi. Bác không tập kết ra Bắc mà bác được tổ chức gài lại để hoạt động cho tổng tuyển cử năm 1956. Cũng như những người theo Việt Minh trong thời Pháp, bác Hồ Thu cũng đã từng vào tù ra khám. Đến thời quốc gia của ông Ngô Đình Diệm, bác có tên trong sổ bìa đen của công an. Vì vậy không bao giờ bác ra khỏi phòng khách hay phòng ăn, hàng ngày, người hầu phải đem cơm vào phòng riêng cho bác. Khi sai bảo một việc gì, bác rung chuông để gọi anh Oanh, người giúp việc. Muốn đi đâu, bác dùng một con đường bí mật, qua một khu đất có trong nhiều cây cao su gần hồ tắm Chi Lăng. Bác về không một ai biết.
    Từ ngoài nhìn vào ngôi biệt thự, người ta chỉ hình dung những người giầu có, sống phân biệt với kẻ nghèo, với xã hội đau khổ đang chìm trong chiến tranh khói lửa. Không ai ngờ biệt thự đồ sộ giầu sang đó mang linh hồn của con sông Bến Hải. Chúng tôi là những người sống bên này bờ sông; bác Hồ Thu, cậu Amin và ông bà ngoại Nhuận là những người sống bên kia bờ Bến Hải.
    Vào một buổi trưa, khi mọi người trong biệt thự đang ngủ ngon, riêng má tôi vẫn miệt mài làm việc (vì bà làm việc suốt ngày), có bốn xe Jeep chở đầy cảnh sát có những người mặc áo thường đến trước cổng biệt thự. Họ vừa đập cửa vừa rung chuông ầm ĩ. Má tôi ngưng làm việc, đi ra cổng. Tôi lon ton chạy theo bà. Cảnh sát cho biết là họ có lịnh xét nhà, bắt má tôi phải mở cổng ngay lập tức. Má tôi trì hoãn bằng cách bảo họ chờ để má tôi trình với ông bà chủ. Họ đành phải nghe lời má tôi, nhưng hối thúc phải lè lẹ để trở ra mở cổng cho họ. Trong khi đó, má tôi sai tôi lên lâu báo cho bác Hồ Thu biết. Hàng ngày phòng bác đóng kín nên không ai được đến gần nếu không có phép. Mỗi lần đi qua phòng bác, tôi lại tưởng tượng bên trong có một người lông mọc đầy mình, bị gia đình nhốt kín như trong một truyện giả tưởng mà tôi đã từng được đọc. Hôm nay thì tôi có quyền gọi cửa phòng bác Hồ Thu, xem bác có giấu người mọc lông lá hay bác là người lông lá? Tôi vừa gõ cửa nhè nhẹ, vừa ghé trông vào khe cửa gọi bác. Từ bên trong vọng ra tiếng bác hỏi:
    - Ai đó?
    Tôi đáp khẽ:
    - Thưa bác, cảnh sát đang ở ngoài cổng đòi xét nhà.
    Bác liền nói:
    - Cháu giỏi lắm! Bác đi ngày bấy giờ.
    Tôi xuống dưới nhà định tìm má tôi, thì một đàn chó dữ sủa vang làm tan đi sự yên tĩnh của buổi trưa. Từ ngày đến ở đây tôi vừa ghét vừa sợ lũ chó dữ này. Nhưng hôm này tôi tự thấy nó có ích quá.
    Má tôi vừa từ trong phòng của bà ngoại Nhuận bước ra, là đi thẳng về khu nhà riêng với Hoà Bình và Minh Tâm. Còn tôi thì đi theo bà ra cổng. Bà nắm tayy tôi dắt đi một cách chậm rãi. Tôi hơi ngạc nhiên khi thấy bà tỏ ra rất lịch sự với viên cảnh sát cầm giấy xét nhà:
    - Chào đại uý! Đại uý tới thăm có việc chi đây?
    Trước lời nói ôn tồn của bà, viên đại uý không còn hung hăng nữa, đáp lại bằng một giọng ôn tồn:
    - Thưa bà, chúng tôi được lịnh đến xét nhà bà.
    Ông ta đưa cho bà ngoại tờ giấy đang cầm tay. Bà tìm kiếng trong hai túi áo bà ba trắng mà không thấy, nên phải nói với viên đại uý tạm chờ bà một lúc. Bà dắt tôi đi trở vô nhà. Viên đại uý vội nói theo:
    - Xin bà nhốt mấy con chó lại cho chúng tôi nhờ!
    Tôi phải giúp ba nhốt bầy chó lại. Tôi không sợ cảnh sát, mà chỉ sợ mấy con chó này thôi. Con nào con nấy đầu to, miệng đầy răng dài như răng cọp. Khi đã vào hẳn trong nhà, bà ngoại đóng kịch nữa, vội vàng chạy ngay lên phòng bác Hồ Thu. Phòng trống không, chăn gối cũng đã được bác giấu đi mất tăm. Bà ngoại sai tôi dắt một con chó nhốt trong phòng bác.
    Khi đã thu xếp xong xuôi, bà mới ra mở cổng cho cảnh sát uà vào. Viên đại uý ra lịnh cho cấp dưới:
    - Xét tất cả các phòng, không chừa một miếng gạch nào.
    Lúc ấy, ông ngoại mới ngủ dậy, ông thong thả từ trên lần xuống, thấy đám cảnh sát đang hùng hổ ùa vào các phòng để khám xét, ông thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tôi đoán ông bà đã quá quen với cảnh xét nhà này rồi. Đã vậy, ông còn nói với bà:
    - Có mấy chú cảnh sát bảo vệ, mình thấy yên tâm trong xã hội rối ren này, bà nó hen.
    Sau cuộc khám xét không kết quả, viên đại uý cảnh sát đòi coi tờ khai gia đình. Họ đếm từng người, kể cả cậu Amin. Nhưng cậu là người không có tì vết gì đối với cảnh sát. Cuối cùng họ phải bỏ đi tay không. Cổng biệt thự lại được khoá chặt. Sự im lặng bao trùm khắp nơi trong nhà. Ai nấy đều có vẻ lo âu.
    Buổi chiều hôm đó, chúng tôi được kêu lại cho ông bà căn dặn, là cổng phải luôn khoá kín, dù chỉ ra trước cửa để mua mấy cây cà-rem. Không được mở cửa cho người lạ mắt. Nếu thấy bóng cảnh sát ngoài cổng, phải thả ngay bầy chó ra sân.
    Mấy hôm sau, bác Hồ Thu trở về nhà. Sau vụ báo cho bác đi trốn kịp thời, tôi được bà ngoại tín nhiệm, giao cho việc mang nước trà và báo lên phòng cho bác. Lần đầu tiên tôi đem báo lên, bác giữ tôi lại nói chuyện. Thoạt tiên, bác nói về ba tôi:
    - Cháu phải hãnh diện về ba cháu, phải noi gương ba.
    Lần sau bác sai tôi đi mua phấn trắng để đánh giầy và kẹo mè. Bác chỉ giữ lại phấn đánh giầy, còn kẹo bác cho chị em chúng tôi. Sau nhiều lần tiếp xúc, tôi bắt đầu mến bác, vì tôi thường nghe bác nhắc đến tên ba tôi.
    Trong khi đó, bọn tôi, Hải Vân, Hoà Bình và tôi vẫn đi học. Tôi học lớp ba, Hải Vân lớp tư và Hoà Bình lớp năm. Trường chúng tôi học là trường Đại Đức ở hẻm Trần Kế Xương, rất gần nhà bà ngoại (ở bên kia đường Chi Lăng. Hiệu trưởng là một mục sư. Chúng tôi không biết tên ông, chỉ kêu ông là ông Sư biết rằng ông rất hiền lành, ông được học sinh trong trường mến.
    Trong các giờ học giáo lý, ông giảng rằng nhân loại đã được Thượng đế tạo nên trong sự yêu thương của Ngài, không ai giống ai. Mục sư là một người tượng trưng cho hoà bình, cho tình yêu, cho một người cha kiên nhẫn. Ông dậy học trò lớn phải giúp đỡ các em nhỏ, vào những buổi trời mưa ướt át, ông mang cây dù lớn ra để đón mấy đứa học trò vừa từ trong xe xích lô bước ra.
    Ông đã dậy chúng tôi những bài học về nhân, nghĩa, lễ, trí và ông cho cô giáo đánh học trò; đứa nào đáng bị phạt thì đưa vô phòng hiệu trưởng. Tôi rất sợ phải lên văn phòng của của ông vì phải chứng kiến nét mặt thất vọng, buồn hiu của ông, vì phải ngồi im lặng nghe ông giảng đủ mọi điều về luân lý, giáo lý. Ông thường nhắc nhở chúng tôi phải làm tròn bổn phận công dân, phải tôn kính lá quốc kỳ miền Nam Việt Nam. Những điều ông giảng về luân lý, tôi đều nhập tâm và nguyện vâng lời, nhưng khi ông nói về lá cờ, tôi bỗng thấy có một cái gì vướng ở trong lòng. Từ nhỏ, tôi sống trong vùng “giải phóng”, quá quen thuộc với lá cờ đỏ sao vàng và bài “Tiến quân ca”, bây giờ ngược lại. Hàng ngày, khi đi học, tôi đi ngang qua Trụ sở Uỷ ban kiểm soát đình chiến. Ở trước sân của trụ sở rất nghiêm trang đó có lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió. Ngày đến trường Đất Đức đầu tiên, tôi chợt thấy một người lính trương lá cờ đỏ lên, đồng thời nghe có tiếng nhạc “Tiến quân ca”, tôi tưởng tôi vẫn còn ở trong bưng với ba tôi, nên vội vàng đứng nghiêm để chào cờ. Người lính gác đuổi tôi đi. Sau đó, mỗi buổi sáng tôi cố dàn xếp thì giờ để đi qua đó đúng 7giờ 45 là lúc trương kỳ, rồi tôi lẽn gỡ nón xuống để ngầm chào lá cờ đỏ. Có mấy anh học trò lớn cho tôi biết là tôi không cần chào cờ cộng sản. Họ tưởng tôi là dân quê mới lên tỉnh, không phân biệt cờ nào là quốc kỳ của miền Nam, có nào là cờ cộng sản.
    Mỗi lúc tan học về, tôi đợi cho đường vắng vẻ, không còn những học sinh cùng trường để lén nhìn vô khe hở của bức tường. Cách tôi chỉ một khoảng cách ngắn, có những cái nón cối, những bộ đồng phục kaki vàng quen thuộc, lòng tôi lại nao nao nhớ về dĩ vãng, trong đó tràn ngập hình ảnh của ba tôi. Đôi khi, tôi muốn vào hẳn bên trong để nói chuyện với mấy anh bộ đội vì tôi tin rằng họ biết tên ba tôi. Cả vùng giải phóng, nói đến Đặng Văn Quang ai mà không biết! Nhưng trở ngại lớn của tôi là người linh quốc gia canh gác ở ngoài cửa, có thể vừa biết ý muốn của tôi, anh đã gọi cảnh sát đến bắt tôi ngay. Nếu chẳng may bị bắt, tôi sẽ làm phiền má tôi và ngoại Nhuận lắm. Trong khi đó, má tôi đã gặp quá nhiều khó khăn trong cuộc vật lộn với đời sống vật chất để nuôi dậy một lũ con sáu đứa. Nhưng bóng dáng của những người trong trụ sở của Uỷ hội quốc tế đình chiến đã làm cho tôi bớt nhớ ba đi nhiều.

    _____________________________


    Chương 9


    Má tôi luôn luôn dặn con cái phải tiết kiệm để má có tiền mua nhà rộng hơn. Khi có nhà rộng, chị Kim, chị Cương sẽ về ở chung cho ấm cúng. Nhà hiện nay chật chội, lại xa trường hai chị đang theo học bên Sài gòn. Hai chị chỉ có thể về chơi vào cuối tuần. Má cũng vừa nhớ vừa xót xa, vì phải sống xa hai người con lớn khá lâu. Cứ đến chiều thứ sáu là chị em chúng tôi ra cổng đứng chờ hai chị về. Rồi chiều chúa nhựt, khi hai chị sửa soạn đi, Hoà Bình bắt đầu khóc thút thít cho tới khi khuất bóng hai chị ở phía xa. Hải Vân phải dỗ thật lâu em mới chịu nín. Một gia đình mà đã kẻ Nam, người Bắc, lại không được ở chung nhau dưới một mái nhà, thì con gì buồn hơn nữa. Má tôi thương và tiếc cho hai chị tôi lắm, dù vẫn biết hai chị tôi là những người biết làm và học hành siêng năng. Má tôi cũng tin ở sự săn sóc của cô Mỹ Ngọc.
    Hồi đó, tôi còn nhỏ, chưa biết giá trị của đồng tiền, nên không hiểu má tôi phải để dành bao nhiêu tiền mới mua được nhà mới. Nhưng một biến cố mới xảy ra bất ngờ, làm cái mộng mua nhà của má tôi tan thành mây khói.
    Cũng như mỗi cuối tuần, khi hai chị tôi về thăm nhà Hoà Bình và Minh Tâm không rời hai chị nửa bước. Hoà Bình theo chị Kim, trong khi đó Minh Tâm đeo sát chị Cương.
    Chúng tôi không sao quên được buổi chiều chúa nhựt buồn ấy. Buổi trưa, chị Cương ru Minh Tâm ngủ trên võng, em thức dậy, cất tiếng khóc. Má tôi bồng em lên, thấy người em nóng như lửa. Má tôi kêu lớn hai tiếng “Trời ơi!” thật thảm thiết. Chị em chúng tôi vội chạy tới, thấy mặt em đổi khác hẳn đi, Lúc em khóc, mặt em bị méo một bên, bắp thịt bên mặt không còn cử động được nữa!
    Các bác sĩ ở nhà thương Chợ Rẫy cho má tôi biết là em Minh Tâm bị bịnh polio. Tôi chưa bao giờ nghe nói tới căn bịnh này, nhưng má tôi thì hiểu hết, nên bà lo lắm. Bác sĩ cho biết mặt của em Minh Tâm sẽ bị bại luôn, và phải đợi một thời gian nữa mới biết còn bộ phận nào trong người em bị ảnh hưởng không, vì lúc đó em tôi mới có bốn tuổi. Nghe nói như vậy, cả gia đình ai cũng buồn và thương em. Nhưng, riêng má tôi, ba không chịu thua một cách dễ dàng. Bà cho Minh Tâm đi hết bác sĩ này đến bác sĩ khác. Cả ông bác sĩ được hỏi ý kiến đều cho rằng chưa có phương thuốc trị được polio. Hết Tây y rồi đến Đông y, rồi thầy châm cứu, thầy thuốc Nam, ai cũng ráng trị cho bên mặt của em cử động lại được. Những tất cả đều vô hiệu quả. Trong thời gian ấy, bà ngoại tôi ở Cần Thơ lên ở với chúng tôi. Bà nóng ruột vì má tôi bỏ ăn, bỏ ngủ, chạy ngược chạy xuôi tìm thầy trị cho Minh Tâm. Bà khuyên không được, đành bỏ về lại Cần Thơ. Sau đó, đến lượt ông ngoại tôi viết thơ khuyên má tôi, ông khuyên má tôi hãy chấp nhận bịnh trạng của Minh Tâm, rồi dành nhiều thời gian chăm sóc cho nó. Hãy bình tĩnh lại, đừng nghe ai mách ở đâu có thầy thuốc hay là mò đến đó, rồi tiền mất, tật mang, rồi thất vọng.
    Bịnh hoạn của Minh Tâm đã làm má tôi suy sụp tinh thần nghiêm trọng. Bà bỏ may vá, bỏ luôn giấc mộng có một mái nhà cùng sống đoàn tụ với đàn con dại. Mỗi ngày đi học về tôi lại thấy má ôm em Minh Tâm vào lòng với vẻ mặt đau khổ tột cùng, do thiếu ngủ, mắt bà có quầng đen. Giọng nói đầy nghị lực của bà không còn nữa, tiếng hát trong nhà cũng không còn nữa. Tôi giựt mình khi nhận ra vẻ già đi trên nét mặt của ba. Sự đổ thay này làm tôi nghĩ mông lung. Tôi nhớ lại ngày ba tôi đi tập kết. Hồi đó mắt ông xanh đen, bước đi của ông trẻ trung, ông tràn đầy sức sống. Khi ba tôi cười, cặp mắt sáng long lanh của ông cũng cười theo. Nhớ lại hình ảnh đó của ba tôi, tôi bỗng thấy một mối lo vu vơ thầm lén đi vào lòng tôi. Mà cực khổ quá, sẽ già trước tuổi, không xứng đôii vừa lứa với ba tôi nữa, dù bà nhỏ hơn ba hai tuổi.
    Sáu tháng ròng rã, chúng tôi sống trong ác mộng giữa ban ngày. Đêm thì trằn trọc trong cái nóng như thiêu như đốt của Sài gòn và nỗi lo buồn về bịnh tật của Minh Tâm. Hằng đêm, tôi cầu nguyện sao cho có phép lạ để em khỏi bịnh, hoặc may mắn được đưa sang Mỹ chữa trị.
    Cuối cùng, má tôi không sao tìm được thầy thuốc chữa bịnh cho em, mà tiền dành dụm để mua nhà mới cũng đã cạn.
    Hè năm đó, hai chị Kim, Cương nghỉ học, về ở với gia đình. Tôi mừng lắm vì đã có người lo việc nhà thay tôi. Sáu tháng qua, một mình tôi chịu đựng hết những ưu phiền, những lời than thở của má. Thêm vào đó, từ ngày cho chị người làm về quê, tôi phải gánh hết mọi việc lớn nhỏ trong gia đình. Bấy giờ có hai chị được nghỉ ngơi đôi chút. Vườn sau nhà bà ngoại Nhuận có cây khế ngọt mà Hải Vân hay leo lên để hái trái. Một hôm, tôi theo Hải Vân, leo lên thật cao để tìm trái chín, bất ngờ vịn phải một cành khô, tôi té xuống đất. Nhưng may không hề hấn gì. Leo cây khế, nhảy lò cò trên sân xi măng chỉ là thú tiêu khiển của một đứa trẻ mới trên dưới mười tuổi. Tôi cần thú tiêu khiển đó để tạm thời thoát ra khỏi bầu không khí ngột ngạt của gia đình đâầ buồn phiền, u uất.
    Một buổi trưa chúa nhựt, ông bà ngoại dẫn Hải Vân và tôi đi sang Thủ Đức ăn sinh nhật của cháu ông kinh lý Nhơn, bạn của ông bà. Chưa bao giờ chúng tôi được dự một cuộc vui như vậy. Nhưng khi những niềm vui còn rộn rã trong lòng, vừa về đến nhà tôi đã chạm trán với nỗi đau buồn riêng tư của gia đình mình, nghe má tôi nói với hai chị Kim, Cương:
    - Hồi đó, khi tụi con bập bẹ tập nói, thường gọi ba trước. Ngày nay, mà sợ Minh Tâm sẽ không bao giờ biết nói tiếng ba.
    Nghe má nói như vậy, tôi hiểu rằng cả trái đất này không có ngọn núi nào cao hơn nỗi tuyệt vọng của má, kể cả đỉnh Everets trong dãy Hy Mã Lạp Sơn.
    Rồi má nói thêm là má kiệt sức rồi, mà không thể nào tiếp tục làm người lánh nạn được nữa, ông bà ngoại Nhuận tử tế, giúp đỡ gia đình chúng tôi, cho mấy em đi học, má biết ơn ông bà lắm. Nhưng gia đình tôi không thể sống nhờ ở đậu hoài như vậy. Dù trong hoàn cảnh nào chúng tôi cũng phải biết tự lập. Má không đi Hà Nội để tránh cảnh ăn nhờ ở đậu, sao mình lại ăn nhờ ở đậu ông bà ở đây? Vì vậy, má quyết định phải trở về Cần Thơ sống gần ông bà ngoại. Nếu hoàn cảnh bắt buộc, má sẽ phải đổi khai sanh của tụi tôi để bảo vệ ba.
    Tôi nghĩ thầm trong bụng, ba ở tuốt ngoài Hà Nội với ông Hồ Chí Minh, ba ngon lành quá, sao mình lại bảo vệ ba? Ai ăn hiếp được ba, mà mình phải bảo vệ? Tôi không dám hỏi má, những đó là chuyện của người lớn, bảo vệ ba suốt đời rồi, ai mà dám chất vấn nữa.
    Nói xong, má tôi khóc, hai chị em khóc theo. Tôi vội vàng nắm tay Hải Vân kéo ra sân. Tôi dẫn em đi ra cửa sau. Nơi đây có một hầm nộ bỏ hoang, từ lâu không thấy ai tới thăm nom. Tôi ngồi sau lưng một cái cái mộ bia, rồi để mặc cho nước mắt trào ra. Hải Vân nhìn tôi một lúc, rồi hỏi:
    - Chị có nhớ ba không?
    Tôi giấu mặt vô hai đầu gối, im lặng. Hải Vân lại hỏi:
    - Sao chị không trả lời em?
    - Tại tao sợ!
    - Sợ cái gì?
    - Sợ khóc, má buồn.
    Em tôi lấy tay chùi nước mắt, nói:
    - Em hết nhớ bà rồi, tại ba xấu với má.
    Hai chị em tôi ngồi bên nhau cạnh mấy nấm mộ hoang rất lâu nhưng chẳng nói với nhau một lời nào. Tê tái buồn, sẵn sàng khóc, một không dám nhịn. Tôi không dám trách em tôi, vì nó đã nói đúng. Đôi khi cũng như em, tôi cũng giận ba tôi.
    ***
    Buổi chia tay với ông bà ngoại Nhuận không buồn thảm như đối với hai chị Kim, chị Cương. Má vẫn để hai chị ở lại chỗ cô Mỹ Ngọc để tiếp tục đi học. Nếu nghi hè, hai chị sẽ về nữ công.
    Tôi có cảm tưởng, chuyến trở về Cần Thơ này, gia đình chúng tôi phải trốn chạy một nỗi đau khổ, mà rồi đây nó cũng đi qua sau lưng. Chúng tôi cần bà con ruột thịt để nâng đỡ lẫn nhau. Nhưng làm sao chúng tôi quên được sự cưu mang, giúp đỡ của ông bà Nhuận. Ông bà đã dậy cho tôi bài học nhân ái, mà con người phải đối xử với nhau. Tôi không bao giờ quên được bài học quý giá này. Tình thương mà ông bà dành cho chúng tôi đã dậy chúng tôi về sự đoàn kết và chung thuỷ giữa những người cùng một chí hướng. Ông bà đã dẫn Hải Vân và tôi đến những nơi sang trọng của những người “ăn cơm quốc qia, thờ ma cộng sản”.
    Ông ngoại Nhuận qua đời vào năm 1972 sau một thời gian dài vật lộn với bịnh ung thư ruột già. Bà ngoại Nhuận ở một mình trong cái biệt thự rộng mênh mông đó, con trai của bà là kỹ sư Huỳnh Ngọc Châu; cậu làm việc cho hãng Esso, thường lui tới thăm bà, vào một ngày sau 30 tháng 4 năm 1975, tôi nghe tin cộng sản tịch thu biệt thự của ông bà ngoại Nhuận, đuổi bà ra khỏi nơi đã dung dưỡng bao nhiêu cán bộ cộng sản.
    Chương 9
    Trở về Bang Thạch, tôi thấy lòng thơ thái, thấy mình yên tâm, không còn lo sợ. Tôi vui chơi trong khu vườn rộng quen thuộc của ông bà ngoại. Tôi lại được nghe những tiếng cười giòn rã của chị em tôi, như những mùa hè trước. Má tôi làm việc ít hơn mọi năm, nên ông bà ngoại và dì Bảy lo hết cho chúng tôi, từ miếng cơm đến manh áo để má tôi lo chạy chữa cho Minh Tâm.
    Ở nhà thương Cần Thơ, các bác sĩ đang thí nghiệm một phương pháp mới chữa cho những đứa trẻ bị bịnh tê liệt. Má tôi đem Minh Tâm đến đó, với nhiều hy vọng em trở lại bình thường, xong rồi má tôi cũng lại thất vọng, vì các bác sĩ đã bó tay.
    Mùa thu năm đó, vườn của ông bà ngoại tôiđược mùa, ông dành trọn số tiền bán cam, quít cho má tôi mua một căn nhà để lập lại sự nghiệp một lần nữa.
    Hải Vân được đi theo má tôi ra Cần Thơ để tìm nhà. Má tìm được một căn ở Cầu Cá Dài trên đường Võ Tánh. Nhà nằm ở giữa đường đi từ trường nam và trường nữ tiểu học.
    Một lần nữa, những người em họ của má tôi từ trong Bang Thạch ra, sửa nhà cho thành một tiệm may, gia đình chúng tôi ở bên trong. Cậu Khai, con ông Mười, khéo tay nên giành đóng cái kiếng để chưng các kiểu quần áo. Cậu Hai Định, con nuôi, con người bạn ông bà ngoại, cậu là ba của anh Ba Tuyền, đại tá không quân Nguyễn Hồng Tuyền, lên Sài gòn mua một người giả làm mẫu, có hình dạng một phụ nữ phương Tây tóc vàng, mắt xanh thật đẹp.
    Nhà sửa xong, má tôi cho tôi chọn mầu. Tôi đề nghị mầu đỏ, má không chịu, cho rằng mầu đỏ chỉ có thể sơn một cái ghế, hoặc cửa sổ, không ai sơn hết cái nhà mầu đỏ. Mợ Bích Lan thích mầu vàng. Chị Hoàng Mai lại đòi mâu xanh là mạ. Cuối cùng, má sơn mầu xanh da trời do chị Yến chọn. Chị nói: “Màu xanh là mầu của hy vọng”.
    Tên tiệm thì má lấy tên tôi, “Nhà May Mỹ Dung”, tôi bỗng trở thành “người lớn” dù tôi mới mười hai, mười ba.
    Ngày “Nhà May Mỹ Dung” ở đường Võ Tánh khai trương có mặt ông bà ngoại tôi, các cậu con của ông Mười, các chị con của cậu Tư Diệp, con cậu Nam Sắc, mợ Bích Lan và cậu Hai Định.
    Ngay ngày hôm sau, nhà may Mỹ Dung đã có bốn người ghi tên học may, và khách tới đặt may quần áo thật đông. Tôi thấy má hơi lo. Làm sao một mình má tôi quán xuyến được hết công việc! Quả nhiên, mấy tuần sau bà ngoại tôi ra chơi, bèn nhỏ với tôi:
    - Má con ốm quá, bà lo!
    Tôi nhận ra điều này từ lâu, những biết làm sao bây giờ. Tôi cố gắng làm tròn những việc má tôi sai khiến cũng đủ mệt rồi. Nào là tính sổ, kiểm kê đồ dùng trong tiệm; nào là mua chỉ, nút, giao hàng cho khách… Có ngày tôi đã phải đi bộ ba, bốn cây số. Nhưng cũng may là chỉ ít lâu sau má tôi mua cho tôi một chiếc xe đạp. Đó là phương tiện giúp công việc của tiệm trôi chảy đều đặn. Hết chỉ, tôi phóng ngay xuống chợ vải, vào nhà lồng mua đem về ngay. Hết kim, chỉ mấy phút sau tôi đã có mặt ở tiệm của mấy chú Tầu bán dụng cụ cho tiệm may. Chiếc xe được việc cho tiệm may mà cũng “được việc” cho riêng tôi khi rảnh rỗi, tôi đi vòng quanh để biết phố xá ở Cần Thơ. Không lâu, tôi biết hết những hang cùng ngõ hẻm, từ xóm dưới lên xóm trên.
    Rồi tới ngày tựu trường. Khi niên học mới sắp bắt đầu, tôi chợt lo Iắng, vì chúng tôi sẽ vô học trường công. Muốn vô trường công, chúng tôi phải có khai sanh. Nếu chúng tôi nộp khai sanh thật cho nhà trường, thì sẽ lộ diện với các giới chức trong tỉnh. Lý lịch của chúng tôi mà bị lộ, thì chuyện gì sẽ xảy ra cho chúng tôi nữa đây? Bây giờ đã tới lúc má tôi không thể trù hoãn việc làm lại khai sanh mới cho chúng tôi. Sở dĩ mà chần trừ vì bà không muốn bỏ tên ba tôi ra khỏi cuộc đời của con cái bà.
    Má tôi đành phải đến gặp một ông chánh án ở Cần Thế là bạn học cũ của cậu Tư Diệp ở trường Bassac. Ông khuyên má tôi làm giấy “thế vi khai sanh” cho chúng tôi, bỏ họ cha lấy họ mẹ và cha thì khai “vô danh”.
    Hai chữ “vô danh” làm tôi trằn trọc suốt đêm hôm trước. Tô cảm thấy vừa mắc cỡ vừa cô đơn. Trong khi đó, Hải Vân, em trai coi giấy thế vi khai sanh chỉ là một tấm giấy lộn để qua mặt giới chức nhà nước. Nó là con trai, nên cứng rắn và thực tế, có thể bất chấp một vài đổi thay trên giấy tờ. Còn tôi, lòng xót xa, buồn tủi. Rõ ràng tôi có cha, có mẹ, bây giờ thành đứa bé không cha. Tôi thương cái thân tôi, rồi tôi thương cho ba má tôi nữa.
    Buổi ra toà thật mau lẹ, chỉ có mười phút là xong. Má tôi, ông toà, đưa tay lên thề, là bà nói “thật” là chồng bà “mất tích”. Rồi từ đó, con của ông Đặng Văn Quang đã trở thành đứa bé không cha. Để cho sự thay đổi được trọn vẹn, họ tên chúng tôi cũng không được giữ nguyên vẹn như cũ. Hải Vân trở thành Trần Văn Vân và Đặng Mỹ Dung là Trần Ngọc Dung. Chỉ có Hoà Bình và Minh Tâm vẫn được giữ nguyên.
    Buổi sáng hôm ấy, như để đền bù cho sự mất mát to lớn đó, chúng tôi có thêm hai người chị. Má tôi chánh thức làm khai sinh để chị Thuận và chị Thảo làm con của má.
    Kể từ ngày ba tôi ra đi, tôi biết rằng cuộc đời chúng tôi hht nào bằng người ta được, vì một mình má tôi, có cố gắng lắm chỉ đủ sức lo cho chúng tôi khỏi đói, khỏi rách mà thôi, trong thâm tâm, chúng tôi vẫn ngầm hãnh diện, vì ra đời trong một gia đình ái quốc, có cha đi làm cách mạng rồi. Nhưng rồi, khi chúng tôi phải thay họ đổi tên, niềm hãnh diện biến mất. Là những đứa con không cha, thì con hãnh diện ở chỗ nào? Thỉnh thoảng, để tự an ủi, tôi thầm nhắc đi nhắc lại của Hải Vân: “Đó chỉ là những tấm giấy lộn để qua mặt giới chức”.
    Tôi biết rằng nếu không có những “tờ giấy lộn” ấy, chúng tôi không thể vô học trường công được. Thôi thì đành phải chấp nhận, vì hoàn cảnh bắt buộc phải như vậy, nếu chúng tôi muốn yên thân.

    ____________________


  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10

    Bấy giờ trong gia đình có thêm chị Thảo, chị Thuận, tôi khắp khởi mừng thầm là sẽ có thêm người giúp tôi lo việc nhà. Nhưng rồi tôi thất vọng ngay vì mà nói hai chị làm con má để có giấy tờ đi học, chớ không phải làm khai sanh con của má để gánh việc vặt trong nhà. Hai chị mồ côi cả cha lẫn mẹ. Ba của anh chị là là anh ruột của má. Má tôi thương yêu hai chị qua tình yêu của anh má. Má tôi bắt chúng tôi phải thương yêu hai chị như chị ruột, phải nhường nhịn và phải nghe lời hai chị. Mỗi chị có cá tính. Chị Thảo là người cứng rắn, cương quyết, bướng bỉnh. Một mặt chị rất hiếu thảo với ông bà nội, một mặt chị lén liên lạc với những người ở trong mật khu Việt Cộng. Ngược lại. Thuận yếu đuối, nhút nhát và rụt rè.
    Tựu trường, Hải Vân và anh Quốc được học trường nam Tiểu học. Chị Yvonne, chị Thảo, chị Thuận. Hoà Bình, Minh Hoàng con gái lớn của chị Yến và tôi cùng học trường nữ học ở đại lộ Hoà Bình. Chị Thuận và tôi học chung lớp nhì, cô giáo của chúng tôi là cô Xuân Phương. Cái duyên từ đâu không biết, trong lớp có hơn 50 học trò, nhưng cô Xuân Phuơng coi tôi làm học trò cưng của cô. Chỉ có học sinh Cần Thơ mới cái danh dự được làm học trò cưng của thầy hoặc cô.
    Cô Xuân Phương không có chồng; cô ở chung với ba má và mấy người em, người cháu. Nhà cô ở bên kia đường Hoà Bình, đối điện với trường nữ tiểu học. Đó là một ngôi nhà xinh đẹp, trước nhà có trồng kiểng, có giàn hoa bông giấy tím. Sân lót gach Tàu, được người làm săn sóc vén khéo, sạch sẽ. Mỗi ngày đi học, tôi phải ghé nhà có Xuân Phương để mang sổ điểm, bình mực tím và cây viết lá tre của cô tới trường. Sáng nào tôi sớm, tôi thấy cô mặc áo mầu tím, tụng kinh vừa xong. Gia đình cô là Phật tử trong hội Phật học. Nhiều lần cô mời tôi vào hội, nhưng tôi đều từ chối, vì không có thì giờ. Đi học về, tôi còn phải giúp má tôi việc nhà, và lo cho tiệm may. Đến năm 2001 bạn học cùng trường cho biết, sau 30-4-1975 mọi người mới rõ cô Xuân Phương là cô Ba Phương, đảng viên cao cấp của cộng sản.

    Vì tôi là học trò cưng của cô giáo, được giữ sổ điểm điểm, bạn bè thường nà nỉ tôi cho coi điểm. Tôi cũng muốn chiều bạn, nhưng lại sợ làm mất lòng tin của cô, nên đành phải từ chối, mà từ chối thì mất bạn. Mất bạn thì mất, nhưng không thể mất lòng tin.
    Những gì trường dậy hay, tôi biên vô cuốn tập riêng để thực hành. Không có ba thì có trường, có cô giáo; tôi nghĩ như vậy.
    Tôi gõ từng chữ trong cuốn tập “Học làm người”:

    Không phá của công:
    Không xả ngoài đường;
    Phải nhường ghế cho người già, đàn bà có thai trên xe đò;
    Dắt em bé hay cụ già qua đường;
    Phải dừng lại dỡ nón chào khi xe tang đi qua;
    Không gian lận.

    Tôi thường phạm một tội trong bài học quý giá này, đó là bẻ cành bẻ cảnh của người ta. Tôi nhớ hoài nụ cười chất phác, thiệt thà của những người lớn tuổi, cười với tôi khi tôi nhường ghế cho họ. Tôi dỡ nón dừng lại chào xe tang đi qua trong khi những người lớn hơn tôi họ vô tình bước đi nhanh nhẹn; tôi thầm biết ơn trường Nữ Tiểu học.
    Hồi còn học ở Sài gòn, mỗi lần đến trường, Hoà Bình khóc. Bấy giờ thì nó thích trường này lắm, vì có nhiều hàng quà dưới tầng Ô Môi ở sân trường. Cứ giờ ra chơi là nó và Minh Hoàng ra mua quà. Chị Thảo học lớp nhì; cô giáo của chị là cô Hiếu Đức, thầy giáo là Lưu Khôn, giám học trường trung học Phan Thanh Giản, vì lớn nhất nhà, nên má giao cho chị việc dẫn các em tới trường. Mỗi lần qua đường, qua lộ, chúng tôi phải nắm tay đi theo chị cho an toàn.

    Cho đến nay, tôi vẫn chưa quên cái cảm giác khi tôi viết tên tôii lên cuốn tập mới đầu tiên. Cái tên Trần Ngọc Dung lạ hoắc đối với tôi. Nắn nót viết xong, tôi nhìn đi nhìn lại mà không sao quen được với cái tên đó, đủ rằng họ Trận là họ của ông ngoại, chớ phải của ai xa lạ đâu. Nlung tôi vẫn nhớ họ Đặng của ba tôi. Mấy ngày sau, tôi mới quen dần với cái họ mới, tên mới.

    Tôi là trưởng lớp nên thường lên văn phòng của hiệu trưởng để nhận thông cáo, rồi cùng mấy trò khác đi phân phát cho các lớp. Một hôm, tôi tới văn phòng hiệu trưởng vào lúc không có bà ở đó, nhưng lại gặp một bà khác. Tôi nhận ngay ra bà là người quen cũ mà tôi đã từng gặp ở Bang Thạch. Bà có người thân theo Việt Cộng. Sau khi nhận ra người quen, tôi đến khoanh tay chào bà: “Thưa dì Ba!”. Bà giật mình nhìn tôi kéo ghế ra xa, rồi hỏi: “Con nhà ai đây? Làm sao biết tôi?”. Tôi đáp ngay: “Con có gặp dì trong Bang Thạch khi dì ghé thăm ông ngoại, bà ngoại của con”. Bà có vẻ hốt hoảng, mặt sa sầm xuống rồi hỏi nhỏ: “Mày là con của ai?”. Tôi ngây thơ, cứ tưởng bà là người cùng phe với mình, nên nhanh nhảu đáp: “Ba con là Đặng Văn Quang”. Mặt bà bỗng tái hẳn đi, rồi lạnh lùng nói: “Nè, mình chưa quen nhau, chưa từng gặp nhau ngoài cái trường này, hiểu chưa?”.
    Tôi vừa mắc cỡ, vừa cảm thấy nhục nhá quá. Chắc ba tưởng tôi “thấy người ta làm quan, bắt quàng làm họ”. Tôi chỉ muốn chạy ra khỏi văn phòng, nhưng không hiểu sao tôi vẫn đứng chôn chân ở đó, rồi nuốt nước miếng đáp: “Thưa bà, con không hiểu ý bà”. Tôi nhớ, nhớ hoài suốt hai năm học ở đó. Tôi vẫn làm trưởng lớp, vẫn phải lên văn phòng hiệu trưởng, nhưng cố tránh né bà Ba Thông.
    Tôi không dám kể lại cho má tôi nghe chuyện bà Ba Thông, sợ má đau lòng cho con. Những khi về Bang Thạch, tôi đã kể lại cho dì Bảy nghe. Dì khuyên tôi hãy quên chuyện bà Ba Thông đi, vì mỗi người có một hoàn cảnh riêng, em của bà đi tập kết, mà bà thì làm việc cho Bộ giáo dục của Quốc gia, nếu công an biết được thì khổ thân bà, như công an đã biết về má tôi. Hay thông cảm cho bà. Tôi biết dì tôi là người có tính vị tha, nên sẵn sàng tha thứ mọi lỗi lầm của người khác.
    Buổi trưa hôm đó, dì Bảy ôm tôi vào lòng khi chúng tôi ngồi trên bờ đê. Gió hây hây nhẹ, lùa vào tóc tôi như sóng lướt trên luống mạ non giữa cánh đông bát ngát. Cảnh đẹp trước mặt làm tôi yêu Bang Thạch quá. Tôi ao ước tôi cứ nhỏ bé như vậy, để không phải rời xa khu vườn của ông bà ngoại. Nhưng thực tế bao giờ cũng khác hẳn với mộng mơ, tôi cứ phải lớn lên, phải đối phó với mọi chuyện phũ phàng trước c mặt. Nếu mà tôi vững tinh thần như Hải Vân thì cũng đỡ khổ phần nào. Em thường khuyên tôi nên bỏ qua những cái “lặt vặt” để sống vui. “Hoàn cảnh đem cái buồn tới cho mình, chớ nó không phải là mình; biết bao nhiêu người tử tế, dìu dắt mình từ ngày ba bỏ mình giữa đường”. Em là một đứa con nít rất thông minh và rất thực tế, khôn trước tuổi, em rất ít khi nhắc tới ba tôi. Tôi không rõ sự vắng mặt của ba tôi có để lại vết thương gì trong lòng em từ khi còn nhỏ, tôi cũng ý thức được rằng đời người có nhiều biến đổi, như con sông có lúc nước lớn, nước rộng. Rồi tôi sẽ lớn, trở thành một người đàn bà, phải gánh vác việc đời, sẽ đương đầu với những kho khăn như má, có những lúc gặp hên có khi bị xui. Nhưng tôi thầm cầu xin, tôi sẽ không bị cô đơn như má tôi, và tôi cũng mong ước được ở mãi ở hoài trong Bang Thạch, rồi lâu lâu ra chợ Cần Thơ chơi như ông ngoại bà ngoại thì sướng biết bao nhiêu. Bang Thạch, một nơi cho tôi sống bình an. Những trên thực tế. Bang Thạch dần dần mất an ninh. Tôi đã thấy có mặt của những cán bộ Việt Cộng khi tôi về chơi. Họ len lỏi trong vườn của ông bà ngoại tôi càng ngày nhiều. Họ lấy nơi đây làm địa điểm liên lạc với những người làm công tác thành. Họ là những cán bộ tuyên truyền, tình báo, phá hoại và khủng bố. Họ đã tổ chức bắt cóc thầy giáo, cô giáo từ quê xuống dậy trường làng. Họ cũng âm mưu ám sát các viên chức phe Quốc gia. Mấy chị bà con của tôi và dì Bảy Nhãn đã nhận nhiều mật lệnh của Việt Cộng. Họ giấu cán bộ trong mấy cái chòi, và ngay cả trong nhà ông bà tôi. Họ bắt mọi người, con nít, phải nói dối để che giấu cán bộ. Chính tôi, vào một buổi trưa chúa nhựt, đã phải nói dối một anh lính Quốc gia khi anh tới sân nhà ông bà tôi. Trong vườn ai cũng sợ lính, vậy mà trưa hôm đó tôi phải vui vẻ nói rằng anh là người là đầu tiên tới nhà tôi. Bỗng dưng tôi cảm thấy buồn một cách lạ lùng. Tôi xấu hổ vì đã biết nói dối như Việt Cộng. Anh lính con trẻ lắm, có thể là hai mươi. Anh xin tôi chở quá giang xuồng qua sông, tôi bằng lòng ngay. Đã vậy, tôi còn chạy vô nhà lấy một cái bánh tét cho anh. Tôi có hành động này, là chỉ muốn cho lương tâm mình đỡ bị cắn rứt phần nào.

    Tất cả những người trong vườn của đại gia đình tôi đều dính líu với Việt Cộng, trừ ông bà ngoại. Chị Thảo và chị Yvonne dặn tôi không nên cho ông bà ngoại và má tôi biết những hoạt động ngấm ngầm của Việt Cộng ngày tại khu đất của ông bà. Nhưng bí mật nào cũng không thể giữ lâu được. Quân đội quốc gia đã bắt đầu nghi ngờ. Họ tuần tiễu nhiều hơn và không còn tử tế với gia đình tôi nữa. Họ lấy đồ ăn hoặc bắt gà vịt công khai. Nếu không kịp rượt gà vịt, thì lấy súng bắn chết một cách ngang nhiên. Hộ bất chấp cả những lời khiếu nại của bà tôi. Rõ ràng họ muốn dùng súng để hăm doạ, dằn mặt gia đình tôi. Họ coi tất cả những người ở đây đều là những người đáng nghi.

    Một hơn, Hải Vân, Hoà Bình và tôi về thăm ông bà ngoại. Chúng tôi vừa xuống xe Lambrerta ngay cây cầu ván để vào nhà, thì một toàn lính Quốc gia đi tới. Hai người lính chĩa súng thẳng vào ngực chị em tôi, một người khác lên cò lách cách. Tiếng thép va chạm nhau làm tay chân tôi sợ rã rời. Hoà Bình vừa klóc thút thít vừa ôm chân tôi cứng ngắc. Tôi nhìn nòng súng và gương mặt của người cầm súng, có cùng một mầu đen tối, lạnh ludng nhưng đầy quyền lực. Hai đầu gối của tôi run lên bần bật, làm tôi muốn té. Nhưng tôi phải thu hết can đảm nói với anh lính cầm súng:
    - Tụi em đi thăm ông ngoại bà ngoại, mấy anh muốn chơi không?
    Mặt người lính vẫn lạnh như nòng súng, rồi ra lịnh:
    - Để cái giỏ xuống đất cho tao coi.
    Tôi vội vàng đổ tất cả đồ trong cái giỏ này xuống cỏ, có một ổ bánh mì cho ông ngoại, một gói xá-xíu và mấy cái bánh ủ nước tro cho bà ngoại, và một tờ báo cho dì Bảy. Người lĩnh chĩa súng vô Hải Vân, bước lại xét mấy món đồ dưới đất. Anh lấy tờ báo liệng từ tung, rồi lấy mũi súng mà vít qua vít lại miếng thịt xa-xíu. Hải Vân đưa tay chặn người lính, khi thấy anh vừa lấy giầy đinh đạp lên mấy cái bánh ủ nước tro tro, nhưng tôi gạt tay em ra. Rồi một người lính khác khoát tay đuổi chị em tôi đi. Chị em tôi mau mau nắm tay nhau lính quýnh đi về phía nhà ông bà ngoại. Tiếng cười khả ố của họ còn đuổi theo chúng tôi. Cho tới lúc chúng tôi không còn nghe thấy gì nữa, mới biết mình con sống. Hoà Bình sợ quá, không đi nổi, Hải Vân và tôi thay phiên nhau cõng em cho tới ranh của ông bà.
    Bà ngoại tôi có cất một cái miễu thờ ông Thổ Thần nơi giáp với đất của dượng Ba Đậu trong xóm. Đến trước miễu, tôi khấn vái cám ơn ông Thổ Thần đã che chở chị em tôi. Cho đến bây giờ tôi vẫn còn thờ kính ông Thổ Thần.

    _____________________________


    Chương 11


    Năm 1958, tôi học lớp nhứt ở trường Nữ Tiểu học. Cô giáo của tôi là cô Nguyễn Thị Hoa, người Bắc. Có có mái tóc dài đen mươt, nước da cô ngăm đến. Cô đẹp, khả ái và đặc biệt rất quý học trò của cô. So với cô Xuân Phương, cô Hoa dễ tánh hơn. Ngày cô lấy chồng, chúng tôi tò mò hỏi dò mấy đứa bạn có chị em bạn của cô Hoa, thì được biết người đã lọt mắt xanh của cô là một ông phi công. Nhưng cô chưa vui được lâu. Một hôm, chúng tôi đã thấy cô khóc nức nở vào giờ ra chơi. Tin sét đánh là chồng cô đã tử trận. Rồi từ đó, mỗi lần máy bay trực thăng bay ngang trời, cô quay mặt vô vách. Chúng tôi thấy vậy đều giữ im lặng như muốn tôn trọng nỗi đau khổ của cô. Hôm nào có nhiều máy bay, có ra sân đứng, không cho chúng tôi thấy cô khóc.Từ đó cho tới cuối niên học, cả lớp bỗng trở nên ngoan ngoãn, không đứa nào dám làm cô phật ý. Không biết cô có hiểu chúng tôi làm như để chia buồn cùng cô không?
    Năm đó là năm cuối cùng của bậc tiểu học, nên tôi rất chăm chỉ để sửa soạn thì vô trường trung học Phan Thanh Giản, năm đó cũng là năm gia đình tôi nhận được một tin quan trọng. Lần đầu tiên trong năm năm, chúng tôi được tin của ba tôi, người đàn ông lạ mặt đến tìm má tôi với mật khẩu chỉ riêng má tôi biết thôi. Ông tự giới thiệu: “Hai Lồi kêu tôi tới gặp chị!”. Vừa nghe nói đến “Hai Lồi”, má tôi giựt mình. “Hai Lồi” tên lóng của anh Khôi, vì lúc nhỏ anh bị lồi rún. Sau khi nói mật khẩu, sứr giả bí mật cho biết ba tôi muốn gặp má tôi ở Nam Vang. Ông ta cũng chỉ dẫn mọi đường đi nước bước để má có thể đến chỗ hẹn an toàn. Ông còn dặn thêm là má tôi phải đến đúng hẹn vì ba tôi không thể cho lâu được. Nghe tin này, đứa nào cũng muốn đi gặp ba. Những tiền đâu mà dẫn hết đám con nít đi Nam Vang. Đường đi từ Cần Thơ lên Nam Vang trong thời ấy rất nguy hiểm, má tôi cho biết, nếu đi cả nhà, lúc về sẽ không còn tiền để làm ăn nữa, phải bắt đầu lại từ con số không. Riêng tôi, tôi rất muốn gặp ba bằng xương bằng thịt, cho nên sẵn sàng chấp nhận con số không. Tôi thầm sửa soạn tinh thần để đi gặp ba.
    Vì là một việc quá quan trọng, má tôi phải về Bang Thạch nói với ông bà ngoại và dì Bảy trước khi quyết định. Khi má trở về Cần Thơ, sự việc đã đổi khác. Mấy ngày sau, má cho biết mọi người khuyên nên để một hay hai đứa ở lại trông cửa tiệm, trong số có tôi. Tôi biết đo ni tấc cho khách hàng. Hải Vân cũng phải ở lại vì sợ phiền chủ nhà trên Nam Vang nếu có đông người tới, nhưng điều quan trọng hơn hết là sợ Công an để ý, nếu đóng tiệm may nhiều ngày. Trong thời gian này có nhiều vợ con của những tập kết cũng kéo nhau vô bưng để gặp chồng con họ. Một người đàn bà có người anh rể làm cảnh sát ở Cần Thơ đi thăm chồng ở vùng Cả Mau, rồi mang bầu. Khi bụng đội áo, bà bị công an kêu lên điều tra. Để giữ bí mật cho Việt Cộng và cho chính chống mình, bà phải nói dối là bà làm bé một người có chức vụ trong tỉnh. Ba năn nỉ nhà cầm quyền đừng lôi xấu xa này ra ánh sáng để bảo vệ đứa con gái lớn của bà, cảnh sát công an mắc mưu nên bỏ qua.
    Đất nước chìm trong khói súng. Hoàn cảnh trở nên phức tạp trong đời sống của người dân. Nguyên tắc đạo đức của con người bị đe doạ, nhân cách không được tôn trọng; phải tuỳ cơ ứng biến, tôi sợ lắm. Cứ sợ nhân-nghĩa-lễ-trí-tín rồi cũng đi theo cái đà ấy, làm cho dân tộc mình mất gốc. Nơi tôi ở, đi qua khỏi đường Cầu Ông Cả Đài, sâu bên trong có một con sông. Đi dọc bên bờ sông có thể tới Bến Xe Mới. Trên đường đi, có mấy cây cầu tre, cầu ván mà tôi thường ra đó một mình, ngồi thõng chân xuống nước để nhớ về Ong Vèo, Ba Ngọn. Kim Qui, những mật khu kháng chiến. Không biết còn di tích nào của ba tôi ở những nơi đó không, nhưng tôi đi đâu những nơi này cũng đi theo tôi tới đó, nơi đào tạo người ái quốc. Tôi nhìn bóng tôi trong dòng nước chảy lờ đờ, rồi nghĩ tới những mất mát của cuộc đời mình trong cuộc chiến, ví như nước chảy qua cấu, không biết mấy ai ngồi ôn lại để nhớ, để ghi, cho con cháu sau này đừng mắc mưu Cộng sản.
    Má tôi nhờ một người bạn gái thân tín thỉnh thoảng tới thăm nom chúng tôi, trong khi bà phải “lên Sài gòn thăm bà ngoại chân đang đau”. Sự việc xảy ra trong chớp nhoáng. Má dẫn Hoà Bình và Minh Tâm theo cho ba biết mặt Minh Tâm; ba cưng Hoà Bình lắm, nên má đem em theo. Tôi và Hải Vân ở lại nhiệm vụ tới nhà cậu Hai, con cô Chức, chụp hình năm chị em tôi để má đem lên Nam Vang cho ba biết Hải Vân và tôi đã lớn. Tiếc là không kịp chụp hình hai chị Kim, Cương vì hai chị học trên Sài gòn. Khi má tôi đi được mấy ngày, tôi mới nghĩ tới việc viết thơ hoặc mua quà biếu ba tôi. Tôi tự trách tôi vô tình, ngu quá! Hải Vân an ủi tôi là quà cáp không quan trọng đối với ba tôi đâu. Em nhắc tôi nhớ lại hồi còn ở “vùng giải phóng” ba không thích những đồ từ ngoài thành gởi vô, mà ông cho đó là đồ “xa xỉ phẩm”.
    Không được theo má đi gặp ba, hai chị em tôi buồn vô cùng. Để phản ứng lại chuyện bị “bỏ rơi”, chúng tôi mưu toan sẽ bỏ mọi luật lệ, sẽ rủ nhau ngày thì đi chơi cho đã, nhưng không dám trốn học, tối thì thức thật khuya… Mấy chị học trò của má dù ở chung nhà cũng không có quyền rầy la chúng tôi… Nhưng sao, cứ tan học là hai chị về nhà ngay. Học bài xong, chúng tôi dọn dẹp cửa tiệm, nhà cửa cho sạch sẽ. Hải Vân con tháo mấy bàn máy may, chùi sạch, cho dầu giùm mấy chị học trò của má. Chiều tối, cả hai đứa đều ru rú ở trong nhà, bạn tới rủ cũng không đi. Mấy chị học trò lấy làm lạ khi thấy chúng tôi không đi chơi. Vì vậy, một chị nói: “Có Tám nên đi vắng thường hơn; mấy bữa này hai đứa này hiền như cục bột!”.
    Rồi cũng tới ngày má tôi trở về. Bà buồn bã, thất vọng như chim gẫy cánh. Bà không được gặp ba tôi. Má tôi kể rằng khi lên tới Nam Vang, bà được vợ một đồng chí của ba tôi ân cần đón về nhà bà ấy. Hai ngày sau bà dẫn má tôi tới một bờ sông thật xa, lên một chiếc ghe có mii đã có ai chất mấy buồng chuối Xiêm sẵn đó rồi. Hai bà giả trang là hai bà bán chuối. Bà ấy làm theo chỉ dẫn của liên lạc viên, cứ giả dạng chèo trên sông bán chuối. Ghe của ba tôi sẽ tìm họ, sẽ nhận ra họ. Nhưng không thấy ba tôi đâu hết; cũng không có ai tới nhận diện hai bà để nhắn nhủ câu nào. Má tôi và bà bạn đi tìm nhiều ngày như vậy, sáng đi tối về rồi cũng đành thất vọng mà bỏ cuộc. Má tôi buồn bã dắt hai con trở về Cần Thơ, sau khi đưa may tấm hình của chúng tôi cho bà bạn chuyển giùm nếu gặp được ba tôi.
    Mười tám năm sau, khi ba má tôi gặp nhau ở London, má nhắc chuyến đi mạo hiểm lên Nam Vang và hỏi sao ba không đến chỗ hẹn gặp má, ba mới cho biết rằng năm 1954 dù nói là đi ra Bắc, nhưng ông vẫn ở trong Nam. Đến năm 1958, ông mới được lịnh ra Bắc thật sự. Ông muốn trước khi ra Hà Nội, ghé, rước má và sáu đứa con ra Bắc với ông, nên nhận cả gia đình lên Nam Vang. Nhưng không may, dự định của ông bị tình báo phe quốc gia phát giác, cho nên ông và các đồng chí phải đưa ba tôi đi đường khác ra Hà Nội. Má tôi lắc đầu nói: “Trời ơi, chớ không thì mẹ con tôi đứa thì bị đầy vô rừng sâu nước độc, đứa bị đi chống Mỹ cứu nước chết hết rồi!”.
    Sau chuyến đi Nam Vang, lúc đó má tôi mới có 42 tuổi, bà quyết định sẽ không chạy theo tiếng gọi của ba tôi nữa. Bà dành thì giờ cho con cái ăn học đến nơi đến chốn. Một việc mà má không chịu bỏ cuộc, là phải tìm thầy chữa bịnh cho Minh Tâm. Cứ nghe ai chỉ có thầy hay, dù xa xôi đến mấy bà cũng bồng em đến đó. Lần ông ngoại ra thăm chúng tôi. Ông nói: “Tụi cháu có chết đi sống lại mấy kiếp cũng không làm sao trả ơn má cháu nổi. Kiếp này ráng mà hiếu thảo với má”.
    Chị Thảo không thích việc may vá, vì chị không kiên nhẫn, mà cũng không khéo tay. Đơm một cái nút áo mà chị còn làm rối chỉ thì làm sao trở thành một thợ may được. Thường thường, cuối tuần chị về vườn săn sóc ông bà. Ngoài tình yêu dành cho ông bà nội và miếng vườn, chị còn một tình yêu khác. Vì vậy chị nói dối cả má lẫn ông bà. Với má, chị xin phép về vườn đến chúa nhựt sẽ trở ra Cần Thơ để đi học. Nhưng với ông bà, chị nói phải ra Cần Thơ sáng chúa nhựt để học bài.
    Từ má tôi tới ông bà đều không ai biết sự thật về chị Thảo. Chị có trọn một ngày chúa nhựt hoàn toàn tự do. Chị dành ngày đó cho tình yêu thầm lén của chị. Tình yêu đó là những hoạt động của Việt Cộng. Chị Thảo được các cán bộ cộng sản huấn luyện để làm công tác học sinh, sinh viên. Một hôm, Hải Vân nói với tôi “Óc của chị Thảo bị rửa bằng xà bông Liên Xô rồi”. Chúng tôi đều biết chị đi đâu và làm gì, nhưng chúng tôi không dám cho người lớn biết. Bịnh của chị Thảo là một thứ bịnh không có thuốc chữa, dù ông bà ngoại và má tôi có biết, cũng không thể thay đổi được chị, chỉ thêm đau buồn vì thất vọng thôi.
    Khác với các học trò lớp Nhứt bình thường, chị Thảo không muốn thi đậu để vô trường Phan Thanh Giản, vì Việt Cộng không cho phép. Họ sợ chị bị công an để ý theo dõi nếu học trường công. Chị vẫn đi thi nhưng cố tình làm cho mình rớt. Thật ra, là người thông minh, học rất giỏi. Bà ngoại tôi, vì muốn các cháu gái cũng được học hành đến nơi đến chốn như các cháu trai, sẵn sàng trả học phí trường tư cho chị. Việt Cộng muốn chị học Anh văn là sinh ngữ chánh, để sau này có thể giúp đỡ nhiều “cách mạng”.
    Rồi chị Thảo bắt đầu nói đến “Mỹ-Diệm” với một giọng hằn học, đầy hận thù. Mỗi thứ hai, trong lúc mọi người ngồi quanh bàn tròn dưới bếp để học bài, thì chị thao thao bất tuyệt kể tội lỗi của “để quốc Mỹ”. Những danh từ chị dùng cũng mới lạ đối với chúng tôi. Đó là kết quả của ngày hôm qua, chúa nhựt, khi chị họp với các cán bộ Việt Cộng.
    Đã nhiều lần chị Thảo rủ tôi đi theo chị để gặp những cán bộ lớn tuổi đời, tuổi đảng. Nhưng lần nào tôi cũng trả lời chị một câu quen thuộc: “Mấy ông Cha bên đạo Thiên Chúa dụ em đi nhà thờ ngày chúa nhựt để được lên thiên đàng em còn từ chối: đâu có ngu mà đi xuống địa ngục với Việt Cộng”. Chị không giận, chỉ cười, rồi tuần sau lại rủ nữa, và tôi cũng trả lời y như trước.
    Nhưng rồi có một hôm tôi đã nghe lời chị, vì chị dụ tôi rằng: “Nếu em giúp chị việc này, ba mà biết được ba vui lắm”. Thế là tôi nghe bùi tai, đi theo chị. Hôm ấy nhằm buổi sáng chúa nhựt chị sửa soạn ra Cần Thơ trước bọn chúng tôi, để “học bài” như chị nói với ông ngoại bà ngoại. Tôi theo chị ra Cần Thơ sớm. Lúc đầu, chị và tôi đi xe đò, nhưng chưa tôi Cái Tắc chị đã đòi xuống ngang giữa đường, để đứng bên đường chờ xe khác. Rồi đi gần tới Cái Răng chị lại xuống xe một lần nữa, và lại đứng bên đường đón xe khác. Chị không đón xe đò dù có xe vừa đi qua. Lần này chị bắt tôi phải chờ xe Lam, lên xe Lam ngồi, tôi giận chị lắm, không thèm nói chuyện với chị nữa. Hồi nhỏ, tôi nghĩ cách đối xử tàn nhẫn nhứt, là khi giận không nói chuyện với nhau. Xe Lam vừa chật chội vừa chạy chậm rì rì. Tôi bắt đầu cằn nhằn: “Chị làm mất hết ngày giờ của em. Nếu mình đi xe đò thì mình tới lâu rồi”. Chị không nói gì mà chỉ lấy cùi chỏ thúc vô hông tôi, bắt tôi im lặng. Khi đến giữa khoảng từ cầu Rạch Ngỗng đến cầu Tham Tướng, tôi thấy chị có vẻ lo sợ, ngồi không yên trên băng xe chật cứng, động đậy hoài. Xe bị kẹt một đoạn thật sự. Tôi không biết là có tai nạn xe, hay cảnh sát công an xét thẻ căn cước, thẻ học sinh. Cũng có thể quân cảnh xét lính. Tôi biết rõ hai chục cây số của con đường này, còn rành hơn biết người cha của tôi đi theo Việt Cộng. Lúc xe Lam ngưng lại, tắt máy, chị Thảo biểu tôi đi bộ lên coi chuyện gì mà bị kẹt cứng ở đó. Tôi nghe lời chị đi quan sát; lúc trở lại tôi cho chị hay là công an, cảnh sát, quân cảnh, hiến binh, có người mặc thường phụ, có người quân phục, đang xét giấy ở phía trước. Nghe nói vậy, chị Thảo vội đưa cái cặp da của chị cho tôi giữ, cầm cái tui vải, rời xe, đi băng qua đường, mất dạng sau hàng tre trên bờ đê. Bà già ngồi trước mặt chúng tôi lấy khăn chùi cổ trầu quanh miệng, rồi nói: “Chờ giọng này có nước đái trong quần; con nhỏ này khôn, đi trước cho rồi”.
    Khi người tài xế cho xe nổ máy rồi từ từ chạy theo xe trước, nhìn quanh để tìm chị Thảo, nhưng không thấy chị đâu. Một lúc lâu, tôi thấy một bóng người quen quen đứng bên kia đường. Nhìn kỹ, tôi nhận ra chị Thảo. Chị Thảo bấy giờ không giống chị Thảo hồ sáng. Chị bỏ guốc, đi chân không, bộ quần áo cũ mèm thay cho bộ đồ sạch sẽ. Mái tóc thề của chị bị cắt cụt ngủn, như một bà xẩm bán hẹ. Chị băng qua đường, đến bên tài xế để trả tiền xe đi Cần Thơ, dù hồi nẫy chị đã trả rồi. Chị không nhìn tôi. Tôi không dám nhận chị. Chị không trở lại chỗ ngồi cũ bên cạnh tôi, mà tới ngồi ghế phía trong, cạnh một người đàn ông nhà quê. Hình dáng của chị thay đổi, cử chỉ cũng khác thường. Chị gãi đầu hoài, như đầu chị bị chí cắn. Hết gãi đầu, chị lại bẻ mấy lóng tay kêu lóc cóc. Chị còn móc lỗ mũi nữa. Thấy chị làm, tôi nói thầm: “Người này không phải chị Thảo!” Má tôi cấm ngặt việc móc lỗ mũi nơi công cộng. Tôi đoán ngay là chị đóng kịch để che mắt mọi người, tôi thầm phục chị lanh tri, và đóng kịch hay hơn cô Kim Cương. Sau khi Quân cảnh và cảnh sát kiểm soát giấy tờ của hành khách, một người mặc thường phục đưa ra ba tấm hình, hỏi tài xế có bao giờ gặp ba người trong hình không? Tôi nghển cổ lên nhìn, nhận ra một hình của chị Yvonne, giống như hình trong thẻ học sinh của chị. Tôi sợ điếng lên. Khi một người mặc thường phục khác xét cái cặp da của Thảo tôi đang ôm khư khư, tôi nín thở mở cặp ra. Bên trong chỉ có một cuốn từ điển Anh-Việt, ông lấy ngón tay cái lật một cái rù, rồi thấy không có gì ngoài mấy trăm trang từ điển, ông trả cuốn từ điển lại cho tôi. Tôi hoàn hồn khi chiếc xe Lam từ từ lăn bánh.
    Chúng tôi xuống xe ở góc đại lộ Hoà Bình và Ngô Quyền. Tôi giận chị Thảo quá nên ráng đi lẹ hơn chị cho hả giận. Cứ đi như vậy mà trong bụng tôi tức cành hông. Đến khi chúng tôi băng qua lộ để về cầu Cả Đài, chị Thảo mới lên tiếng:
    - Hồi nãy chị vái cho em đừng nói chuyện với chị, hỏi chị trong ruộng trở ra. Em nín thinh, chị mừng quá.
    Tôi nói:
    - Em không biết ai phù hộ cho chị bữa nay?
    Chị chỉ cười, im lặng. Tôi nói:
    - Hồi nẫy em thấy hình chị Yvonne.
    - Đừng lo, chỉ ra ngoài chợ trước mình rồi!
    - Còn phần chị? - Tôi lo sợ hỏi.
    - Hổng biết… đừng lo.
    Tôi nhìn đầu chị, doạ:
    - Ông ngoại không cho tụi mình cắt tóc cụt, chết chị rồi!
    Chị nhún vai:
    - Đừng lo, chị không về thăm ông nói ba nội ít tuần thì tóc dài lại.
    Chị đưa tay lấy lại cái cặp da từ tay tôi, rồi nói:
    - Chị cho cưng biết là cưng đã làm một công việc vô cùng quan trọng để giúp chị. Em giỏi thiệt.
    Tôi tức giận nói:
    - Em có làm cái gì đâu ngoài chuyện sợ muốn đái trong quần.
    Chị nghiêm giọng:
    - Cái này không phải là chuyện giỡn, Dung à. Cưng cầm trong tay phân nữa cái kế hoạch Công tác Thành; nữa phần kia được đem ra ra ngoài này trước rồi.
    Tôi mau mau lấy tay che mắt, che tai, che miệng một hơi, rồi lắc đầu lia lịa:
    - Em không muốn biết, muốn nghe, muốn thấy mấy cái việc chị làm đâu!
    Nhưng chị tiếp tục nói cho tôi biết là một nửa bản kế hoạch được dán trong cái bìa cứng của cuốn từ điển. Dù không còn ôm cái cặp da trong tay nữa, nhưng khi nghe chị nói vậy tôi bỗng tim đập mạnh lên, cổ tôi khô, hai bàn tay đổ mồ hôi. Trong tôi, nhiều tình cảm lânn lộn. Nào là tình cốt nhục giữa chị và tôi, nào là ngôi trường mài tôi vừa nhập học; nào là tình thầy trò vừa chớm nở. Tôi thầm thán phục sự can đảm của người con gái nhà quê này. Mới hôm qua chị hái rau, bẻ trầu cho bà nội, hôm nay đã đi làm cán bộ cho Việt Cộng. Tôi muốn can đảm như chị, nhưng dùng sự can đảm đó để đưa gia đình tôi ra khỏi khó khăn, chứ không lấy nó mà chung sức với Việt Cộng được.
    Tối hôm đó, sau bữa cơm chiều, má tôi kiên nhẫn tỉa tóc cho chị Thảo, để chị có mái tóc gọn gàng, ngay ngắn lại. Trong nhà ai cũng tội nghiệp cho chỉ vì chỉ nói láo rằng lúc thổi lửa nấu tấm heo, lửa cháp phừng bắt qua tóc chị. Đêm đó, lúc chỉ có hai chị em tôi họcv bài, tôi nói nhỏ với chị là khi chị chết xuống âm phủ chị sẽ bị bọn quỷ sứ kéo lưỡi chị dài cả cây số vì cái tội nói láo. Chị Thảo cười vị tha mà không giận tôi, vì chị biết tôi thương chị.
    Hai chị Thảo và Yvonne càng ngày càng bị siết chặt vào vòng của Việt Cộng. Hai chị không khác gì những kẻ mê muội tin vào một tà đạo, đem hết của cái, bản thân mình dâng hiến cho tà đạo ấy. Hai chị tôn thờ chủ nghĩa cộng sản một cách mù quáng, mà thờ ở với các bổn phận trong gia đình. Họ nói dối, họ qua mặt ông bà, để phục vụ cho cộng sản. Chị Thảo miệt mài trong Thư viện Việt-Mỹ, để tìm hiểu về “kẻ thù” của chị qua sách vở.
    Người bạn hàng xóm của tôi là anh Chu Dung. Anh là người Bắc làm việc ở nhà thuốc tây Lương Xuân Đấu. Anh lớn hơn tôi chừng mười lăm tuổi, nhưng đám con nít chúng tôi mến anh lắm, có thể vì anh là người phương xa đến Cần Thơ làm ăn. Anh hiếu khách mà khách cũng quý mến anh, kêu anh là “anh Bắc kỳ”. Anh vui vẻ, thân mật với tất cả mọi người, từ trẻ con đến người lớn. Anh đẹp trai và là người duy nhất ở Cần Thơ lúc bấy giờ có chiếc xe đạp bằng nhôm bóng láng. Qua anh Dung, chúng tôi quen chị Hằng và em chị là anh Hùng. Cả hai chị em cùng làm việc ở Thư viện Việt Mỹ. Hai người cũng quý mến chị Thuận, Hải Vân và tôi. Chị Thảo biết chúng tôi quen với anh Hùng, nên một hôm chị nhờ tôi hỏi dò anh, để biết chừng nào ông giám đốc người Mỹ của Thư viện từ Sài gòn xuống Cần Thơ? Chị muốn biết rõ tên họ và chức vụ của ông. Chị Thảo và tổ chức của chị tin rằng chức giám đốc thư viện chỉ là bề ngoài, nhưng thật ra ông là nhân viên cao cấp của cơ quan tình báo CIA. Tôi từ chối săn tin cho chị Thảo. Tôi nói thẳng cho chị biết là tôi không thể lợi dụng bạn như vậy được. Chị liền nổi giận, nói: “Mấy người đó không phải là bạn của em được, họ là tay sai của Mỹ”. Tôi giận, nạt lại: “Nếu chị không phải là chị của em, em kêu công an bắt chị liền”. Chị liền lên mặt dậy đời tôi: “Đừng quên mình là con cháu của những người làm cách mạng; bổn phận của mình là ủng hộ cách mạng”. Tôi không chịu thua, la lớn lên: “Công tác đó là giựt min xe buýt, giết ông già bà cả chớ gì!”. Tôi dám thẳng thắn trả lời chị, vì tôi biết, ba tôi không đành lòng cho con mình đi làm kẻ giết người.
    Chuyện tranh cãi giữa chị Thảo và tôi đến đó tạm ngưng. Nhưng con đường chỉ đi con dài lắm. Hai ngày sau, người ta liệng lựu đạn vô sân thư viện; người lính Việt Nam gác cổng thiệt mạng.


    ___________________________



  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12



    Mỹ viện trợ Việt Nam, gởi cố vấn Mỹ qua càng ngày càng nhiều. Những ngôi nhà rộng lớn cất hồi thời Pháp thuộc, bấy giờ chủ nhà sửa sang lại cho Mỹ mướn. Gia đình tôi có biết chú Tư là người trước kia theo Việt Minh. Hết giặc, chú về thành làm ăn lương thiện để nuôi vợ, nuôi con. Thím Tư có sập bán cá ở chợ Cần Thơ, còn chú làm nghề thợ mộc cho hãng cây ở gần cầu Cả Đài. Hãng mộc của chú trúng thầu sửa dẫy nhà gần phòng mạch bác sĩ Chuẩn. Chú Tư tới sửa nhà cho hãng thầu không đầy hai ngày thì bị bom nổ, chết tại chỗ khi chú đang cưa cây. Người dân vô tội chết vì miếng cơm manh áo. Chú Te chết, nhưng việc sửa nhà cho Mỹ mướn vẫn được tiến hành. Rồi người Mỹ cũng dọn vô ở, mướn người Việt giữ an ninh cho họ. Việt Cộng bắt người vô tội hy sinh tánh mạng để dằn mặt người Mỹ, và chống lại sự tham chiến của quân đội Mỹ.
    Lúc đó tôi còn nhỏ quá, nên không có ý kiến gì về cuộc chiến này. Tuy nhiên tôi cũng muốn gia đình tôi được đoàn tụ, không kẻ thắng người bại, mà chỉ mong cho hai bên ngừng bắn giết lẫn nhau.
    Những người theo Việt Cộng tuyên truyền “Mỹ là kẻ thù của dân tộc Việt Nam”, nhưng tôi lại thấy người Mỹ đem ánh sáng văn minh tới cho người Việt. Chỉ riêng trong tỉnh Cần Thơ, tôi đã thấy các Hội thiện nguyện Mỹ giúp xây cất công viên. May cái ghế đá ở bến Ninh Kiểu đều có dấu tích của tổ chức CARE với hai bàn tay nắm lấy nhau. Họ xây cầu, sửa đường lộ, mở rộng, cất thêm trường học, chủng ngừa cho học sinh. Mức sống của người dân từ thành thị đến thôn quê được thoải mái hơn qua những chương trình viện trợ này. Trong khi đó, ban đêm Việt Cộng lại đặt mìn phá bỏ những công trình này để đưa đời sống người dân trở lại tối tăm, u ám như những hang hố họ đào cho họ.
    Tôi không muốn cũng không đòi hỏi gì ở người Mỹ. Họ muốn gì? Họ sẽ làm gì tới dân tộc Việt Nam? Họ có xúc phạm tới nền văn hoá cổ truyền của người Việt không? Nhiều người tự nhận là đồng chí hoặc bạn của ba tôi cảnh giác chúng tôi là Mỹ sẽ xâm lăng Việt Nam như Tây đã làm hồi thế kỷ trước. Do đó, tôi phải có trách nhiệm cộng tác với họ để chống lại cuộc xâm lăng của Mỹ. Nhưng tôi là một đứa con nít cứng đầu, không tin những lời tuyên truyền đó. Tôi cũng không tin ai hết, tôi muốn tự mình nhận xét coi ai thật sự yêu nước, và ai đang hại dân. Tôi khi dễ những hành động phá hoại của Việt Cộng. Tôi hãnh diện về dân tộc mình, nên không muốn bất cứ ai nhảy vào Việt Nam. Mỹ hay Nga đều là ngoại bang, làm gì có chuyện thương xót dân mình. Tôi tin rằng khi có hoàn cảnh thuận lợi, khi người dân có quyền tự chủ và tự do, Việt Nam sẽ vươn lên sánh vai với các nước văn minh trên thế giới, không thua kém ai.
    Tôi không tin Hoa Kỳ với truyền thống dân chủ lại đem quân xâm chiếm một nước nhỏ bé, xa xôi, cách nhau cả một đại dương. Vào cuối chiến tranh thế giới thứ hai, chính tổng thống Roosevelt là một trong các lãnh tụ thế giới chủ trương khuyến khích các nước thực dân như Pháp, Bỉ, Hoà Lan… nên trả lại độc lập cho các thuộc địa mà họ đang cai trị. Vậy thì không lẽ ngày nay Mỹ lại đi ngược với trào lưu mới của thế giới. Tôi nghĩ tg dân Mỹ không thể quên lời nói bất hủ của tổng thống Abraham Lincoln: “Stand with anybody that stands right. Stand with while he is right and part with him when he goes wrong“. Chủ nghĩa cộng sản là phi nghĩa, là làm trái lòng dân. Đứa nhỏ như chị em tôi đã hiểu như vậy rồi, tại sao những người biết yêu nước lại bị mê hoặc vì cái thuyết này. Tôi ví họ như những người theo đạo khùng, như mê tín dị đoan.
    Ba tôi đã làm tròn bổn phận của một người cha đời với chúng tôi, ông dậy chúng tôi yêu quê hương, yêu dân tộc Việt Nam. Tôi tin tưởng ở người, tôi hãnh diện được làm con một nhà cách mạng, người đã hy sinh đời sống cá nhân của mình để tham gia cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp. Nhưng bước qua thập kỷ 1960, Việt Minh chỉ còn là một bóng mờ của dĩ vãng. Trên thực tế, Mặt trận giải phóng miền Nam mới được thành lập sau cuộc “Đồng Khởi”. Mặt trận chỉ là một cánh tay vươn dài của Cộng sản Hà Nội mà thôi.
    Bên này của con sông Bến Hải là Chánh phủ của ông Ngô Đình Diệm. Hồi còn học tiểu học, học trò chúng tôi thường phải đứng hai bên đường từ cầu Cái Khế tới đại lộ Hoà bình để đón chào tổng thống khi ông xuống thăm Cần Thơ. Chờ đợi từ sáng cho đến trưa, tay cầm cờ, lòng nôn nóng, bụng đói, khát nước. Một hôm một ông cán bộ Việt Cộng lớn tuổi, tôi kêu bằng chú, đánh đố đám con nít chúng tôi xem có đứa nào can đảm dám nhổ nước miếng vô mình tổng thống, khi ông xuống xe nhận hoa do học trò choàng cho ổng không? Sau một hồi suy nghĩ, tôi trả lời ông:
    - Tôi là con ông Đặng Văn Quang chớ không phải vừa ở lỗ nẻ chui lên, nên không ngu dữ vậy đâu, chú.
    Chị Yvonne vội lấy tay bụm miệng tôi lại, rồi bắt tôi xin lỗi. Tôi đã không xin lỗi, mà còn nói thêm:
    - Chú hy sinh con của chủ đi, cha cháu có huy chương rồi!
    Ông giận tái mặt, hỏi:
    - Cháu làm gì mà được huy chương?
    Tôi vênh mặt đáp:
    - Cháu sống ở rừng U Minh mấy năm mà không bị ai kêu là quân rừng, vì quân rừng mới ngu đi nhổ nước miếng vô mình người mà phe quốc gia coi như ông trời!
    Tối hôm đó, chị Yvonne kể lại cho dì Bảy nghe câu chuyện tôi trả môi trả miếng ông cán bộ. Tôi bị dì Bảy cho là “đồ khó bảo”, không kính trọng người lớn, làm mất mặt ba tôi, mất mặt đi. Dì còn cấm không cho tôi về vườn nữa. Tôi tủi thân việc không được dì binh vực, mà dì còn nghe lời chị Yvonne, rầy tôi trước mặt mọi người làm tôi mất mặt. Tôi khóc lóc, giấy giụa, ói mửa cho đã giận. Khi đã hết khóc, tôi làm bịi rên rỉ cho cả nhà sợ một phen. Chị ba Hồng Nga dẫn tôi ra sau vườn vỗ về.
    Ngay từ hồi còn nhỏ, tôi đã hiểu những lời tuyên truyền lừa dối của cộng sản là mị dân. Họ hứa hẹn sẽ chia cho tá điền nghèo ruộng đất mà họ tịch thâu của chủ điền giầu. Những dân nghèo tin Việt Cộng, nghèo là phải, vì họ là những người khờ dại lắm, làm biếng, không có tinh thần tự lập.
    Giữa năm 1954, hơn 800 ngàn người Bắc di cư vào Nam Hiệp định Geneve. Họ là những người cần cù, đáng làm gương cho những kẻ làm biếng. Sự chọn lựa “đi Nam” của họ là một chọn lựa mạo hiểm nhưng khôn ngoan. Họ đã dám lìa bỏ quê cha, đất tổ để vô Nam tìm tự do, tìm cuộc sống thoải mái, hơn là ở với cộng sản. Trong khi đó, chỉ có chừng khoảng 180.000 người Nam tập kết ra Bắc.
    Nhân chi sơ, tính bổn thiện, cho nên lúc đó tôi chưa biết kỳ thị “Bắc kỳ di cư”. Tôi còn hãnh diện vì có nhiều người Bắc kỳ chọn Cần Thơ là quê hương thứ hai của họ.
    ***
    Giữa đường Võ Tánh, từ nhà tôi tới trường nam tiểu học có một cái nhà ngói đỏ. Sáng nào đi ngang, tôi cũng đứng lại nhìn thật lâu. Sao mà giống cái nhà ở Ong Vèo vậy, dù bốn cái cột trước nhà không phải bằng gỗ mun! Tôi nói với má tôi về cái nhà này, nhưng má không tin, vì hồi ở Ong Vèo tôi mới có 5 tuổi, làm sao mà nhớ được. Nhưng má cũng đi coi, rồi công nhận tôi nhớ dai. Tôi còn nhớ chính tôi tiếp chị Hiển giăng một cái võng trước nhà, giữa hai cây cột mun. Ba tôi thường đưa Hải Vân ngủ trên cái võng đó. Những kỷ niệm êm đềm ấy, làm sao tôi quên được. Có thể đây là lần đầu tiên ở Cần Thơ, má tôi và tôi nhắc đến Ong Vèo, nhắc đến ba tôi, và những ngày vui ở đó.
    Từ ngày em Minh Tâm tôi bị bịnh, hầu như không bao giờ má tôi cười nữa. Nhưng khi tôi nhắc tới Ong Vèo, má tôi sẽ kể lại những kỷ niệm cũ, cứ một điều “ba con” hai điều “ba con” như một người vợ trử nhắc đến chống.
    Trong tiệm may Mỹ Dung, chúng tôi không có những phút riêng tư. Cuộc sống chung chạ với các chị học may làm gia đình tôi mất đi phần nào tự do. Tôi không dám nhắc tói ba tôi trước mặt mọi người, vì ai cũng tin là ba tôi mất tích.
    Dù còn là con nít, tôi quen nhiều người trên đường Võ Tánh. Vì vậy, những chuyện xảy ra trên con đường này, vui buồn, như những đổi thay, tôi đều biết. Một hôm, có người cho tôi biết ông chủ của căn nhà số 18 trên đường Võ Tánh là một ông cai ngục sắp đổi ra Phú Quốc, nên muốn bán căn nhà đó trước khi khi đến nhiệm sở mới. Tôi về cho má hay. Vì muốn ở căn nhà đó, tôi “tán” má:
    - Má à, có khi mình dọn vô nhà này mình gặp hên đó, má… nó giống y như cái nhà hồi đó mình ở với ba. Không chừng khi mình nhà này ba với anh Khôi về.
    Nghe tôi nói, má chỉ cười, nhưng cũng bằng lòng đi coi căn nhà ông cai ngục. Rồi má quyết định mua căn nhà đó, không phải vì lời tán tỉnh của tôi, mà vì mà muốn được sống thoải mái hơn. Má bán tiệm may Mỹ Dung cho một người làm nghề giặt rũ, cho học trở về nhà nghỉ xả hơi hai tuần, trong khi dọn tới nhà mới. Nhà có sân trước thật rộng, nên má mướn người sửa cái sân đó thành một tiệm may. Khi tiệm mở cửa má còn giữ sổ sách.
    Vì sửa nhà quá tốn kém, má tôi thiếu tiền để trả nốt cho người bán, mà đã đáo hạn. Má sai tôi về vườn xin phép bà ngoại cho tôi bán đôi bông, hai chiếc vòng đeo tay, và sợi dây chuyền mà bà cho tôi. Má tôi thì luôn luôn coi những gì ông bà cho là bảo vật, là kỷ niệm quý báu. Riêng tôi, tôi cho những thứ đó chỉ là những của cải vật chất, không cần thiết, vì tôi có đeo nó bao giờ.
    Kỷ niệm đối với tôi là nụ cười vị tha, hiền hoà của bà, là đôi tay ba vuốt mái tóc che hai con mắt của tôi: “Tóc dài sao con không hớt?”. Ba thường hỏi tôi: “Có nghe chừng nào ba con về không?”. Còn bảo vật đối với tôi là tình yêu vô bờ bến của ông bà.
    Chiều chúa nhựt, tôi đem vàng ra bán cho tiệm kim hoàn Mỹ Trang ở bến Ninh Kiểu để có tiền trá cho ông chủ nhà.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13



    Tôi nghe loa phóng thanh oang oang réo tên Trần Ngọc Dung làm tôi vừa mừng vừa hồi hộp. Tim tôi đập nhanh hơn, người tôi nóng bừng. Lúc đó, tôi không còn suy nghĩ được điều gì khác ngoài việc có giò chạy lẹ về nhà để báo tin cho má tôi hay là tôi đã thì đỗ vào lớp đệ thất trường trung học Phan Thanh Giản. Không phải chỉ là một vinh dự vì được học ở một trường công lớn của tỉnh Cần Thơ, mà điều quan trọng hơn đối với riêng tôi là má tôi không phải trả học phí suốt bảy năm dài cho một trường tư nếu tôi thì rớt vô trường công.
    Tôi chạy như bay về nhà. Nửa đường tôi sực nghĩ đến trùng tên: “Rủi có con nhỏ nào cũng tên là Trần Ngọc dung, cũng sanh cùng ngày, cùng tháng, cùng năm với tôi thì sao?”. Tôi chậm lại. Tôi thầm tự hỏi, trong trường hợp này tôi sẽ phải làm sao? Nhưng chỉ mấy giây sau, tôi nghĩ đến số báo danh. Hai người có thể trùng nhau mọi chi tiết, những chắc chắn không trùng số báo danh. Như vậy thì còn sợ là ai khác nữa! Tôi thất vọng nhiều lần, nhiều hơn số tuổi của một đứa con nít, làm sao tranh khỏi mất tự tin.
    Về đến nhà, tôi thấy má tôi ngồi may miệt mài như quanh năm ngày tháng má vẫn làm. Tôi rón rén lén vô sau lưng rút sợi dây điện ra khỏi ổ cắm điện; tức thì máy may ngưng. Mà giựt mình quay lại thấy tôi, nhưng tôi không để bà hỏi, tôi vội nói: “Con đậu rồi!”. Bà không nói gì, nhưng vẻ mặt bà tươi lên, đôi mắt sáng ra, với nụ cười mãn nguyện. Tôi choàng tay sau lưng má, như để truyền niềm hạnh phúc tôi đang có sang cho bà.
    Đó là kết quả của những ngày đêm cặm cụi học thi dưới nhà bếp, ở trường St. Paul, và ở lớp toán đặc biệt của thầy Ú. Những ngày cực hình đã qua. Hè này đi chơi cho thả cửa trả thù.
    Mấy chị học trò của má cũng vui lây, giành nhau may áo dài cho tôi. Nhưng tôi lại không tha thiết với việc mặc áo dài, nghĩ rằng áo dài chỉ dành cho người lớn, còn mình thì cứ quần cụt bằng kaki cho gọn.
    Một lát sau, tôi trở lại trường Phan Thanh Giản, chen chúc trong đám đông các phụ huynh và thí sinh, có đến gần tám bảng danh sách các thí sinh trúng tuyển, để coi cho bằng mắt yên tôi trên giấy trắng mực đen cho thêm an tâm. Tôi nhẩm cả chục lần tên Trần Ngọc Dung, sanh ngày 24 tháng 3 năm 1946 tới Long Thạnh, Cần Thơ.
    Chị Thuận cũng có tên trên bảng vàng. Điều đó đối với tôi là lrx tự nhiên, vì chị học rất chăm chỉ và thông minh. Chị luôn trong số ba người đứng đầu lớp. Tôi phục chị lắm, nên đã nghĩ rằng cuộc thi tuyển này đối với chỉ như ăn cơm bữa. Chị thi một con mắt cũng đậu. Trong khi đó, tôi không làm biếng, nhưng ham chơi, cứ vui trước, rồi trả nợ sau. Khi gần đến ngày thi tôi phải học dồn học ép, mất ăn mất ngủ cả tháng trời. Điều dợ thứ nhứt là làm má tôi buồn, và điều sợ thứ hai là phải học nhồi nhét mắc cỡ với chị Thuận. Tôi hay thầm vái trời đừng bị học lớp với chị.
    Chiều hôm đó, chị Thuận và tôi rủ nhau đi quanh quẩn trong khu trường mới. Tôi nghe lòng vừa bồi hồi vừa hãnh diện. Bồ hồi vì vào một giai đoạn mới, tương lai mở rộng trước trước mắt, hãnh diện vì biết rằng mình không phải là… “đồ bỏ”. Thế là tôi đã nối gót những người đi trước trong gia đình này. Đó là ba chị Thuận và các cậu, tôi ngồi trong hành lang của trường, bên cạnh cánh cổng. Từ hành lang này, chúng tôi có thể nhìn thấy nhà tôi bên kia đường Võ Tánh.
    Chị Thuận là hình ảnh của người con gái dậy thì, dịu dàng. Chị thích làm thơ và mê đọc sách. Chị mong đến ngày đến trường để được mặc áo dài và được mang guốc cao gót, còn tôi lại chỉ mơ được vào ban thể thao để chạy đua, mang giầy mầu vàng như con ông tỉnh trường. Tôi mà được làm trưởng ban thi đua với hy vọng được phuh thầy Trần Ngọc Nhung, dậy lại lũ bạn cùng lớp.
    Trong khi chúng tôi học thi, má tôi hứa, nếu chúng tôi thi đậu thì cho mỗi đứa một món quà. Chị Thuận muốn được thưởng cây viết Pilot ở tiệm Hồng Phát. Còn tôi lại mơ được uốn tóc! Chị Thuận hay hát nho nhỏ bên tai tôi “Em oi nếu mộng không thành thì sao?”. Mộng của hai chị em tôi đã thành. Cho đến ngày nay tôi còn nghe mùi thuốc uốn tóc đâu đây, và cả cái mùi khen khét trên cái đầu nặng trĩu với mây cây kẹp nóng. Tôi chọn uốn nóng vì rẻ hơn uốn lạnh.
    Mấy chị học trò của má đều khen cái đầu quăn của tôi. Nhưng mấy ngày sau, khi ông ngoại tôi ra tỉnh để dẫn đám cháu đi mua sắm giấy mực cho ngày tựu trường, và cho chúng tôi đi ăn ở Túy Huế Lầu như mọi năm, thì cái đâu tóc quăn của tôi bị chê liền. Ông ngoại muốn cháu của ông phải giữ “tóc cha mẹ đrt”. Hôm đó tôi biết tôi sẽ bị ông ngoại giận, nên định lấy khăn trùm kín tóc. Nhưng rồi tôi đổi ý, thử làm gan cho ông thấy cái đầu quăn. Lúc ông xuống xe lôi, bước vô nhà, tôi nhanh nhẹn chạy trước nhất, khoanh tay chào:
    - Thưa ông ngoại mới ra. Cháu thì đậu vô đệ thất rồi, ngoại!
    Trên khuôn mặt hiền từ của ông, nụ cười biến đi ngay khi ông nhìn thấy cái đầu quăn của lời. Ông bực bội hỏi:
    - Được cái đầu quăn mà để ông ngoại buồn, có xứng không?
    - Dạ không. - Tôi trả lời yếu xỉu.
    Nhưng ông không tha lỗi cho tôi dễ dàng như vậy đâu. Hôm đó, sau khi đi mua sắm cho các cháu, ông đưa chúng tôi tới tiêm Tuý Huê Lầu. Trước khi ngồi vào bàn, ông nói:
    - Ông không ngồi gần mấy đứa đầu quăn đâu nhen!
    Tôi giành ngay cái ghế kế bên ông rồi nhũng nhẽo:
    - Mà đầu quăn muốn ngồi kế ông ngoại.
    Chị em tôi cười rộ lên, chỉ có ông không cười thôi. Thồ vô túi áo bà ba trắng của ông, tôi lấy ra bao thuốc, vấn một điếu rồi nhét vô giữa hai ngón tay của ông để chuộc tội. Mọi người nhìn tôi lắc đầu.
    ***
    Những ngày ở trong bưng biền ra Cần Thơ, năm đệ thất của tôi là năm đầu tiên tôi cho phép mình sung sướng, cho phép tôi vui với tuổi học trò, tôi bỏ dần lời hứa “hai năm” của ba tôi! Mấy chị học Đệ ngũ cho rằng hai lớp Đệ thất Đệ lục là hai năm học sướng nhất của tuổi học trò bậc trung học, rồi sau đó mới bắt đầu học hành chăm chú, hai năm đó bọn tôi vừa là người lớn, vì lớn hơn đám học trò tiểu học, vừa là con nít vì nhỏ hơn mấy anh mấy chị lớp đệ ngũ trở lên;
    Mới nhập hạc mà tôi đã có nhiều bạn, đủ thứ bạn. Người bạn là chị Nguyễn Thị Hiệp, trưởng lớp. Chị lớn hơn tôi những năm tuổi. Vì chiến tranh, nhiều người bị chậm trễ trong học hành, hoặc phải bỏ học để đi làm sớm, không phải chỉ có một mình chị Hiệp. Trong lớp tôi, có sáu chục học sinh đủ mọi tuổi, từ 12 đến 19. Tôi thân với chị Hiệp nên lúc nào cũng kề sát bên chị, đến nỗi chị kêu tôi là “cái đuôi” của chị.
    Cũng như ba tôi, ba chị Hiệp là Việt Minh, cùng người quyết đánh đuổi giặc Tây. Má chị dẫn chị lên Nam Vang, và cho chị học một trường trung học Tây. Do đó, khi trở về Cần Thơ chị nói tiếng Việt không rành, và thiếu nhiều ngữ vựng. Chị phải học lại từ lớp Đệ thất.
    Lần đầu tiên gặp chị, tôi nói:
    - Chị nói tiếng Việt như người Miên!
    Chị liền phản ứng:
    - Merde, tại sao mày biết? Bộ mày là Miên hảt?
    Chị kể cho tôi nghe về ba má chỉ. Vì mới về Việt Nam, chị không hiểu gì về vấn đề an ninh nên không sợ công an quốc gia hỏi thăm.
    Chị Hiệp học giỏi, vì đã có bằng trung học Pháp ở Cao Miên, chị thường “cup cua” giờ Pháp văn và giớ toán. Đó chính là hai môn tôi kém. Chị chăm chú nhiều nhất là môn Việt vẫn. Ngoài ta chị cũng cố gắng tìm hiểu thêm về phong tục, tập quán của người Việt để trở lại làm người Việt chính cống. Tôi thường thấy chị suy nghĩ như một thằng Tây; con tánh tình chị là của một người Miên, chỉ có máu Việt Nam trong người chị mà thôi. Một hôm, trong giờ Sử, chị không trả lời được câu hỏi của giáo sư. Chờ một hồi lâu, thầy phải cho chị ngồi xuống, chị xổ ra một tràng tiếng Pháp pha tiếng Miên. Tôi tò mò hỏi chị nói gì với thầy vậy, chị đáp:
    - Tao nói: Merde! Tao đương điên cái đầu, nửa thằng Tây, nửa thằng Mien, bây giờ lại bắt tao trả bài của thằng Việt!
    Nói xong, chị gục đầu xuống bàn.
    Chị Hiệp và tôi thường học bài chung với nhau, có khi ở nhà chị, có khi ở dưới bếp nhà tôi. Khi chúng tôi đã thật thân rồi, tôi tiết lộ bí mật gia đình tôi cho chị hay. Đó là chuyện ba tôi tập kết ra Bắc. Tôi cứ tưởng chị ngạc nhiên lắm, không ngờ chị nói:
    - Tao biết rồi, biết từ hỏi mới gặp mày lần đầu kia, nhỏ à!
    Tôi hỏi làm sao chị biết? Có phải chị Thời ở Rạch Ngỗng cho chị biết không? Sở dĩ tôi nghĩ chị Thới, vì chị Thới cũng thuộc gia đình Việt Cộng. Nhưng chị Hiệp chỉ một ngón tay lên trán tôi thân mật đáp:
    - Nhớ là tao lớn hơn mày năm tuổi nhen.
    Tinh bạn giữa chị Hiệp và tôi vô cùng quý báu. Có một người bạn để tin tưởng và tâm sự ở cõi đời đầy lừa lọc, gian trá và nhiều đe doạ, không phải là dễ kiếm. Tôi đã sống nhiều năm trong cô đơn: có anh, anh đi tập kết; có chị, chị phải đi học xa nhà! Tôi khao khát tình phụ tử, nên càng rất cần có bạn. Chị Hiệp chợt xuất hiện như một vị cứu tinh của tôi lúc bấy giờ. Nhờ chị, tôi đã giành lại chỗ đứng danh dự dưới ánh sáng mặt trời; tôi không còn mặc cảm mồ côi cha. Đã vậy, cả hai chúng tôi cùng hãnh fiện vì cha chúng tôi đều là những người yêu nước.
    Chị Hiệp không thích nói tới chuyện thời sự. Mấy lần tôi nói chuyện nước non, chị gạt phắt đi. Chị nói:
    - Mấy chuyện mắc dịch đó để cho mấy người ta lo; mình lo chừng nào đi vườn Thầy Cầu nè, vườn ổi nè.
    Thế giới của chị Hiệp lúc bấy giờ thật giản dị. Chị học phong tục, tập quán của Việt Nam, nhất là của tỉnh Cần Thơ. Chị gắng trở thành một người Việt Nam… thứ thiệt. Môn chánh là vườn Thầy Cầu, vườn ổi, bánh mì thịt của chú Lý Ngầu ở trong Cái Răng, và mấy anh học lớp Đệ Nhị, Đệ nhất. Vì vậy, mới năm Đệ thất, chị Hiệp đã có bồ. Từ đó, chị không có nhiều thid giờ dành cho tôi. Nhưng mất chị Hiệp, tôi còn bạn khác. Đó là Lê Thị Bạch Tuyết, Nguyễn Thị Mai Bắc Kỳ. Lẽ Kim Lệ và chị Thuận. Tuyết, Lệ đều là dân “thổ sanh” tại Cần Thơ, nên Mai đối với chúng tôi là một người bạn vừa lạ, vừa vui tươi, vừa mới toanh. Mai là dân Bắc Kỳ di cư từ Hà Nội vô. Nhiều lúc giờ chơi, Tuyết và tôi kêu Mai là “Mai Bắc kỳ”. Mai không giận mà còn hãnh diện mình là “Bắc Kỳ” nữa. Mai hay trêu chúng tôi bằng cách kéo dài hai chữ “mình ên” theo giọng Nam.
    Mai và gia đình di cư vào Nam năm 1954. Ba của Mai đã qua đời, chỉ còn mẹ. Chị cả của Mai là chị Thái Lan, rồi đến các anh Tuyến, Khuyến và ba người em là Minh Thu, Toàn và Hạnh. Lúc mới vào Nam, gia đình Mai ở Sài gòn. Khi chị Thái Lan bỏ về Ô Môn dậy học, cả gia đình đi theo chị. Với đồng lương nhỏ nhoi của một cô giáo tiểu học, chị Thái Lan nuôi một bầy em nhỏ. Người Nam lúc bấy giờ còn kỳ thị dân di cư, nhưng hàng xóm ai cũng thương gia đình của Mai. Nhà thầy giáo Chín ở đầu hẻm gần nhà Mai tỏ ra mến phục chị Thái Lan lắm, ông nói với má tôi:
    - Tội nghiệp cô giáo Bắc Kỳ, một mình nuôi mẹ và một bầy em phá gạo. Bà già có tướng sang, chắc cũng là gia đình khá giả ở Bắc.
    Thái Lan không những là người con hiếu thảo, người chị các em, mà còn là người có nhan sắc. Trong chị như một đoá hoa Lan mầu tím. Quanh năm suốt tháng chị Thái Lan mặc áo dài mầu tím.
    Việc gặp gỡ đầu tiên giữa Mai và tôi không hứa hẹn một tình bạn thân thiết. Cho đến ngày hôm nay, tôi chưa quên ngày nhập trường. Lòng dạ tôi vừa nôn nao hồi hộp, vừa sợ sệt, mến phục mấy chị Đệ lục, Đệ ngũ. Khi chúng tôi còn chờ đợi giờ vào lớp, bạn cùng lớp nói với tôi:
    - Có con nhỏ Bắc Kỳ bên 7z giống mày lắm. Mới đầu, tụi tao tưởng mày đi lộn lớp.
    Toii cười:
    - Trên đời này chỉ có một Trần Ngọc Dung thôi!
    Tuy nói vậy, tôi cũng tò mò muốn biết mặt “con nhỏ Bắc kỳ” kia có thật giống tôi không? Giờ ra chơi, tôi chạy qua lớp 7z. Quả thật, tôi thấy con nhỏ đó giống tôi lắm; đến mái tóc cũng giống hệt tôi. Thiệt kỳ lạ! Tôi đứng ngoài cửa lớp nó một lát rồi ngoắc kêu nó ra. Lúc đầu, tôi thấy nó có vẻ hơi kiêu ngạo. Mắt nó sáng long lanh, có vẻ tinh nghịch, lém lỉnh. Nụ cười ngây thơ nhưng duyên dáng với hàm răng trắng, đều dặn của con gái “Bắc kỳ” đã thu hút tôi. Tuy nhiên, cái vẻ thờ ơ, lạnh nhạt của nó làm tôi bực mình.
    - Chị xuống đây lâu chưa? - Tôi hỏi trước.
    - Năm năm. - Mai trả lời với giọng Bắc xa lạ.
    Thật khó tin. Nếu tôi có người em song thai ở Cần Thơ năm năm, thì tôi phải biết nó từ lâu rồi.
    - Năm ngoái chị học ở đâu? - Tôi hỏi.
    Mai cho biết là nó học ở một trường tiểu học trên Sài gòn mà tôi không biết nơi đó. À, thì ra nó nói nó vô Nam năm năm chớ không phải “suổng” Cần Thơ 5 năm. Thấy nó có vẻ làm phách, tôi định không thèm làm quen với nó nữa. Nhưng khi nhìn kỹ mặt nó, tôi không đành quên nó, vì nó giống y tôi. Tôi đành miễn cượng hẹn nó:
    - Giờ chơi kế tụi mình gặp nhau nhen.
    Mai liền trả lời:
    - Giờ tan học.
    Lời hứa của Mai làm tôi vui trở lại. Thế là từ chiều hôm chúng tôi thường gặp nhau sau giờ học. Dần dần, chúng tôi thành một đôi bạn thân, đi đâu cũng có nhau, như hình với bóng.
    Nhà của Mai ở trong hẻm đường Võ Tánh, nhìn xéo qua trường nam tiểu học. Nhà tôi không xa nhà Mai mấy, nên hàng ngày tôi và chị Thuận đứng chờ nó trước cửa để cũng đi tới trường.
    Sự thân thiết của chúng tôi giúp chúng tôi quên đi hoàn cảnh nghèo túng của cả hai gia đình. Mỗi lần gặp nhau, chúng tôi cười đùa vui vẻ như bài hát Summer Time mà tôi thường đàn cho hát: “My daddy is rich and my mommy is good looking”. Chúng tôi cùng yêu âm nhạc, cùng là học trò giỏi của thầy Phan Thanh Thu. Tôi là người duy nhứt trong trường được nghe tiếng hát thuỷ tinh đó, vì Mai không bao giờ cho ai nghe tiếng hát của mình.
    Chúng tôi không có tiền đi coi hát bóng thường như chị em của Lê Thị Bạch Tuyết, nhưng hễ có dư đồng nào là xài hết ở hai nơi: một là tiệm sửa xe đạp; hai là nhà sách Văn Nhiều. Chúng tôi chỉ mua sách học và sách nhạc. Ngày cả khi không có một xu dính túi, chúng tôi cũng tới nhà sách Văn Nhiều, la cà cả tiếng đồng hồ, ông chủ nhà sách là cậu Hai Văn Nhiều, bạn hồi nhỏ của má tôi, nên cậu biết tôi là con của “cô Tám”. Thỉnh thoảng đem cho sách chúng tôi. Nhưng có một người trong tiệm sách ghét chúng tôi lắm, vì chúng tôi cứ bắt anh lấy sách cho coi, hết cuốn này tới cuốn kia, rồi trả lại mà không mua. Yêu sách thì yêu lắm, nhưng tiền đâu mà mua hết những cuốn mình muốn. Coi cọp Văn Nhiều rồi lên Cái Khế mướn sách để coi tiếp tục. Chị Thuận nhiều tiền hơn tôi và Mai, nên chị mua sách, coi xong cho tôi và Mai mượn, với điều kiện là không được bẻ góc sách. Chị Thuận cưng sách lắm.
    Mai nhớ Hà Nội nên thường nhắc đến Hà Nội với một giọng như tôii hãnh diện về Cần Thơ của tôi.
    - Gia đình tao tạm ở đây thôi, khi nào hết cộng sản tao trở về Hà Nội.
    Đó là lời chân thật của người bạn thân, nhưng tự ái của tôi cũng bị tổn thương, vì tôi vẫn nghĩ ở trên cõi đời này không có nơi nào đẹp bằng Cần Thơ, thanh tịnh bằng Cần Thơ và không có ai tử tế bằng người Cần Thơ. Vậy mà con nhỏ Bắc Kỳ này cứ đòi về Hà Nội là tại sao? Hà Nội nghèo nên người Hà Nội mới ăn cá rô cây. Dù bị chạm tự ái, tôi vẫn thương Mai lắm, nên tôi giấu kín ý nghĩ đó.
    Rồi mấy chục năm sau xa quê hương, tôi lại có tâm trạng của hồi ấy. Một hôm, cùng chống ngồi ngắm trăng, tôi đã nói: “Trăng Cần Thơ sáng hơn trăng Hawaii”. Một hôm khác, vợ chống tôi ngồi trên câu tầu ở Monterey Bay, ngắm nghía chờ xem mặt trời lặn như hàng ngàn, hang vạn người dân khác đã từng làm để thưởng thức cảnh đẹp của quê hương họ.
    Trên đường về nhà, tôi lại nói:
    - Trời chiều ở Cần Thơ đẹp hơn ở đây.
    Thì ra “không đâu đẹp bằng quê huxng”. Buổi chiều trên đất vườn ông bà ngoại tôi đều im lặng, như để dọn đường cho mặt trời đi ngủ. Nhưng trước khi lặn hẳn, mặt trời Cần Thơ có một vẻ huy hoàng đặc biệt, mà tôi cho rằng không đâu có. Không bao giờ tôi quên được những buổi chiều vàng trên cánh đồng yên tĩnh ở Bang Thạch. Tiếng mấy con ễnh ương tình tứ gọi nhau để đi ngủ sau mặt trời lặn. Tôi nhớ tiếng gà gáy khi trời vừa thức giấc vẫn vang động trong tâm hồn tôi, một kẻ sống xa quê hương cả nửa trái đất.






    Last edited by Hansy; 04-02-2011 at 06:31 PM.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,725
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14


    Năm 1960 ông ngoại tôi qua đời. Trong gia đình, sự ra đi vĩnh viên của một người thân yêu ảnh hưởng đến mỗi người một khác. Bà ngoại tôi thương tiếc cho ông không được thấy mặt người con trai trước khi nhắm mắt. Má tôi ân hận là chưa có điều kiện để báo hiếu thì cha đã ra đi. Dì Bảy ước mơng cuộc tổng tuyển cử hai miền Nam-Bắc thành hình để ông tôi không hiểu lầm “cách mạng” nữa. Tôi thì ân hận đã không chịu đấm lưng ông hơn năm phút. Trăm lần như một, tôi cứ kêu mỏi rồi bỏ đi chơi, rồi kêu đứa khác thay thế. Vậy mà không bao giờ ông giận.
    Ông ra đi, tôi có cảm tưởng như rồi đây không còn trăng sao nữa, con sông trước nhà sẽ cạn, chim hết hót, đời sẽ hết vui. Tất cả chúng tôi đã dựa và trông cậy vào ông để được che chở, để được yêu thương. Bà con xa gần đến tiễn ông, để an ủi nỗi đau thương ngập trời của chúng tôi.
    Quan tài của ông đặt ở phòng khách, nơi ông hay ngồi nhìn kênh rạch, chờ mong con cháu về thăm.
    Trong sự mất mất kinh hoàng đó, gia đình tôi cũng mất đi tình đoàn kết. Bên ngoài, tất cả mọi người cũng vẫn một vành khăn tang, nhưng lòng mỗi người đã hướng một ngả khác nhau. Má tôi khóc, bà ngoại khóc, cả nhà đều khóc… Mới có mấy ngày thôi, trông má tôi gia đi cả trăm tuổi. Mất ông ngoại, tôi đau đớn tận tim gan, nhưng tôi không khóc được.
    Sau đám tang, ai về nhà nấy. Hai chị Kim, Cương trở lên Sài gòn đi học. Nhà tôi trở nên vắng vẻ, im lặng một cách lạ thường. Má tôi thức khuya hơn. Có đêm tôi thức giấc nửa khuya, còn thấy má vừa may vừa khóc. Ban ngày, không ai dám nhắc tới ông ngoại. Tôi cũng giấu kín niềm đau đó bằng cách không để tang, vì sợ có người hỏi tôi để tang ai, làm sao tôi thốt ra rằng: ”Ông ngoại tôi mất rồi!”.
    Kể từ ngày ông ngoại tôi ra đi, bao nhiêu đổi thay dồn dập. Tôi không nhớ là trước đó má tôi có đi chùa không, nhưng bây giờ bà thường tới chùa Cây Bàng. Tóc bà đã trở thành muối tiêu: tánh tình bỗng khó khăn hơn với chị em chúng tôi. Trong khi đó, sức khoẻ của bà ngoại tôi sa sút hẳn đi. Còn dì Bảy và các chị con cậu Tư Diệp hăng say hoạt động cho Mặt trận hơn, vì không còn ai ngăn cản. Dì để cán bộ Việt Cộng tự do sử dụng đất nhà. Bà ngoại không dám có ý kiến gì khi họ hội họp ngay trong trang trại của mình, vì đối với bà Mặt trận là con cháu của bà. Tinh mẹ bao giờ cũng bao la như trời, như biển. Đã vậy, bà còn nâng đỡ, quý mến tất cả những gì do con cháu của bà tạo ra. Ông ngoại không còn nữa, là mất đi một chướng ngại cho những cán bộ Việt Cộng. Với sự khuyến khích của dì Bảy, nhà ngoại tôi đã trở thành cái ổ chứa Việt Cộng, để họ hội họp, một mảnh đất hoàn toàn tự do để đào tạo cán bộ của “xã hội chủ nghĩaa” trong tương lai. Nhiều lần, tôi bắt gặp họ hội họp ngay trong phòng mà ông ngoại tôi thường ngồi hút thuốc khi còn sống.
    Chị Thuận nói, miệng tôi “ăn mắm ăn muối, nói đâu có đó” vì tôi giận dì Bảy cứ chứa chấp Việt Cộng mà không nghĩ tới hậu quả hành động của dì: có ngày Quốc gia sẽ thụt canon sập nhà. Nhưng một hôm, ngày sân gạch nhà của bà ngoại bị bỏ bom. Dì Bảy phải đem bà ngoại ra chợ Bang Thạch ở đậu nhà của ông cả Phú; mỗi ngày dì Bảy tới lui thăm nom bà. Khi nào bà nhớ nhà thì dì rước về ban ngày, rồi ban đêm đưa bà ra ở nhà ông cả Phú. Bà ngoại không chịu ra chợ ở với má. Rồi sau đó bà nói, chết sống bà cũng trở về nhà của bà.
    Bà ngoại bị lao phổi nên thường phải đi bác sĩ ngoài Cần Thơ. Một buổi chiều thứ sáu, dì Bảy kêu tôi về Bang Thạch để sáng thứ bảy đưa bà đi bác sĩ. Tối hôm đó, trong khi dì Bảy nấu tấm heo, tôi lùi mấy cái hạt mít trong lò lửa ở ngoài sân, bỗng có một cán bộ từ ngoài ruộng đi vô. Sau khi anh ta nói mấy lời với dì Bảy thì kêu tôi theo anh và một anh cán bộ khác, vô xóm trên để coi chiếu bóng ngoài trời. Nghe giọng anh, tôi biết đây là mệnh lịnh, không thể từ chối được, nên đành vô nhà thay quần áo, mặc một bộ bà ba đen cho vui lòng mọi người. Mà thật, lúc tôi trở ra sân, dì Bảy nhìn tôi hài lòng. Từ ngày ông ngoại qua đời, tôi không còn đồng minh nữa, nên không dám cãi lại mấy người bà con Việt Cộng. Trước khi chúng tôi ra khỏi nhà, dì Bảy căn dặn tôi: “Cháu phải ăn nói đàng hoàng lễ phép nghen. Mấy trăm con mắt chăm chú vô con gái của ba cháu đó”.
    Chúng tôi giữ im lặng một đỗi đường dài dưới ánh trăng. Hai người cán bộ đi nhẹ nhàng như lướt trên cỏ, vì đêm là thế giới của Việt Cộng. Tôi chỉ nghe có tiếng thở hổn hển của tôi trong bầu không khí im lặng và nặng nế đó. Vừa đi tôi vừa nghĩ đến cuộc đời làm cách mạng của ba tôi và các cậu của tôi. Họ đã hy sinh cả tuổi xuân để bảo vệ đất nước. Họ đã dọc ngang khắp đất nước để mưu tìm hạnh phúc cho toàn dân. Nhưng tôi không tin vào chủ thuyết cộng sản là lối thoát cho đất nước. Có lẽ tôi lẩm bẩm nói hơi lớn, nên một người quay lại hỏi tôi nói gì. Tôi vội trả lời là tôi đã mỏi chân. Họ cho biết là sắp tôi nơi.
    Thì ra buổi chiếu bóng đêm đó là chiếu phim từ Hà Nội gởi vào do các “đồng chí Cuba” thực hiện. Tôi không nhớ chủ đề của phim. Phim nói đến tình hữu nghị giữa Hà Nội và các nước anh em trên thế giới. Có đoạn chiều Hồ Chí Minh hàn huyên với Mao Trạch Đông. Có đoạn tả lại cuộc đi thăm của phái đoàn Liên Xô tới Hà Nội. Những vòng tay ân ái, những cái hôn xa lạ từ bên kia đại dương, những bàn tay nắm chặt, những nụ cười thân thiết, với mục đích tuyên truyền, dụ dỗ các anh du kích Việt Cộng ngây thơ, khờ khạo. Lại có cảnh hàng ngàn công nhân trong các hãng xưởng ở Nam Tư chào đón Hồ Chí Minh trong chuyến công du của ông hồi 1957; cảnh nông dân ở Mông Cổ, ở Bắc Hàn, Đông Đức, và Cuba… vỗ tay chào mừng ông Hồ. Những hình ảnh ấy muốn cho người ta thấy ông Hồ được sự ủng hộ nồng nhiệt của dân tộc “bạn”.
    Đó là đêm “học tập chánh trị” lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng của tôi. Sau đó, hai anh cán bộ dẫn đường đưa tôi về nhà bà tôi. Theo phép Iịch sự, tôi mời họ vô nhà uống nước, nhưng cả hai đều từ chối, viện cớ vấn đề an ninh buộc họ phải trở lại mật khu. Họ bỏ một tôi một mình ở ven ruộng. Tôi sợ hết hồn, vì chung quanh tôi toàn là mồ mả, nhưng không dám nói ra, sợ bị chê là thỏ đế. Sau mặt trời lặn là tôi không bao giờ dám léo hánh ra đường, chớ ffừng nói tới ra ven ruộng. Trong lúc sợ hãi, tôi chợt nhớ tới lối “bắt quyết” khi gặp ma. Mấy người em bà con của má tôi bày, là mình phải nắm hai ngón tay cái thật chặt vô lòng bàn tay rồi chạy. Tôi làm theo lời họ, rồi chạy bán sống bán chết về nhà. Tới cửa, tôi hấp tấp tông vô, chớ không mở cửa một cách từ tốn. Tôi té nhào xuống đất, làm mấy người đang hội họp bí mật trong nhà hoảng hốt. Tôi nghĩ họ sợ tôi hơn tôi sợ ma. Như cỗ máy, những người có mặt, như: dì Bảy cùng các chị Yvonne, Thảo, Hồng Nga, Hoàng Mai và mấy người cán bộ tôi chưa gặp, nhảy ra khỏi bàn họp lẹ như những người biết khinh công ở trong các chuyện võ hiệp. Căn nhà nhỏ im lặng như tờ. Tất cả các con mắt đổ dồn vào tôi. Rồi nhận ra ngay đứa con nít sợ ma, họ liền ngồi trở lại bàn họp, trong khi tôi mắc cỡ vô cùng.
    Làng Long Thạnh như cái nôi đã ru ngủ, vỗ về chúng tôi, nay đã trở thành một cái ổ của Việt Cộng. Họ đến, họ đi, họ mở lối riêng, không dùng những con đường mòn quen thuộc. Họ luông tuồng trong mảnh vườn của ông bà tôi như bày thú sút chuồng vô trật tự. Những đổi thay đó làm tôi đau lòng xót xa. Hồi còn nhỏ, tôi đã có cảm tưởng đất đai của ông bà tôi rất thiêng liêng, có linh hồn riêng của nó, có hơi thở hoà cùng nhịp tim của gia đình chúng tôi. Giờ đây, dưới chế độ Cộng sản, mảnh đất thiêng liêng ấy chắc đã tan hoang. Nhưng tôi vẫn hy vọng cái miễu Thổ Thần vẫn còn đó, để ông che chở miếng đất của ông bà ngoại tôi. Sở dĩ tôi có niềm tin ấy, vì bà ngoại tôi cứ chiều đến là ra miễu Thổ Thần đốt nhang. Không sót một buổi chiều nào! Tôi không biết bà khấn vái những gì, nhưng lần nào bà cũng chùi nước mắt bằng vạt áo, rồi kính cẩn cắm ba cây nhang vào cái lư hương bằng sành màu xanh có hình con rồng.
    Đường về Long Thạnh càng ngày càng nguy hiểm cho xe và hành khách. Mìn nổ giữa đường từ Cần Thơ xuống Cà Mau rất thường xuyên. Không biết bao nhiêu người đã chết, thương tích, què giò, cụt tay. Vậy mà chị em tôi vẫn về Bang Thạch thăm ngoại. Mỗi lần thấy chúng tôi, bà hay nói: “Tụi con về cho căn nhà này vui”.
    Chúng tôi dù sợ mìn giữa đường cũng không nỡ bỏ bà một mình hiu quạnh, nên giả đui, giả điếc để về vườn thăm bà ngoại. Phá hoại là chủ trương của những người “chống Mỹ cứu nước”; còn chuyện về thăm bà là bổn phận của chúng tôi.
    Bà tôi muốn nghe chuyện tình hình ở ngoài chợ. Có lần bà hỏi chúng tôi có phải một bà lớn ở Sài gòn đã cho tay sai đốt nhà dân để bán tôn vì bà ta có một xuống làm tôn. Khu nhà bị đốt ấy về sau Chánh phủ phá xây một trường trung học cho con em dân Khánh Hội không phải đi xa.
    Bà cũng hay hỏi về ba tôi và các cậu. Tôi biết bà vẫn nuôi hy vọng con trai, con rể và cháu của bà sẽ trở về trong vinh quang, để bù lại những năm dài chờ đợi. Thay tôi tỏ vẻ không tin tưởng, bà khuyên tôi nên kiên nhẫn, rồi sẽ có ngày gặp ba tôi. Sau khi nghe bà khuyên như vậy, tôi tội nghiệp bà ngoại tôi vô cùng. Bàn tay của bà không mềm như tay của bà ngoại Nhuận trên Sài gòn. Nhưng hai bàn tay của bà đem tình thương lại cho chúng tôi và che chở chúng tôi trước những tai hoạ bất cứ rừ đâu đến. Hai bàn tay chai cứng ấy đã đùm bọc mẹ con chúng tôi trong lúc khó khăn, đơn độc này. Bấy giờ bà già yếu, chỉ trong cậy vào dì Bảy.
    Tôi mong các chị bà con cán bộ của tôi buông tha tôi, quên tôi đi, đừng tìm cách níu kéo tôi vào tổ chức của họ. Một hôm, tôi đến Bang Thạch nhân ngày giỗ đầu tiên của ông ngoại. Chị Thảo hay trước hỏi tôi có thấy truyền đơn dân trong lớp của tôi không. Tôi biết ngay là chị và chị Yvonne đã nhúng tay vào việc rải truyền đơn trong lớp. Tôi dại dột, khờ khạo kể cho hai chị nghe về phản ứng thuận lợi của một đám học trò đã lén đọc truyền đơn. Thế là, hai chị khuyến khích tôi gia nhập Mặt trận. Chị Thảo nói:
    - Dung ơi, bây giờ đất nước cần em. Bây giờ là lúc chị em mình phải phục vụ cho quê hương, tổ quốc.
    Chị Yvonne nói thêm:
    - Lương tâm của một người yêu nước là biết chọn con đường đúng nên theo. Dung đừng bỏ lỡ cơ hội.
    Tôi thẳng thắn nói ngay:
    - Chị có biết mấy trái mìn mà các đồng chí của các chị gài ở ngoài lộ đã làm em mất hết tin tưởng vào cách mạng của mấy chị không?
    Tôi đã nói huỵch toẹt như vậy, mà chị Thảo vẫn cố gắng thuyết phục tôi:
    - Em thông minh, em sẽ là một cán bộ hăng say, có trình độ, có hoàn cảnh thuận lợi trong trường.
    Nhưng tôi vẫn từ chối:
    - Em không mất công, mất tiền, mất thì giờ học luyện thi, vào được trường Phan Thanh Giản, để trở thành một cán bộ giết người, chị biết không?
    Chị Yvonne không còn kiên nhẫn với tôi nữa, nên đứng dậy ôm củi đi vô nhà, vừa đi vừa nói:
    - Tuỳ mấy người.
    Đêm đó tôi tưởng hai chị tôi đã hết hy vọng vào con em cứng đầu này rồi, nên trong bụng cũng thấy mừng. Nhưng khi mọi người cùng ngồi ăn cơm, hai chị lại tìm cách thuyết phục tôi. Họ rủ tôi ra ngoài bồ lúa, yêu cầu tôi bỏ thêm truyền đơn vào lớp học. Tôi từ chối ngay, những chị Thảo vẫn nói:
    - Truyền đơn sẽ được bỏ trong hộc tủ của con bạn thân nhất của em cuối tuần này. Làm ơn đừng cho nó biết để nó lấy ra kịp thời.
    Tôi bỗng giận hai chị sôi gan. Tại sao hai chị lại muốn hại bạn thân của tôi? Nhưng tôi cố dằn lòng, vui vẻ hỏi:
    - Bạn thân của em là đứa nào vậy?
    - Con Hiệp! - Chị Thảo đáp ngay với giọng cười đắc ý.
    Sáng sớm thứ hai, tôi mau mau tôi trường sớm trước mọi người, nói dối với chú Hai gác gian là tuần này tới phải quản lớp. Sau đó, tôi chạy như bay vô lớp, tới ngay bàn chị Hiệp, mở ngăn ra. Tôi thấy ngay một xấp giấy màu xanh dầy cộm chừng ba phân tây. Tôi vội bỏ cả xấp vô cặp da của tôi, rồi đi thẳng ra cổng trường. Tim tôi đập liên hồi. Hai bàn tay tôi ướt nhẹp, vì trước của trường là một đồn Công an. Tôi cố giữ vẻ mặt bình tĩnh, đi nhanh tới hẻm Ông Cả Đài để đến một nhà nuôi cá tra. Nơi đây có cầu tiêu công cộng cho dân xóm nghèo. Tôi vào nhà cầu, để xấp truyền đơn chung với đống giấy vệ sinh rồi không biết bỏ ở đâu.
    Khi tôi và chị Thuận đậu vào trường Phan ThanhGiản, gia đình tôi coi đó là một thành công lớn, mở đầu cho con đường học ván của chúng tôi sau này. Nhưng tôi tự biết tôi thua xa Hải Vân em của tôi, dù nó kém tôi hai lớp. Nhiều bài toàn, tôi phải nhờ nó giải giùm. Khi Hải Vân thi vào Đệ thất Phan Thanh Giản, nó rất tự tin. Khi tôi hỏi nó về mấy bài thi, nó thản nhiên:
    - em biết em làm dùng nhiều hơn sai.
    Quả nhiên Hải Vân trúng tuyển với hạng cao. Tôi hãnh diện về đứa em dễ thương, thông minh lạ thường. Bốn tháng sau khi Hải Vân học trường Phan Thanh Giản, chị Thảo tìm cách thân thiện với nó hơn trước. Chị hay nói chuyện với nó. Tôi nói chặn và dặn dò chị:
    - Chị để yên cho nó học. Chị xui nó làm bậy, em méc má, và luôn cái vụ chị cắt tóc.
    Hải Vân không thích tôi bảo vệ nó như gà mẹ bảo vệ gà con, nói với tôi:
    - Chị lo cho chị đi, để em lo cho em.
    Sự thật, tôi tin là em tôi có thể đối phó với các chị Việt Cộng của tôi. Nó sẵn sàng từ chối bất cứ điều gì có thể làm cho má tôi đau lòng. Nhưng tôi cũng không quên rằng chúng tôi đều là con của một lãnh tụ trong Mặt trận giải phóng miền Nam: tủi nó lại nghĩ rằng nó có bổn phận nối gót cha. Vì vậy, đằng sau ót của tôi, không nhiều thì ít, cũng lo về Hải Vân.
    Ba tôi tập kết khi Hải Vân mỗi sáu tuổi. Ba tôi dậy emvà chỉ cho em từng tên của các vì sao trên trời. Má và chị em tôi rất vui mừng là nó khôn trước tuổi; không ai xúi dại Hải Vân được.
    Để tránh nanh vuốt của Việt Cộng, má đưa Hải Vân lên Sài gòn ở với chị Kim, chị Cương để đi học, dù lên Sài gòn em không được học trường công, mà phải đóng tiền cho em đi học

    _____________________________

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Những câu chuyện ngụ ngôn hay nhất thế giới
    By giavui in forum Truyện Thiếu Nhi
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 03-03-2014, 06:01 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 02-14-2014, 01:50 AM
  3. Màu ngọt ngào tràn ngập street style các bạn trẻ thế giới
    By sophienguyen in forum Thời Trang Bạn Gái
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-22-2013, 12:49 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •