Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Thường thường người ta thường hay nói mối tình đầu là mối tình đẹp nhất, nhưng chính mối tình cuối cùng mới thật sự là mối tình bất diệt.
Jean Paul Sartre
Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234
Results 31 to 33 of 33

Chủ Đề: Hắc Bạch Hương Hồ Ký Ưu Đàm Hoa

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    Hắc Bạch Hương Hồ Ký


    Hắc Bạch Hương Hồ Ký



    Tác giả :Ưu Đàm Hoa






    MỤC LỤC [−]

    1. Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại
    2. Xuất Đạo Tầm Hung Phùng Lưỡng Xú
    3. Lộ Bán Phùng Mai Phục
    4. Đại Lượng Đắc Minh Sư
    5. Khuất Gia Vô Quí Tế
    6. Đồng Quan Lâu Thượng Nhan Như Ngọc
    7. Trùng Dương Bán Vạn Nhân Hoan Tiếu
    8. Tây Khứ Hồi Cố Thổ
    9. Lâm Biên Phóng Hương Hồ
    10. Kinh Sư Truy Án Long Ân Tứ
    11. Lư Lăng Sát Đại Cừu
    12. Quật Cốc Tầm Thi Nhan Mãn Lệ
    13. Thượng Sơn Diệt Ma Nữ
    14. Tạng Tăng Nhất Xuất Nhân Gian Tiếu
    15. Nhạc Dương Hảo Hán Tru Gian Tế
    16. Giả nứ Giá Vong Phu
    17. Chính Tâm Tái Đắc Thanh Xuân Tuế
    18. Hiếu Tử Tầm Di Cốt







    Hồi 1

    Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại,
    Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long





    Chương 1 - Thiên Sinh Phu Tiểu Sinh Thê Đại, Loan Phụng Hoà Minh Xuất Nhất Long


    Xuân về mang lại mầu xanh tươi, đầy sức sống cho mọi ngọn núi Cửu Tuấn ở phía Bắc thành Hàm Dương. Những cánh rừng bạt ngàn, dầy đặc trên sườn núi đang đâm chồi nảy lộc rũ bỏ lớp tuyết trắng lạnh lùng của mùa đông. Tuy nhiên, tiết trời vẫn còn giá rét khiến khách lữ hành phải khép kín vạt áo cừu.
    Ngay cả bọn nam nhân nát rượu đang ngồi nhâm nhi trong tửu điếm vệ đường kia cũng co ro, cúm rúm, nốc từng bát lớn để ngự hàn. Thế mà, trên con đường mòn dẫn đến cánh rừng chân núi ra quan đạo có một người tiều phu chỉ ăn mặc phong phanh áo vải mỏng, quẩy một gánh củi thật to, thoăn thoắt bước về phía quán rượu ở ngã ba đường.
    Cảnh tượng này đập vào mắt một lữ khách là lão đạo sĩ tuổi ngũ tuần áo xanh, râu tóc đen nhánh, gương mặt tuấn tú nhưng thân hình nhỏ nhắn, không được cao lớn cho lắm. Lão ta trợn mắt, há hốc miệng khi nhận ra cái người đang gánh củi kia là một nữ nhân vóc dáng khôi vĩ.
    Nàng ta không hề to béo, thân thể đầy đủ ba vòng khêu gợi. Chẳng qua, ở nàng cái gì cũng to gấp rưỡi, gấp đôi một nữ nhân bình thường. Riêng về chiều cao thì tiều nương kia hơn cả một gã đàn ông trung bình, nghĩa là lão đạo sĩ áo xanh chỉ đứng đến cằm của nàng.
    Nhưng sự chênh lệch thước tấc ấy chẳng hề khiến bậc chân nhân giảm sút sự ngưỡng mộ trước bộ ngực và đôi mông đồ sộ đang đong đứa nhún nhảy theo nhịp chân và tiếng kẽo kẹt của chiếc đòn gánh bằng tre già. Thanh ý đạo sĩ nuốt nước miếng lẩm bẩm:
    - Mẹ kiếp! Thế mới đáng gọi là đàn bà. Xem ra ý nguyện cải tạo giòng giống họ Tư Đồ của ta đã đến ngày thành tựu rồi.
    Thì ra vị đạo sĩ nhỏ bé này mang họ Tư Đồ. Lão ta hớn hở đi về phía tửu quán, nơi cô ả gánh củi hấp dẫn nọ dừng chân. Có lẽ nàng ta đem củi đến bán.
    Tư Đồ bước vào quán, nhận ra đối tượng đang đứng trước quầy quỹ chuyện với lão điếm chủ, ông liền xăm xăm tiến đến chiếc bàn trống gần đấy để dễ bề quan sát.
    Tiều nương đã lột chiếc nón tre cũ kỹ, để lộ gương mặt trái xoan thanh thoát với ngũ quan đoan chính, mắt to, mũi thẳng. Nhưng hỡi ôi, những nét đẹp ấy bị che mờ bởi một vết thẹo dài, y như vuốt mèo cào vậy.
    Lão đạo sĩ hơi thất vọng song mắt chợt sáng rực niềm hân hoan khi nghe giọng nói trong trẻo thánh thót êm ái của cô ả mặt thẹo. Không ai có thể ngờ rằng những âm thanh du dương, ngọt ngào ấy lại phát ra từ đôi môi của một người con gái to lớn quá khổ. Nàng nói với chú quán:
    - Lý Tứ thúc! Ngày kia là đám giỗ của tiên phụ, mong Tứ thúc chớ quên.
    Lão chủ quán họ Lý cười khà khà đáp:
    - Hoa nhi, an tâm! Làm sao lão phu có thể quên ngày giỗ của vị nghĩa huynh thân thiết nhất trên đời.
    Cô nàng tên Hoa nhi tươi cười cáo biệt Lý chưởng quỹ, nhận tiễn bán củi rồi rời tửu quán. Nụ cười của nàng làm rạng rỡ gương mặt xấu điêu tàn, càng khiến Tư Đồ đạo sĩ đắm say.
    Trong phép xem tướng của người Trung Hoa thì giọng nói có một vai trò rất quan trọng. Nữ lang này mang tướng đàn ông nhưng lại có được một nét son rất quý là giọng nói trong như ngọc. Vả lại tuy thân thể khôi vĩ, to lớn dềnh dàng, song ngũ quan của nàng ta lạị chẳng hề thô kệch. Nếu không có những vết thẹo ấy thì Hoa nhi sẽ rất xinh đẹp.
    Vị đạo sĩ họ Tư Đồ ngồi nhấm nháp chén rượu, suy nghĩ rất lung rồi khéo léo hỏi thăm gã tiểu nhị về lai!ịch của cô ả to đùng kia.
    Ông ta hài lòng khi biết nàng chưa chồng dù tuổi đã gần ba chục, tên gọi là Võ Xuân Hoa. Võ cô nương là con gái của một cặp vợ chồng tiều phu, ở bên cánh rừng phía nam chân núi Cửu Tuấn.
    Xuân Hoa sức mạnh như thần, mười bẩy tuổi đã thay cha vào rừng đốn củi. Một hôm, nàng xui xẻo chạm trán con cọp vằn hung dữ, liền vác búa đương cự. Nàng chém vỡ sọ con ác thú nhưng cũng bị nó cào nát mặt.
    Xuân Hoa hiện đã mồ côi cả song thân, sống một mình nơi nhà cũ. Nàng rất hiền lành nhưng vì quá to xác và mặt đầy thẹo nên ế chồng.
    Tư Đồ đạo sĩ nghe xong, quyết định cưới Võ Xuân Hoa làm vợ, ông là người văn võ toàn tài, dung mạo anh tuấn nhưng cơ thể thiếu thước tấc, y như mấy đời họ Tư Đồ, nên lòng rất uất ức. Ông thề se lấy cho được một nữ nhân cao to để con cháu phổng phao hơn tổ tiên.
    Tuy nhiên, đàn bà mà to xác thì thường mang nét phá cách ở ngũ quan và giọng nói thi ồ ồ như vịt đực. Tướng ấy chẳng thể nào vượng phu ích tử được. Do vậy, sau hơn chục năm tìm kiếm mỏi mòn, vị đạo sĩ nhỏ con tên Tư Đồ Quát kia mới gặp được một nàng hộ pháp mang quý tướng là Võ Xuân Hoa.
    Sau khi nắm rõ gia cảnh ý trung nhân, Tư Đồ Quát hỏi thăm đường đi nước bước rồi tìm đến nhà Võ cô nương.
    Xuân Hoa đã tắm táp, thay y phục khác, đang ngồi chải tóc trước cửa căn nhà tranh mộc mạc.
    Tư Đồ Quát cố ý đi nhẹ nhàng, nấp sau một thân cây phía ngoài hàng dậu tre để quan sát cảnh vật.
    Tuy chỉ là nhà tranh vách đất đơn sơ nhưng cơ ngơi của Võ cô nương gọn gàng, ngăn nắp và sạch sẽ. Mảnh sântrước nhà được tô điểm bằng những luống hoa rực rỡ, còn bên hông và phía sau là vườn cây ăn trái đang nặng trĩu quả.
    Tất cả những điều ấy chứng tỏ rằng Xuân Hoa là người siêng năng chăm chỉ chứ chẳng phải kẻ lười chảy thây. Tư Đồ Quát nghe lòng ấm áp vững dạ bước qua cổng rào.
    Xuân Hoa nhận ra lão đạo sĩ đã có mặt trong tửu điếm lúc nãy. Nàng đứng lên, hòa nhã nghiêng mình chào hỏi:
    - Chẳng hay đạo trưởng tìm tiểu nữ vì việc gì?
    Tư Đồ Quát lúng túng, ấp a ấp úng mãi mới nói ra được mục đích của đời mình và ngỏ lời cầu hôn.
    Võ Xuân Hoa tủm tỉm đáp:
    - Tiện nữ vô cùng cảm kích trước sự chiếu cố của đạo trưởng. Tuy nhiên, đũa lệch khó so, đạo trưởng ốm yếu thế kia chỉ e không thọ nổi.
    Tư Đốt Quát đỏ mặt cười nhạt:
    - Bần đạo luyện võ từ năm bốn tuổi, sức cử ngàn cân. Nàng dù lớn xác cũng chẳng thể hơn được ta!
    Dứt lời, Tư Đồ Quát chứng minh ngay bằng cách lướt đến, xuống tấn, ôm đùi Xuân Hoa mà nhấc bổng lên dễ dàng. Và lão bất ngờ tung mạnh tấm thân ngà ngọc nặng hơn trăm rưỡi cân của nàng lên không trung, rồi hứng lấy rất nhẹ nhàng.
    Xuân Hoa phục sát đất, thẹn thùng trách móc:
    - Sao đạo trưởng lại dám sỗ sàng với tiện nữ?
    Song ánh mắt nàng lại đầy vẻ tình tứ nồng nàn; khiến Tư Đố Quát ngất ngây.
    Lão khoan khoái bồng nàng chạy xộc vào nhà, tiến hành ngay việc cải tạo nòi giống. Nhưng Võ Xuân Hoa chẳng phải hạng gái lẳng lơ, dịu dàng trấn áp lửa tình của họ Tư Đồ, bàn bạc cụ thể việc sống chung.
    Sau đám giỗ lão tiều phu họ Võ, một bữa tiệc nhỏ được bày ra để mừng cho mối lương duyên. Khách mời chỉ gồm Lý chưởng quỹ và vài người thân quen.
    Tư Đồ Quát đã trút bỏ áo đạo sĩ, cạo sạch râu ria nên khá trẻ đẹp. Trông lão rất giống em hay là con trai Võ Xuân Hoa.
    Đêm hợp cẩn, cảnh thằn lằn ôm cột đình ái ân say đắm, nồng thắm đến mức không bút mực nào tả xiết.
    Nhưng dẫu sao khi nằm thì sự chênh lệch về chiều cao không đáng kể. Gia dĩ, thân thể Tư Dỗ Quát cuồn cuộn những bắp thịt rắn như thép, kết quả của mấy chục năm chuyên cần luyện võ. Xuân Hoa cũng chẳng kém, da thịt săn chắc nhờ lao động cật lực, chẳng chút mỡ thừa, đẹp tựa một pho tượng mỹ nhân hơi quá khổ.
    Kích thước trường thương và độ bền bỉ của nam nhân không phụ thuộc vào chiêu cao của cơ thể. Do đó, Tư Đồ Quát thừa kiêu dũng để làm hài lòng người vợ khôi vĩ của mình. Đến sáng thì Xuân Hoa hoàn toàn tâm phục khẩu phục và hết lòng tôn kính, yêu thương lão chống già.
    Tư Đồ Quát rời quê hương Phúc Châu với trăm lượng vàng trong tay nải nên giờ đây có thể cho vợ tạm nghỉ nghề đốn củi, chuyên tâm vào việc sản xuất một thế hệ Tư Đồ tốt giống.
    Xuân Hoa có lần lo ngại thỏ thẻ:
    - Tướng công? Lỡ như con của chúng ta vẫn nhỏ bé như chàng thì sao?
    Tư Đồ Quát bực bội đáp:
    - Làm gì có việc ấy? Muối pha với đường dù không được ngọt hẳn thì cũng lờ lợ chớ làm sao lại mặn chát được? Nàng cứ yên tâm!
    Té ra lão cũng có lý! Mùa xuân năm sau Võ Xuân Hoa sinh hạ một nam hài bụ bẫm khoe mạnh, nặng đến sáu cân và dài gần ba gang tay.
    Tư Đồ Quát mừng đến phát cuống, cười ha hả bảo:
    - Mẹ kiếp! Họ Tư Đồ nhà ta trước đây chỉ đẻ ra toàn những hài nhi ngắn dưới hai gang tay, lớn lên thua thiệt mọi điều. Nay mới thòi ra được một đứa bé đáng mặt đàn ông.
    Lão đặt tên cho con trai là Tư Đồ Sảng. “Sảng” đây có nghĩa là trong sáng, rõ ràng, lấy chữ trong câu “Sảng Nhược Nhật Tinh” (sáng rõ tựa mặt trời và tinh tú) ý chỉ phong thái quang minh của bậc quân tử.
    Sảng nhi bú rất khỏe, ngày nào cũng vắt kiệt hai bầu vú to như cặp dưa hấu của mẹ nên lớn nhanh như thổi. Năm bốn tuổi nó đã cao to bằng một đứa lên sáu.
    Tư Đồ Quát rất cao hứng vì đứa con kháu khỉnh và khỏe mạnh, quyết định dạy võ cho Sảng nhi.
    Thừa kế nòi thần lực cũng như tính siêng năng, cần mẫn nên Sảng nhi học võ rất tốt, và dường như nó có căn cơ của một người võ sĩ.
    Nhưng hai năm sau, khi được cha dạy chữ thì Sảng nhi bộc lộ khuyết điểm của mình. Cậu ta khá vất vả khi phải ngồi một chỗ vật lộn với chữ nghĩa. Tuy nhiên, nhờ bản tính chăm chỉ kiên trì nên kết quả cũng không quá tệ.
    Tư Đỗ Quát hiểu rằng con mình hợp võ hơn văn, chẳng thể trở thành trạng nguyên hay bảng nhãn được. Do đó, ông quyết tâm tài bối ái tử trở thành bậc anh hùng cái thế, dương danh bằng võ nghiệp.
    Tư Đồ Quát vốn là đệ tử chân truyền của Du Long Chân Nhân Bộc Trung Tiêu ở núi Cổ Sơn, nghĩa là núi Trống, vì trên núi có một tảng đá rất lớn hình dạng như cái trống.
    Tư Đồ gia trang nằm gần chân núi Cổ Sơn nên năm lên sáu tuổi Tư Đồ Quát đã được Bộc Chân Nhân dạy võ. Bộc Trung Tiêu là bằng hữu chí thân của Tư Đồ lão trang chủ.
    Nhờ nhập môn từ thuở ấu thơ nên năm hai mươi lăm tuổi Tư Đỗ Quát đã được học hết nghề của sư phụ. Lão tinh thông cả ba pho tuyệt học kiếm pháp, quyền pháp và khinh công.
    Giờ đây, Tư Đỗ Quát vét túi truyền hết lại cho con trai. Sảng nhi tuy không hợp với việc sách đèn, thi phú, song cũng là đứa bé thông minh đĩnh ngộ chứ chẳng phải phường đần độn.
    Nhân sinh nhược đại mộng, sống chết khó lường nên Tư Đồ Quát vượt lẽ thường, không tuần tự từng bậc mà bắt con mình học thuộc lòng tất cả. Sau này, nếu lão có lỡ đoản mệnh thì Sảng nhi cũng có thể tự rèn luyện được.
    Kết quả là đến năm mười hai tuổi thì Sảng nhi đã học hết nghề của cha, thuộc lòng khẩu quyết và lộ số, chỉ kém phần tinh túy.
    Tám năm rèn luyện pho tâm pháp đạo gia là Ngọc Thanh Chân Khí đã phát huy thêm thần lực bẩm sinh trong cơ thể Sảng nhi. Cậu ta khỏe đến mức có thể múa tít cây búa đốn củi nặng hơn hai chục cân một cách nhẹ nhàng.
    Lúc này, Võ nương mới nhu mì, thỏ thẻ cùng chồng:
    - Tướng công! Tiện thiếp xin phép được đem sở học tổ truyền của giòng họ Võ truyền thụ cho Sảng nhi.
    Tư Đồ Quát ra vẻ độ lượng:
    - Sao nàng lại đa lễ như thế. Tất nhiên Sảng nhi phải kế thừa cả tuyệt học bên ngoại. Vả lại, lão phu còn gì để dạy cho nó nữa đâu.
    Tuy không nói ra song trong thâm tâm Tư Đồ Quát cho rằng phép đánh búa của bên vợ chẳng đáng một xu. Tự cổ chí kim có bậc anh hùng nào dùng búa mà thành danh vô địch bao giờ đâu, kể cả hai lão Trình Giảo Kim và HắcToàn Phong Lý Quỳ.
    Với tâm lý khinh bạc ấy, Tư Đồ Quát mỉm cười nói bỡn:
    - Sau này Sảng nhi xuất đạo hành hiệp mà vác theo cây búa đốn củi thì quả là một giai thoại.
    Võ Xuân Hoa là người đàn bà rất mực hiền thục, ôn nhu, dẫu biết trượng phu xỏ xiên cũng không hề nổi nóng. Bà dịu dàng nói:
    - Tướng công chớ lo! Vũ khí tổ truyền bốn đời của họ Võ là cây Giáng Ma Thần phủ bằng thép rất tốt và có hình dáng rất đẹp, ai thấy cũng phải trầm trồ khen ngợi.
    Tư Đồ Quát ngượng ngùng cau mày:
    - Thế ư? Sao mười mấy năm nay nàng không cho lão phu xem?
    Võ nương nghiêm nghị đáp:
    - Thần phủ là một vật linh thiêng, được cất giấu trên sườn núi Cửu Tuấn, chỉ truyền cho nam chứ không truyền cho nữ. May mà Sảng nhi là nam tử nên thiếp mới dám trao.
    Tư Đồ Quát bực bội nghĩ thầm:
    - “Mẹ kiếp! Trong vòng trăm năm qua võ lâm đâu có gã cao thủ chết tiệt nào cầm búa mà nổi tiếng? Xem ra bên vợ ta chỉ bày trò thần bí chứ thắng ra đám ôn gì cả!”
    Tư Đồ Quát nhếch mép cười đểu, hờ hững nói:
    - Này nương tử! Lệnh tiên phụ có được Thần Phủ sao không dương danh thiên hạ mà lại ẩn dật ở xó rừng này?
    Võ nương buồn bã đáp:
    - Khôg phải chỉ mình tiên phụ mà cả các cụ tổ cũng vì cảnh nhà khốn khó đành phế bỏ mộng giang hố, lo cơm áo cho vợ con.
    Tư Đố Quát gật gù thông cảm:
    - Nàng nói phải! Người nghèo dù giỏi võ cũng chẳng thể thành danh, chẳng lẽ bỏ vợ con nheo nhóc mà đi lo chuyện bá vơ để tìm chút hư danh?...
    Song lão nghi hoặc nói tiếp:
    - Vậy thì chẳng lẽ họ Võ nhà nàng không có ai từng nổi danh thiên hạ?
    Xuân Hoa cười rạng rỡ, gật đầu:
    - Có chứ, cao tằng tổ của thiếp chính là Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Khách Võ Hồng, đại cao thủ cuối thời Nam Tống.
    - Nàng nói nhăng gì thế? Lão ấy sử dụng kiếm cơ mà?
    Xuân Hoa thản nhiên gật đầu rồi giải thích:
    - Đúng vậy! Gia tổ theo Tể tướng Lục Tú Phu phò tá vị vua cuối cùng của nhà Tống chạy ra đảo Nhai Sơn Quảng Đông. Khi quân Mông Cổ tiến đánh Nhai Sơn, vua quan nhà Tống đều tự tử chết sạch, gia tổ thì thọ thương. Người vì tông mạch nhà họ Võ nên cố phá vây, tìm đến núi Cửu Tuấn này ẩn cư.
    Tư Đố Quát chẳng thấy nói gì về cây Giáng Ma Thần Phủ liền nóng nẩy gắt:
    - Việc ấy thì lão phu đã nghe truyền tụng. Tuy nhiên, vì cớ gì mà lại lòi ra cây búa Giáng Ma?
    Suốt mười mấy năm làm vợ, Xuân Hoa chưa bao giờ cau mặt với chồng. Bà luôn tươi cười, dịu giọng, ngay cả những lúc Tư Đồ Quát gắt gỏng. Thỉnh thoảng lão rơi vào tâm trạng xấu vì những kỷ niệm trong dĩ vãng. Còn thường thì Tư Đồ Quát rất ân cần, hòa nhã.
    Hôm nay cũng thế, Võ nương nhỏ nhẹ nói:
    - Thiếp kém phần chữ nghĩa nên không thể nói năng minh bạch được. Trưa nay chúng ta sẽ lên núi lấy Thần Phủ và chân kinh, tướng công xem trong ấy sẽ rõ nguồn cơn.
    Lời nói khiêm tốn và ánh mắt nhu thuận của bà đã khiến Tư Đồ Quát chạnh lòng hổ thẹn. Lão biết mình đã cư xử không đúng với vợ hiền, liến gượng cười phân bua:
    - Trời chớm lạnh, những vết thương cũ hành hạ khiến lão phu trở nên cáu bẳn, mong nương tử lượng thứ.
    O0o
    Sau bữa cơm trưa, Võ nương đưa chồng con lên núi Cửu Tuấn. Trên một bình đài cao mười trượng là nghĩa trang của giòng họ Võ. Mộ của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm Võ Hồng cũng ở đây nhưng trên bia không ghi danh hiệu nên Tư Đố Quát từng đến tảo mộ mà không biết, cứ tưỏng kẻ vô danh.
    Sẵn dịp thượng sơn, Võ nương thắp hương cho những người đã khuất. Sau đó bà dẫn chồng con đi tiếp lên cao.
    Con đường ruột dê này đã lâu không người qua lại nên cỏ dại mọc đầy, phải rất quen thuộc mới nhận ra lối cũ.
    Vài khắc sau, ba người dừng chân trước một vách đá dựng đứng ở lưng chừng núi. Võ nương bảo Sảng nhi dùng kiếm phá mớ dây leo chằng chịt trên vách, để lộ một thạch môn hình chữ nhật phủ đầy rêu. Rồi bà xuống tấn đẩy mạnh cánh cửa đá dầy để khai động. Thấy thế, cha con Sảng nhi cũng vội phụ một tay.
    Thạch môn đóng chặt đã hai mươi năm, kể từ ngày ông ngoại Sảng nhi qua đời. Giờ đây, cánh cửa nặng nghìn cân kia cáu kỉnh phát ra những âm thanh ken két ồn ào rỗi mới chịu mở toang.Tư Đồ Quát đốt hương rồi đứng cạnh bệ thờ tượng Võ Hồng, chứng kiến cảnh con trai lạy lục thọ nhận Thần Phủ và chân kinh. Lão tò mò quan sát pho tượng đá và nhận ra rằng dung mạo của Trung Nguyên Đệ Nhất Kiếm rất oai vũ, uy nghiêm. Bất giác, Tư Đỗ Quát sinh lòng kính cẩn đối với cụ tổ bên vợ.
    Thạch môn tuy nhỏ nhưng lòng động vô cùng rộng rãi, sáng sủa. Trần hang cao vút và trên vách trước có hàng chục khe thông sáng, thông gió nên không gian thoáng đãng, chẳng hề hôi hám.
    Đây vốn là một hang đá vôi nên thạch nhũ buông rèm, có chỗ nước nhỏ xuống đọng thanh vũng. Tuy nhiên, hơn nửa nền động còn lại rất khô ráo, tiện lợi cho việc cư trú và luyện võ.
    Lúc này Xuân Hoa đã đỡ Sảng nhi đứng dậy và bà tháo lớp vải sơn, lấy thanh Giáng Ma Thần Phủ ra trao cho ái tử.
    Tư Đồ Quát choáng váng trước hình dáng tân kỳ, cũng như nước thép đen bóng của của cây búa cổ kính.
    Chữ Phủ có nghĩa là cây rìu, một loại búa lớn, cán dài, chuyên dùng để chặt cây, đốn gỗ. Dịch là rìu thì chính xác hơn song lại hơi khó nghe và kém phần hoa mỹ. Cao thủ võ lâm mà vác rìu thì còn ra thể thống gì nữa. Do vậy, chúng ta sẽ dùng chữ “Búa” cho thêm phần oai vũ.
    Vả lại, thanh Giáng Ma Thần Phủ này cũng chẳng giống rìu cho lắm vì nó có đến hai lưỡi và đoạn thép dài nhọn hoắt ở đầu. Nghĩa là, ngoài tác dụng chém, Thần Phủ còn có thể sát địch bằng những thức đâm.
    Lưỡi búa có hình nửa bầu dục, mép lưỡi là một cung dài độ hơn gang. Cán búa cũng được làm bằng cùng một thứ thép với lưỡi, cộng với mũi nhọn ở chót thì Thần phủ dài độ ba xích rưỡi, hơn trường kiếm nửa xích.
    Tư Đồ Quát không dằn được óc hiếu kỳ liền bảo con trai:
    - Sảng nhi! Con đưa Thần phủ cho ta xem thử!
    Cậu bé vâng lời và vui vẻ nói:
    - Cha à! Cây búa này nặng khủng khiếp, hài nhi đến gẫy tay mất.
    Tư Đồ Quát nhận lấy, giật mình vì trọng lượng của Giáng Ma Thần Phủ mặc dù cán búa là ống thép rỗng mà Thần Phủ vẫn nặng đến hai chục cân.
    Lão chăm chú quan sát những hoa văn kỳ lạ khắc chìm trên thân búa, nhận ra hàng ngàn chữ Phạn nhỏ li ti ẩn trong những hình rồng phượng. Lão thầm đoán cổ vật này xuất xứ từ Thiên Trúc hoặc Tây Tạng chứ chẳng phải của Trung Hoa.
    Tư Đồ Quát còn phát hiện việc cán búa là ba đoạn ống thép lồng mối vào nhau. Nghĩa là cán búa có thể rút ngắn lại chỉ còn độ hơn gang. Cả đoạn mũi thép nhọn cũng thụt được vào trong lòng cán rỗng. Lão vô cùng thán phục bàn tay tài hoa của người đã chế tạo nên Thần Phủ và mỉm cười khi nghĩ đến cảnh Sảng nhi giắt khối thép hai chục cân này vào giải thắt lưng. Nụ cười tắt lịm ngay khi lão nghe giọng nói ngọt ngào trong trẻo của vợ âu yếm cất lên:
    - Tướng công hãy thử dùng Giáng Ma Thần Phủ thi triển pho Du Long kiếm pháp xem nào.
    Sau này, khi xen xong đoạ cuối của quyển “Giáng Ma Chân Kinh”, Tư Đồ Quát mới hiểu rằng Trung Nguyên Đệ Nhất kiếm Võ Hồng muốn khắc chế Đao Vương Bạch Hán Từ nên đã sang Tây Tạng, vào Bố Đà La Tự trộm cây Thần Phủ. Võ Hồng thua Đao Vương ở trận Nhài Sơn biết kiếm không địch lại thanh đao quý nên nghĩ ra việc dùng Giáng Ma Thần Phủ mà thi triển kiếm thuật, tất nhiên, lão ta phải thay đổi sở học để tạo ra pho phủ pháp kỳ lạ. Cuối cùng, Võ Hồng đã nhờ Thần Phủ mà giết được Đao Vương.
    O0o
    Kể từ hôm ấy, Sảng nhi bắt đầu khổ luyện tuyệt học của giòng họ Võ. Lần này, sư phụ cưa cậu là người mẹ thân yêu.
    Được Xuân Hoa cưng chiều nên Sảng nhi rất nhõng nhẽo với mẹ. Tròn ba tuổi mới dứt sữa và đến tuổi lên tám cậu bé vẫn còn thói quen sờ vú mẹ. Tư Đồ Quát bị cạnh tranh liền nóng mũi mắng con:
    - Ngươi thực không biết xấu hổ, đã cao bằng ta mà cứ làm như con nít lên ba.
    Chủ quán Lý Tứ cũng có mặt, đang đối ẩm với cháu rể, liền lên tiếng phủ dụ Sảng nhi:
    - Phụ thân cháu nói đúng đấy! Nay Sảng nhi đã đến tuổi điều niên không được sờ vú mẹ nữa!
    (Theo cách tính tuổi của người Trung Hoà thì bé gái bảy tuổi và bé trai tám tuổi được gọi là tuổi điều niên).
    Sảng nhi nghe cha và ông răn đe, ngăn cấm như thế liền buồn rười rượi. Đối với cậu đôi bầu vú mẹ là tạo vật xinh đẹp và thân yêu nhất. Thỉnh thoảng, cậu cảm thấy nhớ chúng vô hạn, phải chạy đi tìm mẹ.
    Thực ra, tật xấu này có ở hầu hết những đứa trẻ được nuông chiều, nhất là khi chúng không có em kế tiếp.
    Vả lại cuộc sống cô quạnh nơi cánh rừng vắng này thiếu thốn niềm vui cho một đứa bé, vì vậy, Sảng nhi luôn bám lấy mẹ.
    Giờ đây, sắp bị tước đoạt phúc hiếm hoi ấy, cậu bé ứa nước mắt, ấp úng biện minh với Lý Tứ. Cậu hi vọng Lý lão sẽ bênh vực mình:
    - Thúc công? Tiểu tôn tuy đã tám tuổi nhưng vẫn nhỏ hơn gia phụ. Nay gia phụ đã gần sáu mươi mà còn sờ được thì tại sao lại cấm tiểu tôn?
    Thì ra Tư Đố Quát âu yếm vợ hiền bị con trai nhìn thấy.
    Lý lão ôm bụng cười lăn cười lóc, còn vợ chồng Xuân Hoa thì đỏ mặt tía tai, xấu hổ đến mức chỉ muốn độn thổ.
    Tư Đồ Quát thẹn quá hóa giận, trợn mắt quát:
    - Tiểu quỷ kia! Ngươi nói nhăng gì thế?
    Sảng nhi sợ khiếp vía, chạy đến núp sau lưng mẹ. Tuy nhiên, sau lần ấy cậu bé cũng bỏ được tật xấu, tìm niềm vui trong việc học võ.
    Đấy là chút kỷ niệm vui ngày cũ, giờ thì Sảng nhi đã mười hai, đang phải cố công khổ luyện tám mươi mốt chiêu Giáng Ma phủ pháp, thoát thai từ pho Giáng Ma kiếm pháp.
    Tư Đồ Quát hiểu rằng pho Du Long kiếm pháp của mình không lợi hại bằng sở học nhà vợ. Song ông không buồn vì Du Long Quyền mới là sở trường của núi Cổ Sơn.
    Hình dáng của Giáng Ma Phủ hoàn toàn khác với trường kiếm, chi giống ở chức năng là có thể đâm và chém. Điểm phức tạp nhất chính là việc trọng lượng dồn vế phần lưỡi búa cho nên cánh tay người võ sĩ phải rất khoẻ mạnh mới điểu khiển nổi. Ngược lại, cũng vì điểm đặc biệt ấy mà những đòn chém của Thần Phủ sẽ cực kỳ mãnh hệt hơn cả cương đao.
    Trong pho bí kíp còn có cả nguyên bản của Giáng Ma kiếm pháp nên Tư Đồ Quát đã tham khảo và đay lại cho con trai.
    Song song với việc luyện võ, Tư Đồ Sảng còn được phụ thân dậy cho một nghề để mưu sinh: Thuở xưa, cái nghề đốn củi là mạt hạng và mạt rệp, không giống như các ngài “Lâm tặc” giầu nứt đố đổ vách ngày nay. Chính vì thế Tư Đồ Quát không để con trai nối nghiệp họ Võ mà dạy cho Sảng nhi cái nghề gia truyền của họ Tư Đồ. Đấy là nghề điêu khắc tượng.
    Ở một xứ sở mà bách tính thờ phụng đủ loại thần thánh như Trung Hoa thì nghề khắc tượng luôn phát đạt. Tượng Phật, tượng Tam Thanh, tượng các vị thần trong đạo giáo, hay thậm chí là cả những nhân vật trong tiểu thuyết như Quan Công, Tễ Thiên...May thay, Sảng nhi vốn là một cậu bé thông minh và khéo tay nên đã không phụ lòng kỳ vọng của cha già, hấp thụ hết tinh hoa của nghệ thuật ấy.
    O0o
    Tư Đồ Quát chẳng bao giờ đưa vợ con về thăm quê hương phúc Châu của lão cả. Lý do là vì Tư Đồ Quát bị chính bào đệ của mình truy sát.
    Tư Đồ Xán kém anh trai năm tuổi song võ nghệ lại cao cường hơn. Tính tình lão ta lại ác độc phi thường nên Tư Đố Quát đành phải trốn đi để tránh cảnh nồi da xáo thịt. Thực ra, nếu có ở lại thì Tư Đố Quát cũng khó sống vì lão đã từng bị em trai đánh trọng thương.
    Tư Đố Quát sợ mẹ già vỡ tim mà chết nên đã giậu kín việc huynh đệ tương tàn, lẳng lặng bỏ nhà đi phiêu bạt, chịu tiếng bất hiếu nhi.
    Do vậy. Tư Đồ Xán chẳng hề bị tai tiếng và còn trở thành Minh chủ võ lâm.
    Tư Đồ Quát có được gia đình ấm cúng nên đã quên mối hận cũ, chi kể sơ cho vợ con biết mà thôi.
    Năm Sảng nhi mười bẩy tuổi Tư Đồ Quát quyết định bỏ hẳn nghề tiều phu, xoay qua nghề khắc tượng. Rừng Cửu Tuấn có rất nhiều loại cây long não, nguyên liệu tốt nhất để chế tác tượng Phật. Lũ mối mọt chẳng bao giờ dám xúc phạm đến những vị thần thánh có mùi thơm the the của long não.
    Hữu xạ tự nhiên hương. Với tài nghệ của cha con Tư Đồ Quát thì những pho tượng do họ làm ra đã sớm nổi tiếng đất Hàm Dương. Không những thế, chúng còn được du khách phương xa mến chuộng.
    Khổ thay, chính những pho tượng ấy đã tố cáo tung tích của Tư Đỗ Quát và tai họa ập đến.
    Một ngày mùa thu năm Quý Sửu, Tư Đồ Sảng vào rừng đốn cây long não, lúc trở về thi thấy song thân bị giết chết rất thê thảm. Mẹ chàng thần lực kinh nhân nên đối phương phải đâm đến bẩy nhát mới giết được. Cha chàng thì bị rơi đầu, mắt vẫn mở trừng trừng vì oán hận.
    Tư Đồ Sảng khóc lóc thảm thiết, chôn cất xong huyện đường là xách búa đi tầm thù.
    Ngoài sự nghi ngờ dành cho minh chủ võ lâm Tư Đồ Xán, manh mối duy nhất là chữ “Quỷ” viết bằng máu. Trước khi từ trần, Võ nương vẫn còn đủ sức cáo giác với con trai mình.
    Tư Đồ Sảng đã tròn nhị thập và tài sản nhà chàng cũng đã tăng lên kha khá được chủ quán Lý Tứ quản lý. Chàng cũng là người thừa kế duy nhất của Lý chưởng quỹ vì lão cũng chẳng có con cháu nào cả.
    Thuở còn trai trẻ, Lý Tứ từng là tay đạo tặc lão luyện giang hồ nên giờ đây hết lời khuyên nhủ, dặn dò cháu trai. Lão dạy chàng phải ẩn nhẫn và thận trọng vì lực lượng kẻ thù quá hùng mạnh.
    Tư Đỗ Sảng nhất nhất tuân lời thúc công bí mật rời ngay Hàm Dương.


    Last edited by giavui; 05-19-2020 at 03:25 PM.

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Tiếc thay, lão đã không biết rằng nhãn lực Tư Đồ Sảng lại có thể nhìn xuyên đêm tối tựa loài cú vọ! Chàng dễ dàng hóa giải đường gươm ác độc và thọc một nhát vào ngực đối phương. Tất Linh Kỳ rú lên thảm thiết, ôm ngực gục ngã.
    Nếu là ban ngày, Tư Đồ Sảng muốn giết được lão ta cũng phải trầy vi tróc vẩy. Nhưng đêm nay, chàng là kẻ sáng mắt còn họ Tất thì mù dở!
    Tiếng thét lìa đời ghê rợn của Tiên nhân Động Chủ Tất Linh Kỳ đã làm chấn động đêm trường. Bọn Hắc y ùa đến thì đã muộn vì Tư Đồ Sảng như mũi tên rời dây cung, lão vút vào màn đêm!
    Thủ lĩnh thứ hai của chặng mai phục này chính là Giả Bạch Hồ. Gã giận dữ quát tháo:
    - Mau lấy ngựa đuổi theo!
    Lát sau, tiếng vó ngựa khua vang, Giả Bạch Hồ dẫn quân phi mau! Nửa canh giờ sau vẫn chẳng thấy bóng dáng của Tề Thanh Tuyệt họ đành phải bỏ cuộc vì lũ ngựa đã sùi bọt mép, kiệt lực!
    - o O o -
    Chiều ngày hai mươi ba, Tư Đồ Sảng đến Trường An. Chàng không dám vào thành, đi vòng qua khu ngoại ô phía Tây, tìm nhà dân xin nghỉ trọ.
    Mờ sáng, Tư Đồ Sảng đã lên đường, lòng thầm lo Hồ Ly Đế Quân cạn tàu ráo máng đến mức báo cho Hạo Thiên Cung biết mà bày binh bố trận ngay chân núi Đại Ba Sơn, lúc ấy thì mạng của chàng khó mà vẹn toàn!
    Trưa hai mươi sáu, Tư Đồ Sảng đã vào được sơn vực Tần Lĩnh nhưng còn cách Đại Ba Sơn hơn một ngày đường. Tần Lĩnh là một trong những dãy núi lớn nhất Trung Hoa, mạch núi kéo dài hàng mấy trăm dặm theo hướng Tây Đông!
    Tư Đồ Sảng gởi con ngựa mới mua cho một nhà tiều phu, mang theo túi nước và ít lương khô mà tìm đến chân hướng Nam Đại Ba Sơn!
    Tần Lĩnh được bao bọc bằng những cánh rừng bạt ngàn, nhờ tiết xuân mà cành lá um tùm, xanh tốt. Tư Đồ Sảng thi triển khinh công lướt nhanh trên những lối mòn và luôn thận trọng căng mất quan sát phía trước, đề phòng cạm bẫy!
    Xế chiều, Tư Đồ Sảng đã đi được hai chục dặm. Chàng bỗng nghe có tiếng nữ nhân rú thất thanh phát ra từ mé hữu đường mòn. Những âm thanh ấy vô cùng quen thuộc giống hệt lúc Bạch Phụng thét lên sợ hãi những tiếng sét kinh hồn.
    Trái tim Tư Đồ Sảng đập mạnh vừa mừng vừa sợ. Chàng lao vút về hướng ấy, tuốt kiếm trần để chặt cành, phạt gai mở lối.
    Chỉ lát sau chàng đã đến một con suối nhỏ, bề ngang chỉ độ hơn trượng, hai bờ ngổn ngang đá núi. Và trên một tảng đá tương đối bằng phẳng, sát mép nước, có một thân hình trắng trẻo dang nằm sóng sượt.
    Tư Đồ Sảng kinh hãi nhẩy ào đến, kịp nhận ra phần đuôi của một con rắn vừa bò xuống suối. Chàng hiểu ngay rằng Bạch Phụng đang tắm giặt thì bị độc xà cắn trộm.
    Chàng vội lật ngửa nạn nhậm lên và phát hiện nàng ta không phải là Bạch Phụng! Tư Đồ Sảng vô cùng bối rối trước thân hình trần truồng, không mảnh vải của người bị nạn! Cơ thể nàng ta còn đẹp và quyến rũ hơn cả Chiêu Hương, khiến Tư Đồ Sảng nóng cả mặt!
    Chàng cố trấn tĩnh xem xét và tìm ra dấu răng độc xà ở huyệt Thiên Trì gần đầu vú bên trái!
    Tư Đồ Sảng càng bội phần chí ngại, nhét vào miệng nạn nhân một viên giải độc đan. Thuốc này do nghĩa phụ chàng dựa theo Độc Kinh của Bát Tý Độc Vương mà bào chế, có thể hóa giải hàng trăm loại độc dược, chỉ trừ nọc của loài hải xà bụng vàng!
    Đồng thời chàng nắm cổ tay nữ lang ấy, truyền chân khí vào huyệt Nội Quan, theo kinh thủ Quyết Âm Tâm Bào, dồn chất độc ra khỏi cơ thể qua miệng vết thương ở huyệt Thiên Trì!
    Lạ thay, kinh mạch của nạn nhân lại bị bế tắc nơi huyệt Thiên Truyền trên bắp tay gần vai, khiến luồng chân khí của chàng không qua được! Và lúc này da mặt nữ lang đã xám lại, mắt trợn trắng. Tư Đồ Sảng kinh hãi cúi xuống, dùng miệng hút máu độc ra, tay hữu luồn xuống lưng, áp vào huyệt Mệnh Môn, truyền công lực để bảo vệ tâm mạch kẻ bị nạn.
    Môi miệng tiếp xúc với ngọn ngọc phong ngồn ngộn, và mũi ngập tràn mùi hương da thịt nồng nàn, nên lửa dục trong lòng Tư Đồ Sảng bùng lên! Nhưng chàng mang cốt cách của bậc anh hùng, mau chóng kìm chế được dục vọng, chú tâm chữa trị cho nạn nhân!
    Máu độc được hút ra hết và giải dược cũng đã phát huy tác dựng nên nữ lang kia thoát chết, sắc mặt tươi lại, nhịp tim điều hòa. Nàng ta vẫn chưa hồi tỉnh, mắt nhắm nghiền nằm thiêm thiếp.
    Tư Đồ Sảng thở dài rầu rĩ cởi áo lông mặc cho nàng ta rồi ngồi chờ đợi. Chàng không thể nhẫn tâm bỏ đi được dù lòng nóng như lửa đốt. Lát sau, bệnh nhân cựa quậy khiến vạt áo lông cừu phanh rộng, để lộ đôi chân dài khêu gợi! Nàng ta rên rỉ vì mê sảng, lăn lộn không yên. Có lúc nàng làm bung cả phần áo phía trên, phơi bày trọn vẹn đôi gò bồng đăo no tròn, mơn mởn tựa quả tuyết lê!
    Tư Đồ Sảng bấm bụng khép áo lại cho kín đáo và cố lay gọi bệnh nhân lai tỉnh. Dần dà, chàng bị gương mặt tuyệt đẹp của nàng ta thu hút, thầm công nhận thê thiếp của mình không ai sánh nổi.
    Gần khắc sau nữ lang mới mở mắt và ngồi dậy. Nàng nhìn chàng say đắm và cười bảo:
    - Tướng công quả là bậc kỳ nam tử hiếm có, thiếp vô cùng kính phục!
    Và gương mặt nàng bỗng biến thành dung nhan của Bạch Phụng khiến Tư Đồ Sảng vui mừng khôn xiết, ôm chặt lấy mà hôn. Chàng hân hoan đến ứa nước mắt, nghẹn ngào nói:
    - Phụng muội! Nàng không hiểu lòng ta hay sao mà lại bày trò thử thách như vậy!
    Bạch Phụng mỉm cười không nói, thè lưỡi liếm mặt chàng tỏ ý mời gọi ái ân! Tư Đồ Sảng cũng đang khao khát nên nồng nhiệt đáp ứng ngay, không để ý đến việc thân hình ái thê nẩy nở khác thường!
    Chàng đắm mình trong những trận mây mưa cho tỏ lòng nhung nhớ. Bạch Phụng liên tiếp bồng bềnh trên đỉnh sóng tình, rên rỉ ngợi ca hoan lạc, xiết chặt mãi thân hình cường tráng của tình lang. Nàng đòi hỏi nhiều hơn thường lệ, cử như sắp phải chia tay vậy!
    Hàng canh giờ sau đôi uyên ương mãn nguyện nằm bên nhau trên chiếc áo choàng lông. Theo thói quen, Tư Đồ Sảng vuốt ve đôi nhũ phong ái thê và sực nhớ ra rằng chúng lớn hơn trước! Chàng ngơ ngác hỏi:
    - Phụng muội! Vì sao cơ thể nàng giờ đây lại nẩy nở và đẹp hơn!
    Bạch Phụng bật cười khúc khích, ngồi lên và thổi một luồng hơi thơm tho vào mặt chàng. Tư Đồ Sảng bỗng nghe toàn thân tê liệt, không sao cử động được nữa. Chàng còn kinh hãi hơn khi thấy gương mặt Bạch Phụng hóa thành nữ nhân lúc nãy! Nàng ta cười chúm chím, tình tứ bảo:
    - Thiếp không phải Bạch Phụng mà chính là Vương Phi của Hồ Ly Đế Quân, được lệnh gài bẫy chàng. Nếu chàng nổi tà tâm trước nhan sắc của thiếp thì sẽ bỏ mạng! Nào ngờ, chàng lại giữ được lòng thanh bạch, thoát khỏi cạm bẫy, khiến thiếp vô cùng ngưỡng mộ, biến thành Bạch Phụng để dâng hiến cho bậc anh hùng!
    Tư Đồ Sảng buồn rầu đáp:
    - Nếu Đế Quân biết được việc này mà nổi ghen thì tại hạ khó hội ngộ với Bạch Phụng!
    Hồ Ly nữ nhân vui vẻ trấn an:
    - Chàng đừng lo! Thiếp đã bủa thiên la địa võng quanh đây nên Đế Quân chẳng thể nào biết được!
    Nàng ta âu yếm nói tiếp:
    - Để kỷ niệm duyên tương ngộ, thiếp xin tặng chàng một bảo vật. Viên ngọc nhỏ này sẽ giúp chàng lột xác, trở lại tuổi thanh xuân!
    Nói xong, nàng vuốt mặt Tư Đồ Sảng, giải tỏa yêu pháp để chàng có thể cử động được. Rồi nàng nhả ra bàn tay một viên ngọc màu xanh Phi Thúy, nhỏ cỡ hạt lạc.
    Hồ Ly Vương Phi nhét ngọc vào miệng Tư Đồ Sảng và bảo chàng nuốt. Lát sau, Tư Đồ Sảng nghe cơ thể nóng ran, da dẻ ngứa ngáy khủng khiếp. Chàng gãi đến đâu thì lớp da nơi ấy bong ra. Hồ Ly Vương Phi giúp chàng lột bỏ vùng lưng thái độ dịu dàng, ân cần.
    Tư Đồ Sảng ngắm nghía làn da mịn màng của tuổi thanh xuân mà lòng ngập tràn cảm kích. Chàng vươn tay kéo Hồ Ly Vương Phi vào lòng và thì thầm:
    - Ơn này kiếp sau ta sẽ báo đền!
    Hồ Ly Vương Phi cười khúc khích:
    - Thiếp là Hồ Ly Tinh, đứng ngoài luân hồi nên không còn kiếp lai sinh! Chỉ có chàng mới phải đầu thai thôi!
    Và nàng liếm mặt chàng, ánh mắt đầy vẻ khát khao. Tư Đồ Sảng hiểu ý hôn lên đôi môi chín mọng của nàng!
    Sau trận ái ân tiễn biệt, Hồ Ly Vương Phi biến mất. Tư Đồ Sảng bâng khuâng như người vừa đánh mất bảo vật, lững thững xuống suối tắm gội. Chàng ăn vội vài miếng thịt dê sấy rối lên đường, mặc dù trời đã về chiều!
    Nỗi vui được trẻ lại đã khiến chàng vô cùng biết ơn Hồ Ly Vương Phi và bất giác sinh lòng yêu mến. Chàng còn thầm cao hứng vì đã cắm sừng cái lão Hồ Ly Đế Quân chết tiệt kia! Lão định cướp vợ của chàng không ngờ lại bị mất trước!
    - o O o -
    Chiều ngày hai mươi bẩy, Tư Đồ Sảng đã có mặt ở chân núi hướng Nam Đại Ba Sơn. Chàng vận công gọi lớn:
    - Tại hạ là Tư Đồ Sảng đã đến theo lệnh đòi, mong Đế Quân cho phép được yết kiến!
    Nhưng chàng gọi mãi mà chẳng thấy ai lên tiếng hoặc xuất hiện, đành tìm chỗ nghỉ ngơi và chờ đợi! Chàng nhẩy lên tảng đá khổng lồ gần đấy, mở túi lương khô ra ăn uống.
    Tư Đồ Sảng đã mang vào chiếc mặt nạ già nua lúc khởi hành, tay đeo găng kín mít, để che giấu lớp da trắng trẻo mịn màng. Chàng sợ lộ mối ân tình ngắn ngủi với Hồ Ly Vương Phi!
    Mờ sáng, Tư Đồ Sảng chợt nghe tiếng cành lá khua động vội ngồi lên xem thử. Chàng than thầm khi phát hiện vòng vây đã khép chặt bởi hơn ba chục quái nhân thân hình khôi vĩ, tay cầm chùy thép, người mặc giáp sắt.
    Chàng ước lượng trọng lượng mỗi cây chùy có gai ấy phải trên hai chục cân, liền rút Giáng Ma Phủ ra. Giờ đây chàng mới hiểu tác dụng lời khuyên của Bạch nhạc phụ, cha Bạch Phụng. Từ Tâm Kiếm không thể nào chịu đựng nổi những cú đập như trời giáng của cây chùy. Và chỉ có Giáng Ma Phủ mới đủ sức phá được lớp giáp sắt trên người bọn quái nhân kia! Tư Đồ Sảng nhẩy xuống đất, đứng dựa tảng đá để khỏi phải đề phòng phía sau.
    Đám quái nhân đã đến nơi, phơi bày những gương mặt xám xịt, sần sùi và ánh mắt vô hồn. Cước bộ của chúng khá mau lẹ chứ không hề chậm chạp dù phải mang giáp nặng.
    Hai tên lướt đến tấn công Tư Đồ Sảng, chùy kình vun vút, khí thế như bão tố, chẳng phải chúng đánh bừa mà có chiêu thức hẳn hoi.
    Tư Đồ Sảng xuất toàn lực đánh chiêu Tảo Vân Tần Nguyệt, chặn đứng đường chùy của hai kẻ địch! Và chàng thọc mũi thép nhọn ở đầu búa vào ngực quái nhân mé hữu. Sau đó thuận thế xoay lưỡi búa chém vào sườn gã mé tả.
    Đòn đâm không đủ mạnh để phá thủng lớp giáp sắt, chỉ đẩy được đối phương văng ra. Nhưng thế chém của Tư Đồ Sảng rất mãnh liệt nên đã cắt phăng áo giáp và chặt gẫy xương gã thứ hai!
    Nạn nhân đau đớn gầm lên những âm thanh man rợ, gượng đứng lên nhưng lại khụy xuống vì vết thương quá nặng. Bọn phía sau hung hăng ào lên thay thế, chẳng hề sợ hãi vì cái chết của đồng đảng. Nhưng Tư Đồ Sảng thần dũng tuyệt luân, kiên cường chống trả và lần lượt đả thương hoặc hạ sát từng tên!
    Hai loại vũ khí nặng chạm nhau chát chúa, làm náo động cả vùng núi non tĩnh mịch. Tư Đồ Sảng nghe cánh tay tê chồn, lòng thầm khâm phục sức lực của bọn quái nhân!
    Cuối cùng, chỉ còn một phần ba số quái nhân được lành lặn, đạp xác đồng đội mà xông vào! Nhưng xa xa có tiếng còi sắt ré lên cao vút, bọn chúng mới chịu bỏ cuộc, chạy đi!
    Tư Đồ Sảng mệt muốn đứt hơi, đứng dựa lưng vào tảng đá mà thở dốc, thầm mừng vì tai họa đã qua! Chàng nhẩy lên đỉnh tảng đá, vớ lấy túi da uống ừng ực vì đang khát khô cả họng!
    Tư Đồ Sảng. vẫn cảnh giác quay mặt ra ngoài nên sớm nhìn thấy ba bóng người đang lướt đến. Chàng ngao ngán nhận ra Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh đi cùng Giả Bạch Hồ và Triển Phi Hoan! Trong tình trạng sức lực mỏi mòn này, chàng không thể nào địch lại kẻ thù!
    Tư Đồ Sảng đứng yên, tranh thủ thời gian nghỉ ngơi cố phục hồi được được phần nào chân khí để thêm sinh cơ!
    Thiên Thư Tú Sĩ cười khanh khách:
    - Té ra ngươi chính là Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng! Lão phu không ngờ ngươi lại còn sống sót khi rơi xuống vực sâu!
    Tư Đồ Sảng lạnh lùng bảo:
    - Ta biết mình hôm nay khó lòng thoát chết, mong lão trả lời ta một câu hỏi!
    Lăng Quân Vĩnh gật gù đắc ý và nói ngay:
    - Chính lão phu là người đã cùng Tần Cốc Lý hạ sát song thân ngươi đấy khỏi cần phải hỏi!
    Tư Đồ Sảng đau đớn gầm lên:
    - Lão thất phu kia! Hãy đền mạng cho cha mẹ ta!
    Lăng Quân Vĩnh cười nhạt:
    - Ngươi cứ việc nhẩy xuống mà đòi nợ, lão phu sẽ trả gấp đôi!
    Nào ngờ, cánh tay hữu của Triển Phi Hoan bỗng vung lên, ánh thép sáng ngời. Gã cắm phập mũi tiểu đao vào giữa lưng Thiên Thư Tú Sĩ rồi lập tức rút đao tấn công Giả Bạch Hồ. Lăng Quân Vĩnh trúng đòn trí mạng toàn thân run lẩy bẩy và ngã quị.
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ tung mình xuống, bủa lưới thép vào đầu Giả Bạch Hồ. Gã đang bị Triển Phi Hoan tấn công ráo riết nên không sao tránh khỏi chiêu Hắc Vân Áp Đỉnh, thân hình bị Giáng Ma Phủ chẻ dọc làm hai mảnh.
    Tư Đồ Sảng bùi ngùi ôm lấy Triển Phi Hoan và nói:
    - Cảm tạ triển Đại ca!
    Họ Triển bỗng xô chàng ra và nghiêm nghị bảo:
    - Nhị đệ! Ta chính là Tư Đồ Phi Hoan, đại ca của ngươi đây! Gia mẫu là Vu Sơn Ma Nữ Triển Thương Thu, từng chung sống với phụ thân của chúng ta!
    Tư Đồ Sảng hiểu ngay rằng gã nói thực, liền lột mặt nạ, quì xuống chống tay thi lễ, run giọng gọi:
    - Đại ca!
    Phi Hoan mỉm cười đôn hậu, đỡ chàng dậy. Hai người nhẩy lên đính tảng đá mà trò chuyện. Phi Hoan buồn rầu kể lại nguồn cơn:
    - “Ngày ấy, Tiên phụ đưa Tiên mẫu trốn khỏi núi Vu Sơn, xuống đò để sang bờ Nam sông Trường Giang. Họ định đến Côn Minh xây tổ uyên ương và tránh sự truy tầm của Mân Xuyên Bá Đao.
    Nào ngờ, khi thuyền vừa đến giữa sông thì mưa to gió lớn nổi lên dữ dội, khiến một chiếc thuyền buôn, đang xuôi giòng, đâm sầm vào đò ngang. Đò bị đắm, hành khách rơi cả xuống dòng sông đang cuồn cuộn sóng dữ và mịt mù mưa bão!
    Do đó, hai người đã lạc nhau. Tiên mẫu sống sót là nhờ vớ được một mảnh ván đò. Bà dạt vào bở, được một ngư ông giúp đỡ. Tiên mẫu hồi phục, quay lại đoạn sông đã xảy ra tai nạn mà dò hỏi thì nghe nói rằng chẳng một ai thoát chết! Cha của chúng ta không biết bơi nên khả năng sống sót rất ít!
    Tiên mẫu tuyệt vọng tìm đến Lô Sơn nương tựa người cậu ruột. Lúc này, bà đã mang thai mà không biết!”
    Phi Hoan sa lệ, áy náy kể tiếp:
    - “Vì ta là thai ngang nên Tiên Mẫu suýt chết khi sanh nở. Kể từ đó bà yếu hắn đi, thường xuyên bệnh hoạn. Nhà Cửu công lại nghèo nên tình cảnh càng bội phần khốn khó.
    Từ năm mười lăm tuổi ta đã phải vào rừng chặt củi để nuôi mẹ, song chỉ đủ ăn chớ không khá nổi! Cuộc sống chật vật, thiếu thốn đã khiến Tiên mẫu qua đời lúc tuổi chưa đến sáu mươi! Trước khi chết, bà dặn ta tìm đến Tư Đồ Gia trang ở Phúc Châu để nhận Tông Môn! Nào ngờ, khi ghé vào xem Đại hội võ lâm ta lại gặp Nhị đệ! Và lúc cùng ngươi về Hàm Dương tảo mộ ta mới biết ngươi là em cùng cha khác mẹ!”
    Gã bật khóc và Tư Đồ Sảng cũng vậy! Lát sau, chàng gạt lệ hỏi:
    - Sao Đại ca biết Lăng Quân Vĩnh là kẻ thù mà bám theo?
    Phi Hoan tư lự đáp:
    - Lúc đầu, ta dự định xâm nhập Kỳ Lân Bang để giết Thập Tự Thần Kiếm Phan Từ Mỹ mà báo thù. Nhưng khi tiếp xúc với lão ta mới biết ai là hung thủ thực sự. Ngu ca liền quay lại Hạo Thiên Cung, hết lòng hầu hạ Thiên Thư Tú Sĩ và xin làm học trò. Nhờ vậy ta được biết lão ấy cũng chính là anh em song sinh với Thanh Y nhân, kẻ đã đẩy ngươi xuống vực thẳm!
    Tư Đồ Sảng kinh ngạc kêu lên:
    - Thực thế sao?
    Phi Hoan gật đầu xác nhận:
    - Anh em Lăng lão quỉ luyện pho Âm Dương Chân Kinh, và may mắn tìm được một nhánh Thiên Niên Hà Thủ Ô, nên công lực rất thâm hậu, có thể thi triển hai loại tuyệt học đối kháng!
    Và gã hỏi lại:
    - À! Thế Nhị đệ đến đây làm gì?
    Tư Đồ Sảng sực nhớ ra vội mang lại mặt nạ già nua rồi kể sơ việc của Bạch Phụng.
    Phi Hoan ngạc nhiên trợn mắt:
    - Té ra có Hồ Ly Tinh thực sao?
    Gã mỉm cười nói tiếp:
    Vậy thì ta không nên có mặt! Ngu ca sẽ về Trường An trước, hẹn gặp nhau ở Vị Thủy đại lữ điếm!
    Nói xong, gã nhẩy xuống đất, lục lọi hai xác chết, vơ vét vàng bạc để làm lộ phí. Bỗng Phi Hoan reo lên:
    - Nhị đệ! Ta tìm thấy quyển Âm Dương chân kinh! Tặng cho ngươi đấy!
    Gã ném quyển sách cũ lên tảng đế cho Tư Đồ Sảng rồi đi ngay!
    Tư Đồ Sảng hiếu kỳ lật ra xem thử, lát sau cất vào trong áo. Chờ đợi mãi, Tư Đồ Sảng mệt mỏi nằm thiếp đi và tỉnh giấc vì cái lưỡi ẩm ướt quen thuộc. Chàng ngồi bật dậy, nhấc con chồn nhỏ lên hỏi dồn:
    - Phải chăng Hồ Ly Đế Quân đã thả nàng ra?
    Chồn không biết nói nên chỉ gật đầu!
    - o O o -
    Hơn nửa tháng sau, Tư Đồ Sảng và Triển Phi Hoan về đến Lạc Dương. Trương Thiên Sứ cũng có mặt sau chuyến thượng kinh nên Tây Môn Giới bắt tay ngay vào việc Đảo Mệnh cho Phi Tuyết, Phi Hồng!
    Trưa mười chín tháng ba, Tư Đồ Sảng đánh xe song mã đến núi Thanh Sơn theo sự chỉ dẫn của Bạch Phụng mà trèo lên sườn phía Tây. Chàng phát hiện một động đá rất lớn và bên trong là hai nữ nhân Bạch Y, trên áo vẽ đầy những nét bùa chú ngoằn ngoèo. Họ ngơ ngẩn nhìn chàng bằng ánh mắt vô hồn.
    Tư Đồ Sảng cố nén nỗi thương tâm, nhặt hai chiếc lọ sành ở góc động, bỏ vào tay nải. Chúng cũng được dán bùa vàng chữ đỏ ngang nắp.
    Sau đó, Tư Đồ Sảng ôm cả hai ái thê lên, đưa xuống núi, đặt vào xe mà chở về Lạc Dương.
    Đàn tế đã dựng sẵn, Đảo Mệnh Linh Kỳ cắm ở một góc. Sau nửa canh giờ tụng niệm, đốt bùa, Linh Kỳ bỗng tung bay phất phới, mặc dù trong sảnh chẳng hề có gió!
    Trương Thiên sư mừng rỡ, mở nắp hai hũ sành. Kỳ diệu thay, Phi Tuyết, Phi Hồng đang quỳ bất động trước Đàn tế bỗng đứng lên, chạy đến ôm Tư Đồ Sảng mà khóc vùi! Cả nhà hân hoan cười vang, hết lời ca ngợi pháp lực của Linh Kỳ!
    Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng đưa Triển Phi Hoan cùng bốn ái thê cùng con chồn trắng về Phúc Châu thăm nội tổ mẫu và các biểu muội. Hôn lễ của chàng sẽ được tổ chức ở đấy sau hai tháng nữa. Tây Môn Giới, Trại Tôn Tử, Liễu Mộ Hào cũng đi theo!
    Đoàn người đến nơi lúc gần giữa tháng năm, bàng hoàng nhận ra cửa trang treo hai chiếc đèn lồng tử khí Phong Đăng, báo hiệu rằng nhà có người chết!
    Tư Đồ Sảng ứa nước mắt, rời lưng ngựa lao vào đại sảnh như cơn lốc. Tư Đồ Lão Thái và mấy người đang mặc tang phục bật khóc. Khi thấy chàng, Lão Thái mếu máo nói:
    - Tạ ơn hoàng thiên đã xui khiến cho Sảng nhi về kịp lúc! Trước khi từ trần Ly nhi cứ nhắc ngươi mãi! Lão thân đã có ý tác hợp cho hai cháu nhưng không ngờ Ly nhi vắn số, chỉ có bệnh vài ngày là tuyệt khí!
    Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, đến ôm áo quan mà khóc và khấn vái:
    - Biểu muội? Kiếp này không duyên nợ thì đành hẹn kiếp lai sinh?
    Chàng tưởng nhớ đến gương mặt kiều diễm của cố nhân mà thương tâm vô hạn! Lẽ nào trời xanh quen thói má hồng đánh ghen, bắt kẻ thanh xuân nhan sắc phải chết non?
    Bỗng thính giác tinh nhậy của chàng phát hiện trong quan tài có tiếng gõ bồm bộp! Chàng vội áp tai vào lớp gỗ nghe cho kỹ và mừng rỡ rú lên:
    - Tam biểu muội đã hồi sinh!
    Cả nhà kinh ngạc, không tin vào tai mình, trố mắt nhìn cảnh Tư Đồ Sảng nhổ bật nấp quan tài, bồng Bạch Ly ra!
    Tiếng reo hò hòa cùng tiếng khóc hân hoan mừng người chết hoàn dương. Bạch Ly cười rạng rỡ, tuột khỏi tay Tư Đồ Sảng, chạy vào sau thay y phục.
    Linh Hối Tử vội sai bọn gia nhân dọn dẹp quan tài và bàn tế vong vì không còn cần đến nữa!
    Đến lượt Tư Đồ Phi Hoan ra mắt bà nội. Gã cũng thấp lùn như Tư Đồ Quát khiến Lão Thái vô cùng xúc động, ôm lấy khóc ròng!
    Kế tiếp, bốn ả cháu dâu nghiêng mình, bái kiến, nhan sắc của họ đã khiến Tư Đỗ Lão Thái hài lòng, tấm tắc khen.
    Sau một lúc chuyện trò, khách được đưa vế phòng ở hậu viện. Tư Đồ Sảng mở tay nải ra thì phát hiện con chồn trắng đã chết! Chàng kinh hoảng bật khóc! Nhưng Bạch Ly đã chạy vào ôm chàng mà liếm mặt!
    Tư Đồ Sảng đã hiểu ra, hôn nàng và nghẹn ngào gọi:
    - Phụng muội!
    Bạch Phụng đưa bàn tay búp măng chận miệng chàng và nghiêm nghị bảo:
    - Tướng công! Bí mật này chỉ riêng đôi ta biết, không được để lộ đến tai người thứ ba. Thiếp vì quá yêu chàng mà liều lĩnh phạm luật trời, lòng luôn nơm nớp lo sợ. Hơn nữa, nếu bốn nàng kia biết thiếp là Hồ Ly tinh thì tình nghĩa chị em chung thuyền sẽ khó mà đậm đà được!
    Tư Đồ Sảng đồng tình:
    - Nàng nói chí phải! Từ nay ta sẽ xem nàng là Ly muội!

  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    CHƯƠNG 18 - HIẾU TỬ TẦM DI CỐT, TRUNG ĐIỀU NGỘ QUÝ NHÂN
    Việc hồi sinh của Bạch Ly không làm chấn động thành Phúc Châu vì ít người biết tin nàng từ trần. Cặp đèn lồng tử khí Phong Đăng mới treo được hơn canh giờ đã gỡ xuống ngay. Nghĩa là Bạch Ly vừa được tẩm liệm xong thì Tư Đồ Sảng về đến.
    Công nhân xưởng mộc đều được cho nghĩ từ chiều hôm trước, lúc Tam Tiểu thư tắt hơi, trong trang chỉ còn lại toàn bộ gia nhân thân tín. Bốn hôm sau, họ quay lại làm việc thì bọn Tư Đồ Sảng đã rời Tư Đồ gia trang. Bạch Ly đi theo Biểu ca về Lạc Dương, nhưng ngược lại, Tư Đồ Phi Hoan phải ở lại Phúc Châu! Tư Đồ Lão Thái quyết chẳng chịu xa đứa cháu đích tôn của mình!
    Cuối trung tuần tháng bẩy, đoàn người về đến Lạc Dương và Tư Đồ Sảng trở lại quyền Minh Chủ Tề Thanh Tuyệt!
    Tích Dịch Quỉ Tây Môn Giới vô cùng cao hứng khi có thêm đứa con dâu thứ năm là Tư Đồ Bạch Ly. Lão vui vẻ nói đùa:
    - Giá như Khuất Thúy Lan không bị gã tiểu tặc Giả Bạch Hồ cưỡng duyên thì lão phu đã có đến sáu nàng dâu rồi!
    Trại Tôn Tử bùi ngùi bảo:
    - Tội nghiệp cho Lan nhi! Lão phu nghe Giả hiền điệt nữ kể rằng con bé ấy đã xuất giá làm đạo cô Thiên Sư Giáo rồi!
    Lăng Phi Tuyết ngấm ngầm thở phào song ngoài mặt giả vờ rộng lượng:
    - Tiếc thực! Nếu Thúy Lan chưa đi tu thì Can gia sẽ được toại nguyện?
    Tư Đồ Sảng nhìn thấu tâm can ái thê nên nói đùa:
    - Lạ thực? Sao đêm qua nàng trách ta là kẻ đa mang?
    Cả nhà phì cười khiến ả răng khểnh thẹn đỏ mặt.
    Cuộc sống gia đình có vẻ ấm êm mặc dù năm nữ nhân chưa thực sự thuận hòa. Trong mỗi người đàn bà tiềm ẩn lòng đố kỵ và ích kỷ lớn lao nên khi chung thuyền họ phải nén lòng để gia sự xuôi chèo mát mái.
    May mắn cho Tư Đồ Sảng là chàng được cả năm nữ nhân yêu thương thực lòng! Hơn nữa, họ đều là bậc nữ trung hào kiệt, không đến nỗi hẹp hòi như bọn hoàng hoa khuê nữ!
    Phần Tư Đồ Sảng thì sao? Chàng chẳng bao giở tự hỏi rằng mình yêu ai nhiều hơn, cố đối xử thật công bằng! Tuy nhiên, trong tận đáy lòng mình, Tư Đồ Sảng luôn biết ơn Bạch Phụng!
    Nàng yêu chàng đến mức dám phế bỏ mấy trăm năm đạo hạnh, chấp nhận cuộc sống hữu hạnh của trần gian mà phải luôn phập phồng sợ hãi lưới trời!
    Bạch Phụng không phải là người nên chẳng biết ghen tuông, một lòng, một dạ giữ gìn hòa khí giữa các nàng để chàng khỏi phải muộn phiền!
    Chính Bạch Phụng đã thuyết phục chàng ân ái với Giả Đan Quỳnh để Đồng Diện Tiên Cơ mất đi mặc cảm của kẻ đến sau và lại theo lối Mao Toại Tự Tiến, nghĩa là cọc tìm trâu!
    Đêm cuối tháng bẩy, Tư Đồ Sảng lần đến khuê phòng của Giả Đan Quỳnh! Ả tỳ nữ Tiểu Thu mở cửa, chúm chím hỏi:
    - Sao Thiếu gia ìại đến đây?
    Tư Đồ Sảng cố nén ngượng ngùng, nghiêm nghị bảo:
    - Thu nhi hãy sang ngủ với Ngũ phu nhân!
    Thu nhi hiểu ý,cười hỏi:
    - Thiếu gia không sợ bốn nàng kia ghen sao?
    Nói xong ả nháy mắt chọc ghẹo chàng rồi rảo bước đi về hướng phòng của Bạch Phụng!
    Tư Đồ Sảng cài then cẩn thận rồi tiến vào trong. Giả Đan Quỳnh đã nghe lời đối đáp của chàng và Tiểu Thu nên vô cùng hổ thẹn, lúng túng mời an tọa.
    Tư Đồ Sảng không ngồi, bước đến ôm Đan Quỳnh vào lòng và nói:
    - Quỳnh muội! Chẳng phải ta là kẻ háo sắc, không đợi được đến ngày đại hỉ. Ta chỉ mong rằng sự hòa hợp xác thân sẽ khiến nàng không còn cảm thấy lẻ loi!
    Đan Quỳnh ứa nước mắt thỏ thẻ:
    - Thiếp đã se dây tự trói nên chẳng đám than thân trách phận! Nay tướng công hạ cố đoái hoài, thiếp muôn vàn cảm kích, xin đem tấm thân hèn mọn hầu hạ chàng!
    Tư Đồ Sảng thở dài nghiêm giọng:
    - Như Can gia đã nói, mối chân tình của nàng có thể làm động lòng trời huống hồ gì ta!
    Dứt lời, chàng cúi xuống hòn lên đôi môi run rẩy của ái thê rồi bồng nàng lên giường!
    Những động tác vuốt ve dịu dàng, nồng thắm của Tư Đồ Sảng đã xóa tan nỗi ngượng ngùngg, bỡ ngỡ của người trinh nữ tuổi ba mươi. Ánh mắt Đan Quỳnh dần dà chất ngất đắm say và nàng hân hoan chìm vào giấc vu sơn.
    Trong cơn mê đắm thú yêu đương, Đan Quỳnh chợt thức ngộ rằng cuộc sống hiện tại đẹp biết bao! Và nàng chẳng phải hối tiếc khi trở thành một trong những người vợ của Tư Đồ Sảng!
    Gần cuối canh hai thì mây tan mưa tạnh, Giả Đan Quỳnh dường như hóa thành người khác! Nàng ôm chặt thân hình cường tráng của trượng phu, chằng muôn xa. Tư Đồ Sảng cũng không định về phòng, vui vẻ cùng nàng trò chuyện. Đột nhiên, Đan Quỳnh ngập ngừng bảo:
    - Tướng công! Nay biết chàng thực dạ yêu thương nên thiếp mới dám thố lộ việc này!
    Tư Đồ Sảng gật đầu:
    - Quỳnh muội cứ nói!
    Đan Quỳnh nghiêm giọng:
    - Thiếp phát hiện Liễu đại ca có dấu hiệu của một kẻ trúng Mê Hồn Đại Pháp! Tiên sư đã từng dạy thiếp rằng nạn nhân của tà pháp này thinh thoảng lại trợn ngược mắt lên, dù không cố ý! Thiếp đã chú tâm quan sát và nhận ra Liễu Mộ Hào lập lại động tác ấy vào đúng giờ Ngọ mỗi ngày nên mới dám khẳng định! Có thể là Liễu Đại ca đã bị khống chế trong lần bị Hạo Thiên Cung bắt giữ!
    Tư Đồ Sảng cau mày suy nghĩ, nhớ lại lời cảnh báo của Bạch Phụng nên hơi lo lắng. Chàng trầm ngâm bảo:
    - Có thể lắm! Thiên Thư Tú Sĩ là kẻ đa tài, kiến văn như biển, cả Âm Dương Chân Kinh còn tìm ra huống hồ bí kíp Mê Hồn Đại Pháp? Để mai ta bàn với nghĩa phụ và Hồ lão xem sao!
    - o O o -
    Đầu canh năm, Tư Đồ Sảng rời phòng Đan Quỳnh đến tìm Tây Môn Giới Tích Dịch Quỉ và Trại Tôn Tử đang uống trà như thường lệ.
    Nghe nghĩa tử kể xong, Tây Môn Giới thở dài đáp:
    - Từ lâu rồi lão phu đã cảm thấy gã họ Liễu có vẻ gì là lạ nhưng không thể xác định dược! Y lại là người thân tín của ngươi nên lão phu chẳng hề nghi ngờ! Nay Quỳnh nhi đã dám đoán chắc như thế thì lão phu sẽ điều tra cho rõ!
    Trại Tôn Tử hắng giọng góp lời:
    - Thiên Thư Tú Sĩ từng ở Thiên Trúc vài năm, có thể là đã học được tà pháp ấy! Người bị trúng tà hoàn toàn không biết những gì đã xảy ra cho mình và sẽ thực hiện mệnh lệnh khi nhận được một tín hiệu nào đó!
    Tây Môn Giới gật đầu tán thành:
    - Đúng vậy! Để lão phu cho gọi Hương nhi đến!
    Tây Môn Tứ đang gác cửa, nhận lệnh đi mời Đại thiếu phu nhân. Chiêu Hương lớn tuổi nhất nên đứng đầu năm tay chèo, Đan Quỳnh thứ hai, Phi Tuyết thứ ba, Phi Hống thứ tư và Bạch Ly đệ ngũ!
    Lát sau, Mạc Chiêu Hương đến, tóc buông dài, mặt đầy vẻ ngái ngủ. Nàng nhìn trượng phu bằng anh mắt giận hờn, trách chàng ham duyên mới mà để mình cô quạnh cả đêm thu!
    Tây Môn Giới nghiêm nghị hỏi:
    - Này Hương nhi? Năm ngoái, khi ngươi và Liễu Mộ Hào bị Hào Thiên Cung bắt giam thì hai người ở chung hay ở riêng?
    Chiêu Hương giật mình sợ hãi đáp:
    - Bẩm Can gia! Quả thực là đối phương nhốt tiểu tức và Liễu sư huynh một phòng! Nhưg tiểu tức xin thề là...!
    Tây Môn Giới xua tay:
    - Chẳng phải là ta nghi ngờ tiết hạnh của con, mà chỉ muốn biết có ai hạ độc thủ khống chế Liễu Mộ Hào hay không thôi! Hương nhi hãy cố nhớ xem có khi nào họ tách rời ngươi và Mộ Hào ra chăng?
    Chiêu Hương nhíu đôi mày liễu hồi tưởng rồi kể:
    - Bẩm Can gia! Trước ngày lên xe để đi Đại Hồ Sơn thì Liễu sư huynh có bị lôi đi thẩm vấn, độ hơn canh giờ! Khi y được đưa trở về thì đã mê man, ngủ vùi đến tối. Tiểu tức có hỏi han nhưng sư huynh không nhớ gì cả!
    Trại Tôn Tử vỗ đùi:
    - Đúng rồi! Đấy chính là hiện tượng sau khi trúng Mê Hồn Đại Pháp! Nạn nhân ngủ một giấc rất dài và sau đó quên hết những gì mới xảy ra!
    Lão vuốt râu nói tiếp:
    - Theo thiển ý của lão phu thì chúng ta cứ nói thực cho Liễu Mộ Hào biết rõ ẩn tình và phong tỏa chân khí của y, đến lúc tìm ra cách giải tỏa Mê Hồn Đại Pháp!
    Mọi người đều tán thành vì không có cách nào tốt hơn!
    Huyết Báo được gọi đến, bàng hoàng nghe chuyện mình trúng tà thuật. Gã bán tín bán nghi, bực bội bảo:
    - Tại hạ thấy tinh thần vẫn minh mẫn, sáng suốt, nhưng nếu chư vị đã khăng khăng như thế thì Liễu mỗ xin tuân mệnh!
    Tư Đồ Sảng bùi ngùi nhìn thẳng vào mắt gã và nói:
    - Chúng ta tình thân như thủ túc, mong sư huynh lượng giải cho tiểu đệ mà chịu thiệt thòi một thời gian!
    Liễu Mộ Hào cảm động đáp:
    - Tuy ta không vui nhưng cũng biết việc này cực kỳ hệ trọng, nên tin là có, để đề phòng hậu quả tày đình! Đối với ngươi, ta sẵn sàng hy sinh cả mạng sống thì có sá gì việc bị gò bó vài ngày!
    Tư Đồ Sảng xiết chặt bàn tay gã để biểu lộ lòng biết ơn rồi thi triển thủ pháp Linh Khu Phất Huyệt, phong tỏa kinh mạch. Kể từ nay, Huyết Báo sẽ không thể dẫn chân khí ra hai tay được nữa!
    - o O o -
    Tất nhiên Huyết Báo vẫn sinh hoạt bình thường, vẫn có thể thi triển khinh công hoặc hưởng lạc nơi kỹ viện. Nhưng giờ đây lúc nào cũng có hai gã Thất Tinh Hình Sứ bám theo họ Liễu như bóng với hình. Thứ nhất là Tây Môn Giới muốn tìm ra kẻ sẽ liên lạc với Mộ Hào để phát tín hiệu khởi động tác dụng của tà pháp. Thứ hai, can thiệp kịp thời khi Mộ Hào xuất thủ, với sức lực cơ bắp gã thừa sức cắm một đao vào 1ưng bất cứ ai!
    Bạch Phụng bó tay, Hắc Ngọc cũng vô tác dụng khiến Tư Đồ Sảng rất áy náy, lo lắng cho Mộ Hào! Gã chính là người bằng hữu duy nhất trên đời!
    Tư Đồ Sảng cố quên mối ưu tư bằng việc luyện võ để chuẩn bị cho Đại hội võ lâm nhằm tiết Trùng Cửu sắp tới! Từ ngày ở Đại Ba Sơn trở về, chàng đã nghiên cứu Âm Dương Chân Kinh rất thường xuyên, thuộc lòng khẩu quyết của ba mươi sáu chiêu Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng!
    Chàng hiểu rằng Thiên Thư Tú Sĩ Lăng Quân Vĩnh và bào huynh của gã là Lăng Quân Thực, tức Thanh Y nhân, sở hữu cả hai công phu Huyền Băng và Lô Hoả chứ không phải chỉ một! Tức là Lăng Quân Thực sẽ hóa thân thành Thiên Thư Tú Sĩ để thượng đài, tranh chức Minh chủ!
    Tây Môn Giới và Trại Tôn Tử cũng tán đồng suy luận ấy của Tư Đồ Sảng vì tin tình báo từ núi Thái Bạch Sơn đưa về đã cho biết Hào Thiên Cung vẫn bình chân như vại, sau cái chết của Cung chủ! Điều này chứng tỏ Lăng Quân Thực đã lên ngôi, thay cho bào đệ!
    Tin thứ hai là việc Hải Hoa Bang bị thủy quân Quảng Đông tiêu diệt, theo lệnh của triều đình! Trước lúc lên đường đi Tần Lĩnh cứu Bạch Phụng, Tư Đồ Sảng đã viết cho Tam Hoàng Tử Chu Tải Hậu một lá thư, nêu rõ mối hiểm họa của xã tắc là Hải Hoa Bang!
    Sau lần tảo trừ Kỳ Lân Bang, tìm ra gian tế Mông Cổ là Bạch Lộc Chân Nhân và Nhị Hoàng Tử Chu Cát, Trung Dũng Bá Tư Đồ Sảng được Vạn Gia Tĩnh cùng Chu Tải Hậu hết lòng tin tưởng. Vì vậy, khi nhận thư của chàng, Chu Tải Hậu đã hành động ngay!
    Tuy nhiên, Tư Đồ Sảng đã không hề đề cập đến Song Tuyệt Môn hoặc Hạo Thiên Cung vì chẳng có bằngchứng xác thực là họ cấu kết với ngoại bang! Chàng là người chính trực, công minh, không vì cái lợi của mình mà hại người!
    Nhưng đối phương lại không hiểu lòng dạ người quân tử, lại dùng thủ đoạn đê tiện để đối phó! Đầu trung tuần tháng tám, một gã hóa tử mang đến Cổ gia trang trong thành Lạc Dương, nơi đặt Tổng đàn tạm thời của võ lâm, một hộp gỗ sơn son, trong chứa bộ xương bàn tay tả và phong thư dán kín. Hắn ta bảo rằng có người nhờ chuyển hộ đến Tề Minh chủ với giá năm lượng bạc!
    Cả nhà lo lắng tụ họp lại vì một linh cảm xấu. Tây Môn Giới đeo Hắc Ngọc trên ngực, không thấy thần vật báo nguy nên yên lòng xé thư đọc lớn!
    “Tư Đồ Sảng công tử nhã giám!
    Trước tiên, lão phu xin chúc mừng sự hồi sinh của công tử! Kỳ tích ấy đáng gọi là vô tiền khoáng hậu! Lão phu là kẻ bần hàn nên chỉ có thể gởi chút lễ mọn là phần xương bàn tay của lệnh tôn! Phần còn lại trong hai bộ hài cốt của lệnh huyên đường thì lão phu đang để ở núi Mộ Hồng, đỉnh cực Tây của rặng Tung Điền Sơn! Nếu công tử không mang vạn lượng vàng đến đấy trước ngày hai mươi tháng tám thì lão phu sẽ ném hai bộ xương hôi thối ấy xuống hầm phân! Điều kiện thứ hai là công tử chỉ được phép độc hành, sai lời thì vĩnh viễn không thấy được hài cốt song thân!
    Thanh Y nhân bái bút!”
    Nghe xong nội dung bức thư, ai nấy đểu tái mặt. Tư Đồ Sảng thì run lẩy bẩy, nước mắt chảy dài trên má. Huyết Báo Liễu Mộ Hào căm phẫn chưởi vang:
    - Con bà nó! Không ngờ trên đời lại có hạng người hèn hạ, đê tiện đến thế!
    Tây Môn Giới cau mày hỏi Trại Tôn Tử:
    - Hồ lão huynh! Chẳng hay địa thế núi Mộ Hồng ra sao?
    Hồ Sĩ Tuệ rầu rĩ đáp:
    - Tung Điền Sơn là rừng núi rất lớn, dài đến mấy trăm dặm. Nằm trên cao nguyên Sơn Tây, gần bờ Bắc Hoàng Hà. Địa hình Tung Điền Sơn nói chung là hiểm tuấn. vách đá dựng ngược, chung quanh là rừng rậm bạt ngàn. Có lẽ núi Mộ Hồng cũng vậy!
    Tư Đồ Sảng gạt lệ, cắn răng nói với Hồ lão:
    - Dẫu biết đi vào đất chết thì tiểu điệt cũng chẳng thể đừng. Nhưng tiểu điệt chỉ sợ không ai mang di cốt của song thân trở về! Mong Hồ bá phụ nghĩ dùm một kế sách lưỡng toàn!
    Trại Tôn Tử gật gù đáp:
    - Lúc nãy lão phu đã dùng phép Lục Nhâm tính toán thử, thấy tượng quẻ rất sáng sủa. Do vậy, Sảng nhi cứ yên tâm lên đường vì sẽ có quí nhân phò trợ! Còn việc thu hồi di cốt trước cũng không khó, chúng ta sẽ dán thông báo khắp các cửa thành Lạc Dương, yêu cầu đối phương giao hài cốt ở bến đò Thiểm Huyện, sau đó ngươi mới đi núi Mộ Hồng. Thanh Y nhân biết ngươi là bậc anh hùng nhất ngôn cửu đỉnh tất sẽ đồng ý. Lão ta cần cái mạng của ngươi chứ không cần hai bộ xương kia!
    Lăng Phi Tuyết sụt sùi nói:
    - Đấy nào phải diệu kế vì chắc gì tướng công đã thoát chết? Biết đâu ngoài Thanh Y nhân còn có cả Hầu Diện Thư Sinh và lũ quái nhân cầm chùy chờ sẵn ở núi Mộ Hồng?
    Bốn nàng kia rùng mình trước viễn cảnh đáng sợ ấy, lệ tuôn như suối.
    Chợt Lăng Phi Hồng lên tiếng:
    - Nhưng chắc gì đây đã là xương tay của Tư Đồ lão gia?
    Tư Đồ Sảng lắc đầu:
    - Ta đã xem rất kỹ rồi. Tiên phụ bị cụt một lóng rưỡi ở ngón út, đối phương không thể biết được mà làm giả?
    Tây Môn Giới nghiêm giọng:
    - Lão phu đã chế tạo xong mười trái Đoạt Hồn Cầu, giết người trong bán kính ba trượng, sẽ giúp Sảng nhi dễ dàng thoát thân dẫu cho phục binh có đông đến mấy! Phần chất độc Hải Xà trên mũi kim thép của Song Tuyệt Môn thì Tuyết nhi cũng đã tìm ra giải dược. Tóm lại, Sảng nhi cứ việc đi phó hội, chẳng phải sợ gì cả!
    Giọng điệu tự tin của lão đã tạm trấn an được cả nhà. Họ mau mắn lấy văn phòng Tứ bảo ra viết những bản thông báo, đặt điều kiện với Thanh Y nhân!
    Sáng hôm sau, quả nhiên thư phúc đáp của Thanh Y nhân đã đến nơi, qua tay một gã hán tử khác. Lão ta đồng ý hoàn trả hài cốt của vợ chồng Tư Đồ Quát ở bờ nam Hoàng Hà, ngay bến đò ngang Thiểm Huyện!
    Tư Đồ Sảng lập tức khăn gói lên đường. Trại Tôn Tử và Thiện Đề Đại sư thống lĩnh trăm kiếm thủ Tổng Đàn đi theo chàng. Họ sẽ hộ tống hài cốt về Lạc Dương.
    Năm nữ nhân nghẹn ngào đưa tiễn tình quân, dặn dò chàng bảo trọng.
    Đúng trưa ngày rằm, đoàn người đến bến đò Thiểm Huyện, ở bờ nam sông Hoàng Hà. Họ lập tức thấy một cỗ xe lừa không xà ích, trên chở hai chiếc quan tài nhỏ loại dành cho trẻ em. Cạnh mỗi chiếc hòm có ghi rõ danh tính Tư Đồ Quát, Võ Xuân Hoa.
    Trại Tôn Tử thận trọng bấm quẻ rồi mới cho Tư Đồ Sảng mở nắp quan tài Chàng run rẩy xem xét hai hàm răng, biết đúng là của song thân mình liền quì xuống lạy và giao lại cho Trại Tôn Tử mang về!
    Thiện Đề Đại sư bỗng rút Giáng Ma Phủ trao cho chàng:
    - Tư Đồ thí chủ hãy đem theo Thần Phủ để đối phó với bọn quái nhân mặc giáp và cầm Thiết chùy? Bần tăng xài tạm đồ giả cũng được!
    Tư Đồ Sảng vòng tay cảm tạ rồi nhận lấy túi da hươu. Đò ngang đã cặp bở Nam, tiếng rao của bọn thuyền phu vang vọng, thúc giục kẻ sang sông!
    Hơn canh giờ sau, con đò già nua mới vượt qua những luồng sóng dữ dội và đục ngầu của Hoàng Hà mà đến bờ Bắc, thuộc địa phận huyện Bình Lục, tỉnh Sơn Tây!
    Thời gian còn dư dật, Tư Đồ Sảng ung dung nghỉ lại ở Bình Lục, sáng hôm sau mới khởi hành đi Nhuế Thành, cách đấy hơn tám chục dặm! Chàng đến nơi lúc chiều buông!
    Nhuế Thành nằm xa bờ Bắc sông Hoàng Hà hơn hai chục dặm và rất gần với rặng Tung Điền Sơn. Vì vị trí này mà Nhuế Thành không lớn, dân cư thưa thớt, nhà cửa đơn sơ.
    Tư Đồ Sảng vào đến giữa thành mới tìm được chỗ tạm gọi là tươm tất. Tuy nghèo nhưng mẫu thân chàng luôn giữ cho nhà cửa ngàn nắp, sạch sẽ và bà đã dạy cho con trai đức tính ấy!
    Tư Đồ Sảng có thể ngủ trong rừng hay trên bãi cỏ song không chịu được mùi hôi hám của những căn phòng luộm thuộm, dơ bẩn.
    Gã tiểu nhị Sơn Hạ lữ điếm dẫn khách lên lầu trên, vào một phòng mà gã gọi là thượng hạng! Tất nhiên là gã phóng đại nhưng may thay khá thoáng mát nhờ hai ô cửa sổ. Từ đây, Tư Đồ Sảng nhìn thấy cảnh hoàng hôn mùa thu tuyệt đẹp trên đỉnh Mộ Hồng. Cả ngọn núi như đỏ rực lên dưới ánh tà dương!
    Tối hôm ấy, vận khí lành công xong, Tư Đồ Sảng nằm khểnh trên giường cạnh cửa sổ hướng Bắc, ngắm vầng trăng mười sáu đang treo lơ lửng trên đầu rặng Tung Điền Sơn. Ánh trăng chênh chếch xuyên qua song cửa, rọi sáng một vạt gian phòng trọ. Tư Đồ Sảng miên man hồi ức về những người thân và trong số đó có cả Hồ Ly Vương Phi Dương Nghê Thường.
    Nàng đắc đạo cách đây bẩy trăm năm, từng được chiêm ngưỡng dung nhan của Dương Quí Phi nên sau này đã chọn dung nhan của một trong những người đàn bà đẹp nhất lịch sử Trung Hoa mà hóa thân. Tên của nàng cũng là họ của Dương Quí Phi ghép với điệu vũ Nghê Thường nổi tiếng thời nhà Đường!
    Tuy chỉ gần gũi nhau trong vài canh giờ mà Tư Đồ Sảng vĩnh viễn không quên được người đàn bà độc nhất vô nhị ấy! Chàng bâng khuâng lẩm bẩm:
    - Dương Nghê Thường! Ta không lấy được nàng thì quả là đáng tiếc!
    Trong tâm hồn mỗi nam nhân đều có chỗ cho không bóng hình xa xăm, mặc dầu họ luôn yêu thương thê thiếp. Tình cảm vốn là cái mà lý trí không sao kiểm soát nổi!
    Tư Đồ Sảng đã giữ kín đoạn ái ân với Hồ Ly Vương Phi, nói thác với mọi người rằng mình trẻ lại nhờ Hắc Ngọc! Chàng làm thế vì thanh danh của Dương Nghê Thường và cũng vì muốn giữ những phút giây ngắn ngủi, tuyệt diệu ấy cho riêng mình! Hơn nữa, chẳng vinh quang gì khi thú nhận rằng mình đã ngủ với vợ người khác, dẫu là Hồ Ly Tinh!
    Tư Đồ Sảng chợt cảm thấy nhớ nhung da diết gương mặt kiều mị và thân hình tuyệt diệu của Dương Nghê Thường. Bất giác giác chàng gọi tên nàng nhiều lần và thiếp đi.
    Lạ thay, Tư Đồ Sảng lại mơ thấy mình đứng trước một động đá lạnh lẽo. Cạnh cửa động có bia đá khắc chìm ba chữ: Tru Tiên Động! Chàng bước vào trong thì nhận ra Hồ Ly Vương Phi Nghê Thường đang bị nhốt trong một chiếc lồng sắt rất lớn. Và nàng lặng lẽ nhìn chàng bằng ánh mắt van xin cầu cứu. Chàng đã chụp lấy song sắt mà bẻ nhưng không thành công! Chàng sờ lưng tìm Giáng Ma Phủ thì không thấy! Lát sau, Dương Nghê Thường gục xuống, hóa thành bộ xương khô! Chàng kinh hãi rú lên đau đớn và thức giấc vì âm thanh não lòng ấy!
    Tư Đồ Sảng ngồi bật dậy, biết là mộng mị nhưng không sao quên được. Chàng thao thức đến sáng và tìm ngay lão chưởng quĩ và hỏi thăm:
    - Này lão trượng! Chẳng hay trên rặng Tung Điền Sơn kia có nơi nào mang tên Tru Tiên Động hay không?
    Tư Đồ Sảng không hóa trang nên lão chưởng quĩ họ Tề vui vẻ nói thế này:
    - Bẩm công tử! Đỉnh núi ở hướng Bắc Nhuế Thành chính là Tru Tiên Sơn, còn Tru Tiên Động thì ngay chân núi hướng Nam! Nhưng đã hai mươi năm nay bọn tiều không đám lên đấy đốn củi nữa vì Tru Tiên Động đột nhiên đầy dẫy những độc xà và có một đàn hổ to như con trâu mộng!
    Tư Đồ Sảng rùng mình hiểu rằng giấc mơ đêm qua rất đáng tin. Có thể là Hồ Ly Đế Quân đã biết việc mình mọc sừng nên đày đọa Dương Nghê Thường ở Tru Tiên Động!
    Núi Mộ Hồng cách đây chỉ nửa ngày đường, nghĩa là chàng còn dư đến ba ngày. Tư Đồ Sảng quyết định lên núi Tru Tiên điều tra hư thực. Chàng hỏi thăm đường đi nước bước rồi rời lữ điếm sau bữa điềm tâm!
    Tư Đồ Sảng gởi ngựa lại, chỉ mang theo Từ Tâm Kiếm và Giáng Ma Phủ, cùng tay nải nhỏ. Hơn khắc sau, chàng đã có mặt ở bìa cánh rừng già chân núi Tru Tiên. Chàng rút gươm cầm sẵn rồi tiến vào con đường mòn ngắn ngủn, dài chưa đến một dặm. Bọn tiều phu quanh vùng chỉ dám hành nghề đến chỗ này mà thôi. Đoạn còn lại đã bị cây cối và bụi rặm phủ đầy, chỉ có thể nhận ra lối cũ nhờ chiều cao khiêm tốn của đám cây hai mươi tuổi. Trong đời sống thực vật, hai chục năm chẳng phải là dài.
    Đi được vài trượng, Tư Đồ Sảng rùng mình phát hiện hàng ngàn con rắn độc đủ màu sắc. Chúng nằm đầy trên thảm rừng hoặc quấn quanh những cành cây thấp ngang mặt.
    Gần chàng nhất là một con rắn hổ mang bành, lớn cỡ bắp tay, và cạnh nó là mười mấy con rắn nhỏ chừng mút đũa. Lũ rắn nhi đồng ấy không hề chú ý đến chàng, cứ tung tăng bò qua bò lại trên thân rắn lớn. Tư Đồ Sảng ngẩn người suy nghĩ và biết chúng là mẹ con! Nghĩa là, trên đường chàng dấn bước vung gươm sẽ có rất nhiều gia đình rắn tan đàn xẻ nghé? Chàng bất nhẫn tra kiếm vào vỏ, tháo Hắc ngọc trên cổ xuống, cầm dây tơ mà xua đuổi bọn độc xà.
    Quả nhiên, chúng sợ hãi bỏ chạy tán loạn, nhường đường cho khách lạ. Nhưng khi chàng đi qua thì lại bị tấn công vào thân sau! Tư Đồ Sảng dồn Khô Mộc Thần Công chịu đựng, cố bước thật nhanh. Được hơn dặm, chàng thoát khỏi khu rừng đầy rắn độc, đến tráng cỏ dưới chân vách Mộ Hồng Sơn.
    Tư Đồ Sảng thở phào, nhẹ nhàng gỡ vài con rắn nhỏ còn dính răng trên y phục, quăng ngược trở lại. Tổng cộng chàng đã bị vài trăm cú mổ của độc xà áo quần hôi tanh, rách như tổ đỉa bởi gai góc và những chiếc ràng móc ngược!
    Tư Đồ Sảng chưa kịp ngắm nhìn kỹ địa thế thì từ trên những tảng đá có bốn con Hổ Vằn nhẩy xuống! Đúng như lời lão chưởng quĩ lữ điếm, lũ cọp này cực kỳ to lớn, chẳng thua gì một con trâu! Có lẽ chúng đã rất già nên bộ lông không còn láng mượt, mầu sắc cũng kém đậm đà!
    Bốn ông kễnh ấy không vội vã tấn công mà đứng thành hàng ngang, oai vệ gầm vang để đe dọa. Tư Đồ Sảng xuất thân chọn núi rừng, hiểu khá rõ tập tính các loài dã thú. Chàng hơi ngạcnhiên khi thấy lũ hổ không tấn công ngay. Thường thì hổ chẳng sống thành bầy và trong trường hợp này sẽ gầm gừ, áp sát gần và lừa thế mà vồ mồi!
    Chàng đã hỏi thăm lão chưởng quĩ biết rằng bầy hổ này chưa bao giờ ra khỏi rừng quấy nhiễu bách tính. Chàng linh cảm chúng chỉ có nhiệm vụ bảo vệ Tru Tiên Động!
    Tư Đồ Sảng liến rút Giáng Ma phủ ra và dõng dạc nói:
    - Này bốn vị lão huynh! Tại hạ là bằng hữu của Hồ Ly Vương Phi Dương Nghê Thường, đến đây để giải cứu nàng chứ không hề có ác ý! Nếu tứ vị cố tình ngăn cản thì đừng trách tại hạ tàn nhẫn!
    Dứt lời, chàng bước đến vung búa chém vào một thân cây, đường kính hơn gang. Chàng đã dồn hết sức lực nên nhát búa mãnh liệt phi thường. Lập tức, cái cây tội nghiệp ấy gẫy lìa, ngã xuống, tàn lá rậm rạp giáng vào ngay bầy hổ, khiến chúng kinh hoàng, cong đuôi bỏ chạy biệt tăm!
    Tư Đồ Sảng hài lòng tiến lên, bàng hoàng nhận ra tận cùng của khoảnh đất trống đầy loạn thạch này là một khe nứt sâu hun hút, tách rời vách đá Mộ Hống Sơn khỏi khu rừng. Và lạ lùng thay, có một cây cầu đá thiên nhiên vắt từ bên này sang chân vách đá? Đầu bên kia thạch kiều là một động khẩu dạng vòm, rộng độ hơn trượng. Mé tả cửa động quả nhiên có dựng bia đá khắc chữ.
    Tư Đồ Sảng không hề được nghe lão điếm chủ, kiêm chưởng quĩ, kể về địa hình này nên rất kinh ngạc. Chàng ước lượng chiều dài thạch kiều độ tám trượng, một khoảng cách không lớn. Nhưng khổ thay, mặt cầu chỉ rộng độ gần hai gang tay và đầy rong rêu. Đương nhiên, hai bên chẳng có thành cầu để bám víu. Và vấn đề quan trọng nhất là liệu nó có chịu đựng nổi trọng lượng của chàng cùng hai thanh vũ khí hay không?
    Tư Đồ Sảng cân nhắc một lúc mới tìm ra lượng sách. Chàng lần lượt ném Từ Tâm Kiếm và Giáng Ma Phủ, sang phần bờ vực trước cửa động cho nhẹ bớt. Sau đó, chàng cởi giầy và thi triển công phu Bích Hổ Du Tường, dồn hết lực vô lòng bàn tay, bàn chân, rồi bò lên cầu. Tư thế này sẽ phân tách sức nặng cơ thể chàng thành bốn điểm.
    Bỗng sương mù dưới đáy vực bốc lên ngùn ngụt và gió thổi cuồng loạn như muốn giật chàng văng khỏi cầu. Nhưng Tư Đồ Sảng đang nằm nên ít bị ảnh hường, cắn răng bám chặt mặt đá mà truờn đi!
    Cuối cùng, chàng đã sang được bờ kia, thu nhặt vũ khỉ mà tiến vào Tru Tiên Động. Đi được vài trượng, Tư Đồ Sảng đến phần hang chính rộng rãi, sáng sủa. Vâ trên nền hang là một chiếc lồng chim khổng lồ, sơn son thếp vàng rất đẹp. Nan lồng lớn bằng cổ tay trẻ sơ sinh và tỏa hào quang ngũ sắc! trong lồng, Dương Nghê Thường nằm rũ rượi, lông đen đã mọc đầy cơ thể, chỉ trừ gương mặt!
    Tư Đồ Sảng không hề ghê sợ, nghiến răng vung Giáng Ma Phủ phá chiếc lồng yêu thuật. Chỉ sau nhát búa đầu tiên, chiếc lồng đã biến mất như chưa hề tồn tại?
    Tư Đồ Sảng mừng rỡ ngồi xuống đỡ Dương Nghê Thường lên và đút viên Hắc Ngọc vào miệng nàng. Nửa khắc sau nạn nhân mở mắt, thấy mặt chàng liền nhả ngọc, bật khóc!
    - Tướng công chỉ đến chậm một ngày là thiếp đã vong mạng!
    Chợt Nghê Thường phát hiện thân thể mình đầy lông chồn, hổ thẹn thỏ thẻ:
    - Chàng thấy thiếp xấu xí thế này mà không ghê tởm sao?
    Tư Đỗ Sảng không đáp, cúi xuống hôn nàng để bày tỏ tâm tình. Nghê Thường ngập ngừng nói:
    - Tướng công! Hồ Ly Đế Quân mới nạp một thứ phi nhan sắc tuyệt trần, bắt thiếp phải nhường ngôi chánh cung. Thiếp chẳng chịu, bỏ về đây ẩn dật. Nào ngờ, lão thất phu ấy độc ác vô song, đến động này dùng Tỏa Yêu Lung giam hãm và hủy hoại đạo hạnh của thiếp! Xin tướng công ban cho thiếp viên Nội đan Mãng xà Vương để hồi phục tu vi!
    Tư Đồ Sảng mĩm cười gật đầu, giật đứt giây tơ trao viên Hắc Ngọc cho nàng. Sức khỏe của nghĩa phụ và Trại Tôn Tử đã có những bí phương của Lăng Phi Tuyết. Hơn nữa, Nghê Thường đang rất cần Hắc Ngọc.
    Nửa khắc sau, lông đen biến mất, da dẻ Nghê Thường trắng trẻo, mịn màng như cũ. Nàng vô cùng cảm kích nhưng chỉ biểu lộ bằng ánh mắt chan chứa ân tình.

  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Hai người ra thác nước nhỏ mé hữu cửa động tắm gội. Tiếng cười trong vắt của nữ nhân làm xao động cả vừng núi u tịch! Nàng rất vui khi biết Tư Đồ Sảng đã không giết hại bất cứ sinh vật nào khi tiến vào đây. Chính lòng từ bi của chàng đã phát huy pháp lực của Giáng Ma Phủ mà phá tan Tỏa Yêu Lung!
    Tắm xong, hai người ngồi trên thạch bàn gần chân thác nước chuyện trò Nghê Thường nằm gọn trong lòng tình quân, kể lể:
    - Đêm qua, thiếp đột nhiên nghe tâm cơ máy động liền dùng chút thần thông còn sót lại mà xem xét. Biết tướng công ở rất gần và đang nhung nhớ, thiếp vui mừng khôn xiết, tập trung sức tàn để tạo sự thần giao cách cảm. Chính vì chàng thực tâm yêu thương thiếp nên hiện tượng ấy mới xẩy ra được!
    Tư Đồ Sảng gật đầu, bùi ngùi bảo:
    - Có lẽ vì đôi ta mãi mãi không thể sum vầy nên hình bóng nàng luôn đẹp diệu kỳ và khiến lòng ta tiếc nhớ khôn nguôi!
    Nghê Thường sa lệ:
    - Chẳng phải thiếp không có gan như Bạch Phụng mà vì sợ cơn giận lôi đình của Hồ Ly Đế Quân trút xuống đầu chàng!
    Bỗng nàng đỏ mặt thì thầm:
    - Thiếp muốn có một đứa con mang dòng máu của chàng!
    - o O o -
    Trưa hai mươi tháng tám, Tư Đồ Sảng cùng Nghê Thường tiến về phía núi Mộ Hồng. Nhưng bọn trinh sát của phe địch chỉ thấy có một mình chàng.
    Quả đúng như dự đoán của Lăng Phi Tuyết, cả Thanh Y nhân Lăng Quân Thực và Hầu Diện Thư Sinh Dư Nam Nghiệp đều hiện diện. Ngoài ra, còn có hàng trăm cao thủ Hạo Thiên Cung và Song Tuyệt Môn.
    Lăng Quân Thực đã lộ diện, dung mạo giống hệt Thiên Thư Tú Sĩ. Thấy con mồi lột vào vòng vây, lão đắc ý cười khanh khách:
    - Lão phu tưởng ngươi sợ chết mà thất tín rồi chứ?
    Tư Đồ Sảng bình thản hỏi lại:
    - Nhị vị định đơn đấu hay dùng cách ỷ chúng hiếp cô?
    Hầu Diện Thư Sinh danh bất hư truyền, mật mũi chẳng khác gì Tôn Ngộ Không, chỉ thiếu mớ lông vàng! Lão căm hận chàng đã sát hại đồ đệ của mình nên nóng nẩy nạt lớn:
    - Tư Đồ tiểu cẩu! Lão phu chẳng cần ai liên thủ cũng có thể phân thây ngươi làm trăm mảnh!
    Tư Đồ Sảng lạnh lủng đáp:
    - Xin mời!
    Nói xong, chàng rút Từ Tâm Kiếm dựng trước ngực chờ đợi. Hầu Diện Thư Sinh hơi chột dạ trước phong thái trầm ổn như núi của đối phương, dồn toàn lực vào chiêu kiếm cuối cùng trong pho Bạch Long Kiếm Pháp, tuyệt học đã khiến lão lừng danh Thiểm Bắc.
    Thanh bảo kiếm mầu trắng bạc của Dư Nam Nghiệp loang nhanh, tạo thành màn kiếm ảnh dầy đặc và thập thò những chiếc móng dài tựa vuốt rồng! Lão nương theo kiếm quang ấy mà bay vút về phía đối phương. Đấy chính là thuật Ngự kiếm!
    Tư Đồ Sảng cũng đã động thân cùng lúc với kẻ địch, đánh chiêu Trang Tử Sổ Ngư (Trang Tử Đếm Cá). Chiêu này gồm ba trăm sáu mươi thức đâm, chỉ công mà không thủ, chuyên đề phá những đòn Ngự Kiếm.
    Song phương chạm mặt, mũi kiếm Từ Tâm điểm như mưa rào vào màn kiếm ảnh của đối phương, lăm le uy hiếp những tử huyệt từ mặt đến bụng họ Dư!
    Hầu Diện Thư Sinh nghe cánh tay tê chốn, lòng thầm kinh hãi trước sức lực đối thủ. Và đường gươm nhanh như cướp giật của Tư Đồ Sảng đã đưa lão vào thế hạ phong.
    Dư Nam Nghiệp không còn dám so tài kiếm thuật, vội thi triển tuyệt kỹ thứ hai. Bàn tay tả của lão bất ngờ lắc nhẹ và hàng trăm cây độc châm bay trùm kín thân dưới của Tư Đồ Sảng. Đòn này vô cùng độc địa. vì chẳng ai mang giáp bảo vệ hạ bàn bao giờ.
    Khoảng cách rất gần và công lực Hầu Diện Thư Sinh thì thâm hậu nên Độc châm bay rất nhanh và mạnh mẽ. Chúng cắm chi chít trên hai chân nạn nhân.
    Hầu Diện Thư Sinh đắc ý đánh trọn chiêu kiếm, tin rằng trong khoảnh khắc nữa đây tiểu tử đáng ghét kia sẽ bỏ mạng. Nào ngờ, đường gươm của Tư Đồ Sảng không hề rối loạn, vẫn công phá như vũ bão. Và mũi Từ Tâm Kiếm đã lặng lẽ xuyên qua chỗ sơ hở, thọc vào ngực trái đối phương!
    Dư Nam Nghiệp bị đâm trúng tim, gục xuống chết ngay. Bọn đệ tử Song Tuyệt Môn giận dữ gầm vang, lao vào tấn công kẻ đã giết Môn chủ của mình.
    Lăng Quân Thực cũng chột dạ trước bản lãnh siêu quần bạt tụy của Tư Đồ Sảng, quyết định giáp công, giết cho bằng được. Lão phất tay ra hiệu cho bọn kiếm thủ Hạo Thiên Cung vây chặt rồi xông vào tham chiến.
    Lăng Quân Thực tung mình lên không trung, bủa bốn đạo chưởng kình xanh biếc, nóng tựa lửa lò rèn, xuống đầu Tư Đồ Sảng. Đây là chiêu Lôi Đình Tứ Nộ trong pho Ngưng Huyết Huyền Băng Chưởng, chỉ một nhắm vào mục tiêu còn ba chưởng kia đánh chặn.
    Tư Đồ Sảng đã thuộc làu khẩu quyết nên biết trước lộ số, dễ dàng đảo bộ né tránh. Họ Lăng tức điên người, vừa hạ thân xuống đất đã tiếp tục tấn công ngay, chẳng kể gì đến sinh mạng thủ hạ Song Tuyệt Môn. Bọn này đang lăn xả vào mà đâm chém Tư Đồ Sảng, làm chàng bị vướng víu.
    Chàng trai của chúng ta chỉ còn cách tung mình rời xa vị trí cũ để tránh mặt Lăng Quân Thực. Nhưng lão ta không buông tha, bám theo sát nút. Thực ra, Tư Đồ Sảng có thể gồng mình chịu một chưởng mà giết đối thủ, song sau đó, chàng sẽ chết dưới tay những kẻ đang vây quanh.
    Trong lúc Tư Đồ Sảng khốn đốn, bỗng nhiên trời tối sầm lại, cát bụi mịt mù. Và chàng phát hiện có người nắm tay mình kéo đi. Thì ra Dương NghêThường đã thi triển yêu pháp để cứu chàng! Nàng không muốn chàng sử dụng Đoạt Hồn Cầu mà gây thêm sát nghiệp, tổn hại đến âm đức.
    Hai người chạy như giông gió, về đến Tru Tiên Động. Đầu tóc, y phục Tư Đồ Sảng đầy bụi đất nên chàng nhảy xuống hồ nước dưới chân thác tắm gội ngay. Dương Nghê Thường cũng vậy.
    Thân hình tuyệt mỹ như pho tượng ngọc của nàng luôn khiến Tư Đồ Sảng đắm say chiêm ngưỡng, dù đã rất quen thuộc. Nghê Thường bắt gặp ánh mắt nồng thắm của chàng nên cười tình tứ rỗi bước đến.
    Ba ngày sau, Tư Đồ Sảng vượt Hoàng Hà, đến bờ Nam thì gặp người thân. Tây Môn Giới nóng ruột nên đã kéo quân đi núi Mộ Hồng. Năm ái thê của chàng cũng có mặt.
    Thấy Tư Đồ Sảng mọi người mừng đến ứa lệ dẫu miệng cười khanh khách. Họ tíu tít hỏi han nhưng chàng không dám thú thực chỉ nói thác rằng đã nuốt Hắc Ngọc nên có sức phá vây thoát được, sau khi hạ sát Hầu Diện Thư Sinh.
    Trại Tôn Tử lặng lẽ bấm độn rồi mỉm cười tinh quái:
    - Lạ thực! Sao lão phu lại ngửi thấy mùi son phấn nhỉ?
    Tư Đồ Sảng thầm khâm phục tài thần cơ diệu toán của lão song cứ tảng lờ nói lảng sang chuyện khác!
    - o O o -
    Sáng mùng chín tháng chín, năm Gia Tĩnh thứ ba mươi lăm, Đại hội võ lâm lại được cử hành! Do lời hứa của Hí Nhân cư sĩ Cổ Quí Sinh nên số lượng hào kiệt đến xem đại hội đông gấp rưỡi năm ngoái. Quần hùng chẳng hề thất vọng vì hơn ngàn chiếc bàn bát tiên đã nằm la liệt khắp bình đài. Những vò rượu mười cân chễm chệ giữa bàn và mùi xào nấu từ khu bếp nhộn nhịp ở mé tây làm xốn xang tỳ vị mọi người!
    Bẩy tửu lâu lớn nhất thành Lạc Dương đã phối hợp lại để phục vụ cho khoảng tám ngàn khách. Và khi Đàm Vân Từ thượng đài, nói lời khai mạc, thì sáu món ăn nóng sốt, thơm tho, đã nằm đủ trên mỗi bàn!
    Đàm Vân Tử nói xong, Cổ Tài Thần bước ra vui vẻ nói:
    - Xin chư vị anh hùng cứ việc no say! Vị nào không say là phụ lòng lão phu đấy!
    Quần hùng khoan khoái hô to theo kẻ xướng lệnh:
    - Không say không về! Cảm tạ Cổ cư sĩ!
    Thủ tục đại hội cũng y như lần trước, chỉ có thêm phần từ nhiệm của quyền Minh chủ võ lâm Tề Thanh Tuyệt.
    Họ Tề lên đài, trao lại cờ và ấn kiếm cho Giám Tuệ thiền sư. Sau đó, ông ta vuốt mặt, hóa thành một chàng trai anh tuấn khiến quần hùng kinh ngạc reo lên:
    - Thần Phủ Lang Quân!
    Tư Đồ Sảng vòng tay thi lễ rồi điềm đạm nói:
    - Tại hạ may mắn thoát khỏi cái chết dưới vực thẳm Đại Hồ Sơn nhưng vì e ngại tà ma hãm hại gia quyến nên đành giả làm Tề Thanh Tuyệt. Mong chư vị thể tất cho!
    Quần hùng hoan hô như sấm dậy, hết lòng ngường mộ chàng trai họ Tư Đồ!
    Cổ Quí Sinh hãnh diện cao giọng:
    - Kính cáo đồng đạo! Y chính là nghĩa tử của lão phu đấy!
    Tất nhiên ai nấy ngoác họng chúc mừng lão, ồn ào như chợ vỡ!
    Năm nay, số ứng viên đăng ký thượng đài là bốn mươi, gồm cả Tư Đồ Sảng và Cung chủ Hạo Thiên Cung. Đương nhiên, hai đại cao thủ này đánh trận khai mạc!
    Lăng Quân Thực giống đứa em song sinh của mình như hai giọt nước nên quần hùng không thể phân biệt được. Hôm nay lão không sử dụng kiếm vì có lẽ chẳng luyện qua Hoàng Diệp Kiếm Pháp. Hoặc giả lão biết rằng tài đánh kiếm của mình thua xa đối thủ.
    Lăng Quân Thực thận trong đón chiêu kiếm đầu tiên của Tư Đồ Sảng bằng sáu đạo chưởng ảnh xanh lè, tấn công thượng bàn đối thủ. Nhưng sau đó, lão ta lập tức biến chiêu vỗ liền hai chưởng vào hạ bàn.
    Tức là, Lăng Quân Thực đã biết việc Tư Đồ Sảng lấy được Âm Dương Chân Kinh trong người Lăng Quân Vĩnh, nên dùng chiến thuật biến hóa thần tốc và ra đòn vũ bão để chàng không đoán được thế thức.
    Trong khoảnh khắc, Hạo Thiên Cung chủ đã đánh ra vài chục chưởng, bủa vây Tư Đồ Sảng trong lưới lửa, khiến quần hùng phải khiếp đảm. Những đạo chưởng kình từ trên cao giáng xuống, hụt mục tiêu, đã làm rung chuyển lôi đài và đốt cháy lớp gỗ lót sàn!
    Nhưng trong cảnh hiểm nghèo ấy, mọi người mới thấu hết tài nghệ tuyệt luân của Tư Đồ Sảng. Chàng chập chờn tựa bóng u linh, hoán vị nhanh đến mức khó tin, chớp mắt đã thoát khỏi tầm khống chế của lưới chưởng. Chàng không lùi xa mà chiếm lĩnh phương vị tả hữu của Lăng Quân Thực và phản kích bằng những đường gươm lợi hại.
    Lúc ấy, đối phương chi còn cách thoái bộ thật mau lẹ để tránh đòn! Thân pháp kỳ ảo và tài đánh kiếm siêu quần của Tư Đồ Sảng đã khiến cử tọa phục lăn, xuýt xoa tán thường! Đại đa số quần hùng cổ vũ cho Tư Đố Sảng vì chàng còn trẻ, tu vi ít ỏi.
    Gần ngàn chiêu đã trôi qua mà trận đấu vẫn chưa phân thắng bại nhưng Hạo Thiên Cung chủ đã tỏ ra kém sức. Khuyết điểm của Phách Không Chưởng lực đã bộc lộ! Lăng Quân Thực sắp cạn kiệt chân nguyên sau khi tung ra mấy trăm đạo chưởng phong.
    Trong lúc ấy, nội lực của Tư Đồ Sảng vẫn còn kha khá. Chàng không tốn sức nhiều cho việc thi triển khinh công vì đã được người tình bí mật là Dương Nghê Thường tặng hai viên ngọc Hồ Ly. Nàng đã rạch bắp chân chàng, nhét thần vật vào và khâu lại. Nghê Thường vừa làm vừa âu yếm nói rằng:
    - Từ nay, cước lực của chàng sẽ nhanh gấp đôi vó ngựa, chẳng ai đuổi kịp. Có như thế thiếp mới yên tâm!
    Hôm nay, Tư Đồ Sảng mới hiểu rõ giá trị của quà tặng, lòng rất tri ân Nghê Thường. Biết đã đến lúc trừ họa cho võ lâm và xã tắc, Tư Đồ Sảng xuất chiêu Thượng Thiện Nhược Thủy, trực diện tấn công Lăng Quân Thực.
    Họ Lăng cũng đã quyết đổi đòn nên không né tránh, chờ đối phương đến rất sát mới vung song thủ giáng vào ngực và bụng dưới. Với khoảng cách già nửa trượng này thì Tư Đồ Sảng không thể nào tránh kịp, trong khi lão ta vẫn còn ở xa mũi kiếm của chàng hai gang tay! Nhưng Tư Đồ Sảng ập vào nhanh hơn sự tính toán của Lăng Quân Thực. Nghĩa là, sau khi chưởng kình chạm người chàng thì mũi Từ Tâm Kiếm cũng vươn đến yết hầu họ Lăng.
    Tư Đồ Sảng đã dùng tả thủ che chắn huyệt Khí Hải khỏi đạo chưởng phong thứ nhất và nghiêng người để giảm bớt tác hại của đạo thứ hai. Chàng nhanh hơn Lăng Quân Thực chỉ một sát na và đâm thủng cổ họng lão ta, trước khi bị đánh văng!
    Y phục Tư Đồ Sảng bốc cháy và chàng lăn lông lốc trên sàn đài, còn Hào Thiên Cung chủ rú lên ằng ặc, ôm cổ mà gục ngã.
    Ban giám đài và quần hùng vô cùng kinh hoàng trước kết quả Đồng Qui Ư Tận này, nhốn nháo cả lên. Năm nữ nhân thì gào thét, nhất tề nhẩy lên lôi đài xem xét thi thể trượng phu.
    Nhưng người nhanh chân nhất là Hí Nhân cư sĩ. Lão đã lao vút từ Ban giám khảo, mang theo khăn trải bàn, trùm lấy nghĩa tử mà dập lửa. Mặt lão vẫn hồng hào vì mang mặt nạ nhưng nước mắt tuôn như suối!
    Tây Môn Giới giật khăn bàn ra thì năm nàng kia lên đến. Họ quì chung quanh, khóc lóc lay gọi! Tiếng khóc bi ai thảm thiết ấy đã làm bẩy ngàn năm trăm hào kiệt mủi lòng, cay mắt.
    Bỗng họ ngừng khóc và rú lên:
    - Tướng công còn sống!
    Thì ra Tư Đồ Sảng đã mở mắt, ngồi lên và lồm cồm đứng dậy. Chàng tát yêu Lăng Phi Tuyết rồi hồi:
    - Thuốc trị phỏng đâu sao nàng không lấy đem ra?
    Phi Tuyết luống cuống mở tay nải, lấy một hũ cao to tướng, thoa lên lòng bàn tay tả và lồng ngực cháy xém của phu quân.
    Quần hùng lại được một phen hoan hô quá cỡ! Và ai đó buột miệng:
    - Tư Đồ Minh chủ! Tư Đồ Minh chủ!
    Thế là hơn nửa vạn người đồng tình hô theo vì hiểu rằng chẳng còn ai xứng đáng hơn!
    Tuy nhiên, Đàm Vân Tử vẫn giữ qui củ dõng dạc hỏi lại quần hùng:
    - Ban giám khảo muốn biết trong số ba mươi tám ứng viên còn lại có ai muốn thượng đài nữa hay không?
    Những người ấy lần lượt lên tiếng xin rút tên. Đàm Vân Tử liền công bố Thần Phủ Lang Quân Tư Đồ Sảng trở thành Minh chủ võ lâm.
    Lúc này, chàng đã được thê thiếp băng bó và thay y phục mới, chậm rãi trở lên lôi đài nhận cờ và ấn kiếm.
    - o O o -
    Sau đại hội, tinh thần của Huyết Báo Liễu Mộ Hào sa sút nặng nề. Gã gần như phát cuồng, suốt ngày trợn mắt và lẩm bẩm những câu vô nghĩa.
    Té ra, do Lăng Quân Vĩnh đã chết nên không còn ai phát tín hiệu hành động, giải thoát ức chế cho họ Liễu! Và cuối cùng, tà pháp đã hủy hoại lý trí của gã.
    Tư Đồ Sảng đau lòng khôn xiết, nhờ Cái Bang loan báo khắp thiên hạ, hứa thưởng ngàn lượng vàng cho ai hóa giải được Mê Hồn Đại Pháp. Đã có vài chục người đến xin chữa trị nhưng đều thất bại.
    Bốn tháng sau, Mộ Hào chỉ còn da bọc xương vì không chịu ăn và chỉ đòi rượu! Thảm trạng của gã khiến cả nhà rầu rĩ, thương tâm vô hạn.
    Cuối tháng giêng, đột nhiên vợ chồng Đàm Châu Đại hiệp Khuất Kỳ, cùng ái nữ là Khuất Thúy Lan, đến Tổng Đàn Võ lâm trên núi Hương Sơn. Lúc này, Tư Đồ Sảng và người thân đã dọn về đó cư trú. Nếu không vì bệnh tình của Huyết Báo thì hôn lễ của chàng cùng năm nữ nhân đã cử hành hồi tháng mười một!
    Bọn Mạc Chiêu Hương ghen đến nổ đom đóm mắt vì giờ đây Thúy Lan xinh đẹp phi thường. Họ rình rập sau rèm để nghe ngóng câu chuyện của khách với Trại Tôn Tử và cha con Tư Đồ Sảng.
    Lăng Phi Tuyết nghiến răng bảo:
    - Con tiện tỳ họ Khuất kia quả là mặt dầy mày dạn, đã thất thân với Giả Bạch Hồ mà còn dám mơ tưởng đến tướng công nhà ta!
    Giả Đan Quỳnh lắc đầu:
    - Tam muội nói sai rồi! Ngày ấy Giả Bạch Hồ bắt đầu luyện Âm Dương Chân Khí nên kiêng nữ sắc. Tuy gã cưỡng duyên Thúy Lan song chẳng hề đụng đến!
    Phi Hồng cười nhạt:
    - Tiểu muội không tin! Nếu Thúy Lan còn con gái thì sao mông ngực lại nở nang, tròn trịa thế kia? Trông mà ngứa cả mắt!
    Đan Quỳnh phân vân:
    - Ngu tỷ cũng chẳng rõ? Trước đây Thúy Lan lép kẹp, đâu có hấp dẫn dường này?
    Chiêu Hương hậm hực dèm pha:
    - Chắc gần đây ả dan díu với gã nào nên cơ thể mới phổng phao ra như thế!
    Bạch Ly thì thái độ nhu mì hơn. Nàng cười bảo:
    - Chắc gì nhà họ Khuất đến đây vì hôn sự mà chư vị vội ghen? Phải nghe xong mới biết được?
    Bốn ả kia xấu hổ im tiếng. Và họ tái mặt khi nghe Khuất Kỳ nói:
    - Bẩm Cổ lão huynh! Khuyển nữ Thúy Lan có thể hóa giải Mê Hồn Đại Pháp mà cứu Liễu Mộ Hào! Nhưng sau đó, xin lão huynh thương tình, nhận khuyển nữ làm dâu!
    Tây Môn Giới không thích bị ai uy hiếp bèn cười nhạt:
    - Việc này chẳng thuộc quyền quyết định của lão phu mà do Sảng nhi và thê thiếp! Tôn giá cứ việc hỏi họ!
    Khuất phu nhân bỗng vái dài, khóc nói:
    - Mong lão huynh rộng lòng từ bi mà chấp thuận cho! Lan nhi lâm bệnh trầm kha, đã tắt hơi song lại hồi sinh! Sau đó nó một mực đòi lấy cho được Tư Đồ Minh chủ, nếu không sẽ tự sát. Vì vậy chỗ nên vợ chồng lão thân mới muối mặt đến đây khẩn cầu!
    Tư Đồ Sảng rúng động, nhìn vào mặt Thúy Lan và phát hiện nàng đang le lưỡi, nháy mắt với mình? Chàng bồi hồi, choáng váng bởi một viễn cảnh diệu kỳ song vẫn chưa dám tin là thực. Nhưng ngay sau đó, chàng nhận ra bàn chân ai ở dưới gầm bàn, đang cọ vào bắp chân mình, chỗ mà Dương Nghê Thường đã nhét ngọc Hồ Ly. Xong chân tả thì đến vị trí trên chân hữu. Tư Đố Sảng không còn nghi ngờ gì nữa, cố nén nỗi hân hoan ngút trời, từ tốn nói:
    - Khuất Tiểu thư đã có lòng yêu thương, tại hạ vô cùng vinh hạnh và xin tuân mệnh!
    Rồi chàng quay lại gọi:
    - Năm nàng hãy ra đây!
    Bọn Chiêu Hương thẹn thùng bước ra, khép nép thi lễ với khách.
    Tư Đồ Sảng nghiêm nghị bảo họ:
    - Chắc nãy giờ các nàng đã nghe rõ sự tình, hiện có thể vì sinh mạng của Liễu sư huynh mà chấp thuận Khuất Tiểu thư hay không?
    Cả năm líu ríu gật đầu. Phi Tuyết là người cương trực, bực bội nói ngay:
    - Bọn thiếp rất sẵn sàng thu nạp Thúy Lan nhưng chắc gì nàng ta đã cứu được Liễu sư huynh?
    Nàng là đệ tử của Y Độc Thần Quân mà phải bó tay nên ất ấm ức!
    Tây Môn Giới gật gù tán thành:
    - Đúng vậy! Chữa bệnh trước rồi hãy bàn đến hôn sự!
    Ông đứng lên, mời khách đi theo mình xuống hậu viện, đến phòng riêng của Huyết Báo. Bầu bạn với bệnh nhân là ba gã trong Thất Tinh Hình Sứ.
    Thúy Lan ung dung bảo họ:
    - Chư vị hãy ở cả bên ngoài, để một mình tiểu nữ với Mộ Hào!
    Ba gã Hình Sứ trố mắt trước người đẹp thứ sáu, lủi thủi rời phòng. Thúy Lan khép cửa lại và cài then cẩn thận.
    Chưa đầy nứa khắc sau nàng mở cửa bước ra, theo sau là Liễu Mộ Hào!
    Tuy hình dung tiều tụy nhưng mặt gã tươi tỉnh, ánh mắt không còn lạc thần nữa!
    Mộ Hào ngượng nghịu vòng tay thi lễ và nói:
    - Tại hạ đã thoát hiểm! Cảm tạ mọi người đã khổ công lo lắng bấy lâu!
    Rồi gã bảo Tư Đồ Sảng:
    - Hiền đệ có thể giải huyệt cho ta được rồi đấy!
    Cả nhà hân hoan lại chúc mừng họ Liễu khỏi bệnh!
    Cuối tháng ba, hôn lễ của Tân Minh chủ võ lâm và sáu nữ nhân được cử hành ở Hương Sơn. Khách đông đến vài ngàn, vui say mới được về.
    Đêm động phòng, Thúy Lan thủ thỉ:
    - Tướng công chớ lo ngại Đế Quân! Thiếp nhờ viên ngọc mãng xà ngàn năm nên đã giết chết lão ta rồi!
    Tư Đồ Sảng phì cười, hôn lên má nàng và nói:
    - Chỉ cần lấy được nàng, dẫu tám lão Hố Ly Đế Quân ta cũng chẳng sợ! Ta chỉ ngán máu ghen của các nàng mà thôi.

Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234

Chủ Đề Tương Tự

  1. Hắc Bạch Hương Hồ Ký
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 53
    Bài Viết Cuối: 04-16-2014, 08:09 PM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2013, 06:03 PM
  3. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-30-2013, 02:27 AM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 09-04-2013, 06:04 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •