Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Đời người như một cành hoa mà Ái-Tình là một giọt mật.
Victor Hugo
Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối
Results 1 to 10 of 26

Chủ Đề: Ngày Mai

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ngày Mai

    Ngày Mai

    Tác giả :Guillaume Musso

    Người dịch: Phúc Chi Nhi







    MỤC LỤC [−]



    Phần một: Tình cờ gặp gỡ

    1. Giữa những bóng ma
    2. Miss Lovenstein
    3. Thông điệp
    4. Strangers in the night 1
    5. Giữa hai người họ
    6. Gặp gỡ tình cờ


    Phần hai: Những đường song song

    7. Những đường song song
    8. Phục sinh
    9. Những lữ khách của thời gian


    Phần ba: Những vẻ bề ngoài

    10. Bàn tay đưa nôi
    11. Một kiểu chiến tranh
    12. The other woman
    13. Cuộc đi xuyên gương
    14. Ekaterina Svatkovski
    15. Những vết thương của sự thật


    Phần bốn: Người phụ nữ chẳng thuộc về nơi đâu

    16. Hoàng tử Đen
    17. Cậu nhóc với những chiếc màn hình
    18. Trung úy Lovenstein
    19. Nữ thần Pê ru bất tử


    Phần năm: Lựa chọn cái ác

    20. Ký ức sống
    21. A girl on the run
    22. Nhóm Helsinki
    23. Đường tình

    Phần sáu: Phía bên kia ranh giới

    24. Anh hùng và kẻ ác
    25. Trong thung lũng của các linh hồn
    26. Một năm sau….




    Giới thiệu
    Emma tìm kiếm trong vô vọng người đàn ông của đời mình.

    Matthew vừa mất vợ sau một tai nạn khủng khiếp.

    Cả hai thấy như cơ hội một lần nữa lại mở ra với mình khi tình cờ gặp nhau trên mạng.

    Họ hẹn nhau tại một nhà hàng.

    Vào cùng một ngày, cùng một giờ, họ cùng đẩy cửa bước vào cùng một nhà hàng, bước tới cùng một bàn nhưng - lại không gặp nhau.

    Một trò đùa? Hay một màn lừa đảo? Đây không đơn gỉản là một cuộc hẹn bị lỡ. Giữa họ là thời gian ngăn cách: cô ở quá khứ còn anh thuộc tương lai.

    Trong cuộc rượt đuổi giành giật với thời gian, Emma không biết rằng cô sẽ khám phá ra bí mật khủng khiếp vốn vẫn núp sau lá bài tình yêu.

    Một cuộc phiêu lưu đầy bí hiểm.

    Một cốt truyện điêu luyện gần chạm tới mức siêu thực.

    Một cái kết bất ngờ, nghẹt thở, độc đáo



    Nhận định
    "Một cuốn trinh thám kiểu Mỹ thực thụ."

    - Terrafemina

    "Một câu chuyện tình thách thức các quy luật của thời gian, một cốt truyện phức tạp, bất ngờ đến phút chót."

    - Le Figaro litteraire

    "Một cuốn tiểu thuyết để ngốn trong vài giờ."

    - France 3

    "Musso đã tài tình hòa trộn giữa các thể loại, dệt nên một cốt truyện trinh thám trên nền một chuyện tình tay ba."

    - Métro

    "Đảm bảo thành công!"

    RTL



    Tác giả
    Guillaume Musso là nhà văn trẻ người Pháp, sinh năm 1974 tại Antibes, thị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh lại theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được những tín hiệu tốt từ giới phê bình. Và tác phẩm thứ hai Rồi sau đó (2004) đã đưa tên tuổi Musso đến với công chúng và dần trở thành cái tên ấn tượng của văn học lãng mạn đương đại.



    Tình yêu nếu không bước đi được sẽ tự khắc bò trườn.
    - William SHAKESPEARE

    Phần một: Tình cờ gặp gỡ
    Ngày thứ nhất

    1. Giữa những bóng ma
    Ta không phải kẻ ta soi thấy trong gương.
    Ta là kẻ đang ánh lên trong cái nhìn thiên hạ.
    - Tarun J. TEJPAL


    Đại học Harvard

    Cambridge

    19 tháng Mười hai 2011

    Giảng đường đang chật ních người nhưng yên ắng.

    Những chiếc kim trên mặt khắc độ bằng đồng của chiếc đồng hồ treo tường cổ kính chỉ 14 giờ 55. Bài giảng môn Triết do Matthew Shapiro đứng lớp đang đi tới những phút cuối.

    Ngồi ở hàng ghế đầu, Erika Stewart, hai mươi hai tuổi, đang chăm chú nhìn giảng viên của mình không rời mắt. Từ một giờ đồng hồ qua, cô tìm cách thu hút sự chú ý của anh nhưng vô ích, cô nghe như nuốt lấy từng lời anh giảng, gật đầu tán thưởng sau mỗi lần anh nhận xét. Mặc dù những sáng kiến của cô chỉ vấp phải thái độ thờ ơ nhưng thầy giáo ngày càng khiến cô si mê đắm đuối hơn.

    Gương mặt trẻ trung, mái tóc cắt ngắn và hàng ria lún phún mang lại cho thầy giáo một vẻ quyến rũ khôn cưỡng làm đám sinh viên nữ không khỏi xao xuyến. Trong trang phục quần jean mài, áo len cổ lọ và đôi giày ống bằng da cũ kĩ, Matthew giống một chàng sinh viên cao học hơn là một số nam đồng nghiệp với dáng vẻ chỉn chu và khắc khổ mà người ta thường gặp trong khuôn viên trường. Nhưng trên cả diện mạo điển trai, tài hùng biện mới chính là thứ tạo nên sức hút của anh.

    Matthew Shapiro là một trong những giảng viên nổi tiếng bậc nhất của trường. Anh đứng lớp tại Cambridge đã được năm năm và qua mỗi năm các giờ giảng của anh lại khiến một lớp sinh viên mới say mê. Tiếng lành đồn xa, chỉ riêng học kỳ này đã có tới hơn tám trăm sinh viên đăng ký theo học lớp của anh, và hiện tại giờ giảng của anh đang chiếm cứ giảng đường lớn nhất của tòa Sever Hall.

    TRIẾT HỌC CŨNG BẰNG THỪA NẾU

    KHÔNG DIỆT ĐƯỢC NỖI ĐAU TINH THẦN

    Được viết nắn nót trên bảng, câu nói của Épicure chính là điểm mấu chốt trong bài giảng của Matthew.

    Những bài giảng triết học của anh dễ tiếp nhận và không bị mắc mớ bởi những khái niệm khó hiểu. Tất cả những lập luận của anh đều được liên hệ với thực tế. Mỗi bài tham luận đều được Shapiro mở đầu bằng cách xuất phát từ cuộc sống thường nhật của sinh viên, từ các vấn đề cụ thể mà họ phải đối đầu: nỗi lo thi trượt, quan hệ tình cảm tan vỡ, sự bạo ngược trong ánh mắt kẻ khác, ý nghĩa cần mang lại cho việc học... Một khi vấn đề được đặt ra, anh liền viện tới Platon, Sénèque, Nietzche hay Schopenhauer. Và nhờ có sự linh hoạt trong cách giới thiệu của anh, những nhân vật vĩ đại này mới tạo được cảm giác họ tạm rời khỏi cuốn giáo trình đại học để trở thành những người bạn thân thiết và gần gũi, có thể cho những lời khuyên hữu ích và động viên tinh thần.

    Với sự thông minh và hóm hỉnh, Mathew cũng lồng ghép vào bài giảng của mình một mảng văn hóa đại chúng rộng lớn. Những bộ phim, những ca khúc, những cuốn truyện tranh: tất cả đều là cái cớ để triết lý. Ngay cả những loạt phim truyền hình cũng tìm được chỗ đứng cho riêng mình trong giờ giảng của anh. Dr House minh họa cho suy luận thực nghiệm, những nạn nhân đắm tàu trong Lost mang đến một suy tưởng về khế ước xã hội, trong khi những người làm quảng cáo theo chủ nghĩa nam quyền trị trong Mad Men lại mở ra một cánh cửa để nghiên cứu quá trình vận động của mối quan hệ giữa hai giới nam và nữ.

    Nếu như thứ triết học thực dụng này đã góp phần biến anh thành một “ngôi sao sáng” của trường đại học, thì nó cũng xui nên thái độ ganh ghét và khó chịu ở các đồng nghiệp vốn thấy nội dung giảng dạy của anh thật nông cạn. May sao, thành công mà các sinh viên của Matthew đạt được trong các kỳ thi lớn nhỏ cho đến giờ vẫn củng cố thêm uy tín cho anh.

    Một nhóm sinh viên thậm chí đã ghi hình các bài giảng của anh và tải lên YouTube. Bước khởi xướng đó đã khiến một phóng viên tác nghiệp cho Boston Globe tò mò rồi viết thành bài báo. Sau khi bài báo được đăng lại trên The New York Times, Shapiro được đề nghị viết một dạng “phản biện giáo trình” triết học. Ngay cả khi cuốn sách bán rất chạy, người giảng viên trẻ tuổi vẫn không để mình ngây ngất bởi danh tiếng mới có và vẫn sẵn lòng giúp đỡ các sinh viên cũng như quan tâm đến thành công của họ. Nhưng câu chuyện đẹp đẽ đã vấp phải một biến cố bi thảm. Mùa đông năm ngoái, Matthew Shapiro đã mất đi người vợ trong một vụ tai nạn xe hơi. Một sự mất mát đột ngột và tàn khốc để lại trong anh lòng dạ rối bời. Mặc dù vẫn tiếp tục đứng lớp nhưng người giảng viên đầy đam mê và được si mê đã đánh mất lòng nhiệt huyết tạo nên nét riêng biệt ở anh.

    Erika nheo mắt để ngắm thầy giáo kĩ hơn. Từ khi diễn ra tấm thảm kịch, điều gì đó đã vỡ vụn trong Matthew. Những đường nét của anh đanh lại, ánh mắt anh đã mất đi vẻ nồng nàn; tuy nhiên, nỗi đau tang tóc và sầu muộn đã mang lại cho anh một vầng sáng âm u và bi thương khiến anh càng quyến rũ trong mắt cô gái trẻ.

    Cô sinh viên khép hờ mắt rồi buông mình theo chất giọng trầm ấm và khoan thai đang cất lên trong hội trường. Một chất giọng đã đánh mất chút màu nhiệm nhưng vẫn khiến tâm trí người nghe dịu lại. Những tia nắng xuyên qua ô cửa kính, sưởi ấm căn phòng rộng lớn và khiến cả gian giữa chói lóa. Erika cảm thấy khoan khoái, như được ru êm bởi thứ âm sắc bảo bọc này.

    Nhưng khoảnh khắc gia ân đó không kéo dài. Cô giật mình khi nghe thấy tiếng chuông báo hết giờ. Cô thu dọn sách vở không chút vội vã rồi chờ cho đến khi giảng đường váng tanh vắng ngắt mới rụt rè tiến lại gần Shapiro.

    - Em làm gì ở đây thế Erika? - Matthew ngạc nhiên khi trông thấy cô. - Em đã học xong tín chỉ này từ năm ngoái rồi mà. Em không cần có mặt trong giờ giảng của tôi nữa.

    - Em tới vì câu nói của Helen Rowland mà thầy vẫn thường trích dẫn.

    Matthew nhướng mày tỏ ý không hiểu.

    - “Những hành động điên rồ mà ta hối tiếc nhất là những hành động điên rồ ta không thực hiện khi có cơ hội.”

    Rồi cô thu hết can đảm để tỏ bày.

    - Để không phải hối tiếc, em muốn thực hiện một hành động điên rồ. Đây ạ, thứ Bảy tuần tới là sinh nhật em và em muốn... Em muốn mời thầy ăn tối.

    Matthew mở to mắt và ngay lập tức cố gắng thuyết phục cô sinh viên:

    - Em là một cô gái thông minh, Erika, vậy nên em thừa biết có ít nhất hai trăm năm mươi lý do để tôi từ chối lời mời của em.

    - Nhưng thầy vẫn muốn đi chứ ạ?

    - Xin em đừng cố nài, - anh ngắt lời cô.

    Erika cảm thấy nỗi xấu hổ dâng lên mặt. Cô vẫn ấp úng vài lời xin lỗi trước khi rời khỏi giảng đường.

    Matthew vừa thở dài vừa khoác áo măng tô và quàng thêm khăn rồi cũng rời khỏi giảng đường.

    ° ° °

    Với những thảm cỏ rộng rãi, những tòa nhà gạch nâu uy nghiêm và những tiêu ngữ bằng tiếng Latin gắn trên các trán tường, Harvard mang vẻ sang trọng và vĩnh hằng của các trường đại học Anh quốc.

    [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

    Ngay khi ra đến bên ngoài, Matthew liền cuộn một điếu thuốc, châm lửa hút rồi nhanh chóng rời khỏi Sever Hall. Túi quai chéo đeo trên vai, anh băng qua Yard, khoảng sân cỏ rộng thênh thang nơi khởi đầu một mê cung các lối mòn uốn lượn trên nhiều cây số dẫn tới các phòng học, các thư viện, các bảo tàng và ký túc.

    Khuôn viên trường chìm trong thứ ánh sáng mùa thu mỹ lệ. Từ mười ngày nay, thời tiết đặc biệt ấm áp so với lệ thường và ánh nắng chan hòa tặng cho người dân New England một quãng thời gian cuối thu vừa muộn màng vừa dễ chịu.

    - Thầy Shapiro! Cẩn thận!

    Matthew ngoảnh về phía giọng nói vừa gọi mình. Một quả bóng bầu dục đang rơi nhằm thẳng hướng anh. Anh bắt được quả bóng vừa kịp lúc và ném trả cho thủ quân đang ra hiệu xin lại bóng.

    Máy tính xách tay mở sẵn đặt trên đầu gối, sinh viên đã ngồi kín tất cả các băng ghế ở sân Yard. Trên thảm cỏ, những tràng cười loang ra và những cuộc trò chuyện đang hồi sôi nổi. Ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, các quốc tịch trộn lẫn với nhau hòa hợp, và sự pha trộn về văn hóa được xem như một tài sản. Vả chăng, đỏ rượu vang và xám, hai màu hộ mệnh của ngôi trường đại học nổi tiếng, vẫn hiển thị trên các áo khoác, áo nỉ và túi thể thao: tại Harvard, tinh thần thuộc về một cộng đồng vượt lên trên mọi khác biệt.

    Matthew vừa rít thuốc vừa đi qua trước Massachusetts Hall, khối nhà đồ sộ với kiểu kiến trúc phong cách Georgia bên trong là hệ thống văn phòng điều hành và cả ký túc xá sinh viên năm nhất. Đứng nơi bậc thềm, cô Moore, trợ lý hiệu trưởng, đang quắc mắt nhìn anh, ánh mắt giận dữ kèm theo một lời khiển trách (“Anh Shapiro, tôi phải nhắc anh bao nhiêu lần nữa đây về quy định cấm hút thuốc trong trường...”) rồi một bài diễn văn về các tác hại của thuốc lá.

    Mắt nhìn không chớp và nét mặt thản nhiên, Matthew lờ cô ta đi. Trong giây lát ngắn ngủi, anh định trả lời cô ta rằng cái chết là quá nhỏ nhoi so với những nỗi ưu tư của anh, nhưng anh đổi ý và rời khỏi khuôn viên trường đại học qua lối cổng lớn dẫn ra quảng trường Harvard.

    ° ° °

    Ồn ĩ như một tổ ong, quảng trường trên thực tế là một khu đất rộng thênh thang bao quanh là cửa hàng cửa hiệu, hiệu sách, các nhà hàng nhỏ và các quán cà phê có sân hiên nơi sinh viên và giáo viên tán chuyện trên trời dưới bể hoặc tiếp tục giờ học của họ. Matthew lục túi lấy ra bản đồ tàu điện ngầm. Anh vừa tiến vào lối dành cho người đi bộ để tới trạm chữ T - red line đảm bảo giao thông tới khu vực trung tâm Boston trong chưa đầy mười lăm phút - thì một chiếc Chevrolet Camaro cũ kĩ với tiếng động cơ vang rền lao ra góc đường nơi đại lộ Massachusetts giao với phố Peabody. Thầy giáo trẻ giật mình và bước lùi lại phía sau để không bị chiếc xe hai cửa màu đỏ rực tông phải, nó dừng lại ngang tầm anh trong tiếng lốp nghiến sào sạo.

    Cửa kính trước hạ xuống để lộ ra mái tóc màu hung của April Ferguson, người sống chung nhà với anh kể từ ngày vợ anh qua đời.

    - Xin chào, anh chàng tóc nâu đẹp trai, em chở anh về nhé?

    Tiếng vù vù của động cơ V8 lạc lõng trong không gian sinh thái chỉ hòa hợp với những tính năng của xe đạp và các loại phương tiện sử dụng năng lượng điện.

    - Anh muốn về bằng phương tiện giao thông công cộng hơn, - anh từ chối. - Em lái xe cứ như đang chơi trò chơi điện tử ấy!

    - Thôi nào, đừng có tỏ ra sợ sệt thế chứ. Em lái rất chuẩn và anh biết như thế mà!

    - Đừng cố nài. Con gái anh đã mất mẹ. Anh muốn tránh cho con bé cái cảnh mồ côi cả bố lẫn mẹ vào lúc bốn tuổi rưỡi.

    - Ôi, thôi nào! Anh đừng nói quá lên thế chứ! Đi nào, chàng nhát gan, khẩn trương lên! Em đang gây tắc nghẽn giao thông rồi đây này!

    Bị những tiếng còi xe thúc giục, Matthew thở dài rồi nhẫn nhịn ngồi vào chiếc Chevrolet.

    Anh vừa kịp gài dây an toàn thì chiếc Camaro đã bất chấp tất cả các quy định an toàn mà thực hiện một cú vòng xe nguy hiểm để phóng như bay về mạn Bắc.

    - Boston ở hướng kia cơ mà! - Anh vừa cự lại vừa bám vào cửa xe.

    - Em chỉ vòng qua Belmont một lát thôi. Cách có mười phút chạy xe. Anh đừng lo cho Emily. Em đã nhờ cô trông trẻ ở lại thêm một tiếng nữa rồi.

    - Mà thậm chí không nói qua cho anh biết ư? Anh báo trước, anh...

    Cô gái mau chóng sang hai số rồi bất thần tăng tốc khiến Matthew phải ngừng lời. Một khi đã đạt vận tốc ổn định, cô nàng quay sang anh rồi đưa cho anh một kẹp tài liệu đựng các bức vẽ.

    - Anh cứ hình dung là có lẽ em đã tìm được khách hàng cho tranh in bằng bản khắc gỗ của Utamaro, - cô nói.

    April đang điều hành một gallery nghệ thuật trong khu Soulh End: một địa điểm triễn lãm chuyên về nghệ thuật tình dục. Cô nàng thực sự có tài trong việc tìm ra những tác phẩm còn chưa được đánh giá đúng mức để bán lại chúng và thu về những khoản lợi nhuận đáng kể.

    Matthew gạt dây chun ra và thấy một lớp bọc bằng chiffon nguyên chất bảo vệ bức tranh in tay của Nhật. Một bức shunga 1 có niên đại từ cuối thế kỉ XVIII tái hiện một kĩ nữ và một trong số khách hàng của nàng đang miệt mài thực hiện một màn giao cấu vừa dâm dục vừa điêu luyện. Tính chất sống sượng của cảnh tượng được tiết giảm nhờ vẻ duyên dáng của nét khắc và độ phong phú của các họa tiết vải. Gương mặt của nàng geisha duyên dáng và thanh thoát đến mê hồn. Cũng là chuyện dễ hiểu nếu sau đó thể loại tranh khắc này có ảnh hưởng sâu rộng đến thế tới Klimt cũng như Picasso.

    - Em có chắc mình muốn xa bức tranh này không?

    - Em đã nhận được một lời đề nghị khiến người ta không thể từ chối, cô tuyên bố, bắt chước giọng Marlon Brando trong Bố già.

    - Của ai thế?

    - Một nhà sưu tập có số má người châu Á ghé qua Boston để thăm con gái. Có vẻ như ông ta đã sẵn sàng tiến hành thương vụ, nhưng chỉ còn lưu lại thành phố một ngày. Một cơ hội như thế này có lẽ không sớm lập lại...

    Chiếc Chevrolet đã rời khu phố đại học. Nó đi theo đường tắt chạy dọc Fresh Pond – hồ lớn nhất của Cambridge – trên nhiều cây số trước khi tới Belmont, một khu đô thị nhỏ ở phía Tây Boston. April nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS rồi đi theo chỉ dẫn tới tận một khu phố sang trọng và ấm cúng: một ngôi trường cây cối bao quanh nằm kề một khu vui chơi ngoài trời, một công viên và các sân thể thao. Thậm chí ở đó còn có một người bán kem dạo như bước thẳng từ thập niên 1950 ra. Bất chấp biển báo cấm rõ rành, chiếc Camaro vượt xe buýt chở học sinh rồi đỗ trong một con phố yên tĩnh có nhà cửa hai bên.

    - Anh đi cùng em chứ? - Cô vừa hỏi vừa lấy lại tập tranh.

    Matthew lắc đầu.

    - Anh thích ngồi trong xe đợi em hơn.

    - Em sẽ cố gắng xong việc thật nhanh, - cô hứa trong lúc chỉnh lại tóc trong gương chiếu hậu, để lại một lọn tóc quăn che mắt phải theo kiểu Veronica Lake.

    Rồi cô lấy từ túi xách ra một thỏi son, mau chóng trang điểm lại trước khi hoàn thành tác phẩm người phụ nữ quyến rũ mê hồn bằng cách chỉnh lại chiếc áo khoác da màu đỏ ôm sát lấy chiếc áo phông cổ khoét sâu.

    - Em không sợ làm hơi quá đà sao? - Anh chọc cô.

    - “Em đâu có xấu, em chỉ bị vẽ thành thế này thôi.”, cô nũng nịu bắt chước giọng nói và lời đáp của Jessica Rabbit.

    Rồi cô duỗi đôi chân dài miên man được quần legging ôm sát để ra khỏi xe.

    Matthew nhìn cô đi xa dần rồi bấm chuông ngôi nhà bề thế nhất phố. Xét trên thang bậc gợi tình, April không xa nấc thang cao nhất - số đo các vòng hoàn hảo, vòng eo thắt đáy lưng ong, bộ ngực nở nang đáng mơ ước, nhưng hiện thân của những ảo tưởng dành cho nam giới này lại chỉ thích phụ nữ và công khai đề cao sở thích tình dục đồng giới của bản thân.

    Vả chăng, đây chính là một trong những lý do để Matthew chấp nhận cho cô thuê chung nhà, vì biết rằng giữa họ sẽ không bao giờ có một sự nhập nhằng nào dù nhỏ nhất. Thêm nữa, April lại hài hước, thông minh và tinh nghịch. Dĩ nhiên cô nàng có tật xấu, giọng lưỡi thì hoa mỹ và khi giận dữ cũng ghê gớm, nhưng hơn ai hết cô nàng biết làm nụ cười hiện hữu trở lại trên môi con gái anh, và đối với Matthew thì điều đó quả là vô giá.

    Còn lại một mình, anh liếc sang phía bên kia con phố. Một bà mẹ cùng hai đứa con đang trang trí vườn nhà nhân dịp lễ. Anh chợt nhận ra rằng chưa đầy một tuần nữa là tới Giáng sinh và ghi nhận này nhấn chìm anh trong một cảm giác lẫn lộn giữa buồn phiền và hoảng loạn. Anh hãi hùng nhìn thấy hiện ra trước mắt ngày giỗ đầu của Kate: cái ngày 24 tháng Chạp năm 2010 bi thảm ấy đã khiến cuộc sống của anh lộn nhào xuống vực thẳm đớn đau rã rời.

    Ba tháng đầu sau vụ tai nạn, nỗi đau không để anh ngơi nghỉ chút nào, nó tàn phá anh từng giây: một vết thương hở toác, vết cắn của một con ma cà rồng hẳn đã hút sạch sự sống trong anh. Để chấm dứt khổ hình này, anh đã nhiều lần bị một giải pháp trệt để cám dỗ: gieo mình qua cửa sổ, thắt cổ bằng dây thừng, tu một ly cocktail pha thuốc ngủ, tự bắn vào đầu... Nhưng mỗi lần như thế, viễn cảnh về nỗi đau mình sẽ gây ra cho Emily lại ngăn anh biến suy nghĩ thành hành động. Đơn giản là anh không có quyền tước đi người cha của con gái mình và hủy hoại đời con bé.

    Tiếp đó, cuộc nổi dậy của những tuần đầu đã nhường chỗ cho một đường hầm dài sầu muộn. Cuộc sống đã dừng lại, đã ngưng đọng trong nỗi chán nản, đã đóng băng trong cảnh khốn cùng dài hạn. Matthew không gây chiến nữa, anh đơn giản là bị hạ gục, bị cảnh tang tóc nghiền nát, bị cấm cung với cuộc đời. Nỗi mất mát vẫn không thể chấp nhận nổi. Tương lai không còn tồn tại.

    Tuy thế anh vẫn cố gắng ghi danh vào một nhóm hỗ trợ theo lời khuyên của April. Anh đi tham dự một buổi, cố gắng bày tỏ nỗi đau của mình thành lời và chia sẻ nó với những người khác, nhưng anh không bao giờ đặt chân tới đó nữa. Chạy trốn lòng trắc ẩn ngụy tạo, những câu nói sáo rỗng hay những bài học về cuộc sống, anh tách mình ra, lang thang trong cuộc sống của mình như một bóng ma, để mình trôi dạt trong hàng tháng trời, không dự định, rã rời.

    Tuy nhiên, kể từ vài tuần nay, không thể nói rằng anh “như sống lại” được, nhưng dường như nỗi đau dịu lại trong anh. Mỗi sáng thức dậy vẫn khó khăn, nhưng một khi tới Harvard, anh vẫn gạt thiên hạ bằng cách đảm bảo các giờ giảng, tham gia các cuộc họp định hướng với đồng nghiệp, dĩ nhiên là ít hào hứng hơn trước nhưng vẫn trụ vững.

    Như thế không phải là anh tự vực dậy mà đúng hơn là anh dần dần chấp nhận tình trạng của bản thân, bằng cách dùng chính một vài khái niệm trong bài giảng của mình. Thấm nhuần thuyết định mệnh khắc kỉ và vô thường của đạo phật, từ đây anh nhìn nhận cuộc sống như nó vẫn có: điều gì đó rất mực mong manh và bất định, một tiến trình thường xuyên biến động. Không có gì bất biến, hạnh phúc lại càng không. Hạnh phúc vốn mong manh như thủy tinh, có lẽ chỉ kéo dài một khoảnh khắc, ta không nên coi nó như một thành quả.

    Anh dần lấy lại niềm ham sống qua những điều nhỏ nhặt: một cuộc dạo chơi dưới nắng cùng Emily, một trận bóng đá cùng các sinh viên, một câu đùa đặc biệt duyên dáng của April. Những tín hiệu an ủi đã khuyến khích anh giữ khoảng cách với nỗi đau và xây dựng một con đê ngăn chặn nỗi buồn.

    Nhưng khoảng tạm lắng này rất mong manh. Nỗi đau luôn rình rập, sẵn sàng thộp lấy họng anh. Chỉ cần một việc không đâu cũng đủ để nó bất ngờ túm được anh, phát cuồng và đánh thức những ký ức tàn khốc: một người phụ nữ gặp trên phố phảng phất mùi nước hoa giống Kate hoặc thậm chí là mặc áo khoác ngoài giống cô, một ca khúc nghe trên đài nhắc nhớ những ngày tháng hạnh phúc, một bức ảnh kẹp trong sách nay tìm lại được...

    Những ngày gần đây thực khó nhọc, báo hiệu một cơn tái phát. Gần đến ngày giỗ Kate, những đồ trang trí và bầu không khí sôi động gắn với công việc chuẩn bị cho các dịp lễ cuối năm, mọi thứ đều nhắc anh nhớ đến vợ.

    Từ một tuần nay, đêm nào anh cũng giật mình tỉnh giấc, tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, lần nào cũng bị cùng một ký ức đó ám ảnh: cảnh tượng giống như cơn ác mộng về những giây phút cuối đời của vợ anh. Matthew đã có mặt khi Kate được đưa tới bệnh viện nơi các đồng nghiệp của cô - cô vốn là bác sĩ - không thể giúp cô hồi sinh. Anh đã chứng kiến cái chết tàn nhẫn cướp đi của anh người phụ nữ anh yêu dấu. Họ mới chỉ có được bốn năm hạnh phúc viên mãn. Bốn năm thấu hiểu nhau sâu sắc, quãng thời gian chỉ vừa đủ để đặt cột mốc cho một câu chuyện mà họ sẽ không được trải nghiệm. Anh dám chắc một cuộc gặp gỡ như thế chỉ đến duy nhất một lần. Và anh không thể chịu nổi ý nghĩ đó.

    Mắt ngân ngấn nước, Matthew nhận ra anh đang xoay chiếc nhẫn cưới mình vẫn đeo ở ngón áp út. Ngay lúc này, anh đang vã mồ hôi còn tim anh nện thình thịch trong lồng ngực. Anh hạ cửa kính chiếc Camaro xuống, tìm một vỉ thuốc chống trầm cảm trong túi quần jean rồi đặt viên thuốc bên dưới lưỡi. Viên thuốc tan dần, mang lại cho anh một trợ lực hóa học làm dịu đi nỗi bồn chồn của anh sau khoảng vài phút. Anh nhắm mắt, day day mí rồi hít thở sâu. Để hoàn toàn bình tĩnh lại, anh cần hút thuốc. Anh ra khỏi xe, chốt cửa lại rồi tản bộ vài bước trên vỉa hè trước khi châm một điếu thuốc lá rồi rít một hơi dài.

    Vị đắng của chất nicotin phủ lên họng anh. Tim anh đập đều đặn trở lại và anh đã cảm thấy dễ chịu hơn. Anh thưởng thức điếu thuốc với hai mắt nhắm nghiền, mặt ngước lên đón cơn gió nhẹ cuối thu. Thời tiết ôn hòa. Anh nắng chiếu xuyên qua những tán cành. Không khí êm dịu gần như đáng ngờ. Anh đứng bất động như thế vài phút trước khi mở mắt. Ở đầu phố, một đám đông đã tụ lại trước một ngôi nhà. Anh tò mò tiến lại gần ngôi nhà đồng quê điển hình cho phong cách New England: một cơ ngơi rộng rãi trang trí rườm rà bằng gỗ lát, tô điểm bằng phần mái kiểu giáo đường với quá nhiều cửa sổ. Trên bãi cỏ trước nhà, người ta đang tổ chức một dạng chợ trời. Một kiểu “tổng thanh lý dọn nhà” đặc thù của xứ sở này nơi người dân chuyển chỗ ở trung bình hơn mười lăm lần trong đời.

    Matthew hòa mình vào đám đông hiếu kỳ đang săm soi bãi cỏ rộng khoảng một trăm thước vuông. Dẫn dắt cuộc bán chác là một người đàn ông trạc tuổi anh, hói đầu và đeo cặp kính nhỏ vuông vức, vẻ mặt nhăn nhó và ánh mắt lẩn lút. Mặc đồ đen từ đầu đến chân, anh ta trông cứng đờ và khắc khổ như một tín đồ phái Giáo hữu. Bên cạnh anh ta là một con chó giống Shar-pei màu vàng cát đang mài răng với một khúc xương nhựa.

    Đến giờ tan học, thời tiết thuận lợi đã thu hút đông người đến tìm những món hời. Các quầy đầy ắp những đồ tạp nham: mái chèo bằng gỗ, túi đựng gậy gôn, gậy và găng bóng chày, đàn ghi ta cũ hiệu Gibson... Dựng tựa vào một hàng giậu, chiếc xe đạp BMX, món quà Giáng sinh không thể thiếu hồi đầu thập niên 1980, rồi xa hơn nữa, những đôi giày patin và ván trượt. Matthew lục lọi giữa các gian hàng một lúc, tìm ra một loạt đồ chơi nhắc anh nhớ lại thời thơ ấu: cái yo yo bằng gỗ sáng màu, khối rubic, Hà mã ham ăn, bảng giải mã Mastermind, đĩa bay Frisbee, hình nhồi bông E.T người ngoài hành tinh, tượng nhỏ các nhân vật trong Chiến tranh giữa các vì sao... Giá thì rẻ như bèo; rõ ràng người bán muốn tống khứ thật nhanh càng nhiều đồ càng tốt.

    Matthew đang chuẩn bị rời khỏi khu chợ trời thì bỗng trông thấy một chiếc máy vi tính. Đó là một mẫu máy tính xách tay: một chiếc MacBook Pro, màn hình mười lăm inch. Không phải phiên bản mới nhất của mẫu này mà là phiên bản trình làng trước đó hoặc trước nữa. Matthew tiến lại gần và xem xét kĩ toàn bộ chiếc máy tính. Phần vỏ nhôm của máy đã được người chủ cũ để lại dấu ấn bằng một tấm đề can nhựa cứng dán phía sau màn hình. Tấm dán thể hiện một dạng nhân vật kiểu Tim Burton 2: một nàng Eva cách điệu hóa và gợi cảm dường như đang cầm trong tay biểu tượng hình quả táo của nhãn hiệu máy tính lừng danh. Bên dưới bức tranh minh họa, ta có thể đọc thấy chữ ký “Emma L.” nhưng không mấy rõ chữ ký đó thuộc về người nghệ sĩ vẽ tranh hay người chủ cũ của chiếc máy tính.

    Tại sao lại không nhỉ? Anh vừa nghĩ vừa nhìn nhãn giá. Chiếc Powerbook cũ của anh vừa đi tong hồi cuối hè. Đúng là ở nhà anh có một chiếc máy tính để bàn, nhưng anh cũng cần một chiếc máy tính xách tay mới để dùng riêng. Thế mà từ ba tháng nay, anh cứ không ngừng trì hoãn khoản tiêu pha này.

    Mức giá đề xuất cho chiếc máy tính xách tay là 400 đô. Một khoản tiền anh cho là hợp lý. Thật đúng lúc: vào thời điểm này, anh không dư dả gì cho cam. Tại Harvard, mức lương giảng viên của anh khá thoải mái, nhưng sau khi Kate qua đời, anh muốn bằng mọi giá giữ lại căn nhà của họ trên Beacon Hill, ngay cả khi anh thực sự không còn đủ khả năng tài chính. Anh quyết tâm tìm một người thuê chung, nhưng ngay cả khi đã có thêm khoản tiền thuê April trả cho, những khoản nợ phải hoàn trả đã ngốn hết ba phần tư thu nhập của anh nên anh phải lựa bề xoay xở đủ đường mới đủ chi tiêu. Thậm chí anh còn buộc phải bán đi chiếc xe mô tô cổ: một chiếc Triumph đen 1957 vốn là niềm hãnh diện của anh.

    Anh lại gần người bán rồi chỉ cho anh ta chiếc MacBook.

    - Chiếc máy tính kia còn chạy tốt chứ?

    - Không, đó chỉ là một vật trang trí thôi... Dĩ nhiên nó vẫn chạy, nếu không tôi đã chẳng bán với giá đó! Đó là máy tính xách tay cũ của em gái tôi, nhưng chính tôi đã định dạng lại ổ cứng và cài đặt lại hệ điều hành. Giờ nó như mới vậy.

    - Nhất trí, tôi sẽ mua, - Matthew quyết định sau vài giây lưỡng lự.

    Anh lục ví. Anh chỉ mang theo có 310 đô. Dù ngại anh vẫn cố mặc cả, thế nhưng người đàn ông kia lại từ chối hết sức kiên quyết. Phật lòng, Matthew nhún vai. Anh đang định quay gót thì nhận ra giọng nói hồn nhiên vui tươi của April vang lên ngay sau lưng.

    - Để em mua tặng anh! - Cô nói rồi ra hiệu giữ người bán lại.

    - Em không cần phải làm thế đâu!

    - Để ăn mừng em bán được bản tranh khắc kia mà!

    - Em bán được với giá dự kiến chứ?

    - Vâng, nhưng không phải dễ dàng gì. Gã đó nghĩ là với mức giá ấy, gã cũng phải được hưởng một trong các tư thế Kamnsutra cơ đấy!

    - “Đàn ông bất hạnh đều là do không biết dừng lại nghỉ ngơi trong một phòng ngủ.”

    - Woody Allen hả?

    - Không, Blaise Pascal.

    Người bán hàng đưa cho anh chiếc máy tính anh ta vừa đóng vào hộp bìa đi kèm. Matthew gật đầu cảm ơn anh ta trong khi April thanh toán khoản tiền như đã hứa. Rồi họ khẩn trương ra xe.

    Matthew nài nỉ xin được lái xe. Trên đường quay về Boston, kẹt trong những đám tắc đường, anh không ngờ rằng món đồ vừa mua sẽ vĩnh viễn thay đổi cuộc đời mình.

    --------------------------------
    1 Tranh tình dục khắc gỗ của Nhật Bản. (Chú thích của tác giả)
    2 Timothy Walter Burton (1958): đạo diễn, nhà sản xuất, biên kịch tài năng, nổi danh với những bộ phim như: Người dơi, Hành tinh khỉ, Charlie và nhà máy sô cô la, Cô dâu ma, Alice lạc vào xứ sở thần tiên… (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:43 PM.

  2. #2
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    2. Miss Lovenstein
    Lũ chó không bao giờ cắn tôi.
    Chỉ có lũ đàn ông là làm vậy.
    - Marilyn MONROE


    Quầy bar của nhà hàng Thống Soái

    Rockefeller Center, New York

    18 giờ 45

    Nằm trên tầng cao nhất của Rockefeller Center, quầy bar của nhà hàng Thống Soái bao quát được thành phố, đem lại một tầm nhìn toàn cảnh xuống Manhattan. Phong cách trang trí của quầy bar là kết quả của sự pha trộn khéo léo giữa truyền thống và thiết kế. Trong quá trình cải tạo nhà hàng, người ta đã chú ý giữ lại phần gỗ lát tường, những chiếc bàn theo phong cách Art deco và ghế bành da. Cách bài trí đó mang lại cho nơi này một bầu không khí “ấm cúng” của club Anh quốc kiểu cổ kết hợp với một không gian hiện đại hơn, với hình ảnh quầy bar bằng thủy tinh mờ, phát sáng chạy dài ngang qua phòng.

    Thân hình mảnh dẻ và dáng đi nhanh nhẹn, Emma Lovenstein lách từ bàn này sang bàn kia, phục vụ rượu vang, mời thực khách nếm rượu đồng thời giải thích tường tận về nguồn gốc và lịch sử của các loại rượu. Cô nàng quản lý rượu có khiếu truyền cảm hứng. Đôi bàn tay vung lên duyên dáng, các cử chỉ chính xác, nụ cười tỏa rạng: mọi thứ trong vẻ ngoài của cô đều phản ánh niềm đam mê của cô và khát khao được chia sẻ đam mê đó.

    Đội phục vụ mang ra món áp chót.

    - Món bánh kẹp thịt giò heo rắc phô mai Parma, - Emma thông báo trong khi những tiếng thì thào tán thưởng dần dần vang lên cùng lúc các thực khách khám phá món ăn.

    Cô rót cho mỗi người một ly vang đỏ, cẩn thận che nhãn giá rồi dành vài phút trả lời các câu hỏi của thực khách, trình bày các thông số nhằm giúp họ khám phá loại rượu vang đang uống.

    - Đây là một chai vang Morgon dòng Côte du Py làm từ nho vùng Beaujolais, - sau cùng cô tiết lộ. - Một loại vang đậm đà, hấp dẫn, căng, vừa mạnh vừa êm với hương dâu và anh đào, rất hợp để hỗ trợ tiêu hóa chân giò.

    Chính cô đã nảy ra ý tưởng về những đợt nếm rượu hằng tuần hiện đang ngày càng gặt hái được nhiều thành công nhờ thực khách rỉ tai nhau. Ý tưởng rất đơn giản: Emma đề nghị nếm thử bốn loại vang uống kèm bốn món ăn do bếp trưởng của nhà hàng ẩm thực là Jonathan Lempereur chế biến. Mỗi buổi nếm rượu được tổ chức trong vòng một giờ đồng hồ, xoay quanh một chủ đề như một giống nho hoặc một địa điểm và là cớ để dẫn tới những tìm hiểu bước đầu về khoa rượu vang theo lối rất dễ tiếp nhận.

    Emma tới sau quầy rồi ra hiệu cho nhóm phục vụ bàn mang món cuối ra. Cô tranh thủ thời điểm này để kín đáo liếc qua chiếc điện thoại di động đang nhấp nháy. Khi mở tin nhắn vừa nhận được ra xem, cô đã thoáng kinh hoàng.

    Anh ở New York tuần này. Tối nay ta hẹn nhau dùng bữa nhé?

    Anh nhớ em.

    Francois

    - Chị Emma?

    Giọng trợ lý kéo cô ra khỏi trạng thái đờ đẫn nhìn như đóng đinh vào màn hình điện thoại. Cô lâp tức trấn tĩnh lại rồi thông báo với cả phòng ăn:

    - Để kết thúc buổi thưởng rượu hôm nay, chúng tôi mời các vị món dứa trộn cánh mộc lan, dùng kèm kem kẹo dẻo thắng thành caramel trên bếp củi.

    Cô mở hai chai vang mới rồi rót mời cử tọa xung quanh. Sau màn đặt câu đố, cô kết luận:

    - Một chai vang Ý, xuất xứ từ vùng Piedmont, một chai Moscato d'Asti. Một giống nho ngon lành, thơm mát và thanh khiết, ngọt dịu và hơi sủi bọt. Một loại vang hồng và bọt li ti nhẹ nhàng làm tôn thêm vị dứa tươi mát.

    Buổi tối khép lại với những câu hỏi của thực khách. Trong số đó có những câu hỏi liên quan đến hành trình nghề nghiệp của Emma, cô sẵn lòng trả lời chúng mà không để lộ chút nào là tâm trí mình đang hỗn loạn.

    Cô sinh ra trong một gia đình không mấy khá giả ở Tây Virginia. Mùa hè năm cô mười bốn tuổi, cha cô, một tài xế đường dài, dẫn gia đình đi thăm những vườn nho thuộc địa phận California. Đối vối cô bé, khám phá này quả là một niềm ngây ngất đã khơi dậy sự quan tâm và đam mê đối với rượu vang cũng như một thiên hướng hoàn toàn mới mẻ.

    Cô thi đỗ vào trường trung cấp khách sạn Charlest nơi có chương trình đào tạo chuyên sâu về khoa rượu vang. Sau khi đã nhận bằng tốt nghiệp, cô rời khỏi vùng quê khỉ ho cò gáy nghèo nàn không chút tiếc nuối. Thẳng tiến đến New York! Thoạt tiên cô làm phục vụ bàn cho một nhà hàng khiêm tốn, rồi trưởng nhóm phục vụ bàn trong một nhà hàng thời thượng thuộc khu West Village. Lúc bấy giờ cô làm việc quần quật mười sáu tiếng mỗi ngày, phục vụ bàn, tư vấn rượu vang và phụ trách quầy bar. Một ngày nọ, cô gặp phải một khách hàng kỳ lạ. Người mà thoạt nhìn cô đã nhận ra ngay: Jonathan Lempereur, thần tượng của cô. Người được giới phê bình ẩm thực đặt cho biệt danh “Mozart của nghệ thuật ẩm thực”. Bếp trưởng điều hành một nhà hàng nổi tiếng ở Manhattan: nhà hàng Thống Soái lừng danh, được một số nhà phê bình coi như “nhà hàng tuyệt vời nhất thế giới”. Thống Soái thực sự là đỉnh của đỉnh, mỗi năm tiếp đón hàng nghìn thực khách đến từ khắp nơi trên hành tinh, và thường phải đợi hơn một năm mới đặt được chỗ. Ngày hôm đó, Lempereur đến dùng bữa với vợ. Giấu biệt danh tính. Thời đó, anh đã sở hữu nhiều nhà hàng trên toàn thế giới. Quả là khó tin khi trẻ thế mà đã đứng đầu một đế chế như vậy.

    Emma đã thu hết can đảm để dám bắt chuyện với “thần tượng” của mình. Jonathan đã chăm chú lắng nghe cô, rồi rất nhanh chóng, bữa trưa biến thành buổi phỏng vấn tuyển dụng. Thành công đã không khiến Lempereur mờ mắt. Anh khó tính nhưng vẫn khiêm nhường, vẫn luôn săn tìm những nhân tài mới. Nhân lúc thanh toán hóa đơn, anh đã đưa cô danh thiếp và bảo:

    - Ngày mai cô bắt đầu đi làm nhé.

    Ngày hôm sau, cô ký hợp đồng với vị trí nhóm phó phụ trách rượu tại Thống Soái. Trong suốt ba năm liền, cô phối hợp cực kỳ ăn ý với Jonathan. Lempereur có một sức sáng tạo dồi dào và cuộc tìm kiếm sự tương hợp giữa các món ăn và rượu vang chiếm vị trí quan trọng trong nghệ thuật nấu nướng của anh. Cô đã hiện thực hóa giấc mơ nghề nghiệp của anh. Năm ngoái, sau khi ly hôn, chàng bếp trưởng người Pháp đã cởi bỏ tạp dề. Nhà hàng đã được thầu lại, nhưng ngay cả khi Jonathan Lempereur không còn đứng bếp nữa thì hồn phách anh vẫn tiếp tục thấm nhuần nơi đó, và những món ăn do anh sáng tạo ra vẫn xuất hiện trên thực đơn.

    - Cảm ơn quý vị đã có mặt trong buổi hôm nay, tôi hi vọng quý vị đã có một buổi tối thú vị, - cô nói để kết thúc buổi thưởng rượu.

    Cô tạm biệt các khách hàng, trao đổi ngắn gọn với trợ lý rồi thu dọn đồ dùng cá nhân trước khi về nhà.

    ° ° °

    Emma bước vào thang máy và vài giây sau đã có mặt ở tầng trệt tòa Rockefeller Center. Trời đã tối từ lâu. Từ miệng cô tỏa ra hơi nước. Làn gió lạnh băng quét qua sân trước nhà thờ không làm nản lòng đám đông hiếu kỳ đang chen chúc trước hàng rào để chụp ảnh cây thông Giáng sinh khổng lồ sừng sững trên sân trượt băng. Cây thông cao chừng ba chục mét đang oằn xuống dưới những tràng hoa điện và các đồ trang trí. Quang cảnh trông rất ấn tượng, nhưng lại khiến Emma sầu não. Chẳng phải chỉ là một lời sáo rỗng, gánh nặng của cô đơn thực sự nặng nề hơn trong những dịp lễ lạt cuối năm. Cô tiến lại gần bờ hè vừa chỉnh lại chiếc mũ mềm và thắt chặt lại khăn quàng vừa chăm chú nhìn đèn gắn nóc của các xe taxi, hi vọng nhưng không quá tin vào chuyện sẽ phát hiện ra một chiếc taxi còn trống. Rủi thay, lúc này đang là giờ cao điểm và mọi chiếc yellow cab diễu qua trước cô đều đã chở khách. Cô cam chịu rẽ đám đông rồi rảo bước tới tận góc đại lộ Lexington giao với phố 53. Cô xuống trạm tàu điện ngầm rồi chọn tuyến E thẳng hướng downtown. Toa tàu điện chật cứng người, điều này có thể dễ dàng dự đoán, và cô đứng suốt chặng, chen chúc với các hành khách khác.

    Bất chấp cảnh xô đẩy từ bốn phía, cô vẫn rút điện thoại ra rồi đọc lại mẩu tin nhắn đã thuộc nằm lòng.

    Anh ở New York cả tuần này. Tối nay ta hẹn nhau dùng bữa nhé?

    Anh nhớ em.

    Francois

    Cuốn xéo đi, thằng khốn. Tôi không rảnh mà gặp anh! Cô vừa nạt nộ vừa không rời mắt khỏi màn hình điện thoại.

    Francois là người thừa kế một vườn nho rộng lớn tại Bordeaux. Hai năm trước cô đã gặp hắn trong một chuyến đi nhằm khám phá các giống nho Pháp. Hắn không giấu cô chuyện hắn đã kết hôn và có hai con, tuy thế cô vẫn đáp lại lời tán tỉnh của hắn. Emma đã kéo dài chuyến đi Pháp của mình và họ đã trải qua một tuần lễ như trong mơ để dạo khắp các nẻo đường rượu vang trong vùng: “đường Médoc” nổi tiếng trên chặng đường tìm hiểu những loại rượu vang đẳng cấp và những tòa lâu đài, “đường đồi” với những nhà thờ kiến trúc kiểu Roman và những di chỉ khảo cổ, những ngôi nhà thôn dã cùng những tu viện của vùng Entre-Deux-Mers, ngôi làng Saint-Émilion có từ thời Trung Đại... Về sau, họ gặp lại nhau tại New York, theo những chuyến công tác của Francois. Thậm chí họ đã trải qua một tuần nghỉ lễ khác tại Hawaii. Hai năm cho một mối quan hệ ngoài luồng, dục vọng và hủy hoại. Hai năm chờ đợi để rồi thất vọng. Mỗi lần họ gặp nhau, Francois đều hứa mình sắp bỏ vợ. Cô không thực sự tin, dĩ nhiên là thế, nhưng cô đã si mê hắn, vậy nên...

    Và rồi một ngày, trong khi lẽ ra họ sắp đi nghỉ cuối tuần, Francois lại gửi tin nhắn cho cô, thông báo hắn vẫn còn yêu vợ và mong chấm dứt mối quan hệ với cô. Đã nhiều lần trong đời, Emma chạm tới các giới hạn - chứng cuồng ăn, chứng biếng ăn, chứng rạch da hành xác và lời thông báo chia tay này đã mở ra trong cô một vực thẳm.

    Lúc bấy giờ, một cảm giác hết mức trống rỗng đã tàn phá cô. Các đường nứt gãy của cô hằn sâu thêm, những vùng dễ tổn thương trong cô đã lây lan ra toàn bộ cơ thể. Cuộc đời bỗng nhiên chẳng còn gì để ban tặng cho cô và cuộc sống dường như chỉ còn là một nỗi đau. Để buộc nỗi đau này im tiếng, cô chỉ tìm được giải pháp là nằm dài trong bồn tắm rồi rạch cổ tay. Hai vết rạch sâu hoắm bằng dao rọc giấy ở mỗi cánh tay. Đó không phải là một lời kêu cứu, không phải phim ảnh. Cơn khủng hoảng tự sát thật tàn khốc, tuy bột phát từ nỗi thất tình, nhưng nỗi đau còn có nguyên nhân sâu xa hơn. Emma muốn cuộc sống của mình dừng lại, và cô hẳn đã thành công nếu ông anh trai ngốc nghếch không chọn đúng thời điểm đó để tìm tới căn hộ của cô, trách móc cô vì tháng này chưa trả phí viện dưỡng lão cho bố.

    Nhớ lại quãng thời gian đó, Emma cảm thấy ớn lạnh sống lưng. Tàu điện ngầm đã tới trạm trên phố 42, đúng trạm xe buýt. Tới đây, toa tàu đã vãn người và cuối cùng cô cũng tìm được một ghế còn trống. Cô vừa ngồi xuống thì điện thoại di động rung lên. Francois vẫn nài nỉ:

    Anh van em đấy, cưng, trả lời anh đi. Hãy cho chúng ta thêm một cơ hội. Hãy đáp lại anh đi. Van em đấy. Anh nhớ em vô cùng. Francois của em.

    Emma nhắm mắt rồi hít thở chậm. Người tình cũ của cô là một kẻ chuyên thao túng ích kỉ và thiếu thủy chung. Hắn biết sử dụng vẻ quyến rũ của bân thản để biến mình thành một nhân vật anh hùng có trái tim cao thượng và đảm bảo sự chi phối lên cô. Hắn có khả năng khiến cô mất hết kiểm soát. Hắn biết cách lợi dụng những nhược điểm và sự tự ti nơi cô một cách tàn nhẫn. Hắn ùa vào những chỗ rạn nứt trong cô, cào xé những vết sẹo của cô. Nhất là, hắn có tài che đậy thực tế để phô bày mọi sự theo hướng có lợi cho hắn, dù cho có phải biến cô thành một người quen thói bịa chuyện.

    Cô tắt điện thoại di động để khỏi bị dụ dỗ trả lời tin nhắn. Cô đã nỗ lực quá nhiều để thoát khỏi vòng cương tỏa của hắn và quyết không chịu mắc bẫy của hắn lần nữa chỉ vì cảm thấy cô đơn khi Giáng sinh đang đến gần.

    Bởi vì kẻ thù nguy hiểm nhất đối với cô không phải là Francois. Kẻ thù nguy hiểm nhất đối với cô chính là bản thân cô. Cô không thể cam chịu sống thiếu đam mê. Đằng sau vẻ bình thản và hài hước của bản thân, cô biết tính bốc đồng và tính bất ổn trong xúc cảm của mình, một khi vùng lên, chúng thường nhấn chìm cô trong những giai đoạn hết sức trầm uất rồi lại hưng phấn vô phương kiểm soát.

    Cô dè chừng nỗi sợ bị bỏ rơi vốn có thể xô ngã cô bất cứ lúc nào và nhấn chìm cô trong bi kịch tự hủy hoại bản thân. Đời sống tình cảm của cô chất chồng những mối quan hệ cay đắng. Trong tình yêu, cô đã dâng tặng quá nhiều cho những kẻ không xứng đáng. Những gã tồi tệ như Francois. Nhưng ở cô có điều gì đó mà bản thân cô không hiểu cũng như không làm chủ được. Một sức mạnh tăm tối, một chứng nghiện đẩy cô vào vòng tay của những người đàn ông không còn tự do. Cô tìm kiếm một kiểu kết hợp mà không suy xét, trong lúc thừa biết rằng những mối quan hệ này thực chất chẳng hề đem lại cho cô cả sự an toàn lẫn ổn định cô đang khao khát biết bao. Nhưng cô vẫn cố, và vì chán ghét, cô biến mình thành đồng phạm trong sự thiếu chung thủy của những gã đàn ông ấy, phá nát gia đình họ, ngay cả khi hành động như vậy là đi ngược lại các giá trị cũng như nguyện vọng của cô.

    May sao, đợt tâm lý trị liệu mà cô theo từ vài tháng nay đã giúp cô có khoảng lùi và biết ngờ vực những cảm xúc của bản thân. Từ đó cô biết mình phải nghĩ đến chuyện tự bảo vệ và tránh xa những đối tuợng xấu.

    Cô đã tới bến cuối của tuyến tàu điện ngầm: bến World Trade Center. Khu vực phía Nam thành phố này đã bị những vụ khủng bố tàn phá hoàn toàn. Ngày nay, nó vẫn đang trong quá trình xây dựng lại, nhưng chẳng mấy mà nhiều tòa tháp bằng kính và thép sẽ vươn cao trên đường chân trời New York. Một biểu tượng cho thấy Manhattan có khả năng vượt mọi thử thách và còn mạnh mẽ hơn trước, Emma nghĩ trong khi leo các bậc thang để tới phố Greenwich.

    Một tấm gương đáng để suy ngẫm...

    Cô rảo bước tới tận ngã tư phố Harrison rồi tiến vào khoảng sân trước của một khu nhà ở liên hợp gồm nhiều tòa nhà cao tầng bằng gạch màu hạt dẻ xây từ đầu thập niên 1970, khi TriBeCa mới chỉ là một khu công nghiệp với nhiều kho xưởng. Cô bấm mã mở khóa rồi dùng cả hai tay đẩy một cánh cổng bằng gang nặng trịch.

    Suốt một thời gian dài, 50 North Plaza với ba tòa tháp cao bốn mươi tầng chứa hàng trăm căn hộ với mức giá thuê vừa phải. Ngày nay, giá thuê nhà trong khu đã tăng cao và tòa nhà sắp được tu sửa lại. Trong lúc chờ đợi, đại sảnh vẫn mang vẻ âm u và hoang tàn: tường tróc vữa, đèn đuốc tờ mờ, bốn phía chẳng lấy gì làm sạch sẽ. Emma lấy thư từ trong hộp thư riêng rồi gọi thang máy lên tầng áp chót nơi có căn hộ của cô.

    - Clovis!

    Vừa bước qua ngưỡng cửa cô đã thấy chú chó nhảy cẫng lên mừng rối rít.

    - Ít ra cũng để tao đóng cửa đã chứ! - Cô vừa phàn nàn vừa vuốt ve bộ lông uốn thành nếp khô và cứng của chú chó giống Shar-pei.

    Cô đặt túi xách xuống rồi dành vài phút chơi đùa với chú chó. Cô yêu cái dáng chắc nịch và vững chãi của nó, cái mũi thô dày của nó, đôi mắt tinh ẩn trên gương mặt hình tam giác và vẻ hờn dỗi dễ thương của nó.

    - Ít ra mày cũng sẽ luôn trung thành với tao!

    Như để cảm ơn chú chó, cô dốc cho nó một bát tướng thức ăn.

    Căn hộ nhỏ - chỉ chừng bốn chục mét vuông nhưng xinh xắn: sàn gỗ mộc sáng màu, tường xây gạch trần, vách kính lớn. Không gian bếp mở được chuyển tiếp bằng một quầy bar ốp sành màu đen và ba chiếc ghế đẩu chất liệu kim loại xước. Riêng “phòng khách” tràn ngập sách chất trên các giá. Viễn tưởng Mỹ và châu Âu, các tiểu luận về điện ảnh, các sách về rượu vang và ẩm thực. Tòa nhà có nhiều khiếm khuyết: hệ thống đường ống cũ kĩ, rò rỉ nước thường xuyên, khu giặt là đầy rẫy chuột bọ, thang máy lúc nào cũng hỏng, hệ thống điều hòa dở tệ, tường mỏng dính đến mức rung chuyển khi có dông tố và hàng xóm láng giềng cứ gọi là biết tường tận chuyện riêng tư của nhau. Nhưng tầm nhìn thì mê hoặc và thoáng đãng, trông ra sông và đem lại những cảnh sắc Hạ Manhattan đẹp đến nghẹt thở. Ta sẽ thấy hàng dãy nối tiếp những tòa cao ốc sáng rực, những bờ kè của sông Hudson và những chiếc thuyền đang lướt trên sông.

    Emma cởi áo khoác và khăn quàng ra, treo bộ quần áo lên một con ma nơ canh, xỏ quần jean và chiếc áo phông hiệu Yankees rộng thùng thình trước khi trở vào phòng tắm để tẩy trang.

    Mặt gương cho cô thấy hình ảnh một phụ nữ trẻ ba mươi ba tuổi với mái tóc nâu xoăn nhẹ, đôi mắt màu lục sáng và chiếc mũi cao lấm tấm vài nốt tàn nhang. Trong những ngày (hết sức) đẹp trời của cô, ta có thể thấy cô nhang nhác Kate Beckinsale hoặc Evangeline Lilly, nhưng hôm nay không phải một ngày đẹp trời. Nỗ lực sau cùng để không bị nỗi buồn xâm chiếm, cô làm mặt nhăn nhó giễu cợt với chính mình trong gương. Cô gỡ cặp kính áp tròng đang khiến mắt nhoi nhói ra, đeo kính cận rồi quay vào bếp để pha trà.

    Grrr, ở đây lạnh như Bắc Cực ấy, cô rùng mình, khoác thêm một tấm chăn choàng rồi tăng nhiệt độ lò sưởi. Vì chờ mãi không thấy nước sôi, cô ngồi xuống một trong những chiếc ghế đẩu nơi quầy bar rồi mở máy tính xách tay đang để trên quầy.

    Cô đói muốn xỉu. Cô vào trang web của một nhà hàng Nhật chuyên giao đồ ăn tận nhà rồi đặt một phần xúp miso cùng một set gồm sushi, maki và sashimi.

    Sau khi nhận được email xác nhận, cô kiểm tra lại đơn hàng và giờ giao hàng, rồi tranh thủ đọc lướt các thư điện tử khác vì sợ gặp phải thư của người tình cũ.

    May sao, không có thư từ Francois.

    Nhưng có một bức thư khác, bí hiểm, người gửi là một gã nào đó tên Matthew Shapiro.

    Một gã đàn ông mà trước nay cô chưa từng nghe nhắc đến.

    Và cũng chính là người sắp làm đảo lộn cuộc sống của cô...
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:44 PM.

  3. #3
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    3. Thông điệp
    Khi nỗi đau là điều chúng ta biết rõ nhất,
    Từ chối nó là một thử thách.
    - Michela MARZANO


    Boston

    Khu Beacon Hill

    20 giờ

    - Mẹ sẽ không quay về nữa hả ba? - Emily hỏi trong lúc cài cúc pyjama.

    - Không, mẹ sẽ không bao giờ quay về nữa, - Matthew xác nhận rồi ôm con gái vào lòng.

    - Không phải thế, - cô nhóc kêu lên giọng run rẩy.

    - Đúng chứ con, là vậy đó. Đôi khi cuộc sống là như vậy, - anh đáp cụt lủn rồi nhấc bổng con bé đặt lên giường.

    Căn phòng nhỏ ở tầng áp mái luôn ấm áp và thân thiện, và nó tránh những tông màu sặc sỡ hoặc nhợt nhạt mà người ta thường thấy trong phòng dành cho trẻ. Khi Matthew và Kate sửa lại ngôi nhà, họ đã tìm cách khôi phục dấu ấn nguyên thủy cho mỗi căn phòng. Đối với căn phòng này, họ đã phá bỏ một vách ngăn, cạo sạch và đánh xi sàn gỗ cũ để trả lại cho nó vẻ hào nhoáng xưa kia, rồi vác về những món đồ gỗ cùng thời: giường gỗ mộc, tủ com mốt sơn trắng, ghế bành bọc vải gai dầu, ngựa bập bênh, hòm bằng đồng thau kết hợp da để đựng đồ chơi.

    Matthew vuốt má Emily và nhìn con bé bằng ánh mắt mà anh hi vọng là khiến con yên lòng.

    - Con có muốn bố đọc cho con nghe một câu chuyện không, con yêu?

    Con bé buồn bã lắc đầu, mắt nhìn xuống.

    - Không ạ, con ổn mà.

    Anh nhăn mặt. Từ vài tuần nay, anh cảm thấy con gái hết sức buồn nản, như thể anh đã truyền cho con bé nỗi trầm cảm của riêng anh, và điều này khiến anh thấy mình có lỗi. Trước mặt con bé, anh vẫn tìm cách che giấu nỗi đau đớn và lo lắng của mình đấy chứ, nhưng nỗ lực đó không thành công: trẻ con có giác quan thứ sáu để phát hiện ra loại chuyện kiểu này. Matthew có cố lý giải cũng vô ích, anh vẫn bị giằng xé bởi một nỗi lo: nỗi sợ phi lý sẽ mất đi đứa con gái sau khi mất đi người vợ. Từ khi mất vợ, anh vẫn một mực tin rằng nguy hiểm hiện hữu khắp nơi và nỗi lo sợ này đã dẫn anh đến chỗ bảo bọc Emily quá mức khiến con bé nghẹt thở và mất lòng tin vào chính mình.

    Sự thực là anh đã trở thành một ông bố lỗi thời. Trong những tuần đầu tiên, anh từng cảm thấy bất ổn khi đối diện với thái độ hầu như thờ ơ của Emily. Quãng thời gian đó, con bé dường như chưa thấm thía nỗi đau, như thể nó không thực sự hiểu rằng mẹ nó đã qua đời. Tuy nhiên, khi ở bệnh viện, bác sĩ tâm lý theo dõi con bé đã giải thích cho Matthew biết cách cư xử đó không có gì bất thường. Để tự vệ, một vài đứa trẻ cố ý giữ khoảng cách với một sự kiện gây sang chấn tinh thần, trong lúc chờ đợi một cách vô thức thời điểm cảm thấy vững vàng hơn để có thể đối diện với sự kiện đó.

    Những câu hỏi về cái chết đã tới muộn hơn. Trong vòng vài tháng, Matthew đã đối diện bằng cách vận dụng những lời khuyên của bác sĩ tâm lý, những tập truyện tranh và lối nói ẩn dụ. Nhưng từ đó trở đi, những câu hỏi của Emily trở nên cụ thể hơn, nhấn chìm bố con bé trong nỗi bối rối và đẩy anh vào những phòng tuyến của riêng anh. Một bé gái bốn tuổi rưỡi hình dung thế nào về cái chết? Anh không biết phải sử dụng từ ngữ kiểu nào vì không chắc ở độ tuổi đó con bé có thể hiểu hết. Nữ bác sĩ tâm lý khuyên anh đừng lo lắng, giải thích cho anh hiểu rằng khi lớn lên Emily sẽ ý thức rõ hơn về việc mẹ mất đi là vĩnh viễn. Theo cô, những câu hỏi con bé đặt ra là hoàn toàn bình thường. Chúng cho phép con bé bước ra khỏi sự thinh lặng, tránh được những điều cấm kỵ, và đến giới hạn sẽ giải thoát con bé khỏi nỗi sợ.

    Nhưng rõ ràng là Emily còn lâu mới đạt đến giai đoạn giải thoát này. Trái lại, buổi tối nào cũng vậy, cứ đến giờ đi ngủ là con bé lại cảm thấy vẫn những nỗi lo sợ ấy, lại đặt ra vẫn những câu hỏi với những câu trả lời đau đớn ấy.

    - Thôi nào con, ngủ đi!

    Con bé chui vào chăn, vẻ mặt đăm chiêu.

    - Bà nội bảo rằng mẹ đang ở trên trời... - con bé mở lời.

    - Mẹ không ở trên trời đâu, bà toàn nói linh tinh, - Matthew vừa ngắt lời con bé vừa nguyền rủa mẹ mình.

    Kate không có gia đình. Bản thân anh cũng rời xa cha mẹ từ rất sớm, hai con ngưòi ích kỉ đang trải qua kỳ hưu trí thanh bình tại Miami và không lường hết nỗi đau của anh. Họ chưa bao giờ thực sự quý mến Kate, trách cô đã coi trọng sự nghiệp hơn gia đình. Một sự quá đáng đối với những bậc phụ huynh lúc nào cũng chỉ nghĩ đến bản thân họ! Tháng đầu tiên sau khi Kate mất, đúng là họ đã tới Boston để an ủi anh và chăm sóc Emily, nhưng sự quan tâm ân cần ấy đã chẳng kéo dài. Kể từ dạo đó, họ bằng lòng với việc gọi điện mỗi tuần một lần để hỏi thăm và kể cho cháu gái những điều ngu ngốc kiểu đó.

    Chuyện này đã khiến anh điên tiết! Không bao giờ có chuyện anh chấp nhận tính đạo đức giả của tôn giáo. Anh không tin ở Chúa trời, chưa bao giờ tin và cái chết của vợ anh cũng sẽ không khiến quan điểm đó thay đổi! Đối với anh, là “triết gia” kéo theo một dạng chủ nghĩa vô thần, và Kate cũng đồng tình với anh ở điểm này. Cái chết đánh dấu chấm hết cho mọi sự. Không có gì khác, không có đoạn tiếp sau, chỉ có sự trống rỗng, hư vô trọn vẹn và tuyệt đối. Anh không thể hình dung nổi mình sẽ phỉnh phờ con gái bằng một ảo tưởng mà bản thân anh không tán thành, ngay cả là để trấn an con bé.

    - Nếu mẹ không ở trên trời, vậy thì mẹ ở đâu ạ? - Con bé vẫn nằn nì.

    - Mẹ được an táng ở nghĩa trang, con thừa biết như thế mà. Nhưng tình yêu của mẹ thì không chết, - anh nhượng bộ. - Tình yêu đó vẫn ở trong tim và trong ký ức của hai bố con mình. Ta có thể tiếp tục gìn giữ ký ức về mẹ con bằng cách nói về mẹ, nhớ về những giây phút cả gia đình ta hạnh phúc bên nhau, ngắm những bức ảnh và đi viếng mộ mẹ.

    Emily lắc đầu, còn lâu mới bị thuyết phục.

    - Rồi bố cũng sẽ chết, phải không bố?

    - Như tất cả mọi người thôi, - anh thừa nhận, - nhưng…

    - Nhưng nếu bố chết thì ai sẽ chăm sóc con đây? - Con bé hoảng sợ.

    Anh ôm con bé vào lòng thật chặt.

    - Bố sẽ không chết ngay ngày mai đâu, con yêu! Bố sẽ đợi đến khi trăm tuổi mới chết. Bố hứa với con đấy!

    “Bố hứa với con đấy”, anh lặp lại trong khi biết rất rõ rằng lời hứa này chẳng có chút cơ sở vững chắc nào.

    Anh ôm con bé thêm vài phút nữa. Rồi Matthew viền lại chăn cho Emily và tắt hết đèn, chỉ để lại ngọn đèn ngủ treo nơi đầu giường. Trước khi khép hờ cánh cửa, anh hôn con gái lần cuối, hứa với con rằng April sẽ ghé qua chúc con bé ngủ ngon.

    ° ° °

    Matthew xuống cầu thang dẫn tới phòng khách. Tầng trệt của căn nhà chìm trong thứ ánh sáng dìu dịu. Anh sống trong căn nhà xây bằng gạch đỏ nằm ở góc phố Mount Vernon giao với phố Willow này đã được ba năm. Một căn townhouse xinh xắn với cánh cửa trắng bằng gỗ nguyên khối và những cửa sổ bằng gỗ sẫm màu, tầm nhìn hướng ra quảng trường Louisburg.

    Anh nghiêng người qua cửa sổ và ngắm nhìn những tràng hoa điện treo trên hàng rào công viên đang nhấp nháy. Cả đời mình, Kate đã mơ ước sống ở trung tâm lịch sử của Boston. Một mảnh đất nội phận nhỏ nhắn được bảo tồn cẩn thận, với những ngôi nhà theo kiến trúc Victoria, những vỉa hè lát gạch và những con hẻm tràn ngập hoa, hai bên đường cây cối xanh um và những cây đèn kiểu cổ chạy khí đốt. Một chốn thần tiên tạo cảm giác thời gian đã dừng lại, nhà cửa ngưng đọng lại trong một vẻ duyên dáng thanh lịch và cổ kính. Một khung cảnh sống không vừa tầm tài chính của một bác sĩ làm việc trong bệnh viện trường đại học và một giảng viên đại học vừa trả xong khoản vay thời sinh viên! Nhưng ngần đó không đủ khiến Kate nản lòng. Suốt hàng tháng trời, cô chạy đôn chạy đáo khắp các quán hàng của khu phố, phát khắp nơi những tờ bướm tìm nhà. Một bà lão đã đọc được tờ rơi của cô khi đang chuẩn bị chuyển vào sống trong viện dưỡng lão. Bà lão giàu có dân Boston này ghét các hãng bất động sản và muốn bán căn nhà mình đã sống trọn cuộc đời theo cách “trực tiếp không qua trung gian” hơn. Kate hẳn đã khiến bà có cảm tình, bởi kỳ diệu thay, bà đã đồng ý giảm giá, tuy thế lại đính kèm đề nghị ấy một tối hậu thư. Họ chỉ có vỏn vẹn hai mươi tư giờ để quyết định. Ngay cả khi giá đã được giảm đáng kể, khoản tiền phải trả vẫn khá lớn. Đó là bản họp đồng đánh cuộc cả cuộc đời, nhưng được tình yêu và niềm tin vào tương lai chắp cánh, Matthew và Kate đã quyết liều một phen, gánh lấy món nợ trả trong ba mươi năm và trải qua toàn bộ những kỳ nghỉ cuối tuần trong cảnh mặt mũi lấm lem sơn cùng thạch cao. Họ, những người chưa bao giờ làm việc vặt trong đời mình, đã trở thành những “chuyên gia” về đặt đường ống, về phục chế sàn và lắp đặt cầu chì mạch điện.

    Anh và Kate đã hình thành một mối quan hệ gần như gắn bó máu thịt với ngôi nhà cũ kĩ này. Ngôi nhà đã trở thành chỗ trú ẩn mật thiết nhất, nơi họ dự định sẽ nuôi dạy đàn con, nơi họ dự kiến sẽ cùng nhau già đi. A shelter from thestorm 1như Bob Dylan vẫn hát.

    Nhưng giờ thì Kate đã từ giã cõi đời, toàn bộ chuyện này đâu còn ý nghĩa gì nữa? Nơi này đã chất nặng những kỉ niệm vẫn còn sống động. Đồ đạc nội thất, đồ trang trí và thậm chí là một vài mùi hương vẫn còn phảng phất trong không trung (những cây nến thơm, những loại hoa cỏ khô, những que nhang) đều từng gắn liền với cá tính của Kate. Toàn bộ những thứ đó không ngừng gây cho Matthew cảm giác rằng vợ anh đang ám căn nhà. Dù vậy, anh không muốn và cũng không đủ can đảm chuyển nhà. Trong quãng thời gian chông chênh này, căn townhouse chính là một trong những điểm mốc cuối cùng của anh.

    Nhưng chỉ một phần căn nhà bị đóng băng trong kỉ niệm. Hiện tại, tầng trên cùng đã trở nên vui mắt nhờ sự hiện diện của April, cô thuê một phòng ngủ xinh xắn, một phòng tắm, một phòng để quần áo lớn và một bàn làm việc nhỏ. Tầng dưới có phòng của Matthew, phòng của Emily và phòng của đứa con mà anh và Kate dự định chẳng bao lâu nữa sẽ có... Còn tầng trệt, anh đã bố trí như một căn xưởng cải dụng với phòng khách lớn và không gian bếp mở.

    Matthew thoát ra khỏi cơn đờ đẫn và chớp mắt lia lịa để gạt bỏ những ý nghĩ bi thương. Anh bước vào bếp, nơi ngày xưa họ vẫn thích thú dùng bữa sáng và quây quần mỗi tối để kể cho nhau nghe những chuyện xảy ra trong ngày, ngồi cạnh nhau ngay sau quầy bếp. Anh lấy từ tủ lạnh ra một lốc bia vàng. Anh khui một chai rồi lấy thêm một viên thuốc chống trầm cảm, anh chiêu thuốc bằng ngụm bia. Món cocktail bia Corona/thuốc. Anh không biết phương thuốc nào hiệu nghiệm hơn để tự làm mình mụ mẫm đi và nhanh chóng tìm được giấc ngủ.

    - Này, anh chàng bảnh trai, cẩn thận với dạng hỗn hợp đó nhé, nó có thể gây nguy hiểm đấy! - April gọi anh trong lúc xuống cầu thang.

    Cô đã thay đồ để ra ngoài, và như thường lệ, cô mặc diện lộng lẫy.

    Vắt vẻo trên đôi giày cao đến chóng mặt, cô chưng ra với một vẻ tự nhiên khiến người ta phải bối rối một tổng thể kỳ quặc nhưng thanh lịch, theo xu hướng bái vật giáo: áo trong suốt với đường viền màu đỏ tím, quần soóc da bóng, tất da chân mờ và áo khoác len tối màu với phần tay áo nạm đinh. Cô búi tóc, dùng phấn nền màu ngọc trai tôn bật màu son đỏ như máu.

    - Anh không muốn cùng đi với em sao? Em tới Gun Shot, quán rượu mới khai trương gần kè đấy. Món thủ lợn rán của họ quả là ngon hết chỗ chê. Còn cocktail mojito thì không lời nào tả hết. Thời điểm này quán đang là nơi quy tụ những cô nàng xinh đẹp nhất thành phố đấy.

    - Còn Emily, anh sẽ để con bé một mình trong phòng sao?

    April bác bỏ lý lẽ đó.

    - Ta có thể nhờ cô bé hàng xóm. Cô bé sẽ nhận lời trông trẻ ngay ấy mà.

    Matthew lắc đầu.

    - Anh không muốnn một tiếng nữa đứa con gái mới được bốn tuổi rưỡi của anh thức dậy sau một cơn ác mộng mà lại phát hiện ra rằng bố nó đã bỏ rơi nó để đi uống mojito trong một quán bar dành cho những nàng les quỷ quyệt.

    April bực bội chỉnh lại chiếc vòng ống khắc những đường lượn màu tía đeo nơi cổ tay.

    - Gun Shot không phải quán bar dành cho dân les, - cô nổi cáu. - Vả lại, em nói nghiêm túc đấy Matt, anh cần phải ra ngoài, gặp gỡ mọi người, cố gắng chinh phục phụ nữ, làm tình trở lại..., thế tốt cho anh hơn.

    - Nhưng em nghĩ thế nào mà lại muốn anh yêu trở lại nhỉ? Vợ anh...

    - Em không nói với anh về tình cảm, - cô ngắt lời anh. - Em nói với anh về chuyện làm tình! Từ thể xác tới thể xác, về khoái lạc, về lạc thú của các giác quan. Em có thể giới thiệu bạn gái cho anh. Những cô nàng cởi mở chỉ tìm cách giải trí đôi chút.

    Anh nhìn cô như thể cô là người lạ.

    - Được rồi, em sẽ không cố nài, - cô vừa nói vừa cài cúc áo khoác len. - Nhưng anh chưa từng tự vấn bản thân về suy nghĩ của Kate đâu nhỉ?

    - Anh không hiểu.

    - Nếu có thể nhìn thấy anh từ trên cao kia, chị ấy sẽ nghĩ thế nào về cách xử sự của anh?

    - Làm gì có chốn trên cao kia! Em sẽ không giở cái giọng điệu đó ra đấy chứ!

    Cô bẻ lại ngay.

    - Không quan trọng. Em sẽ nói cho anh biết chị ấy nghĩ gì nhé: chị ấy mong nhìn thấy anh bước tiếp, chị ấy mong anh xốc lại tinh thần, mong rằng ít ra anh cũng cho mình một cơ hội tìm lại niềm ham sống.

    Anh cảm thấy cơn giận dâng lên trong lòng.

    - Làm sao em có thể nói thay cô ấy? Em có biết gì về cô ấy đâu! Thậm chí em còn chưa bao giờ gặp cô ấy!

    - Đúng thế, - April thừa nhận, - nhưng em nghĩ theo cách nào đó, anh thích chìm đắm trong nỗi đau và anh giữ gìn nó, bởi nỗi đau là mối liên hệ cuối cùng vẫn gắn kết anh với Kate và...

    - Thôi ngay trò tư vấn tâm lý như tạp chí phụ nữ đi! - Anh lớn tiếng.

    Tự ái, cô không thèm trả lời anh mà bước ra ngoài và sập cửa lại sau lưng.

    ° ° °

    Còn lại một mình, Matthew tìm được nơi ẩn náu trên tràng kỉ. Anh tu một ngụm bia rồi nằm dài ra và day day mí mắt.

    Khốn nạn...

    Anh không hề muốn làm tình trở lại, không hề muốn vuốt ve một cơ thể khác hoặc ôm hôn một gương mặt khác. Anh cần ở một mình. Anh không cần ai hiểu anh, không cần ai an ủi anh. Anh chỉ muốn ấp ủ nỗi đau của mình, cùng với những bạn đồng hành duy nhất là viên thuốc trung thành và chai bia Corona thân thiết.

    Ngay khi anh nhắm mắt lại, những hình ảnh lại diễu qua trong đầu anh như một cuốn phim đã xem đi xem lại cả trăm lần. Đêm ngày 24 rạng ngày 25 tháng Mười hai năm 2010. Tối hôm đó, Kate có ca trực đến chín giờ tại bệnh viện Nhi Jamaica Plain, chi nhánh của MGH 2chuyên khoa Nhi. Kate đã gọi anh khi hết ca trực.

    - Em phải bỏ xe lại bãi đỗ của bệnh viện, anh yêu ạ. Anh vẫn có lý như thường lệ: đúng là em phải bỏ chiếc xe cà khổ này thôi.

    - Anh đã nói với em cả nghìn lần rồi...

    - Nhưng em gắn bó với chiếc Mazda hai cửa cũ kĩ này lắm! Anh cũng biết đây là chiếc xe đầu tiên em có thể tậu cho mình từ thời sinh viên còn gì!

    - Cưng ơi, hồi đó là thập niên 1990, mà lúc em mua nó đã là xe qua sử dụng rồi...

    - Em sẽ thử bắt tàu điện ngầm.

    - Em đùa hay sao? Giờ này ở khu đó nguy hiểm lắm. Để anh đi mô tô tới đón em.

    - Không, trời đang lạnh lắm, vừa mưa vừa tuyết nữa chứ, đi mô tô không an toàn đâu Matt!

    Vì anh cứ cố nài, rốt cuộc cô đã nhượng bộ.

    - Đồng ý, nhưng anh phải cẩn thận nhé!

    Những lời sau cùng của cô trước khi dập máy.

    Matthew đã lên cưỡi lên chiếc Triumph của mình.

    Trong lúc anh vừa rời khỏi Beacon Hill thì Kate hẳn đã khởi động được chiếc Mazda bé nhỏ của cô. Bởi vào lúc 21 giờ 07, một chiếc xe tải chở bột giao cho các tiệm bánh mì thuộc trung tâm thành phố đã đâm sầm vào xe cô khi cô đang điều khiển xe rời khỏi bãi đỗ của bệnh viện.

    Bị húc vào bức tường bao, chiếc xe đã lộn nhào trước khi hạ cánh lên mui xe tải. Rủi thay, đến lượt chiếc xe tải cũng lật nhào trên vỉa hè, đè nghiến lên chiếc Mazda. Khi Matthew tới bệnh viện, lực lượng cứu thương đang khẩn trương cố gắng lôi Kate nằm kẹt bên dưới đống tôn nát vụn ra. Phải mất hơn một giờ đồng hồ sau họ mới đưa được cô vào viện MGH, nơi cô qua đời ngay trong đêm vì những vết thương quá nặng.

    Tài xế xe tải được thả mà không phải chịu bất cứ truy cứu trách nhiệm nào. Các phân tích độc tố thực hiện với ông ta sau vụ tai nạn cho kết quả dương tính với cần sa, nhưng trong lời khai với cảnh sát ông ta khẳng định vào thời điểm xảy ra va chạm, Kate đang sử dụng điện thoại và cô đã không nhường đường cho xe ông ta.

    Camera giám sát lắp ở lối vào bãi đỗ xe cũng xác nhận lời khai này.

    ° ° °

    Matt mở mắt rồi ngồi dậy. Anh không nên buông xuôi mọi sự như thế này. Anh phải đối diện với thực tế vì Emily. Anh đứng lên tìm việc gì đó làm cho khỏi nhàn cư vi bất thiện. Chữa bài tập của sinh viên chăng? Hay xem một trận bóng rổ trên truyền hình? Rồi mắt anh dừng lại trên cái túi lớn đựng chiếc laptop thanh lý mà anh vừa mua vài giờ trước.

    Anh ngồi trước quầy gỗ trong căn bếp, dỡ chiếc laptop ra khỏi thùng các tông rồi vừa cắm điện vừa quan sát một lần nữa lớp vỏ nhôm kỳ lạ dán hình trang trí “Eva và trái táo”.

    Anh mớ máy và nhìn thấy mẩu giấy nhắn dán trên màn hình. Người đàn ông ở buổi bán thanh lý đã cẩn thận ghi cho anh mã truy cập tài khoản “chủ”.

    Matthew bật laptop lên rồi gõ mật khẩu để vào màn hình chính. Thoạt nhìn, mọi thứ đều bình thường: desktop, màn hình nền, các biểu tượng quen thuộc của hệ điều hành Mac. Anh nhập thông tin cá nhân để kết nối Internet và mất vài phút lục tìm trong các chưong trình để chắc chắn mình có thể mở tất cả các ứng dụng: xử lý văn bản, trình duyệt mạng, hộp thư, quản lý hình ảnh. Khi khởi động phần mềm sau cùng này, anh ngạc nhiên khi bắt gặp một loạt ảnh chụp.

    Lạ thật, vậy mà người bán cam đoan đã định dạng lại ổ cứng...

    Anh ấn một phím trên bàn phím để mở khoảng chục bức ảnh trong phần mềm trình chiếu. Đó là một album ảnh nghỉ hè được trình bày dưới dạng bưu thiếp. Một vùng biển màu lam ngọc, những tấm ván lướt sóng dựng thẳng đứng trên bãi cát trắng xóa, một người đàn ông và một người phụ nữ đang ôm riết nhau và lưu lại hình ảnh của mình trong ánh sáng huyền hoặc buổi hoàng hôn.

    Hawaii chăng? Hay Bahamas? Hay Maldives? Anh vừa băn khoăn tự hỏi vừa hình dung ra tiếng sóng ầm ì và cảm giác gió lùa trong tóc.

    Tiếp nối biển là màu xanh bạt ngàn khi hiện ra những phong cảnh có nhiều thung lũng, những tòa lâu đài, những vườn nho, quảng trường của một ngôi làng nhỏ.

    Pháp hoặc Toscana thuộc Ý, anh đoán chắc.

    Tò mò vì phát hiện này của mình, anh dừng trình chiếu rồi nhấp chuột vào từng tấm ảnh một để hiển thị thêm thông tin. Ngoài thông số kĩ thuật, mỗi tấm trong số đó còn kèm theo một lời chú “chụp bởi emma.lovenstein@imperatornyc.com".

    Emma Lovenstein...

    Anh lập tức liên hệ với chữ ký xuất hiện bên dưới hình minh họa trang trí vỏ laptop.

    “Emma L.”

    Rõ ràng là tên người chủ cũ của chiếc máy.

    Anh dùng chuột cảm ứng chọn toàn bộ ảnh chụp, di chuyển chúng vào thùng rác định xóa hết. Đúng lúc sắp thao tác lệnh xóa, anh bỗng thấy ngờ ngợ, và do cẩn trọng đã thảo một bức mail ngắn nội dung như sau:

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Ảnh chụp

    Chào cô Lovenstein,

    Tôi là chủ nhân mới của chiếc MacBook trước kia thuộc về cô.

    Trong ổ cứng máy tính cũ của cô còn vài tấm ảnh.

    Cô có muốn tôi gửi lại không hay là tôi có thể xóa đi?

    Cho tôi biết nhé.

    Chúc cô mọi điều tốt lành,

    Matthew Shapiro

    --------------------------------
    1 Nơi tránh bão. (Chú thích của tác giả)
    2 Massachusetts General Hospital: bệnh viện công lớn thuộc Đại học Boston. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:44 PM.

  4. #4
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết





    4. Strangers in the night 1
    Tôi không tin vào giá trị của những sự tồn tại riêng rẽ.
    Không ai trong chúng ta trọn vẹn nếu chỉ có một mình.
    - Virginia WOOLF


    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Hồi đáp: Ảnh chụp

    Anh thân mến,

    Tôi nghĩ anh đã nhầm địa chỉ. Nếu được sở hữu một chiếc MacBook thì tôi sẽ chẳng đời nào bán đi! Vậy nên những bức ảnh anh đang giữ không phải của tôi ;-)

    Thân mến,

    Emma

    Emma Lovenstein

    Phó quản lý quầy rượu nhà hàng Thống Soái

    30 Rockefeller Plaza New York, NY 10020

    2 phút sau.

    Tôi hiểu rồi. Xin lỗi vì đã nhầm lẫn.

    Chúc buổi tối tốt lành. Matthew

    P.S: Cô làm việc ở Thống Soái sao?

    Vậy thì có lẽ chúng ta từng gặp nhau rồi. Vợ chồng tôi đã tới mừng dịp kỉ niệm tròn một năm quen nhau!

    45 giây sau..

    Thật sao? Khi nào thế?

    1 phút sau.

    Cách đây hơn bốn năm rồi. Ngày 25 tháng Mười.

    30 giây sau.

    Vậy thì là vài tuần trước khi tôi nhận việc! Tôi hi vọng anh vẫn giữ kỉ niệm tốt đẹp về nhà hàng.

    1 phút sau.

    Đúng vậy, rất tuyệt vời. Thậm chí tôi vẫn còn nhớ được vài món: đùi ếch thắng đường, ức bê nấu nấm củ và một suất bánh hạnh nhân gạo sữa!

    30 giây sau.

    Thế còn các loại rượu vang? Các loại khác?

    1 phút sau.

    Chắc chắn tôi sẽ khiến cô thất vọng thôi, Emma, nhưng nói thật, tôi không uống rượu vang và không bao giờ ăn pho mát...

    1 phút sau.

    Buồn nhỉ! Anh khônq biết mình đã bỏ lỡ những gì đâu. Nếu anh quay lại nhà hàng, tôi sẽ giúp anh khám phá vài chai vang tuyệt hảo! Anh sống ở New York chứ Matthew?

    30 giây sau.

    Không, ở Boston. Beacon Hill.

    20 giây sau.

    Cũng gần mà! Vậy mùa thu tới nhớ mời vợ anh đến nhà hàng ăn mừng kỉ niệm năm năm ngày hai người gặp nhau lần đầu nhé!

    3 phút sau.

    Chuyện đó khó lắm: vợ tôi mất rồi.

    1 phút sau.

    Tôi ngại quá. Thành thực xin lỗi anh.

    1 phút sau.

    Cô làm sao biết được chuyện đó, Emma. Chúc buổi tối tốt lành.

    ° ° °

    Matthew đứng phắt dậy rồi rời xa chiếc laptop. Đây là điều người ta vẫn chuốc lấy khi nói chuyện với những người xa lạ qua Internet! Ý định của anh là gì khi khởi xướng cuộc đối thoại siêu thực này? Anh xóa lốc ảnh không chút tiếc nuối rồi khui thêm một chai Corona.

    Cuộc trò chuyện này khiến anh phật ý nhưng nó cũng khiến anh thấy thèm ăn thứ gì đó! Vào tới gian bếp tủ lạnh để rồi nhận ra rằng nó rỗng không.

    Hợp lý thôi, nó đâu có thể tự đầy lên được... một giọng khẽ thì thầm vói anh.

    Lục lọi trong tủ lạnh, cuối cùng anh cũng lôi ra một chiếc pizza rồi để vào lò vi sóng. Anh đặt thời gian nướng rồi quay lại trước màn hình máy tính. Anh vừa nhận được một thư mới từ Emma Lovenstein...

    ° ° °

    Khổ chưa, nói hớ không để đâu cho hết! Nhưng làm sao mình có thể ngờ được là vợ anh ta đã qua đời cơ chứ? Emma tự trách mình.

    Cuộc trò chuyện này khiến cô đâm ra tò mò. Cô gõ hú họa “Matthew Shapiro + Boston” vào ô tìm kiếm trên Google. Những kết quả đầu tiên hiện ra dẫn tới website chính thức của đại học Harvard. Tò mò, cô nhấp chuột vào link đầu tiên và đọc được tiểu sử vắn tắt của một trong những giảng viên khoa Triết. Có vẻ như người đàn ông bí ẩn đang trao đổi qua email với cô hiện giảng dạy tại trường đại học danh tiếng này. Sơ yếu lý lịch của người giảng viên có ảnh chụp kèm theo. Xem qua ảnh thì Shapiro là một gã tóc nâu điển trai, tuổi khoảng bốn mươi và mang vẻ lịch lãm quyến rũ của John Cassavetes. Cô ngập ngừng vài giây rồi để mặc những ngón tay mình lướt trên bàn phím:

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Anh đã ăn tối chưa hả Matthew?

    ° ° °

    Matthew nhướng mày. Anh không thích người khác can dự kiểu này vào cuộc sống của anh. Tuy thế, anh vẫn trả lời ngay:

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenatein

    Nếu cô muốn biết rành rẽ thì trong lò vi sóng nhà tôi có một chiếc pizza

    đang được rã đông.

    30 giây sau.

    Được rồi, kệ chiếc pizza đông lạnh đó đi, Matthew.

    Tôi đề nghị với anh thế này nhé.

    Anh biết cửa hàng thực phẩm Zellig Food trên phố Charles không? Quầy bán pho mát và thịt lợn của họ quả là danh bất hư truyền.

    Nếu anh muốn có một bữa tối ngon miệng thì hãy ghé qua đó.

    Chọn lấy một trong những loại pho mát dê ngon lành. Thí dụ chọn một trong những món đặc sản của họ như phô mai nhồi trong quả phỉ hoặc pho mát dùng kèm mù tạt. Phải, tôi biết, hỗn hợp đó có thể khiến người ta nhảy dựng lên, nhưng nếu chiêu bằng một ly vang trắng làm từ nho Sauvignon vùng Loire - thêm một ly vang Sancerre hoặc một ly vang trắng Pouilly- fumé - thì hợp vô cùng.

    Tôi khuyên anh cũng nên nếm thử món patê gan ngỗng rắc vụn vỏ bánh mì và hạt dẻ cười sẽ kết hợp hoàn hảo với vị êm của một ly bourgogne vùng Côte de Nuits! Nếu nhìn thấy một chai Gevre Chambertin năm 2006, anh nhớ mua luôn nhé!

    Gợi ý của tôi là vậy đó. Rồi anh sẽ thấy những thứ đó tuyệt hơn cái món pizza đông lạnh kia đấy...

    Emma

    P.S: Tôi vừa tra trên mạng: từ Beacon Hill, anh thậm chí có thể đi bộ tới Zellig Food, nhưng anh phải khẩn trương lên, 22 giờ là chỗ đó đóng cửa rồi...

    Matthew đang ngồi trước màn hình máy tính chỉ còn biết lắc đầu. Đã quá lâu rồi không ai quan tâm đến miếng ăn giấc ngủ của anh... Rồi anh bình tâm lại và ngay lập tức cảm thấy phẫn nộ. Cái cô Emma Lovenstein này lấy quyền gì mà tự cho phép mình áp đặt cho anh thời gian biểu tối nay?

    Bực bội, anh đăng xuất hộp thư điện tử để khởi động trình duyệt mạng. Nhượng bộ nỗi tò mò của bản thân, anh gõ “Enmm Lovenstein + quản lý rượu” rồi nhấp chuột vào ô Tìm kiếm. Anh tiếp tục nhấp chuột vào kết quả đầu tiên: một bài báo mạng được đăng tải từ năm trước trên tạp chí Wine Spectator. Với nhan đề “Mười tài năng trẻ cần theo sát”, bài báo phác ra chân dung thế hệ những người quản lý rượu mới. Lạ lùng thay, phần lớn những “tài năng trẻ” này đều là nữ giới. Chân dung gần cuối là của Emma, được minh họa bằng một bức ảnh góc rộng, chụp trong hầm rượu công nghệ cao của nhà hàng Thống Soái. Matthew zoom vào bức ảnh để nhìn rõ. Không còn nghi ngờ gì nữa: gương mặt người quản lý rượu trẻ trung trong bài báo với người phụ nữ mà anh nhìn thấy qua loạt ảnh chụp kỳ nghỉ tìm được trong ổ cứng laptop chỉ là một. Một cô gái tóc nâu xinh xắn với đôi mắt tươi vui và nụ cười tinh nghịch.

    Thật lạ... Tại sao cô ta lại khẳng định chiếc máy này không phải của cô ta? Khó chịu? Ngại ngùng? Có thể lắm, nhưng nếu là vậy, tại sao cô ta còn tiếp tục trò chuyện với mình?

    Lò vi sóng phát ra âm thanh báo hiệu chiếc pizza đã được nướng chín.

    Thay vì đứng dậy, Matthew lại nhấc điện thoại bàn lên để gọi sang nhà hàng xóm. Anh hỏi liệu cô con gái tên Elizabeth của họ có rảnh để sang đây trông chừng Emily trong khoảng nửa tiếng đồng hồ không. Anh muốn ghé Zellig Food mua vài thứ và phải xuất phát ngay bây giờ: chỗ đó sẽ đóng cửa vào lúc 22 giờ...

    ° ° °

    Boston

    Khu Back Bay

    1 giờ sáng

    Quán rượu rung chuyển theo nhịp bass của một ca khúc electro-dance thời thượng. April chen lấn để thoát ra khỏi đám đông tụ tập trong Gun Shot và hút một điếu thuốc.

    Chà, mình cũng ngà ngà rồi đấy... cô vừa bước chệnh choạng trên vỉa hè vừa nghĩ vậy. Không khí mát mẻ buổi đêm khiến cô thấy dễ chịu. Cô đã uống quá nhiều, nhảy quá nhiều, tán gái quá nhiều. Cô vừa chỉnh lại dây áo lót vừa tra giờ trên đồng hồ đeo tay. Cũng muộn rồi. Cô lấy điện thoại di động gọi cho hãng taxi yêu cầu xe đến đón rồi vừa đưa điếu thuốc lên môi vừa lục trong túi tìm bật lửa.

    Cái bật lửa chết tiệt ấy biến đâu rồi nhỉ?

    - Có phải chị tìm cái này không? - Một giọng cất lên sau lưng cô.

    April quay lại và nhìn thấy một cô gái tóc vàng với nụ cười rạng rỡ. Julia, cô gái mà cô đã không ngừng nhìn chăm chú như muốn nuốt chửng lấy suốt cả buổi tối, tuy thế Julia lại không hề đáp trả bất cứ động thái tán tỉnh nào từ phía cô. Mái tóc cắt ngắn kiểu California, ánh mắt long lanh, vóc dáng quyến rũ của kiều nữ trên đôi giày cao chót vót: đúng kiểu có thể hớp hồn April.

    - Chị để quên trên quầy bar, - cô gái vừa giải thích vừa mở chiếc bật lửa bằng xà cừ và sơn mài màu hồng.

    April tiến lại gần để châm thuốc. Như bị thôi miên bởi làn da trắng muốt, khuôn miệng gợi cảm và những đường nét thanh tú của người đối diện, cô cảm thấy một khao khát cháy bỏng dâng lên tự đáy lòng.

    - Bên trong kia khó mà nghe được ai nói gì, - Julia nhận xét.

    - Đúng vậy. Tuổi tôi không chịu nổi thứ nhạc này nữa rồi, - April đùa.

    Một cú nháy pha thu hút sự chú ý của hai cô nàng tiệc tùng.

    - Taxi tôi gọi đấy, - April giải thích rồi chỉ chiếc xe đang dừng trước quán bar. - Nếu cô muốn tiện thể về cùng thì...

    Julia tỏ ra ngần ngừ mất vài giây. Chính cô là người dẫn dắt cuộc chơi và cô biết điều đó.

    - Nhất trí, chị tử tế quá. Chị sẽ không phải vòng vèo lắm đâu. Tôi sống ngay gần đây thôi, phố Pembroke.

    Hai cô gái ngồi vào ghế sau xe. Trong khi chiếc taxi rời khỏi kè sông Charles, Julia khẽ tựa đầu vào vai April, người đang muốn ôm hôn Julia kinh khủng. Nhưng cô không làm gì hết, thấy ngại khi bắt gặp cái nhìn chằm chằm của người tài xế.

    Đừng tưởng là ông sắp được rửa mắt nhé... cô thách thức người tài xế bằng cách nhìn chằm chằm vào kính chiếu hậu.

    Quãng đường khá ngắn nên chưa đầy năm phút sau, chiếc xe đã dừng lại giữa một con phố nhỏ hai bên cây cối xanh um.

    - Nếu chị muốn lên nhà uống một ly... - Julia hờ hững đề nghị. - Một cô bạn thời sinh viên vừa gửi cho tôi nước ép lô hội. Thứ đồ uống khá lạ do cô ấy tự làm! Chị sẽ thích cho mà xem.

    April thoáng nở một nụ cười, khoái chí khi nghe thấy lời mời; tuy nhiên, vào giây phút quyết định, điều gì đó đã giữ cô lại. Một nỗi lo ngấm ngầm khiến cô canh cánh trong lòng và thắng thế so với dục vọng. Cô thực sự ưng cô nàng Julia này, nhưng cô cảm thấy lo cho Matthew. Hồi tối khi rời khỏi nhà, cô đã thấy anh vô cùng suy sụp, thậm chí có thể sắp làm điều gì dại dột cũng nên... Điều này rõ ràng là vô lý, nhưng cô không tài nào gạt được ý nghĩ ấy ra khỏi đầu. Cô cứ hình dung khi về đến nhà sẽ thấy anh đã treo cổ trên một thanh xà hoặc đang trong một cơn hôn mê sau khi uống thuốc tự vẫn.

    - Nghe này, tôi hào hứng lắm nhưng ngay lúc này lại không thể lên chơi được, - cô ấp úng.

    - Được thôi, tôi hiểu mà… - Julia phật ý.

    - Không, khoan đã! Cho tôi số điện thoại đi. Chúng ta có thể…

    Quá muộn rồi. Cô nàng tóc vàng đã đóng sập cửa xe lại.

    Khốn kiếp…

    April thở dài rồi dặn tài xế chở cô đến góc Mount Vernon giao với phố Willow. Suốt quãng đường về, cô cứ bồn chồn hết cả ruột gan. Tuy mới quen biết Matthew một năm nay nhưng cô đã thực sự gắn bó với anh và cô nhóc Emily. Dù cảm động trước nỗi đau của anh nhưng bất hạnh thay, cô không biết phải làm thế nào để giúp anh: Matthew dành cho vợ một tình yêu sâu sắc đến nỗi April thấy trước mắt khó lòng có người phụ nữ nào khác tìm được chỗ đứng trong cuộc sống của anh. Kate rạng ngời, xinh đẹp, trẻ trung, bao dung độ lượng. Người phụ nữ nào dám cạnh tranh với một chuyên gia phẫu thuật tim có thân hình người mẫu đây?

    Chiếc xe đã tới trước căn townhouse. April thanh toán tiền xe rồi mở cửa chính vào nhà, cố gắng không gây nhiều tiếng động. Cô tưởng sẽ trông thấy Matthew đang nằm dài trên tràng kỉ mà ngáy, bị hạ gục bởi món cocktail bia pha thuốc chống trầm cảm. Thay vào đó, cô thấy anh đang bình thản ngồi trước màn hình chiếc laptop mới tậu. Đầu anh lắc lư theo nhịp một ca khúc nhạc jazz và một nụ cười phóng khoáng thắp sáng gương mặt anh.

    - Đã về rồi sao? - Anh ngạc nhiên.

    - Ồ vâng, anh cứ việc giấu niềm vui được gặp lại em đi! - Cô trả lời anh, lòng nhẹ nhõm.

    Trên bàn bếp, cô nhìn thấy mấy chai vang đã mở cùng chỗ pho mát hảo hạng và patê nhồi trong vỏ bánh mì.

    - Theo em thấy thì anh chẳng nhịn món gì nhỉ! Anh ra ngoài mua đồ ăn sao? Thế mà em cứ nghĩ anh không muốn chui ra khỏi hang cơ đấy.

    - Anh ngán ăn đồ đông lạnh rồi, - Matthew vụng về phân trần.

    Cô nhìn anh đầy ngờ vực rồi tiến về phía anh.

    - Anh đang vui vẻ với món đồ chơi mới đấy à, - cô vừa cúi nhìn qua vai Matthew vừa chọc anh.

    Matthew nhanh tay gập ngay màn hình xuống. Anh bối rối tìm cách giấu những bức ảnh mình đã in ra sau khi khôi phục từ thùng rác của máy tính. Nhưng April đã nhanh hơn anh và vồ được chỗ ảnh.

    - Cô nàng trông xinh xắn đấy, - cô phán trong lúc xem xét loạt ảnh chụp Emma. - Ai thế?

    - Người quản lý rượu của một nhà hàng lớn tại New York.

    - Và loại nhạc này là sao vậy? Em cứ nghĩ anh không ưa nhạc jazz.

    - Đây là Keith Jarrrett, đĩa Koln Concert. Em có biết âm nhạc có thể tác động đến quá trình thưởng thức rượu vang không? Giới nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhiều bản nhạc jazz kích thích não bộ cho phép cảm nhận rõ nét hơn chất lượng của những loại vang nổi tiếng. Điên nhỉ?

    - Nghe thú vị đấy chứ. Bạn gái mới của anh bảo vậy sao?

    - Đấy không phải “bạn gái” anh. Đừng có lố bịch như vậy chứ April.

    Cô gái chỉ tay về phía Matthew vẻ đầy lên án.

    - Anh đã làm em lỡ mất phi vụ thế kỉ, chỉ vì em lo lắng cho anh thôi đấy!

    - Cảm ơn em vì đã quan tâm, nhưng anh có đòi hỏi em phải thế đâu nhỉ.

    Cô cao giọng nói tiếp:

    - Em cứ hình dung anh bị trầm uất rồi tự tử trong khi anh lại đang chè chén, thưởng thức rượu vang hảo hạng cùng một cô gái quen qua Internet.

    - Khoan đã, em đang bày trò gì với anh thế? Một cơn ghen hay sao?

    Cô chủ gallery xinh đẹp tự rót cho mình một ly rượu vang và phải mất nhiều phút mới bình tĩnh lại được.

    - Được rồi, cô gái đó là ai vậy?

    Matthew bắt April năn nỉ một thôi một hồi mới chịu kể cho cô nghe buổi tối anh đã trải qua, từ lúc phát hiện loạt ảnh trong ổ cứng máy tính cho đến cuộc trò chuyện kỳ lạ đã hình thành giữa Emma và anh. Trên bàn phím, trong gần ba tiếng đồng hồ, họ đã đề cập đến hàng loạt chủ đề thông qua hàng chục thư điện tử. Họ đã chia sẻ niềm đam mê dành cho Cary Grant, Marilyn Monroe, Billy Wilder, Gustav Klimt, phim Thần Vệ nữ ở Milo, Bữa sáng tại Tiffany’s và The Shop Around the Corner. Họ cũng lặp lại những cuộc tranh luận lâu đời: Beatles đối Rolling Stones, Audrey đối Katharine Hepbum, Red Sox đối Yankees, Frank Sinain đối Dean Martin. Họ đã bất đồng khi bàn về Lost in Translation, đối với Matthew là bộ phim “được đánh giá cao quá mức”, còn với Emma lại là “kiệt tác không thể vượt qua”. Họ hỏi nhau xem Stefan Zweig thành công nhất với truyện ngắn nào, bức tranh nào của Edward Hopper khiến họ cảm động nhất, bài hát nào đỉnh nhất albumUnplugged của Nirvana. Mỗi người đã giở hết lý lẽ của mình để biết liệu Jane Eyre có xuất sắc hơn Kiêu hãnh và Định kiến, liệu đọc tiểu thuyết trên iPad có dễ chịu hơn là lật trang của một cuốn sách in hay không, liệu Off the Wall có đỉnh hơn Thriller, liệu Mad Men có phải xê ri phim truyền hình hay nhất thời điểm này không, liệu phiên bản acoustique của Layla có hay hơn bản gốc không, liệu Get Yer Ya-Ya's Out! có phải là album live hay nhất mọi thời đại hay không, liệu...

    - Được rồi, thế là đủ rồi, em đã hiểu, - April ngắt lời anh. - Và ngoại trừ những chuyện đó ra, cả hai người đã nhất trí tiến hành một màn chat sex chứ?

    - Không, em nghĩ thế không ổn chút nào! - Anh phẫn nộ kêu lên. - Bọn anh chỉ nói chuyện với nhau thôi, không gì khác.

    - Dĩ nhiên rồi...

    Matthew lắc đầu. Anh không thích câu chuyện lại xoay sang hướng này.

    - Thế ai bảo với anh rằng đúng là cô gái tóc nâu xinh xắn này đang ngồi trước màn hình máy tính bên kia? - April hỏi. - Đánh cắp tài khoản đăng nhập là chuyện thường gặp trên mạng đó. Rất có thể suốt ba giờ đồng hồ qua, mặc dù không hay biết gì nhưng anh đã trò chuyện với một ông già bụng phệ tuổi chừng tám mươi cũng nên...

    - Đúng là em đã quyết tâm phá hỏng buổi tối của anh...

    - Ngược lại thì có, em vui khi thấy anh đã hoạt bát trở lại, nhưng em không muốn anh thất vọng và mất nhiều thời gian nếu con người này không thực sự là người như anh nghĩ.

    - Vậy em bảo anh phải làm thế nào?

    - Nên gặp gỡ cô ta ngay chứ đừng chần chừ. Tại sao anh không mời cô ta ăn một bữa tại nhà hàng đó nhỉ?

    Anh lắc đầu.

    - Em điên rồi, làm vậy thì quá sớm! Cô ấy sẽ nghĩ là…

    - Cô ta sẽ chẳng nghĩ gì hết! Sắt phải luyện ngay khi còn nóng. Thời buổi này mọi chuyện đều phải nóng sốt như thế mới được. Có thể thấy rõ là đã quá lâu rồi anh không còn tham gia trò chơi quyến rũ nữa.

    Băn khoăn, Matthew phải suy nghĩ mất một lúc. Anh cảm thấy mình không còn làm chủ được tình thế. Anh không muốn đẩy nhanh mọi việc, cũng không muốn thuận theo cảm xúc hăng hái quá mức này. Nói cho cùng, anh không thực sự biết cô gái tên Emma Lovenstein này. Nhưng anh buộc phải thừa nhận rằng giữa hai người họ đã có một sự kết nối, một niềm vui khi trò chuyện, vài giờ xả hơi giữa nỗi buồn của cuộc sống thường nhật. Anh cũng thích khía cạnh lãng mạn trong cơ duyên gặp gỡ của họ, vai trò của sự tình cờ trong đó hoặc thậm chí có lẽ là... số phận.

    - Cứ mời cô ta càng sớm càng tốt, - April khuyên nhủ một lần nữa. - Nếu anh cần, em sẽ trông Emily giúp anh.

    Cô cố nén một cái ngáp rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

    - Em uống quá chén rồi, em đi ngủ đây, cô vừa báo trước vừa vẫy tay chào anh.

    Matthew vẫy lại rồi nhìn cô đi lên gác. Ngay khi còn lại một minh, anh mở laptop ra rồi vội vã nhấp chuột vào nút làm mới hộp thư. Không có thư mới nào từ Emma. Có lẽ là cô đã chán rồi. Có lẽ April nói đúng. Có lẽ anh không nên mong đợi quá nhiều.

    Anh quyết định tìm hiểu sự việc cho rõ ràng.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Thân mời

    Cô vẫn ngồi trước máy tính chứ Emma?

    1 phút sau.

    Tôi đang nằm trong giường, Matthew, nhưng laptop vẫn đang để ngay cạnh.

    Tôi đã tải cuốn Phản giáo trình Triết học của anh về Kindle rồi và đang đọc ngấu nghiến đây. Tôi không biết Cicéron tiếng Latin lại có nghĩa là “đậu gà” đâu nhé ; -).

    Như chịu tác động của một sức mạnh vô hình, Matthew cả gan làm điều khó mà tin nổi.

    45 giây sau.

    Tôi có một lời đề nghị dành cho cô, Emma ạ. Tôi biết một nhà hàng nhỏ chuyên đồ Ý trong khu East Village - nhà hàng số 5 - phía Nam công viên Tompkins Square.

    Nhà hàng do Vittorio Bartoletti cùng vợ điều hành, cả hai đều là bạn thời niên thiếu với tôi. Mỗi lần tới New York, chủ yếu để tham gia vào chuỗi hội nghị của nhà sách Morgan, tôi ghé qua chỗ họ ăn tối.

    Tôi không biết thực đơn các loại rượu vang của họ đáng giá ngần nào nhưng nếu cô thích món cơm viên chiên arancini kiểu Bologna, món mì dẹt lasagne bỏ lò, món mì tươi tagliatelle nấu ra gu và món bánh cannoli kiểu Sicile, thì địa chỉ ẩm thực này hẳn sẽ khiến cô hài lòng.

    Cô nhận lời tới đó dùng bữa tối với tôi chứ?

    30 giây sau.

    Tôi rất vui lòng nhận lời mời đó, Matthew ạ. Lần tới anh đến New York là khi nào vậy?

    30 giây sau.

    Hội thảo lần tới được lên chương trình vào ngày 15 tháng Một, nhưng có lẽ chúng ta nên gặp nhau trước đó.

    Tại sao không phải là tối mai nhỉ?

    Vào lúc 20 giờ?

    ° ° °

    Ngày mai...

    Ngày mai!

    NGÀY MAI!

    Emma muốn nhảy dựng lên ngay trên giường. Điều này tuyệt đến mức khó tin!

    - Mày nghe thấy chưa Clovis? Một gã chuẩn không cần chỉnh, lại trí tuệ đầy mình muốn mời tao ăn tối! Một giảng viên Triết học vô cùng gợi tình đã đổ cái rầm vì tao! - Cô thông báo bằng giọng cường điệu với chú chó đang thiu thiu ngủ ở chân giường.

    Chú chó giống Shar-pei cần nhiều hơn thế mới có thể cảm động, nhưng chú vẫn phát ra một tiếng gừ gừ lịch thiệp.

    Emma mừng quýnh. Cô đã có một buổi tối hoàn hảo đến không ngờ. Chỉ qua vài bức thư điện tử, Matthew Shapiro đã thắp sáng lại vầng dương và niềm tin trong cuộc đời cô. Và tối ngày mai, cô sẽ gặp anh bằng xương bằng thịt. Chỉ trừ có điều, tối mai... cô phải làm việc.

    Bỗng nhiên thấy lo, Emma ngồi dậy tựa vào gối và thiếu chút nữa thì đánh đổ tách trà cỏ roi ngựa. Đó là sự ràng buộc lớn trong nghề của cô: mọi buổi tối cô đều không rảnh. Cô vẫn còn ngày phép, nhưng cô không thể hôm trước xin phép rồi hôm sau nghỉ luôn được. Thủ tục khá nhiêu khê, và trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng, tháng Mười hai là tháng vô cùng đông khách.

    Cô suy nghĩ giây lát rồi quyết định không lo lắng chuyện đó nữa. Cô sẽ nhờ một trong số đồng nghiệp đổi ca tối cho mình. Làm thế cũng khá phức tạp, nhưng khả dĩ tiến hành. Dù thế nào, không thể có chuyện cô bỏ lỡ “cuộc hẹn bướm ong”, như bà cô hẳn sẽ nói.

    Nghĩ vậy nên cô cười rạng rở trước khi thảo bức mail cuối cùng trong đêm:

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Hồi đáp: Thân mời

    Nhất trí vậy nhé, Matthew. Tôi sẽ xoay xở để tới đúng hẹn.

    Cảm ơn vì buổi tối hết sức dễ chịu.

    Hẹn ngày mai!

    Chúc anh ngủ ngon.

    P.S: Tôi mê mì dẹt lasagne và cơm viên chiên arancini lắm... Và cả bánh tiramisu nữa!

    --------------------------------
    1 Tiếng Anh trong nguyên bản: Những người lạ trong đêm.
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:45 PM.

  5. #5
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ngày thứ hai

    5. Giữa hai người họ
    Ngay cả để đóng vai chính mình thì vẫn cần hóa trang.
    - Stanislaw Jerzy LEC


    Ngày hôm sau

    Boston

    12 giờ 15

    Matthew đóng cửa lại sau lưng rồi bước xuống bậc tam cấp dẫn từ nhà xuống phố.

    Nếu hôm qua trời mưa thì lúc này những con phố nhỏ khu Beacon Hill đã ngập tràn ánh nắng. Mùi hương của tầng rừng thấp phảng phất qua quảng trường Louisburg và những tia sáng màu cam tôn bật sắc thu trong công viên. Túi đeo chéo trên vai, anh đội chiếc mũ bảo hiểm được thiết kế cản gió, cưỡi lên xe đạp rồi vừa nhấn vài vòng pê đan vừa huýt sáo để tới phố Pinckney. Lòng anh đã không còn được nhẹ nhõm thế này từ khi nào nhỉ? Suốt một năm qua, anh đã sống như một bóng ma, nhưng sáng nay anh thức dậy với tâm trí minh mẫn. Anh đã dạy ba tiếng phụ đạo ở trường rồi bông đùa với sinh viên vì tìm lại được niềm vui trong việc giảng dạy với tâm trạng vui tươi.

    Ruột gan anh không còn cảm giác quặn thắt nữa. Anh cảm thấy cuộc sống quay cuồng xung quanh mình, và anh lại có cảm giác đang dự phần vào chuyển động đó. Say với cảm giác mới tìm lại được, anh tăng tốc rồi từ tốn xuôi theo lối rẽ vào phố Brimmer. Gió thổi mơn man trên khuôn mặt anh. Anh đạp nhanh hơn nữa khi nhìn thấy Public Garden, hòa vào làm một với chiếc xe đạp để rẽ không khí trong một cảm giác tự do ngây ngất. Anh tận hưởng khoảnh khắc này, thong thả đạp xe dọc công viên, cho đến đoạn rẽ phải vào phố Newbury.

    Hai bên san sát những quán cà phê sang trọng, phòng trưng bày nghệ thuật và cửa hàng thời trang, tuyến đường huyết mạch này là một trong những nơi tấp nập nhất khu Back Bay. Những ngày đẹp trời, thiên hạ đổ dồn về những khoảng sân hiên của phố vào giờ ăn trưa. Matthew khóa xe đạp lại trước một căn bownstone ốp sa thạch sẫm màu hết sức trang nhã, tầng trệt được bố trí thành nhà hàng. Bistro 66 là chỗ anh thường lui tới mỗi khi dùng bữa trưa cùng April. Bên ngoài vẫn còn một bàn, anh vội lao tới chiếm sau khi đã ra hiệu cho người phục vụ. Vừa ngồi xuống ghế, anh lôi chiếc laptop mới từ trong túi xách ra rồi kết nối với mạng wifi của nhà hàng. Chỉ bằng vài cú nhấp chuột, anh đặt một vé máy bay tới New York thông qua website của hãng Delta Airlines. Chuyến bay lúc 17 giờ 15 cho phép anh có mặt tại sân bay JFK lúc 19 giờ. Vừa kịp để đúng hẹn ăn tối cùng Emma. Ngay sau đó, anh gọi tới nhà hàng Số 5 và gặp ngay cô bạn Connie. Đã lâu rồi họ không gặp nhau. Cô vui khi biết anh gọi và có hàng đống chuyện để kể cho anh, nhưng giờ là lúc rất đông khách dùng bữa trưa, mà một trong những phục vụ bàn của quán lại nghỉ ốm. Cô ghi lại giờ anh muốn đặt bàn và hân hoan vì ngay tối hôm đó có thể nói chuyện cùng anh trong không gian yên tĩnh hơn.

    - Chỗ này có người ngồi rồi sao anh giai?

    Matthew dập máy rồi nháy mắt với April.

    - Chỗ này vẫn trống, và nó chỉ còn chờ mỗi em thôi đấy.

    Cô ngồi xuống dưới tấm sưởi điện đang cung cấp nhiệt cho sân hiên rồi giơ tay để gọi một ly Pinot Gris và một đĩa chả cua.

    - Anh dùng gì?

    - Một đĩa nhỏ xa lát Caesar và một nước tinh khiết.

    - Anh đang ăn kiêng đấy hả?

    - Anh để dành bụng tối nay đi ăn tiệm.

    - Thật chứ? Anh đã mời cô nàng quản lý rượu xinh xắn ấy đi ăn hả? Chúc mừng nhé Matt, em hãnh diện về anh!

    Những món đồ uống của họ được mang ra. April nâng ly rượu lên rồi họ vui vẻ cụng ly với nhau.

    - Mà này, anh đã định đóng bộ gì chưa đấy? - Cô hỏi giọng lo lắng.

    Matthew nhún vai.

    - Chà, không có gì đặc biệt đâu. Anh nghĩ sẽ tới đó như thế này thôi.

    Cô nhướng mày rồi nhìn anh chằm chặp từ đầu đến chân.

    - Với chiếc quần baggy rộng thùng thình, một chiếc áo nỉ chui đầu có mũ cũ kĩ, đôi Converse dành cho thanh niên và một chiếc áo khoác quân đội ư? Em hi vọng là anh đùa đấy chứ! Còn chưa kể đến mái tóc bờm xờm và bộ râu kiểu người nguyên thủy của anh nữa.

    - Em đừng có quá lời như vậy.

    - Nhưng em có quá lời chút nào đâu hả Matt! Anh thử suy nghĩ năm phút mà xem: cô gái này làm việc tại một trong những nhà hàng nổi tiếng nhất Manhattan. Khách hàng của cô ấy là các doanh nhân, các nhân vật nổi tiếng trong làng nghệ thuật và thời trang, những người thanh lịch và trang nhã, ăn mặc chải chuốt. Cô ta sẽ lầm tưởng anh là gã nhà quê hoặc sinh viên già mất.

    - Nhưng anh sẽ không chơi trò đóng giả làm người khác đâu!

    Cô bác bỏ ngay lý lẽ này.

    - Chỉ cuộc gặp đầu tiên sắp diễn ra này thôi, không hơn không kém. Vẻ bề ngoài quan trọng lắm đấy: ấn tượng ban đầu luôn luôn khắc sâu trong tâm trí mỗi người mà.

    Matthew phát bực.

    - Yêu ai đó chỉ vì vẻ bề ngoài của họ thì chẳng khác nào thích một cuốn sách vì bìa sách đẹp 1!

    - Được thôi: cứ việc khoái trá với những câu tầm chương trích cú của anh đi. Nhưng tối nay thì anh sẽ chẳng lên mặt như thế được nữa đâu...

    Anh thở dài, nét mặt sa sầm. Anh cuốn một điếu thuốc, ngập ngừng nửa muốn châm nửa không, rồi sau vài giây suy nghĩ, rốt cuộc cũng chịu đầu hàng: - Thôi được rồi, có lẽ em nên cho anh vài ba lời khuyên...

    ° ° °

    New York

    13 giờ

    - Lovenstein, cô điên rồi hay sao! - Peter Benedict vừa đẩy cánh cửa trong mờ dẫn vào hầm rượu của nhà hàng Thống Soái vừa hét lớn.

    Viên quản lý rượu tiến nhanh một bước về phía cấp dưới của mình đang sắp xếp các chai rượu trong một tủ kim loại.

    - Cô nảy ra ý định mua mấy chai rượu này nhân dịp gì thế? - Anh ta vừa cao giọng vừa giơ ra một tờ giấy in màu kem.

    Emma liếc qua tờ giấy. Đó là một tờ hóa đơn trên đầu có ghi thông tin liên hệ của một website chuyên bán những loại rượu vang đặc biệt qua mạng. Nó liệt kê ba chai rượu khách đặt mua:

    1. Domaine de la Romanée Conti, 1991

    1. Ermitage Cuvée Cathelin, J.L. Chave, 1991

    1. Graacher Himmelreich, Auslese, Domaine J.J. Prum, 1982

    Một chai bourgogne huyền thoại và hoa lệ, một chai syrah thanh nhã và quý phái, một chai riesling thành phần phức tạp vị ngọt ngào. Ba chai vang với niên hiệu hoàn hảo. Ba chai vang hảo hạng nhất mà cô từng được nếm trong đời. Tuy nhiên, cô không phải người đã đặt mua số rượu này.

    - Tôi cam đoan mình không liên quan gì tới chuyện này, Peter.

    - Cô đừng giỡn mặt với tôi, Lovenstein: phiếu đặt hàng vẫn còn chữ ký của cô còn hóa đơn có ghi thông tin tài khoản ngân hàng của Thống Soái.

    - Không thể có chuyện đó được!

    Mặt trắng bệch vì giận dữ, Benedict vẫn tuôn hàng tràng trách móc.

    - Tôi vừa gọi cho nhà cung cấp rồi, họ khẳng định đã giao ba chai rượu này đến nhà hàng. Vậy nên tôi muốn biết chúng đang ở đâu, khẩn trương lên!

    - Nghe này, đây rõ ràng là một nhầm lẫn. Chuyện chẳng có gì nghiêm trọng. Chỉ cần...

    - Không nghiêm trọng ư? Số tiền lên tới hơn 10.000 đô thì nghiêm trọng quá đi ấy chứ!

    - Đó quả là một số tiền lớn, nhưng...

    - Cô muốn xoay xở thế nào thì tùy, Lovenstein, nhưng tôi muốn khoản mua chịu ấy phải được xóa sổ nội trong ngày hôm nay! - Anh ta lèo nhèo trước khi trỏ thẳng ngón tay vào cô và đe dọa: - Nếu không giải quyết được, cô sẽ bị đuổi việc!

    Không đợi câu trả lời, anh ta quay ngoắt đi và rời khỏi hầm rượu.

    Emma đứng ngây ra mất vài giây, bàng hoàng trước độ căng thẳng của cuộc cãi vã. Benedict là một viên quản lý rượu thuộc trường phái cũ cho rằng phụ nữ chẳng có việc gì để làm trong một hầm rượu. Anh ta có lý khi cảm thấy vị thế của mình bị đe dọa bởi cô cấp phó: trước khi vội vã ra đi, Jonathan Lempereur đã phân vị trí trưởng nhóm quản lý rượu cho Emma. Lẽ ra cô gái đã thế chỗ Benedict từ hồi đầu năm, nhưng anh ta đã xin được với ban giám đốc mới hủy bỏ việc thăng chức này. Từ đó, Benedict chỉ chăm chăm tìm cách bắt lỗi nữ đồng nghiệp trẻ tuổi để có thể tống khứ cô cho rảnh nợ.

    Emma nhìn tờ hóa đơn, tay gãi gãi đầu. Peter Benedict bản tính cáu bẳn và thù dai, nhưng anh ta chưa điên tới mức dựng lên cả một mưu mô thế này.

    Vậy thì là ai được nhỉ?

    Không phải ngẫu nhiên mà ba chai vang được đặt lại chính là những chai rượu này. Đây chính là ba chai rượu được cô nêu lên làm ví dụ tham khảo hồi tuần trước trong cuộc gặp với một phóng viên của tạp chí Wine Spectator, người muốn phác thảo chân dung thế hệ những người quản lý rượu mới. Cô cố gắng hồi tưởng lại: cuộc phỏng vấn diễn ra trong văn phòng bộ phận Báo chí và Truyền thông của nhà hàng, khi đó có mặt cả...

    Romuald Leblanc!

    Vô cùng phấn chấn, Emma rảo bước rời khỏi hầm rượu rồi đi thang máy lên quầy lễ tân. Không hề xưng danh, cô tìm tới văn phòng của bộ phận phụ trách báo chí và yêu cầu được nói chuyện với cậu thực tập trẻ tuổi mà nhà hàng Thống Soái đã tuyển dụng để bảo trì hệ thống mạng. Cô xông thẳng vào văn phòng chỗ người ta vừa chỉ cho cô rồi sập cửa lại sau lưng.

    - Hai chúng ta nói cho rõ xem nào, Mắt Kính!

    Bất ngờ khi thấy cô đột ngột xông vào, Romuald Leblanc nhảy dựng lên sau màn hình vi tính. Đó là một cậu thiếu niên mập mạp, tóc dầu cắt hình bát úp và gương mặt xanh xao đóng khung trong cặp kính vuông gọng dày cộp. Chân đi tông, cậu ta mặc chiếc quần jean rách, áo nỉ không lấy gì làm sạch sẽ mở phanh để lộ chiếc áo phông Marvel mặc bên trong.

    - Chào chị ơ... Lovenstein, - cậu ta chào đón cô với giọng nói mang âm sắc Pháp.

    - Tôi thấy là cậu có nhận ra tôi, khởi đầu như thế là tốt rồi, - cô vừa nói vừa tiến về phía cậu, vẻ đe dọa.

    Cô liếc về phía màn hình vi tính.

    - Nhà hàng trả lương cho cậu để ngồi nhỏ dãi trước ảnh phụ nữ khỏa thân đấy hả?

    - Ơ không, nhưng đó là... lúc này... lúc này đang là giờ nghỉ của tôi.

    Cậu trai người Pháp bối rối ngồi rũ ra trên ghế, và để cố gắng tạo cho mình một vẻ bình tĩnh, cậu ta ngoạm thanh sô cô la gặm dở đang nằm lăn lóc trên mặt bàn.

    - Đừng ăn nữa đi, đồ đầu đất, - cô ra lệnh cho cậu ta.

    Cô rút từ trong túi ra tờ hóa đơn rồi phe phẩy trước mặt cậu ta.

    - Chính cậu đã đặt đơn hàng này đúng không?

    Đôi vai cậu thiếu niên liền xuội lơ, mắt cụp xuống. Emma gặng hỏi.

    - Cậu đã nghe thấy những gì tôi trả lời tay phóng viên có phải không?

    Vi Romuald vẫn làm thinh, cô nàng quản lý rượu liền cao giọng.

    - Nghe cho rõ đây, đồ óc bã đậu, tôi không định khiến mình mất việc. Vậy thì cậu có trả lời tôi hay không thì tùy, nhưng trong trường hợp này, tôi sẽ đề nghị ban giám đốc báo cảnh sát, rồi cậu đi mà giải thích với họ.

    Lời đe dọa này tác động đến cậu thiếu niên như một cú sốc điện.

    - Không, xin chị đấy! Chuyện này... chuyện này là thật, cái cách chị chia sẻ về những loại vang này khiến tôi tò mò nên tôi muốn nếm thử xem sao.

    - Cậu muốn nếm thử những chai rượu có giá hơn 3.000 đô hả đồ củ chuối? Thế đầu cậu chứa toàn bã đậu hay sao thế? Mà cậu đã làm thế nào mà đặt mua được qua mạng vậy?

    Romuald hất cằm chỉ màn hình vi tính.

    - Chuyện đơn giản như đang giỡn vậy đó: máy tính và hệ thống mạng của các vị không được bảo mật. Tôi chỉ mất có hai mươi giây là đánh cắp được tài khoản thanh toán của nhà hàng.

    Emma cảm thấy tim mình đập rộn trong lồng ngực.

    - Còn mấy chai rượu này cậu đã mở ra chưa?

    - Chưa, chúng ở đằng kia, - cậu ta vừa đáp vừa rời khỏi ghế.

    Cậu ta lê chân đến tận chiếc tủ kim loại, lôi từ đó ra một hộp gỗ sáng màu đựng ba chai rượu quý có niên hiệu.

    Lạy Chúa lòng lành!

    Emma kiểm tra từng chai một, thật cẩn thận; chúng vẫn còn nguyên vẹn.

    Không chờ đợi thêm, cô gọi cho nhà cung cấp để giải thích việc tài khoản khách hàng của Thống Soái đã bị đánh cắp. Cô đề xuất sẽ chịu chi phí để gửi trả toàn bộ đơn hàng, đổi lại, nhờ nhà cung cấp hủy giúp hóa đơn. Cô thở phào nhẹ nhõm khi biết lời đề nghị của mình được chấp nhận.

    Cô bất động mất vài giây, nhẹ cả người khi giữ được công việc của mình. Cô liền tự cho phép mình nhớ tới cuộc hẹn tối nay và nỗi lo bỗng xâm chiếm cô. Để yên lòng, cô đưa mắt tìm kiếm hình ảnh phản chiếu của mình trên cửa kính, nhưng hình ảnh mà cô nhìn thấy lại gây hiệu ứng ngược: trông cô thật thảm hại. Tóc cô xấu tệ, màu thì xỉn, nhìn chẳng còn ra kiểu gì. Với bộ dạng như thế này làm sao cô có thể khiến Matthew Shapiro thấy vừa mắt được. Cô thở dài rồi bỗng nhận ra cậu thực tập sinh vẫn đứng đó.

    - Nghe này, tôi buộc phải báo cho giám đốc nhân sự biết về sai phạm của cậu. Chuyện cậu đã làm hết sức nghiêm trọng.

    - Không! Xin chị đấy!

    Cậu thiếu niên bỗng nhũn cả người rồi bật khóc nức nở.

    - Khóc đi, cậu sẽ đi tiểu ít hơn, - cô thở dài.

    Cô chìa cho cậu ta chiếc khăn tay rồi kiên nhẫn chờ cho tới khi cậu ta ngừng rên rỉ.

    - Cậu bao nhiêu tuổi rồi hả Romuald?

    - Mười sáu tuổi rưỡi.

    - Quê quán cậu ở đâu?

    - Vùng Beaune, phía Nam Dijon, đó là...

    - Tôi biết Beaune ở đâu chứ. Một số loại vang ngon nhất của Pháp có xuất xứ từ quê cậu mà. Cậu làm việc ở nhà hàng Thống Soái này từ khi nào?

    - Mới được mười lăm ngày, - cậu ta vừa đáp vừa nhấc kính ra để day day mí mắt.

    - Mà cậu có thích công việc này không?

    Cậu ta lắc đầu rồi hất cằm chỉ vào màn hình vi tính.

    - Điều duy nhất thực sự hấp dẫn tôi là thứ đó kìa.

    - Máy vi tính ấy hả? Vậy thì cậu làm gì trong một nhà hàng?

    Cậu ta thổ lộ đã theo chân cô bạn gái tới New York làm giúp việc sau khi tốt nghiệp trung học.

    - Và cô bé đó đã bỏ rơi cậu? - Emma đoán.

    Cậu ta vẫn im thin thít, ngượng nghịu gật đầu xác nhận.

    - Ít ra bố mẹ cậu cũng biết là cậu đang ở Mỹ chứ?

    - Có biết, nhưng vào thời điểm này họ còn nhiều mối bận tâm khác kia, - cậu ta khẳng định kiểu nước đôi.

    - Nhưng làm thế nào cậu có thể xin việc tại New York này? Cậu đâu có giấy tờ để làm việc, cậu còn chưa đủ tuổi thành niên...

    - Tôi đã chế được Visa làm việc tạm thời bằng cách khai man tuổi cho già thêm một chút.

    Chế được Visa. Hèn gì cậu ta sợ cảnh sát và không muốn giám đốc nhân sự chú ý đến mình.

    Emma nhìn cậu thiếu niên với vẻ vừa thương cảm vừa mến phục.

    - Cậu học được mánh đó ở đâu vậy Romuald?

    Cậu ta nhún vai.

    - Nếu biết sử dụng máy vi tính ta còn có thể làm nhiều hơn thế ấy chứ.

    Vì cô nài nỉ, cậu ta đã kể cho cô nghe nhiều giai thoại. Năm mười ba tuổi rưỡi, Romuald đã phải trải qua vài giờ tạm giữ vì phát tán trên Internet một bản dịch lậu tập cuối của bộ truyện Harry Potter. Sau đó ít lâu, cậu ta truy cập lậu vào website của trường trung học, tìm cách thay đổi điểm số cá nhân và gửi những bức thư với nội dung lố lăng vào hộp thư điện tử của phụ huynh học sinh. Tháng Sáu năm ngoái, cậu ta chỉ cần vài cú nhấp chuột đã tìm ra các đề thi tốt nghiệp khối kĩ thuật để tặng cho bạn gái mình một mảnh bằng đẹp. Cuối cùng, hồi đầu tháng Bảy, vắn tắt lại là cậu ta đã hack tài khoản Facebook của tổng thống Pháp, Nicolas Sarkozy. Một trò đùa của học sinh khiến điện Élysée tức điên. Nhà chức trách đã lần ra cậu ta theo các tiền sự sẵn có, cậu ta đã phải chịu hình phạt có thử thách, kèm theo lời khuyên hết sức cương quyết là từ nay về sau nên tránh xa máy vi tính.

    Trong lúc nghe cậu ta kể, Emma đã nảy ra một ý tưởng chớp nhoáng.

    - Cậu ngồi vào trước máy tính đi, - cô ra lệnh.

    Cậu ta làm theo rồi gõ một phím trên bàn phím để máy tính hoạt động trở lại.

    Cô kéo một chiếc ghế lại gần để ngồi ngay bên cạnh.

    - Nhìn thẳng vào mắt tôi đi, Romuald.

    Cậu thiếu niên căng thẳng đeo kính vào nhưng chỉ nhìn được đúng hai giây.

    - Chị thật... chị thật xinh đẹp, - cậu ta ấp úng.

    - Không, nói đúng ra thì tôi trông xấu tệ, nhưng cậu sẽ giúp tôi thu xếp chuyện đó, - cô vừa nói vừa chỉ máy vi tính.

    Cô gõ địa chỉ website của một salon chăm sóc tóc.

    Trên màn hình xuất hiện những con chữ lấp lánh nhảy nhót trên nền sáng màu và trống trơn.

    Akahiko Imamura

    Tạo mẫu tóc

    - Akahiko Imamura là một người Nhật đã cách mạng hóa lĩnh vực chăm sóc tóc, - cô giải thích. - Tại Manhattan, đó là chuyên gia tạo mẫu tóc hàng đầu, bậc thầy của cây kéo và thuốc nhuộm. Angelina Jolie, Anne Hathaway, Cate Blanchett... những ngôi sao lớn nhất đều tới chỗ ông ta để làm tóc. Và trong tuần lễ thời trang, tất cả các nhà thiết kế đều cố gắng mời ông ta thiết kế mẫu tóc cho các người mẫu trình diễn. Nghe đồn đó là một thầy phù thủy thực sự và ít ra tôi phải cần đến một nhà tạo mẫu tóc như thế để trông có vẻ tạm ổn vào tối nay. Vấn đề là nếu có đặt hẹn thì cũng phải nằm trong danh sách chờ tới hai tháng.

    Romuald đã hiểu Emma trông đợi điều gì ở mình. Cậu ta đã vội vàng cố gắng xâm nhập vào hệ thống đặt chỗ.

    - Imamura có ba salon tại New York, - cô nói tiếp trong khi cậu trai đam mê tin học gõ bàn phím với tốc độc chóng mặt. - Một ở Soho, salon thứ hai ở Midtown và salon cuối cùng trong khu Upper East Side.

    - Đó chính là địa điểm ông ta tác nghiệp chiều nay, - Romuald thông báo trong lúc làm hiển thị danh sách những cuộc hẹn của nhà tạo mẫu tóc.

    Cô đang bị gây ấn tượng mạnh bèn cúi nhìn màn hình.

    - Cũng dùng cách này khi chị muốn đặt bàn Online tại một nhà hàng, - cậu chàng người Pháp giải thích.

    - Cậu có thể thay đổi tên họ sao?

    - Dĩ nhiên, nếu không thì có ích lợi gì? Chị muốn đến đó vào lúc mấy giờ?

    - Nếu được thì vào quãng năm giờ chiều nay.

    - Dễ như ăn kẹo...

    Cậu ta điền tên Emma thế vào chỗ vị khách nữ đã được dự kiến ban đầu, không quên gửi cho người này một bức thư thông báo dời lịch hẹn.

    Cô nàng quản lý rượu không tin nổi vào mắt mình.

    - Làm tốt lắm! - Cô reo lên phấn khích rồi hôn vào má cậu thiếu niên. - Cậu cũng là một thầy phù thủy chứ chẳng chơi.

    Gương mặt tròn trĩnh của Romuald ửng đỏ.

    - Dễ ấy mà, - cậu ta khiêm tốn đáp.

    - Nói vậy thì cậu không có vẻ gì là phù thủy hết, nhưng cậu láu lỉnh ra phết, - cô vừa nói vừa mở cánh cửa để trở về văn phòng của mình. - Đương nhiên là chuyện này chỉ mình cậu biết thôi đấy nhé, thiên tài?

    ° ° °

    Boston

    Tiệm Brooks Brothers

    15 giờ 30

    - Trông anh bảnh hết chỗ nói, - April nhận xét. - Kiểu cắt cổ điển là hợp với anh nhất: hai vai vuông vức, eo nhỏ, nhưng phần thân trên được giải phóng. Trông sang trọng và phi thời.

    Matthew nhìn hình ảnh của mình trong chiếc gương có chân của cửa hiệu sang trọng. Râu cạo nhẵn, tóc cắt ngắn, bó sát trong chiếc áo vest ôm khít đến từng mi li mét, anh trông thật lạ lẫm.

    Bao lâu rồi mình không mặc lễ phục nữa nhỉ?

    Câu trả lời vang lên trong đầu anh. Gây xáo trộn và khó lòng chịu đựng nổi.

    Từ hôm đám cưới mình.

    - Thiếu chút nữa thì em chuyển sang thích đàn ông đấy! - April nhấn mạnh trong lúc cài hộ anh khuy áo.

    Anh gượng cười để cảm ơn cô về những nỗ lực cô bỏ ra giúp đỡ anh.

    - Chúng ta sẽ hoàn thành bộ trang phục của anh bằng một chiếc măng tô len thẳng thớm rồi phóng ngay ra sân bay thôi, cô vừa nhìn đồng hồ đeo tay vừa cả quyết. Giờ này đường sá lúc nào cũng tắc, mà không thể có chuyện anh lở chuyến bay đâu đấy!

    Sau khi đã thanh toán tiền mua sắm, họ quay ra chiếc Camaro và April lái xe thẳng hướng sân bay Logan. Matthew lặng thinh suốt đường đi. Ngày càng trôi đi, anh càng đánh mất niềm hào hứng và cảm thấy nhiệt tình trong mình giảm sút. Hiện tại, cuộc hẹn với Emma Lovenstein đối với anh dường như không còn là một ý tưởng hay ho như tối qua nữa. Ngẫm cho kĩ, cuộc hẹn này thậm chí chẳng có chút ý nghĩa nào: nó là kết quả của một quyết định hấp tấp được đưa ra khi anh uống rượu và dùng thuốc. Anh không quen biết người phụ nữ này, hai người đã để mặc mình ngây ngất bởi một cuộc chuyện trò ngắn ngủi qua thư và một cuộc gặp gỡ ngoài đời thực có thể sẽ chỉ gây ra nỗi thất vọng cho cả hai.

    Chiếc Chevrolet tiến vào đường nối dẫn tới bãi đỗ tốc hành. April dừng lại trước sân bay một quãng thời gian ngắn ngủi vừa đủ để bạn cô ra khỏi xe. Trong khi họ ôm hôn tạm biệt, cô chủ gallery cố gắng tìm lời động viên bạn.

    - Em thừa biết anh đang nghĩ gì, Matt ạ. Em thừa biết anh đang lo sợ và lúc này anh đang tiếc vì đã đặt hẹn, nhưng em van anh đấy, hãy tới hẹn.

    Anh gật đầu chấp nhận, đóng sập cửa xe lại sau lưng và lấy túi xách trong cốp. Anh vẫy tay chào bạn lần cuối trước khi đi vào bên trong.

    Anh băng nhanh qua sảnh. Vì đã check in trước qua mạng, anh qua cổng kiểm soát an ninh và kiên nhẫn đợi trong phòng chờ. Đúng lúc anh đứng dậy để lên máy bay, nỗi ngờ vực bỗng xâm chiếm anh, rồi tiếp đó là nỗi sợ. Anh toát mồ hôi, vô số những suy nghĩ mâu thuẫn xô đẩy trong tâm trí anh. Trong thoáng giây ngắn ngủi, gương mặt Kate hiện ra trước mắt anh rõ nét đến kinh ngạc, anh cự tuyệt cảm giác tội lỗi, chớp mắt nhiều lần để xua đuổi hình ảnh này rồi đưa vé cho cô tiếp viên hàng không.

    ° ° °

    Cửa hàng Bergdorf Goodman

    Đại lộ số 5

    16 giờ 15

    Emma dạo bước giữa các quầy của cửa hàng lớn nhất New York, hơi thấy lạc lõng. Nơi đây, mọi thứ đều gây cho con người ta cảm giác rụt rè, từ tòa nhà đồ sộ ốp đá hoa cưong trắng cho tới vẻ ngoài màu mè của các nữ nhân viên bán hàng - xinh đẹp như người mẫu - khiến cho bạn thấy mình thật thảm hại. Tự đáy lòng, Emma nghĩ một cửa hàng “như thế này” - đã bước vào bên trong thì người ta sẽ không hỏi giá, người ta phải đẹp, phải giàu và phải tự tin dù chỉ là để thử một bộ quần áo - không dành cho cô, nhưng hôm nay, cô cảm thấy đủ khả năng vượt qua nỗi ức chế của bản thân. Điều đó thật vô lý, nhưng cô đặt nhiều niềm tin ở cuộc gặp này. Đêm qua, cô hầu như không ngủ; sáng nay, vì sốt ruột nên cô đã dậy sớm rồi mất hơn một tiếng đồng hồ xem xét tủ quần áo để tìm một bộ đồ có thể tôn lên những ưu điểm của bản thân. Sau vô vàn lần xỏ ra xỏ vào rồi nghi hoặc, rốt cuộc cô đã quyết định chọn một bộ có vẻ hợp với mình hơn cả: áo màu sô cô la thêu chỉ màu đồng và chân váy bút chì, cạp cao, chất liệu lụa đen phát huy tác dụng. Để hoàn thiện bộ trang phục, cô cần một chiếc măng tô cho ra măng tô. Trong khi chiếc măng tô cô hiện có chỉ là một tấm thảm cũ kĩ và kinh khủng, trông chẳng còn ra hình thù gì. Từ khi lọt vào cửa hàng, bước chân cứ dẫn cô trở về với chiếc áo khoác ngắn chất liệu gấm này. Cô sờ lớp vải lụa được tôn lên bằng những hình cải hoa sợi vàng và bạc. Đẹp đến mức cô thậm chí không dám mặc lên người.

    - Tôi có thể giúp gì cho chị? - Một nữ nhân viên bán hàng đã phát hiện ra mẹo của cô.

    Emma yêu cầu được thử chiếc măng tô. Nó rất hợp với cô, nhưng giá của nó những 2.700 đô. Đó là một khoản chi tiêu quá đà mà cô hoàn toàn không có khả năng chi trả. Thoạt nhìn, lương của cô đủ tiêu, trừ có điều cô đang sống tại Manhattan và mọi thứ đều đắt đỏ. Nhất là khi phần lớn tiền tiết kiệm của cô đều dồn vào những buổi điều trị tâm lý học hằng tuần. Một khoản tiêu quan trọng. Margaret Wood, bác sĩ trị liệu tâm lý cho cô, đã cứu sống cô khi cô rơi vào tình trạng tồi tệ nhất. Bà đã dạy cô cách tự bảo vệ, cách dựng những con đê chắn để không bị nhấn chìm trong nỗi sợ và sự điên loạn.

    Và lúc này đây, cô đang tự đặt mình vào tình huống nguy hiểm.

    Emma tự lý giải rồi ra khỏi phòng thử.

    - Tôi không mua đâu, - cô nói.

    Hài lòng vì đã không nhượng bộ trước sở thích bột phát của bản thân, cô tiến về phía lối ra của cửa hàng. Khi liếc mắt lần cuối về phía gian hàng bán giày, cô ngắm nghía vẻ đầy ngưỡng mộ một đôi giày cao gót của Atwood bằng da màu hồng phấn. Mẫu giày trưng bày lại đúng size của cô. Cô xỏ chân vào giày và biến thành nàng Lọ Lem. Được làm bằng da trăn già, đôi giày cao gót có ánh phản chiếu màu tím và đôi gót sơn cao chót vót. Loại giày có thể giúp bất cứ bộ trang phục nào thăng hoa. Quên hết những ý định tốt đẹp của mình, Emma rút thẻ tín dụng ra để thanh toán cái giá chỉ có trong mơ: 1.500 đô. Trước khi ra quầy thu ngân, cô bốc đồng quay lại để mua chiếc măng tô gấm thêu. Tổng kết của chuyến trốn đi mua sắm lần này là: một tháng rưỡi tiền lương đã tan thành mây khói chỉ trong vài phút.

    Khi ra đến đại lộ số 5, Emma bị cái lạnh chụp lấy. Cơ thể lạnh cóng, cô thắt chặt khăn quàng rồi cúi đầu để bảo vệ mình trước luồng gió, những đòn tấn công quá mạnh. Một luồng gió lạnh băng khiến cô đông cứng, mặt cô đờ dại, chân tay tê cóng. Mắt cô ngấn nước, má cô nóng rực. Cô không đủ can đảm cuốc bộ tiếp. Cô tiến bước trên vỉa hè để vẫy một chiếc taxi, cho tài xế biết địa chỉ salon tóc và đề nghị anh ta trước tiên hãy vòng qua Rockefeller Center để cô gửi ở chỗ người gác cửa nhà hàng Thống Soái chiếc túi đựng chiếc măng tô cũ và đôi giày cũ của cô.

    Salon chăm sóc tóc của Akahiko Imamura là một không gian rộng rãi và sáng sủa nằm ở trung tâm khu Upper East Side: bốn phía tường màu be, các giá kệ bằng gỗ màu vàng nhạt, những chiếc tràng kỉ da rộng rãi, những chiếc bàn chân quỳ mặt trong suốt có bày hoa lan.

    Emma xưng tên với nhân viên lễ tân để cô này xác minh cuộc hẹn trên máy tính bảng. Mọi thứ đều đúng trình tự, trò gian lận tin học của Romuald đã phát huy tác dụng. Trong lúc chờ đợi ông chủ, một thợ phụ nam gội đầu cho cô, nhẩn nha mát xa da đầu cô thật nhẹ nhàng. Dưới tác động của những ngón tay khéo léo, Emma thư giãn, quên đi các khoản chi tiêu vừa rồi, nỗi bồn chồn và những lo lắng của cô để thích thú buông mình vào tiện nghi êm ái và tinh tế của nơi này. Rồi Imamura bước vào chào cô, lưng khom và ánh mắt nhìn xuống. Emma lấy từ trong túi một bức ảnh chụp Kate Beckinsale mà cô đã cắt ra từ tạp chí.

    - Ông có thể cắt cho tôi kiểu tóc tương tự thế này không?

    Imamura không quan tâm đến bức ảnh. Thay vào đó, ông ta quan sát khuôn mặt khách hàng hồi lâu rồi khẽ nói vài từ tiếng Nhật với người cộng tác, chuyên gia trong lĩnh vực nhuộm màu tóc. Sau đó ông cầm một chiếc kéo lên và bắt đầu cắt vài lọn tóc dài. Ông ta thao tác chừng hai chục phút rồi nhường chỗ cho chuyên gia nhuộm tóc, vị này bôi dung dịch thuốc nhuộm màu nâu đỏ đậm từ chân tóc đến ngọn tóc. Khi đã nhuộm xong, Imamura tự tay gội đầu cho Emma và lại cắt tóc tiếp. Từng lọn tóc một được ông dùng những cái lô lớn cuốn hết chiều dài tóc rồi sấy toàn bộ trước khi tháo lô ra để lại dùng tay trau chuốt lại kiểu tóc.

    Kết quả thật đáng kinh ngạc. Tóc cô đã được bới lên thành một búi xoắn thanh lịch. Một kiểu tóc trang nhã và cầu kỳ khiến gương mặt cô bừng sáng và tôn lên đôi mắt sáng cũng như vẻ nữ tính của cô. Emma lại gần gương, mê mẩn trước hình ảnh mới của bản thân. Vài lọn tóc lượn sóng chưa vào nếp tuột khỏi búi tóc và khiến cho kiểu đầu càng tự nhiên hơn. Còn về màu sắc, đơn giản là hoàn hảo. Còn tuyệt hơn cả Kate Beckinsale! Chưa bao giờ trông cô đẹp đến thế.

    Thế nên cô bắt taxi tới khu East Village trong tâm trạng hết sức thoải mái. Ngồi trên xe, cô lấy túi đồ trang điểm ra rồi hoàn thiện vẻ ngoài của mình bằng một chút phấn má hồng, một lớp phủ vàng ánh kim trên mí mắt và một nét son màu san hô.

    Đồng hồ chỉ 20 giờ 01 khi cô đẩy cửa bước vào Số 5, nhà hàng nhỏ chuyên món Ý ở phía Nam công viên Tompkins Square...

    ° ° °

    Chuyến bay Delta 1816 hạ cánh xuống sân bay Kennedy chậm mất vài phút. Ngồi phía đuôi máy bay, Matthew bồn chồn nhìn đồng hồ đeo tay. 19 giờ 18. Vừa xuống máy bay, anh đã lao tới chỗ hàng người đợi taxi và kiên nhẫn đợi khoảng mươi phút để gọi được một xe. Anh đọc địa chỉ nhà hàng cho tài xế rồi, như trong phim, hứa sẽ boa cho ông ta một khoản hậu hĩnh nếu ông ta đưa anh tới đó kịp hẹn. Ở New York cũng vậy, thời tiết dịu mát đến khó tin trong khi đã sang tháng Mười hai. Đường sá cũng tắc nghẽn, nhưng không đến nỗi như anh vẫn hình dung. Chiếc yellow cab rốt cuộc cũng ra khỏi được khu Queens khá nhanh và chạy lên cầu Williamsburg trước khi luồn lách trong những con phố nhỏ thuộc khi East Village. Taxi dừng trước nhà hàng Số 5 vào lúc 20 giờ 03.

    Matthew hít vào một hơi thật sâu. Anh đến đúng hẹn. Có lẽ thậm chí anh còn là người đến trước ấy chứ. Anh thanh toán tiền taxi rồi xuống khỏi xe, bước lên vỉa hè. Anh cảm thấy vừa bồn chồn vừa phấn khích. Anh hít vào một lần nữa để trấn tĩnh rồi đẩy cánh cửa dẫn vào nhà hàng Ý.

    --------------------------------
    1 Câu dẫn được cho là của Laure Conan, nữ tiểu thuyết gia người Canada gốc Pháp. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:45 PM.

  6. #6
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    6. Gặp gỡ tình cờ
    Thời gian là vị chủ nhân độc đoán của con người,
    nó vừa là đấng sáng tạo ra con người vừa là nấm
    mồ chôn con người, nó trao cho con người điều khiến
    nó hài lòng chứ không phải điều họ thỉnh cầu.

    - William SHAKESPEARE


    Nhà hàng Số 5

    New York

    20 giờ 01

    Tim đập rộn, Emma tới trước quầy lễ tân của nhà hàng. Một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp với nụ cười gợi cảm bước ra chào đón cô.

    - Xin chào, tôi có cuộc hẹn với Matthew Shapiro. Anh ấy đã đặt một bàn cho hai người.

    - Matthew đang ở New York thật ư? - Người phụ nữ thốt lên. - Đúng là một tin tuyệt hay!

    Cô nhìn danh sách khách đặt bàn. Rõ ràng là trong đó không xuất hiện tên của Matthew.

    - Hẳn là anh ấy đã gọi thẳng vào di động của chồng tôi. Vittorio đãng trí đã quên không dặn tôi, nhưng không hề gì. Tôi sẽ tìm được cho hai người một bàn vị trí đẹp trên gác lửng, - người phụ nữ hứa rồi rời khỏi quầy.

    Emma nhận ra cô ta đang mang bầu. Thậm chí là đang ở trong giai đoạn cuối của thai kỳ.

    - Cô có muốn tôi cởi giúp cô áo khoác không?

    - Tôi mặc nó trên người được rồi.

    - Trông nó đẹp quá.

    - Nếu xét đến số tiền tôi đã phải trả để có được nó, tôi thấy hài lòng khi thấy nó cũng phát huy tác dụng!

    Hai người phụ nữ mỉm cười nhìn nhau.

    - Tôi tên Connie.

    - Rất vui được biết chị, tôi tên Emma.

    - Theo tôi nào.

    Hai người bước lên cầu thang gỗ dẫn tới một căn gác lửng có trần hình vòm cuốn.

    Bà chủ nhà hàng chỉ cho vị khách của mình một chiếc bàn nằm ở rìa có thể nhìn xuống gian chính của nhà hàng.

    - Tôi mời cô một ly khai vị nhé? Tiết trời lạnh như thế này, cô có muốn dùng một ly vang nóng không?

    - Tôi ngồi đợi Matthew cũng được.

    - Vậy càng tốt, - Connie nói rồi đưa cho vị khách một quyển thực đơn trước khi đi khỏi.

    Emma nhìn quanh. Nhà hàng ấm cúng, nồng hậu và riêng tư, toát ra bầu không khí dễ chịu. Trên quyển thực đơn, một đoạn văn ngắn giải thích rằng nơi này lấy tên “Số 5” để tôn vinh Joe DiMaggio. Quả là khi còn chơi cho đội Yanlcees, cầu thủ bóng chày huyền thoại thường mặc chiếc áo in số này. Trên bức tường gạch xây, một bức ảnh chụp nhà vô địch và Marilyn Monroe khiến người ta nghĩ rằng xưa kia cặp đôi này đã từng tới dùng bữa tại nhà hàng. Điều này thật khó tin, nhưng ý định thì tốt đẹp.

    Emma nhìn đồng hồ đeo tay: bấy giờ là 20 giờ 04.

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    20 giờ 04

    - Matthew! Vậy cơ đấy, đúng là một bất ngờ thú vị! - Vittorio thốt lên khi nhìn thấy bạn mình bước vào nhà hàng.

    - Vittorio, gặp cậu tớ mừng lắm!

    Hai người đàn ông ôm chầm lấy nhau.

    - Sao cậu không báo trước là sẽ ghé qua đây?

    - Sáng nay tớ gọi cho Connie rồi mà. Cô ấy không có ở đây à?

    - Không, Connie đang ở nhà. Paul đang bị viêm tai tái phát.

    - Cu cậu mấy tuổi rồi ấy nhỉ?

    - Tháng tới là đầy năm.

    - Cậu có ảnh của cu cậu ở đây không?

    - Có đây, nhìn xem thằng nhóc lớn không này!

    Vittorio rút ví lấy ra bức ảnh chụp một cậu nhóc tì sơ sinh mũm mĩm đáng yêu.

    - Trông ra dáng một anh chàng cứng cáp rồi đấy, - Matthew mỉm cười.

    - Phải đấy, được thế là nhờ món pizza tớ vẫn thường nhét vào bình sữa cho cu cậu! - Ông chủ nhà hàng vừa đùa vừa nhìn qua danh sách khách đặt bàn.

    - Đây rồi, tớ thấy cậu đã yêu cầu Connie dành cho cậu bàn “tình nhân” của nhà hàng! Ra thế đấy, tớ hi vọng cô nàng khách mời của cậu hôm nay thật xinh đẹp!

    - Cậu đừng có hăng tiết vịt, - anh tiết chế vẻ lúng túng. - Cô ấy còn chưa tới sao?

    - Chưa tới, bàn đã có ai ngồi đâu. Tới đây nào, tớ sẽ xếp chỗ cho cậu. Tớ mời cậu một ly khai vi nhé?

    - Không, cảm ơn cậu, tớ sẽ chờ Emma.

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    20 giờ 16

    Matthew Shapiro, rõ ràng bố mẹ anh đã không dạy anh rằng đúng giờ là phép lịch sự tối thiểu... Emma vừa nhìn đồng hồ đeo tay vừa trách móc.

    Từ gác lửng này cô có thể quan sát cửa chính của nhà hàng. Mỗi lần cửa mở ra, cô lại mong trông thấy Matthew bước vào, vậy mà lần nào cô cũng thất vọng. Cô ngoái lại để nhìn qua cửa sổ. Trời bắt đầu có tuyết rơi. Một vài bông tuyết ánh bạc và mềm như bông xoay tít trong ánh đèn đường. Cô khẽ thở dài rồi lấy điện thoại di động từ trong túi xách ra để xem liệu có nhận được tin nhắn nào không.

    Chẳng có gì hết.

    Sau một thoáng ngần ngừ, cô quyết định gửi một bức mail bằng điện thoại. Vài câu nhẹ nhàng che giấu nổi sốt ruột của cô:

    Matthew thân mến,

    Tôi đã tới nhà hàng Số 5.

    Tôi đang ngồi bên trong đợi anh.

    Món pizza trộn actisô, phô mai Parma và cải lông trông ngon tuyệt!

    Anh tới nhanh nhé, tôi đói cồn cào rồi đây!

    Emma

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    20giở 29

    - Này, công chúa của cậu đến muộn quá nhỉ! - Vittorio nhận xét khi tới gặp bạn anh đang ngồi nơi gác lửng.

    - Đúng đấy, - Matthew thừa nhận.

    - Cậu không muốn gọi cho cô ấy sao?

    - Bọn tớ đã cho nhau số điện thoại đâu.

    - Thôi nào, cậu đừng lo: cậu đang ở Manhattan kia mà. Cậu thừa biết dân New York bọn mình thì khác, bọn mình có một quan niệm khá linh hoạt về chuyện đúng giờ mà…

    Matthew nở một nụ cười bồn chồn. Vì không thể gọi điện cho Emma, anh soạn một bức thư để báo cho cổ biết anh đã đến:

    Emma thân mến,

    Anh bạn Vittorio của tôi nhất định muốn mời cô nếm thử một ly vang Toscane. Một chai vang Sanglovese được sản xuất trong một nông trại gần Sienne. Anh bạn tôi lúc nào cũng thao thao bất tuyệt về những loại vang Ý mà anh ấy cho là ngon nhất thế giới. Cô hãy mau tới đây để chặn họng anh ấy nhé!

    Matt.

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    20giờ 46

    Emma cảm thấy bị sỉ nhục. Gã đàn ông này là một tên đểu cáng! Đến muộn bốn mươi lăm phút đồng hồ mà không có lấy một bức mail hay một cuộc gọi tới nhà hàng để xin lỗi!

    - Cô có muốn tôi thử gọi vào di động cho Matthew không? - Connie đề nghị.

    Bà chủ nhà hàng đã nhận ra nỗi bấn loạn trong cô. Emma ngại ngùng ấp úng:

    - Tôi... tôi cũng mong vậy, đúng thế đấy.

    Connie bấm số của Matthew nhưng lại gặp phải hộp thư thoại.

    - Mong cô đừng giận, anh ấy sẽ tới thôi. Chắc chắn là do tuyết rơi đấy mà.

    Một tiếng “bíp” khẽ vang lên báo hiệu vừa nhận được mail.

    Emma cúi nhìn màn hình điện thoại. Đó là một bức thư báo lỗi dạng “người dùng không rõ” cho cô biết bức thư điện tử cô vừa viết cho Matthew đã không thể gửi đi.

    Lạ nhỉ...

    Cô kiểm tra lại địa chỉ rồi thử gửi lần thứ hai, kết quả là lại thất bại lần nữa.

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    21giờ 13

    - Tớ nghĩ là cô ấy không đến nữa rồi, - Matthew buột miệng rồi nhận lấy chai bia mà Vittorio đang chìa ra mời.

    - Tớ không biết phải nói sao với cậu, - bạn anh buồn rầu phát biểu. - La donna è mobile, qual piuma al vento… 1

    - Chính thế, có thể nói như vậy, - anh thở dài.

    Trước đó anh đã gửi hai thư điện tử nữa cho Emma mà không nhận được một câu trả lời nào. Anh nhìn đồng hồ đeo tay rồi đứng đậy.

    - Cậu gọi giúp tớ một chiếc taxi ra sân bay nhé?

    - Cậu chắc chắn không muốn ngủ lại nhà tớ à?

    - Không, tớ cảm ơn. Xin lỗi vì đã chiếm mất của nhà hàng các cậu một bàn mà chẳng để làm gì cả. Cậu ôm hôn Connie giúp tớ nhé.

    Matthew rời nhà hàng lúc 21 giờ 30 và có mặt tại sân bay lúc 22 giờ 10. Anh đã tranh thủ quãng đường ra sân bay để xác nhận chuyến bay khứ hồi. Anh check in vào chuyến bay áp chót trong ngày hôm đó.

    Chiếc máy bay đường vừa rời New York đúng giờ dự kiến và hạ cánh xuống Boston lúc 00 giờ 23. Vào giờ này thì nhịp độ ở sân bay Logan đã chậm lại. Vừa xuống khỏi máy bay, Matthew đã vẫy một chiếc taxi rồi quay về nhà mình trước 1 giờ sáng.

    Khi anh đẩy cửa bước vào căn nhà thuộc Beacon Hill, April đã đi ngủ rồi. Anh ló đầu vào phòng con gái để biết chắc Emily đã ngủ say rồi quay vào bếp. Anh rót cho mình một cốc nước đầy rồi theo thói quen bật chiếc laptop vẫn để nơi quầy bar lên. Kiểm tra hòm thư, anh thấy mình đã nhận được một mail từ Emma Lovenstein. Một bức mail lạ thay chỉ hiển thị trên chiếc máy tính xách tay này chứ không phải trên điện thoại di động của anh.

    ° ° °

    Nhà hàng Số 5

    New York

    21 giờ 29

    Emma khép cánh cửa nhà hàng lại rồi ngồi vào chiếc taxi mà Connie đã gọi giúp. Gió đã lặng nhưng tuyết vẫn rơi đều đặn và bắt đầu ken dày trên mặt đất. Ngồi trong xe, cô cố gắng gạt đi những suy nghĩ tiêu cực đang quấy nhiễu tâm trí, nhưng cơn giận dữ lại mạnh hơn. Cô cảm thấy bị sỉ nhục và phản bội. Cô giận bản thân vì thêm lần nữa lại bị một gã đàn ông gài bẫy; vì đã tin vào những lời lẽ ngọt ngào; vì đã ngây thơ nhường ấy. Khi tới sảnh chung cư 50 North Plaza, cô leo thang bộ xuống tầng hầm tòa nhà. Khu giặt là của chung cư vắng hoe, âm u và sầu thảm. Cô bước nhanh qua các hành lang xam xám với những bức tường nhờ nhờ để tới khu đổ rác thuộc phần tăm tối và bẩn thỉu nhất của tòa nhà. Cô điên cuồng bẻ gãy gót giày rồi quẳng cả đôi vào một trong những thùng rác bằng kim loại. Sau khi đã bị cô dùng tay xé toạc, chiếc măng tô giá cắt cổ cũng chịu chung số phận.

    Cô khóc suốt quãng đường đi thang máy lên căn hộ riêng. Cô mở cửa, lờ đi tiếng sủa ăng ẳng của chú chó, cởi quần áo rồi lao ngay vào đứng dưới vòi sen tuôn nước lạnh băng. Cô lại cảm thấy dâng lên trong mình nỗi khát khao khôn cưỡng là được làm mình đau, được hướng nỗi hung bạo đang xâm chiếm toàn bộ tâm trí vào chính cơ thể mình. Cô đau đớn biết nhường nào vì không thể làm chủ cảm xúc. Thật mệt mỏi và khủng khiếp. Làm thế nào cô có thể chuyển từ trạng thái hứng khởi sang trầm uất chỉ trong có vài phút? Hết vui điên cuồng rồi lại buồn thê thiết chỉ trong quãng thời gian ngắn ngủi đến vậy?

    Răng va vào nhau lập cập, cô bước ra khỏi buồng tắm kính, cuộn mình trong áo choàng tắm, lấy một viên thuốc ngủ trong tủ thuốc rồi chui vào giường nằm. Uống thuốc rồi nhưng Emma vẫn không thể ngủ được. Cô trở mình không dứt, cố tìm một tư thế nằm thoải mái để ngủ thiếp đi, rồi đành cam chịu nhìn chăm chăm lên trần nhà trong tâm trạng tuyệt vọng. Khoảng 1 giờ sáng, không chịu nổi nữa, cô bật máy tính xách tay lên để gửi bức mail cuối cùng cho gã đàn ông đã phá hỏng buổi tối của cô. Cô bực bội mở chiếc máy tính bên ngoài trang trí bằng tấm đề can vẽ một nàng Eva cách điệu xinh xắn.

    ° ° °

    Matthew rụng rời khi nhận được mail của Emma.

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Đồ tồi

    Trái ngược với những gì anh tỏ ra cho tôi thấy, anh chẳng có chút lịch sự nào và đúng là hạng vô giáo dục. Đừng viết cho tôi nữa, đừng gửi mail cho tôi nữa.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Hồi đáp: Đồ tồi

    Nhưng cô nói huyên thuyên gì vậy Emma? Tôi đã ngồi trong nhà hàng đợi cô cả tối! Mà tôi cũng đã gửi cho cô hai mail mà chẳng thấy cô trả lời!

    Thế đấy, anh giỡn mặt với tôi hay sao! Anh định chơi trò gì thế hả? Ít nhất cũng phải chịu khó phịa ra một lý do nào đó, dù là dối trá chứ: trời lạnh, trời có tuyết. Anh có đầy lựa chọn kia mà..

    Trời có tuyết ư? Tôi không hiểu cô đang trách móc tôi chuyện gì nữa, Emma. Dẫu sao chính cô mới là người cho tôi leo cây đấy chứ!

    Tôi đã tới chỗ hẹn, Matthew. Tôi đã đợi anh cả tối. Và tôi chẳng nhận được từ anh bức mail nào hết!

    Vậy thì hẳn cô nhầm nhà hàng rồi.

    Không hề. Trong khu East Village chỉ có duy nhất một nhà hàng Số 5 thôi. Thậm chí tôi đã nói chuyện với vợ Vittorio, cô bạn của anh.

    Cô nói xạo: tối hôm nay Connie đâu có mặt ở nhà hàng!

    Dĩ nhiên là cô ấy có mặt ở nhà hàng! Cô ấy xinh đẹp, tóc màu nâu cắt ngắn và đang mang bầu ít nhất là tám tháng!

    Cô nói linh tinh gì vậy. Connie đã sinh em bé được gần một năm rồi!

    Trước khi kích chuột cảm ứng để gửi mail, Matthew ngước lên khỏi màn hình. Cuộc tranh luận giữa họ đang đổi hướng thành cuộc đối thoại giữa những kẻ điếc. Có vẻ như Emma nói thật, nhưng những lý lẽ cô đưa ra đều vô nghĩa. Trong những lời chứng minh của cô chẳng có gì là hợp lý.

    Anh uống một ngụm nước rồi day day mí mắt.

    Cô ấy nhắc đến tuyết, đến việc Connie mang bầu...

    Anh chau mày rồi xem xét kĩ lưỡng toàn bộ những lá thư điện tử Emma đã gửi cho anh từ hôm qua. Bỗng nhiên, điều gì đó khiến anh sửng sốt - một chi tiết rất nhỏ nhặt - rồi một ý nghĩ điên rồ lướt qua tâm trí anh. Anh hỏi: Emma này, hôm nay là ngày bao nhiêu ấy nhỉ?

    Anh thừa biết còn gì, hôm nay là 20 tháng Mười hai.

    Năm nào?

    Anh cứ tiếp tục chế giễu tôi đi...

    Cứ cho tôi biết đang là năm nào đi, xin cô đấy!

    Gã này điên rồi, cô vừa nghĩ vừa co quắp các ngón tay lại trên bàn phím. Tuy nhiên, để thật yên tâm, cô kiểm tra những bức mail của Matthew. Tất cả đều đề tháng Mười hai năm... 2011. Đúng là ngày này, nhưng một năm sau...

    ° ° °

    Kinh hãi, Emma tắt phụt máy tính.

    Phải mất nhiều phút sau cô mới dám thử hình dung ra hoàn cảnh hiện tại.

    Cô đang sống ở năm 2010.

    Matthew đang sống ở năm 2011.

    Và vì một lý do nào đó cô không hiểu nổi, máy tính xách tay của họ dường như chính là phương tiện liên lạc duy nhất giữa họ.

    --------------------------------
    1 Tiếng Ý trong nguyên bản: Phụ nữ thất thường chẳng khác nào cọng lông vũ trước gió vậy. (Chủ thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:46 PM.

  7. #7
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần thứ hai: Những đường song song
    Ngày thứ ba

    7. Những đường song song
    Sợ hãi không thể thiếu hi vọng
    và hi vọng không thể thiếu sợ hãi.
    - Baruch SPINOZA


    Ngày hôm sau

    21 tháng Mười hai

    Ngày hôm sau, khi thức dậy, Emma và Matthew có chung một phản xạ: cả hai cuống cuồng mở hộp thư điện tử và nhẹ nhõm khi không thấy có thư nào mới.

    - Bố ơi, sáng nay mình đi chọn quà Giáng sinh cho con chứ ạ? Emily hỏi trong lúc ùa vào bếp như một cơn lốc tố để lao vào vòng tay anh.

    Anh kéo con bé ngồi lên ghế quầy bar ngay cạnh mình.

    - Trước tiên bố con mình chào nhau đã chứ, - Matthew chỉnh con gái.

    - Chào bố, - cô bé vừa lí nhí vừa dụi mắt.

    Anh nghiêng sang để thơm con bé. Con bé cố nài:

    - Vậy thì mình đi chứ bố? Bố hứa với con rồi mà!

    - Nhất trí, con yêu. Bố con mình sẽ chọn quà cho con trong các cửa hàng để con có thể viết thư gửi ông già Noel.

    Cái tục lệ viết thư gửi ông già Noel này... Anh có nên duy trì nỗi ảo tưởng và sự cả tin trong Emily? Anh chưa có ý kiến dứt khoát về vấn đề này. Nhìn chung, anh không thích nói dối con gái, và xét từ điểm này, không còn tin vào ông già Noel nữa sẽ là một bước tiến tới tuổi trưởng thành và sự hình thành một tư duy duy lý. Nhưng mặt khác, có lẽ còn hơi sớm để tước đoạt của con bé phép mầu nảy. Sau chấn thương tâm lý do cái chết của Kate gây ra, Emily đả trải qua một năm hết sức khó khăn. Giữ vững trong con gái niềm tin vào điều huyền diệu dường như sẽ có lợi cho tinh thần con bé. Thế nên vào dịp lễ này, Matthew đã quyết định kéo dài quãng thời gian thần tiên ấy và dời việc tiết lộ “bí mật lớn lao” này sang năm sau.

    - Ai muốn dùng món ngũ cốc trộn sữa chua nào? - April vui vẻ hỏi trong lúc bước xuống cầu thang.

    - Cháu! Cháu ạ! - Emily vừa reo vừa nhảy từ trên ghế xuống, lao ra ôm hôn cô gái.

    Cô dang tay đón con bé rồi nựng nịu nó.

    - Cô tới cửa hàng đồ chơi cùng hai bố con cháu chứ? - Emily hỏi.

    - Hôm nay cô April phải làm việc con ạ, - Matthew đáp.

    - Nhưng hôm nay là Chủ nhật mà! - Cô bé nhắc.

    - Giờ là dịp cuối tuần sau cùng trước lễ Giáng sinh, - April giải thích. - Bọn cô đang mở cửa tất cả các ngày trong tuần để người lớn cũng có thể chọn mua quà tặng cho nhau, nhưng phải tầm trưa cô mới tới gallery, thế nên cô có thể đi cùng hai bố con cháu cả buổi sáng.

    - Tuyệt quá! Rồi cô làm cho cháu một cốc sô cô la nóng thật to uống cùng kẹo bông được không ạ?

    - Nếu bố đồng ý...

    Matthew không phản đối vụ ăn đồ ngọt này. April nháy mắt với anh rồi bật đài lên và chuẩn bị bữa sáng.

    - Tối qua thế nào? - Cô hỏi.

    - Thất bại thảm hại, - anh vừa thì thào vừa dốc một túi nhỏ cà phê vào máy pha.

    Anh liếc nhìn Emily. Trong lúc chờ cốc ca cao, con bé đang chơi với máy tính bảng, hất cẳng lũ lợn xanh với bầy Angry Birds. Matthew hạ giọng kể cho cô bạn sống cùng nhà nghe về cuộc phiêu lưu khó tin của mình ngày hôm qua.

    - Chuyện này có vẻ không ổn, - cô công nhận. - Giờ anh định làm gì?

    - Đúng ra là chẳng làm gì hết. Quên nỗi thất vọng này đi và hi vọng không còn nhận được bức thư nào từ người phụ nữ đó nữa.

    - Em chẳng cảnh báo anh rồi còn gì: tán chuyện bông lơn trên mạng là nguy hiểm lắm đấy.

    - Em thổi phồng lên thì có! Mà dẫu sao cũng chính em đã xúi anh mời cô ta tới nhà hàng dùng bữa!

    - Chỉ là để không sống trong ảo tưởng mãi thôi! Anh phải thừa nhận rằng chuyện đó hơi quá tốt đẹp nên khó mà là thực được đi, người phụ nữ đó hóm hỉnh giống anh, có chung sở thích với anh và còn có thể khiến anh mất cảnh giác quá nhanh bất chấp mọi sự cẩn trọng.

    - Lẽ ra anh nên dè chừng hơn mới phải, - anh nhượng bộ.

    Như để xát thêm muối vào vết thương và khơi thêm lo lắng trong anh, April kể cho anh nghe một loạt những tin tức đáng sợ liên quan đến những trò lừa bịp trên mạng. Những câu chuyện nhơ nhớp liên quan tới những người khờ khạo tin là đã gặp được ý trung nhân qua mạng trước khi nhận ra, chỉ ít lâu sau, rằng mình đã rơi vào một cái bẫy moi tiền.

    - Hoặc là cô gái này đầu óc không bình thường, hoặc cô ta có dụng ý xấu, - cô nói tiếp. - Trong cả hai trường hợp ấy dĩ nhiên cô ta đã phải tìm hiểu kĩ về anh thì mới có thể đưa anh vào tròng dễ dàng đến thế. Hoặc giả, đó là một người hiểu anh quá rõ và liên lạc với anh bằng danh tính giả.

    Lẽ nào là một trong những học trò của mình? Matthew băn khoăn tự nhủ.

    Anh chợt nhớ tới một tấn thảm kịch diễn ra hồi năm ngoái tại Emmanuel College, một đại học Công giáo ở Boston. Đinh ninh rằng mình đang chat qua mạng cùng người yêu, một sinh viên nữ đã đồng ý cởi đồ rồi tự vuốt ve trước webcam. Rủi thay, người đang ngồi trước màn hình bên kia không phải là vị hôn phu của cô, mà là kẻ đã đánh cắp tài khoản của anh ta. Gã trai đểu cáng đó đã ghi lại toàn bộ để tống tiền cô gái. Gã đòi cô một khoản tiền lớn, đổi lại sẽ không phát đoạn băng. Để lời đe dọa của mình có thêm sức nặng, ngay trong đêm đó gã đả gửi cho vài người quen của cô sinh viên kia một số trích đoạn băng ghi hình. Quá hổ thẹn và khiếp sợ những hậu quả do hành động của mình gây, cô gái đã treo cổ tự vẫn trong phòng riêng và được tìm thấy vào sáng ngày hôm sau...

    Ký ức về tấn thảm kịch này khiến Matthew rùng mình kinh hãi. Mồ hôi toát ra khiến sống lưng anh ớn lạnh.

    Mình thật thiếu cảnh giác! Anh tự trách mình lần nữa. Ngẫm cho kĩ, anh vẫn mong người phụ nữ đó chỉ là một kẻ lừa đảo, nhưng anh lại nghiêng về phương án đó là một con bệnh tâm thần hơn. Ai đó nghĩ mình đang sống ở năm 2010 thì ắt là hết sức khùng điên.

    Vậy thì nguy hiểm tiềm tàng.

    Anh thống kê tất cả những gì đã tâm sự với cô ta: họ tên, khu phố nơi anh sống, trường đại học nơi anh giảng dạy. Cô ta cũng biết anh có một đứa con gái bốn tuổi rưỡi, biết anh thường chạy bộ thể dục trong công viên mỗi sáng thứ Ba và thứ Năm hằng tuần, biết con gái anh theo học trường Montessori, biết hoàn cảnh vợ anh qua đời...

    Cô ta biết tất cả... Dẫu sao cũng là quá đủ nếu cô ta muốn hãm hại anh hoặc tấn công anh. Hoặc làm hại Emily. Vì thổ lộ tâm tình như thế, anh bỗng có cảm tưởng đã khiến một phần đời mình bị nguy hiểm.

    Không đâu, mày cứ lo quá đấy thôi, anh tự lý giải. Có lẽ anh sẽ không còn nghe nhắc gì tới cô nàng Emma Lovenstein đó nữa, và trong tương lai, điều không may này sẽ như một bài học đối với anh. Anh đặt xuống khay tách đồ uống April vừa đưa cho rồi quyết định quên hẳn câu chuyện này đi.

    - Tới đây ngồi đi nào, con yêu, món sô cô la của con xong rồi đây.

    ° ° °

    - Hai bố con cười nào!

    Một giờ sau, April đang chụp ảnh cho Emily và Matthew trước lối vào của Toys Bazaar, một trong những tòa nhà lớn của thành phố.

    Nằm ở góc quảng trường Copley giao với phố Clarendon, Bazaar là khu thánh đường dành cho các loại đồ chơi tại Boston. Chỉ còn vài ngày nữa là tới lễ Giáng sinh, bầu không khí đã trở nên vô cùng náo nhiệt: các trò chơi, âm nhạc, phát kẹo... Emily được bố và April mỗi người dắt một bên. Đứng hai bên cửa ra vào là hai nhân viên gác cửa cải trang thành những nhân vật bước ra từ bộ phim hoạt hình Max và những quái vật Maximonstre chào đón ba người họ bằng cách tặng kẹo mút. Họ nhìn bao quát những gian hàng đầu tiên mà không kìm nổi nỗi kinh ngạc xen lẫn thán phục. Nếu các tầng trên của cửa hàng được dành cho những loại máy móc công nghệ cao (tay game, robot nhận diện bằng giọng nói, các trò chơi điện tử...), thì tầng trệt lại được dành để trưng bày các món đồ chơi truyền thống dễ thương: thú bông, đồ chơi ghép hình bằng gỗ, LEGO, búp bê...

    Emily tròn xoe mắt trước những con thú nhồi bông to như thật.

    - Mềm quá! - Cô bé ngạc nhiên thốt lên khi vuốt ve một chú hươu cao cổ cao sáu mét.

    Không thể chối cãi được: nơi này thật kỳ diệu, ngoạn mục và khiến người ta nhanh chóng quay trở lại thời thơ ấu. April ngây ngất hồi lâu trước bộ sưu tập búp bê Barbie đồ sộ trong lúc Matthew mắt tròn mắt dẹt khi nhìn thấy một đoàn tàu điện khổng lồ với hệ thống đường ray dài hàng chục mét chạy uốn lượn.

    Anh để Emily chạy thêm vài phút nữa giữa các gian hàng, rồi anh quỳ gối để mình ở ngang tầm với con bé.

    - Được rồi, con biết rõ quy tắc rồi nhé: con có thể chọn hai món quà, nhưng chúng phải vừa cỡ phòng ngủ của con.

    - Vậy là con không được chọn hươu cao cổ ạ, - Emily vừa đoán vừa cắn môi.

    - Con hiểu hết rồi đấy, con yêu.

    Có April cùng đi nhưng cô bé con cũng mất hồi lâu mới chọn được một chú gấu teddy giữa khoảng trăm mẫu được bày bán. Matthew lơ đãng dạo bước trong khu vực bày bán những mẫu đồ chơi Meccano bằng kim loại rồi trao đổi vài lời với một ảo thuật gia đang biểu diễn một loạt các trò trước cầu thang máy. Ngay cả khi không đứng gần, anh vẫn để ý trông chừng con gái, vui sướng khi thấy cô bé phấn khích đến thế. Nhưng những khoảnh khắc hạnh phúc này cũng làm sống lại nỗi đau mất Kate. Anh cảm thấy thật bất công khi không thể chia sẻ những thời khắc này cùng với cô. Anh đang chuẩn bị tới chỗ April thì điện thoại đổ chuông. Số của Vittorio Bartoletti hiển thị trên màn hình. Anh nghe máy và cố gắng nói át tiếng ồn xung quanh.

    - Chào cậu, Vittorio.

    - Chào cậu, Matt. Cậu đang ở đâu thế, trong một nhà trẻ hay sao?

    - Đang đi mua quà Giáng sinh, cậu ạ.

    - Cậu gọi lại cho tớ sau nhé?

    - Chờ tớ hai phút thôi.

    Anh ra hiệu từ xa cho April biết anh ra ngoài hút một điếu thuốc rồi anh rời khỏi cửa hàng và băng qua phố để tới quảng trường Copley.

    Trồng nhiều cây xanh và có một đài phun nước ở chính giữa, quảng trường này nổi tiếng với những chi tiết phản trong kiến trúc. Mọi du khách tới đây đều chụp một bức ảnh đẹp mê hồn: những ô cửa tò vò, những hàng hiên và những ô kính ghép màu của nhà thờ Trinity phản chiếu trên những ô cửa kính mặt gương của Hancock Tower, tòa cao ốc đồ sộ nhất của thành phố. Vào ngày Chủ nhật rực rỡ ánh nắng như hôm nay, nơi này hết sức náo nhiệt nhưng vẫn yên tĩnh hơn nhiều nếu so với bên trong cửa hàng đồ chơi. Matthew ngồi xuống một băng ghế rồi gọi lại cho bạn.

    - Alô, Vittorio này, Paul sao rồi? Đã khỏi viêm tai chưa?

    - Thằng bé ổn rồi, cảm ơn cậu. Thế còn cậu, đã hoàn hồn sau buổi tối kỳ cục kia chưa?

    - Tớ quên luôn và ngay rồi.

    - Thực ra tớ gọi cho cậu chính là về việc đó đây. Sáng nay, tớ đã kể cho Connie nghe chuyện không may của cậu và cô ấy đã hết sức bối rối.

    - Thật sao?

    - Cô ấy chợt nhớ ra chuyện gì đó. Cách đây chừng một năm, vào một buổi tối tớ không có mặt ở cửa hàng, Connie đã tiếp một cô gái tại nhà hàng. Một cô gái tự nhận là có hẹn với cậu. Cô ta đã chờ cậu hơn một tiếng đồng hồ, nhưng còn cậu thì biệt tăm không thấy tới.

    Matthew bỗng cảm thấy máu giần giật dồn về thái dương.

    - Nhưng tại sao Connie chưa bao giờ kể tớ nghe chuyện đó?

    - Chuyện đó xảy ra chỉ cách tai nạn của Kate có vài ngày. Connie đã định gọi điện báo cho cậu biết, nhưng cái chết của vợ cậu đã biến sự việc đó thành ra vặt vãnh. Thậm chí Connie đã quên khuấy đi và chỉ nhớ lại vào sáng nay khi tớ thuật lại chuyện tối qua.

    - Cậu có biết cô gái đó trông như thế nào không?

    - Theo lời Connie thì đó là một cô gái người New York, tuổi chừng ba mươi, nói cho đúng ra là xinh xắn và thanh lịch. Connie đang ở nhà mẹ đẻ cô ấy cùng với Paul, nhưng tớ đã nhắn cô ấy gọi lại cho cậu trong chiều nay. Cô ấy sẽ kể cho cậu biết nhiều hơn.

    - Cậu có cách nào biết chính xác ngày tháng cô gái ấy tới ăn tối tại nhà hàng của các cậu không?

    - Nghe này, tớ đang ngồi trong xe, đang trên đường tới nhà hàng. Tớ sẽ cố gắng tìm lại thông tin đặt bàn trên cơ sở dữ liệu của nhà hàng. Connie còn nhớ đó là buổi tối khi ông anh họ của cô ấy từ Hawaii tới ăn tối.

    - Cảm ơn, Vittorio. Tớ chờ cậu gọi lại nhé. Chuyện này thực sự quan trọng đấy.

    ° ° °

    New York

    Nhà hàng Thống Soái

    Ca trưa

    Bàn tay của Emma hơi run khi rót rượu vang trắng vào những chiếc cốc pha lê hình thoi.

    - Thưa quý vị, để chiêu món đùi ếch thắng đường và món đậu tằm chiên tỏi trong vỏ bánh mì tẩm gia vị tán vụn mà quý vị đang dùng, tôi xin đề xuất loại vang có xuất xứ từ vùng thung lũng sông Rhône: một chai Condrieu 2008, giống nho Viognier.

    Cô gái nuốt nước bọt để giọng nói trong trẻo hơn. Không chỉ có bàn tay cô đang run. Mọi thứ trong cô đều đang chao đảo. Buổi tối hôm trước đã khiến cô hoàn toàn chấn động. Cả đêm cô hầu như không chợp mắt nổi và những cơn đau dạ dày dữ dội lan dọc lên theo đường thực quản.

    - Quý vị có thể nhận thấy vị gắt mà đầm của rượu Condrieu, hài hòa, nồng đượm. Đây là một loại vang thơm nồng đượm hương hoa.

    Cô kết thúc việc rót rượu phục vụ khách rồi ra dấu cho viên trợ lý để báo cho anh ta biết là cô đang cần nghỉ ngơi ít phút.

    Thấy xây xẩm mặt mày, cô lén rời khỏi phòng rồi nhốt mình trong toa lét. Cô đang bồn chồn, mồ hôi vã ra như tắm và khoan vào đầu cô là âm thanh ù ù nhức nhối không dứt. Những tia a xít đốt cháy đường tiêu hóa của cô. Tại sao cô lại khó ở đến thế nhỉ? Tại sao cô lại cảm thấy mình yếu đuối đến vậy? Kiệt sức đến vậy? Cô cần ngủ. Hễ mệt mỏi là mọi thứ trong đầu cô đều tăng tốc. Những ý nghĩ tiêu cực vây hãm cô không ngừng nghỉ, hất cô vào một thế giới huyền hoặc và kinh khủng, xa rời thực tại.

    Lên cơn co giật toàn thân, cô cúi xuống bồn cầu để nôn vào đó toàn bộ bữa sáng rồi giữ nguyên tư thế đó một lúc, cố gắng hít thở đều. Câu chuyện về những bức thư điện tử đến từ tương lai này khiến cô khiếp hãi. Lúc này là tháng Mười hai năm 2010. Cô không thể thư từ qua lại với một người đàn ông đang sống ở tháng Mười hai năm 2011 được! Vậy thì gã đàn ông này hoặc là một con bệnh tâm thần hoặc là một kẻ có dụng tâm xấu. Bất kể là trường hợp nào thì đây cũng là một mối đe dọa. Đối với cô và đối với sức khỏe tâm thần của cô. Cô đã gặp đủ những gã biến thái rồi. Lần này thì quá lắm! Những tháng gần đây, tình trạng của cô đã dần ổn định, nhưng hôm nay thì cô cảm thấy mình lại chìm đắm trong lo sợ. Hẳn là phải dùng thuốc cô mới có thể tìm lại được chút bình tâm. Cô cần nói chuyện với bác sĩ tâm lý riêng, nhưng ngay cả Margaret Wood cũng đã bỏ bê công việc mà đi nghỉ Giáng sinh tại Aspen.

    Mẹ kiếp!

    Cô đứng thẳng dậy rồi soi mình trong gương, đôi bàn tay chống vào thành bồn rửa. Một dòng mật rót xuống từ môi cô. Cô dùng khăn giấy lau sạch rồi vỗ chút nước lên mặt. Cô phải nghe theo lý trí và tĩnh tâm lại. Gã đàn ông này không thể làm gì phương hại đến cô. Nếu gã ta tìm cách bắt liên lạc lại, cô sẽ lờ tịt những lá thư của gã. Nếu gã còn cố, cô sẽ báo cảnh sát. Và nếu gã thử lại gần cô, cô biết mình sẽ đón tiếp gã bằng cách nào: cô vẫn luôn mang theo trong túi một khẩu súng xung điện. Với màu sắc hồng như kẹo của nó, khẩu Taser của cô giống với một món sex-toy hơn là một vũ khí tự vệ, nhưng nó vẫn cực kỳ hiệu quả. Đã bình tâm hơn đôi chút, Emma hít một hơi thật sâu, chỉnh trang mái tóc rồi quay trở lại làm việc.

    ° ° °

    Boston

    - Con muốn gọi một suất lobster roll 1 ăn kèm khoai chiên được không ạ? Emily hỏi.

    - Ăn kèm xa lát thì hơn, - Matthew đề nghi.

    - Ứ, tại sao thế ạ? Khoai chiên mới ngon chứ!

    - OK, - anh nhượng bộ, - nhưng nếu vậy thì không có món tráng miệng nữa đâu nhé. Con nhất trí chứ?

    - Nhất trí ạ, - cô bé đồng ý rồi cố gắng nháy mắt với bố.

    Matthew dặn bồi bàn các món cần gọi rồi trả lại cho anh ta quyển thực đơn. Hai bố con đang ngồi ngoài sân hiên của nhà hàng Bistrot 66 nằm trên phố Newbury. Sau khi dạo trong cửa hàng đồ chơi, April đã tạm biệt hai bố con để tới phòng tranh. Matthew hạnh phúc khi thấy trong mắt Emily vẫn lấp lánh niềm vui. Anh hỏi con bé muốn xin những món quà nào trong bức thư gửi ông già Noel. Emily rút ipad từ trong chiếc ba lô nhỏ xíu ra rồi hỏi liệu có thể gửi một bức thư điện tử cho ông già Noel được không nhưng Matthew từ chối. Xu hướng đưa công nghệ vào tất cả chiều kích của cuộc sống thường ngày càng lúc càng khiến anh phát bực. Đặc biệt là ngày hôm nay.

    Món bánh kẹp tôm hùm vừa được mang ra thì điện thoại của anh đổ chuông. Người gọi là Vittorio. Connie vẫn chưa về, nhưng anh vẫn tự tiến hành tìm kiếm và đã tìm ra chính xác cái ngày xuất hiện cô gái tự nhận có hẹn trước với Matthew!

    - Hôm qua là vừa tròn một năm: ngày 20 tháng Mười hai năm 2010.

    Matthew nhám mắt lại, thở dài. Cơn ác mộng vẫn tiếp diễn.

    - Nhưng thế vẫn chưa hết đâu, - ông chủ nhà hàng nói tiếp. - Cậu nên nhớ là tớ còn có hẳn một đoạn băng ghi lại hình ảnh rõ ràng.

    - Của ai kia?

    - Cô gái đó.

    - Cậu đùa sao?

    - Để tớ giải thích cậu nghe: tháng Mười một năm ngoái, nhà hàng của bọn tớ đã bị trộm đột nhập và phá phách hai lần vào ban đêm, mà hai vụ xảy ra cách nhau có vài ngày.

    - Tớ vẫn nhớ. Cậu nghĩ đó là trò bẩn của anh em nhà Mancini.

    - Đúng đấy, họ không bao giờ chấp nhận chuyện bọn tớ mở nhà hàng cạnh tranh với họ, nhưng tớ chưa bao giờ chứng minh được giả thiết đó. Tóm lại, hồi đó cả cảnh sát lẫn hãng bảo hiểm đều khuyên bọn tớ nên trang bị camera giám sát. Trong khoảng ba tháng trời, các camera này đã hoạt động hai tư trên hai tư giờ. Mọi hoạt động đều được ghi hình, chuyển tới một máy chủ và lưu vào ổ cứng.

    - Và cậu đã tìm ra những hình ảnh ghi lại được tối hôm 20 tháng Mười hai?

    - Chính xác. Mà thậm chí tớ còn tìm ra cả cô gái đó nữa. Người khách nữ duy nhất đi một mình tối hôm đó.

    - Bất ngờ quá, Vittorio ạ! Cậu gửi cho tớ một bản sao nhé?

    - Tớ gửi mail rồi đấy, anh bạn.

    Matthew dập máy rồi lấy từ trong túi ra chiếc laptop để kết nối với mạng wifi của Bistrot 66. Vẫn không có mail nào từ Emma Lovenstein, nhưng thay vào đó lại có mail của Vittorio. Đoạn băng video khá nặng và phải mất một lúc lâu mới tải được xuống.

    - Con ăn một chiếc bánh phồng sô cô la loại nhỏ được không bố?

    - Không được đâu, con yêu, bố con mình đã nhất trí là không có món tráng miệng nữa rồ mà. Ăn nốt bánh của con đi.

    Matthew cho phát đoạn video ở chế độ toàn màn hình. Không có gì đáng ngạc nhiên khi hình ảnh mờ xỉn và nhiều chằng chịt như thường thấy ở các camera giám sát. Đoạn băng Vittorio đã tách riêng có độ dài chưa đầy hai phút. Camera được đặt cố định ở vị trí khá cao trong một góc phòng chính. Đồng hồ kĩ thuật số hiển thị góc dưới màn hình cho thấy vào lúc 20 giờ 01 có một cô gái ăn vận thanh lịch đẩy cửa bước vào nhà hàng. Có thể thấy cô gái đó trao đổi ngắn gọn với Connie trước khi ra khỏi khuôn hình. Một màn hình toàn vệt nhiễu chỉ ra rằng đoạn băng đã được cắt xén, cảnh tiếp theo diễn ra sau đó chừng tiếng rưỡi đồng hồ, chính xác vào lúc 21 giờ 29. Có thể thấy rõ vẫn cô gái đó đang rời khỏi nhà hàng không chút nấn ná. Rồi hình ảnh nhòe đi và đoạn băng ngưng chiếu. Matthew mở ra xem lại lần nữa rồi ấn nút PAUSE để tạm dừng hình ảnh chính xác ở thời điểm khi cô gái bước vào nhà hàng. Không nghi ngờ gì nữa. Đó đúng là Emma Lovenstein, thật điên rồ quá sức tưởng tượng.

    - Khoác áo măng tô vào nào con yêu, chúng ta đi thôi.

    Matthew lấy từ túi áo ra ba tờ 20 đô rồi rời khỏi nhà hàng mà không chờ tiền trả lại.

    ° ° °

    - Anh phải đứng lớp gấp, April ạ. Em cho anh mượn ô tô và trông Emily giúp anh khoảng một hai tiếng nhé.

    Bế con gái trên tay, Matthew vừa lao vào gallery nơi cô gái cùng thuê nhà với anh làm quản lý. Bốn phía tường của phòng trưng bày treo đầy những bức xuân hoa khắc gỗ của Nhật Bản và những bức ảnh phong tình chụp trong các chốn ăn chơi hưởng lạc đầu thế kỉ XX. Không gian còn dành chỗ cho những bức tượng Phi châu không chút úp mở, một triển lãm những loại khổ hình ống và những tác phẩm điêu khắc hiện đại mang hình dạng sinh thực khí nam khổng lồ. Ngay cả khi nơi này không liên quan gì tới một sex-shop thì nó cũng không phải nơi dành cho loại người cả thẹn hay trẻ em.

    Matthew rảo bước ngang qua căn phòng để gửi Emily vào “nương náu” trong phòng làm việc của April.

    - Con nhớ phải thật ngoan và chờ bố ở đây nhé, đồng ý không con yêu?

    - Không ạ! Con muốn về nhà!

    Anh lấy chiếc máy tính bảng ra khỏi ba lô của con bé rồi đề xuất:

    - Con muốn xem phim không? Gia đình mèo Aristocats? Hay Cáo và chó săn?

    - Không ạ, mấy phim đó chán lắm! Con muốn xem Trò chơi vương quyền!

    - Không được, phim đó quá bạo lực. Thứ đó không dành cho các bé gái.

    Emily cúi đầu rồi khóc váng lên. Matthew day day thái dương. Anh bị đau nửa đầu còn con gái anh thì đã thấm mệt, kích động vì đã chạy khắp Toys Bazaar. Con bé ngủ trưa, yên ổn nằm trên giường riêng chứ không phải xem một xê ri phim dành cho người lớn trong căn phòng đợi của một lãnh địa khiêu dâm thế này.

    April tới chi viện.

    - Em nghĩ tốt hơn hết là em nên về nhà cùng Emily.

    - Cảm ơn em! Anh chỉ bận tối đa một tiếng rưỡi thôi.

    - Giờ giảng gì thế?

    - Anh sẽ kể cho em nghe sau, anh hứa.

    - Anh để ý giúp em chiếc xe nhé! - Cô vừa rào đón trước vừa quăng cho anh chùm chìa khóa.

    ° ° °

    Matthew đi lấy chiếc Camaro đậu dưới hàng cây cổ thụ của đại lộ Commonwealth. Như thể đang đi làm, anh rời Back Bay theo lối cầu đại lộ Massachusetts bắc qua sông rồi tiếp tục quãng đường tới Cambridge. Anh vượt qua trường đại học rồi vòng qua hồ Fresh Pond rộng mênh mông, sau đó tiếp tục lái xe nhiều ki lô mét nữa để tới Belmont. Anh cần phải gặp lại người đàn ông đã bán cho anh chiếc máy tính xách tay. Địa chỉ người khách hàng của April vẫn lưu trong thiết bị GPS, điều này cho phép anh dễ dàng tìm tới con phố hai bên nhà cửa san sát thuộc khu phố dân sinh. Lần này, anh đỗ xe ngay trước ngôi nhà ốp ván gỗ với phần mái y hệt mái giáo đường. Trước cánh cổng chính, anh được chào đón bằng những tiếng gầm gừ của chú chó giống Shar-pei với bộ lông màu sáng mà anh đã để ý từ hôm mua đồ thanh lý dọn nhà. Rụt cổ trong những nếp da nhăn không khác nào trong một chiếc áo choàng quá rộng, chú chó đứng thủ thế vẻ vừa cảnh giác vừa khiêu khích.

    - Clovis! Đây cơ mà! - Người chủ vừa ra tới ngưỡng cửa bèn hét lên.

    Trong khi người đàn ông băng qua bãi cỏ để tới chỗ anh, Matthew nhận ra cái họ khắc trên chuông: Lovenstein.

    - Anh muốn gì?

    Đây đúng là người đã nhượng lại cho anh chiếc MacBook cũ. Vẫn dáng người cao gầy ấy, vẫn cặp kính gọng vuông ấy, vẫn bộ trang phục của nhân viên nhà tang lễ ấy.

    - Xin chào, anh Lovenstein, anh có thể dành cho tôi vài phút không?

    - Về chuyện gì vậy?

    - Cách đây hai ngày, anh đã bán cho tôi một chiếc laptop, trong đợt bán thanh lý đồ đạc mà...

    - Đúng, tôi nhận ra anh rồi, nhưng xin báo để anh biết, tôi không làm dịch vụ hậu mãi đâu.

    - Không phải chuyện đó. Tôi chỉ muốn hỏi anh vài câu. Tôi vào nhà được chứ?

    - Không. Dạng câu hỏi gì thế?

    - Anh đã nói chiếc máy tính này vốn thuộc về em gái anh, điều đó chính xác chứ?

    - Ừm, - anh ta trả lời cụt ngủn.

    Không hề nản chí, Matthew lấy từ trong túi áo măng tô ra những bức ảnh anh đã in sẵn.

    - Em gái anh có phải người phụ nữ xuất hiện trong những bức ảnh này không?

    - Phải, đây là Emma. Làm sao anh có được những bức ảnh này...

    - Chúng được lưu trong ổ cứng của máy tính. Nếu anh muốn tôi sẽ gửi qua mail cho anh.

    Người đàn ông lặng lẽ lắc đầu.

    - Anh có thể cho tôi biết giờ Emma đang ở đâu không? - Matthew nói tiếp. - Tôi rất muốn nói chuyện với cô ấy.

    - Anh muốn nói chuyện với con bé ư!

    - Đúng vậy, chuyện riêng tư thôi. Và khá quan trọng.

    - Anh vẫn có thể thử xem sao, nhưng tôi không tin là Emma trả lời anh đâu.

    - Tại sao vậy?

    - Bởi vì con bé mất rồi.

    --------------------------------
    1 Bánh mì kẹp xúc xích nóng kèm xa lát tôm hùm. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:46 PM.

  8. #8
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    8. Phục sinh
    Trên thế giới này, nỗi sợ phá hủy nhiều thứ hơn là niềm vui có thể kiến tạo.
    - Paul MORAND


    - Từ ngày niên thiếu em gái tôi đã… đã hay có biểu hiện tâm tính thất thường và đa sầu đa cảm, một tính cách mà tôi gọi là “chứng tâm thần chu kỳ”.

    Daniel Lovenstein nói giọng đều đều không âm sắc. Thấy Matthew vật nài, cuối cùng anh ta đã đồng ý để anh vào nhà và kể cho anh câu chuyện về Emma.

    - Tinh thần con bé dao động thất thường lắm, - Lovenstein nói tiếp. - Hôm nay con bé còn như người phụ nữ hạnh phúc nhất thế gian, tràn trề nhiệt huyết và đầy ắp dự định. Ngày hôm sau, nó đã buồn bã ủ ê và thấy mọi sự đều vô nghĩa. Sự luân phiên xen kẽ giữa hai trạng thái sảng khoái và trầm uất ấy ngày càng đẩy nhanh tốc độ. Những năm gần đây, tôi thấy rõ là con bé mắc chứng rối loạn nhân cách. Suốt nhiều tháng trời, anh có thể cảm giác là con bé ổn, nhưng vẫn luôn diễn ra các đợt tái phát càng lúc càng nặng hơn.

    Anh ta dừng lại vài giây để nhấp một ngụm trà. Hai người đàn ông ngồi đối diện trong hai chiếc ghế bành nhồi chần. Căn phòng chìm trong khung cảnh mờ tối, âm u và lạnh lẽo, như bị ám bởi vong hồn của Emma.

    - Chủ yếu là những mối quan hệ yêu đương đã khiến con bé hẫng hụt, - Daniel Lovenstein thổ lộ bằng giọng cay đắng. - Emma rung động quá dễ dàng trước đàn ông nhưng nỗi thất vọng cứ nối tiếp nhau và chỉ ngày càng chua xót thêm thôi. Ròng rã suốt nhiều năm, con bé không chừa cho chúng tôi bất cứ thứ gì: những cơn cuồng loạn, những mưu toan tự vẫn, những vết rạch trên da thịt, những đợt điều trị dài ngày trong bệnh viện tâm thần… Con bé chưa bao giờ được chẩn đoán chính thức là rối loạn lưỡng cực nhưng tôi thì dám chắc nó mắc chứng đó.

    Những điều bí mật càng được hé lộ, Matthew càng cảm thấy khó chịu bởi nỗi oán hận của ông anh trai dành cho em gái mình rõ rành đến thế. Nhưng trong câu chuyện này phần nào mới là thật? Lovenstein không ngần ngại đưa ra những giả thiết mà theo những gì Matthew hiểu, chưa bao giờ được xác nhận về mặt y học.

    Daniel cúi xuống vơ lấy những bức ảnh nằm trên mặt bàn thấp.

    - Cách đây ba tháng, trong dịp hè, con bé đã nối lại quan hệ với một trong những người tình cũ. Chính là gã này, anh ta vừa nói vừa chỉ người đàn ông xuất hiện cùng Emma trong những tấm hình. Đó là một gã người Pháp, François Giraud, người thừa kế một vườn nho thuộc Bordeaux. Gã đó đã khiến con bé đau khổ nhiều. Thêm một lần nữa, Emma đã quá khờ. Con bé tin rằng lần này gã kia đã sẵn sàng bỏ vợ. Dĩ nhiên là gã kia không đời nào làm thế, thế là con bé lại tự vẫn một lần nữa và lần này thì…

    Lời giải thích của anh ta bị cắt ngang bởi tiếng sủa đột ngột của chú chó giống Shar-pei.

    - Nó là chó của Emma đúng không? - Matthew đoán.

    - Đúng vậy, Clovis. Con bé quấn quýt với nó lắm. Theo Emma, đó là “nhân vật” duy nhất không bao giờ phản bội nó.

    Matthew còn nhớ Emma đã nhắc tới chuyện này trong những bức mail gửi anh, cô đã dùng đúng những từ ngữ đó.

    - Tôi không muốn gợi lại những ký ức đau xót đâu, anh Lovenstein, nhưng Emma mất trong hoàn cảnh nào vậy?

    - Con bé lao vào đoàn tàu đang chạy, tại White Plains, ngày 15 tháng Tám năm ngoái. Dĩ nhiên là dưới tác dụng của một mớ hỗn độn các loại thuốc. Nói gì thì nói, trong căn hộ của nó chỗ nào cũng la liệt hộp thuốc: nào là thuốc điều trị động kinh benzodiazépine, thuốc ngủ và đủ loại rác rưởi khác…

    Đang mải miết gợi lại những ký ức đau thương, Lovenstein đột nhiên đứng bật dậy để thông báo cuộc nói chuyện đã kết thúc.

    - Tại sao anh lại tha thiết muốn nói chuyện với em gái tôi? - Anh ta hỏi trong khi tiễn Matthew ra cửa.

    Nhất định không cho anh ta biết những lý do thực sự, Matthew tránh trớ bằng cách đặt cho anh ta một câu hỏi mới:

    - Tại sao anh lại thanh lý tất cả những đồ dùng cá nhân của Emma?

    Lý lẽ đó khiến Lovenstein chạm nọc.

    - Để xóa sạch quá khứ! Để thoát khỏi Emma chứ sao nữa! - Anh ta hăng hái đáp. - Những ký ức bào mòn tôi, khiến cho tôi chết dần chết mòn. Chúng trói tôi vào đống đổ nát của một quá khứ đã từng hủy hoại tôi không ít!

    Matthew gật đầu.

    - Tôi hiểu, - anh nói khi bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà.

    Nhưng trong thâm tâm, anh đang nghĩ chính xác điều ngược lại. Anh biết rằng cuộc chiến đấu này là viển vông. Ta không thể chỉ bằng một nhát chổi mà quét sạch đi ký ức. Ký ức vẫn ở lại trong chúng ta, nấp trong bóng tối, rình đúng thời khắc chúng ta mất cảnh giác để hiện ra với sức mạnh tăng gấp bội.

    ° ° °

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Chúng ta nói chuyện nhé

    Ngày: 21 tháng Mười Hai 2011-13g45p03g

    Emma thân mến,

    Nếu cũng đang ngồi trước màn hình máy tính, cô vui lòng báo cho tôi biết nhé. Tôi nghĩ hai ta cần nói chuyện về việc đã xảy tới với chúng ta. Matt

    ° ° °

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề:

    Ngày: 21 tháng Mười Hai 2011-13g48p14g

    Emma,

    Tôi hiểu tình huống này khiến cô lo lắng và không biết phải nghĩ sao. Nó cũng khiến tôi lo sợ, nhưng chúng ta thực sự cần bàn bạc để cùng giải quyết.

    Mong hồi âm của cô.

    Matt

    ° ° °

    Matthew nhấp chuột để gửi bức mail thứ hai tới Emma. Anh bồn chồn đợi một phút dài dằng dặc, hi vọng cô gái sẽ hồi âm ngay tức khắc.

    Gặp Daniel Lovenstein xong, anh ta đã lái chiếc Camaro quay về Boston, nhưng chỉ vài ki lô mét sau, anh dừng lại trước một tiệm ăn nhanh nằm ven bờ sông Charles. Brand New Day vốn là một toa ăn cũ mạ crôm, chốn thường xuyên lui tới của cả những người đi dạo lẫn đám sinh viên Harvard sau giờ thực hành bơi xuồng. Yên vị trên một trong những băng ghế bọc vải giả da, Matthew lấy máy tính xách tay ra để kết nối mạng.

    Cả đời anh chưa bao giờ cảm thấy rối bời đến thế, chưa bao giờ cảm thấy những niềm xác tín của mình bị lung lay đến thế. Những bằng chứng dồn tích lại: ngày tháng ghi trên những bức email, đoạn băng do Vittorio cung cấp, lời chứng của anh trai Emma tiết lộ về cái chết của em gái… Mọi thứ đều vun vào khuyến khích anh tin vào điều không thể tin nổi: nhờ chiếc laptop này, anh có thể liên lạc với một cô gái, lúc này đã qua đời, nhưng một năm trước khi còn đang sống vẫn nhận được những bức mail anh viết trong hiện tại.

    Làm sao chuyện đó có thể xảy ra? Anh không tự lý giải nổi, nhưng ngay lúc này anh đã có thể rút ra vài quy tắc. Anh lấy chiếc bút và cuốn sổ tay luôn mang theo trong túi ra rồi tốc ký vài nhận xét để tư duy thêm phần sáng tỏ.

    1- Emma Lovenstein nhận được email của mình với khoảng thời gian chênh lệch đúng một năm.

    2- Chiếc laptop mình mua tại buổi bán thanh lý là phương tiện liên lạc duy nhất giữa mình và cô ấy.

    Matthew ngẩng lên khỏi cuốn sổ tay và tự hỏi về hiệu lực của quy tắc thứ hai này. Sự thể là vậy đó: Emma không nhận được những bức mail anh gửi cho cô từ điện thoại, bản thân anh cũng không nhận được những bức mail cô gửi cho anh từ chiếc smartphone của cô. Tại sao thế nhỉ?

    Anh suy nghĩ một lát. Nếu Emma đã qua đời cách đây ba tháng thì những bức mail anh gửi cho cô ngày hôm nay mà không thông qua chiếc laptop này hẳn sẽ hạ cánh xuống một tài khoản mà lúc này không ai sử dụng nữa. Nghe cũng hợp lý.

    Nhưng chuyện gì xảy ra với những bức mail Emma gửi cho anh bằng điện thoại của cô từ thời điểm năm 2010? Logic ra thì hẳn là anh từng nhận được chúng trong thời quá khứ, thế nhưng anh đâu có nhớ đã từng đọc được bức mail nào ký tên Emma Lovenstein vào thời điểm tháng Mười hai năm 2010.

    Dĩ nhiên là anh nhận được rất nhiều mail, nhưng những bức thư đó nếu xuất hiện thì hẳn đã khiến anh chú ý. Anh lục trong trí nhớ rồi tìm ra lời giải thích: anh đã thay đổi nhà cung cấp mạng - đồng nghĩa với việc địa chỉ mail cũng đổi theo - từ tháng Mười hai 2010! Địa chỉ mail mà cô gửi thư bằng điện thoại di động cho anh đơn giản là không tồn tại vào thời điểm đó! Bình tâm vì đã tìm thấy chút hợp lý trong sự hỗn độn này, anh ghi thêm vào sổ tay một nhận xét mới:

    3- Thời điểm hiện tại, tháng Mười hai năm 2011, mình không có cách nào gặp trực tiếp Emma bằng xương bằng thịt…

    Bất hạnh thay, cô ấy đã qua đời.

    4- … nhưng điều ngược lại không đúng!

    Anh nghĩ đến khả năng này: nếu cô ấy muốn gặp anh, “Emma năm 2010” có thể đáp một chuyến bay tới Boston để gặp “Matthew năm 2010” bất cứ lúc nào. Liệu cô ấy có làm vậy không nhỉ? Cứ nhìn vào cách cô ấy nhiệt tình trả lời mail anh gửi ngay lúc này thì khả năng xảy ra chuyện đó là cực thấp.

    Anh bồn chồn liếc nhìn màn hình laptop. Vẫn chưa có mail nào mới từ cô nàng quản lý rượu. Anh cố gắng phân tích suy nghĩ của Emma: một cô gái thông minh, nhưng bất ổn về mặt cảm xúc. Anh đoán cô là người yếu đuối, sẽ sợ hãi và hoài nghi khi đối mặt với tình huống này. Anh thì đã có trong tay cuộn băng Vittorio gửi và cuộc trò chuyện cùng anh trai cô để tin vào thực tại đang trải nghiệm. Nhưng Emma lại không có những thông tin tương tự. Cô hẳn đang coi anh là một thằng điên và chính vì lẽ đó mà cô không buồn hồi âm. Anh phải tìm ra cách nào đó để thuyết phục cô.

    Nhưng cách nào kia chứ?

    Anh nhìn qua cửa sổ. Đám người chạy bộ và đạp xe cùng chung con đường chạy dọc bờ sông, trong khi trên mặt sông, những chiếc xuồng rẽ làn nước trong tiếng kêu của đàn ngỗng trời.

    Tiệm ăn nhanh đã vắng tanh vắng ngắt từ khi anh tới. Trên mặt bàn formica ngay cạnh chỗ anh ngồi, Matthew nhìn thấy tờ báo vị khách nào đó bỏ lại. Tờ The New York Times số ra hôm nay. Anh cầm tờ nhật báo lên và một ý tưởng hình thành trong đầu anh. Anh dùng webcam tích hợp sẵn trong laptop để chụp ảnh trang nhất của tờ báo - sao cho ngày tháng năm hiện rõ rành rành - rồi gửi bức ảnh đó cho Emma kèm theo lời nhắn:

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Emma,

    Nếu cô cần có bằng chứng cho thấy tôi đang sống ở năm 2011, thì chính là bức ảnh này đây.

    Liên lạc lại với tôi nhé.

    Matt

    ° ° °

    New York

    Emma đọc lướt bức email rồi nhấp chuột để mở file đính kèm. Cô phóng to bức ảnh rồi lắc đầu. Thời buổi này chẳng còn gì dễ hơn là chế một bức ảnh giả mạo bằng Photoshop…

    Bức ảnh này chẳng chứng minh được điều gì hết, đồ khùng!

    ° ° °

    Boston

    Sấm nổ ầm ì. Bầu trời bỗng tối sầm lại rồi một cơn mưa như trút đổ xuống tiệm ăn nhanh. Chỉ trong vài phút, một đám đông ồn ã đã lũ lượt kéo vào tiệm để trú mưa.

    Mắt vẫn không rời màn hình laptop, Matthew bàng quan trước sự náo động ấy.

    Vẫn không thấy hồi âm.

    Rõ ràng là bức ảnh không đủ để thuyết phục Emma. Anh cần phải tìm ra thứ gì khác. Và phải tìm thật nhanh.

    Anh truy cập website tờ The New York Times rồi tìm kiếm trong tài liệu lưu trữ của tờ nhật báo. Sau vài cú nhấp chuột, anh đã tìm ra thông tin cần thiết.

    Lần này thì Emma Lovenstein không thể lờ anh đi nữa rồi…

    ° ° °

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Tôi phiền cô thêm lần này nữa thôi, Emma.

    Ngay cả khi cô không hồi âm thì tôi vẫn dám chắc cô đang ngồi trước màn hình máy tính…

    Cô có thích thể thao không? Môn bóng rổ chẳng hạn? Nếu câu trả lời là có thì chắc cô biết hôm nay (tôi đang nói tới ngày hôm nay “đối với cô”) đang diễn ra một trận đấu rất được trông đợi: cuộc đối đầu giữa đội Knick của New York và đội Celtic đến từ Boston.

    Cô hãy bật đài hoặc Kênh 9 ti vi lên nhé, rồi tôi sẽ đem đến cho cô bằng chứng mà cô hằng mong đợi…

    Matt

    Emma cảm thấy tim mình đập dồn dập hơn. Mỗi bức thư của Matthew đều khiến cô có cảm giác hai thanh ê tô đang ép lại thật chặt và sắp sửa nghiền nát cô. Nhưng xen lẫn nỗi sợ hãi này còn có niềm phấn khích. Cô gập màn hình laptop lại rồi kẹp dưới cánh tay, rời phòng làm việc để đi thang máy xuống tầng dưới nơi có phòng nghỉ giữa giờ dành cho nhân viên nhà hàng Thống Soái. Cô đẩy cửa bước vào một phòng rộng rãi với bốn bề tường màu sáng, kê bàn gỗ màu vàng nhạt, xung quanh là sofa và ghế Wassily.

    Emma chào những người cô quen biết: một vài nữ nhân viên đang vừa chuyện phiếm vừa đọc tạp chí trên một chiếc tràng kỉ êm ái, một nhóm “nam tính” hơn tụ lại quanh màn hình phẳng cỡ lớn treo trên tường để xem… một trận bóng rổ.

    Emma ngồi xuống cạnh một chiếc bàn, cắm điện cho laptop rồi đứng dậy đi lấy một món đồ uống ở quầy tự động. Cô mở lon nước rồi tiến lại gần màn hình ti vi.

    “Trận đấu vừa tiếp tục diễn ra tại nhà thi đấu Madison Square Garden, - bình luận viên hào hứng nói. - Vào nửa sau của hiệp đấu cuối cùng, đội Knick của New York đang dẫn 90 - 83. Từ khi vào trận, hai đội đã cống hiến cho chúng ta một màn đối đầu hết sức lý thú. Các cầu thủ có phong cách thi đấu hoàn toàn khác biệt đang đua tranh…”

    Emma thấy cuộn lên trong lòng. Đây đúng là trận đấu Matthew đã nhắc tới. Cô quay về chỗ ngồi để theo dõi diễn biến của trận đấu từ khoảng cách xa hơn một chút. Vài phút sau, một mail mới hiển thị trên màn hình laptop của cô.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Cô đã tìm thấy chiếc đài hay ti vi nào chưa Emma?

    Ngay lúc này, New York đang dẫn trước với tỉ số khá đậm đúng không? Nếu cô xem trận đấu trong một quán bar hay một nơi công cộng, tôi thậm chí dám chắc rằng những khán giả đang ngồi xung quanh cô cũng đã tin chắc rằng đội bóng của họ sẽ giành chiến thắng…

    Cô ngừng đọc mail để ngước nhìn về phía nhóm nam nhân viên đang dán mắt vào màn hình ti vi. Họ hể hả đập tay nhau và vỗ tay mỗi khi đội nhà ghi điểm. Rõ ràng là họ đang cực kỳ phấn khích. Cô đọc tiếp:

    … Tuy nhiên, Boston mới là đội giành phần thắng với tỷ số chung cuộc là 118 - 116. Đúng vào giây cuối cùng. Cô nhớ kĩ tỷ số nhé Emma:

    New York 116 - Boston 118

    Cô không tin tôi sao?

    Vậy thì hãy xem trên màn hình ti vi nhé…

    Tim cô nện thình thịch trong lồng ngực. Giờ thì gã đàn ông này khiến cô hoảng thực sự. Toàn thân co rúm, tứ chi tê dại, cô khó nhọc rời khỏi ghế và tiến lại gần để vừa theo dõi phần cuối trận đấu vừa âm thầm cầu nguyện cho lời dự đoán của Matthew không thành sự thực.

    “Chúng ta đang ở năm phút cuối cùng của trận đấu. New York vẫn đang dẫn với tỷ số 104 - 101.”

    Cô theo dõi những phút cuối của trận đấu trong tâm trạng e sợ. Để xua tan nỗi âu lo, cô cố gắng hít thở sâu. Chỉ còn chưa đầy hai phút nữa là kết thúc trận đấu và New York vẫn đang dẫn trước.

    Một phút ba mươi giây.

    Một cú đưa bóng vào rổ của đội Celtic dẫn đến tỷ số đều 113, rồi một loạt hai cú đưa bóng vào lưới giúp mỗi bên tăng thêm ba điểm nữa và cân bằng lại tỷ số 116 - 116.

    Emma cắn chặt môi. Chỉ còn vỏn vẹn mười giây nữa là kết thúc trận đấu thì Paul Pierce, một cầu thủ của đội Boston, đã khéo léo xuyên thủng hàng phòng ngự rồi lừa đối phương bằng một cú stepback trước khi bóng lên lưới… và ghi thêm hai điểm.

    “Boston vừa ghi thêm hai điểm và vươn lên dẫn trước! 118 - 116! Vận may đã rời bỏ đội Knick rồi!”

    Trong khi cầu thủ đang ăn mừng chiến công của mình, nhà thi đấu bắt đầu ồ lên thất vọng. Emma kinh hãi nhìn đồng hồ bấm giờ.

    Đồng hồ chỉ “00.4”. Chỉ còn bốn phần mười giây nữa. Thua rồi.

    Không! Bởi ngay khi trận đấu tiếp diễn, một cầu thủ đội Knick đã mưu toan làm điều không thể: một cú nhồi bóng trực tiếp cách khung rổ tám mét. Trái bóng đi theo một quỹ đạo kỳ diệu rồi nằm gọn trong rổ.

    “Một cú nhồi bóng khiến người ta kinh ngạc! - bình luận viên hét vang. - Không còn nghi ngờ gì nữa, Stoudemire đã ghi bàn thắng quan trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp cầu thủ của mình! New York giành phần thắng trong trận đấu này! 118 - 119!”

    Emma mừng rỡ cũng toàn thể các đồng nghiệp, nhưng không cùng một nguyên do. Mọi thứ trong cô bất chợt dãn ra. Matthew đã nhầm! Anh ta không sống trong thời tương lai! Anh ta không thể dự đoán kết quả của trận đấu! Cô không điên!

    Trên màn hình, không khí bên trong nhà thi đấu Madison Square Garden đã trở nên hừng hực. Các cầu thủ của đội bóng New York bắt đầu diễu một vòng quanh nhà thi đấu. Khán giả đồng loạt đứng dậy và hô vang mừng chiến thắng… cho đến khi trọng tài yêu cầu xem lại cú ghi bàn trên băng ghi hình và những hình ảnh đã cho thấy điều mà nãy giờ không một ai nhìn thấy: quả bóng đã rời khỏi tay cầu thủ vài phần trăm giây sau khi tiếng chuông báo mãn cuộc vang lên!

    “Đúng là khoảnh khắc đáng giá ngàn vàng! Vậy là khép lại một trận đấu có cường độ không tưởng trong tâm trạng chờ đợi hồi hộp không kém gì các bộ phim của Hitchcook, Boston đã hạ gục đội Knick với tỷ số chung cuộc 118 - 116, đồng thời chấm dứt chuỗi liên tiếp tám trận thất bại của đội bóng New York!”

    Cảm thấy nôn nao choáng váng, Emma lánh vào toa lét chung cho cả tầng.

    Mình điên mất rồi!

    Cô khiếp sợ, không thể giao đấu với con quỷ đang tàn phá lý trí của cô từ bên trong. Làm cách nào mới có thể lý giải được cơn hỗn loạn này? Đây không thể là một lời khoác lác: trận đấu đang được truyền hình trực tiếp và không thể gian lận một cuộc chơi khốc liệt như thế. May mắn ư? Có lẽ Matthew đã hú họa phát ra kết quả này. Trong thoáng chốc, cô bám lấy ý nghĩ này.

    Khỉ thật!

    Người ta không thể liên lạc với một gã đến từ tương lai được. Chuyện này đơn giản là KHÔNG THỂ!

    Emma soi mình trong gương. Mascara của cô đã bị lem, sắc mặt cô vàng ệch trông như xác chết. Cô vốc chút nước lau sạch vết lem, cùng lúc cố gắng sắp xếp lại suy nghĩ cho đỡ rối bời. Bấy giờ một chi tiết từng khiến cô bối rối chợt xuất hiện. Tại sao trong bức mail đầu tiên cô nhận được, Matthew lại viết: “Tôi là người chủ mới của chiếc MacBook của cô?” Điều đó có nghĩa là sao nhỉ? Là trong tương lai cô đã bán chiếc laptop của mình ư? Và gã đàn ông kia đã mua lại món đồ cũ ấy, rồi do một dạng khe nứt thời gian, lúc này họ có thể liên lạc với nhau qua mail trong khi mỗi người đang sống trên một dòng thời gian khác biệt? Nghe chẳng hợp lý chút nào.

    Thở dốc như thể vừa chạy nước rút một trăm mét, cô dựa vào tường và bỗng nhận ra bản tính dễ bị tổn thương và nỗi cô đơn nơi bản thân mình. Cô chẳng có ai để xin lời khuyên hoặc để tìm sự an ủi nguôi khuây. Không có gia đình thực sự để tâm sự, ngoại trừ một ông anh trai luôn giữ thái độ cứng nhắc và khinh khỉnh. Không có bạn bè thực sự. Không có người yêu. Ngay cả nữ bác sĩ tâm lý mà cô đã trả cho một đống tiền cũng bỏ đi mất.

    Tuy thế, một cái tên không lấy gì làm chắc chắn vẫn lóe lên trong tâm trí cô: Romuald Leblanc.

    Nếu có ai đó giúp được cô trong vụ việc liên quan đến máy tính này, thì chỉ có thể là cậu nhóc thiên tài tin học đó!

    Tinh thần bỗng phấn chấn hẳn lên, cô ra khỏi toa lét rồi đi thang máy lên tận tầng có văn phòng bộ phận Truyền thông. Có ai đó đang ngồi trực, nhưng vào ngày thứ Bảy này, bộ phận hoạt động cầm chừng và cậu nhóc thực tập sinh đó không làm việc trong dịp cuối tuần. Nằn nì một hồi, cô đã có được số điện thoại di động của cậu nhóc người Pháp, liền gọi cho cậu ngay. Sau hai hồi chuông, cậu thiếu niên trả lời bằng một giọng không lấy gì làm tự tin:

    - Alô?

    - Tôi có việc này cần cậu giúp đấy, Mắt Kính. Cậu đang ở đâu? Vẫn ngồi trước màn hình mà ngắm mấy đứa con gái mặc quần lọt khe hả?

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:47 PM.

  9. #9
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    9. Những lữ khách của thời gian
    Tương lai, bóng ma với đôi tay trống rỗng,
    hứa hẹn mọi thứ và chẳng có gì.
    - Victor HUGO


    New York, 2010

    Quận Meatpacking

    15 phút sau

    Cái lạnh thấu xương khiến những bờ kè của sông Hudson đông cứng.

    Emma sập cửa xe taxi. Một luồng gió lạnh băng chụp lấy cô ngay khi cô xuống khỏi xe. Lạnh cóng người, cô thọc sâu tay vào túi áo măng tô. Vào buổi chiều tối, khu phố cổ của những lò mổ chìm trong màn sương mù dày đặc. Cô thắt lại khăn quàng cho chặt rồi vượt qua vòm cầu thép dẫn tới Đê 54, bến tàu lịch sử của những chuyến tàu chở khách vượt Đại Tây Dương. Nơi cậu nhóc Romuald đã hẹn gặp cô.

    Một tiếng động cơ khiến cô ngẩng đầu nhìn lên và cô phát hiện một phi đội thực sự gồm khoảng hai chục chiếc trực thăng cỡ nhỏ và máy bay điều khiển từ xa đang lượn vòng trên nền trời lất phất tuyết rơi. Đứng rải rác dọc theo con đê chắn sóng, một nhóm đàn ông thuộc đủ mọi lứa tuổi đang tranh tài khéo để điều khiển món đồ chơi.

    Cô dõi mắt tìm Romuald rồi mất một lúc mới nhận ra cậu nhóc. Cậu thiếu niên mặc chiếc áo phao liền mũ dày sụ và đội chiếc mũ len trượt tuyết che kín hai tai, kéo sụp xuống tận lông mày. Cậu ta đang cố điều khiển cho máy bay của mình cất cánh nhưng chiếc trực thăng bốn cánh quạt đó vẫn đang nằm lì trên mặt đất vẻ tuyệt vọng.

    - Chào đầu đất, - cô mở lời trong lúc tiến lại gần cậu ta từ phía đằng sau.

    Cậu ta giật mình rồi chỉnh lại kính.

    - Xin chào, chị Lovenstain.

    - Chúng ta đang ở đâu thế này? Một cuộc họp mặt giữa những anh chàng vô danh đam mê tin học kiêm tay chơi nghiệp dư môn chế tạo máy bay điều khiển từ xa hả?

    - Đây là máy bay do thám không người lái, - cậu thiếu niên giải thích.

    - Cậu bảo sao?

    - Những cỗ máy nhỏ xinh này: chính là máy bay do thám không người lái dân sự.

    Emma mê mẩn dõi theo một trong những chiếc trực thăng bốn cánh quạt tí hon đang bay cao tít chẳng khác nào những cánh diều của tuổi thơ cô, trước khi tăng tốc rồi sà xuống mặt đê. Cô nhận thấy đám máy bay điều khiển từ xa này trông chẳng chiếc nào giống chiếc nào: máy bay chở khách, trực thăng bốn hoặc sáu cánh quạt, những chiếc có dạng đĩa bay... Những vật thể bay không xác định chế tạo thủ công được tập hợp lại bởi cộng đồng những người ham thích chế tạo và những người đam mê thú chơi máy bay mô hình. Cô hình dung ra những con người này trong xưởng của họ: những chuyên viên tin học, những người hâm mộ môn rô bốt học, được giao phó nhiệm vụ gắn những bộ phận điện tử và những mảnh rời rạc vào với nhau để tùy chỉnh cỗ máy của họ trước khi đem ra thử nghiệm trước cả nhóm bạn.

    Những cậu nhóc thực thụ.

    Cô đi từ nhóm này sang nhóm khác và nhận ra rằng phần lớn những người điều khiển máy bay đều mắc nối thiết bị bay của họ với chiếc smartphone để có thể dùng chính điện thoại cá nhân như một chiếc điều khiển. Một vài người thậm chí còn gắn thêm camera siêu nhẹ vào thiết bị bay để có thể quay phim và gửi những hình ảnh quay được thẳng tới màn hình điện thoại.

    Cô quay lại chỗ Romuald vẫn đang vật lộn với chiếc máy bay bốn cánh quạt của mình. Không ai chịu giúp đỡ cậu nhóc. Không một tâm hồn khoan hậu nào giữa “cộng đồng” này ra tay hỗ trợ cậu. Trong lúc quan sát Romuald, cô thấy tội cho cậu. Cô đoán cậu thui thủi, thông minh, hơi lạc lõng.

    Hệt như mình...

    - Tại sao thiết bị của cậu lại không bay được thế?

    - Tôi không rõ, - cậu nhóc đáp vẻ lo lắng. - Gió mạnh quá. Tôi đã điều chỉnh không được chuẩn, tôi...

    - Không sao đâu mà.

    - Có sao chứ! - Cậu ta đáp rồi cụp mắt xuống.

    Emma cảm thấy rõ ràng cậu ta không quen bị hỏi cắc cớ về những kiến thức cá nhân trong lĩnh vực cơ khí hay tin học. Cô liền đổi chủ đề.

    - Những thứ này ít ra cũng hợp pháp chứ? - Cô hỏi, giọng ngưỡng mộ xen lẫn lo lắng.

    - Đám máy bay này á? Không lấy gì chắc chắn đâu, - cậu ta vừa đáp vừa sịt mũi. - Có vài nguyên tắc cần tôn trọng: không bay trên khu vực có người, giữ thiết bị bay trong tầm nhìn, không bay cao quá một trăm mét…

    Cô gật đầu, ngạc nhiên vì dạng công nghệ này không dành cho bên quân sự hoặc các phòng thí nghiệm nghiên cứu. Điều gì ngăn cản người ta sử dụng những thiết bị bay này nhằm rình mò xóm giềng hoặc bay trên những khu vực riêng tư? Phần hoang tưởng trong cô bỗng nhiên trỗi dậy và cô hình dung ra giai đoạn tiếp theo: những thiết bị bay nhỏ xíu cỡ một con côn trùng có thể lén ghi hình mọi người trong những khoảnh khắc riêng tư và ghi âm lại cuộc nói chuyện giữa họ. Một thế giới mà chỗ nào cũng bị giám sát. Kiểu thế giới mà nói gì thì nói, cô không muốn sống trong đó.

    Cô gạt ý nghĩ đó đi rồi nhìn về phía Bắc. Xa kia, nhô cao và uốn khúc bên trên những kè sông là khối kiến trúc kết hợp giữa bê tông và thép của công viên High Line của New York, bên dưới công viên có quán cà phê Novoski nơi ta có thể thưởng thức loại sô cô la nóng ngon nhất thành phố.

    - Được rồi, thu dọn đồ dùng của cậu đi, - cô ra lệnh cho Romuald. - Tôi đãi cậu một bữa chiều ngon miệng.

    ° ° °

    Quán cà phê Novoski

    10 phút sau

    Romuald nhai ngấu nghiến một miếng to bánh ngọt nhân sơ ri kèm một cốc đầy sô cô la nóng.

    - Nói cho tôi yên tâm nào, ba ngày nay cậu ăn uống đầy đủ chứ?

    Cậu nhóc gật đầu trước khi nuốt gọn chiếc bánh còn lại.

    - Để hôm nào đó tôi sẽ dạy cậu cách ăn uống sao cho lịch thiệp trước mặt một cô gái, - cô vừa hứa vừa lấy khăn giấy lau những vụn bánh ngọt còn dính lại trên khóe môi cậu nhóc.

    Cậu ta cụp mắt nhìn xuống như thể đã quen với việc này rồi kéo căng vạt áo len chui đầu như để bụng mình trông bớt tròn hơn. Cô thấy ái ngại cho cậu nhóc.

    - Cậu sống ở đâu hả Romuald?

    - Ký túc thanh niên Chelsea.

    - Dạo gần đây cậu có liên hệ với bố mẹ chứ?

    - Chị không phải lo, - cậu ta tránh né câu trả lời.

    - Sao lại không, đúng ra là tôi thấy lo cho cậu thôi. Ít ra cậu cũng có tiền dằn túi chứ?

    - Đủ tiêu, - cậu nhóc cam đoan.

    Cậu ta bồn chồn gãi đầu, rồi vội vã nói lảng sang chuyện khác.

    - Tại sao chị muốn gặp tôi?

    - Tôi muốn nhờ cậu kiểm tra giúp máy tính xách tay, - cô vừa yêu cầu vừa lấy laptop ra khỏi túi xách rồi để ngay trước mặt cậu thiếu niên.

    Romuald uống một ngụm ca cao nữa trước khi mở màn hình lên, màn hình máy tính hiển thị trình duyệt thư điện tử.

    - Máy tính của chị hỏng gì?

    - Dạo gần đây tôi nhận được những bức mail kỳ cục. Cậu có thể xác minh nguồn gốc của chúng không?

    - Chuyện bình thường thôi, không có gì quá phức tạp, - cậu nhóc khẳng định.

    Cô thách thức cậu ta.

    - OK, cho tôi thấy cậu biết làm những gì nào. Vấn đề liên quan đến toàn bộ những mail qua lại giữa tôi với Matthew Shapiro.

    Romuald mau chóng lọc những bức mail do Shapiro gửi tới rồi để riêng trong một tệp tin. Bắt đầu xử lý theo trình tự thời gian, cậu mở phần tiêu đề của bức mail đầu tiên, kiểm tra địa chỉ IP của người gửi, kiểu mail được sử dụng và trình tự của những máy chủ khác nhau mà bức mail được chuyển tiếp qua từ khi gửi đến khi nhận.

    Về lý thuyết, không có gì dễ hơn việc lần lại nguồn gốc của một bức mail, chỉ trừ có điều, trong trường hợp này, có gì đó khập khiễng. Vẻ phật ý hiển hiện trên gương mặt Romuald.

    Cậu gỡ cặp kính với đôi tròng nhem nhuốc ra để lau sạch bằng vạt áo len. Emma bực mình giật phắt lấy cặp kính từ tay cậu, tìm trong túi xách một miếng khăn lau kính chuyên dụng, lau sạch đôi tròng rồi đeo kính vào cho cậu.

    - Thế nào rồi? - Cô nôn nóng hỏi.

    Không trả lời câu hỏi đó, Romuald vội vàng mở bức mail thứ hai, rồi xử lý theo cùng một cách, rồi lại tiếp tục với bức mail thứ ba: một trong những mail Emma viết để hồi âm cho Matthew.

    - Ơ này! Cậu có tìm ra được gì không thế hả đồ đầu đất?

    - Ngày… ngày tháng, - Romuald thì thầm. - Trông như gã này gửi cho chị những bức mail từ tương lai ấy…

    - Đúng đấy, tôi nhận ra rồi, cảm ơn cậu. Cậu giải thích chuyện này thế nào?

    Cậu nhóc lắc đầu.

    - Nói đúng ra, tôi không giải thích.

    - Cố lên đi, xin cậu đấy!

    Romuald lọc một trong những thư điện tử của Matthew, rồi mở vùng bị tiêu đề thư che khuất bằng một động tác nhấp chuột cảm ứng.

    - Trên mạng, các trao đổi dữ liệu được thực hiện giữa hai địa chỉ IP, OK?

    Emma gật đầu xác nhận. Cậu nhóc người Pháp nói tiếp:

    - Từ máy tính này đến máy tính kia, vẫn bức email ấy có thể được chuyển tiếp qua nhiều máy chủ trung gian, chúng đánh dấu thời gian mỗi khi có mail qua.

    Emma ngồi xích lại gần. Trên màn hình, người ta có thể theo dõi hành trình của bức mail từ máy tính của Matthew đến máy tính của cô.

    - Khi gã này gửi cho cô một bức mail, - Romuald tiếp tục, - những máy chủ đầu tiên đều xuất hiện với ngày tháng ở năm 2011, rồi bỗng nhiên, ngay giữa hành trình, một trong những máy chủ thực hiện một dạng “bước nhảy thời gian” để chuyển sang năm 2010. Và hiện tượng nghịch đảo diễn ra khi chính chị gửi mail cho gã đó.

    - Ở đây rất cần một cách giải thích hợp lý, - cô nhấn mạnh. - Trong giới của cậu, cậu chưa từng nghe nhắc đến vụ việc nào kiểu như thế này sao? Trên các diễn đàn? Trong các cuộc thảo luận giữa các hacker với nhau?

    Romuald lắc đầu. Cậu nhóc để vài giây trôi qua rồi nói thêm:

    - Câu chuyện ngày tháng này không phải là điều duy nhất khiến người ta khó nghĩ…

    - Nghĩa là sao?

    Cậu nhóc dùng ngón trỏ chỉ vào màn hình.

    - Trong cả hai trường hợp, điểm xuất phát và điểm đến của bức mail là giống hệt nhau. Như thể bức mail gửi đi vào năm 2011 để tới năm 2010… trên cùng một máy tính vậy.

    Romuald ước lượng hậu quả tàn khốc của tiết lộ này. Emma tái mặt và thốt lùi lại phía sau. Muốn giúp cô yên lòng, cậu nhóc hứa sẽ tiến hành các nghiên cứu khác và nhờ cậy những người xuất sắc hơn.

    Cậu nhóc vừa nói dứt câu đề ghị giúp đỡ thì một tiếng chuông êm tai vang lên báo hiệu vừa nhận được mail mới.

    ° ° °

    Emma quay màn hình về phía mình. Đúng như cô sợ, đó là một bức mail mới từ Matthew.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Cái giá của sự im lặng

    Emma,

    Tôi thấy khó mà hiểu được sự im lặng của cô. Tôi không thể tin là cô không muốn tìm hiểu thêm về chuyện đã xảy đến với chúng ta. Hay khám phá ra điều cho phép chúng ta làm hoặc không làm. Tôi có thể hiểu được những nỗi sợ hãi của cô, nhưng bản tính tò mò phải vượt qua rào cản đó chứ nhỉ!

    Có lẽ cô còn cần thêm một điều gì đó khác để quyết định vượt qua ngưỡng… Cô muốn gì? Một bằng chứng nữa nhé? Tiền bạc? Cả hai thứ đó đây, tôi mạn phép khẳng định như vậy.

    Matt

    Xuất hiện cùng với bức mail là một tệp đính kèm. Tệp dữ liệu định dạng PDF là một bài báo đăng trên tờ The New York Times số ra thứ Hai ngày 23 tháng Mười hai năm 2010.

    Một nữ du khách người Thụy Điển đã thắng 5 triệu đô tại sòng bạc vào đúng sinh nhật lần thứ 100

    Một nữ du khách may mắn đã ẵm giải thưởng trị giá hơn 5 triệu đô (chính xác là 5,023,466 đô) trên một máy đánh bạc quay số “Nàng Tiên Cá Nhỏ” thuộc sòng bạc khách sạn New Blenheim tại Atlantic City tối thứ Bảy vừa qua. Một khoản tiền kếch xù đã rơi vào túi người chơi… đúng vào ngày sinh nhật lần thứ 100 của bà! Sinh ra và lớn lên tại Stockholm, bà Linda Nordqvist là thành viên của nhóm những người hưu trí tham gia chuyến du lịch tới vùng Đông Bắc Hoa Kỳ. Nữ du khách trúng số kể lại rằng bà đã nhét 2 đô vào khe máy chơi lúc khoảng 20 giờ 45. Trong tràng vỗ tay tán thưởng của toàn bộ những người có mặt tại sòng bạc New Blenheim, bà Nordqvist tâm sự bà sẽ sử dụng phần lớn khoản tiền này để thực hiện mơ ước của riêng mình: cùng chồng thực hiện một chuyến du lịch vòng quanh thế giới bằng khinh khí cầu…

    Trên bức ảnh minh họa cho bài báo, người ta có thể thấy bà cụ trăm tuổi tếu táo tạo dáng bên máy đánh bạc, tay bám vào ghế vịn đi bộ. Bà cụ mặc một chiếc áo nỉ in dòng chữ “I Love Stockholm” và đội một chiếc mũ rơm,

    Emma nhìn đồng hồ đeo tay.

    17 giờ 30.

    Cô có không quá ba tiếng đồng hồ để hành động.

    Cần phải nhanh lên. Cô không thể chần chừ lâu hơn được nữa. Cần phải biết cho rõ. Nhất định thế.

    - Cậu có biết hàng nào quanh đây cho thuê xe không Romuald?

    - Tôi nghĩ có một hàng tên FastCar cách đây 300 mét, ngã tư Gansevoort giao Greenwich.

    - Tôi biết chỗ nào rồi, - cô nói chắc rồi để lại trên bàn một tờ 20 đô.

    Cô đứng dậy rồi cài cúc áo măng tô trước khi đương đầu với cái lạnh.

    - Cảm ơn vì đã giúp, Romuald. Bảo trọng nhé.

    - Nếu phát hiện ra chuyện gì đó thì tôi sẽ gọi cho chị. À mà… dẫu sao chị cũng phải cẩn thận đấy nhé!

    Cô vừa rời khỏi quán cà phê vừa vẫy tay chào cậu nhóc qua cửa kính.

    ° ° °

    Khi Emma tới trước hàng cho thuê xe thì bóng tối đã buông. Cô mất hai mươi phút xếp hàng trong một căn phòng có hệ thống sưởi tậm tịt mới được tiếp bởi một nhân viên đáng ghét và lấc cấc đến nỗi thiếu chút nữa thì cô từ bỏ dự định. Sau cùng, cô nhận chiếc xe đầu tiên mà người ta giới thiệu: một chiếc SUV General Motors, màu cam đỏ. Cô thanh toán bằng thẻ tín dụng, rời Manhattan theo lối đường hầm Holland rồi chạy xe trên quốc lộ về phía Nam.

    Emma ghét phải lái xe vào buổi tối, huống hồ lại trên một con đường chẳng mấy quen thuộc với cô, nhưng hành trình từ New York tới Atlantic City được chỉ dẫn hết sức rõ ràng. Chủ yếu là men theo đại lộ Garden State, tuyến đường bộ chạy ngang qua New Jersey dọc bờ biển. Trong suốt hành trình, cô cố gắng quên đi nỗi sợ hãi. Cô bật radio, chọn một kênh âm nhạc rồi thử lẩm nhẩm hát theo để đầu óc được thảnh thơi. Nhưng quá nhiều ý nghĩ cứ chen lấn nhau trong đó.

    Vì sợ tới trễ, cô thường xuyên liếc nhìn đồng hồ trên bảng điều khiển xe. Những tưởng đã tới nơi thì nỗi lo sợ trong cô lại tăng thêm một nấc bởi cô thấy mình mắc kẹt trong một đám tắc đường. Một vụ va chạm liên hoàn giữa nhiều phương tiện ngăn không cho các xe khác đi vào đường cao tốc ven bờ biển.

    Cô chờ một lúc lâu sau tuyến đường nối mới được khai thông và cuối cùng cô đã có thể vào tới kinh đô của trò cờ bạc nơi bờ Đông: một thành phố mà cô luôn coi như chốn lừa lọc, nơi cô chưa bao giờ đặt chân đến.

    Cô lại liếc nhìn đồng hồ.

    20 giờ 25.

    Cô lái xe trên đại lộ Atlantic dẫn tới lối đi lát ván trứ danh, lối đi dạo ven biển dài bất tận, nơi tập trung phần lớn những sòng bạc lớn nhất tạo nên danh tiếng cho bãi tắm này.

    Vào đầu giờ tối như lúc này, thành phố hết sức nhộn nhịp: đường phố chính tập trung những khách sạn to đẹp nhất, những nhà hàng, những khán phòng tràn ngập những chiếc xe buýt chở khách du lịch, những chiếc limousine hào nhoáng và những chiếc xe kéo nom thật tức cười.

    20 giờ 29.

    Nhìn thấy một chỗ dừng xe trước đèn giao thông, Emma tranh thủ định vị giữa dòng thác ánh sáng và đèn nê ông này. Giữa lối đi lát ván, cô nhận ra dáng vẻ độc đáo của New Blenheim, sòng bạc mới nhất của thành phố mà cô đã nhìn thấy ảnh chụp trong một tờ tạp chí. Được xây dựng giữa những năm 2000, tổ hợp được thiết kế như một bến du thuyền gồm bốn tòa tháp lượn sóng, gợi liên tưởng tới những con sóng lớn màu xanh lơ dâng cao đến sáu mươi mét trên mặt biển. Ban đêm, cả bốn tòa tháp với hai nghìn phòng bên trong lấp lánh thứ ánh sáng màu lam ngọc trông như một đội thuyền buồm liên thiên hà sẵn sàng tấn công một kẻ thù vô hình.

    20 giờ 34.

    Emma vượt một chiếc xe taxi rồi luồn lách tới tận lối vào bãi đỗ xe sáu tầng ngầm của khách sạn New Blenheim. Cô đỗ chiếc xe thuê rồi chạy tới mấy cầu thang máy dẫn lên đại sảnh khách sạn. Lên tới đó, cô dành thời gian tìm phòng đặt máy chơi bạc quay số trên một bản đồ tương tác.

    20 giờ 39.

    Tổ hợp khách sạn rộng mênh mông, bao gồm khoảng chục nhà hàng, một spa, một bể bơi, hai hộp đêm, ba quán bar và một diện tích dành cho các sòng bạc trải rộng trên hơn 10.000 mét vuông mặt sàn. Cô đã định vị được khoảng không gian dành cho những máy đánh bạc quay số và ghi nhớ hành trình đi tới đó. Cô không được phép nhầm lẫn.

    20 giờ 40.

    Cô chạy băng qua đại sảnh, đổi hai lần thang máy, men theo đường hầm kín rộng thênh thang nối bốn tòa tháp với nhau. Một cầu thang máy sau cùng để xuống một tầng, cô trình chứng minh thư cho một nhân viên gác cửa, rồi lọt vào sào huyệt của những máy đánh bạc quay số.

    20 giờ 41.

    Địa ngục của trò cờ bạc bày ra dưới dạng một đại sảnh rộng mênh mông với trần nhà khá thấp. Không có cửa sổ nên nơi này trông sầu thảm bất chấp tiếng leng keng vui nhộn phát ra từ những cỗ máy. Emma đổi 50 đô ra thẻ rồi rảo bước băng qua cơn lốc ồn ĩ và lấp loáng của đội quân những cỗ máy đánh bạc Jackpot Candy, Cleopatra, Ba Nhà Vua, Phong Lan Trắng, Vẻ Đẹp Nguy Hiểm… Hàng trăm cỗ máy tạo nên một mạng lưới rộng khắp hoạt động hai tư trên hai tư. Cô ngập trong đám đông ồn ào đang di chuyển giữa những “trò vui”: đám thanh niên chơi như những tay đánh bạc to nhân chuyến đi chơi cùng gia đình để vét sạch sòng bạc, những người chơi miệt mài với gương mặt như xác ướp đang phung phí tài sản một cách có phương pháp, lũ đàn ông tuổi đời chừng ba mươi tới tiễn đời trai của mấy thằng bạn, những cụ già héo hon và móm mém tìm lại hương vị những phiên chợ tuổi thơ…

    20 giờ 43.

    Emma chưa bao giờ hiểu được tại sao thiên hạ có thể sa đọa trong những nơi kiểu này. Vài giọt mồ hôi rịn ra trên trán cô và cơn xây xẩm khiến cô lảo đảo. Mặc dù rộng lớn là thế, không gian này vẫn gây cảm giác tù hãm và phi thời gian. Cảm thấy nôn nao nên cô phải dừng chân chốc lát để lấy hơi.

    Đúng lúc đó cô nhìn thấy một chiếc mũ rơm giữa rừng mũ lưỡi trai! Cô tiến lại gần nhóm người hưu trí mang quốc tịch Thụy Điển. Không còn nghi ngờ gì nữa, chính là bà cụ ấy: Linda Nordqvist, cụ bà trăm tuổi mặc chiếc áo nỉ in dòng chữ “I Love Stockholm”. Tay phải bà cụ đang giữ khư khư trước ngực một lọ lớn chứa đầy thẻ. Tay trái cụ bám vào khung sắt của chiếc ghế vịn đi bộ gắn bánh lăn. Cụ đang tiến về phía một dãy những máy đánh bạc mà nằm đầu dãy chính là máy “Nàng Tiên Cá Nhỏ”. Quên cả phép tắc lịch sự, Emma chen tới đứng trước màn hình,

    - Du gick in i mig! Jag är en gammal dam! Tillbaks till skolan med dig så att du kan lära dig lite hyfs! 1 bà cụ phát cáu, vẻ hết sức không hài lòng.

    20 giờ 44.

    Cứ việc rủa đi, cứ làm như tôi quan tâm lắm ấy… Emma vừa nghĩ vừa uể oải xin lỗi. Cô chờ cho bà cụ người Thụy Điển quay gót rồi mới nhét tấm thẻ đầu tiên vào khe máy.

    20 giờ 45.

    Chuyện này thật vô nghĩa, cô vừa nhắc lại vừa ấn nút trên màn hình cảm ứng để khởi động vòng quay tổ hợp số của cỗ máy.

    Lần này thì vào cuộc rồi, cô nghĩ trong khi năm trục số bắt đầu quay tít.

    ° ° °

    Boston, 2011

    22 giờ

    - Fuck! Fuck! Khốn nạn cái thân tôi! April kêu lên trong lúc lấy ra khỏi lò nướng một cái khuôn nóng giãy.

    Bất ngờ bị bỏng, cô buông cái khay thủy tinh khiến nó rơi xuống đất vỡ tan gây tiếng động ầm ĩ.

    Đang nằm thiu thiu trên tràng kỉ, Matthew giật nảy mình bật dậy. Sau khi cho con gái đi ngủ, anh đã gục xuống vì mệt trước màn hình ti vi đang chiếu lần thứ không biết bao nhiêu bộ phim Giáng sinh kinh điển của đạo diễn Capra mang tên It’s a Wonderful Life.

    - Em phải gây nhiều tiếng động hơn nữa, - anh gợi ý. - Anh không chắc là Emily đã dậy đâu.

    - Ôi, đủ rồi đấy! Món bánh mì gia vị hảo hạng của em cháy khét rồi! - April than vãn. - Lại đúng cái lần duy nhất em thử đứng bếp xem sao!

    Matthew dụi mắt. Anh thấy lạnh, cảm thấy bồn chồn và lo lắng. Anh đã ngồi cả buổi chiều để gửi mail cho Emma, thu thập bằng chứng để thuyết phục cô rằng điều hai người họ đang trải nghiệm là rất thật, nhưng tất cả thư từ điện tử của anh đều không nhận được hồi âm. Anh rời phòng khách để vào bếp giúp April dọn dẹp hậu quả, rồi anh kiểm tra hộp thư lần thứ năm trăm trong ngày.

    Lần này, hộp thư của anh nhấp nháy! Trong khi anh không còn tin vào khả năng này nữa thì Emma đã hồi âm cho anh vài dòng ngắn gọn và súc tích.

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Giải độc đắc

    Matthew,

    Anh đã thích đọc báo đến thế thì nhớ liếc mắt lần nữa vào bài báo đăng trên tờ The New York Times nhé…

    Emma

    Cô ấy muốn ám chỉ điều gì nhỉ? Tại sao cô ấy lại muốn anh đọc lại bài báo đó? Có lẽ nào…

    Cảm thấy lượng adrenaline trong người tăng vọt, anh lại gần một chiếc máy tính xách tay đang để trên bàn bếp. Anh cần được biết rõ hơn. Vừa kết nối với dữ liệu lưu trữ của tờ The New York Times, anh vừa dốc một hộp nhỏ cà phê vào máy pha rồi tự pha cho mình món đồ uống đậm đặc. Anh dễ dàng tìm lại được bản in số ra thứ Hai ngày 23 tháng Mười hai năm 2010, tải về dưới dạng file PDF rồi dùng chuột cảm ứng giở từng trang báo số để tìm kiếm bài báo kia. Thoạt tiên, anh không nhìn thấy gì. Tuy nhiên anh vẫn nhớ rõ bức ảnh siêu thực chụp bà cụ đã nghỉ hưu người Thụy Điển đang bám vào chiếc ghế vịn đi bộ, hãnh diện tạo dáng trước những chiếc máy đánh bạc quay số lòe loẹt. Nhưng bức ảnh đó đã biến mất. Anh cố đọc tờ báo lần nữa và rốt cuộc cũng tìm ra một bài báo khiêm tốn hơn nhiều, không có ảnh minh họa, thuật lại câu chuyện về giải độc đắc của Atlantic City.

    Một cô gái trẻ người New York đã thắng 5 triệu đô tại sòng bạc khi chỉ mới đặt duy nhất một thẻ!

    Một cô gái trẻ muốn giữ kín danh tính đã ẵm gọn giải thưởng trị giá 5 triệu đô (chính xác là 5,023,466 đô) trên một máy đánh bạc quay số “Nàng Tiên Cá Nhỏ” thuộc sòng bạc khách sạn New Blenheim tại Atlantic City tối thứ Bảy vừa qua. Một khoản tiền kếch xù đã về tay người chơi mới chỉ đặt cược vỏn vẹn 2 đô. Người thắng giải độc đắc này kể lại rằng cô mới chỉ vừa đặt chân đến phòng chơi thì quyết định nhét thẻ vào khe của máy chơi bạc quay số vào khoảng 20 giờ 45. Trong tràng vỗ tay tán thưởng của toàn bộ những người có mặt tại sòng bạc New Blenheim, cô gái tâm sự cô sẽ sử dụng một phần khoản tiền này để “có lẽ tậu cho mình một chiếc ô tô mới, nhưng chắc chắn không phải là máy tính xách tay mới…”

    Sửng sốt, anh đọc bài báo đến lần thứ hai, vừa đọc vừa cân nhắc mọi dữ liệu liên quan. Cổ họng anh khô khốc, trán đẫm mồ hôi. Anh cố uống một ngụm cà phê nhưng khó khăn lắm mới nuốt trôi. Anh sắp đứng dậy khỏi ghế thì một mail mới xuất hiện trên màn hình:

    Từ: Emma LovenStein

    Tới: Matthew Shapiro

    Vậy thì giờ chúng ta phải làm gì đây, Matthew?

    Emma

    Câu hỏi dội lại trong anh như một tiếng vọng. Giờ phải làm gì à? Anh hoàn toàn không biết gì hết, nhưng ít ra anh không còn là người duy nhất tự đặt ra cho mình câu hỏi đó.

    Bỗng nhiên, một nhận thức mạnh mẽ hơn nhiều khiến tâm can anh xáo trộn: vào thời điểm Emma gửi cho anh bức thư này, Kate vẫn còn sống…

    --------------------------------
    1 Tiếng Thụy Điển trong nguyên bản: Cô chen ngang lượt của tôi rồi đấy! Tôi lại là người cao tuổi rồi! Cô nên quay lại trường mà học cách cư xử cho đúng phép tắc!
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:47 PM.

  10. #10
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,772
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần ba: Những vẻ bề ngoài
    Ngày thứ tư

    10. Bàn tay đưa nôi
    Bàn tay đưa nôi là bàn tay thống trị thế giới.
    - William WALLACE


    Boston

    Ngày 22 tháng Mười hai 2010

    11 giờ sáng

    Thèm muốn.

    Oán giận.

    Ganh ghét.

    Món cocktail cảm xúc mà Emma nếm trải khi lặng lẽ chứng kiến hạnh phúc của gia đình Shapiro mang vị đắng cay.

    Sáng Chủ nhật này, Matthew, vợ anh và cô nhóc Emily đang dạo bước trên những lối đi tuyết phủ của Công viên Thành phố. Khu công viên rộng rãi của Boston đang bị bao phủ dưới một lớp tuyết mỏng như rắc phấn rơi từ lúc ngày vừa rạng. Trận tuyết đầu tiên của mùa đông đã khiến cảnh vật trắng xóa và đem lại cho thành phố bầu không khí hội hè.

    - Lại đây bố bế nào con yêu! - Matthew vừa hét vừa nhấc bổng con gái lên để chỉ cho cô nhóc một con thiên nga lớn màu trắng bạc đang đuổi theo một đàn vịt trên mặt nước hồ phẳng lặng.

    Cách đó vài mét, ngồi trên một băng ghế, Emma quan sát cảnh tượng mà không tìm cách giấu giếm sự có mặt của mình. Cô không thể bị phát hiện bởi lẽ anh chàng “Matthew của năm 2010” chẳng hề biết mặt cũng như biết đến sự tồn tại của cô. Cô gái thấy dường như tình huống éo le này vừa bất khả thi vừa kích động. Nhờ chợp mắt được một chút mà cô cảm thấy bình tâm hơn chút ít. Cô đã ngủ suốt đêm trên chuyến xe buýt Greyhound chạy tuyến Atlantic City - Boston. Hôm qua, sau khi cô trúng giải độc đắc, ban quản lý sòng bạc đã bắt cô điền một số giấy tờ. Một thủ tục cần thiết để tài khoản ngân hàng của cô nhận được số tiền cô đã thắng bạc. Qua ô cửa kính khách sạn New Blenheim, cô nhìn thấy những bông tuyết đầu tiên trên bầu trời Atlantic City. Vì không hề muốn lái xe hàng giờ liền dưới làn tuyết rơi, cô đã giao lại chìa khóa chiếc xe thuê cho người gác cổng khách sạn nơi cô bắt một chiếc taxi tới ga đường bộ, mua một vé xe buýt tới Boston. Chiếc xe còn trống quá nửa rời Atlantic lúc 23 giờ 15. Tài xế cho xe chạy với tốc độ ổn định suốt cả đêm. Cô gái đã mở hé mắt khi xe tạm dừng tại Hartford và chỉ tỉnh hẳn khi chiếc Greyhound vượt qua cửa ô thủ phủ bang Massachusetts vào lúc 8 giờ sáng.

    Emma xuống xe tại Bốn Mùa, khách sạn lớn trông ra công viên. Từ giờ trở đi, đó là điều cô có thể tự cho phép mình làm, với nhiều triệu đô trong tài khoản. Cô đã gọi tới nhà hàng Thống Soái để báo mình bị ốm và sẽ nghỉ làm cả tuần. Rồi cô đi tắm, mua vài thứ quần áo ấm tại cửa hàng thuộc khách sạn sau đó ra bên ngoài để dạo bước trên những con phố quanh co của khu Beacon Hill. Trong đầu cô không có kế hoạch cụ thể nào. Chỉ toàn những câu hỏi. Cô có nên bắt chuyện với Matthew không? Để nói gì với anh? Và làm điều đó như thế nào để không bị coi là một con điên?

    Trước khi ra quyết định, cô muốn quan sát người đàn ông đó. Cô biết địa chỉ nhà anh: một căn nhà mặt tiền ốp sành đỏ nằm ở ngã tư quảng trường Louisburg giao phố Willow. Trên đường tới đó, cô bị hớp hồn trước vẻ đẹp quyến rũ có một không hai của Beacon Hill. Khi dạo bước trên những vỉa hè lát đá xiên xẹo, cô hình dung mình hóa thân vào một nhân vật nữ của Henry James. Cả khu phố dường như ngưng đọng trong thế kỉ 19. Mặt trên các hàng quán đều ốp gỗ sơn, những ngọn đèn đường chạy bằng khí đốt lan tỏa thứ ánh sáng của một thời đại khác, trong khi những đường phố nhỏ hẹp chạy ngoằn ngoèo về phía những khu vườn bí mật lấp ló vài tán cành sau những cánh cổng sắt rèn.

    Cô dễ dàng tìm thấy ngôi nhà của gia đình Shapiro, trang trí bằng những tràng hoa cùng những vành lá thông điểm thêm vài quả thông và thắt dây ruy băng. Như đứng ngoài thời gian, cô đã đợi gần một tiếng đồng hồ, với cảm giác duy nhất là mình đang sống dưới một quả cầu tuyết của thời thơ ấu: một quả cầu thủy tinh khổng lồ mà người ta lắc trong đêm để một làn tuyết lấp lánh rơi xuống những nếp nhà xây bằng gạch đỏ. Một mái vòm vô hình, bảo vệ cô khỏi những cuộc tấn công và cơn điên loạn của thế giới…

    Khoảng 10 giờ, cánh cửa bật mở và lần đầu tiên cô nhìn thấy anh bằng xương bằng thịt. ANH, Matthew. Đầu đội chiếc mũ len, tay bế con, anh thận trọng bước xuống những bậc thềm trơn nhẫy. Xuống đến bậc thềm cuối cùng, anh vừa đặt Emily ngồi vào xe đẩy vừa lầm rầm hát cho cô bé nghe đoạn điệp khúc của một bài đồng dao vui nhộn. Emma thấy anh còn quyến rũ hơn những gì cô đã từng hình dung. Cô nhận ra ở anh nét đứng đắn, thẳng thắn và vững vàng mà cô đã nhận thấy qua những bức mail anh gửi. Và cách anh chăm chút cho con gái càng khiến anh thêm phần hấp dẫn.

    Rồi cô nhận ra người ấy, CHỊ VỢ. Người phụ nữ kia là Kate Shapiro. Một phụ nữ tóc vàng, vóc người cao ráo mảnh mai, không chỉ xinh đẹp mà đơn giản là… hoàn hảo. Một vẻ đẹp cổ điển, hoàn toàn quý tộc, tỏa rạng vầng hào quang của vẻ dịu dàng ở người mẹ và đầy huyền hoặc: đôi mắt to trong vắt, hai gò má cao, một gương mặt với nước da sáng và đôi môi đầy đặn, búi tóc hệt như nhân vật nữ trong phim của Hitchcook…

    Sau khi đã ngấm đòn - Kate là mẫu phụ nữ nếu đứng bên cạnh cô cảm thấy mình thật thảm hại - Emma đã bám theo gia đình nhỏ ấy đến tận Công viên Thành phố, khu công viên như một gạch nối giữa Beacon Hill và Back Bay.

    - Nhìn này, con yêu! - Kate gọi con gái, chỉ cho cô bé thấy một chú sóc đuôi xù đang di chuyển đằng sau một thân cây.

    Cô bé leo ra khỏi xe đẩy để đuổi theo chú sóc nhưng chỉ sau hai bước chạy, cô bé ngã sõng soài, sấp mặt xuống tuyết. Thấy phật ý nhiều hơn là thấy đau, tuy vậy cô bé vẫn bật khóc nức nở.

    - Thôi nào con yêu, lại đây với bố.

    Matthew để cô bé ngồi lại vào xe đẩy rồi bộ ba tiếp tục dạo chơi, băng qua phố Charles để tới Boston Common, nơi một sân trượt băng được dựng lên trong những tháng mùa đông này. Để an ủi Emily, Kate mua một túi hạt dẻ nóng ở chỗ người bán hàng rong. Họ cùng nhấm nháp hạt dẻ trong lúc quan sát các tay trượt băng thực hiện thành thục những hình vẽ táo bạo hoặc ngã phịch trên mặt băng. Trường hợp thứ hai khiến Emily đặc biệt thích thú.

    - Nhìn những người khác ngã thì lúc nào cũng vui hơn phải không cưng? - Người bố chọc cô bé.

    Rồi họ chầm chậm di chuyển vào giữa bãi cỏ rộng thênh thang nơi tập trung phần lớn những người đi dạo. Matthew công kênh con gái trên vai mình. Đôi mắt sáng long lanh, cô bé ngắm nghía cây thông Giáng sinh khổng lồ được trang trí tầng tầng lớp lớp mà hằng năm, thành phố Halifax vẫn gửi tặng cho người dân Boston thể theo một truyền thống lâu đời.

    Cách đó vài bước, Emma nhìn Emily không rời mắt. Đôi mắt cô cũng lấp lánh hệt như cô bé con. Nhưng ngọn lửa cháy trong đó nhuốm màu cay đắng.

    Cô chưa từng biết đến niềm hạnh phúc gia đình này, vẻ thanh thản toát ra từ họ, tình yêu đang tự do luân chuyển từ người này sang người khác. Tại sao? Cô kém cạnh những người khác ở điểm nào mà không có được niềm đại hạnh đó?

    ° ° °

    Boston

    22 tháng Mười hai 2011

    Giữa đêm

    Mặc quần pyjama và áo phông của đội Red Sox, Matthew bật hàng đèn chiếu viền quanh chiếc gương trong phòng tắm.

    Không thể nhắm mắt. Cổ họng anh khô khốc, trống ngực nện liên hồi và một cơn đau nửa đầu tồi tệ. Anh tìm hai viên thuốc giảm đau trong tủ thuốc rồi nuốt chửng cùng một ngụm nước. Anh xuống cầu thang vào bếp. Suốt ba tiếng qua anh trở mình liên tục trong giường, một ý nghĩ cứ bám riết lấy anh. Một lẽ hiển nhiên dần dà thuyết phục anh. Một ý nghĩ điên rồ, quá hay ho nên khó mà là thật, khiến anh chóng mặt: anh nên thử cố gắng bằng mọi cách thuyết phục Emma ngăn chặn vụ tai nạn xảy ra cho Kate. Khi nghĩ đến khả năng đó, một từ cứ trở đi trở lại trong tâm trí anh. Anastasis: người Hy Lạp dùng thuật ngữ này để gọi tên hiện tượng người chết sống lại. Như trong một cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng. Liệu có thực sự tồn tại cơ hội quay trở lại quá khứ để thay đổi dòng đời của mình không nhỉ? Đó là một hi vọng mong manh, nhưng cũng là một cơ may mà anh nên tận dụng triệt để.

    Anh nghĩ tới giấc mơ điên rồ mà nhân loại đều mong đạt được: ngược dòng thời gian, để sửa chữa những lầm lỗi của bản thân và những bất công của cuộc đời. Anh nghĩ tới huyền thoại về chàng Orphée và tự thấy mình trong lốt của nghệ nhân chơi đàn lia tìm đường xuống tận Âm phủ để van xin Diêm vương trả lại cho mình người vợ quá cố. Kate là nàng Eurydice của anh, nhưng để đưa cô trở về với cuộc sống, anh cần sự giúp đỡ của Emma Lovenstein đến tuyệt vọng.

    Trong bóng tối lờ mờ, anh bật dây đèn vách chạy dưới kệ bằng gỗ sơn mài trong phòng bếp. Anh nhấc màn hình laptop lên, ngồi xuống một chiếc ghế đẩu rồi viết cho Emma một bức mail nơi anh đã trút hết nỗi lòng và gửi gắm toàn bộ niềm tin tưởng.

    ° ° °

    Boston

    Ngày 22 tháng Mười hai 2010

    Gia đình Shapiro đã rời bãi cỏ thuộc Boston Common để di chuyển về phía Đông. Emma thận trọng bám theo, giữ khoảng cách hợp lý, cố gắng xác định vị trí của mình và làm quen với thành phố. Boston lập tức khiến cô thích thú: lịch sự hơn, văn minh hơn, đỡ thô ráp và nhộn nhạo hơn New York. Ở mỗi ngã ba ngã tư đường, giữa kiến trúc cổ điển và lối xây dựng hiện đại, dường như quá khứ và hiện tại hợp nhất trong một bản hòa âm êm tai.

    Chẳng bao lâu sau, hương cà phê rang đã phảng phất trong không khí khi North End - khu phố Ý - xích lại gần. Trên phố Hanover, những khung cửa kính của các tiệm bánh ngọt và các tiệm bán đồ ăn chế biến sẵn khiến khách hàng quen ứa nước miệng: pho phát mozzarella di buffala, actisô kiểu La Mã, bánh Gênes giòn tan, bánh struffoli ngọt ngào mật ong, bánh cuộn cannoli ngồn ngộn kem tươi…

    Matthew cùng vợ tay trong tay bước vào một nhà hàng ốp kính toàn bộ, hẳn là nơi họ thường xuyên lui tới. The Factory là một nhà hàng thời thượng với bầu không khí vừa gia đình, vừa sành điệu, khách quen của nhà hàng bao gồm những sinh viên sành ăn và những ông bố bà mẹ trẻ trung vốn là thị dân địa phương. Không kịp phản ứng, Emma theo chân họ bước vào nhà hàng rồi gọi một bàn.

    - Chị đi một mình thôi ư? - Nữ nhân viên phục vụ bàn hỏi cô bằng giọng trách móc.

    Emma gật đầu xác nhận. Lúc này vẫn còn sớm. Nhà hàng bắt đầu đông dần nhưng rõ ràng vẫn còn chỗ.

    - Chị cũng chưa đặt chỗ phải không ạ?

    Lời trách móc thứ hai.

    Lần này cô không trả lời, im lặng chịu đựng thái độ kiêu căng của cô gái kia, vốn có các nét thanh tú, mái tóc dài cứng đờ và mặc chiếc quần soóc siêu ngắn khoe cặp nhân tuổi đôi mươi.

    - Chị làm ơn đợi một lát. Tôi sẽ xem liệu chúng tôi còn bàn nào không?

    Emma nhìn cô gái quay đi, băng qua phòng như thể đang diễn trên sàn cat-walk. Để đỡ bối rối, cô tiến về phía quầy bar - một khối phi brô xi măng với những chiếc ghế kim loại vây quanh - rồi gọi một ly cocktail caipiroska.

    Mặt trời đã lên cao. Một luồng sáng rực rỡ tràn ngập căn phòng. Được bố trí thành nhiều tầng, nơi này nhắc Emma nhớ đến bầu không khí của một vài quán bar New York, với một lối bài trí kiểu công nghiệp chuyên dùng các sắc xám và gỗ mộc. Trên mặt quầy, một tảng giăm bông Parma tuyệt ngon được bày như một tác phẩm nghệ thuật gần một máy xắt lát thủ công, trong khi ở cuối phòng vang lên tiếng lửa cháy tí tách trong một lò nướng pizza cỡ lớn.

    - Chị vui lòng đi theo tôi nhé, - cô nàng phục vụ bàn đề nghị khi quay lại tìm cô.

    Anh chàng phục vụ quầy bar nháy mắt ra hiệu cho Emma rằng lát nữa anh ta sẽ mang ly cocktail cho cô ra tận bàn. May thay, cô được xếp chỗ trên một băng ghế dài cách chỗ Matthew cùng vợ anh ta ngồi chưa tới chục mét. Yên trí vì đã tìm được một vị trí quan sát lý tưởng, cô uống một hơi cạn ly cocktail rồi gọi một ly khác kèm một suất cá tráp rưới nước xốt cải cay cùng một chiếc pizzetta kèm actisô và cải lông.

    Cô nheo mắt để quan sát nhà Shapiro kĩ hơn. Họ tạo nên một gia đình hạnh phúc. Những câu chuyện đùa nổ như ngô rang, tâm trạng ai nấy đều vui vẻ. Matthew làm hề cho con gái vui và Kate bật cười sảng khoái. Rõ ràng là cặp đôi này được gắn kết với nhau bởi một thứ tình cảm đậm sâu và bền chặt. Kiểu vợ chồng khiến người ta không khỏi thốt lên “họ thật xứng đôi”. Emma quan sát tiếp cô nhóc Emily.

    E-MI-LY. Ba âm tiết vang lên trong cô đầy lạ thường. Trước giờ cô vẫn tự nhủ rằng đó chính là cái tên cô sẽ đặt cho con gái mình nếu sau này làm mẹ. Sự trùng hợp này khơi lên một nỗi lo sợ và một nỗi đau chưa lành sẹo.

    Cô chưa từng nói với ai, kể cả với bác sĩ điều trị tâm lý, nhưng trong vòng hai năm quan hệ gián đoạn với François, cô đã bí mật cố gắng để mình đậu thai. Cô đã nói dối người tình, khiến gã tin rằng cô dùng thuốc tránh thai. Nhưng ngược lại, cô tính hết sức chính xác các giai đoạn trong chu kỳ của mình và mỗi lần có thể, cô lại quan hệ tình dục vào thời điểm thuận lợi. Ban đầu, cô tự nhủ nếu mình sinh một đứa con cho François, gã sẽ quyết tâm bỏ vợ. Rồi cô hiểu ra rằng chuyện đó không hề có chút tác động nào tới bản tính thiếu quyết đoán của người tình, nhưng khát khao sinh con đã kịp bám rễ trong cô.

    Rủi thay, đứa trẻ hằng được mong đợi ấy chưa bao giờ xuất hiện.

    Cô đã không lo lắng quá mức. Nói cho cùng thì cô mới có ba mươi ba tuổi. Nhưng một hôm, khi lật qua một tờ tạp chí Newsweek trong lúc chờ khám bác sĩ tâm lý, cô đọc được một bài viết nhắc tới hiện tượng “mãn kinh sớm”. Cô bị xáo trộn trước lời chứng của những phụ nữ cho thấy khả năng sinh sản của họ đã bắt đầu suy giảm ngay khi bước vào lứa tuổi ba mươi. Thoạt tiên, cô không có lý do đặc biệt để cảm thấy có liên quan: cô chưa bao giờ gặp rắc rối với chu kỳ của mình và kinh nguyệt của cô đều đặn. Nhưng một nỗi lo âm thầm đã giày vò cô sau khi đọc bài báo đó. Để quên đi những lo lắng này, rốt cuộc cô đã mua một bộ thử nghiệm “đồng hồ sinh học” bán tại hiệu thuốc. Quy trình hết sức nghiêm ngặt. Nó yêu cầu thực hiện lấy máu vào ngày thứ hai của kỳ kinh. Sau đó mẫu được gửi tới phòng thí nghiệm để phân tích ba típ hoóc môn cho phép đo lượng noãn bào và so sánh chúng với số lượng được trông đợi thông thường ở một phụ nữ cùng lứa tuổi.

    Một tuần sau thì Emma nhận được kết quả và phát hiện ra rằng trữ lượng noãn bào ở cô tương đương trữ lượng noãn bào ở một phụ nữ hơn bốn mươi tuổi! Điều phát hiện này khiến cô chán chường. Lẽ ra cô nên làm lại thử nghiệm đó, hoặc đi khám phụ khoa; nhưng cô lại muốn chối bỏ thông tin ấy hơn, và lúc này thì nó trở lại trong cô với sức mạnh hủy diệt của một chiếc boomerang.

    Emma nghe thấy nỗi sợ và nỗi giận dữ thình thịch trong lồng ngực. Toàn bộ cơ thể cô run lên. Để gạt ký ức này sang một bên, cô nhìn như đóng đinh vào chiếc bàn nơi gia đình Shapiro đang quầy quần.

    Nhưng cơn giận dữ không thuyên giảm. Cô lại cảm thấy cuộc đời đối với mình thật bất công, cô bị quấy nhiễu bởi những câu hỏi không lời đáp. Tại sao một số người lại có được những cuộc hạnh ngộ thật đúng lúc đúng chỗ? Tại sao một số người được hưởng tình yêu và có được một gia đình như hậu phương vững chắc? Chuyện đó liên quan đến tài cán, đến cơ may, đến sự tình cờ, đến số phận? Cô đã làm sai điều gì trong cuộc đời mình mà phải cô độc thế này, dễ tổn thương thế này, và tuyệt đối tự ti thế này?

    Cô ra hiệu cho người phục vụ dọn bàn dọn ghế rồi lấy chiếc laptop ra khỏi túi xách. Boston là một thành phố có kết nối mạng cực tốt và nhà hàng này đặt một trạm wifi cho khách hàng truy cập thoải mái. Cô mở hộp thư ra kiểm tra, và đúng như cô trông đợi, cô đã nhận được một mail mới từ Matthew.

    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Chủ đề: Sustine et abstine

    “Hãy chịu đựng và nín nhịn.”

    Cô có biết câu châm ngôn của những người theo chủ nghĩa khắc kỉ này không hả Emma?

    Nó khuyên nhủ người ta chấp nhận tiền định và số phận. Đối với những triết gia này, mong muốn thay đổi trật tự của vạn vật đã được “Thượng đế” áp đặt thật chẳng ích lợi gì.

    Tại sao thế? Bởi lẽ chúng ta không thể nào chi phối tới bệnh tật, thời gian trôi qua hoặc cái chết của người mình yêu thương. Chúng ta hoàn toàn bất lực trước những nỗi đau đớn này. Chúng ta chỉ có thể chịu đựng theo cách càng nhún nhường bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu.

    Đó chính là điều tôi đã cố gắng thực hiện từ một năm trở lại đây: chấp nhận cái chết của Kate, vợ tôi, tình yêu của đời tôi. Chấp nhận điều không thể chấp nhận nổi, chịu tang, tiếp tục sống vì con gái tôi, Emily.

    Nhưng mọi thứ đã thay đổi kể từ khi tôi mua chiếc máy tính xách tay của cô. Không gì hơn cô, tôi cũng chẳng tài nào hiểu nổi sự lệch lạc về thời gian này. Tất nhiên có những hiện tượng không thể nào lý giải nổi một cách logic và khoa học, và đó chính là điều cả hai chúng ta đang trải nghiệm. Chúng ta đã “vấp ngã trong thời gian”, như Einstein hẳn sẽ nói.

    Hôm nay, với sự giúp đỡ của cô, có lẽ tôi có khả năng được hưởng một ân huệ mà không con người nào cầu xin được ở trời cao: nhìn thấy người mình hằng yêu thương sống lại.

    Tôi xin cô hãy giúp tôi, Emma.

    Cô đang nắm giữ mạng sống của vợ tôi trong tay. Tôi đã kể cho cô nghe hoàn cảnh cô ấy qua đời rồi đấy: ngày 24 tháng Mười hai, quá 21 giờ một chút, khi Kate vừa kết thúc ca trực, một chiếc xe tải giao bột đã đâm sầm vào xe của vợ tôi đúng lúc cô ấy lái xe rời bãi đỗ của bệnh viện. Cô có quyền năng xóa bỏ vụ tai nạn đó, Emma ạ.

    Hãy làm bất cứ điều gì để ngăn cô ấy lấy xe: chọc thủng cả bốn lốp của chiếc Mazda cô ấy thường lái, giật đứt dây cáp tiếp nhiên liệu dưới nắp máy. Hoặc hãy tự tìm ra cách nào đó để ngày hôm đó cô ấy không đi làm. Bất cứ điều gì để tránh khoảnh khắc chết chóc ấy!

    Cô có thể trả lại cho tôi người vợ, nhưng trên hết, cô có thể trả lại cho đứa con gái bé bỏng của tôi người mẹ của nó. Cô có thể giúp gia đình tôi đoàn tụ. Tôi biết cô là người rộng lượng. Tôi không nghi ngờ chuyện cô sẽ giúp tôi và tôi sẽ không bao giờ quên ơn cô.

    Cô có thể yêu cầu tôi BẤT CỨ ĐIỀU GÌ, Emma ạ. Nếu cô muốn có thêm tiền, tôi có thể cho cô kết quả xổ số, thông tin về thị trường chứng khoán hay tỷ số của những trận bóng rổ sắp diễn ra. Cứ yêu cầu tôi bất cứ khoản tiền nào và tôi sẽ giúp cô có được nó…

    Hôn cô,

    Matt.

    Nội dung bức mail khiến cô nổi xung lên. Không thể kiềm chế cơn bột phát của mình, cô hồi âm anh bằng vài dòng dồn nén toàn bộ cơn giận dữ và cảm giác bị tước đoạt trong cô.

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Re: Sustine et abstine

    Thứ tôi muốn không phải là tiền, anh chàng đáng thương ạ!

    Tôi muốn tình yêu! Tôi muốn một gia đình!

    Tôi muốn những thứ không thể mua bằng tiền kia!

    Vừa nhấn nút gửi thư thì cô đã nhận thấy Matthew cùng vợ con đã rời khỏi nhà hàng. Cô đóng laptop lại rồi gọi tính tiền. Vì không mang theo tiền mặt nên cô định quẹt thẻ, nhưng phải kiên nhẫn chờ một lúc cô mới nhận lại được tấm thẻ nhựa hình chữ nhật.

    ° ° °

    Cô vội vã bước ra North Square và lại tìm thấy gia đình Shapiro đang rong chơi trên phố Hanover. Cô bám theo họ tới tận một bãi cỏ dài xanh mướt có trồng thêm nhiều cây to, những đài phun nước, những tia nước và những cột đèn đường. Sau mười lăm năm biến thành đại công trường, Boston đã lập nên kỳ tích hạ ngầm những tuyến xa lộ khổng lồ xưa kia vốn làm biến dạng bộ mặt thành phố. Lúc này, tám tuyến đường ngầm dưới mặt đất đang chạy vô hình trong lòng thành phố. Chúng đã nhường lại bề mặt trống, mang lại khoảng không gian mới cho một loạt liên tiếp những đảo cây xanh dành cho người đi bộ.

    Emma tiếp tục theo dõi tới tận ngã tư phố Cambridge giao phố Temple. Đến lối dạo bộ, Matthew và Kate trao nhau một nụ hôn phớt trước khi chia tay để tách ra hai hướng. Bị bất ngờ, Emma do dự vài giây. Cô hiểu rằng Matthew cùng con gái sẽ về nhà họ ở Beacon Hill nên muốn đi theo Kate hơn. Người phụ nữ trẻ đi ngang qua trước những đường sổ thẳng của nhà thờ Old West rồi tiến lại gần một khu phố hiện đại hơn nơi những ánh phản chiếu lạnh lẽo của thủy tinh và thép đã thế chỗ vẻ duyên dáng nuột nà của những phiến gạch đỏ. Emma ngước nhìn một tấm biển sáng đèn: cô đang đứng trước lối vào chính của MGH, Bệnh viện Đa khoa Massachusetts, một trong những bệnh viện quy mô nhất và cổ kính nhất nước Mỹ.

    Đó là một khu vực rất rộng nơi các tòa nhà cao tầng chất chồng lên nhau mà vẻ ngoài của chúng không hề có sự hài hòa hay hợp lý. Có thể đoán rằng qua năm tháng bệnh viện đã phát triển theo hình mẫu của một thành phố phát triển nhanh cả về kinh tế lẫn dân số. Từ khối xây cũ ban đầu lồng ghép một cụm những khối xây mới lúc nào cũng rộng rãi hơn, vươn cao hơn. Mặt khác, khu tổ hợp y tế này vẫn đang trong quá trình xây cất hoàn thiện: một khối bê tông khổng lồ nhô lên khỏi mặt đất giữa những cần cẩu, những xe ben, những máy xúc và những lán công trường.

    Kate dễ dàng hòa vào cảnh trí không mấy thân thiện này để lại chỗ một khối thủy tinh màu lam ngọc khổng lồ: tòa nhà nơi có Trung tâm Tim mạch. Nữ bác sĩ phẫu thuật nhanh nhẹn bước lên những bậc thềm dẫn tới cánh cửa tự động rồi khuất vào bên trong tòa nhà. Emma liền đoán Kate có ca trực trong khoa Tim mạch của MGH.

    Cô ngập ngừng. Không thể theo chân Kate vào bên trong bệnh viện. Cô sẽ nhanh chóng bị phát hiện và đuổi ra. Vả chăng, làm vậy phỏng có ích gì? Emma đang định từ bỏ ý định thì nỗi tò mò lại trỗi dậy mạnh mẽ. Giày vò. Nhất là cô lại đang cảm thấy chất adrenaline chảy trong huyết quản, gây ra một nỗi phấn khích giải phóng cô khỏi nỗi ức chế và khiến cô gan dạ hơn.

    Cô ngoảnh mặt chờ một ý tưởng. Thời tiết ngày Chủ nhật thật đẹp, bãi đỗ xe chật cứng những chiếc xe tải giao hàng đậu hàng đôi. Những cánh cửa mở toang, chúng dỡ hàng hóa xuống trong không khí vô cùng hỗn loạn: lương thực thực phẩm, thuốc men, các sản phẩm gia dụng, quần áo vải vóc chuyển từ tiệm giặt là về…

    Cô lại gần chiếc xe đậu cuối hàng rồi thò nhanh đầu vào bên trong. Chuyến hàng bao gồm những giỏ lớn đựng ga trải giường, áo bệnh nhân và áo blu của bác sĩ. Cô đưa mắt tìm tài xế. Rõ ràng anh ta là một trong số những người đang tranh thủ nghỉ xả hơi gần dãy máy bán đồ uống tự động. Mải trò chuyện, họ không hề để ý gì đến cô. Tim đập thình thịch, cô với tay để lấy một bộ đồng phục. Được cắt may cho một người đàn ông, chiếc áo blu rộng gấp đôi, nhưng Emma không lấy thế làm phiền, cô xắn tay áo lên rồi bước vào khoa Tim mạch.

    ° ° °

    Thắp nhiều đèn và sáng sủa, sảnh vào đối lập với không khí náo động bên ngoài. Khắp nơi là các vật liệu thiên nhiên - tre, phong lan, cây trồng nhiệt đới, các thác nước róc rách chảy dọc bức tường, đá đen - phối hợp với nhau để tạo ra một bầu không khí dịu lòng.

    Emma lại trông thấy Kate giữa một hành lang, đang nói chuyện cùng một đồng nghiệp nữ, nhưng cuộc trao đổi giữa họ không kéo dài và nữ bác sĩ phẫu thuật đã leo những cầu thang khác, trình thẻ ra vào với nhân viên an ninh đang gác trước lối vào dãy phòng dành cho nhân viên bệnh viện.

    Không có được chiếc thẻ ra vào quý giá đó, Emma đành với lấy một tập sách mỏng bày trên giá. Giống như trong khóa học diễn kịch từng tham gia thời niên thiếu, cô thử sắm vai một nhân vật đáng tin cậy bằng cách ngụy trang. Với chiếc ba lô trên vai, chiếc áo blu và dáng vẻ dứt khoát, cô trông không khác nhiều các sinh viên y nội trú và các bác sĩ thường qua lại nơi này. Cô cụp mắt xuống và tập trung vào tập sách mỏng như thể đang nghiên cứu bệnh án trước một ca phẫu thuật. Nhân viên an ninh thậm chí còn không nhìn cô, cho phép cô đi theo Kate tới tận căng tin dành cho nhân viên bệnh viện. Nữ bác sĩ phẫu thuật gặp hai sinh viên nội trú trong đó: một cô gái lai xinh đẹp với gương mặt thanh tú và một anh chàng đẹp trai có thân hình vạm vỡ hợp với chiếc áo cầu thủ khoác trên vai hơn là với chiếc ống nghe đeo trên cổ.

    Emma ngồi vào bàn bên cạnh để tranh thủ nghe hóng cuộc trò chuyện. Không một nụ cười, Kate chào hai sinh viên mà rõ ràng cô đang phụ trách theo dõi và đánh giá, từ chối cốc cà phê họ mời rồi bằng một giọng đanh thép, cô bắt đầu tuôn ra một tràng trách móc, chỉ ra những nhược điểm của họ không chút xót thương. Những tính từ chỉ phẩm chất cô dùng hết sức nặng nề: “bất tài”, “lười chảy thây”, “nghiệp dư”, “không đủ trình độ”, “biếng nhác”, “vô dụng”, “nguy hiểm cho bệnh nhân”… Mặt câng câng, hai sinh viên nội trú bày tỏ vài điều không đồng tình, nhưng lời phân bua của họ không đủ sức nặng nếu so với sự bạo liệt trong đòn tấn công của Kate. Vả chăng, cô đã nhanh chóng đứng dậy để chấm dứt cuộc trò chuyện mà không quên thốt ra một lời đe dọa thực sự.

    - Nếu không triệt để thay đổi tinh thần làm việc, nếu không ý thức được rằng cần phải thực sự bắt đầu làm việc, thì cô cậu có thể vĩnh biệt giấc mơ chuyên ngành phẫu thuật rồi đấy. Nói gì thì nói, tôi sẽ phản đối việc cấp bằng tốt nghiệp cho cô cậu mà không thấy lương tâm áy náy chút nào đâu.

    Cô nhìn chăm chú vào mắt họ để xác minh xem tên lửa đã trúng đích chưa rồi quay gót tiến về phía thang máy.

    Lần này, Emma từ bỏ ý định đi theo Kate mà ngồi nguyên bên bàn, căng tai lắng nghe hai sinh viên nội trú tha hồ bộc lộ sự cay nghiệt:

    - Con mụ đàng điếm này xinh thì có xinh, nhưng mà tởm thật!

    - Nhã nhặn quá rồi đấy, Tim. Đáng lẽ cậu phải nói với chị ta từ lúc chị ta còn ngồi ở đây cơ…

    - Chó má thật, Melissa ạ, chúng ta làm việc quần quật tám mươi giờ mỗi tuần, vậy mà mụ ta còn coi chúng ta là lường biếng chứ!

    - Đúng là chị ta đòi hỏi cao. Với người khác cũng như với chính mình. Dù sao đó cũng là trưởng khoa duy nhất chấp nhận gánh vác ca trực…

    - Đó không phải là lý do để nói năng với chúng ta như với lũ chó! Mụ ta tự coi mình là ai chứ, khốn nạn!

    - Chính là cái chị ta đang là thôi: dĩ nhiên là bác sĩ phẫu thuật xuất sắc nhất bệnh viện này. Cậu có biết chị ta đã từng đạt điểm số 3,200 tại kỳ MCAT 1 chứ? Đó là điểm số cao nhất từ khi bài test này được áp dụng và cho tới nay vẫn chưa ai vượt được số điểm đó đâu.

    - Cậu thực sự thấy mụ ta đặc biệt đến thế ư?

    - Chị ta xuất sắc mà, chắc chắn là vậy, - Melissa miễn cưỡng thừa nhận. - Tớ thắc mắc làm cách nào chị ta có thời gian làm được tất cả những việc ấy: chị ta làm việc quần quật ở đây, tại Trung tâm Tim mạch này, chị ta lãnh đạo khoa phẫu thuật nhi do chính mình sáng lập tại Jamaica Plain, chị ta đi giảng, chị ta viết bài cho các tạp chí y khoa danh tiếng nhất, chị ta luôn đi đầu trong việc đổi mới các kĩ thuật mổ xẻ…

    - Vậy là cậu ngưỡng mộ mụ ta?

    - Dĩ nhiên. Mà thêm nữa, đó là một phụ nữ…

    - Tớ không thấy chuyện đó thay đổi được gì.

    - Chuyện đó thay đổi tất cả. Cậu chưa bao giờ nghe nhắc đến “ngày nhân đôi” à? Chị ta phải chăm sóc gia đình, chăm chồng, chăm con gái, coi sóc nhà cửa…

    Tim vươn mình trên ghế. Một cái ngáp dài khiến quai hàm cậu ta như rời ra.

    - Đối với tớ, người phụ nữ này chính là robot cảnh sát Robocop.

    Melissa nhìn đồng hồ đeo tay rồi uống nốt ngụm cà phê.

    - Chúng ta không ở ngang tầm của chị ta và có lẽ không bao giờ được như thế, - cô nàng sáng suốt thừa nhận trong lúc đứng dậy. - Nhưng tớ chê trách chị ta cũng chính ở điểm này: không chịu hiểu rằng tất cả mọi người đều đâu có được năng lực như chị ta.

    Hai sinh viên nội trú buột một tiếng thở dài ủ rũ. Họ lê bước tiến về phía thang máy, không chút hào hứng với viễn cảnh phải quay trở lại làm việc.

    Còn lại một mình, Emma ngờ vực liếc ra sau. Cô đã biết được khá đủ.

    Tốt hơn hết là không nên nấn ná ở đây quá lâu kẻo bị phát hiện mất thôi.

    Cô vớ lấy chiếc ba lô, tuy nhiên, ngay ở phút cuối cùng, cô lại không cưỡng nổi sự cám dỗ là kiểm tra hộp thư điện tử.

    Cô đã nhận được một thư mới từ Matthew…

    --------------------------------
    1 Viết tắt của Medical College Admission Test: một bài kiểm tra đầu vào tiêu chuẩn mà các sinh viên buộc phải trải qua nếu muốn nhập học tại các trường Y thuộc Bắc Mỹ (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:48 PM.

Trang 1 / 3 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Thiên Đường
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 77
    Bài Viết Cuối: 04-05-2019, 12:39 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-29-2017, 12:06 PM
  3. Thiên Đàng Du Kí
    By giavui in forum Audio Tôn Giáo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2016, 06:40 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-14-2016, 01:11 PM
  5. Thiên Đường Sụp Đổ
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-20-2014, 12:30 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •