Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Không có đau khổ nào hoàn toàn là đau khổ, cũng như không có niềm vui nào hoàn toàn là niềm vui.
Leon Tolstoi
Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 26

Chủ Đề: Ngày Mai

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Ngày Mai

    Ngày Mai

    Tác giả :Guillaume Musso

    Người dịch: Phúc Chi Nhi







    MỤC LỤC [−]



    Phần một: Tình cờ gặp gỡ

    1. Giữa những bóng ma
    2. Miss Lovenstein
    3. Thông điệp
    4. Strangers in the night 1
    5. Giữa hai người họ
    6. Gặp gỡ tình cờ


    Phần hai: Những đường song song

    7. Những đường song song
    8. Phục sinh
    9. Những lữ khách của thời gian


    Phần ba: Những vẻ bề ngoài

    10. Bàn tay đưa nôi
    11. Một kiểu chiến tranh
    12. The other woman
    13. Cuộc đi xuyên gương
    14. Ekaterina Svatkovski
    15. Những vết thương của sự thật


    Phần bốn: Người phụ nữ chẳng thuộc về nơi đâu

    16. Hoàng tử Đen
    17. Cậu nhóc với những chiếc màn hình
    18. Trung úy Lovenstein
    19. Nữ thần Pê ru bất tử


    Phần năm: Lựa chọn cái ác

    20. Ký ức sống
    21. A girl on the run
    22. Nhóm Helsinki
    23. Đường tình

    Phần sáu: Phía bên kia ranh giới

    24. Anh hùng và kẻ ác
    25. Trong thung lũng của các linh hồn
    26. Một năm sau….




    Giới thiệu
    Emma tìm kiếm trong vô vọng người đàn ông của đời mình.

    Matthew vừa mất vợ sau một tai nạn khủng khiếp.

    Cả hai thấy như cơ hội một lần nữa lại mở ra với mình khi tình cờ gặp nhau trên mạng.

    Họ hẹn nhau tại một nhà hàng.

    Vào cùng một ngày, cùng một giờ, họ cùng đẩy cửa bước vào cùng một nhà hàng, bước tới cùng một bàn nhưng - lại không gặp nhau.

    Một trò đùa? Hay một màn lừa đảo? Đây không đơn gỉản là một cuộc hẹn bị lỡ. Giữa họ là thời gian ngăn cách: cô ở quá khứ còn anh thuộc tương lai.

    Trong cuộc rượt đuổi giành giật với thời gian, Emma không biết rằng cô sẽ khám phá ra bí mật khủng khiếp vốn vẫn núp sau lá bài tình yêu.

    Một cuộc phiêu lưu đầy bí hiểm.

    Một cốt truyện điêu luyện gần chạm tới mức siêu thực.

    Một cái kết bất ngờ, nghẹt thở, độc đáo



    Nhận định
    "Một cuốn trinh thám kiểu Mỹ thực thụ."

    - Terrafemina

    "Một câu chuyện tình thách thức các quy luật của thời gian, một cốt truyện phức tạp, bất ngờ đến phút chót."

    - Le Figaro litteraire

    "Một cuốn tiểu thuyết để ngốn trong vài giờ."

    - France 3

    "Musso đã tài tình hòa trộn giữa các thể loại, dệt nên một cốt truyện trinh thám trên nền một chuyện tình tay ba."

    - Métro

    "Đảm bảo thành công!"

    RTL



    Tác giả
    Guillaume Musso là nhà văn trẻ người Pháp, sinh năm 1974 tại Antibes, thị trấn nhỏ bên bờ Địa Trung Hải. Ngay từ năm mười tuổi, cậu bé Guillaume đã phải lòng văn chương và tuyên bố một ngày nào đó sẽ viết tiểu thuyết. Lớn lên, anh lại theo học ngành kinh tế rồi trở thành giáo viên sau khi tốt nghiệp nhưng niềm đam mê thuở ban đầu vẫn tràn đầy. Năm 2001, tiểu thuyết đầu tay của anh ra đời và nhận được những tín hiệu tốt từ giới phê bình. Và tác phẩm thứ hai Rồi sau đó (2004) đã đưa tên tuổi Musso đến với công chúng và dần trở thành cái tên ấn tượng của văn học lãng mạn đương đại.



    Tình yêu nếu không bước đi được sẽ tự khắc bò trườn.
    - William SHAKESPEARE

    Phần một: Tình cờ gặp gỡ
    Ngày thứ nhất

    1. Giữa những bóng ma
    Ta không phải kẻ ta soi thấy trong gương.
    Ta là kẻ đang ánh lên trong cái nhìn thiên hạ.
    - Tarun J. TEJPAL


    Đại học Harvard

    Cambridge

    19 tháng Mười hai 2011

    Giảng đường đang chật ních người nhưng yên ắng.

    Những chiếc kim trên mặt khắc độ bằng đồng của chiếc đồng hồ treo tường cổ kính chỉ 14 giờ 55. Bài giảng môn Triết do Matthew Shapiro đứng lớp đang đi tới những phút cuối.

    Ngồi ở hàng ghế đầu, Erika Stewart, hai mươi hai tuổi, đang chăm chú nhìn giảng viên của mình không rời mắt. Từ một giờ đồng hồ qua, cô tìm cách thu hút sự chú ý của anh nhưng vô ích, cô nghe như nuốt lấy từng lời anh giảng, gật đầu tán thưởng sau mỗi lần anh nhận xét. Mặc dù những sáng kiến của cô chỉ vấp phải thái độ thờ ơ nhưng thầy giáo ngày càng khiến cô si mê đắm đuối hơn.

    Gương mặt trẻ trung, mái tóc cắt ngắn và hàng ria lún phún mang lại cho thầy giáo một vẻ quyến rũ khôn cưỡng làm đám sinh viên nữ không khỏi xao xuyến. Trong trang phục quần jean mài, áo len cổ lọ và đôi giày ống bằng da cũ kĩ, Matthew giống một chàng sinh viên cao học hơn là một số nam đồng nghiệp với dáng vẻ chỉn chu và khắc khổ mà người ta thường gặp trong khuôn viên trường. Nhưng trên cả diện mạo điển trai, tài hùng biện mới chính là thứ tạo nên sức hút của anh.

    Matthew Shapiro là một trong những giảng viên nổi tiếng bậc nhất của trường. Anh đứng lớp tại Cambridge đã được năm năm và qua mỗi năm các giờ giảng của anh lại khiến một lớp sinh viên mới say mê. Tiếng lành đồn xa, chỉ riêng học kỳ này đã có tới hơn tám trăm sinh viên đăng ký theo học lớp của anh, và hiện tại giờ giảng của anh đang chiếm cứ giảng đường lớn nhất của tòa Sever Hall.

    TRIẾT HỌC CŨNG BẰNG THỪA NẾU

    KHÔNG DIỆT ĐƯỢC NỖI ĐAU TINH THẦN

    Được viết nắn nót trên bảng, câu nói của Épicure chính là điểm mấu chốt trong bài giảng của Matthew.

    Những bài giảng triết học của anh dễ tiếp nhận và không bị mắc mớ bởi những khái niệm khó hiểu. Tất cả những lập luận của anh đều được liên hệ với thực tế. Mỗi bài tham luận đều được Shapiro mở đầu bằng cách xuất phát từ cuộc sống thường nhật của sinh viên, từ các vấn đề cụ thể mà họ phải đối đầu: nỗi lo thi trượt, quan hệ tình cảm tan vỡ, sự bạo ngược trong ánh mắt kẻ khác, ý nghĩa cần mang lại cho việc học... Một khi vấn đề được đặt ra, anh liền viện tới Platon, Sénèque, Nietzche hay Schopenhauer. Và nhờ có sự linh hoạt trong cách giới thiệu của anh, những nhân vật vĩ đại này mới tạo được cảm giác họ tạm rời khỏi cuốn giáo trình đại học để trở thành những người bạn thân thiết và gần gũi, có thể cho những lời khuyên hữu ích và động viên tinh thần.

    Với sự thông minh và hóm hỉnh, Mathew cũng lồng ghép vào bài giảng của mình một mảng văn hóa đại chúng rộng lớn. Những bộ phim, những ca khúc, những cuốn truyện tranh: tất cả đều là cái cớ để triết lý. Ngay cả những loạt phim truyền hình cũng tìm được chỗ đứng cho riêng mình trong giờ giảng của anh. Dr House minh họa cho suy luận thực nghiệm, những nạn nhân đắm tàu trong Lost mang đến một suy tưởng về khế ước xã hội, trong khi những người làm quảng cáo theo chủ nghĩa nam quyền trị trong Mad Men lại mở ra một cánh cửa để nghiên cứu quá trình vận động của mối quan hệ giữa hai giới nam và nữ.

    Nếu như thứ triết học thực dụng này đã góp phần biến anh thành một “ngôi sao sáng” của trường đại học, thì nó cũng xui nên thái độ ganh ghét và khó chịu ở các đồng nghiệp vốn thấy nội dung giảng dạy của anh thật nông cạn. May sao, thành công mà các sinh viên của Matthew đạt được trong các kỳ thi lớn nhỏ cho đến giờ vẫn củng cố thêm uy tín cho anh.

    Một nhóm sinh viên thậm chí đã ghi hình các bài giảng của anh và tải lên YouTube. Bước khởi xướng đó đã khiến một phóng viên tác nghiệp cho Boston Globe tò mò rồi viết thành bài báo. Sau khi bài báo được đăng lại trên The New York Times, Shapiro được đề nghị viết một dạng “phản biện giáo trình” triết học. Ngay cả khi cuốn sách bán rất chạy, người giảng viên trẻ tuổi vẫn không để mình ngây ngất bởi danh tiếng mới có và vẫn sẵn lòng giúp đỡ các sinh viên cũng như quan tâm đến thành công của họ. Nhưng câu chuyện đẹp đẽ đã vấp phải một biến cố bi thảm. Mùa đông năm ngoái, Matthew Shapiro đã mất đi người vợ trong một vụ tai nạn xe hơi. Một sự mất mát đột ngột và tàn khốc để lại trong anh lòng dạ rối bời. Mặc dù vẫn tiếp tục đứng lớp nhưng người giảng viên đầy đam mê và được si mê đã đánh mất lòng nhiệt huyết tạo nên nét riêng biệt ở anh.

    Erika nheo mắt để ngắm thầy giáo kĩ hơn. Từ khi diễn ra tấm thảm kịch, điều gì đó đã vỡ vụn trong Matthew. Những đường nét của anh đanh lại, ánh mắt anh đã mất đi vẻ nồng nàn; tuy nhiên, nỗi đau tang tóc và sầu muộn đã mang lại cho anh một vầng sáng âm u và bi thương khiến anh càng quyến rũ trong mắt cô gái trẻ.

    Cô sinh viên khép hờ mắt rồi buông mình theo chất giọng trầm ấm và khoan thai đang cất lên trong hội trường. Một chất giọng đã đánh mất chút màu nhiệm nhưng vẫn khiến tâm trí người nghe dịu lại. Những tia nắng xuyên qua ô cửa kính, sưởi ấm căn phòng rộng lớn và khiến cả gian giữa chói lóa. Erika cảm thấy khoan khoái, như được ru êm bởi thứ âm sắc bảo bọc này.

    Nhưng khoảnh khắc gia ân đó không kéo dài. Cô giật mình khi nghe thấy tiếng chuông báo hết giờ. Cô thu dọn sách vở không chút vội vã rồi chờ cho đến khi giảng đường váng tanh vắng ngắt mới rụt rè tiến lại gần Shapiro.

    - Em làm gì ở đây thế Erika? - Matthew ngạc nhiên khi trông thấy cô. - Em đã học xong tín chỉ này từ năm ngoái rồi mà. Em không cần có mặt trong giờ giảng của tôi nữa.

    - Em tới vì câu nói của Helen Rowland mà thầy vẫn thường trích dẫn.

    Matthew nhướng mày tỏ ý không hiểu.

    - “Những hành động điên rồ mà ta hối tiếc nhất là những hành động điên rồ ta không thực hiện khi có cơ hội.”

    Rồi cô thu hết can đảm để tỏ bày.

    - Để không phải hối tiếc, em muốn thực hiện một hành động điên rồ. Đây ạ, thứ Bảy tuần tới là sinh nhật em và em muốn... Em muốn mời thầy ăn tối.

    Matthew mở to mắt và ngay lập tức cố gắng thuyết phục cô sinh viên:

    - Em là một cô gái thông minh, Erika, vậy nên em thừa biết có ít nhất hai trăm năm mươi lý do để tôi từ chối lời mời của em.

    - Nhưng thầy vẫn muốn đi chứ ạ?

    - Xin em đừng cố nài, - anh ngắt lời cô.

    Erika cảm thấy nỗi xấu hổ dâng lên mặt. Cô vẫn ấp úng vài lời xin lỗi trước khi rời khỏi giảng đường.

    Matthew vừa thở dài vừa khoác áo măng tô và quàng thêm khăn rồi cũng rời khỏi giảng đường.

    ° ° °

    Với những thảm cỏ rộng rãi, những tòa nhà gạch nâu uy nghiêm và những tiêu ngữ bằng tiếng Latin gắn trên các trán tường, Harvard mang vẻ sang trọng và vĩnh hằng của các trường đại học Anh quốc.

    [Chúc bạn đọc sách vui vẻ tại www.gacsach.com - gác nhỏ cho người yêu sách.]

    Ngay khi ra đến bên ngoài, Matthew liền cuộn một điếu thuốc, châm lửa hút rồi nhanh chóng rời khỏi Sever Hall. Túi quai chéo đeo trên vai, anh băng qua Yard, khoảng sân cỏ rộng thênh thang nơi khởi đầu một mê cung các lối mòn uốn lượn trên nhiều cây số dẫn tới các phòng học, các thư viện, các bảo tàng và ký túc.

    Khuôn viên trường chìm trong thứ ánh sáng mùa thu mỹ lệ. Từ mười ngày nay, thời tiết đặc biệt ấm áp so với lệ thường và ánh nắng chan hòa tặng cho người dân New England một quãng thời gian cuối thu vừa muộn màng vừa dễ chịu.

    - Thầy Shapiro! Cẩn thận!

    Matthew ngoảnh về phía giọng nói vừa gọi mình. Một quả bóng bầu dục đang rơi nhằm thẳng hướng anh. Anh bắt được quả bóng vừa kịp lúc và ném trả cho thủ quân đang ra hiệu xin lại bóng.

    Máy tính xách tay mở sẵn đặt trên đầu gối, sinh viên đã ngồi kín tất cả các băng ghế ở sân Yard. Trên thảm cỏ, những tràng cười loang ra và những cuộc trò chuyện đang hồi sôi nổi. Ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, các quốc tịch trộn lẫn với nhau hòa hợp, và sự pha trộn về văn hóa được xem như một tài sản. Vả chăng, đỏ rượu vang và xám, hai màu hộ mệnh của ngôi trường đại học nổi tiếng, vẫn hiển thị trên các áo khoác, áo nỉ và túi thể thao: tại Harvard, tinh thần thuộc về một cộng đồng vượt lên trên mọi khác biệt.

    Matthew vừa rít thuốc vừa đi qua trước Massachusetts Hall, khối nhà đồ sộ với kiểu kiến trúc phong cách Georgia bên trong là hệ thống văn phòng điều hành và cả ký túc xá sinh viên năm nhất. Đứng nơi bậc thềm, cô Moore, trợ lý hiệu trưởng, đang quắc mắt nhìn anh, ánh mắt giận dữ kèm theo một lời khiển trách (“Anh Shapiro, tôi phải nhắc anh bao nhiêu lần nữa đây về quy định cấm hút thuốc trong trường...”) rồi một bài diễn văn về các tác hại của thuốc lá.

    Mắt nhìn không chớp và nét mặt thản nhiên, Matthew lờ cô ta đi. Trong giây lát ngắn ngủi, anh định trả lời cô ta rằng cái chết là quá nhỏ nhoi so với những nỗi ưu tư của anh, nhưng anh đổi ý và rời khỏi khuôn viên trường đại học qua lối cổng lớn dẫn ra quảng trường Harvard.

    ° ° °

    Ồn ĩ như một tổ ong, quảng trường trên thực tế là một khu đất rộng thênh thang bao quanh là cửa hàng cửa hiệu, hiệu sách, các nhà hàng nhỏ và các quán cà phê có sân hiên nơi sinh viên và giáo viên tán chuyện trên trời dưới bể hoặc tiếp tục giờ học của họ. Matthew lục túi lấy ra bản đồ tàu điện ngầm. Anh vừa tiến vào lối dành cho người đi bộ để tới trạm chữ T - red line đảm bảo giao thông tới khu vực trung tâm Boston trong chưa đầy mười lăm phút - thì một chiếc Chevrolet Camaro cũ kĩ với tiếng động cơ vang rền lao ra góc đường nơi đại lộ Massachusetts giao với phố Peabody. Thầy giáo trẻ giật mình và bước lùi lại phía sau để không bị chiếc xe hai cửa màu đỏ rực tông phải, nó dừng lại ngang tầm anh trong tiếng lốp nghiến sào sạo.

    Cửa kính trước hạ xuống để lộ ra mái tóc màu hung của April Ferguson, người sống chung nhà với anh kể từ ngày vợ anh qua đời.

    - Xin chào, anh chàng tóc nâu đẹp trai, em chở anh về nhé?

    Tiếng vù vù của động cơ V8 lạc lõng trong không gian sinh thái chỉ hòa hợp với những tính năng của xe đạp và các loại phương tiện sử dụng năng lượng điện.

    - Anh muốn về bằng phương tiện giao thông công cộng hơn, - anh từ chối. - Em lái xe cứ như đang chơi trò chơi điện tử ấy!

    - Thôi nào, đừng có tỏ ra sợ sệt thế chứ. Em lái rất chuẩn và anh biết như thế mà!

    - Đừng cố nài. Con gái anh đã mất mẹ. Anh muốn tránh cho con bé cái cảnh mồ côi cả bố lẫn mẹ vào lúc bốn tuổi rưỡi.

    - Ôi, thôi nào! Anh đừng nói quá lên thế chứ! Đi nào, chàng nhát gan, khẩn trương lên! Em đang gây tắc nghẽn giao thông rồi đây này!

    Bị những tiếng còi xe thúc giục, Matthew thở dài rồi nhẫn nhịn ngồi vào chiếc Chevrolet.

    Anh vừa kịp gài dây an toàn thì chiếc Camaro đã bất chấp tất cả các quy định an toàn mà thực hiện một cú vòng xe nguy hiểm để phóng như bay về mạn Bắc.

    - Boston ở hướng kia cơ mà! - Anh vừa cự lại vừa bám vào cửa xe.

    - Em chỉ vòng qua Belmont một lát thôi. Cách có mười phút chạy xe. Anh đừng lo cho Emily. Em đã nhờ cô trông trẻ ở lại thêm một tiếng nữa rồi.

    - Mà thậm chí không nói qua cho anh biết ư? Anh báo trước, anh...

    Cô gái mau chóng sang hai số rồi bất thần tăng tốc khiến Matthew phải ngừng lời. Một khi đã đạt vận tốc ổn định, cô nàng quay sang anh rồi đưa cho anh một kẹp tài liệu đựng các bức vẽ.

    - Anh cứ hình dung là có lẽ em đã tìm được khách hàng cho tranh in bằng bản khắc gỗ của Utamaro, - cô nói.

    April đang điều hành một gallery nghệ thuật trong khu Soulh End: một địa điểm triễn lãm chuyên về nghệ thuật tình dục. Cô nàng thực sự có tài trong việc tìm ra những tác phẩm còn chưa được đánh giá đúng mức để bán lại chúng và thu về những khoản lợi nhuận đáng kể.

    Matthew gạt dây chun ra và thấy một lớp bọc bằng chiffon nguyên chất bảo vệ bức tranh in tay của Nhật. Một bức shunga 1 có niên đại từ cuối thế kỉ XVIII tái hiện một kĩ nữ và một trong số khách hàng của nàng đang miệt mài thực hiện một màn giao cấu vừa dâm dục vừa điêu luyện. Tính chất sống sượng của cảnh tượng được tiết giảm nhờ vẻ duyên dáng của nét khắc và độ phong phú của các họa tiết vải. Gương mặt của nàng geisha duyên dáng và thanh thoát đến mê hồn. Cũng là chuyện dễ hiểu nếu sau đó thể loại tranh khắc này có ảnh hưởng sâu rộng đến thế tới Klimt cũng như Picasso.

    - Em có chắc mình muốn xa bức tranh này không?

    - Em đã nhận được một lời đề nghị khiến người ta không thể từ chối, cô tuyên bố, bắt chước giọng Marlon Brando trong Bố già.

    - Của ai thế?

    - Một nhà sưu tập có số má người châu Á ghé qua Boston để thăm con gái. Có vẻ như ông ta đã sẵn sàng tiến hành thương vụ, nhưng chỉ còn lưu lại thành phố một ngày. Một cơ hội như thế này có lẽ không sớm lập lại...

    Chiếc Chevrolet đã rời khu phố đại học. Nó đi theo đường tắt chạy dọc Fresh Pond – hồ lớn nhất của Cambridge – trên nhiều cây số trước khi tới Belmont, một khu đô thị nhỏ ở phía Tây Boston. April nhập một địa chỉ vào thiết bị GPS rồi đi theo chỉ dẫn tới tận một khu phố sang trọng và ấm cúng: một ngôi trường cây cối bao quanh nằm kề một khu vui chơi ngoài trời, một công viên và các sân thể thao. Thậm chí ở đó còn có một người bán kem dạo như bước thẳng từ thập niên 1950 ra. Bất chấp biển báo cấm rõ rành, chiếc Camaro vượt xe buýt chở học sinh rồi đỗ trong một con phố yên tĩnh có nhà cửa hai bên.

    - Anh đi cùng em chứ? - Cô vừa hỏi vừa lấy lại tập tranh.

    Matthew lắc đầu.

    - Anh thích ngồi trong xe đợi em hơn.

    - Em sẽ cố gắng xong việc thật nhanh, - cô hứa trong lúc chỉnh lại tóc trong gương chiếu hậu, để lại một lọn tóc quăn che mắt phải theo kiểu Veronica Lake.

    Rồi cô lấy từ túi xách ra một thỏi son, mau chóng trang điểm lại trước khi hoàn thành tác phẩm người phụ nữ quyến rũ mê hồn bằng cách chỉnh lại chiếc áo khoác da màu đỏ ôm sát lấy chiếc áo phông cổ khoét sâu.

    - Em không sợ làm hơi quá đà sao? - Anh chọc cô.

    - “Em đâu có xấu, em chỉ bị vẽ thành thế này thôi.”, cô nũng nịu bắt chước giọng nói và lời đáp của Jessica Rabbit.

    Rồi cô duỗi đôi chân dài miên man được quần legging ôm sát để ra khỏi xe.

    Matthew nhìn cô đi xa dần rồi bấm chuông ngôi nhà bề thế nhất phố. Xét trên thang bậc gợi tình, April không xa nấc thang cao nhất - số đo các vòng hoàn hảo, vòng eo thắt đáy lưng ong, bộ ngực nở nang đáng mơ ước, nhưng hiện thân của những ảo tưởng dành cho nam giới này lại chỉ thích phụ nữ và công khai đề cao sở thích tình dục đồng giới của bản thân.

    Vả chăng, đây chính là một trong những lý do để Matthew chấp nhận cho cô thuê chung nhà, vì biết rằng giữa họ sẽ không bao giờ có một sự nhập nhằng nào dù nhỏ nhất. Thêm nữa, April lại hài hước, thông minh và tinh nghịch. Dĩ nhiên cô nàng có tật xấu, giọng lưỡi thì hoa mỹ và khi giận dữ cũng ghê gớm, nhưng hơn ai hết cô nàng biết làm nụ cười hiện hữu trở lại trên môi con gái anh, và đối với Matthew thì điều đó quả là vô giá.

    Còn lại một mình, anh liếc sang phía bên kia con phố. Một bà mẹ cùng hai đứa con đang trang trí vườn nhà nhân dịp lễ. Anh chợt nhận ra rằng chưa đầy một tuần nữa là tới Giáng sinh và ghi nhận này nhấn chìm anh trong một cảm giác lẫn lộn giữa buồn phiền và hoảng loạn. Anh hãi hùng nhìn thấy hiện ra trước mắt ngày giỗ đầu của Kate: cái ngày 24 tháng Chạp năm 2010 bi thảm ấy đã khiến cuộc sống của anh lộn nhào xuống vực thẳm đớn đau rã rời.

    Ba tháng đầu sau vụ tai nạn, nỗi đau không để anh ngơi nghỉ chút nào, nó tàn phá anh từng giây: một vết thương hở toác, vết cắn của một con ma cà rồng hẳn đã hút sạch sự sống trong anh. Để chấm dứt khổ hình này, anh đã nhiều lần bị một giải pháp trệt để cám dỗ: gieo mình qua cửa sổ, thắt cổ bằng dây thừng, tu một ly cocktail pha thuốc ngủ, tự bắn vào đầu... Nhưng mỗi lần như thế, viễn cảnh về nỗi đau mình sẽ gây ra cho Emily lại ngăn anh biến suy nghĩ thành hành động. Đơn giản là anh không có quyền tước đi người cha của con gái mình và hủy hoại đời con bé.

    Tiếp đó, cuộc nổi dậy của những tuần đầu đã nhường chỗ cho một đường hầm dài sầu muộn. Cuộc sống đã dừng lại, đã ngưng đọng trong nỗi chán nản, đã đóng băng trong cảnh khốn cùng dài hạn. Matthew không gây chiến nữa, anh đơn giản là bị hạ gục, bị cảnh tang tóc nghiền nát, bị cấm cung với cuộc đời. Nỗi mất mát vẫn không thể chấp nhận nổi. Tương lai không còn tồn tại.

    Tuy thế anh vẫn cố gắng ghi danh vào một nhóm hỗ trợ theo lời khuyên của April. Anh đi tham dự một buổi, cố gắng bày tỏ nỗi đau của mình thành lời và chia sẻ nó với những người khác, nhưng anh không bao giờ đặt chân tới đó nữa. Chạy trốn lòng trắc ẩn ngụy tạo, những câu nói sáo rỗng hay những bài học về cuộc sống, anh tách mình ra, lang thang trong cuộc sống của mình như một bóng ma, để mình trôi dạt trong hàng tháng trời, không dự định, rã rời.

    Tuy nhiên, kể từ vài tuần nay, không thể nói rằng anh “như sống lại” được, nhưng dường như nỗi đau dịu lại trong anh. Mỗi sáng thức dậy vẫn khó khăn, nhưng một khi tới Harvard, anh vẫn gạt thiên hạ bằng cách đảm bảo các giờ giảng, tham gia các cuộc họp định hướng với đồng nghiệp, dĩ nhiên là ít hào hứng hơn trước nhưng vẫn trụ vững.

    Như thế không phải là anh tự vực dậy mà đúng hơn là anh dần dần chấp nhận tình trạng của bản thân, bằng cách dùng chính một vài khái niệm trong bài giảng của mình. Thấm nhuần thuyết định mệnh khắc kỉ và vô thường của đạo phật, từ đây anh nhìn nhận cuộc sống như nó vẫn có: điều gì đó rất mực mong manh và bất định, một tiến trình thường xuyên biến động. Không có gì bất biến, hạnh phúc lại càng không. Hạnh phúc vốn mong manh như thủy tinh, có lẽ chỉ kéo dài một khoảnh khắc, ta không nên coi nó như một thành quả.

    Anh dần lấy lại niềm ham sống qua những điều nhỏ nhặt: một cuộc dạo chơi dưới nắng cùng Emily, một trận bóng đá cùng các sinh viên, một câu đùa đặc biệt duyên dáng của April. Những tín hiệu an ủi đã khuyến khích anh giữ khoảng cách với nỗi đau và xây dựng một con đê ngăn chặn nỗi buồn.

    Nhưng khoảng tạm lắng này rất mong manh. Nỗi đau luôn rình rập, sẵn sàng thộp lấy họng anh. Chỉ cần một việc không đâu cũng đủ để nó bất ngờ túm được anh, phát cuồng và đánh thức những ký ức tàn khốc: một người phụ nữ gặp trên phố phảng phất mùi nước hoa giống Kate hoặc thậm chí là mặc áo khoác ngoài giống cô, một ca khúc nghe trên đài nhắc nhớ những ngày tháng hạnh phúc, một bức ảnh kẹp trong sách nay tìm lại được...

    Những ngày gần đây thực khó nhọc, báo hiệu một cơn tái phát. Gần đến ngày giỗ Kate, những đồ trang trí và bầu không khí sôi động gắn với công việc chuẩn bị cho các dịp lễ cuối năm, mọi thứ đều nhắc anh nhớ đến vợ.

    Từ một tuần nay, đêm nào anh cũng giật mình tỉnh giấc, tim đập thình thịch, mồ hôi đầm đìa, lần nào cũng bị cùng một ký ức đó ám ảnh: cảnh tượng giống như cơn ác mộng về những giây phút cuối đời của vợ anh. Matthew đã có mặt khi Kate được đưa tới bệnh viện nơi các đồng nghiệp của cô - cô vốn là bác sĩ - không thể giúp cô hồi sinh. Anh đã chứng kiến cái chết tàn nhẫn cướp đi của anh người phụ nữ anh yêu dấu. Họ mới chỉ có được bốn năm hạnh phúc viên mãn. Bốn năm thấu hiểu nhau sâu sắc, quãng thời gian chỉ vừa đủ để đặt cột mốc cho một câu chuyện mà họ sẽ không được trải nghiệm. Anh dám chắc một cuộc gặp gỡ như thế chỉ đến duy nhất một lần. Và anh không thể chịu nổi ý nghĩ đó.

    Mắt ngân ngấn nước, Matthew nhận ra anh đang xoay chiếc nhẫn cưới mình vẫn đeo ở ngón áp út. Ngay lúc này, anh đang vã mồ hôi còn tim anh nện thình thịch trong lồng ngực. Anh hạ cửa kính chiếc Camaro xuống, tìm một vỉ thuốc chống trầm cảm trong túi quần jean rồi đặt viên thuốc bên dưới lưỡi. Viên thuốc tan dần, mang lại cho anh một trợ lực hóa học làm dịu đi nỗi bồn chồn của anh sau khoảng vài phút. Anh nhắm mắt, day day mí rồi hít thở sâu. Để hoàn toàn bình tĩnh lại, anh cần hút thuốc. Anh ra khỏi xe, chốt cửa lại rồi tản bộ vài bước trên vỉa hè trước khi châm một điếu thuốc lá rồi rít một hơi dài.

    Vị đắng của chất nicotin phủ lên họng anh. Tim anh đập đều đặn trở lại và anh đã cảm thấy dễ chịu hơn. Anh thưởng thức điếu thuốc với hai mắt nhắm nghiền, mặt ngước lên đón cơn gió nhẹ cuối thu. Thời tiết ôn hòa. Anh nắng chiếu xuyên qua những tán cành. Không khí êm dịu gần như đáng ngờ. Anh đứng bất động như thế vài phút trước khi mở mắt. Ở đầu phố, một đám đông đã tụ lại trước một ngôi nhà. Anh tò mò tiến lại gần ngôi nhà đồng quê điển hình cho phong cách New England: một cơ ngơi rộng rãi trang trí rườm rà bằng gỗ lát, tô điểm bằng phần mái kiểu giáo đường với quá nhiều cửa sổ. Trên bãi cỏ trước nhà, người ta đang tổ chức một dạng chợ trời. Một kiểu “tổng thanh lý dọn nhà” đặc thù của xứ sở này nơi người dân chuyển chỗ ở trung bình hơn mười lăm lần trong đời.

    Matthew hòa mình vào đám đông hiếu kỳ đang săm soi bãi cỏ rộng khoảng một trăm thước vuông. Dẫn dắt cuộc bán chác là một người đàn ông trạc tuổi anh, hói đầu và đeo cặp kính nhỏ vuông vức, vẻ mặt nhăn nhó và ánh mắt lẩn lút. Mặc đồ đen từ đầu đến chân, anh ta trông cứng đờ và khắc khổ như một tín đồ phái Giáo hữu. Bên cạnh anh ta là một con chó giống Shar-pei màu vàng cát đang mài răng với một khúc xương nhựa.

    Đến giờ tan học, thời tiết thuận lợi đã thu hút đông người đến tìm những món hời. Các quầy đầy ắp những đồ tạp nham: mái chèo bằng gỗ, túi đựng gậy gôn, gậy và găng bóng chày, đàn ghi ta cũ hiệu Gibson... Dựng tựa vào một hàng giậu, chiếc xe đạp BMX, món quà Giáng sinh không thể thiếu hồi đầu thập niên 1980, rồi xa hơn nữa, những đôi giày patin và ván trượt. Matthew lục lọi giữa các gian hàng một lúc, tìm ra một loạt đồ chơi nhắc anh nhớ lại thời thơ ấu: cái yo yo bằng gỗ sáng màu, khối rubic, Hà mã ham ăn, bảng giải mã Mastermind, đĩa bay Frisbee, hình nhồi bông E.T người ngoài hành tinh, tượng nhỏ các nhân vật trong Chiến tranh giữa các vì sao... Giá thì rẻ như bèo; rõ ràng người bán muốn tống khứ thật nhanh càng nhiều đồ càng tốt.

    Matthew đang chuẩn bị rời khỏi khu chợ trời thì bỗng trông thấy một chiếc máy vi tính. Đó là một mẫu máy tính xách tay: một chiếc MacBook Pro, màn hình mười lăm inch. Không phải phiên bản mới nhất của mẫu này mà là phiên bản trình làng trước đó hoặc trước nữa. Matthew tiến lại gần và xem xét kĩ toàn bộ chiếc máy tính. Phần vỏ nhôm của máy đã được người chủ cũ để lại dấu ấn bằng một tấm đề can nhựa cứng dán phía sau màn hình. Tấm dán thể hiện một dạng nhân vật kiểu Tim Burton 2: một nàng Eva cách điệu hóa và gợi cảm dường như đang cầm trong tay biểu tượng hình quả táo của nhãn hiệu máy tính lừng danh. Bên dưới bức tranh minh họa, ta có thể đọc thấy chữ ký “Emma L.” nhưng không mấy rõ chữ ký đó thuộc về người nghệ sĩ vẽ tranh hay người chủ cũ của chiếc máy tính.

    Tại sao lại không nhỉ? Anh vừa nghĩ vừa nhìn nhãn giá. Chiếc Powerbook cũ của anh vừa đi tong hồi cuối hè. Đúng là ở nhà anh có một chiếc máy tính để bàn, nhưng anh cũng cần một chiếc máy tính xách tay mới để dùng riêng. Thế mà từ ba tháng nay, anh cứ không ngừng trì hoãn khoản tiêu pha này.

    Mức giá đề xuất cho chiếc máy tính xách tay là 400 đô. Một khoản tiền anh cho là hợp lý. Thật đúng lúc: vào thời điểm này, anh không dư dả gì cho cam. Tại Harvard, mức lương giảng viên của anh khá thoải mái, nhưng sau khi Kate qua đời, anh muốn bằng mọi giá giữ lại căn nhà của họ trên Beacon Hill, ngay cả khi anh thực sự không còn đủ khả năng tài chính. Anh quyết tâm tìm một người thuê chung, nhưng ngay cả khi đã có thêm khoản tiền thuê April trả cho, những khoản nợ phải hoàn trả đã ngốn hết ba phần tư thu nhập của anh nên anh phải lựa bề xoay xở đủ đường mới đủ chi tiêu. Thậm chí anh còn buộc phải bán đi chiếc xe mô tô cổ: một chiếc Triumph đen 1957 vốn là niềm hãnh diện của anh.

    Anh lại gần người bán rồi chỉ cho anh ta chiếc MacBook.

    - Chiếc máy tính kia còn chạy tốt chứ?

    - Không, đó chỉ là một vật trang trí thôi... Dĩ nhiên nó vẫn chạy, nếu không tôi đã chẳng bán với giá đó! Đó là máy tính xách tay cũ của em gái tôi, nhưng chính tôi đã định dạng lại ổ cứng và cài đặt lại hệ điều hành. Giờ nó như mới vậy.

    - Nhất trí, tôi sẽ mua, - Matthew quyết định sau vài giây lưỡng lự.

    Anh lục ví. Anh chỉ mang theo có 310 đô. Dù ngại anh vẫn cố mặc cả, thế nhưng người đàn ông kia lại từ chối hết sức kiên quyết. Phật lòng, Matthew nhún vai. Anh đang định quay gót thì nhận ra giọng nói hồn nhiên vui tươi của April vang lên ngay sau lưng.

    - Để em mua tặng anh! - Cô nói rồi ra hiệu giữ người bán lại.

    - Em không cần phải làm thế đâu!

    - Để ăn mừng em bán được bản tranh khắc kia mà!

    - Em bán được với giá dự kiến chứ?

    - Vâng, nhưng không phải dễ dàng gì. Gã đó nghĩ là với mức giá ấy, gã cũng phải được hưởng một trong các tư thế Kamnsutra cơ đấy!

    - “Đàn ông bất hạnh đều là do không biết dừng lại nghỉ ngơi trong một phòng ngủ.”

    - Woody Allen hả?

    - Không, Blaise Pascal.

    Người bán hàng đưa cho anh chiếc máy tính anh ta vừa đóng vào hộp bìa đi kèm. Matthew gật đầu cảm ơn anh ta trong khi April thanh toán khoản tiền như đã hứa. Rồi họ khẩn trương ra xe.

    Matthew nài nỉ xin được lái xe. Trên đường quay về Boston, kẹt trong những đám tắc đường, anh không ngờ rằng món đồ vừa mua sẽ vĩnh viễn thay đổi cuộc đời mình.

    --------------------------------
    1 Tranh tình dục khắc gỗ của Nhật Bản. (Chú thích của tác giả)
    2 Timothy Walter Burton (1958): đạo diễn, nhà sản xuất, biên kịch tài năng, nổi danh với những bộ phim như: Người dơi, Hành tinh khỉ, Charlie và nhà máy sô cô la, Cô dâu ma, Alice lạc vào xứ sở thần tiên… (Mọi chú thích nếu không có lưu ý gì thêm đều là của người dịch)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:43 PM.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    11. Một kiểu chiến tranh
    Tình yêu là một kiểu chiến tranh.
    - OVIDE


    Từ: Matthew Shapiro

    Tới: Emma Lovenstein

    Tôi không hiểu tại sao cô lại nổi giận, Emma ạ. Thậm chí tôi còn thấy cơn giận ấy kỳ cục và không đúng lúc. Sao cô lại có thể từ chối giúp tôi nhỉ?

    Matt

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Tôi đâu có nói là sẽ không giúp anh.

    E.

    10 giây sau.

    Nhưng cô cũng đâu có nói là sẽ giúp!

    Nếu cô từ chối ngăn chặn vụ tai nạn xảy ra cho Kate thì cô sẽ là tòng phạm gây ra cái chết của cô ấy!

    10 giây sau.

    Thôi nói với tôi bằng cái giọng ấy đi! Và cũng đừng đe dọa hay khiến tôi cảm thấy tội lỗi nữa!

    Nhưng đây là mạng sống của vợ tôi đấy, đồ điên!

    Chớ có bao giờ gọi tôi là đồ điên nữa!

    Vậy thì hãy làm những gì tôi nói với cô, hiểu chứ?

    Nếu không thì sao? Anh sẽ báo cảnh sát bắt tôi chắc? Anh sẽ tìm tới nhà tôi ở thời điểm 2011 chắc?

    Quả là tôi khó có thể làm như vậy…

    Tại sao?

    2 phút sau.

    Tại sao thế?

    1 phút sau.

    Vì năm 2011 thì cô đã chết rồi, Emma ạ…

    Sao anh lại nói vậy?

    Vì sự thật là vậy đấy. Bất hạnh thay.

    Anh nói dối…

    1 phút sau.

    Anh nói dối!

    Hoang mang, cô đợi thêm năm phút nữa cho tới khi một bức mail mới hiển thị trên màn hình. Người gửi là Matthew, nhưng bức mail chỉ chứa một tệp tin đính kèm dạng PDF. Cô mở ra trong tâm trạng e sợ. Đó là một bài báo của tờ The White Plains Daily Voice, tờ báo địa phương của một thành phố thuộc vùng ngoại ô New York.

    THẢM KỊCH TẠI WHITE PLAINS: một phụ nữ trẻ lao vào tàu hỏa

    Chiều qua, một phụ nữ ba mươi tư tuổi đã tự vẫn vào khoảng hơn 15 giờ, bằng cách lao vào đoàn tàu hỏa đang chạy qua White Plains. Tàu North Railroad chạy hướng Wassaic-New York vừa rời ga được khoảng một ki lô mét thì một phụ nữ bất ngờ lao ra từ một chỗ rẽ nhằm thẳng đầu tàu. Bị bất ngờ, người lái tàu đã kéo phanh, nhưng không thể làm gì để ngăn chặn thảm họa.

    Cảnh sát và cứu thương có mặt tại hiện trường cùng lúc, nhưng chỉ có thể lập một biên bản chứng tử: cái xác nát bươm của người phụ nữ trẻ này vẫn nằm sõng soài trên đường ray.

    Nạn nhân, Emma L., người gốc New York, đã được nhận dạng nhanh chóng nhờ các giấy tờ tùy thân tìm thấy trên người cũng như một lá thứ viết tay nhét trong ví, và trong lá thư đó cô giải thích nguyên do dẫn tới hành động tuyệt vọng của bản thân.

    Do tâm lý thiếu ổn định nên từ nhiều năm nay, người phụ nữ trẻ này đã được bác sĩ tâm lý theo dõi.

    Sau khi thảm kịch xảy ra, giao thông đường sắt bị gián đoạn cả hai chiều suốt hơn hai tiếng đồng hồ, trong lúc tiến hành các thủ tục pháp lý và di chuyển xác nạn nhân…

    Phải tới sau 17 giờ, giao thông trên tuyến Harlem Line mới có thể bình thường trở lại.

    The White Plains Daily Voice - 16 tháng Tám năm 2011

    ° ° °

    Emma cảm thấy cổ họng tắc nghẹn. Một cơn rùng mình khiến cô đờ ra trong vòng vài giây. Bàng hoàng, cô đóng màn hình máy tính rồi vội vã rời khỏi bệnh viện. Ra tới bãi đỗ xe, có bắt đầu chạy như thể cái chết đang rượt đuổi đằng sau. Hai mắt cô nhòa đi. Tuyệt vọng, hoảng loạn, cô lang thang vô định qua các phố, đầu cúi gằm, bị nỗi sợ hãi quật ngã. Ánh nắng phản chiếu trên tuyết hòa lẫn với nước mắt cô, khiến cho tầm nhìn của cô ra thế giới xung quanh bị biến dạng. Trên đường đi, cô va phải những người đi bộ và băng qua một đường phố lớn giữa lúc xe cộ qua lại đông đúc, nhận về một loạt tiếng còi xe cùng những tràng rủa xả. Kiệt sức, cô bước vào quán cà phê đầu tiên gặp trên đường.

    Cô chọn ngồi vào góc trong cùng của quán và lả đi trên ghế hồi lâu. Khi nhân viên phục vụ bàn tiến lại gần chỗ cô ngồi, cô gạt nước mắt, cởi áo măng tô ra rồi gọi một ly vodka tonic. Thậm chí cô còn cuống cuồng lục tìm mấy vỉ thuốc trong túi xách trước cả khi đồ uống được mang ra. May thay, cô vẫn luôn mang theo mình “tủ thuốc cá nhân di động”. Cô thuộc lòng các loại thuốc và liều dùng: hai viên an thần và hai giọt chống loạn thần. Cô nuốt món cocktail thuốc chống trầm cảm và an thần, rồi nhờ phép màu của phản ứng hóa học, gần như ngay tức khắc tìm lại được một vẻ ngoài cân bằng. Dẫu sao cũng đủ để lôi chiếc laptop ra và đọc lại bài báo thông tin về vụ tự tử của mình.

    Đó là một cảm giác lạ lùng: hay tin về cái chết của chính mình qua tờ nhật báo buổi chiều… Lạ kỳ thật, nhưng không đến mức quá kỳ dị. Vậy là như thế đấy, cô lại một lần nữa biến suy nghĩ thành hành động. Và lần này, cô đã không thất bại.

    Đúng vậy đấy, cô gái, ít ra ta cũng có thể nói cô đã rút được bài học kinh nghiệm từ những sai lầm, cô trâng tráo nghĩ. Đúng thật là con tàu này hiệu quả hơn những viên thuốc ngủ hoặc trò cắt mạch máu…

    Cô nhìn ngày tháng trên tờ báo: cô đã tự vẫn ngày 15 tháng Tám năm sau, ngay giữa mùa hè. Thời điểm cô e ngại nhất ở New York: thời điểm mà bầu không khí nóng nực, ẩm thấp và ngột ngạt luôn kích hoạt những cơn đau nửa đầu nặng trĩu khiến tâm trạng của cô trở nên bất ổn.

    Nhưng ngày tháng nào có quan trọng gì. Đã từ rất lâu rồi cô luôn sống với ý nghĩ muốn kết thúc cuộc đời mình, đến mức chuyện đó hẳn sẽ xảy ra, chỉ là ngày này hay ngày khác mà thôi. Cô lại nhớ tới cơn khủng hoảng tự vẫn đầu tiên đã trải qua trong đời. Trạng thái đó vẫn mãi khắc sâu trong cô. Một nỗi đau tâm lý khó lòng chịu thấu mà cô không biết làm cách nào để ngăn lại. Một nỗi tuyệt vọng nhấn chìm cô. Một nỗi cô đơn cùng cực, một sự hỗn loạn, bản thân hoàn toàn bị nỗi sợ hãi xâm chiếm. Một sự bào mòn ý thức bởi những ý nghĩ bệnh hoạn mà cô không thể kiểm soát.

    Bước chuyển sang hành động của cô chẳng có gì hợp lý. Trong một sự bột phát cuối cùng, cô đã từ bỏ cuộc chiến đấu, lựa chọn sự tự do sau cùng này mà thực ra cũng chẳng phải là một sự tự do. Cô đóng laptop lại, xì mũi vào tờ khăn giấy rồi gọi thêm một ly cocktail. Lúc này, các loại thuốc đã phát huy đầy đủ công dụng. Tất cả đám phân tử hóa học mà cô nốc từ nhiều năm qua ít ra cũng được cái tác động nhanh chóng và cho cô một chỗ dựa vào bất cứ lúc nào ngăn cô khỏi chìm nghỉm. Cô cố gắng nhìn nhận mọi sự dưới một góc độ mới mẻ. Thế nếu cú sốc này có khả năng cứu nguy thì sao nhỉ? Nói cho cùng, thông tin về vụ tự tử của cô có thể được coi như cơ hội thứ hai mà cuộc sống ban tặng. Cô cũng sẽ đánh bại tương lai. Cô không muốn tự sát. Không muốn kết thúc như một mớ giẻ dưới gầm tàu hỏa. Cô sẽ đánh bại lũ quỷ. Con quỷ trong cô. Bấy lâu nay cô vẫn biết gót chân Asin của mình, cội nguồn của mọi nỗi đau trong cô: cảm giác cô đơn và bị ruồng bỏ này luôn bóp nghẹt cô. Cô nhớ lại câu của Emily Dickinson được cô chép vào nhật ký thời trung học: “Để bị ám thì chẳng cần phòng chẳng cần nhà, bộ não sẵn có những hành lang đoạn này lại ngoắt ngoéo hơn đoạn khác.” Emma bị nỗi cô đơn và sự bất an trong tình cảm ám ảnh. Mỗi tối, cô đều cảm thấy chán ngán thêm một chút bởi viễn cảnh sẽ trở về nhà mình mà không gặp được một ai. Cô cần một cuộc sống được gây dựng vững vàng. Bằng một người đàn ông mạnh mẽ, một đứa trẻ, một ngôi nhà. Từ tuổi niên thiếu, cô vẫn rình chờ người đàn ông đó, người có thể hiểu được cô. Nhưng anh ta không đến. Và niềm tin chắc rằng anh ta sẽ không đến khiến cô hao mòn. Hôm nay cô có một mình. Ngày mai và ngày kia cô cũng vẫn chỉ có một mình. Cô sẽ chết trong cảnh đơn chiếc thôi.

    Tuy thế, buổi chiều nay, điều gì đó đã xui khiến cô đừng cam chịu và hình mẫu tương lai lý tưởng của cô đột nhiên xuất hiện ngay trước mắt với vẻ sáng rõ như pha lê: cô muốn có cuộc sống giống như Kate Shapiro.

    Chính xác hơn, cô muốn chính cuộc sống của Kate Shapiro.

    Thế vào chỗ của chị ta.

    Ý nghĩ len lỏi hình thành trong tâm trí cô giữa một sự pha trộn cảm giác ghê tởm lẫn hấp dẫn.

    Cô xem xét lại cách mà toàn bộ câu chuyện này bắt đầu. Bằng một cuộc trò chuyện từ xa, cô đã lấy được cảm tình của Matthew. Cô đã quyến rũ được anh mà vẫn là chính mình. Cô biết cách khiến anh quý mến đến mức ngay ngày hôm sau anh đã mời cô dùng bữa tại nhà hàng. Anh đã không ngần ngại đáp máy bay tới New York chỉ để ăn tối cùng cô. Giờ đây, cô chắc chắn một điều: nếu có thể gặp nhau như đã định, họ sẽ phải lòng nhau. Cô hẳn sẽ thay thế Kate trong trái tim anh. Cô hẳn sẽ là một người mẹ tốt đối với Emily. Một người vợ đáng yêu đối với Matthew.

    Có điều Kate vẫn còn sống sờ sờ.

    Nhưng không còn lâu nữa.

    Cô gạt phăng toàn bộ cảm giác tội lỗi.

    Cô không phải người quyết định cái chết này.

    Mà chính là số phận, sự tình cờ, cuộc đời. Có lẽ là Chúa nếu như ngài tồn tại…

    Cô vừa uống một ngụm rượu vừa tiếp tục dòng suy tưởng. Khi rơi vào trạng thái kích động, những ý nghĩ thoạt đầu phun tóe ra rồi dần vào chỗ như những mảnh ghép hình để tạo nên một lối ứng xử mạch lạc. Lần này là một kế hoạch tác chiến không thể ngăn cản. Nó xuất phát từ một ghi nhận hết sức đơn giản: “Matthew của 2011” không hề có ảnh hưởng nào lên cô bởi lúc đó cô đã chết rồi. Đó là phương diện tích cực của cái chết: nó khiến chúng ta trở nên không thể bị tác động. Vậy thì Matthew tay không, không có cách nào gây sức ép để buộc cô phải cứu Kate.

    Và cô sẽ không làm điều đó.

    Cô sẽ để mặc cho vụ tai nạn xảy ra. Cô sẽ lờ đi những bức mail của anh, cô sẽ quay về New York, sẽ trở lại với công việc và chờ đợi cho thời gian trôi qua. Cô sẽ không tự tử vào tháng Tám tới đây nữa. Bởi từ nay cô đã có một lẽ sống hết sức hợp lý…

    Giờ thì cô đã hiểu tại sao Matthew lại sở hữu chiếc laptop của cô và nếu cô không tự tử, anh trai cô sẽ không được thừa kế đồ đạc của cô nên sẽ không thể bán lại chiếc laptop của cô được, còn Matthew không thể mua nó. Điều này có nghĩa rằng anh sẽ không bao giờ liên lạc với cô qua mail vào tháng Mười hai năm 2011.

    Kịch bản này có ổn không nhỉ? Tình huống cô đang trải qua hiện giờ bất chấp toàn bộ logic. Trong những bộ phim hoặc tiểu thuyết hư ảo, cô chưa bao giờ hiểu được cái vòng luẩn quẩn của các nghịch lý thời gian. Nhưng anh trai cô vốn giảng dạy vật lý trong trường đại học từng nói với cô về những nhà khoa học đặt ra giả thiết về sự tồn tại của những vũ trụ song song với vũ trụ của chúng ta, thậm chí những vũ trụ nhân bội mà trong đó tất cả các khả năng được thực hiện trên những dòng thời gian khác biệt.

    Có lẽ tồn tại một “dòng thời gian” nơi cô có thể gặp một Matthew góa vợ, người không hề có chút ký ức về những cuộc trò chuyện trước đó giữa họ. Một Matthew mà cô biết cách khiến cho yêu cô. Một Matthew có một đứa con gái mà cô hẳn sẽ biết cách chăm sóc.

    Đắc ý, cô quyết định kiên trì thực hiện kế hoạch này. Cô thanh toán hóa đơn rồi quay lại khách sạn. Màn đêm vẫn chưa buông, nhưng cô vẫn kéo kín rèm. Đầu óc cô quay cuồng. Vì sợ một cơn hỗn loạn nữa lại hình thành trong tâm trí mình, cô uống thêm hai viên chống trầm cảm nữa rồi đi nằm luôn.

    ° ° °

    2011

    - Bố ơi, cho con xem SOS Fantômes nhé?

    Matthew ngước khỏi màn hình máy tính.

    Đang nằm trên trường kỉ trước ti vi, Emily vừa đánh chén hai gói M&M’s thay cho bữa trưa.

    - Con đã xem phim đó cả chục lần rồi còn gì…

    - Vâng ạ, - cô bé cười. - Nhưng con vẫn muốn xem khi bố đang ngồi đó! Như thế con đỡ sợ hơn!

    - Nhất trí, - anh đầu hàng.

    Từ đằng xa, anh quan sát con bé đặt đĩa DVD vào đầu đọc rồi bật xem “như người lớn”.

    Đó là ngày đầu tiên trong kỳ nghỉ của trường học và cô nhóc con đã dậy muộn. Hôm nay anh quyết định nới lỏng kỉ luật - kẹo bánh thả cửa và xem ti vi tùy thích, phần nhiều là vì tiện cho bản thân chứ không phải vì cho thế là đúng. Quả thực, toàn bộ năng lượng của anh đều bị hút theo Emma Lovenstein.

    Matthew giận bản thân vô cùng. Quá muộn anh mới hiểu mình sai lầm biết bao khi cáu bẳn với người duy nhất có khả năng mang vợ về với mình. Sao anh có thể để cho cơn giận của bản thân mặc sức hoành hành trong khi sẵn biết tâm lý Emma rất yếu đuối? Anh vừa gửi cho cô hai bức mail xin lỗi mà vẫn chưa nhận được hồi âm. Hiện tại, anh đang đối diện với một phụ nữ bất ổn đang sắp trở nên không thể kiểm soát nổi. Nhất là người đó lại đang nắm giữ một lợi thế mang tính quyết định so với anh. Trong khi người phụ nữ trẻ này có toàn quyền để thay đổi tương lai thì anh lại không thể can thiệp vào bất cứ chuyện gì. Kể từ giờ, anh buộc phải chờ Quý cô Lovenstein chấp nhận nối lại liên lạc.

    Tình huống bất cân xứng này thật khó lòng chịu đựng. Lúc này là ngày 22 tháng Mười hai. Chỉ còn hai ngày nữa để tránh vụ tai nạn dẫn tới việc anh mất Kate. Anh nhắm mắt lại rồi dùng hai tay ôm đầu để tập trung suy nghĩ hơn. Emma đã chết, dĩ nhiên, nhưng có lẽ vẫn còn có ai đó cô nàng gắn bó và anh có thể gây sức ép được. Nhưng ai mới được? Ông anh trai Daniel chăng? Lầm to. Theo những gì anh hiểu, rõ ràng ông anh trai và cô em gái không yêu mến nhau cho lắm. Bố mẹ cô nàng? Daniel từng nói với anh rằng mẹ họ đã qua đời còn bố họ đang mắc Alzheimer rất nặng. Bạn bè ư? Rõ ràng là cô không hề có bạn.

    Đó là sinh vật duy nhất không bao giờ phản bội tôi…

    Câu nói đó văng vẳng như thể Emma đang thì thầm vào tai anh.

    Chú chó của cô nàng! Clovis trứ danh!

    Nó thì vẫn sống nhăn!

    Nhận thức này vực dậy tinh thần anh. Anh vừa tìm ra một cách tối ưu để gây sức ép với Emma!

    Anh đứng dậy rồi dùng điều khiển từ xa tắt tivi.

    - Đi thay quần áo nhanh nào con yêu, bố con mình đi dạo!

    - Nhưng phim của con…

    - Để tối nay xem tiếp, con yêu.

    - Không đâu, con muốn xem bây giờ cơ!

    - Thế nếu bố bảo ta sẽ đi tìm một chú chó nhỏ để nuôi trong dịp lễ này thì sao nhỉ?

    Cô nhóc nhảy cẫng lên vui sướng.

    - Thật không bố? Mình sẽ nuôi một chú chó thật ạ? Từ lâu nay con đã muốn có một chú chó rồi! Cảm ơn! Cảm ơn bố!

    ° ° °

    - Anh muốn em giúp anh bắt cóc một con chó sao?

    - Đúng đấy, April. Hoan nghênh sự giúp đỡ của em trong lần tác chiến khó khăn này, - Matthew khẳng định.

    - Mà sao anh lại muốn làm chuyện này? - Cô gái vừa hỏi vừa đứng dậy rời khỏi bàn làm việc.

    - Lúc nào vào trong xe anh sẽ kể em nghe, - Matthew cam đoan.

    - Bởi vì thêm nữa, chúng ta sẽ dùng xe của em?

    - Anh e là khó mà chở một chú chó trên yên sau xe đạp của anh.

    Anh đang đứng phía trước cô, bế con gái trên tay, một hộp dụng cụ kim loại đặt dưới chân.

    - Anh có biết là vì chuyện này chúng ta có thể đi tù không Matt?

    - Chúng ta sẽ đủ khôn lanh để không bị tóm chứ. Chính vì thế nên anh mới cần đến bộ óc sexy của em.

    - Nếu anh tin rằng chính với cách khen ngợi như thế mà…

    - Giờ thì đi thôi, xin em đấy. Chuyện này hết sức quan trọng đối với anh.

    - Chó thì hay cắn lắm đấy, anh biết chưa?

    - Con chó này nhỏ xíu thôi.

    - Nghĩa là sao?

    - Có lẽ em vẫn còn nhớ: chính là con chó của anh trai Emma Lovenstein. Em đã nhìn thấy nó trên bãi cỏ tại khu thanh lý dọn nhà đó.

    - Con chó giống Shar-pei! Anh vừa nói là em vẫn còn nhớ kia mà! Đấy đâu phải một chú chó nhỏ hả Matt. Con chó ngao đó nặng ít nhất 40 cân và đó là một khối cuồn cuộn cơ bắp!

    Emily buông tay bố rồi chạy vội đến ôm ngang người April.

    - Cháu xin cô đấy, April, giúp bố con cháu với! Giúp bố con cháu đi cô! Cháu muốn nuôi một chú chó nhỏ từ lâu ơi là lâu rồi. Nhé cô! Đi mà cô!

    Cô chủ gallery nhìn Matthew chằm chằm vẻ trách cứ.

    - Anh không có quyền biến con bé thành công cụ để đạt được mục đích! - Cô vừa nói vừa với lấy áo khoác.

    ° ° °

    Matthew ngồi vào sau tay lái chiếc Camaro. Chiếc xe rời trung tâm Boston rồi nhằm thẳng hướng Belmont.

    - Được rồi, anh giải thích xem nào? - April yêu cầu.

    Anh chờ khi đến đèn tín hiệu; tới đó, anh mới quay sang Emily rồi chìa cho cô nhóc một cặp tai nghe.

    - Con có muốn nghe nhạc không con yêu?

    Dĩ nhiên là cô nhóc muốn!

    Anh chờ cho con gái đeo tai nghe vào rồi mới kể cho April nghe những dự định của mình. Cô để cho anh kể xong rồi mới tóm tắt lại:

    - Vậy là, anh nghĩ việc bắt cóc con chó tội nghiệp này sẽ giúp vợ anh sống lại?

    - Đúng thế, một cách gián tiếp, như anh vừa giải thích với em đấy.

    - Em không mảy may tin vào toàn bộ câu chuyện máy tính xách tay cho phép liên lạc xuyên thời gian này.

    - Vậy em giải thích sao về đoạn băng ghi hình giám sát của Vittorio, bài báo về vụ sòng bạc, các…

    - Em không giải thích gì hết, - cô ngắt lời anh. - Và em rất muốn giúp anh vì anh là bạn em, nhưng em nghĩ không ai từng khiến người chết sống lại được, và sẽ không ai làm nổi chuyện đó. Kate đã qua đời. Anh sẽ không gặp lại chị ấy nữa, Matt ạ, hãy tin rằng em rất lấy làm tiếc về chuyện đó. Chị ấy ra đi đã khiến anh tàn tạ, nhưng đến một thời điểm nào đó, cần phải để cho người chết ra đi. Đừng tự buộc mình vào ý tưởng ngu ngốc này, em xin anh đấy. Anh đang bắt đầu khá hơn. Việc tậu về chiếc laptop đã gây ra một cơn tái phát; nếu anh kiên trì đi theo con đường này thì anh sẽ càng tự khiến mình đau thêm và nhất là anh sẽ khiến con gái anh đau lòng.

    Matthew liếc cô bạn bằng ánh mắt hình viên đạn và không thèm nói thêm lời nào với cô cho tới tận Belmont. Giống như hôm qua, anh đậu xe trước ngôi nhà lát gỗ của khu phố dân sinh nhỏ bé. May thay, Emily đã thiu thiu ngủ trên băng ghế sau. Matthew và April ra khỏi xe để quan sát xung quanh. Bây giờ là 4 giờ chiều. Khu phố vắng tanh vắng ngắt. Matthew tiến đến cổng chính và bấm chuông để an tâm rằng bên trong không có ai. Không có tiếng đáp ngoại trừ tràng sủa của chú chó Shar-pei, đúng là giống chó giữ nhà, nó đang lao ra hàng rào để ngăn các vị khách không tiến lại quá gần ngôi nhà.

    - Xin chào, Clovis, - Matthew lên tiếng.

    - Con chó này không chỉ không nhỏ, mà hơn nữa, nó còn đang khua cả khu phố ra. Được thôi, ít ra anh cũng lên kế hoạch rồi chứ?

    - Dĩ nhiên, - anh đáp rồi rút từ trong túi áo khoác ra một chiếc túi xách bằng nhựa.

    - Thứ đó là gì vậy? Nó bốc mùi khó chịu quá, thối inh lên!

    - Đây là hai miếng bít tết băm vụn được rã đông trong lò vi sóng, anh đã nặn thành chả viên…

    - … trộn với thuốc ngủ, - April đoán. - Có phần độc đáo đấy.

    - Bác sĩ đã kê cho anh thuốc ngủ khi Kate qua đời. Anh vẫn còn vài viên.

    - Kế này sẽ không bao giờ thành công được đâu, - cô tuyên bố. - Thế còn kế hoạch B của anh là gì?

    - Dĩ nhiên là kế hoạch này sẽ thành công.

    Cô lắc đầu.

    - Giả sử con chó không ọe ra mấy viên chả và anh đã định đủ liều thuốc thì cũng phải mất đến ba tiếng sau nó mới ngủ, thêm nữa, nó sắp ngơ ra ấy chứ. Từ giờ đến lúc đó, chủ của nó sẽ quay về hoặc một trong số hàng xóm sẽ gọi cho cảnh sát…

    - Đừng bi quan thế. Anh thử đã, - Matthew quyết định và quăng hai viên thịt to sang bên kia rào.

    Nghi ngại, Clovis hít ngửi hai viên thịt hồi lâu. Vẻ hơi coi thường, nó nuốt chửng nửa viên, nhưng không hề tỏ ra thích thú với vị chả, nó ngay lập tức ngó lơ chỗ chả viên và lại bắt đầu sủa to hơn.

    - Em đã nói thế nào ấy nhỉ?

    - Ta cứ vào trong xe chờ thêm vài phút xem sao, - Matthew đề nghị.

    Họ yên lặng chờ thêm bốn mươi lăm phút dài dằng dặc nữa mà không có kết quả gì. Tay gác cổng trung thành và hắc ám trước cổng Địa ngục dường như xem thường họ. Bóng tối dần buông. Họ bắt đầu gà gật thì tiếng chuông điện thoại của April vang lên đầy huyền ảo khiến họ giật bắn. Cô chủ gallery ấn phím từ chối cuộc gọi nhưng Emily đã giật mình thức giấc.

    - Mình đến chưa bố? Mình đang ở nhà của chú chó nhỏ ạ? - Con bé vừa dụi mắt vừa hỏi.

    - Phải đấy, con yêu, nhưng… bố không chắc nó có đồng ý đi cùng chúng ta không.

    - Bố đã hứa với con… - con bé bắt đầu rơm rớm nước mắt.

    Matthew thở dài, day day hai bên thái dương.

    - Anh nghiên cứu kế hoạch này kĩ lưỡng quá nhỉ, - April nói với anh giọng đầy trách móc. - Nó sẽ dạy cho anh biết…

    Cô bỗng ngưng giữa chừng trước khi reo lên:

    - Này Matt, con chó đâu rồi ấy nhỉ?

    Anh liếc qua kính xe. Họ chỉ lơ là có một phút mà Clovis đã kịp biến mất.

    - Anh không rõ, nhưng để anh đi ra đó xem sao.

    Anh ra khỏi xe rồi mở cốp để lấy hộp dụng cụ đã mang theo. Anh vớ lấy một cái kìm to có thể cắt được lưới sắt.

    - Anh vẫn để cốp mở nhé, - anh cảnh báo. - Em cứ khởi động xe nếu thấy cần.

    Anh tiến lại gần cánh cổng được tiếp nối bởi một hàng rào gỗ và một hàng rào dây thép. Anh dùng kìm cắt từng sợi dây thép trên tấm lưới mắt cáo rồi liều lĩnh tiến bước trên bãi cỏ.

    - Clovis?

    Anh thận trọng tiến tới bậc thềm.

    - Clovis? Cún ngoan…

    Chẳng có ai hết.

    Anh đi một vòng quanh nhà và phát hiện ra con chó đang nằm bất động gần một chuồng chó to bằng gỗ sơn.

    Khỉ thật, hi vọng nó không chết…

    Anh quỳ xuống để nhấc con chó lên.

    Chó chết tiệt, nó nặng phải đến ba tấn chứ không ít!

    Sau vài bước, anh cảm thấy con chó giống Shar-pei bắt đầu cựa quậy yếu ớt. April nói đúng: chỗ thuốc ngủ khiến con chó ngủ lịm. Nhưng dù vẫn sùi bọt mép, may thay nó không còn hơi sức cắn nữa.

    Matthew bắt đầu chạy về phía lối ra. Với “hàng hóa” trên vai, anh lách qua lỗ hổng trên hàng rào. Không quá gượng nhẹ, anh đặt con chó nằm vào trong cốp xe rồi quay lại ngồi cạnh April.

    - Em lái đi, ta chuồn thôi! - Anh hét lên với cô gái chung nhà.

    - Hoan hô bố! Hoan hô! - Emily vỗ tay trong khi chiếc Camaro khởi động với tiếng lốp nghiến ken két.

    ° ° °

    21 giờ

    Trên đường về, họ ghé vào một cửa hàng thú nuôi để mua một sợi dây dắt, thức ăn cho chó, một bát đựng đồ ăn. Khi đã về đến nhà và con chó tỉnh lại, Matthew chờ đợi điều tồi tệ nhất: những tiếng tru, những tràng sủa hung hăng, thậm chí là một cuộc tấn công. Nhưng trái lại, Clovis đã mở một mắt, thốt ra vài tiếng grừ grừ, lăn một vòng trên sàn nhà rồi uể oải tới nằm trên trường kỉ như thể bấy lâu nay nó vẫn sống trong ngôi nhà này vậy. Sau khi đã hoàn hồn, nó đi vòng quanh phòng khách. Mắt nó tinh anh, các phản xạ sắc bén. Cả gia đình đã dành cả buổi tối để chơi cùng nó và vuốt ve nó. Emily sướng mê tơi và Matthew phải đấu tranh mới đưa được con bé vào giường đi ngủ. Để con bé bằng lòng lên phòng, Matthew đã phải hứa cả chục lần rằng ngày hôm sau Clovis sẽ vẫn ở nguyên đó.

    Khi chỉ còn lại một mình trong phòng khách, anh ngồi vào trước màn hình laptop rồi chuyển sang bước thứ hai của kế hoạch.

    - Lại đây, Clovis, lại đây nào, chó cưng! - Anh dụ nó bằng một bát thức ăn cho chó.

    Con vật leo lên ghế tựa nơi Matthew đã chất thêm vào mấy chiếc gối dựa để nó đủ cao.

    - Nhìn vào màn hình nào! Mày sẽ được trông thấy một người mà lâu lắm rồi mày không gặp! Nhớ cười tươi vào nhé.

    Anh khởi động ứng dụng chat webcam của laptop. Vì phần mềm yêu cầu, anh nhập mật khẩu của mình vào. Được webcam ghi hình, hình ảnh của anh và của chú chó xuất hiện trên màn hình. Để bắt đầu cuộc gọi video, anh mở mail của Emma ra, nhấp chuột và đợi vài giây.

    Một hồi chuông.

    Hai hồi chuông.

    Ba hồi chuông…

    ° ° °

    2010

    Emma khó nhọc thức dậy từ giấc ngủ do tác dụng của thuốc gây nên.

    Cô liếc nhìn điện thoại di động, nhưng thứ đang đổ chuông không phải là điện thoại. Chính là chiếc laptop ban nãy cô vẫn chưa tắt.

    Cô nhìn đồng hồ, nhấc chăn ra rồi tiến vài bước thấp thỏm để ra bàn viết.

    Trên màn hình, biểu tượng nhỏ xíu “Face Time” đang nhấp nháy báo hiệu một cuộc gọi đến từ Matthew Shapiro. Cô chưa bao giờ sử dụng ứng dụng này, nhưng vẫn nhấp chuột để nhận cuộc gọi.

    Hình ảnh chú chó của cô hiện ra trong lúc cô không hề trông đợi điều này! Đó là Clovis, với cái mõm phính phính, khuôn mặt như trâu nước, đôi mắt nhỏ xíu sâu hoắm và thân hình vạm vỡ đầy nếp nhăn khiến nó trông hệt như một tấm vải nhung lông.

    - Clovis!

    Nhưng chú chó của cô đang làm gì ở thời điểm năm 2011 trong nhà Matthew Shapiro thế kia?

    Đột nhiên, khung hình dịch chuyển sang trái tới mặt và thân trên của Matthew.

    - Chào Emma. Cô khỏe chứ? Cô bình tĩnh lại chưa?

    - Lạy Chúa, anh đang chơi trò gì thế?

    - Như cô vừa nhìn thấy đó, tôi đã làm quen với con cún của cô. Cô từng nói thế nào nhỉ? À phải rồi: “sinh vật duy nhất trên thế gian này không bao giờ phản bội tôi.” Cô gắn bó với nó lắm mà, không phải vậy sao?

    - Đồ…

    - Thôi nào, đừng sa đà và chuyện rủa xả nữa. Tôi rất gắn bó với vợ, và tôi nghĩ cô chưa đánh giá được đúng mức quyết tâm tìm lại vợ của tôi đâu.

    Matthew với tay để tóm lấy thứ gì đó trên bàn làm việc. Một cái giá cắm dao, anh rút ra một con dao dài chừng ba chục phân rồi giơ nó ra trước webcam.

    - Đây là một con dao thái thịt, Emma ạ. Cô đã nhìn thấy lưỡi dao rồi đấy: cứng và sắc. Một con dao đẹp, chất lượng tiêu chuẩn Đức… Tôi cũng có một dụng cụ khác nữa: người ta gọi thứ này là dao phay Trung Quốc. Lý tưởng để chuẩn bị món sườn.

    - Nếu anh đụng đến dù chỉ một sợi lông của con chó, tôi sẽ…

    - Cô sẽ làm gì hả Emma?

    Cô lặng đi không nói nên lời. Matthew bèn tấn công:

    - Cô thấy rồi đó, tôi hết sức bực mình, Emma: tôi vốn rất yêu động vật. Đúng là Clovis của cô trông rất dễ thương, con gái tôi cũng rất yêu quý nó, nhưng nếu cô không hứa với tôi là sẽ làm mọi điều cần thiết để ngăn cản vụ tai nạn xảy ra cho Kate, tôi sẽ không lưỡng lự một giây nào đâu. Tôi sẽ mổ bụng con chó của cô. Tôi sẽ mổ bụng moi gan ruột của nó ra. Và tôi sẽ làm chuyện đó trước màn hình này để cô không bỏ lỡ giây phút nào của cảnh tượng ấy. Sẽ dài lắm đấy. Dài và đau đớn. Tôi sẽ chẳng vui vẻ gì khi làm chuyện đó đâu, Emma, nhưng nếu cô không cho tôi lựa chọn…

    - Khốn nạn!

    - Cứ nghĩ đi, nhưng nghĩ nhanh đấy nhé, Emma…

    Cô sắp hét lên giận dữ thì Matthew gác máy và hình ảnh biến mất.

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:48 PM.

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Ngày thứ năm

    12. The other woman
    Những người chết thuộc về những ai, giữa những đám người
    sống, yêu cầu họ theo cách ám ảnh nhất.
    - James ELLROY


    Ngày hôm sau

    23 tháng Mười hai 2010

    9 giờ sáng

    Tuyết đã tan. Không khí khô và lạnh, nhưng vầng mặt trời rực rỡ chiếu sáng trên vòm trời màu xanh ánh kim của Boston.

    Emma thổi vào hai bàn tay khum lại để sưởi ấm. Một làn hơi nước đọng sáng long lanh thoát ra từ miệng cô rồi bốc lên trước mắt cô trước khi tan vào thinh không.

    Cô bách bộ trước cổng vào Trung tâm Tim mạch đã được mười phút, chờ cho Kate kết thúc ca trực. Cô cố nén một cái ngáp. Cả đêm qua cô không yên, thế nhưng bất chấp tình trạng thiếu ngủ, những suy nghĩ của cô vẫn rất sáng rõ. Hôm qua, vì cú sốc sau khi đọc thấy bài báo đưa tin về vụ tự tử của chính mình, cô đã mất hết lý trí và rơi tõm vào một cơn mê sảng gần như tội lỗi. Hôm nay cô thấy hổ thẹn vì việc đó, nhưng sự thể là vậy đó: gánh nặng khủng khiếp của nỗi cô đơn đôi khi khiến những gì tồi tệ nhất trong cô thể hiện ra bên ngoài. Một cảm giác bỏng rát về sự bất công, một cơn ghen tuông khiến cô hao mòn và lôi kéo cô về phía những ý nghĩ hắc ám nhất. Nhưng cô nào phải một kẻ giết người, mà chỉ là một người con gái ngu ngốc thiếu thốn tình yêu từng muốn bấu víu hơi quá lâu vào một câu chuyện đã biết trước kết thúc buồn.

    Sự can thiệp của Matthew và màn diễn của anh ta với Clovis đã đóng vai trò như một lời quở trách nhằm đưa cô quay về với thực tại và sáng nay, cô đã quyết tâm nghe theo tiếng nói của lý trí. Cô sẽ tìm ra giải pháp để tránh vụ tai nạn bi thảm xảy ra cho Kate vào ngày 24 tháng Mười hai. Cô đã mất cả đêm để nghĩ ra một phương cách tối ưu hòng ngăn vụ va chạm. Ngay lúc này, cô chưa nảy ra ý tưởng nào nhưng cô vẫn còn thời gian.

    Cái lạnh khiến chân tay cô cóng lại. Cô giậm chân tại chỗ để sưởi ấm. Một chiếc xe tải lớn đi quyên máu có ghi những chữ viết tắt của hội Chữ thập Đỏ đang đỗ giữa bãi xe. Xa hơn một chút là một chiếc xe bán hàng lưu động bằng kim loại bày những đồ uống nóng sốt và bánh vắt. Emma vừa đứng vào hàng người để gọi một tách trà thì nhận thấy Kate đang đi qua cánh cửa tự động rời khỏi tòa nhà. Điện thoại di động áp vào tai, nữ bác sĩ phẫu thuật trẻ tuổi vẫn mặc nguyên bộ đồng phục bệnh viện, một thẻo vải màu xanh nhạt ló ra khỏi vạt áo khoác sẫm màu.

    Với Emma theo sát, Kate bước xuống bậc tam cấp, sải bước băng qua bãi đỗ xe rồi rời khỏi khuôn viên bệnh viện. Emma bám theo nữ bác sĩ tới tận bến Hubway trên phố Cambrige sẵn có một hệ thống xe đạp tùy ý sử dụng. Hẳn là Kate vốn quen sử dụng loại hình giao thông này. Cô chìa thẻ thuê bao của mình ra rồi ngồi lên một chiếc xe đạp.

    Trong khi Kate đi găng tay, đội sụp chiếc mũ vải mềm rồi thắt khăn quàng lại cho chặt, Emma cũng đút 6 đô la vào máy thanh toán tự động để lấy thẻ casual membership cho phép cô thuê một chiếc xe. Cô chờ cho Kate nhấn vài cú pê đan đầu tiên rồi cũng đạp chiếc xe của mình, duy trì một khoảng cách hợp lý để vừa không mất dấu đối tượng vừa không bị phát hiện.

    Năm trăm mét đầu tiên chỉ đi ngược lại quãng đường hôm qua cô đã đi. Vừa điều khiển xe bằng một tay, Emma vừa kéo tất trùm qua ống quần âu để tránh không khí lạnh giá lùa vào bắp chân. Tới ngã tư phố Hanover, nữ bác sĩ không đi theo lối dẫn về khu phố Ý mà lại men theo City Hall trước khi tiến vào đường phố lớn dẫn tới Faneuil Hall và tới chợ Quincy. Sau một cuốc đạp xe nhanh nhẹn và vài lần vượt đèn, cô đã vượt qua khu dành cho khách du lịch này khá nhanh chóng. Đến công viên Colombus, cô ngược lên một đoạn đường ngược chiều dài, khéo léo tránh những đám tắc đường, rồi lanh lẹ đạp trên vỉa hè để thoát về phía cảng và mặt hướng ra biển của thành phố. Vừa đúng 9 giờ 20 thì cô dừng xe tại đầu mép của Long Wharf, đối diện mặt tiền màu đen của một nơi giống với một quán rượu Ailen.

    Emma dừng xe năm mươi mét trước khi tới đầu đê chắn sóng. Liệu cô có mạo hiểm khi bám theo Kate vào bên trong quán bar? Cô dựa chiếc xe đạp vào một cột đèn, với lấy sợi thép của chiếc khóa dây vòng qua cột đèn trước khi gắn vào ổ. Cô đi bộ vài mét ra bờ biển.

    Vào thời hoàng kim, Long Wharf từng là bến chính của một trong những cảng thương mại nhộn nhịp nhất thế giới. Ngày nay, vũng tàu đã biến thành một bến cảng thanh lịch với những con phố lát đá hai bên san sát nhà hàng và quán cà phê. Đó cũng là điểm xuất phát của những chuyến phà đảm bảo giao thông cho nhiều hòn đảo trong vịnh Boston và hai thành phố Salem và Provincetown. Đến được lối đi dạo lát gỗ thì Emma phải khum tay che mắt để không bị chói. Mặt trời đã mọc được hai tiếng và bắt đầu lên cao trên bầu trời, trút xuống mặt đại dương một cơn mưa sao chói lóa. Khung cảnh đẹp đến nghẹt thở: những cánh hải âu, gió, những con tàu cũ kĩ lướt trên sóng, cơn say cái vô tận. Và không khí ngoài khơi tiếp thêm sinh lực và can đảm để cô bước vào quán rượu.

    ° ° °

    Trần lộ xà, tường thạch cao, ốp kính, những bảng trò chơi phi tiêu và ánh sáng dìu dịu: cách bài trí kiểu thôn dã của Gateway quả là điển hình và ấm cúng. Buổi tối, nơi này hẳn là náo nhiệt với tiếng nhạc truyền thống và tiếng vại bia Guinness chạm vào nhau, nhưng buổi sáng, đây lại là một quán cà phê thân thiện và tĩnh lặng phục vụ bữa sáng cho công nhân làm việc tại cảng. Emma nheo mắt mất một lúc mới nhìn ra Kate, đang ngồi một mình bên chiếc bàn cuối quán trước một tách cà phê.

    Một tấm biển gợi ý nên gọi đồ uống trước khi ngồi vào bàn. Emma đứng chờ sau một anh chàng lực lưỡng mặc chiếc áo sơ mi ca rô và đội mũ mềm kiểu lính thủy vài giây sau đã rời đi với một khay đầy có ngọn cá cùng khoai tây chiên, thịt nguội, xúc xích và trứng rán. Cô gọi một tách trà cùng bánh mì nướng rồi tới ngồi bên một bàn ngay cạnh bàn Kate ngồi. Nữ bác sĩ phẫu thuật làm gì ở nơi này sau khi đã làm việc cả đêm? Tại sao cô ta không về thẳng nhà sau ca trực?

    Từ vị trí quan sát của mình, Emma đoán cô đang mệt mỏi, gương mặt lo lắng thấy rõ. Mắt Kate hết nhìn màn hình điện thoại lại nhìn cửa ra vào quán. Rõ ràng là Kate đang đợi ai đó, và cuộc hẹn này không hề vô thưởng vô phạt. Emma ngạc nhiên vì sự thay đổi này. Người mẹ quyến rũ và tươi vui của gia đình mà cô đã theo dõi hôm qua đã nhường chỗ cho một kẻ bồn chồn lo lắng đang cuống cuồng vặn vẹo hai tay.

    Cô cố gắng quay đi để ánh mắt mình không quá chăm chú, và nhờ hình ảnh phản chiếu từ chiếc gương treo tường, cô không bỏ sót dù chỉ một cử chỉ của nữ bác sĩ phẫu thuật. Kate lấy từ trong túi xách ra một tờ khăn ướt cùng một hộp phấn. Cô lau mặt, bồn chồn trang điểm lại, vén cho gọn vài lọn tóc đã xổ ra khỏi búi sau cuốc đạp xe. Rồi cô đứng dậy và khuất vào khu vực toa lét.

    Emma hiểu rằng mình cần phải hành động. Kate đã mang theo chiếc túi xách và điện thoại, nhưng áo khoác vẫn bỏ lại trên ghế. Emma hít thật sâu trước khi vào cuộc. Cô bình tĩnh đứng dậy rồi tiến vài bước như thể cũng đang đi về phía toa lét, nhưng vào phút cuối, cô dừng lại trước bàn Kate. Cô cầu trời để không ai nhìn về phía mình vào lúc này, cô lục các túi của chiếc áo khoác trên ghế. Bàn tay cô nắm lại thứ gì đó bằng kim loại lành lạnh. Một chùm chìa khóa.

    Một luồng adrenaline xuyên qua cơ thể cô. Cô xác nhận chìa khóa ô tô cũng thuộc chùm chìa khóa này rồi thầm thốt lên:

    Mình có ý này!

    Để tránh vụ tai nạn, cô chỉ cần xoáy chìa khóa chiếc Mazda hai chỗ mà Kate hẳn sẽ lái vào buổi tối xảy ra thảm kịch. Sau đó, cô sẽ đánh cắp chiếc xe, sẽ bỏ xe lại cách đây ba trăm cây số, sẽ phóng hỏa hoặc quẳng nó xuống thung lũng.

    Không còn ô tô thì cũng chẳng còn tai nạn nữa!

    Cô lấy chùm chìa khóa rồi băng qua quán bar để rời khỏi đó trước khi Kate quay lại. Cô rảo bước, cúi gằm mặt để không bắt gặp ánh mắt nào, nhưng trong lúc vội vàng trốn chạy, cô va phải một khách hàng nam vừa gọi đồ uống tại quầy. Anh ta không hề hấn gì nhưng tách cà phê trên khay anh ta bưng thì sánh ra hết nửa.

    Emma xin lỗi rối rít.

    - Xin thứ lỗi, tôi rất lấy làm tiếc, tôi…

    Đó là một người đàn ông cao gầy, mái tóc sáng màu cắt ngắn, mặc chiếc quần jean đen, giày vải thể thao, một chiếc áo pull cổ lọ và khoác ngoài là áo vest da với phần cổ bẻ chất liệu lông cừu. Khuôn mặt anh ta hình thon dài, gầy hom hem, bộ râu ba ngày chưa cạo che gần hết, đeo cặp kính râm gọng đồi mồi vàng nhạt.

    - Không sao! - Anh ta nói chắc, thậm chí còn không nhìn cô.

    Vội vã bỏ đi, Emma cảm thấy nhẹ nhõm vì đã thoát được dễ dàng đến thế. Trước khi đẩy cánh cửa, cô không khỏi ngoái lại để nhìn một lần cuối.

    Tại góc trong cùng của quán, người đàn ông đó vừa tới gặp Kate.

    Anh ta ôm lấy Kate.

    Anh ta hôn cô.

    ° ° °

    Không thể như thế được.

    Cô đã dừng sững lại như bị đóng đinh, không thể có bất kỳ cử chỉ gì. Kate không thể có người tình được. Emma nheo mắt. Hẳn là cô nhầm, diễn giải sai một vài hành động. Có lẽ người đàn ông này chỉ là một thành viên trong gia đình, anh trai của Kate hoặc giả…

    - Tôi có thể giúp gì cho cô chăng?

    Chủ quán đứng đằng sau quầy đang quan sát cô với vẻ bán tín bán nghi.

    - Cô cần phải quyết định. Hoặc đi vào hoặc đi ra. Cứ đứng đó thì thế nào cũng bị cửa đập vào mặt mất thôi.

    - Tôi… tôi đang tìm khăn giấy.

    - Dào ôi, cô phải hỏi chứ. Khăn giấy đây.

    Cô nhận tệp khăn giấy chủ quán đưa cho rồi quay trở lại bên bàn, cố gắng càng kín đáo càng tốt. Theo phản xạ cô rút điện thoại ra, chuyển chế độ camera rồi đặt trên mặt bàn để ghi hình.

    Tim cô đập thình thịch trong lồng ngực. Cô nghĩ tới Matthew vốn lý tưởng hóa vợ mình. Tới cảnh tượng hôm qua cô được chứng kiến: tình cảm gia đình gắn bó và yêu thương toát ra từ cặp đôi của họ. Làm sao người ta có thể giả bộ tình cảm đến mức đó được.

    Không, có điều gì đó không ăn khớp. Cứ nhìn sự sùng mộ mà Matthew tiếp tục hướng về vợ mình sau khi cô ta qua đời thì dường như ít có khả năng người phụ nữ này phải lòng một người đàn ông khác. Shapiro không phải gã ngốc, dĩ nhiên là anh ta sẽ nhận ra. Nhưng chẳng phải kẻ không muốn nhìn thấy thì còn tệ hơn kẻ mù hay sao?

    Lạy Chúa!

    Cô không biết phải nghĩ sao nữa. Cô cố gắng tự thuyết phục mình rằng Kate và người đàn ông lạ mặt bí ẩn kia không phải là tình nhân, nhưng thái độ của họ không hề nhập nhằng: những đụng chạm, những ngón tay đan vào nhau, ánh mắt say mê dành cho đối phương. Thậm chí Kate còn vuốt ve khuôn mặt và mái tóc người đàn ông.

    Emma kiểm tra để chắc chắn điện thoại vẫn đang tiếp tục ghi hình. Cảnh tượng cô đang chứng kiến có vẻ siêu thực đến mức cô phải ghi lại dấu tích.

    Người đàn ông trạc bốn mươi. Một vẻ điển trai có lẽ hơi yếu đuối và màu mè. Một vẻ bề ngoài không hoàn toàn xa lạ đối với Emma…

    Cô không thể nghe thấy họ đang nói chuyện gì, nhưng chắc chắn cả hai đều đang hết sức chăm chú. Chuyện gì được nhỉ? Người đàn ông đã kết hôn chưa? Họ đang cố thuyết phục nhau bỏ vợ bỏ chồng chăng? Những giả thiết này khiến Emma nhớ lại chuyện của bản thân và những ký ức đau buồn về mối quan hệ với François.

    Cô xua những ý nghĩ đó đi rồi bỗng nhận thức được mối nguy hiểm. Quán rượu đã vãn mất ba phần tư khách. Người ta rốt cuộc sẽ nhận ra mưu đồ của cô. Cô tắt điện thoại rồi kín đáo rút lui.

    Không khí giá lạnh khiến cô thấy dễ chịu. Cô hít vào liền mấy hơi để hoàn hồn. Cô không lấy xe đạp nữa mà tiến về phía một chiếc taxi đang đậu trong hàng xe chờ khách trước lối vào khách sạn Marriott.

    Mặc xác khoản tiền đặt cọc thuê xe!

    Đúng vào lúc ngồi lên taxi, cô nhận ra chùm chìa khóa của Kate cũng bao gồm cả chìa khóa nhà. Vậy thì cô có thể đột nhập tư gia của gia đình Shapiro, cô liền đưa địa chỉ đó cho tài xế. Tới quảng trường Louisburg, cô đi vòng quanh ngôi nhà, thắc mắc không biết Matthew và con gái anh có đang trong nhà không? Cô định bấm chuông để xác nhận nhưng rồi lại thôi.

    Để cho “Matthew năm 2010” biết đến sự tồn tại của mình phỏng có ích gì chứ…

    Cô cũng nhận ra miếng đề can nhỏ dán trên cửa sổ cảnh báo sự xuất hiện của một hệ thống báo động.

    Khỉ thật…

    Có chìa khóa trong tay cũng chẳng giúp gì nhiều cho cô nếu tiếng còi hú cất lên chỉ vài giây sau khi cô đẩy cửa bước vào.

    Cô thầm ghi nhớ tên công ty an ninh trước khi ngược trở ra để khỏi gây chú ý. Muốn được bình tâm suy nghĩ, cô lánh vào một tiệm bánh trên phố Charles. Một nơi lai tạp với bầu không khí retro cho khách hàng thưởng thức bánh ngọt, ngồi bên quầy gỗ mộc. Emma ngồi lên chiếc ghế cao rồi lấy laptop ra. Cô gọi một tách cà phê và một phần bánh pho mát lấy lệ rồi truy cập vào niên giám trực tuyến để tìm số điện thoại liên hệ của gia đình Shapiro. Cô gọi thì gặp phải máy trả lời tự động. Một đoạn ghi âm thông điệp gia đình có cả sự tham gia của Emily. Cô dập máy rồi gọi lại luôn để chắc chắn không có ai ở nhà. Rồi cô gọi về Thống Soái, yêu cầu được nối máy với Romuald Leblanc.

    - Tôi cần cậu giúp, đầu đất.

    - Tôi đang định gọi cho chị đấy chị Lovenstein.

    - Cậu tìm được chi tiết gì mới trong chuyện của tôi hả?

    - Tôi đã gửi một vài mail của chị cho Jarod. Anh ấy là một trong số đám bạn dân tin học của tôi. Người giỏi nhất tôi quen. Anh ấy đã bảo tôi là vào những năm 2000, trên rất nhiều diễn đàn, một vài cư dân mạng đã để lại những tin nhắn khẳng định mình tới từ tương lai và là những lữ khách thời gian. Dĩ nhiên, đó là những trò đùa ác ý, nhưng trường hợp của chị thì khác: cú nhảy trong dòng thời gian được đồng hồ tự động của máy chủ ghi lại là một yếu tố hết sức khó hiểu khiến bạn tôi không tài nào lý giải nổi. Tôi lấy làm tiếc.

    - Cậu đã làm hết sức rồi mà, cảm ơn cậu. Thực ra, tôi gọi cho cậu là có chuyện khác. Nếu tôi đưa cậu địa chỉ một ngôi nhà tại Boston cũng như tên công ty giám sát đã lắp đặt hệ thống báo động, cậu có thể vô hiệu hóa hệ thống đó chứ?

    - “Vô hiệu hóa” nó ư? - Cậu nhóc mê tin học máy móc nhắc lại. - Chị hiểu cụm từ đó như thế nào vậy?

    - Cậu đùa với tôi hay sao? Cậu có biết cách vô hiệu hóa từ xa một hệ thống báo động không đấy?

    - Không, không thể có chuyện đó. Chị muốn tôi làm thế nào?

    - Tôi cứ tưởng chẳng chuyện gì là không thể với đám máy tính của cậu…

    - Tôi chưa bao giờ nói thế, - cậu nhóc chống chế.

    Cô thách thức cậu ta:

    - Nhất trí, tôi hiểu rồi. Cậu là một tên mồm loa mép giải, nhưng đến lúc chuyển sang hành động thì chẳng còn gì hết…

    - Này! - Cậu nhóc cãi. - Chị có được cuộc hẹn với nhà tạo mẫu tóc là nhờ có ai nhỉ?

    - Tôi không nói với cậu về cuộc hẹn với nhà tạo mẫu tóc nhé! Mà tôi nói đến một chuyện nghiêm trọng hơn.

    - Nhưng tôi không phải thầy phù thủy, - Romuald gần như thấy có lỗi.

    - Tôi đưa cậu địa chỉ, cậu có gì để ghi lại không?

    - Nhưng tôi đã nói với chị là…

    - Cậu có gì để ghi lại không? - Cô gặng hỏi.

    - Chị đọc đi, - cậu nhóc thở dài.

    - Đây là địa chỉ nhà riêng của Matthew và Kate Shapiro. Họ sống ở Boston, ngã tư phố Mount Vernon giao phố Willow. Công ty đã lắp đặt hệ thống báo động cho nhà họ tên là The Blue Watcher, trụ sở đặt tại Needham thuộc bang Massachusetts.

    - Thế chị muốn tôi làm gì với nó?

    - Tùy ý cậu, nhưng hãy mau đi. Mười lăm phút nữa, tôi sẽ quay trở lại ngôi nhà khốn kiếp đó. Nếu cậu không tìm được cách nào, cảnh sát sẽ tới tóm tôi và cậu sẽ phải chịu trách nhiệm về việc tôi bị bắt.

    Cô tắt máy không để cho cậu nhóc kịp trả lời. Cô nhận thức rõ được rằng mình đang giao cho cậu nhóc một nhiệm vụ khó khăn, nhưng cô đặt lòng tin vào trí tuệ của cậu.

    Cô uống một ngụm cà phê rồi ăn miếng bánh ngọt. Cô nghĩ là mình không đói nhưng cô ăn bánh thấy rất ngon miệng. Vừa thưởng thức món bánh pho mát, cô vừa xem lại đoạn phim mới quay bằng điện thoại. Âm thanh nghe không rõ, hình ảnh hơi tối và giật, góc quay quá xa nhưng hình ảnh khiến ta không chút nghi ngờ về bản chất mối quan hệ giữa Kate và người đàn ông lạ mặt.

    Người đàn ông này là ai? Một bác sĩ đồng nghiệp ư? Một người bạn của hai vợ chồng? Tại sao Emma luôn có cảm giác mơ hồ rằng vẻ ngoài của người đàn ông này không hoàn toàn lạ lẫm đối với cô nhỉ?

    Ngập ngừng không biết phải xử sự thế nào, cô gái chuyển đoạn phim từ điện thoại di động sang laptop trước khi mở hộp thư ra. Tâm trí chất chứa bao nghi vấn, cô bắt đầu viết một bức thư cho Matthew rồi dừng giữa chừng. Với cái cớ là chứng minh sự thật, liệu cô có quyền khuấy tung quá khứ lên chăng? Có quyền can thiệp vào chuyện riêng của một gia đình cô không hề quen biết chăng? Có quyền khơi lại nỗi đau của một người đàn ông đang không thể nguôi ngoai sau khi vợ qua đời chăng?

    Trừ phi người phụ nữ ấy chắc chắn không phải là hình tượng anh ta tôn sùng…

    Ngón tay đặt trên chuột cảm ứng của laptop, cô đọc lại bức thư, lưỡng lự thêm vài giây rồi cuối cùng cũng nhấn vào nút GỬI.

    ° ° °

    2011

    - Con mê chú chó nhỏ này quá! - Emily thốt lên trong lúc bước vào bếp với chú chó Shar-pei lẵng nhẵng bám theo.

    Mùi sô cô la nóng thơm phức phảng phất trong không trung. Vừa xem lướt báo chí trên chiếc máy tính bảng, April vừa đưa mắt trông chừng nồi đang đun nóng trên bếp từ. Ngồi đằng sau màn hình, ánh mắt tối sầm, Matthew đã chờ đợi từ nhiều giờ qua một câu trả lời từ Emma cho tối hậu thư anh gửi hôm qua.

    Cô nhóc leo lên chiếc ghế quầy bar để ngồi cạnh bố.

    - Bát ăn của Clovis sạch nhẵn rồi ạ. Con có thể đổ đầy thức ăn cho chó vào đó không ạ?

    Matthew thốt ra một tiếng làu nhàu đồng ý.

    - Cô cháu mình sẽ cùng làm nhé, - April hứa trong lúc đổ sữa ra cốc. - Nhưng trong lúc chờ đợi, cháu uống sô cô la đi.

    Cô để cốc sô cô la xuống cạnh con bé.

    - Cẩn thận nhé, nóng lắm đấy!

    - Cô đã cho cháu thêm kẹo dẻo nữa này! Tuyệt quá! Cảm ơn cô April.

    Matthew nhướng một bên mày tỏ ý chê bai cô gái sống cùng nhà.

    - Chúng ta sẽ giảm bớt đồ ngọt đi, nhất trí không nào? Con bé sớm muộn gì cũng phát phì ra mất thôi!

    - Đang kỳ nghỉ Giáng sinh mà bố! - Cô nhóc kêu lên.

    - Lý do hay…

    Tiếng leng keng báo hiệu có thư mới khiến anh ngưng giữa chừng. Ánh mắt anh lướt trên màn hình. Anh đọc qua bức mail của Emma với tựa đề khiêu khích.

    Từ: Emma Lovenstein

    Tới: Matthew Shapiro

    Chủ đề: Anh đã thực sự hiểu vợ mình chưa?

    Matthew thân mến,

    Tôi vui khi biết con gái anh rất yêu quý Clovis của tôi. Đó là một chú chó trung thành và tình cảm. Điều này có lẽ sẽ khiến anh ngạc nhiên, nhưng tôi rất mừng khi biết nó hiện đang ở nhà anh. Không một giây nào tôi hình dung được rằng anh nỡ làm hại nó. Anh là một người tử tế, Matt ạ, và tôi không nghĩ anh sẽ hành hạ con vật vô hại tội nghiệp đó.

    Tôi đã lưỡng lự rất nhiều trước khi gửi cho anh đoạn phim ngắn được đính kèm theo thư này. Tôi hi vọng nó không quá động chạm đến anh. Xin hãy tha thứ cho tôi vì đã xen vào cuộc sống riêng của anh, nhưng anh có biết người đàn ông ngồi cùng vợ mình là ai không?

    Emma

    Cô ta đang nhắc đến chuyện gì thế nhỉ? Anh vừa thắc mắc vừa lưu tệp đính kèm xuống desktop. Rồi anh nhấp chuột để mở đoạn phim.

    Sau vài giây, một hình ảnh lờ mờ xuất hiện trên màn hình.

    - Bố đang xem gì vậy bố? - Emily vừa hỏi vừa quay sang nhìn vào màn hình.

    - Cẩn thận đấy cháu yêu, - April cảnh báo con bé, cháu sẽ…

    Quá muộn rồi.

    Cốc sô cô la đầy tận miệng đã đổ xuống máy tính, gần 400ml chất lỏng nóng bỏng và nhớt dính tràn ra bàn phím.

    Hình ảnh ngưng lại, rồi màn hình đen kịt.

    Tuyệt vọng, Matthew nhìn chằm chằm con gái với đôi mắt như lồi khỏi tròng. Tim anh thắt lại trong lồng ngực, hơi thở của anh ngừng lại và những giọt nước mắt điên dại khiến cái nhìn của anh nhòe đi: anh vừa mất đi phương tiện duy nhất có thể liên lạc với Emma.

    Phương tiện duy nhất để cứu sống vợ anh.
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:49 PM.

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    13. Cuộc đi xuyên gương
    Cuộc sống cần những ảo tưởng, nghĩa là những
    cái không thực được xem như những cái thực.
    - Friedrich NIETZSCHE


    Boston, 2010

    Bip, bip, bip…

    Ngay khi bước vào nhà, Emma đã khởi động một tín hiệu âm thanh nhỏ giống như tiếng bộ định vị sóng âm.

    Cô khép cửa lại rồi quay về phía hộp báo động. Không thể nhập lại mã để vô hiệu hóa hệ thống: cô nào có biết mã số đó.

    Bip, bip, bip…

    Còn bao lâu trước khi âm thanh khe khẽ của máy dò nhường chỗ cho một tín hiệu đáng lo ngại hơn? Cô cố nuốt nước bọt mà không thể. Cổ họng cô khô khốc, trán và mồ hôi. Cô dừng sững lại vài giây, bộ dạng hệt như kẻ tử tù đang chờ đao phủ ra tay. Cuối cùng, những tiếng bip cảnh báo cũng ngừng rồi âm thanh đinh tai của còi báo động vang lên khiến bốn bề tường rung chuyển.

    Vloiiiiiing! Vloiiiiiing! Vloiiiiiing!

    Cô cũng đã chuẩn bị tinh thần đón chờ những âm thanh ồn ã này nhưng vô ích, tiếng chuông chói lói khiến một luồng lo sợ ồ ạt kéo đến trong huyết quản cô. Cô chớm cảm thấy một cơn hoảng loạn. Cô rùng mình. Máu chảy rần rật nơi thái dương. Đúng lúc đó, điện thoại trong túi cô rung lên. Cô nhấc máy rồi nói thật lớn để át đi tiếng chuông.

    - Alô.

    - Bà Kate Shapiro phải không?

    - Tôi đây.

    - Công ty giám sát Blue Watcher đây, chúng tôi vừa…

    - Chuông báo động của tôi, vâng, tôi xin lỗi. Hẳn là do chồng tôi đổi mã mà không báo cho tôi biết trước. Các anh có thể tắt hệ thống báo động đi được không?

    - Chỉ cần tiến hành vài bước xác minh theo thông lệ thôi ạ.

    Vloiiiiiing! Vloiiiiiing! Vloiiiiiing!

    Dù không thể vô hiệu hóa từ xa hệ thống, Romuald cũng đã xâm nhập được vào máy chủ của công ty giám sát. Cậu nhóc đã khéo léo thay đổi số điện thoại liên lạc trong trường hợp hệ thống báo động khởi động, thay vào số di động của Kate và Matthew bằng duy nhất số của Emma. Cậu nhóc cũng đã chụp lại màn hình hồ sơ tiết lộ những câu trả lời cho ba câu hỏi bí mật cần thiết để xác nhận người liên hệ và tắt còi báo động.

    - Bố mẹ bà đã gặp nhau tại thành phố nào? - Nhân viên hãng hỏi.

    Emma cúi xuống để đọc câu trả lời do Romuald gửi cho, cô đã ghi lại trên cổ tay.

    - Tại Saint-Pétersbourg.

    - Bộ phim bà yêu thích nhất ngày còn bé?

    - Những cuộc phiêu lưu của Bernard và Bianca.

    - Bạn gái thân nhất thời sinh viên của bà tên gì?

    - Joyce Wilkinson, - cô trả lời không chút ngập ngừng.

    Chuông báo động lập tức ngừng réo.

    - Cảm ơn bà, bà Shapiro. Sau này, hãy yêu cầu chồng bà báo trước cho bà biết trong trường hợp đổi mã.

    Emma gác máy rồi thấm khô những giọt mồ hôi đang rịn ra trên trán. Cô lại gần cửa sổ, đứng nép sau rèm. Quảng trường Louisburg vẫn không có động tĩnh gì, nhưng điều này có khả năng không kéo dài.

    Cô sẽ nói gì đây nếu như một cảnh sát bấm chuông cửa? Hoặc nếu Matt hay Kate bất thình lình trở về nhà. Cô xua ý nghĩ đó đi rồi quyết định bắt tay vào lục lọi.

    Cơn giận của cô đối với Kate tiếp thêm động lực cho cô và ích lợi đầu tiên của nó là giúp cô thoát ra khỏi tình trạng trầm uất, truyền cho cô khao khát muốn tranh đấu vì cô, vì tương lai của cô, vì Matthew…

    Emma không rõ mình đang tìm gì. Một bằng chứng xác nhận sự thiếu chung thủy của Kate chăng? Một manh mối có thể vạch ra hướng điều tra về lai lịch của người đàn ông lạ mặt? Dẫu sao thì cô cũng nên vượt qua cái vỏ bọc bên ngoài. Lục lọi trong những góc khuất của ngôi nhà mà không phải ai cũng thấy: các ngăn tủ tường, các tủ đứng, các ngăn kéo, các máy tính, dưới hầm…

    Tầng trệt được bố trí như một nhà xưởng cải dụng với một phòng khách rộng rãi và không gian bếp mở. Hệ thống sưởi tỏa ra một hơi nóng dìu dịu. Căn phòng mang lại cảm giác dễ chịu, thân thiện, quen thuộc. Gần trường kỉ là một cây thông Noel giăng đèn nhấp nháy, trên quầy bếp còn vương vụn bánh mì, một hũ mứt quên chưa đậy, một bức tranh của trẻ con đang tô màu dở dang, tờ The New York Times số ra ngày hôm đó đang mở ở mục Văn hóa.

    Trên bốn phía tường và trong những khung ảnh đặt trên các tầng giá, có thể thấy nhiều ảnh chụp các thành viên trong gia đình, các bức ảnh đen trắng hẳn là chụp Kate lúc còn nhỏ: một cô bé tóc vàng xinh xắn cùng mẹ bên chiếc dương cầm hoặc tay trong tay đi dạo trên những con phố của một thành phố thuộc Nga - hẳn là Saint-Pétersburg. Rồi những bức ảnh đã phai màu: một cô gái gầy nhom tạo dáng trước Space Needle và sau nữa là một cô sinh viên gần như trắng muốt vận quần jean và đeo ba lô đứng trên bãi cỏ rộng rãi trước gác chuông của đại học Berkeley. Một cú nhảy trong dòng thời gian đã biến cô sinh viên rụt rè ngày nào thành một phụ nữ trẻ tràn đầy tự tin. Đó là Kate của ngày hôm nay, người mà cô đã nhìn thấy, nữ bác sĩ phẫu thuật tự tin vào bản thân mình với ngoại hình ưa nhìn đang tạo dáng cùng chồng và con gái.

    Những bức ảnh này gợi lên nhiều câu hỏi, nhưng Emma để sau mới phân tích. Cô rút điện thoại ra, dành ba phút để chụp lại toàn bộ những bức ảnh treo trong phòng. Vào đến bếp, cô cũng chụp lại thời gian biểu hàng tuần của Kate đính trên tấm bảng gỗ bần.

    Tạm thời tầng trệt xem ra quá trống trải, cô lên tầng hai.

    Tầng này được phân chia thành một phòng ngủ rộng cho bố mẹ với cách bài trí ngăn nắp, kèm theo hai phòng tắm và nối dài bằng một phòng để quần áo, một phòng trẻ và một phòng hầu như để trống có thể dùng như phòng làm việc.

    Phòng ngủ của hai vợ chồng chất đầy sách, ngay cả trên mặt sàn hai bên giường. Bên trái là những cuốn tiểu luận Triết (Cuộc đời của Thánh Augustin, Những cuốn sách Nietzsche từng đọc…), bên phải là các ấn phẩm khoa học (Các phẫu thuật suy tim, Các bệnh lý tim bẩm sinh, Máu nhân tạo và tế bào gốc…). Không khó để đoán được ai nằm bên nào…

    Nhìn chiếc giường của đôi vợ chồng, ngọn lửa ghen tuông hừng hực trong lòng Emma lại được thổi bùng lên. Với vẻ kích động, cô kiểm tra các kệ giá và lục tìm trong các ngăn kéo tủ com mốt. Cô tìm thấy hộ chiếu của hai vợ chồng trong một ngăn kéo. Cô mở cuốn hộ chiếu đầu tiên: Matthew Shapiro, sinh ngày 3 tháng Sáu năm 1968 tại Bangor (Maine), rồi cuốn thứ hai: Ekaterina Lyudmila Svatkovski, sinh ngày 6 tháng Năm năm 1975 tại Saint-Pétersburg (Nga).

    Kate là người Nga…

    Điều này giải thích cho màu tóc vàng nhạt, đôi mắt sáng màu, vẻ đẹp lạnh lùng và xa cách…

    Từ ngoài phố vang lên tiếng động cơ ô tô. Lo sợ hai vợ chồng gia chủ đã quay về, cô liếc qua cửa sổ - báo động giả - rồi lại tiếp tục lục soát.

    Cô không mất thời gian trong phòng tắm của Matthew, nhưng lại nấn ná trong phòng tắm của “nữ gia chủ”. Cô mở các cửa tủ, các ngăn kéo và các ô đồ gỗ. Chiếc tủ chính - một giá treo - chất đầy mỹ phẩm: kem bôi, dưỡng thể, đồ trang điểm. Trong cây cột bằng gỗ sơn được dùng làm tủ thuốc, cô tìm ra những tuýp nhựa và liếc qua nhãn thuốc (thuốc aspirin, paracetamol, thuốc chống viêm), những lọ cồn 70o, huyết thanh sinh lý, nước ôxy già. Đằng sau những hộp ego và gạc, cô phát hiện ra một thứ bất ngờ hơn. Những loại thuốc mang những cái tên phức tạp, nhưng quen thuộc, là tên của thuốc chống trầm cảm, thuốc an thần và thuốc ngủ. Emma không tin vào mắt mình: Kate và cô quen chung những “người bạn” có chứa lưu huỳnh. Trong vòng vài giây, cô cảm thấy vững tâm lạ thường.

    Khác với vẻ bề ngoài, Kate không phải là người phụ nữ tươi tắn và bình thản như cô vẫn hình dung. Chị ta hẳn là cũng giống như cô: bứt rứt, lo âu, có lẽ dễ bị tổn thương. Chồng chị ta có biết bên trong tủ thuốc có những gì không nhỉ? Có lẽ là không, bằng không nữ bác sĩ ngoại khoa đã không cẩn thận xếp những tuýp thuốc này ra đằng sau như vậy. Vả lại Matthew không có vẻ là loại đàn ông đi lục lọi đồ đạc cá nhân của vợ.

    Cô tiếp tục chuyến thám hiểm vào bên trong phòng quần áo.

    Giấc mơ của mình đây…

    Đó là phòng quần áo hoàn hảo: rộng rãi, sạch sẽ, trang nhã và tiện dụng. Những cánh cửa trượt bằng gỗ sáng màu xen kẽ những tấm kính và mặt gương càng mở rộng thêm không gian.

    Không cưỡng được tò mò, cô mở lần lượt từng tủ một, lục lọi, kiểm tra từng ngăn kéo, nhấc từng chồng quần áo lên, xem hàng chục đôi giày và món đồ lót. Một chiếc thang gỗ tối màu và một chiếc ghế có bậc được dựa vào tường cho phép tiếp cận những khoảng không cao hơn. Cô leo lên đó để sàng lọc tiếp phần tủ phía trên. Cô nhanh chóng tìm ra một chiếc áo da được gấp gọn, để trên tầng giá cao nhất. Đó là một chiếc áo vest của dân đi mô tô đã sờn với phần cổ lật lông cừu. Cùng loại với chiếc áo mà “người tình” của Kate đã mặc sáng nay! Emma chú tâm xem xét chiếc áo. Cô sờ nắn lớp lót. Trong một túi áo có nắp, cô tìm thấy một bức ảnh đã ố vàng. Đó là ảnh Kate, ngực trần, hẳn là hình ảnh của Kate chừng mười năm về trước. Tư thế tạo dáng gợi cảm và khiêu khích của cô gái vừa tròn đôi mươi đang nhìn thẳng vào ống kính với một sự tự tin hiếm có. Emma lật bức ảnh lại để tìm kiếm một lời chỉ dẫn nhưng mặt sau không ghi gì hết.

    Nỗi phấn khích của cô tăng thêm gấp bội. Giống như trước đó đã làm, cô dùng điện thoại chụp lại bức ảnh trước khi trả về túi áo bu dông rồi cất chiếc áo vào chỗ cũ.

    Giờ thì phải đi thôi…

    Để khỏi phải hoài nghi tiếc nuối gì thêm, cô dạo một vòng tầng trên cùng. Phần này của ngôi nhà không được sưởi ấm. Nó bao gồm một phòng hẳn là dành cho khách tới thăm, một phòng tắm khác và hai phòng rộng vẫn còn đang được sửa chữa.

    Cô lại xuống tầng trệt rồi dạo một vòng cuối cùng. Trên chiếc bàn nhỏ được dát gỗ trang trí có chiếc máy tính của gia đình. Ban nãy cô đã nhận ra nó, nhưng cô nghĩ nó đã được bảo vệ bằng mật khẩu.

    Biết đâu được đấy…

    Cô di chuột để khởi động máy. Màn hình mở ra trang truy cập của Kate. Không mật khẩu, cũng chẳng được bảo vệ.

    Vậy là sẽ chẳng có thông tin gì thú vị, cô nghĩ.

    Tuy thế cô vẫn lục lọi khắp các thư mục. Có vẻ như Kate chỉ dùng chiếc máy này vào mục đích công việc. Nó chứa đầy những bài báo, những tệp tin, những đoạn phim liên quan đến phẫu thuật và dị tật tim. Kết quả thu được cũng tương tự khi xem xét lịch sử truy cập của trình duyệt Internet cũng như hòm thư điện tử. Giữa thế giới y khoa ấy chỉ có duy nhất một thứ lạc loài, Những gian truân của một phụ nữ Boston, một blog “thủ công” về các địa chỉ vàng của Boston (các nhà hàng, tiệm cà phê, cửa hàng…) mà dường như nữ bác sĩ ngoại khoa đóng góp ý kiến khá thường xuyên. Emma ghi lại địa chỉ website lên cánh tay rồi thử mở trang truy cập của Matthew. Cả trang này cũng không được bảo vệ gì hơn trang của người vợ. Có vẻ như hai vợ chồng họ luôn tin tưởng nhau, ít ra là về điểm này. Emma lặp lại các bước tìm kiếm và chẳng tìm ra được gì đáng chú ý. Tuy nhiên có hàng trăm bức ảnh, được nhóm lại theo trật tự trong một thư mục. Cô bắt đầu cho trình chiếu chúng, nhưng có quá nhiều nên khó mà xem hết được ngay. Cô lục trong túi áo khoác lấy ra chùm chìa khóa. Móc chìa khóa là một chai nhỏ bằng kim loại mô hình của chai California Pinot Noir. Một món đồ quảng cáo mà cô được tặng khi tham quan vùng trồng nho. Khi trượt phần trên của chai, một ổ usb hiện ra. Emma cắm vào máy tính để copy ảnh vào đó, để sau này có thể tùy ý xem lại. Việc copy còn chưa xong thì cô nghe thấy có tiếng động cơ ô tô. Cô liền rút ổ usb ra ngay rồi lại gần cửa sổ.

    Khỉ thật…

    Lần này thì đúng là Matthew và Kate đang đỗ xe ngay trước lối vào.

    Không kịp quay lại rồi!

    Chỉ còn duy nhất một giải pháp: trốn.

    Cô leo cầu thang lên tới các phòng ngủ trên gác đúng lúc cửa ra vào bật mở.

    Từ trên đó, cô nghe thấy rõ ràng giọng của Matthew và Kate. Cô hoảng sợ trốn vào phòng ngủ của hai vợ chồng họ. Cô nâng cửa sổ sập lên, cố gắng tạo ra càng ít tiếng động càng tốt. Khi liếc nhìn căn phòng lần cuối, cô nhận thấy từ xa, trong phòng để quần áo có thứ gì đó mà lần đầu tiên bước vào cô không để ý, nhưng giờ nó lại khiến cô kinh ngạc. Tại sao lại có một chiếc thang gỗ dựa vào tường nhỉ? Chiếc ghế có bậc mà cô đã sử dụng thừa đủ để vươn tới tầng giá cao nhất rồi mà. Cô ngưng lại rồi rón rén quay vào phòng để quần áo.

    Và tại sao chiếc thang này lại làm bằng gỗ tối màu trong khi tất cả những đồ đạc trên tầng này đều làm bằng gỗ sáng màu?

    Emma ngước mắt nhìn lên trần rồi bất chấp giọng nói của hai vợ chồng gia chủ đang vang lên dưới phòng khách, cô mở chiếc thang ra rồi trèo lên những thanh đầu tiên.

    Chiếc thang này không dựng ở đó để leo lên tủ quần áo, mà để leo lên… trần nhà.

    Lên đến những bậc trên cùng rồi, Emma nâng mảng thạch cao làm trần nhà lên. Khi thò tay vào bên trong, cô nhận thấy thứ gì đó. Một sợi dây, dây đeo của một chiếc túi thì đúng hơn. Cô kéo dây và một chiếc túi vải to đùng rơi xuống. Cô đã tóm kịp nhờ một phản xạ tuyệt vọng.

    Đó là một chiếc túi du lịch bằng vải trắng ni lông màu đỏ in logo màu trắng hình “dấu phẩy” của một nhãn hiệu thể thao nổi tiếng. Chiếc túi nặng trịch, bên trong được nhồi căng. Vừa giữ thăng bằng trên chiếc thang, cô vừa mở túi ra thật nhanh, nhìn vào bên trong, và suýt thì buông rơi nó vì quá đỗi kinh ngạc.

    Tim cô đập dồn dập hơn. Cô nghe thấy tiếng bước chân đang đi lên cầu thang.

    Cô để lại chiếc túi vào chỗ cũ, đậy lại trần giả, xuống thang rồi nhanh chóng băng qua phòng. Cửa sổ phòng ngủ vẫn để mở. Cô trèo qua bậu, rảo bước xuống cầu thang thoát hiểm bằng gang rồi bỏ chạy thật nhanh.

    ° ° °

    Boston, 2011

    9 giờ 45

    Bàn phím máy tính ngập trong sô cô la nóng.

    - Bố ơi, con xin lỗi, con xin lỗi! Tha lỗi cho con nhé! - Emily năn nỉ khi nhận ra tầm vóc thảm họa.

    Matthew đứng bật dậy khỏi chiếc ghế quầy bar, rút điện máy tính rồi dốc ngược máy lên để thứ chất lỏng dính nhớt kia chảy đi.

    - Con không cố tình đâu ạ! - Cô nhóc vừa xin lỗi vừa trốn trong vòng tay April.

    - Dĩ nhiên rồi, cháu yêu, - cô gái cố gắng dỗ dành con bé.

    Matthew lặng lẽ dùng một mảnh khăn lau thấm khô máy tính.

    Biết làm sao đây?

    Tim anh vẫn đang đập dồn. Anh cần phải hành động. Thật nhanh.

    April lấy từ trong túi xách của mình ra nhiều bông tẩy trang rồi đưa cho Matthew để lau thật khô bàn phím.

    - Anh nghĩ các mạch dính nước rồi à?

    - Anh e là thế.

    - Chưa chắc đâu, - cô xoa dịu. - Hồi năm ngoái, em để rơi điện thoại di động đang bật vào toa lét. Em vội sấy khô rồi tháo thẻ sim ra, em đã bật lại được máy và đến giờ nó vẫn hoạt động bình thường!

    Matthew suy nghĩ. Anh có cố tháo máy ra cũng vô ích. Anh không thạo món tin học. Anh định thử bật lại máy rồi đổi ý.

    Làm thế sẽ gây chập cháy các vi mạch ngay lập tức…

    - Anh sẽ mang nó qua chỗ thợ sửa, - anh nhìn đồng hồ đeo tay rồi quyết định. - Em trông Emily thêm một tiếng nữa nhé?

    Anh gọi một chiếc taxi, tắm qua dưới vòi hoa sen, mặc quần jean, áo pull, áo măng tô dày rồi bước ra ngoài phố với chiếc laptop đựng trong bao da.

    Ghé vào một Apple Store ở thời điểm hai ngày trước Giáng sinh là một việc làm thiếu suy xét. Dù sao thì chiếc MacBook cũng không còn bảo hành nữa. Anh bảo tài xế lái đến chỗ một cửa hàng nhỏ trong con phố phía sau quảng trường Harvard. Một cửa hàng mà vài sinh viên của anh thường lui tới.

    Tiệm vừa mở cửa và rõ ràng Matt là khách hàng đầu tiên. Ngồi sau quầy là một cựu thành viên trào lưu hippie đậm người đang ăn nốt bữa sáng.

    Tuổi đã quá sáu mươi, ông ta chưng ra bộ tóc dày muối tiêu và mặc chiếc áo gi lê da phanh ngực, bên trong mặc áo phông in hình cờ Cuba. Bụng ông ta phệ, tràn ra ngoài cạp quần jean mài đeo chiếc thắt lưng bự chảng.

    - Tôi có thể giúp gì được cho sếp nào? - Ông ta vừa hỏi vừa chùi vụn đường của chiếc bánh rán dính trên chòm râu rậm.

    Matthew lấy chiếc máy tính ra khỏi bao, đặt nó lên quầy rồi kể lại chuyện rủi ro.

    - Nghĩ thế nào mà lại để một thứ đồ uống nóng gần máy tính cơ chứ! - Ông chủ tiệm kêu lên.

    - Là con gái tôi. Con bé mới bốn tuổi rưỡi và…

    Ông già không để anh nói hết câu đã cất giọng trịnh trọng.

    - Tôi nghĩ sô cô la nóng là chất tệ nhất để đổ lên các thiết bị tin học.

    Matthew thở dài. Anh không đến đây để nghe người ta lên mặt dạy đời.

    - Được rồi, ông có thể giúp được không?

    - Phải xem đã. Nếu bo mạch chủ chưa hỏng, thì theo tôi vẫn phải thay ít nhất là vỏ bàn phím. Nhưng cứ nhìn cái giá cậu sẽ phải trả, tôi thắc mắc liệu có nên làm vậy không. Máy tính của cậu cũng không phải loại đời mới.

    Đôi mắt ông ta khuất phân nửa đằng sau cặp kính nhỏ hình tròn gọng kim loại.

    - Nó có giá trị tình cảm rất lớn. Ông có thể mở nó ra được không?

    - Tôi sắp làm vậy đây. Tôi chuẩn bị cho cậu một bảng giá vào tuần tới nhé?

    - Tuần tới ư? Không thể nào! Tôi cần chiếc máy tính ngay hôm nay.

    - Ra thế, vậy thì khó đấy sếp.

    - Bao nhiêu?

    - …?

    - Bao nhiêu để ông bắt tay vào sửa ngay lập tức?

    - Cậu nghĩ tiền có thể mua được tất cả hay sao, sếp? Cậu nghĩ tiền trong túi mang lại cho cậu mọi thứ quyền năng hả?

    - Thôi ngay cái kiểu tự coi mình là Che Guevara đi và đừng gọi tôi là sếp nữa.

    Chủ tiệm nghĩ một lúc rồi cuối cùng đề xuất:

    - Nếu cậu sẵn sàng trả năm tờ Benjamin 1, chúng ta có thể tiếp tục bàn bạc. Nói cho cùng, đó là vấn đề của cậu…

    - Được lắm. Tôi sẽ đưa ông số tiền đó, nhưng hãy bắt tay vào việc thôi. Ngay bây giờ.

    Ông già dùng tua nơ vít tháo khung nhôm ra rồi bắt đầu lau chùi các vi mạch bằng dung dịch cồn hữu cơ, cẩn thận loại bỏ toàn bộ dấu vết của món sô cô la sữa, chú ý không làm đứt những mối nối điện tử.

    - Bằng mọi giá cần phải tránh, khi bật lại được máy, hơi nóng không biến đường trong sô cô la thành caramel, - ông ta lẩm bẩm giải thích qua bộ râu.

    Khi công việc này kết thúc, ông ta cắm một chiếc đèn sưởi cũ có trang bị bộ phản chiếu bằng đồng.

    - Để hong khô các linh kiện thì chẳng có gì tốt hơn thứ này.

    - Cần phải chờ trong bao lâu? - Matthew nôn nóng hỏi.

    - Kiên nhẫn là đức tính quan trọng đấy sếp. Đi kiếm món tiền kia cho tôi, bốn mươi lăm phút nữa hẵng quay lại. Có vẻ như ổ cứng vẫn không hề hấn gì. Chỉ cần chi thêm 200 đô, tôi có thể copy ra để ít nhất anh cũng lưu lại được các dữ liệu trong máy.

    Người đàn ông này đang trục lợi một cách đáng hổ thẹn, nhưng Matthew thậm chí không tìm cách mặc cả, tự an ủi rằng sinh mạng vợ anh từ nay trở đi sẽ phụ thuộc vào những thao tác của lão đần thiếu chu đáo này.

    - OK, hẹn lát nữa gặp lại.

    Anh bước ra phố, dừng lại ở cây rút tiền gặp đầu tiên để rút 700 đô và tiến vài bước tới một trong vô số những quán cà phê thuộc quảng trường Harvard. Anh ủ rũ ngồi phịch xuống một cái ghế.

    Giờ anh sắp phải trải qua chuyện gì? Ngay cả khi chiếc laptop khởi động lại được thì cũng không gì đảm bảo với Matthew rằng anh có thể tiếp tục liên lạc với Emma. Cuộc hội thoại xuyên thời gian của họ chỉ neo bám vào một sợi dây duy nhất, mong manh, phi lý, gần như ảo diệu… nhưng nó có thể tiêu tan trong món sô cô la nóng! Anh nhớ lại bức mail gần nhất của Emma. Những câu cuối cùng đã ghi khắc trong ký ức anh:

    Tôi đã lưỡng lự rất nhiều trước khi gửi cho anh đoạn phim ngắn được đính kèm theo thư này. Tôi hi vọng nó không quá động chạm đến anh. Xin hãy tha thứ cho tôi vì đã xen vào cuộc sống riêng của anh, nhưng anh có biết người đàn ông ngồi cùng vợ mình là ai không?

    Giọng điệu đó khiến anh phát bực. Ý của cô ta là sao? Là Kate lừa dối anh hay sao? Là đoạn phim đính kèm sẽ hủy hoại thanh danh cô ấy? Không, không thể có chuyện đó được. Anh chưa bao giờ nghi ngờ tình yêu vợ dành cho mình và chưa từng có điều gì khiến lòng tin ấy rạn nứt, kể cả trước hay sau khi Kate qua đời.

    Matthew uống một ngụm cà phê rồi thử lý giải đối án kia.

    Có lẽ đời sống tình dục của họ hơi nhàm chán hơn so với buổi đầu của mối quan hệ. Cô đã từng hừng hực, rồi Emily ra đời quá sớm. Nhưng mọi chuyện lại tiếp diễn kia mà. Có thể không mãnh liệt bằng lúc đầu, nhưng đó không phải là số phận chung của phần lớn các cặp vợ chồng hay sao?

    Anh tiếp tục khiến bản thân mình đau. Thế nếu Kate có tình nhân thì sao? Anh lắc đầu. Giá thử có muốn cặp kè thì cô cũng chẳng lấy đây ra thời gian! Kate làm việc cả ngày lẫn đêm, lúc nào cũng thấy cô làm việc. Thời gian biểu khủng khiếp tại bệnh viện mà cô còn kéo dài thêm bằng việc đọc tài liệu và viết những bài báo cũng như sách chuyên ngành. Chút ít thời gian rảnh rỗi thì cô đã dành cả cho anh và Emily.

    Anh gãi cằm vẻ suy tư. Sau khi vợ mất, anh đã bỏ hết quần áo của vợ. Một chiếc xe tải của đội Cứu tế đã mang tất cả đồ đạc cá nhân của cô đi mà anh không hề phân loại để khỏi phải chuốc thêm nỗi đau. Vì không thể tránh khỏi, anh đã sắp xếp lại giấy tờ của Kate sau khi cô qua đời. Về mặt tài chính, hai vợ chồng họ có một tài khoản chung và anh không nhận thấy bất kỳ khoản chi tiêu nào bất thường. Cũng không có gì đáng nghi trong các tài liệu lưu ở máy tính của cô. Điều duy nhất khiến anh sửng sốt là chỗ thuốc chống trầm cảm tìm thấy trong phòng tắm của cô. Tại sao Kate chưa từng nói chuyện đó với anh? Anh vẫn đổ lỗi chuyện đó cho lịch làm việc quá tải. Lẽ ra anh nên tìm hiểu thêm…

    ° ° °

    - Cậu có tiền chưa sếp?

    Matthew chìa bảy tờ mệnh giá 100 đô cho lão già hippie, lão nhét ngay vào túi quần jean.

    - Suôn sẻ chứ? - Anh hỏi, chỉ vào những linh kiện đang tiếp tục khô đi dưới bộ phản chiếu của đèn sưởi.

    - Ừ, có thể lắp lại toàn bộ rồi, - vừa nói ông ta vừa tiến hành lắp máy.

    Công việc kéo dài thêm hơn mười lăm phút nữa, sau đó chủ tiệm cất giọng trịnh trọng:

    - Giờ là thời điểm cầu Trời khấn Phật cho mọi chuyện ngon nghẻ đây, sếp.

    Ông ta nhấn nút khởi động và phép màu đã xảy ra. Chiếc laptop khởi động, kêu ro ro rồi mời nhập mật khẩu.

    Tạ ơn Chúa!

    Bàn phím cảm ứng chạy mượt mà. Matthew nhẹ nhõm gõ mật khẩu được hệ thống xác nhận.

    - Cậu là số đỏ lắm đấy nhé! - Lão già hippie thốt lên.

    Matthew lờ nhận xét ấy đi. Anh mở một tệp tài liệu, rồi một ứng dụng. Anh chuẩn bị kết nối với Internet thì màn hình bỗng đơ ra rồi đen kịt.

    Chẳng còn gì nữa.

    Anh cố thử bật lại.

    Vô ích.

    - Cháy máy rồi, - chủ tiệm khẳng định. - Mọi chuyện suôn sẻ đến khó tin.

    - Nhưng hẳn phải có cách gì đó chứ. Thay linh kiện chẳng hạn…

    - Chuyện đó không liên quan gì đến tôi nhé sếp. Máy tính của cậu ngỏm củ tỏi rồi. Đời là thế mà.

    Ông ta đưa cho anh một ổ cứng ngoài.

    - Tôi đã copy từ máy tính của cậu tất cả những gì có thể lấy lại được đây. Đó mới là điều cốt lõi phải không?

    Không.

    Đó không phải điều cốt lõi…

    --------------------------------
    1 Tờ tiền mệnh giá 100 đô. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:50 PM.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    14. Ekaterina Svatkovski
    Bạn không thể nhòm ngó vợ hàng xóm
    - Thiên di, 20.17


    Boston, 2010

    11 giờ sáng

    Mây giăng kín bầu trời với tốc độ đáng kinh ngạc. Vầng mặt trời chói lọi của buổi sớm mai đã nhường chỗ cho một màn ánh xà cừ dày đặc và chẳng mấy chốc những bông tuyết đầu tiên đã rơi xuống. Hiện tại, một màn tuyết mỏng và rơi mau đang quay cuồng trên những con phố khu South End.

    Emma gạt những bông tuyết bám trên tóc cô rồi thắt lại khăn cho chặt. Cô đi lang thang đã được chừng hai mươi phút. Sau khi rời khỏi ngôi nhà của gia đình Shapiro, cô quay lại khách sạn nhưng phòng cô còn chưa dọn xong. Vậy nên cô quyết định dạo vài bước để có thể suy nghĩ trong không gian thoáng đãng. Rủi thay, cái lạnh buốt giá đến mức cô có cảm giác nó khiến trí não cô tê liệt.

    Cô đi tới góc quảng trường Copley giao với phố Boylston, nơi mọc lên tòa nhà tôn nghiêm của thư viện thành phố. Không ngần ngại, cô bước lên những bậc thềm rồi tiến vào một đại sảnh được trang hoàng tráng lệ bằng những bức tượng và bích họa.

    Ta cứ ngỡ vừa lọt vào một cung điện Ý thời Phục hưng. Cô bước vài bước vô định, vượt qua quầy lễ tân và quầy vé – đang bán vé vào cửa một triễn lãm đương đại – để tiến vào một khoảng sân trong nhỏ giống với hành lang một tu viện. Làm theo chỉ dẫn của một người gác cổng, cô bước qua cổng an ninh rồi lên cầu thang lớn bằng đá hoa cương dẫn tới phòng đọc.

    Đại sảnh Bates là một căn phòng rộng thênh thang với chiều dài ngót bảy mươi mét bên dưới trần hình vòm cuốn. Mỗi bên kê một dãy vài chục bàn gỗ sẫm màu trang bị đèn đồng thau chụp thủy tinh trắng sữa.

    Emma ngồi cuối phòng để tranh thủ ánh sáng tự nhiên. Cô rút điện thoại và laptop rồi bắt tay vào việc, cố gắng phân tích kĩ lưỡng mọi “tang chứng” cô đã thu thập được trong chuyến thám hiểm.

    Điều đầu tiên khiến cô tò mò: gốc gác Nga của Kate hay nói đúng hơn là của người phụ nữ Mỹ hóa cái tên của mình, nhưng tên thật thực ra lại là Ekaterina Lyudmila Svatkovski.

    Sinh ngày 6 tháng Năm 1975 tại Saint-Pétersburg (Nga).

    Cô xem những bức ảnh chụp Kate thời thơ ấu. Lúc chừng sáu hoặc bảy tuổi, Kate đứng tạo dáng gần một nghệ sĩ dương cầm – hẳn là mẹ cô – trong những phòng hòa nhạc hoặc phòng diễn tập. Sau đó, có loạt ảnh chụp ngoại cảnh hai người phụ nữ, trên đó đôi khi thấy xuất hiện những tháp chuông hình vòm bát úp đặc trưng cho kiến trúc Chính giáo. Tiếp theo, khoảng mười một mười hai tuổi, cảnh trí có sự thay đổi. Tiếp nối cảnh đơn sắc màu ghi xám của Venice vùng Bắc Âu là cảnh đơn sắc của thành phố màu ngọc lục bảo. Emma thầm lặp lại hành trình này trong tâm trí: cuộc lưu vong từ Saint-Pétersburg tới Seattle.

    Mắt nhìn vô định, Emma xoa cằm rồi gõ vào mục tìm kiếm Google: “Svatkovski + nghệ sĩ dương cầm”. Mẹ của Kate có hẳn một trang riêng trên Wikipedia. Cô tò mò đọc lướt qua.

    Anna Irina Svatkovski (12 tháng Hai 1945 tại Saint-Pétersburg – 23 tháng Ba 1990 tại Seattle) là một nữ nghệ sĩ dương cầm người Nga. Bà qua đời do biến chứng liên quan tới xơ cứng rải rác.

    Vốn là thần đồng dương cầm, bà học tại nhạc viện Rimsky – Korsakov thuộc Saint-Pétersburg, được thụ hướng sự chỉ dẫn của nhiều bậc kỳ cựu trong Học viện.

    Bà khởi nghiệp solo ở tuồi mười sáu với bản concerto đầu tiên của Rachmaninow biểu diễn cùng dàn nhạc giao hưởng Saint-Pétersburg. Sau đó bà được mời tham dự nhiều festival và biểu diễn tại nhiều khán phòng danh giá như Philharmonie ở Berlin hay Carmegia Hall ở New York. Bà thu âm cho hãng Deutsche Grammophon bản ghi đầu tiên: bản Sonat cung Si thứ của Franz Liszt. Đĩa này vẫn được coi như một bản thu âm tham khảo không thể thiếu khi nhắc đến nhạc phẩm.

    Khi sự nghiệp của bà đang thời kỳ đỉnh cao thì vào năm 1976 số phận bà đã có bước chao đảo: cơn kịch phát của chứng xơ cứng rải rác khởi phát khi bà vừa sinh con gái. Những biến chứng của căn bệnh đã buộc bà gạt sang cuộc sống của nghệ sĩ hòa tấu. Đầu những năm 1980, bà sang Mỹ để chạy chữa, nhưng đến năm 1990 thì qua đời sau khi đã trải qua những năm tháng cuối đời khốn khó.

    Emma đã hình dung ra tuổi thơ và buổi đầu tuổi niên thiếu của Kate . Một cuộc sống khó khăn trong một đất nước xa lạ, mặc cảm tội lỗi vì tin rằng mình phải chịu trách nhiệm về căn bệnh của mẹ, rồi chấn thương tâm lý sau cái chết của mẹ hẳn đã khiến cô gái trẻ Kate chọn nghề bác sĩ. Cô xòe ngón tay ra mà tính. Nếu mẹ Kate mất vào năm 1990 thì khi ấy Kate mới chỉ mười bốn, mười lăm tuổi. Ai đã nuôi dạy Kate kể từ thời điểm đó? Người bố chăng? Có lẽ, nhưng chẳng có bức ảnh hay chỉ dẫn nào nhắc tới sự tồn tại của ông ta.

    Những bức ảnh tiếp theo đã hạnh phúc hơn. Trong đó người ta thấy Kate tại trường đại học Berkeley danh giá, thường là cùng một cô gái, một sinh viên gốc Ấn. Phải chăng là cô nàng Joyce Wilkinson kia ? Emma tự hỏi khi nghĩ tới câu hỏi cuối cùng trong loạt “câu hỏi bí ẩn” của công ty giám sát. Có điều gì đó khang khác kích thích cô: trên bức ảnh này, rõ ràng là tuổi Kate đã quãng mười tám đôi mươi, nhưng đường nét gương mặt cô không giống hệt như bây giờ. Emma chuyển ảnh ra laptop để so sánh chúng với những bức ảnh chụp gần hiện tại hơn trên màn hình lớn. Rõ ràng là có sự thay đổi nhưng không phải dễ nhận ra: gò má cao hơn, khuôn mặt cân xứng hơn. Cô gái chắc chắn đã qua tay bác sĩ phẩu thuật thẫm mỹ. Nhưng vì lý do gì nhỉ ? Tại sao lại muốn trở nên “hoàn hảo hơn” trong khi người ta đã đẹp sẵn?

    Có thể là một tai nạn đòi hỏi phẫu thuật phục hồi?

    Cô để mặc câu hỏi lơ lửng mà không thể tìm ra câu trả lời, rồi để ý bức ảnh mê hoặc mà cô đã tải về màn hình laptop. Nhiều tuổi hơn những bức ảnh trước đó chút ít, Kate nhìn thẳng vào ống kính với vẻ thách thức. Hai bàn tay đan lại trên ngực và không che bụng cũng chẳng che vẻ nữ tính chớm hình thành. Bức ảnh toát ra một vẻ khiêu gợi khiến người ta bối rối.

    Có thể bật ngón tay là sở hữu bất cứ người đàn ông nào thì phỏng có ích gì chứ ? Emma hỏi như thể đang trò chuyện cùng Kate. Phải chăng cuộc sống sẽ dễ dàng hơn? Phải chăng ta đã nếm cùng những nỗi đau khổ với người trần mắt thịt?

    Không còn nghi ngờ gì nữa, nếu nhìn vào những thứ thuốc cô tìm thấy trong tủ thuốc…

    Cô nhướng mày rồi ghé sát mặt vào màn hình sau khi đã phóng to bức ảnh. Vào thời đó, Kate có một hình xăm tại cẳng trên tay trái. Một dấu hiệu mà người ta không nhìn thấy trên bất kỳ bức ảnh nào khác. Đó là một hình xăm tạm cô đã xóa đi? Không thể nói chắc được. Ngược lại, Emma có lẽ đã đoán ra được nguyên do. Cô dùng chuột cảm ứng tách riêng vùng ra xăm để bo lại khung rồi phóng to hơn nữa. Một khuôn mặt ngựa với chiếc sừng xoắn hiện ra trên màn hình.

    Một con kỳ lân…

    Cô copy lại hình xăm mà không biết chi tiết này có tiết lộ giai thoại gì hoặc có thực sự quan trọng hay không. Rồi cô ngẩng lên khỏi màn hình laptop và day day mí mắt. Qua cửa sổ thư viện, cô nhận thấy tuyết đã rơi mỗi lúc một mau thêm. Cảnh tượng này khiến cô rùng mình. Tuy thế, ở đây vẫn dễ chịu. Hệ thống sưởi chạy ro ro. Nơi này khiến người ta yên tâm, thuận lợi cho việc suy nghĩ, gần như nồng hậu và tâm tình, bất chấp vẻ đồ sộ của nó, như thể một lạc bộ cổ của Anh đã hình thành tổng hành dinh của mình trong một nhà thờ. Emma níu lấy những yếu tố khiến cô yên tâm: hàng nghìn cuốn sách để san sát trên những tầng giá, tiếng lật trang sách loạt soạt, tiếng ngòi bút cào trên mặt giấy, tiếng gõ bàn phím máy tính.

    Cô bỗng cần cảm thấy mình được che chở. Bởi khi phát hiện ra chiếc túi du lịch màu đỏ giấu trên lớp trần giả trong ngôi nhà của gia đình Shapiro, cô ý thức được rằng mình đã nhìn thấy điều không bao giờ nên thấy. Điều gì đó ẩn chứa nguy hiểm tiềm tàng.

    Cô nhắm mắt rồi thẩm hồi tưởng cảnh tượng. Khi mở dây khóa kéo ra, cô đã nhìn thấy hàng chục tệp tiền 100 đô. Cô làm một phép tính nhẩm. Chiếc túi thể thao nặng ít nhất năm cân. Một tờ tiền mệnh giá 100 đô thì nặng chừng nào nhỉ? Khoảng một gam chăng? Vậy thì chiếc túi phải đựng tới gần 500,000 đô…

    Nửa triệu đô…

    Loại người nào sở hữu nửa triệu đô la giấu trên lớp trần giả của phòng để quần áo? Cô thắc mắc trong lúc ngắm nhìn bức ảnh chụp Kate với đôi mắt dường như nhìn thấu cô.

    Thực ra cô là ai hả Kate Shapiro?

    Thực ra cô là ai hả Ekaterina Lyudmila Svatkovski?

    ° ° °

    Emma thu dọn đồ đạc. Cô chuẩn bị cất laptop vào túi xách thì bỗng nhớ ra mình còn chưa xem những bức ảnh do Matthew lưu trong máy tính để bàn tại nhà. Cô cắm ổ usb để xem thử. Quá trình sao lưu bị gián đoạn vì vợ chồng Matthew về nhà đúng lúc đó, nhưng dù sao cô cũng đã cóp được vài trăm bức ảnh. Cô xem lướt theo trình tự thời gian từ gần ra xa: những cảnh sinh hoạt thường nhật phác nên bức tranh gia đình hạnh phúc kết nối xung quanh cô nhóc Emily. Emma tăng tốc độ xem để lần lại quá khứ xa xôi hơn: trước khi cô bé Emily chào đời, thậm chí trước cả đám cưới của Matthew và Kate. Và điều phát hiện được khiến cô sững sờ: Matthew đã từng kết hôn trước khi gặp Kate! Trên vài chục bức ảnh xuất hiện người phụ nữ nhỏ nhắn tóc nâu, mảnh dẻ, mái tóc dài thường xuyên tết lại thành bím. Ngay cả trên ảnh, chị ta cũng hiếm khi mỉm cười. Khuôn mặt chị ta góc cạnh, thường xuyên đóng khung trong một kiểu dáng khô khan khiến Emma nghĩ đến một nữ trí thức, một giáo viên tiểu học kiểu cũ hoặc một thủ thư miền tỉnh lẻ.

    Cô lướt qua nhanh các bức ảnh cho đến khi bắt gặp những bức ảnh chụp hôm đám cưới họ. Chúng đã được chụp cách đây lâu lắm rồi. Thậm chí không phải là ảnh kĩ thuật số mà là những bức ảnh chụp phim rồi scan lại. Trên một tấm, người ta nhìn thấy món tráng miệng khổng lồ được chuẩn bị cho hôn lễ: một chiếc bánh ga tô nhiều tầng, màu hồng kết hợp với trắng, ngồn ngộn kem. Một dòng chữ trên ô vuông bằng bột hạnh nhận ghi rõ:

    Sarah + Matt

    20 tháng Ba 1996

    Nhờ có Internet, Emma lần ra được dấu vết của một “Sarah Shapiro” nào đó trong báo cáo trực tuyến về chuyến tham quan của học sinh lớp bốn thuộc trường tiểu học Roxbury. Tài liệu được đăng tải cách đây sáu năm, nhưng Emma vẫn thử gọi đến ngôi trường tiểu học đó xem sao. Mặc dù đang kỳ nghỉ nhưng phòng giáo vụ vẫn trả lời cuộc gọi của cô. Sarah Shapiro đã từng giảng dạy tại trường. Kể từ sau khi ly dị chồng, chị ta đã lấy lại họ thời con gái – Higgins – và yêu cầu được chuyển sang một trường khác. Họ cho Emma tên một ngôi trường khác. Lại một phòng giáo vụ khác. Không chỉ đúng là Sarah Higgins đang giảng dạy tại đó, mà thêm nữa, trường tiểu học vẫn tiếp tục chào đón các học sinh có hoàn cảnh khó khăn trong kỳ nghỉ Giáng sinh. Ngay lúc này, Sarah đang giám sát một chuyến tham quan của trường tiểu học tới sân trượt băng thành phố Wattapan.

    ° ° °

    Boston, 2011

    11 giờ 15

    Matthew trở về nhà với vẻ bơ phờ vì lo lắng. Anh mở cửa ra và phát hiện một mẩu giấy nhắn được ghim trên tấm bảng gỗ bần:

    Con và cô dạo một vòng quanh chợ Giáng sinh trên phố Marlborough. Nếu bố ngoan, con và cô sẽ mang về tặng bố một chai rượu táo!

    Hôn bố.

    Emily + April.

    Clovis, chú chó Shar-pei, tới dụi dụi mõm vào chân anh. Matthew xoa xoa đầu chú vẻ nghĩ ngợi. Chú chó đã làm đổ bát đựng nước; anh vừa lấy đầy bát nước cho chú ta vừa suy ngẫm. Vậy là chiếc laptop đã hỏng hẳn, nhưng anh vẫn có thể sử dụng máy tính để bàn cũ kĩ tại nhà để đọc nội dung ổ cứng. Anh bèn ngồi vào chiếc bàn nhỏ được dát gỗ trang trí nơi đặt chiếc máy tính của gia đình. Anh cắm thiết bị ngoại vi mà lão già hippie đưa cho ban nãy và bắt đầu tìm kiếm. Thiết bị hỗ trợ tin học đó gần như trống, anh không mất nhiều thời gian đã thấy file video (IMG_5662.MOV) cần tìm.

    Anh cho phát đoạn phim rõ ràng được quay bằng điện thoại di động và ngồi lặng đi như hóa đá suốt ba phút thời lượng. Anh không tin nổi vào mắt mình! Kate đã ngồi tựa vào một người đàn ông mà anh không quen biết. Họ ôm hôn nhau, vuốt ve nhau, trao nhau những ánh mắt đắm đuối của lũ nhãi ranh.

    - KHÔNG!

    Anh vớ lấy thứ gần nhất trong tầm tay – một chiếc cốc sứ cắm bút chì - rồi thẳng tay ném vào tường. Chiếc cốc vỡ tan khiến Clovis sợ hãi nấp dưới chiếc bàn thấp. Matthew nhắm mắt, hai tay bưng mặt và lả đi hồi lâu. Trống rỗng.

    Không thể nào…

    Anh ngẩng đầu lên. Phải có cách lý giải. Ngay cả những hình ảnh rõ ràng nhất đôi khi vẫn có thể mang một ý nghĩa ẩn khuất nào đó. Trước hết là đoạn phim này được ghi lại từ bao giờ? Trong mail, Emma nói rằng cô vừa quay xong. Vậy thì đoạn phim được ghi lại vào buổi sáng ngày 23 tháng Mười hai năm 2010, tức là chưa đầy một ngày trước khi xảy ra vụ tai nạn dẫn tới cái chết của Kate. Sau đó là địa điểm. Những tấm gỗ lát nhắc anh nhớ tới quán Grill 23 hoặc McKinty’s nơi thỉnh thoảng họ ghé qua, nhưng nhìn kĩ hơn, tấm gương và chiếc đồng hồ treo tường không khớp với hai địa chỉ trên. Gã đàn ông: cao lớn, tóc vàng cắt ngắn, măng tô da màu đen. Anh có biết hắn không nhỉ? Có lẽ, nhưng anh không thể gắn cho khuôn mặt hắn một cái tên. Cuối cùng là cử chỉ của họ, điều khiến anh khó lòng chịu đựng nổi nhất. Sự tâm đầu ý hợp giữa họ quá hiển nhiên, hơi thở họ quyện vào nhau, hai trái tim họ run cùng nhịp đập. Mối quan hệ này kéo dài được bao lâu rồi nhỉ? Làm sao anh có thể không hề ngờ đến chuyện này?

    Anh siết chặt nắm đấm, để mặc cho cơn giận dữ và nỗi thất vọng lớn lao xâm chiếm. Kate, tình yêu của đời anh, đã phản bội anh, còn anh thì mãi đến giờ mới biết được điều đó, một năm sau cái chết của cô! Cảm giác bị phản bội nhường chỗ cho nỗi ghê tởm. Vẫn đang sốc, anh lê bước ra hiên nhà rồi mở rộng ô cửa kính. Anh cần không khí trong lành, như một tay thợ lặn đã ngưng thở quá lâu. Anh thở dốc, hai chân bủn rủn, anh liền ngồi phịch xuống một chiếc ghế kê ngoài vườn. Cơ thể anh rung lên bởi những tràng nức nở, những giọt nước mắt lăn dài trên má mà anh không thể ngăn được. Miệng anh trào lên vị chua chát.

    Bỗng từ phòng khách vang lên tiếng reo.

    - Bố ơi bố ơi, con và cô đã mua cho bố rượu táo với bánh gừng này! - Emily reo lên trong lúc lao ra sân hiên.

    Con bé lao vào vòng tay anh, anh liền vùi khuôn mặt xinh xắn của con gái vào hõm cổ mình, tranh thủ dùng tay áo lâu sạch nước mắt.

    April nhận ra nỗi buồn của anh nên nhìn anh dò hỏi.

    - Anh-sẽ-kể-với-em-sau, - anh dằn từng từ không thành tiếng để cô có thể đọc được từ môi anh.

    - Bố đã sửa được máy tính chưa ạ?

    Anh lắc đầu.

    - Chưa con ạ, nhưng chuyện không có gì nghiêm trọng.

    - Con xin lỗi, - cô nhóc nói, đôi mắt cụp xuống buồn bã.

    - Những chuyện như vậy có thể xảy ra mà, con yêu. Mọi người ai cũng mắc sai lầm. Đó là bài học để lần sau con không tái phạm nữa.

    - Chuyện đó thì chắc chắn rồi ạ! - Cô nhóc đáp, ngước khuôn mặt xinh xắn về phía mặt trời.

    Như thường lệ, sự tiếp xúc với ánh sáng tràn ngập lại khiến cô nhóc muốn hắt hơi.

    - Cơm muối nhé, bé con.

    - Con có còn là bé con nữa đâu!

    Cái hắt hơi này…

    Matthew nheo mắt, rồi sừng người, bị đóng đinh tại chỗ bởi một ký ức bị kìm nén vừa bùng nổ ngay trước mắt như một quả lựu đạn.

    ° ° °

    Sáu tháng trước, ngày 4 tháng Bảy năm 2011, ngày Quốc khánh, anh đã nhận lời mời của Rachel Smith, một đồng nghiệp tại Harvard tới dự một bữa tiệc nướng tổ chức tại ngôi nhà nghỉ nông thôn của Cap Cod: một ngọn hải đăng cũ nép trên một eo biển lởm chởm đá, đại dương trải dài hút tầm mắt. Trong khi cánh đàn ông lo nướng thịt, cánh phụ nữ chuyện phiếm gần bờ nước, còn lũ trẻ chơi trong ngọn hải đăng, được một cô giữ trẻ của gia đình để mắt trông nom.

    - Ai muốn ăn gà nướng đây? Ai muốn ăn xúc xích nóng hổi nào? - David Smith hô lên trống không, một anh chàng dễ mến, lúc nào cũng điềm tĩnh, là bác sĩ đa khoa tại Charlestown.

    Bỗng có bốn đứa nhóc chạy ra khỏi chỗ nấp để lao về phía đồ ăn. Đó là một ngày hè tuyệt đẹp. Nắng chói chang. Vừa ra tới chỗ có nắng, Emily đưa tay che miệng rồi hắt hơi hai cái liền.

    - Mỗi lần con bé di chuyển từ chỗ bóng râm ra nơi có nắng là lại hắt hơi vậy đó, - Matthew nhận xét. - Thật kỳ lạ phải không?

    - Anh đừng lo, - David bảo anh. - Đó là một hiện tượng thường thấy: cứ bốn người lại có một người bị hắt hơi khi ra chỗ có nắng mà. Đó là một đặc điểm di truyền không có hại gì. Trong ngành y, người ta gọi đó là phản xạ ảnh hắt hơi.

    - Anh giải thích phản xạ đó như thế nào?

    Bác sĩ khua cái nĩa dài nướng bít tết như thể đang đứng trước bảng đen.

    - Được rồi, anh có nhìn thấy các dây thần kinh thị giác không? Chúng ở gần một dây thần kinh đại não: dây thần kinh sinh ba kiểm soát độ nhạy của toàn bộ khuôn mặt. Thí dụ chính nó cho phép sản xuất nước mắt và nước bọt cũng như các biểu cảm của gương mặt. Và chính dây thần kinh này phát động những cú hắt hơi.

    - Nhất trí, - Matthew gật đầu.

    David tiếp tục, chỉ lên mặt trời.

    - Khi một luồng sáng mạnh chiếu vào, ở một vài người xuất hiện dạng giao thoa giữa hai dây thần kinh này: độ sáng kích thích dây thần kinh thị giác khiến nó “chạm mạch” dây thần kinh sinh ba và gây hắt hơi.

    - Giống như hai dây điện?

    - Anh hiểu đúng rồi đấy, bạn thân mến.

    - Anh dám chắc chuyện không nghiêm trọng chứ?

    - Chắc chứ! Đó chỉ là một dị tật bẩm sinh nhỏ ở mức độ thần kinh não bộ thôi mà. Vả lại, hẳn là anh cũng gặp phải vấn đề đó chứ?

    - Không hề, tôi chưa bao giờ gặp phải triệu chứng đó.

    - Vậy thì nhất định là Kate phải có, chắc chắn là vậy.

    - Tại sao?

    - Bởi vì người ta gọi đó là di truyền tính trội.

    - Nghĩa là sao?

    - Nghĩa là tất cả những người gặp phải bất thường này đều phải có ít nhất hoặc bố hoặc mẹ đã mắc trước. Từ đó suy ra, nếu anh không mắc, bắt buộc Kate phải mắc. Này, lật miếng bít tết của anh đi kẻo cháy bây giờ.

    Matthew gật đầu rồi lảng ra chỗ khác một lát. Vẽ nghĩ ngợi. Suốt bốn năm qua, anh chưa bao giờ thấy Kate bị hắt hơi khi ra ngoài chỗ sáng…

    - Bố ơi, nhìn miếng xúc xích to đùng của con này! - Emily vừa reo lên vừa lao vào vòng tay anh, trong đà lao tới đã làm bắn một tia sốt cà lên áo sơ mi của bố. Ôi…

    - Không sao đâu con, nhưng con phải chú ý nhé, con đang hoạt động nhanh quá đấy.

    Anh vừa chùi vệt xốt cà trên áo vừa nhớ lại những gì vị bác sĩ vừa kể. Rồi anh chọn cách không thắc mắc chuyện đó nữa và đẩy nó vào một vùng ký ức xa xăm.

    ° ° °

    Giờ thì cảnh tượng ấy đột ngột hiện ra trong tâm trí anh.

    Quay về với thực tại. Quay trở về với cơn giận. Với nỗi chán ngán rã rời. Nhất là nỗi đau khổ. Một nỗi nghi hoặc tàn bạo hình thành trong anh. Thế nếu Emily không phải con anh? Anh lần hồi trong ký ức. Anh gặp Kate vào tháng Mười năm 2006. Theo những gì cô kể, Emily được thụ thai ngày 29 tháng Mười. Tám tháng sau con bé chào đời, ngày Hạ chí 21 tháng Sáu. Trẻ sinh non một tháng là chuyện thường gặp. Chỉ trừ chuyện Emily không có vẻ gì của một bé sơ sinh thiếu tháng: lúc sinh ra đã nặng 3,4kg, dài 52cm, con bé không phải giữ lại lâu ở bệnh viện để theo dõi. Nhưng lúc bấy giờ thì đang vui mừng vì được làm cha, anh không hề phiền lòng với những “chi tiết” này.

    - Bố không sao chứ ạ? Bố có muốn nếm thử món bánh gừng không?

    Câu hỏi của Emily không hoàn toàn kéo anh ra khỏi dòng suy tư.

    - Để sau đi con, - anh lẩm bẩm.

    Anh quay sang April thông báo mà không hề giải thích:

    - Anh phải đi mua thứ này.

    ° ° °

    Boston, 2010

    12 giờ 30

    Chiếc taxi thả Emma xuống phố Somerset thuộc trung tâm Wattapan. Nằm ở cực Nam của Boston, khu phố này không phải là nơi được các cẩm nang du lịch dành cho nhiều trang viết. Vì đang có tuyết rơi nên phố xá hầu như vắng tanh. Emma không cảm thấy nguy hiểm, nhưng cảnh trí cũng không thuộc loại sáng loáng nhất: những tòa nhà thấp xây bằng gạch đang chờ được tu sửa, những nhà kho, những ngôi nhà lợp mái tôn, những bức tường chi chít hình vẽ graffiti cùng những hàng giậu bao quanh những khu đất trống.

    Trên đường ngược lên đại lộ để tìm sân trượt băng, cô gặp một nhóm người vô gia cư đang chiếm dụng vỉa hè để sưởi ấm quanh một bếp lò, vừa thả xuống những lon bia giấu trong túi giấy bồi. Những tiếng chửi rủa nồng nặc mùi rượu loang ra trên lối cô đi, nhưng thế vẫn chưa đủ để hăm dọa cô hoặc khiến cô bỏ cuộc.

    Rốt cuộc, cô cũng tới trước tòa nhà có sân trượt băng của thành phố. Một nhà kho lớn bằng kim loại với mặt tiền “được sơn lại” bằng những bức tranh nề của lũ nhóc lêu lổng trong khu phố. Emma bước vào bên trong. Cô mua một vé để có thể vào phòng trượt, rồi xuống thẳng các bậc thang mà không qua phòng gửi đồ.

    Tiếng trẻ em reo hò vang lên ầm ĩ từ sân trượt. Trên mặt băng, môt nửa diện tích sân được dành cho một học sinh tầm sáu, bảy tuổi đang theo học khóa nhập môn hockey do một thầy giáo trẻ hướng dẫn. Hai cô giáo tiểu học theo sát, đỡ những nhóc tì bị ngã, cố định lưỡi trượt, chỉnh mũ bảo hiểm hoặc miếng che ống chân cho chúng.

    Emma lại gần mép sân trượt. Giữa hai cô giáo phụ trách, cô nhận ra ngay Sarah Higgins. Cô ta đã cắt tóc rất ngắn và sụt đi vài cân. Mặc quần jean, áo len sợi thô, dễ nhận thấy cô ta đã hơi già đi so với ảnh.

    - Bà Shapiro phải không?

    Cô ta quay phắt lại như có điện giật và nhìn Emma trân trối. Đã bao lâu rồi người ta không còn gọi cô ta như thế nữa?

    - Cô là ai? - Cô giáo tiểu học vừa hỏi vừa trượt lại gần mép sân.

    - Một người bạn của Matthew. Tôi nghĩ Matthew gặp phiền phức và tôi muốn giúp anh ấy.

    - Chuyện đó chẳng hề can hệ gì tới tôi.

    - Chị cho tôi xin năm phút được không?

    - Không phải lúc này. Cô cũng thấy rồi đó, tôi đang làm việc.

    - Chuyện thực sự quan trọng, - Emma cố nài.

    Sarah thở dài nhẫn nhịn.

    - Trên kia có một nơi giống như bar. Cô cứ lên đó đợi trước. Khoảng mười lắm phút nữa tôi sẽ lên đó gặp cô.

    ° ° °

    Hai mươi phút sau

    - Tôi đã kết hôn với Matthew gần mười năm nhưng tôi quen biết anh ấy từ trước đó khá lâu, - Sarah lên tiếng trước khi uống một ngụm trà.

    Ngồi phía đối diện, Emma chăm chú lắng nghe cô trong lúc bồn chồn giằm chiếc ống hút đang dập dềnh trong cốc Coca.

    - Chúng tôi gặp nhau năm 1992 hồi chung đại học Massachusetts. Matt học Triết còn tôi chuyên ngành Khoa học giáo dục.

    - Tiếng sét ái tình chăng?

    - Giống sức hấp dẫn đến từ trí tuệ thì đúng hơn. Chúng tôi đọc sách giống nhau, có cùng suy nghĩ, cùng những ưu tiên chính trị. Vả lại, lần đầu tiên chúng tôi hôn nhau là vào một buổi tối Bill Clinton trúng cử lần đầu. Cả hai chúng tôi đều là tình nguyện viên trong ủy ban hỗ trợ của ông ấy…

    Sarah ngoảnh mặt đi rồi thoáng khép mắt. Toàn bộ chuyện này có vẻ như chưa cách ngày hôm nay bao lâu.

    Emma lại gặng hỏi:

    - Hai người chia tay nhau đã bốn năm rồi, phải vậy không?

    - Hơn bốn năm một chút. Toàn bộ chuyện này thực ra hết sức đột ngột. Hết sức bất ngờ.

    - Hai người đã có một quãng thời gian khó hòa hợp chăng?

    - Thậm chí không có giai đoạn đó. Chúng tôi đang sống yên ổn, chúng tôi vẫn đang hạnh phúc. Ít ra là từ phía mình tôi nhận thấy thế…

    - Matthew không ra đi ngày một ngày hai đấy chứ? - Sarah bật cười kích động.

    - Thực ra đó chính là cách diễn đạt phù hợp đấy. Một buổi tối, anh ta trở về nhà, thú nhận với tôi là đã gặp một phụ nữ, anh ta đã phải lòng cô ta, và anh ta muốn sống cùng với cô nàng đó. Anh ta kiên quyết, tự tin. Anh ta đâu có để cho tôi lựa chọn.

    - Người phụ nữ đó là Kate hả?

    - Dĩ nhiên! Vài ngày trước anh ta đã gặp cô nàng ở bệnh viện. Anh ta bị thương khi dùng kéo tỉa cây để làm vườn và chính cô nàng đã chữa trị cho anh ta. Và trời xui đất khiến thế nào mà hôm đó tôi lại chính là người năn nỉ đưa anh ta đi cấp cứu cơ chứ! Matt bảo đó là vết đứt tay vớ vẩn nên đã không muốn tới bệnh viện…

    Emma không ngăn được mình giục giã Sarah.

    - Chị đã không đấu tranh để giữ Matthew lại sao?

    Sarah nhún vai.

    - Cô đã nhìn thấy người đàn bà đó chưa? Tôi không được trang bị vũ khí nào để chống lại cả. Cô ta trẻ hơn, đẹp hơn, xuất sắc hơn tôi. Vả lại, suốt mấy năm chung sống, chúng tôi đã cố gắng có con với nhau mà không được, vậy nên…

    Giọng Sarah nghẹn lại, nhưng cô vẫn nói tiếp:

    - Matthew là người lãng mạn và có lý tưởng chủ nghĩa. Khi gặp Kate, anh ta tin chắc đã tìm thấy tâm hồn đồng điệu. Và nhìn bề ngoài, cô nàng cũng yêu anh ta. Có lẽ còn hơn cả tôi yêu anh ta. Nói gì thì nói, cô ta cũng biết cách thể hiện cho anh ta thấy điều đó rõ hơn.

    Lúc này, mắt Sarah đã ngân ngấn nước.

    - Trong một khoảng thời gian, tôi từng hi vọng toàn bộ chuyện đó chỉ là ý thích nhất thời thôi, rồi khi biết tin Kate mang thai, tôi hiểu ra rằng mọi chuyện giữa Matt và tôi đã hoàn toàn kết thúc.

    Bỗng nhiên, nhóm trẻ ùa vào quầy bar trong tiếng hò hét ầm ĩ. Sarah nhìn đồng hồ đeo tay rồi đứng dậy:

    - Được rồi, tôi phải đi đây. Tại sao cô lại cho là Matthew đang gặp rắc tối?

    - Tôi… tôi chưa thể nói cho chị biết được. Chị vẫn liên lạc với anh ấy chứ?

    Sarah lắc đầu.

    - Cô đùa hay sao? Những năm qua chẳng khác nào ác mộng và tôi vừa mới tĩnh tâm lại kể từ sau cuộc ly hôn đó. Đã bốn năm nay tôi không nói chuyện với Matthew, và tôi định vẫn sẽ tiếp tục làm vậy.

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:50 PM.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    15. Những vết thương của sự thật
    Những sự thật người ta ít muốn biết nhất lại chính là
    những điều có lợi nhất khi được biết.
    - Ngạn ngữ Trung Hoa


    Boston, 2010

    17 giờ

    Màn đêm đã buông. Một lớp tuyết dày êm áiphủ trên khắp những con phố Boston. Những bông tuyết lớn mịn như lông tơ đậu xuống kính chắn gió của chiếc taxi liền bị những thanh gạt nước quét phăng. Chiếc xe tới phố Boylston rồi thả Emma xuống trước khách sạn Bốn Mùa. Nhân viên gác cửa giúp cô xuống khỏi xe rồi dùng ô che cho cô tới tận cửa khách sạn.

    Mải chìm đắm trong suy nghĩ, cô gái băng qua đại sảnh không hề dừng bước. Trong khi cô đang tiến về phía thang máy, trưởng bộ phận lễ tân gọi cô:

    - Bà Lovenstein, cách đây một giờ em trai bà đã đã tới. Tôi đã nảy ra sáng kiến bố trí cho ông ấy nghỉ trong một phòng liền kề với phòng hạng sang của bà.

    - Em trai tôi ư? Làm sao lại là em trai tôi được?

    Cô lên tận tầng tám và bước vào phòng để rồi nhìn thấy…Romuald Leblanc. Nằm dài trên trường kỉ, cậu ta đang nhai khoai tây chiên lấy trong minibar và uống một lon soda. Cậu ta đã nối máy nghe nhạc ra loa phát một ca khúc của Jimi Hendrix.

    - Đầu đất hả?

    Emma nhìn xung quanh. Cậu nhóc đã mang theo mình toàn bộ mớ hành lý lủng củng: một va li, một ba lô, một túi đeo chéo… Ngay cả chiếc máy bay điều khiển từ xa của cậu nhóc cũng đang để trên bàn thấp nơi phòng khách.

    - Cậu làm cái quái gì ở đây thế? - Cô vừa hỏi vừa vặn nhỏ bớt nhạc.

    - Tới giúp chị, - cậu nhóc đáp với cái miệng đầy ứ.

    - Giúp tôi chuyện gì?

    - Tôi nghĩ chị đang gặp rắc rối: không thấy chị đi làm nữa, chị nhận những bức mail lạ lùng, chị lén lút mò vào nhà người khác. Rõ ràng là chị đang tiến hàng một cuộc điều tra.

    - Và chuyện đó thì liên quan gì đến cậu?

    - Liên quan đến tôi ở chỗ rốt cuộc chị luôn đề nghị tôi giúp đỡ.

    Emma nheo mắt nhìn cậu nhóc. Dĩ nhiên cậu ta không nhầm, nhưng cô không chịu theo logic đó.

    - Nghe này nhóc, cậu thật tử tế khi làm thế này, nhưng tôi sẽ thấy vui nếu cậu làm ơn thu dọn đồ đạc rồi biến khỏi chỗ này, nhanh!

    - Tại sao?

    - Thoạt tiên là bởi cậu vẫn còn vị thành niên. Kế đó là bởi cậu đang cư trú bất hợp pháp trên đất Mỹ, rồi bố mẹ cậu bên Pháp hẳn đang lo lắng vì cậu. Cuối cùng, bởi vì như thế này tôi đã có đủ rắc rối rồi, khỏi cần chất lên tôi thêm một gánh nặng là cậu nữa!

    Cậu nhóc đứng phắt dậy khỏi trường kỉ, quyết tâm không bỏ đi.

    - Nhưng tôi có thể giúp chị điều tra! Nếu có hai người chúng ta sẽ tiến nhanh hơn và suy nghĩ thấu đáo hơn. Vả lại, phần lớn những nhà điều tra vĩ đại đều hợp lại thành bộ đôi: Sherlock Holmes và bác sĩ Watson, Batman và Robin, Starsky và Hutch, Brett Sinclair và Danny Wilde…

    - Thôi đủ rồi, cậu không cần phải kể hết ra cho tôi nghe! - Emma nổi cáu.

    - Loїs và Clark, Hit-Girl và Big Daddy, Richard Castle và Kate Beckett… Romuald vừa nói tiếp vừa khoan chân múa tay.

    - GIỜ THÌ ĐỦ RỒI ĐẤY! - Cô hét lên. - Tôi đã nói không. Và không là không!

    Cô lấy máy tính từ trong túi xách ra, đặt nó lên bàn rồi nhấc mở màn hình ra.

    - Cậu đã giúp tôi, điều đó có thật và tôi cảm ơn cậu. Để bù lại, tôi sẽ mua tặng cậu vé quay về Paris. Tôi cũng muốn đãi cậu một đêm ngủ khách sạn, nhưng là khách sạn Hilton gần sân bay kia, chứ không phải ở đây.

    Cậu nhóc mê tin học phát ta một tếng làu nhàu bực bội. Nói sao làm vậy, Emma di con trỏ để kết nối với trang web của hãng hàng không Delta Airlines.

    - Khoan đã! - Romuald kêu lên.

    Emma vội ngưng lại.

    - Gì nữa thế?

    - Bức ảnh này! - Cậu nhóc thảng thốt chỉ vào màn hình máy tính.

    Đó là một bức ảnh chụp màn hình đang phát cảnh phim được quay trong quán bar có mặt Kate cùng “nguời tình”.

    - Sao kia? Cậu biết người phụ nữ này ư?

    - Người phụ nữ thì không, còn người đàn ông thì dĩ nhiên là biết!

    Emma cảm thấy rùng mình như thể trong bụng vừa nảy sinh một cú tăng vọt adrenalin.

    - Tôi đang nghe cậu nói đây.

    - Đó là Nick Fitch. Đó thực sự là một huyền thoại và là một trong những doanh nhân bí ẩn nhất và giàu nhất thế giới.

    ° ° °

    Boston, 2011

    Nằm dài trên một chiếc ghế êm ái cùng chú chó nhỏ, Emily cuối cùng cũng được xem bộ phim yêu thích: SOS Fantômes trứ danh.

    - Phim này xem sợ nhỉ Clovis? - Con bé vừa đùa vừa nép vào chú chó Shar-pei.

    Ngồi trên một chiếc ghế đẩu bên bàn bếp, Matthew mải miết đọc hướng dẫn sử dụng của bộ dụng cụ vừa mua tại một trong những tiệm tạp hóa trên phố Charles. April nhìn anh bằng ánh mắt vừa rụng rời vừa bài xích.

    Ở Mỹ, không gì đơn giản hơn là tiến hành một thử nghiệm xác minh quan hệ cha con. Với 30 đô, bạn có thể mua một bộ dụng cụ không cần đơn tại một trong số hai mười nghìn hiệu thuốc trên toàn quốc. Ngay cả một vài siêu thị lớn cũng đưa mặt hàng này vào kinh doanh.

    Thử nghiệm này bất kỳ ai cũng có thể tiến hành: chỉ cần cung cấp hai mẫu tế bào trích từ bên trong má nhờ những cây tăm bông cỡ lớn. Mẫu đầu tiên lấy từ người cha và mẫu thứ hai lấy từ đứa con.

    Matthew tiến hành đầu tiên. Anh đưa cây tăm bông vào miệng rồi chà xát bên trong má khoảng ba mươi giây trước khi nhét mẫu vào phong bì dành để đựng kết quả này, trên phong bì anh đã điền mẫu in sẵn. Rồi anh lấy từ trong túi áo vest ra gói kẹo đã mua tại tiệm tạp hóa.

    - Con yêu, con muốn có những viên kẹo dẻo hình chú gấu con này không?

    - Thật không ạ, bố vừa mua kẹo cho con hả bố? - Cô bé tròn mắt thốt lên.

    Con bé đứng dậy khỏi ghế để chạy về phía anh.

    - Cảm ơn bố ạ!

    - Nhưng trước tiên, cần phải làm bài thực hành này đã.

    - Thế ạ?

    - Đơn giản lắm, rồi con sẽ thấy, con mở miệng ra nào.

    Cô bé làm theo, và anh nhẹ nhàng lặp lại động tác để lấy lại một vài tế bào da của cô bé.

    - Bố đếm đến ba mươi rồi con sẽ được ăn kẹo, đồng ý chứ? 1, 2, 3…

    April ném cho anh ánh mắt đầy giận dữ và khinh bỉ.

    - Anh đúng là đồ tồi, - Cô nói khẽ.

    Anh không buồn trả lời cô.

    - … 28, 29 và 30. Hoan hô con yêu, con xứng đáng được thưởng kẹo lắm.

    - Con có thể cho Clovis ăn kẹo được không ạ?

    - Chỉ một mẩu nhỏ để nó nếm thử thôi nhé, - anh dung túng trong lúc nhét mẫu của Emily vào phong bì thứ hai.

    Rồi anh nhét cả hai phong bì đó vào phong bì thứ ba bằng ni lông xốp hơi kèm theo khoản thanh toán (159 đô cho phòng thí nghiệm cũng như một khoản phụ phí 99 đô để phân tích được tiến hành ngay trong ngày). Anh kết thúc thao tác bằng cách viết lên phong bì tên phòng thí nghiệm:

    InfinitGene

    425 phố Orchid

    West Cambridge, MA 02138

    Khi mua bộ test, anh đã cố tình chọn một phòng thí nghiệm tại Massachusetts để phân tích có thể được thực hiện càng nhanh càng tốt và để người ta trả lại anh kết quả ngay trong tối nay, trước nửa đêm, vào hộp mail của anh. Tuy nhiên cũng có một deadline: phòng thí nghiệm phải nhận các mẫu trước 14 giờ.

    Anh nhìn đồng hồ treo tường.

    13 giờ 10.

    Dĩ nhiên đã quá muộn để sử dụng dịch vụ UPS hoặc FedEx, nhưng anh vẫn có thể tự lái xe mang phong bì tới phòng thí nghiệm. Thậm chí nếu có tắc đường thì anh cũng vẫn sẽ tới nơi trong vòng chưa đầy nửa giờ nữa.

    - Em cho anh mượn chiếc Camaro nhé April?

    - Anh có thể xéo đi được không Matthew?

    Emily đột ngột xen ngang từ đầu kia phòng:

    - Không nên nói bậy thế đâu cô April! - Cô nhóc trách móc cô, tay bịt chặt tai của chú chó giống Shar-pei.

    Matthew mặc áo khoác rồi xách theo chiếc cặp da.

    - Thôi kệ em, tới phố Beacon anh sẽ vẫy taxi, - anh vừa nói vừa kẹp chiếc phong bì dưới cánh tay,

    ° ° °

    Còn lại một mình, April sốc nặng. Cô nhất định phải ngăn bạn mình làm chuyện xuẩn ngốc.

    Cô tiến lại gần tấm đệm nơi Emily và Clovis đang nằm thoải mái.

    - Cô phải để cháu lại một mình vài phút nhé cháu yêu, cháu hứa với cô sẽ không làm điều gì ngốc nghếch chứ, đồng ý không nào?

    Cô nhóc cắn môi vẻ hơi lo lắng.

    - Cháu không được nghịch diêm đúng không ạ?

    - Cháu ngồi ngoan xem SOS Fantômes rồi đợi Bibendum Chamallow xuất hiện nhé. Đó là đoạn cháu thích nhất đúng không?

    Cô bé im lặng gật đầu.

    Sau đó April giơ ngón trỏ đầy đe dọa về phía chú chó giống Shar-pei.

    - Còn mày, hà mã, khôn hồn thì để ý canh nhà đấy nhé!

    Cô mặc áo khoác, vớ lấy chùm chìa khóa xe rồi ra quảng trường Louisburg. Chiếc Camaro đậu phía bên kia công viên. Cô khởi động xe rồi phóng một mạch tới phố Charles, nhanh nhẹn vượt đèn đỏ ở ngã tư đường dẫn sang phố Beacon.

    Nếu Matt đã lên một chiếc taxi từ đại lộ thì hẳn là anh vẫn còn đang ở quanh đây. April lượn ngoằn ngoèo giữa các xe và mỗi lần bắt gặp một chiếc taxi cô lại nhìn chằm chặp vào mặt các hành khách ngồi ghế sau xe.

    Sau chừng năm trăm mét, cô nhận ra Matthew ngồi trên một chiếc CleanAir Cab, một trong những hãng taxi sử dụng động cơ tiết kiệm nhiên liệu đang được nhân rộng trong thành phố từ hai đến ba năm trở lại đây. Sau một cú vặn ga tăng tốc, cô đã tới ngang tầm chiếc taxi và ra hiệu yêu cầu anh xuống xe. Nhưng Matthew đã quyết tâm không nghe theo. Ngược lại, anh còn nghiêng sang phía tài xế để yêu cầu anh ta chạy xe nhanh hơn.

    April thở dài rồi lùi lại phía sau để theo bén gót chiếc Toyota. Cô để chiếc taxi tiến lên khối kiến trúc bằng sắt của cầu Harvard rồi mới tăng tốc. Suốt vài mét đường, hai chiếc xe chạy sát cạnh nhau nguy hiểm tới mức quệt vào nhau. Rồi tài xế taxi phát hoảng nên quyết định đỗ lại ở lề đường bên phải.

    - Ra khỏi xe tôi ngay! - Ông ta ra lệnh cho Matthew. - Anh sẽ gây rắc rối cho tôi mất.

    Đến lượt mình, April đỗ xe đằng sau chiếc green cab.

    Matthew cố thuyết phục tài xế tiếp tục chở anh nhưng ông ta không cần biết gì hết và nhanh chóng khởi động xe quay lại trung tâm thành phố.

    April bật đèn cảnh báo rồi đóng sập cửa chiếc Camaro trong một bản hòa tấu những tiếng chuông báo động. Việc dừng đỗ xe tại một trong bốn làn đường trên cầu bị nghiêm cấm và rất nguy hiểm.

    - Thôi nào, Matt, chúng ta về nhà thôi, - cô kêu lên trong lúc bước tới chỗ anh trên đoạn đường dốc dành cho người đi dạo và chạy thể dục.

    – Không có chuyện đó đâu! Em đừng xen vào chuyện này được chứ?

    - Thực hiện xét nghiệm này thì giúp gì được cho anh nào? - April cao giọng hỏi để át đi tiếng xe cộ đi lại. Có phải nếu Emily không phải là con đẻ của anh thì anh sẽ bớt yêu thương con bé hơn?

    - Dĩ nhiên là không, nhưng anh không muốn sống trong dối trá.

    - Hãy nghĩ cho kĩ đi Matt, - cô vừa khuyên nhủ vừa đặt bàn tay lên cánh tay anh.

    - Việc này đã được cân nhắc kĩ. Anh có quyền được biết sự thật. Anh muốn hiểu chuyện gì đã xảy ra với Kate. Anh muốn biết tại sao cô ấy lại lừa dối anh và với ai.

    - Kate mất rồi, Matt. Sẽ đến lúc anh chấp nhận chuyện đó. Anh đã sống những năm hạnh phúc cùng chị ấy và bất kể trước đó có xảy ra chuyện gì thì anh cũng là người lựa chọn để trở thành bố của con chị ấy.

    Matt lắng nghe lý lẽ đó, nhưng nỗi đau của anh quá lớn.

    - Em không hiểu đâu. Kate đã phản bội anh. Anh đã đặt trọn niềm tin vào cô ấy. Anh đã bỏ vợ vì cô ấy, anh đã…

    - Anh đã không còn yêu Sarah từ lâu rồi, - cô vặc lại.

    - Không quan trọng. Trong vòng bốn năm, anh đã để một người phụ nữ xa lạ bước vào cuộc đời mình, một người mà anh ngỡ đã biết rõ. Anh cần phải biết cô ấy thực sự là ai. Anh cần phải điều tra về cô ấy.

    April túm lấy cổ áo Matthew rồi lắc lấy lắc để không chút nể nang.

    - Nhưng chị ấy qua đời rồi, khỉ thật! Tỉnh lại đi! Tại sao lại mất thời gian đào bới quá khứ của một người?

    - Để thực sự hiểu họ, - anh đáp và thoát ta khỏi vòng tay cô.

    - Thế còn em, anh có thực sự hiểu em không? - Cô hỏi, thay đổi góc độ của cuộc trò chuyện theo cách bất ngờ.

    Anh nhướng mày.

    - Có chứ, anh nghĩ vậy. Rốt cuộc, em là bạn gái thân thiết nhất của anh và…

    - Anh thực sự biết gì về em hả Matt?

    - Này nhé, em sinh ra gần San Diego. Bố mẹ em điều hành một tiệm đồ cổ. Em đã theo học ngành nghệ thuật tại UCLA 1, em…

    - Đó là những gì em đã kể anh nghe, nhưng sự thật không phải vậy. Mẹ em hẳn đã ngủ với một nửa số đàn ông tại Nevada và không bao giờ nói được cho em biết ai là bố em. Bà không kinh doanh đồ cổ: đó là một kẻ nát rượu cả đời chẳng bao giờ làm gì ngoại trừ việc lừa đảo mọi người và say bí tỉ. Nghệ thuật ư? Em không học nghệ thuật ở đại học đâu, mà ở Chowchilla, anh thấy rồi đó, em từng ngồi tù.

    Chưng hửng, Matthew nhìn vào mắt cô bạn sống cùng nhà. Trong vòng vài giây, thậm chí anh nghĩ là cô đùa, nhưng không phải vậy.

    - Em sẽ không vẽ cho anh một bức tranh theo kiểu Dickens đâu, - April nói tiếp, nhưng em từng có một thời niên thiếu và tuổi trẻ phức tạp: những mối giao du xấu, những cuộc bỏ nhà đi bụi từ ngày bé và ma túy. Rất nhiều ma túy. Có một thời em sẵn sàng làm bất cứ điều gì để kiếm được ma túy. Thực sự là bất cứ điều gì.

    Một dòng nước mắt bỗng chảy trên má cô gái. Trong đầu cô, những hình ảnh đau xót và nhục nhã hiện lên như nước tràn bờ, nhưng cô gạt chúng đi.

    - Dĩ nhiên, con đường sa xuống địa ngục đó đã dẫn em tới nhà tù. Năm hai mươi hai tuổi, em bị cảnh sát tóm sau một vụ cướp. Em đã bị giam ba năm tại Chowchilla. Đó mới là con người thực sự của em…

    Cô dừng lại để lấy hơi, vén một lọn tóc bị gió thổi hất ra nước mắt.

    - Nhưng em đâu chỉ có thế, - cuối cùng cô cũng nói tiếp. - Em cũng là người phụ nữ đã đấu tranh để có được cơ hội thứ hai, người đã tìm đến đầu kia đất nước để làm lại cuộc đời, người đã không đụng đến hàng trắng từ mười năm nay và gây dựng thành công gallery nghệ thuật của riêng mình.

    - Em có thể tin tưởng anh mà, - Matthew khẳng định. - Tại sao từ đầu em không kể với anh chuyện này?

    - Vì cần phải hướng về phía trước. Vì quá khứ là quá khứ. Vì cần phải để những người chết ở lại với những người chết…

    Matthew cúi đầu. April đã thuyết phục được anh.

    - Hãy dừng lại ở đó. Đừng mạo hiểm lật lại toàn bộ vấn đề và chuốc thêm đau khổ. Những vẻ bề ngoài đều dối lừa và Kate sẽ không bao giờ có thể nói với anh sự thật được. Hãy để cho chị ấy được lợi từ nỗi ngờ vực. Nếu thực hiện xét nghiệm huyết thống này, nếu moi móc cuộc đời Kate thì anh chỉ tạo nên hai nạn nhân mà thôi: chính anh và đứa con gái bé bỏng của anh. Hãy sang trang đi Matt, em van anh đấy.

    Bàng hoàng, mắt ằng ậc nước, Matthew đưa cặp xách cho April. Cô lấy từ trong đó ra chiếc máy tính xách tay và chiếc phong bì định gửi cho phòng thí nghiệm. Từ trên lan can cầu, cô vội vàng thu hết sức lực quẳng chúng xuống sông. Rồi cô giúp Matthew đang chán nản ngồi lên chiếc Camaro sau đó lái xe đưa anh về nhà.

    ° ° °

    Chiếc phong bì bằng ni lông xốp hơi bị cuốn theo dòng chảy sông Charles rồi nhanh chóng chìm đắm trong Đại Tây dương. Còn về phần chiếc laptop, nó chìm xuống làn nước lạnh nơi không một ai có thể vớt lên được, vĩnh viễn ngăn trở việc tiếp tục liên hệ giữa Matthew và Emma.

    ° ° °

    Chỉ trừ có điều mọi việc lại không đơn giản được như vậy…

    --------------------------------
    1 Đại học California, Los Angeles. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:51 PM.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Phần bốn: Người phụ nữ chẳng thuộc về nơi đâu

    16. Hoàng tử Đen
    Hãy giữ bí mật, nó sẽ canh giữ cho bạn.
    - Thánh Vịnh của Salomon, 8


    Boston, 2010

    18 giờ 30

    Sáng sủa và đậm chất thiền, nhà hàng Nhật Bản chiếm một không gian đẹp tại tầng trệt khách sạn. Emma và Romuald rẽ một lối tới quầy bar sushi rồi ngồi xuống hai chiếc ghế caosát cạnh nhau.

    Romuald lấy từ ba lô ra chiếc máy tính bảng rồi đưa nó cho Emma để cô có thể đọc những tài liệu cậu đã tải về.

    - Vị trí của Nick Fitch là ở đâu đó giữa Steve Jobs và Mark Zuckerberg, - cậu nhóc lên tiếng. - Dù không được đông đảo công chúng biết đến, nhưng anh ta là một huyền thoại thực sự trong lĩnh vực tin học.

    Vừa chăm chú lắng nghe cậu nhóc người Pháp, Emma vừa đọc lướt mục tiểu sử.

    Nicholas Patrick tức Nick Fitch, sinh ngày 9 tháng Ba 1968 tại San Francisco, là một chuyên gia tin học kiêm chủ doanh nghiệp người Mỹ, người sáng lập kiêm tổng gám đốc công ty Fitch Inc.

    Tin tặc

    Năm mười bảy tuổi, do cá cược với một người bạn, cậu nhóc dùng một máy tính của trường đại học xâm nhập vào các máy chủ của NASA vốn nổi tiếng là những máy chủ được bảo vệ nghiệm ngặt nhất thế giới. Cậu nhóc dạo chơi khắp hệ thống mạng của cơ quan chính phủ này mà không hề đánh cắp dù chỉ một tệp tài liệu. Mấy ngày sau, cảnh sát đã bắt giữ cậu tại khu ký túc xá đại học Berkeley. Vài tháng sau, cậu nhóc bị đem ra xét xử vì xâm nhập trái phép vào một hệ thống tin học. Vì chưa đến tuổi thành niên, cộng thêm việc không đánh cắp tài liệu nào, cậu nhóc được hưởng lượng khoan hồng của tòa, tòa chỉ xử cậu hai tháng quản thúc tại trường giáo dưỡng kèm theo thời hạn một năm thử thách.

    - Thời niên thiếu của người này có vẻ giống cậu đấy chứ, - Emma nhận xét.

    - Đối với tôi thì chẳng có lời khen nào tuyệt hơn thế đâu, - Romuald thốt lên, mỉm cười rạng rỡ.

    Cậu nhóc vui vẻ nhón lấy một miếng temaki cá chình rồi đút vào miệng.

    Nhà hàng hoạt động theo phương thức băng chuyền: các món ăn diễu qua trên một tấm thảm lăn chạy ngoằn ngoèo khắp phòng, mời các thực khách tự phục vụ. Dưới những cái nắp hình chuông trong suốt, các món đặc sản được đặt trong những chiếc đĩa nhỏ màu sắc khác nhau tùy theo mức giá.

    Emma gọi một tách trà rồi tiếp tục đọc thông tin tiểu sử người tình của Kate.

    Người sáng tạo trò chơi điện tử

    Ngay từ đầu những năm 1990, Nick Fitch đã được biết đến khi sáng tạo Promised Land, một trò chơi chiến lược theo thời gian thực tế trong một thế giới anh hùng giảtưởng. Trong đó người chơi sắm vai một kỵ sĩ, Hoàng tử Đen, người bảo vệ Ba thế giới, chiến đấu đẩy lùi những đợt tấn công của các sinh vật hiếu chiến và những âm mưu từ kẻ thù của Vương quốc. Bản quyền trò chơi được bán cho hãng DigitalSoft với số tiền kỉ lục. Những phiên bản khác không được công nhận cho tới 2001.

    Sáng tạo hệ điều hành

    Từ khi còn là sinh viên, Nick Fitch đã phát triển một hệ điều hành độc đáo, Unicorn, và anh quyết định công bố mã nguồn trên Internet, biến nó thành hệ điều hành tự do, mở và miễn phí trong thực tế. Thế là các cộng đồng lập trình viên bắt đầu sử dụng bộ mã nguồn này, sao chép và cải thiện nó. Dần dần, hệ điều hành có được một danh tiếng về độ ổn định và độ tin cậy, nhưng thiện cảm của công chúng dành cho nó vẫn bị giới hạn trong giới tin học nhỏ hẹp.

    Sáng lập Fitch Inc.

    Nhằm phát triển hệ thống Unicorn, Nick Fitch đã thành lập công ty riêng, Fitch Inc., một công ty chịu trách nhiệm giúp việc sử dụng hệ điều hành trở nên dễ dàng hơn và vui thú hơn đối với người dùng mới. Fitch Inc. trở thành nhà phân phối độc quyền của Unicorn, thương phẩm hóa nhiều dịch vụ gắn liền với phần mềm như hỗ trợ kĩ thuật, cố vấn và đào tạo. Vậy nên một vài người sử dụng Unicorn lúc ban đầu đã trách Fitch vì muốn biến hệ điều hành của mình thành một sản phẩm đơn giản và tiêu chuẩn hóa. Tuy nhiên, logic mang đậm tính thương mại hơn này gặt hái được thành quả bởi Unicorn dần trở thành một phần mềm có khả năng cạnh tranh với Windows, sản phẩm nòng cốt của Microsoft. Unicorn ít được sử dụng trên máy tính cá nhân nhưng đó lại là phần mềm giành ưu thế tuyệt đối trên những máy chủ doanh nghiệp, các hệ thống định vị GPS và nhất là các smartphone.

    - Người phụ nữ này đúng là bốc lửa! - Romuald thốt lên.

    Emma ngẩng đầu lên, nhận thấy cậu nhóc đã chiếm lấy máy tính xách tay của cô.

    - Cậu đừng ngại nhé. Cứ tự nhiên lục lọi đồ đạc cá nhân của tôi đi!

    - Vậy thì đây chính là Kate Shapiro hả? - Cậu ta vừa hỏi vừa xoay màn hình về phía cô. - Vợ của cái gã gửi mail cho chị từ tương lai?

    - Phải, là cô ta đấy.

    - Trông như… một thiên thần vậy, - cậu nhóc buột miệng, không rời mắt khỏi bức ảnh chụp Kate.

    Bức ảnh gợi cảm nhất. Bức ảnh người ta có thể thấy cô bắt chéo tay trên bộ ngực trần.

    Emma liếc xéo cậu nhóc.

    - Lũ đàn ông… Dù có ở tuổi nào thì cũng rặt một lũ như nhau, thật tuyệt vọng.

    Miệng Romuald vẫn há hốc, im bặt trước vẻ đẹp ngạo mạn của Kate. Emma nổi cáu:

    - Thôi chảy dãi trước cô ta đi, cậu thật nực cười. Hơn nữa, cô ta phẫu thuật rồi đấy! Nhìn mà xem! - Cô chỉ cho cậu nhóc thấy trong lúc cho hiển thị những bức ảnh khác.

    - Đúng thật, - cậu ta thừa nhận, nhưng có phải vì thế mà cô ta xấu đi đâu. - Cô ta có quan hệ với Nick Fitch phải không?

    Cô trợn tròn mắt.

    - Ai nói với cậu như thế?

    - Vì hình xăm kỳ lân trên cánh tay trái. Con vật huyền thoại này luôn là biểu tượng của Fitch. Đầu tiên là cho trò chơi video mà anh ta sáng tạo năm mười sáu tuổi, sau đó là cho tên hệ điều hành của anh ta. Vả lại ngày nay đó cũng là logo công ty của Fitch.

    - Unicorn, - Emma thì thầm.

    Tiếng Anh nghĩa là kỳ lân… Cậu nhóc hư hỏng này có lý… cô nghĩ vậy và tiếp tục đọc.

    Thành công của Unicorn trong các doanh nghiệp, các cơ quan hành chính và các cơ quan chính phủ.

    Được cài đặt hàng loạt trên máy chủ của các doanh nghiệp, hệ thống Unicorn cũng được trang bị cho quân đội Mỹ. Trong quãng thời gian ít ỏi, Fitch Inc. đã trở thành một đối tác đặc quyền và không thể thiếu của bộ Quốc phòng. Kể từ năm 2008, hàng trăm chiếc smartphone và máy tính bảng của lính Mỹ được cài đặt một phiên bản sửa đổi củaUnicorn. Quả thực, Lầu Năm Góc đã đánh giá rằng hệ điều hành này được bảo mật cao nhất để cho phép nhân sự của mình gửi đi những tài liệu nhạy cảm và cơ mật từ một phương tiện kết nối mạng.

    Hệ điều hành cũng được trang bị cho các máy bay chiến đấu của Không lực Mỹ cũng như cho hệ thống điều khiển các khu trục hạm, các súng phóng tên lửa của Hải quân Mỹ.

    Đời tư

    Mang biệt danh Hoàng tử Đen xuất phát từ trò chơi video do ông sáng tạo ra và bộ trang phục bất di bất dịch (quần jean đen, áo cổ lọ tối màu và vest da), Nick Fitch là một nhân vật bí ẩn và không trọng truyền thống. Chủ doanh nghiệp này là một người đàn ông kín đáo, không còn trả lời phỏng vấn báo chí từ năm 1999 và luôn bảo vệ cuộc sống riêng tư. “Mang một cái tên nổi tiếng, nhưng lại mang một gương mặt xa lạ, điều đó thật hợp với tôi”, ông giải thích với tạp chí Wired trong cuộc phỏng vấn mới nhất gần đây. Đam mê nhạc jazz và nhạc được đại, ông được biết đến bởi sở hữu một bộ sưu tập khổng lồ các tác phẩm siêu thực quy tụ trong cuộc triển lãm tại trung tâm Bảo tàng Nghệ thuật UC Berkeley. Theo tạp chí Forbes, tài sản ước tính của ông cho tới lúc này là hơn 17,5 tỷ đô.

    Emma ngẩng lên khỏi màn hình máy tính bảng rồi day day mí mắt. Cô đang dính vào chuyện gì thế này? Một thiên tài tin học trở thành tỷ phú, một đế chế được gây dựng dựa trên công nghệ mới, quân đội Mỹ… “Cuộc điều tra” của cô về Kate kéo cô vào những tình tiết lắt léo đến bất ngờ.

    Toàn bộ chuyện này có nghĩa lý gì đây? Cô tự hỏi, bỗng nhiên thấy nản. Mình có quyền gì mà điều tra về người phụ nữ này? Mình đang làm gì ở đây, ngay trước đêm Giáng sinh, giam mình trong khách sạn với một thằng nhóc mập ú cũng ngơ ngáo chẳng kém gì mình. Thật đáng thương…

    Ngồi trước quầy, cô quan sát một hồi cử chỉ tỉ mẩn của nghệ nhân sushi đang phết bơ và dưa chuột đề làm cơm cuộn. Rồi cô nhìn sang Romuald. Dán mắt vào màn hình, cậu nhóc tín đồ tin học chỉ ngẩng đầu lên để chụp lấy các đĩa nhỏ diễu qua phía trước: gỏi bò Saint-Jacques, sushi nóng, cơm cuộn nhím biển, càng cua bể…

    - Cậu biết mình không buộc phải nếm thử toàn bộ các món của nhà hàng mà…

    Mải miết tìm kiếm, cậu nhóc mất vài giây mới có phản ứng.

    - Nhìn này, cậu vừa nói vừa xoay máy tính sang phía Emma. Thật đáng để tò mò…

    Trên màn hình, cậu đã mở nhiều cửa sổ: những bức ảnh chụp gương mặt Kate trước và sau khi phẫu thuật thẫm mỹ. Romuald đã ghi chú vào các bức hình, vẽ vài nét lên đó và viết thêm các kích thước khác nhau.

    - Có gì đáng tò mò kia chứ?

    - Thật kỳ cục nếu quyết định thực hiện phẫu thuật thẩm mỹ khi người ta còn trẻ trung xinh đẹp thế này phải không?

    - Đúng vậy, tôi cũng đã có suy nghĩ như vậy. Nhất là khi những thay đổi là không đáng kể.

    - Đúng và không đúng. Thực ra, khi đã chỉnh sửa, gương mặt Kate tuân theo tất cả các chuẩn nhan sắc.

    - Cậu đang nói tới các tỷ lệ?

    - Đúng đó. Có những nghiên cứu toán học về “vẻ đẹp hoàn hảo”. Các nhà khoa học đã tìm hiểu tại sao một vài gương mặt lại tỏ ra thu hút ngay tức khắc. Và họ đã chứng minh được rằng vẻ đẹp hoàn hảo tuân theo một thuật toán.

    - Một thuật toán ư?

    - Một tập hợp các quy tắc liên quan đến sự cân xứng của khuôn mặt và việc tuân thủ một vài tỷ lệ.

    - Làm sao cậu biệt được chuyện này?

    - Tôi là học sinh cuối cấp và theo khối khoa học. Một thầy giáo đã buộc chúng tôi nghiên cứu bài báo đăng trên tạp chí Khoa học và đời sống về chủ đề này và tôi vẫn còn nhớ. Nhưng những giả thuyết này chẳng phải mới mẻ gì: chúng được lặp lại những điều răn đã được biết đến từ thời Léonard de Vinci.

    - Ngoại trừ sự cân xứng của khuôn mặt thì các quy tắc còn lại là gì ?

    - Nếu tôi nhớ không nhầm thì trên một khuôn mặt hoàn hảo, khoảng cách giữa hai đồng tử phải hơi nhỏ hơn một nửa chiều rộng tổng thể của khuôn mặt. Và khoảng cách giữa hai mắt với miệng phải hơi lớn hơn một phần ba khoảng cách từ chân tóc đến cằm.

    - Ở đây đúng như vậy hả?

    - Đúng vậy. Khuôn mặt Kate đã đạt tới một “chỉ số tối ưu của sự hoàn hảo”. Đó là điều giải thích vẻ hấp dẫn của cô ấy. Kate từng “gần như hoàn hảo” và cô ấy đã trở thành “hơn cả hoàn hảo”.

    Emma lặng người khi nghe thông tin đó.

    Vẫn luôn quá nhiều câu hỏi, vẫn có quá ít câu trả lời…

    - Theo ý chị, tại sao cô ấy lại làm việc này? - Cậu nhóc vừa hỏi vừa nhón từ trên khay một đĩa xoài.

    - Tôi không rõ: để làm hài lòng một người đàn ông, để tự tin hơn…

    Cậu nhóc nuốt mấy miếng xoài nhanh tới nỗi suýt phát nghẹn. Emma bực bội:

    - Nhưng cậu sợ cái gì vậy hả? Sợ người ta tới giành đồ ăn của cậu hay sao? Kiềm chế đi, cậu đâu còn là trẻ con sáu tuổi nữa!

    Tự ái, cậu nhún vai.

    - Tôi đi vệ sinh đây, - cậu ta nói rồi tụt xuống khỏi ghế.

    - Thế đấy, cứ hét thật to vào để cả nhà hàng này nghe thấy. Cậu có muốn để tin nhắn trên Facebook báo cho các bạn mình biết không ?

    - Tôi làm gì có bạn, - cậu nhóc vặc lại, đầu cúi gằm khi đi khỏi.

    - Cậu làm tôi phát khóc đây này. Sang quán bar khách sạn gặp tôi nhé. Tôi cần hai hoặc ba ly cocktail để tiếp thêm cho mình nghị lực hòng chịu đựng cậu.

    Cô ký hóa đơn rồi đến lượt mình cũng đứng dậy, cất laptop vào trong túi rồi cầm theo chiếc áo khoác của cậu nhóc.

    ° ° °

    Quán bar của khách sạn Bốn Mùa mang dáng dấp như một câu lạc bộ Anh kiểu cổ: lò sưởi lớn, những tấm biển bằng gỗ cù tùng, trường kỉ nhung, giá sách, bàn bi-a và ánh sáng dìu dịu. Đang dịp Giáng sinh nên gần quầy có bày một đĩa xa lát kèm cocktail trứng sữa. Emma ngồi phịch xuống chiếc phô tơi Chesterfield rồi gọi một ly cocktail caipiroska.

    Tuy không biểu lộ ra mặt nhưng cô khá hài lòng với sự hiện diện bất ngờ của Romuald. Cậu nhóc mê tin học đó là người ngoài hành tinh, nhanh nhẹn, đầy ý tưởng. Cậu nhóc có thể mang lại cho cô sự giúp đỡ quý báu nếu cô có thể tập trung khai thác trí thông minh của cậu.

    Vì rằng cậu ta đã quyết định tham gia vào cuộc điều tra của cô, cô đã dẹp lòng tự ái của mình sang bên để kể cho cậu ta nghe mọi chuyện, từ tiếng sét ái tình đối với Matthew qua việc thư từ qua lại cho tới việc lục lọi ngôi nhà của gia đình Shapiro hồi sáng nay, kể cả vụ sòng bạc và việc làm sáng tỏ sự thiếu chung thủy của Kate. Cô không giấu giếm cậu nhóc chuyện gì, thậm chí không giấu cả vụ “tự tử”, cũng không giấu việc phát hiện chiếc túi du lịch giấu trong lớp trần giả có chứa không dưới nửa triệu đô la.

    Cô tranh thủ lúc cậu nhóc vắng mặt để lục tìm các túi áo khoác của cậu ta. Giữa những thanh sô cô la, cô phát hiện hiện thấy nhiều thứ thú vị. Thoạt tiên là một tấm vé khứ hồi từ New York đi Scarsdale, một vùng ngoại ô giàu có của Manhattan. Chiếc vé đã được bấm lỗ kiểm soát ngày hôm qua. Khởi hành đi lúc 10 giờ 04, khởi hành về lúc 13 giờ 14 gần như ngay sau khi đến. Trên một mẩu giấy nhớ, cô đọc thấy tên và địa chỉ của Michele Berkovic, tổng giám đốc của Thống Soái. Đúng là chị ta sống tại Scarsdale cùng chồng, một nhà tài chính của phố Wall, cùng hai đứa con. Berkovic là một nhà quản lý kênh kiệu và kém nồng nhiệt được bổ nhiệm tại Thống Soái sau khi Jonathan Lempereur ra đi. Vậy thì Romuald tìm tới gia đình Berkovic vào một ngày Chủ nhật để làm gì?

    Điều đáng ngạc nhiên khác là một tấm vé máy bay tới sân bay Charles de Gaulle Paris. Chuyến đi vào ngày… hôm qua. Điều này giải thích tại sao cậu nhóc lại ghé qua Boston nhanh đến thế với toàn bộ đồ đạc tư trang. Hành lý của cậu ta đã đóng sẵn bởi lẽ cậu ta chuẩn bị về Pháp, nhưng hẳn là Romuald đã hủy chuyến đi khi cô gọi điện nhờ cậu ta vô hiệu hóa hệ thống báo động của gia đình Shapiro. Cô không biết diễn giải hành động đó thế nào và vội vàng nhét mọi thứ vào túi áo khoác.

    Ly cocktail của cô được mang ra và cô uống một hơi cạn sạch. Hỗn hợp rượu vodka và chanh khiến cổ họng cô hơi nóng lên. Cô toan gọi thêm một ly khác thì nhìn thấy Romuald bước vào quán bar.

    Cô vẫy tay ra hiệu cho cậu nhóc nhưng cậu ta thậm chí không nhìn thấy cô. Mắt nhìn xuống như dán vào màn hình di động, cậu ta mải miết bấm bấm bàn phím điện thoại.

    Thế hệ gì thế không biết… Lúc nào cũng dán mắt vào một cái màn hình, điện thoại hoặc máy tính bảng dính chặt vào người chẳng khác nào một phần cơ thể nối dài. Nhưng bản thân mình cũng có khác gì đâu?

    Romuald va phải một người phục vụ bàn, lầm bầm vài lời xin lỗi rồi cuối cùng cũng nhìn thấy Emma.

    - Tôi nếm thử món cocktail của chị được không? - Cậu nhóc hỏi trong lúc ngồi xuống đối diện với cô.

    - Không, cậu là trẻ con mà trẻ con thì không uống rượu. Cậu gọi nước chanh hoặc sữa nóng đi…

    - Trẻ con á? Xời. Tôi dám chắc tất cả mọi người đều đang nghĩ chúng ta là một cặp đấy.

    Cậu ta nghiêm túc trở lại.

    - Được rồi, tôi đã suy nghĩ. Cái chúng ta thiếu là một nguồn thông tin đáng tin cậy về tuổi trẻ của Kate. Mà chìa khóa của bí ẩn lại nằm ở chỗ đó: chúng ta chỉ có thể hiểu mọi người nếu biết được quá khứ của họ. Đó là một quy tắc không có bất cứ ngoại lệ nào, - cậu nhóc tuyên bố hùng hồn.

    - Nghe giống hệt bác sĩ tâm lý của tôi, - Emma khẽ nói. - Nhưng cậu cứ nói tiếp đi, tiếp tục đi, tôi rất muốn nghe cậu triển khai tiếp ý này.

    - Tôi cá là mối diễm tình giữa cô ấy với Nick Fitch không phải mới hình thành. Thậm chí tôi còn chắc rằng chính anh ta đã chụp bức ảnh này, - cậu nhóc khẳng định, tay chỉ bức ảnh đen trắng mê hoặc kia, cậu ta đã chuyển nó sang smartphone.

    Trên bức ảnh đó Kate vẫn mang hình xăm kỳ lân.

    - Có thể lắm, - Emma công nhận.

    - Chúng ta nên cố gắng tìm ra bạn gái cũ của Kate để hỏi thêm thông tin.

    - Bạn gái cũ nào nhỉ?

    - Chị nhớ lại đi: trong số ba câu hỏi nhằm vô hiệu hóa hệ thống báo động có một câu liên quan đến tên người bạn gái thân nhất thời sinh viên.

    - Chính xác, - cô nói rồi xắn tay áo lên để đọc lại những câu trả lời đã ghi sẵn trên cẳng tay.

    - Sổ ghi chép của chị dễ thương đấy, hồi tám tuổi tôi cũng dùng một quyển tương tự.

    - Cậu nói năng cho cẩn thận, đồ đầu đất, - Emma mắng. - Cô gái đó tên là Joyce Wilkinson. Nhưng chúng ta sẽ mất hàng tiếng đồng hồ mới có thể tìm ra chị ta. Hơn nữa, bây giờ người phụ nữ này chắc chắn đã kết hôn và…

    - Chúng ta sẽ chỉ mất ba phút thôi, - Romuald ngắt lời cô.

    Cậu nhóc kết nối với website của đại học Berkeley, nhưng việc truy cập dữ liệu liên quan các cựu học sinh viên bị giới hạn.

    - Cậu không hack được web này sao?

    - Không đơn giản như búng ngón tay đâu, nhưng tôi sẽ tìm theo lối truyền thống.

    Cậu nhóc gõ đơn giản “Joyce Wilkinson + MD” 1 lên một trang tìm kiếm, nó cho ra kết quả hầu như ngay tức khắc.

    - Có một Joyce Wilkinson, giảng viên môn Khoa học thần kinh, có bằng tiến sĩ của đại học Stanford. Người này từng theo học ngành Y tại đại học Berkeley từ năm 1993 tới năm 1998.

    - Là chị ta đấy, chắc chắn luôn!

    - Đó là một chuyên gia về bệnh Alzheimer, - cậu nhóc nói thêm sau khi đọc lướt các thông tin hiển thị trên trang. - Thông tin vô cùng quan trọng: chị ta đang làm việc tại viện Brain and Memory, một tổ chức thuộc Viện Công nghệ Massachusetts MIT chuyên nghiên cứu các bệnh lý não.

    Emma cắn môi vì phấn khích. Chuyện này tốt đẹp đến khó tin: trụ sở MIT đặt tại Cambridge, chỉ cách Boston vỏn vẹn vài chục cây số…

    - Joyce từng học chung đại học với Kate, lại là bạn thân nhất, có lẽ thậm chí còn ở chung phòng. Chị phải đi hỏi chị ta xem thế nào.

    - Tôi muốn lắm, nhưng tại sao chị ta phải trả lời những câu hỏi tôi đặt ra? Tôi chẳng có cách nào để buộc chị ta phải trả lời tôi.

    - Cần phải làm cho chị ta sợ. Mọi người thường nói với cảnh sát mà.

    - Phòng trường hợp cậu còn nhận ra, tôi là người quản lý rượu chứ đâu phải cảnh sát.

    - Chuyện này chỉ là tiếu tiết. Tôi có thể chế cho chị một thẻ cảnh sát thật hơn cả đồ chính hiệu.

    Emma lắc đầu.

    - Giờ đã là 23 tháng Mười hai. Joyce hẳn đang đi nghỉ.

    - Chỉ có một cách duy nhất để biết thôi, - cậu nhóc cắt ngang.

    Cậu ta kết nối với website của Viện não rồi dùng di động của mình gọi tới số điện thoại tổng đài.

    - Đến lượt chị rồi đấy, - cậu ta đưa máy cho Emma.

    - Viện Brain and Memory xin nghe, tôi có thể giúp gì cho quý vị? - Nhân viên trực tổng đài hỏi cô.

    Emma dặng hắng.

    - Xin chào, làm ơn nối máy cho tôi nói chuyện với tiến sĩ Wilkinson?

    - Tôi sẽ nói người gọi là ai đây ạ?

    - Ơ… mẹ cô ấy, - cô đáp vì bị bất ngờ.

    - Đừng bỏ máy, tôi sẽ chuyển máy ngay.

    Emma liền gác máy.

    - Ít nhất thì chúng ta cũng biết chị ta đang ở chỗ làm, - cô nói rồi giơ tay ra hiệu lấy hóa đơn của quầy bar.

    Rồi cô hỏi Romuald:

    - Vụ thẻ cảnh sát cậu nói nghiêm túc đấy chứ?

    Cậu nhóc gật đầu.

    - Ở Business Center có những máy in màu cho chất lượng tuyệt hảo. Năm phút nữa qua đó gặp tôi nhé.

    Trong lúc cậu nhóc đi khỏi, cô kiểm tra hòm thư. Matthew vẫn chưa trả lời bức mail hồi sáng. Thật lạ. Trong lúc chờ hóa đơn, cô hồi tưởng lại tất cả những sự kiện đã đảo lộn cuộc sống của cô trong những ngày qua.

    Làm thế nào mà mình lại để bản thân cuốn vào cơn lốc xoáy này nhỉ?

    Cô ký vào hóa đơn mà người phục vụ bàn đưa rồi tới gặp Romuald.

    ° ° °

    Nằm cạnh quầy lễ tân, Business Center là một không gian rộng rãi được bố trí ghế phơ tơi và các ô có vách ngăn được trang bị máy tính, máy in và máy fax. Emma nhìn thấy Romuald đang lúi húi tại một ô.

    - Cười lên nào! - Cậu ta miệng nói tay chĩa ống kính máy ảnh tích hợp trong điện thoại vào cô. - Tôi cần chụp chân dung chị. Chị muốn làm thẻ FBI hay thẻ BPD 2?

    - Thẻ BPD đi, có vẻ đáng tin hơn.

    - Dù gì thì chị cũng phải nghĩ tới việc thay quần áo đi. Chị ăn mặc kiểu này trông chẳng giống cảnh sát chút nào.

    - Cậu biết quần áo của tôi trông thế nào à?

    Cô ngồi cạnh cậu nhóc, vừa nhìn cậu ta làm việc vừa chia sẻ với cậu ta những nghi ngại của mình:

    - Có lẽ chúng ta đang hoàn toàn lầm đường. Có lẽ Kate tuyệt đối không có điều gì đáng chê trách thì sao.

    - Chị đùa đấy à? Ai mà giấu nửa triệu đô la tiền mặt trên trần giả thì nhất định phải có điều gì đó đáng chê trách. Cần phải biết số tiền đó ở đâu ra và nhất là chuyện chị ta định làm gì với nó.

    - Cậu định làm cách nào?

    - Tôi có một ý nhỏ thế này, nhưng cần phải có thiết bị…

    Cô quyết định tin tưởng cậu nhóc tín đồ tin học này và chìa cho cậu một trong số thẻ tín dụng của mình.

    - OK, cậu muốn mua gì cứ tùy ý. Nếu cần cứ rút cả tiền mặt cũng được.

    Rồi cô xắn tay áo sơ mi lên để đọc những gì đã viết lên cẳng tay.

    - À phải rồi, có điều này tôi muốn cậu tìm hiểu xem sao. Kate có duy trì một blog mang tên Những gian truân của một phụ nữ Boston. Trang web thống kê những nhà hàng và cửa tiệm uy tín. Cậu liếc qua xem nhé. Tôi thấy trong giọng điệu và lời giới thiệu có điều gì đó kỳ quặc…

    - Nhất trí, tôi sẽ xem qua, - cậu nhóc hứa trong lúc ghi lại địa chỉ.

    Rồi cậu ta bắt đầu in chiếc thẻ cảnh sát giả lên giấy bìa cứng, cẩn thận cắt ra.

    - Cầm lấy này, trung úy, - cậu ta nói rồi hãnh diện chìa cho Emma chiếc giấy thông hành quý giá.

    Cô gật đầu khi nhận thấy chất lượng tác phẩm cậu nhóc làm ra rồi nhét chiếc thẻ vào ví.

    - Chúng ta giữ liên lạc nhé, OK? Cậu không làm chuyện ngu ngốc và gọi tôi nếu gặp rắc rối nhé.

    - Tuân lệnh, - cậu nhóc đáp, nháy mắt với cô rồi huơ huơ điện thoại di động.

    ° ° °

    Trên phố Boylston, tuyết vẫn rơi mau, gây cản trở giao thông. Nhưng người dân Boston đã quyết định không lùi bước trước điều kiện thời tiết bất lợi. Những người bảo vệ dùng xẻng dọn quang lối vào các tòa nhà trong khi nhân viên sở giao thông công chính rải muối lên mặt đường và điều tiết giao thông.

    Gần khách sạn Bốn Mùa có một trung tâm thương mại. Emma tới đó làm một cuộc shopping nhanh gọn: quần jean, giày cao cổ, áo cổ lọ chất len ca sơ mia, áo vest da.

    Trong phòng thử, cô ngắm nhìn vẻ bề ngoài đã đổi khác của mình, tự hỏi liệu trông mình có đáng tin không.

    - Trung úy Emma Lovenstein, cảnh sát Boston! - Cô nói trong lúc giơ chiếc thẻ ra trước gương.

    --------------------------------
    1 Doctor of Medecine. (Chú thích của tác giả)
    2 Viết tắt của Boston Police Department: Sở cảnh sát Boston. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:51 PM.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết




    17. Cậu nhóc với những chiếc màn hình
    Tự do của chúng ta được xây dựng dựa trên điều mà
    người khác không hay biết về cuộc sống của chúng ta.
    Alexandre SOLJENITSYNE


    Boston, 2010

    19 giờ 15

    Những bông tuyết vương lại trên kính của Romuald.

    Cậu nhóc gỡ kính ra rồi lau mắt kính bằng tay áo pull. Cậu đeo lại kính để rồi nhận ra rằng cậu chỉ nhìn rõ hơn chút xíu. Dù có đeo kính hay không thì thế giới vẫn hiện ra dưới mắt cậu nhòe nhoẹt tăm tối, diệu vợi như vậy.

    Câu chuyện đời mình…

    Duy nhất một lần, cậu cố gắng hành động đúng trình tự. Lúc từ sân bay tới khách sạn, cậu đã nhìn thấy tòa nhà trụ sở của một thương hiệu tin học lớn. Một khối lập phương khổng lồ trong suốt nằm trên phố Boylston. Cậu phải đi tới đó. Vỉa hè chỉ chực biến thành sân trượt băng. Cậu trượt chân nhiều lần và kịp thời túm được thoạt tiên là một cột đèn, sau đó là một biển báo. Cuối cùng, cậu đến được trước mặt tiền bằng kính rộng thênh thang của tòa nhà ba tầng. Chỉ còn hai ngày nữa là tới Giáng sinh, cửa hàng mở tới tận nửa đêm. Bên trong giống như một tổ kiến. Đám động nghìn nghịt và khẩn trương suýt thì khiến cậu nhóc mê tin học bỏ cuộc. Như mỗi lần rơi vào tình huống tương tự, cậu lại bỗng nhiên phát hoảng. Tim cậu nện thình thịch trong lồng ngực và một dòng mồ hôi khiến cậu ớn lạnh xương sườn. Thoáng thấy xây xẩm mặt mày, cậu cố gắng tách khỏi đám người bằng cách đi cầu thang bộ bằng thủy tinh hữu cơ, dây thần kinh trung ương nối ba tầng của cửa hàng.

    Lên trên cao rồi, cậu thấy dễ thở hơn một chút và dần dà có thể xoa dịu nỗi lo cho mình. Cậu tới xếp hàng và kiên nhẫn chờ nhiều phút dài dằng dặc trước khi một nhân viên bán hàng hỏi đến cậu. Một khi đã tiếp xúc, cậu nhóc biết cách tỏ ra thuyết phục: cậu không chỉ biết mình muốn gì mà thêm vào đó còn đang cầm trong tay một chiếc thẻ tín dụng gần như không giới hạn. Thế nên cậu chọn mua chiếc máy tính mạnh nhất, mua nhiều màn hình cùng nhiều thiết bị ngoại vi, cáp và ổ cắm nối dài. Mọi thứ mà cậu hằng mơ ước. Sau khi đã kiểm tra tính hợp thức của thẻ thanh toán cậu đưa ra, cửa hàng chấp nhận – xét trên giá trị đơn hàng và địa điểm giao hàng tại khách sạn khá gần – trong vòng một tiếng sẽ giao tận nơi toàn bộ số hàng cậu đã mua.

    Hãnh diện vì đã tiến hành trôi chảy phần đầu của nhiệm vụ, Romuald cuốc bộ trở lại khách sạn Bốn mùa. Vào đến phòng hạng sang, cậu gọi bộ phận phục vụ phòng, đặt một suất bánh kẹp thịt nấm củ, một bánh ngọt rắc vụn sô cô la và một lon Coca light để ra vẻ ý thức tốt.

    Khi đã nhận được thiết bị tin học, cậu nối máy nghe nhạc vào loa, cài đặt một playlist thích hợp (Led Zep, Blue Oyster Cult, Weeer…) rồi dành cả tối để cài đặt cấu hình cho các thiết bị.

    Ở đó, trong căn phòng ấm áp, được bảo vệ giữa tiếng máy móc chạy ro ro, cậu như cá gặp nước. Cậu yêu thích máy tính, những thiết bị công nghệ cao, đồ ăn và tự tặng cho mình những khoảng trống dài một mình với những cuốn sách khoa học viễn tưởng hoặc kỳ ảo. Dĩ nhiên, cậu thường xuyên cảm thấy cô độc. Hết sức cô độc. Nỗi buồn đột ngột dâng lên như một cơn sóng từ xa dội lại, thít lấy cổ họng cậu và khiến mắt cậu ngân ngấn nước.

    Ở bất cứ đâu cậu cũng cảm thấy không tự nhiên, không thực sự thoải mái, không thể hết lo lắng. Bố mẹ và bác sĩ tâm lý thường xuyên theo dõi cậu vẫn thường nhắc nhở rằng cậu cần phải “đi về phía những người khác”, phải “tập luyện một môn thể thao”, “kết bạn với cả nam lẫn nữ”. Đôi khi, để họ vui lòng, cậu bằng lòng thực hiện vài nỗ lực nhưng chúng chẳng bao giờ mang lại kết quả. Cậu ngờ vực quá nhiều người, ngờ vực ánh mắt họ, lời phán xét của họ, những vố lừa mà họ có thể sẽ bắt cậu phải chịu. Vậy nên cậu chờ họ bắn cho cậu vài mũi tên rồi quay trở lại nấp đằng sau lớp vỏ đã tự rèn đúc cho mình từ tuổi ấu thơ.

    Cậu kết thúc việc cài đặt bằng cách uống nốt lon Coca. Trước tình huống hiện nay, cậu vừa thấy phấn khích vừa thấy mất phương hướng. Cậu đang làm gì ở đây nhỉ, tại Boston này, cách nhà sáu nghìn cây số, trong căn phòng khách sạn hạng sang cùng một phụ nữ mà cậu vừa mới quen biết và khẳng định là mình nhận được những bức mail từ tương lai?

    Đơn giản là cậu để mặc cho bản năng mình dẵn dắt. Cậu nhận thấy ở Emma bóng dáng của một người chị có lẽ cũng khốn khổ và cô độc như cậu. Cậu đoán rằng đằng sau những lời châm chọc, chị có một trái tim nhân hậu. Nhất là cậu cảm thấy chị đã gần chạm đến sự tan vỡ, và lần đầu tiên trong đời, cậu có cảm giác mình hữu ích đối với ai đó. Ngay cả khi cậu là người duy nhất biết điều đó, cậu cảm thấy trong mình có một sức mạnh và một trí tuệ đang đòi hỏi được thể hiện.

    Lúc này, những ngón tay của cậu đang lướt trên bàn phím như những tốp lính bộ binh tấn công thành trì của kẻ địch.

    Tại New York, cậu từng chứng kiến thằng bạn Jarod lén lút xâm nhập vào tầng thứ nhất của Domain Awareness System, hệ thống giám sát tổng thể của thành phố khai thác trong thời gian thực tế những máy quay ở Manhattan. Cậu vẫn còn nhớ một vài thao tác. Đủ để tấn công vào mục tiêu của riêng cậu: hệ thống tin học của Bệnh viện Đa khoa Massachusetts.

    Cuộc chiến kéo dài, nhưng cứ kiên trì rồi cuối cùng cậu cũng kiểm soát được mạng nội bộ và toàn bộ các máy quay giám sát của trung tâm khám chữa bệnh. Cậu hack cho đến lúc nắm quyền truy cập hồ sơ bệnh án của bệnh nhân cũng như hồ sơ nghề nghiệp và thời gian biểu của toàn bộ nhân lực bệnh viện.

    Cậu máy móc kiểm tra thời khóa biểu của Kate. Nữ bác sĩ khoa ngoại đã kết thúc ngày làm việc của mình và chỉ quay lại lúc tám giờ sáng mai: buổi sáng tại khu nhà chính của Trung tâm Tim mạch, buổi chiều và tối tại bệnh viện Nhi Jamaica Plain thuộc khu ngoại ô phía Tây Nam Boston.

    Romuald cố gắng hồi tưởng lại những gì Emma đã kể cậu nghe: chính vào lúc rời khỏi bãi đỗ xe của bệnh viện Nhi thì Kate bị chiếc xe tải giao bột tong phải. Lặp lại cùng một “lối thao tác”, cậu chỉ cần mười lăm phút là hack được hệ thống tin học của chi nhánh bệnh viện. Cậu dành gần một giờ lang thang từ camera này sang camera khác để “nắm vững” địa hình, rồi chợt nhớ ra trang blog mà Emma nhờ cậu tham khảo.

    Cậu bèn kết nối với Những gian truân của một phụ nữ Boston. Đó là một blog nghiệp dư, một dạng catalog những địa chỉ thú vị được nữ bác sĩ ngoại khoa khuyên đến. Ở đó chủ yếu tập hợp những lời khuyên về các nhà hàng, quán cà phê hay cửa tiệm, mỗi bài viết đều được minh họa bằng một hoặc nhiều bức ảnh. Romuald dành nửa giờ để đọc lướt các bài viết theo trật tự đăng tải. Đang đọc dở thì có điều gì đó khiến cậu chú ý: giọng điệu không thuần nhất giữa các bài viết. Một vài bài được viết hết sức kĩ càng trau chuốt, một số bài khác viết theo lối lỏng lẻo hơn và đầy rẫy những lỗi chính tả. Khó mà tin được rằng tất cả những đoạn văn này đều do cùng một người viết ra. Mặt khác, làm sao một người phụ nữ như Kate – chỉ biết sống cho công việc – lại có thời gian rảnh để tặng cho bản thân chừng ấy cuộc vui?

    Bằng cách đào sâu tìm tòi, cậu nhóc phát hiện ra rằng những bài viết đăng trên trang blog này thực tế chỉ là những đoạn “cắt/dán” từ những blog khác. Rõ ràng là Kate bằng lòng với việc sao chép bài viết của các tác giả khác.

    Nhưng với mục đích gì?

    Lần này thì cậu tắc tị. Cậu dành thêm vài phút để đọc các bình luận cho blog. Trang blog này không nhiều khách truy cập lắm, dù cho một nickname “Jonas21” nào đó, một khách thăm đều đặn của blog, thường để lại một bình luận ngắn ngủi sau mỗi bài viết: “thú vị đấy, chúng tôi rất muốn biết thêm”, “chúng tôi đã đánh chén no say rồi, cảm ơn cô vì những lời khuyên!”

    Romuald cố nén ngáp. Toàn bộ câu chuyện này trở nên quá khó hiểu đối với cậu. Cậu gửi hú họa cho Jarod, thằng bạn chuyên gia tin học, đường link của blog kèm theo một ghi chú yêu cầu cậu ta kiểm tra xem có thấy gì lạ trong trang web này không. Cậu bảo bạn rằng đây là việc gấp và hứa sẽ trả cậu ta khoản tiền công 1.000 đô.

    Đã hơn một giờ sáng khi cậu thiếp đi trước các loại màn hình.

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:51 PM.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    18. Trung úy Lovenstein
    A woman is like a teabag, you never know how strong she
    is until she gets into hot water 1
    - Eleanor ROOSEVELT


    Boston, 2010

    Với kiến trúc cánh quạt kép lấp lánh trong đêm, tòa nhà ốp kính của Viện Não và Trí nhớ giống như một phân tử ADN khổng lồ.

    Những khung cửa ốp kính của toàn nhà mở ra trong một luồng gió thổi thốc. Emma tự tin tiến về phía quầy lễ tân.

    - Trung úy Lovenstein, cảnh sát Boston, - cô vừa nói vừa rút thẻ ngành ra.

    - Tôi có thể giúp gì cho chị đây, trung úy?

    Emma yêu cầu được nói chuyện với Joyce Wilkinson.

    - Tôi sẽ báo cho giáo sư biết, - cô nhân viên lễ tân trả lời, tay nhấc ống nghe điện thoại. - Chị làm ơn đợi một lát nhé.

    Hơi căng thẳng, Emma mở khóa áo rồi dạo vài bước trong đại sảnh có bốn phía tường màu sữa cho cảm giác như đang lang thang trong một phi thuyền không gian. Mỗi bên vách lại có những tấm pa nô phát sáng cho thấy lịch sử những năm gần đây của viện chuyên ngành nghiên cứu cơ quan bí ẩn và mê hoặc nhất của con người.

    Bộ não con người…

    Dự án của viện nghiên cứu não rất rõ ràng: tập hợp một số nhà khoa học tài ba nhất hành tinh để đẩy xa hơn nữa hiểu biết về những căn bệnh của hệ thần kinh (Alzheimer, tâm thần phân liệt, bệnh Parkinson…).

    - Trung úy, vui lòng đi theo tôi.

    Emma đi theo nhân viên lễ tân.

    Một chiếc thang máy yên ắng hình viên nang ốp kính đưa họ lên tận tầng trên cùng của tòa tháp. Cuối một hàng lang kính có một khoảng không gian hoàn toàn trong suốt: nơi làm việc của Joyce Wilkinson.

    Nhà khoa học ngước mắt khỏi máy tính xách tay khi Emma bước qua cửa phòng làm việc.

    - Mời trung úy vào đây. Rất hân hạnh, chị ta nói rồi chỉ tay vào chiếc ghế đối diện.

    Như những bức ảnh đã giúp người ta đoán ra, Joyce Wilkinson là người gốc Ấn. Nước da mai mái và mái tóc đen nhánh cắt ngắn tương phản với đôi mắt nhạt màu và tươi cười đang lấp lánh đằng sau cặp kính mỏng với gọng kính trong mờ.

    Emma giơ thẻ cảnh sát ra hết sức tự nhiên.

    - Cảm ơn chị vì đã dành cho tôi vài phút trong quỹ thời gian quý giá, giáo sư ạ.

    Joyce gật đầu. Bên dưới chiếc áo blouse phanh cúc, chị ta chỉ mặc một chiếc quần âu kaki và chiếc áo len sợi thô khiến chị ta trông gần như thơ trẻ, vẻ thơ trẻ của một đứa con trai bà mụ nặn nhầm. Gương mặt vuông vức và trẻ trung của chị ta dễ gây thiện cảm.

    Trước khi ngồi xuống, Emma liếc nhanh một vòng quanh phòng. Bốn phía tường treo đầy màn hình phẳng trên đó giăng ra hàng chục mặt cắt của não người.

    - Trông như tranh của Andy Warhol ấy nhỉ, - cô nhận xét khi thấy những màu sắc rực rỡ của những kỳ hoạt động não khiến cho các bức hình “sống động”, gần như vui mắt.

    Joyce giải thích:

    - Đây là một nghiên cứu y khoa được thực hiện tại Nam Mỹ trên hàng nghìn người thuộc một dòng họ mở rộng mà các thành viên đều có khuynh hướng mắc bệnh Alzheimer di truyền.

    - Và nghiên cứu này đưa tới những kết luận nào?

    - Nghiên cứu chỉ ra rằng những dấu hiệu tiền báo của căn bệnh này xuất hiện trước những triệu chứng đầu tiên hai mươi năm.

    Emma lại gần một trong những bức ảnh. Cô chợt nghĩ đến bố mình, đang mắc căn bệnh này ở giai đoạn cuối, nằm điều trị trong một bệnh viện tại New Hampshire. Như hưởng ứng suy nghĩ của cô, Joyce bỗng thổ lộ:

    - Bố nuôi của tôi từng mắc căn bệnh này dạng tiền báo. Chuyện này đã phá hỏng tuổi thơ của tôi, nhưng nó cũng xác định khuynh hướng của tôi.

    Cô “cảnh sát” tiếp tục cuộc trao đổi:

    - Bộ não… Tất cả mọi chuyện đều xảy ra bên trong đó, không phải vậy sao? - Cô chỉ vào đầu mình. - Những tín hiệu điện, những nối kết giữa các nhóm nơ ron…

    - Phải rồi, - Joyce mỉm cười đáp. - Bộ não chi phối quyết định của chúng ta và ấn định hành vi cũng như phán đoán của chúng ta. Nó xây dựng ý thức chúng ta có về thế giới xung quanh và về chính chúng ta, tới mức quy định cách chúng ta phải lòng ai đó!

    Chị ta có chất giọng trầm ấm, hơi khàn. Một vẻ duyên dáng thu hút. Nữ bác sĩ gật đầu, đu đưa trên ghế.

    - Đó là một chủ đề lý thú, nhưng cô đến gặp tôi không phải để nói chuyện đó, không phải sao trung úy?

    - Quả nhiên là vậy. Tôi có mặt tại đây vì BPD hiện đang tiến hành một cuộc điều tra trong đó xuất hiện tên của Kate Shapiro.

    Joyce tỏ ra thực sự kinh ngạc.

    - Kate ư? Các vị quy kết cho cô ấy tội lỗi gì đây?

    - Chắc chắn là không có gì nghiêm trọng, - Emma cam đoan. - Kate không phải nhân vật chính trong cuộc điều tra của chúng tôi. Ngay lúc này tôi không thể nói cho chị biết thêm điều gì, nhưng cảm ơn vì chị đã hợp tác.

    - Tôi có thể giúp cô bằng cách nào đây?

    - Bằng cách trả lời một vài câu hỏi. Chị gặp Kate lần đầu là khi nào?

    - Để xem nào, hồi đó là năm… năm 1993, - chị ta khẳng định sau khi đếm nhẩm trên ngón tay. - Cả hai chúng tôi đều là sinh viên năm nhất của JMP.

    - JMP ư?

    - Chương trình Y khoa kết hợp của đại học Berkeley. Đó là một chương trình giảng dạy y khoa năm năm dành cho những sinh viên xuất sắc được tuyển chọn trên cả nước. Ba năm master khoa học tại trường, tiếp đó là hai năm thực tập tại các bệnh viện khác nhau tại California.

    - Chị là bạn thân nhất của Kate tại trường đại học đúng không?

    Joyce im lặng nheo mắt, để cho ký ức chầm chậm ùa về từ quá khứ.

    - Đúng thế, chắc chắn rồi. Suốt ba năm trời chúng tôi ở chung một phòng tại Berkeley, sau đó thuê một căn hộ nhỏ tại San Francisco trong hai năm. Tiếp đến, chúng tôi dọn tới Baltimore để bắt đầu kỳ nội trú tại đó.

    - Kate thời đó như thế nào?

    Nữ bác sĩ khoa thần kinh nhún vai.

    - Tôi hình dung cũng giống như hiện tại thôi: xinh đẹp, cầu tiến, thông minh, được phú cho một ý chí thép… Thực sự hết sức tài năng. Tôi chưa từng gặp ai có khả năng làm việc nhanh nhẹn và bền bỉ như cô ấy. Tôi còn nhớ cô ấy ngủ rất ít và có khả năng tập trung đến khó tin. Đó chắc chắn là sinh viên xuất sắc nhất khóa chúng tôi.

    - Chị ấy từ đâu đến?

    - Từ một trường dòng tại Maine, tôi quên tên trường rồi. Trước Kate, trường đó chưa từng có ai được nhận vào JMP. Tôi vẫn còn nhớ số điểm cô ấy đạt được ở bài kiểm tra đầu vào, số điểm cao nhất kể từ khi kỳ kiểm tra đó được áp dụng. Và tôi sẵn sàng đánh cược cho đến hôm nay vẫn chưa ai phá được kỉ lục đó.

    - Hai người trở thành bạn của nhau như thế nào?

    Joyce khoát tay.

    - Tôi nghĩ là căn bệnh bố mẹ chúng tôi mắc phải đã khiến chúng tôi xích lại gần nhau. Kate đã mất mẹ vì những di chứng xơ cứng rải rác. Cả hai chúng tôi đều đã dành trọn đời mình để chống lại những căn bệnh thoái hóa thần kinh.

    Emma nhướng mày.

    - Đó đúng là điều chị đang làm, nhưng với Kate thì đâu có phải như vậy. Cô ấy trở thành bác sĩ ngoại chuyên khoa Tim mạch.

    - Đúng vậy, cô ấy đã đột ngột chuyển hướng vào năm 1999, giữa năm thứ hai trong kỳ nội trú của chúng tôi tại Baltimore.

    - Ý chị là cô ấy đã dừng kỳ nội trú khoa Thần kinh vào năm thứ hai để chuyển hướng sáng ngoại khoa?

    - Đúng vậy: vì đó là một sinh viên cực kỳ xuất sắc, trường Johns Hopkins đã chấp nhận để cô ấy chuyển sang kỳ nội trú ngoại khoa ngay giữa năm.

    - Sao lại có sự thay đổi này?

    - Cho đến hôm nay tôi vẫn không thể giải thích điều này. Vả chăng, chính kể từ ngày ấy con đường chúng tôi đi rẽ hai hướng khác nhau và mối quan hệ của chúng tôi ngãng ra.

    Emma gặng hỏi.

    - Nghĩ cho kĩ lại, chị vẫn thực sự không biết điều gì có thể dẫn đến quyết định đó sao?

    - Chuyện cách đây đã mười năm rồi. Ngày đó chúng tôi mới hai mươi tư. Vả lại, trong ngành y, không hiếm những sinh viên giữa chừng đổi hướng.

    - Nhưng đây dù sao cũng là lời cam kết trọn đời. Chị vừa nói Kate đã quyết tâm gây dựng sự nghiệp với chuyên khoa thần kinh mà.

    - Tôi biết thế, - Joyce ghi nhận. - Hẳn là trong năm ấy, cuộc đời cô ấy đã xảy ra biến cố nào đó quan trọng, nhưng tôi không biết nói sao với cô.

    Emma với lấy cây bút nằm trên bàn làm việc rồi ghi năm “1999” lên cẳng tay, kèm theo câu hỏi: “Sự kiện nào trong đời Kate?”

    - Cô có muốn một tờ giấy không trung úy?

    Emma từ chối đề nghị rồi tiếp tục màn “hỏi cung”:

    - Ngày đó Kate có hẹn hò với bạn trai không?

    - Vẻ đẹp của cô ấy có sức hút như nam châm khiến rất nhiều người theo đuổi. Nói một cách nôm na hơn: thằng con trai nào nhìn thấy cô ấy cũng phát thèm và mơ đưa được cô ấy lên giường.

    - Chị chưa trả lời câu hỏi của tôi, - Emma nhấn mạnh. - Cô ấy hẹn hò với ai?

    Lúng túng, rõ ràng là Joyce đang tìm cách bảo vệ chuyện riêng tư của cô bạn cũ.

    - Chuyện này thuộc phạm vi đời tư cá nhân của cô ấy đúng không?

    Để Joyce bớt đắn đo, Emma hỏi rõ hơn một chút:

    - Cô ấy hẹn hò với Nick Fitch phải không?

    Joyce buột ra một tiếng thờ phảo nhẹ nhõm khó nhận thấy. Hài lòng vì không để lộ bí mật của Kate, chị ta tự cho phép mình thổ lộ:

    - Đúng vậy, Nick là tình yêu lớn của Kate.

    - Họ hẹn hò từ khi nào? - Emma hỏi để tranh thủ kẽ hở.

    - Từ năm mười chín tuổi. Khi ấy chúng tôi đang học năm hai tại Berkeley thì Fitch tới nói chuyện tại trường. Nhưng Kate đã gặp anh ấy từ trước. Thế nên Kate tới gặp anh ấy sau buổi hội thảo và họ bắt đầu thường xuyên gặp gỡ. Chuyện tình của họ bắt đầu năm 1994. Thời đó Fitch đã là một huyền thoại. Lúc đó anh ấy khoảng hai lăm, hai sáu tuổi và đã kiếm nhiều tiền trong ngành công nghiệp trò chơi điện tử. Ngày ấy, trong lĩnh vực phần mềm miễn phí, ai cũng đã nhắc đến Unicorn.

    - Ai biết mối quan hệ giữa họ?

    - Rất ít người. Thậm chí theo tôi là chẳng ai biết, ngoại trừ mẹ của Nick và tôi. Fitch luôn hết sức kín đáo trong đời tư. Một tay cuồng ám thực sự. Cô sẽ không tìm thấy một bức ảnh hay đoạn phim nào có ảnh họ ở cùng nhau. Nick hết sức chú ý chuyện đó.

    - Chứng cuồng ám này ở đâu ra vậy?

    - Tôi không rõ. Dẫu sao đó cũng là điều đã ăn sâu vào Nick.

    Emma ngừng lại một lúc. Chứng cuồng ám này không khớp với đoạn phim cô đã ghi lại được sáng nay bằng điện thoại. Tại sao Kate và Nick lại gặp nhau trong một quán rượu nơi bất kỳ ai cũng có thể trông thấy họ như vậy?

    - Mối quan hệ này đã kéo dài bao lâu?

    - Nhiều năm liền, nhưng đó là một mối quan hệ nhiều cãi vã. “Theo tình tình phớt, phớt tình tình theo”. Cô biết kiểu quan hệ đó chứ?

    - Rủi thay tôi lại biết rõ, - Emma thở dài.

    Joyce mỉm cười nói tiếp:

    - Theo những gì cô ấy tâm sự với tôi, Kate đã phải đau khổ rất nhiều vì tính khí thay đổi thất thường của Nick. Cô ấy trách Nick không hứa hẹn gì. Hôm thì anh ấy tỏ vẻ hết sức thiết tha, nhưng hôm sau đã trở nên xa cách. Họ đã nhiều lần chia tay. Cô ấy thực sự si tình và sẵn sàng làm bất cứ điều gì cho Nick, kể cả vụ phẩu thuật thẩm mỹ ngu ngốc kia.

    Emma cảm thấy nhoi nhói trong bụng. Cô đã không sai…

    - Việc phẩu thuật thẫm mỹ đó là vào năm nào?

    - Mùa hè năm 1998, cuối năm nội trú đầu tiên, nghĩa là vài tháng trước khi Kate đổi chuyên ngành.

    - Theo chị thì Kate đã tiến hành phẫu thuật để làm vừa lòng Fitch sao?

    - Đúng thế, tôi thấy chuyện đó là hiển nhiên. Thời đó, Kate không hiểu sao Nick lại cự tuyệt mình. Cô ấy không còn tự tin nữa. Cuộc phẫu thuật này chẳng qua là một hành động tuyệt vọng.

    Emma đổi chủ đề.

    - Kate và Nick hẹn hò tới khi nào?

    Joyce lắc đầu.

    - Tôi hoàn toàn không biết gì về chuyện đó. Như tôi vừa nói với cô rồi đấy, chúng tôi bặt tin nhau kể từ khi Kate đổi chuyên ngành. Thỉnh thoảng chúng tôi mail cho nhau, nhưng không còn tâm sự hay thổ lộ gì nữa. Sau thời gian nội trú ở Baltimore, cô ấy quay về San Francisco để kết thúc kỳ nội trú của mình, rồi cô ấy theo học một khóa đào tạo phẫu thuật tim tại New York. Cách đây năm năm, cô ấy đã hoàn thành chuyên ngành bằng một khóa ghép tim tại Boston, và ngay sau tốt nghiệp, cô ấy có được vị trí chính thức tại MGH.

    Emma bắt luôn câu nói đó.

    - Vậy là hai chị đều có mặt trong cùng một thành phố vào cùng một thời điểm?

    - Gần như vậy. Tôi vào làm ở Viện Thần kinh cách đây ba năm rưỡi.

    - Tôi hình dung là ngay khi tới đây chị đã tìm cách gặp lại bạn thân…

    Hơi lúng túng, Joyce để vài giây trôi qua mới trả lời.

    - Đúng vậy, tôi đã liên lạc với cô ấy và chúng tôi đã gặp nhau tại một quán cà phê tại Back Bay. Lúc đó cô ấy mới sinh con được vài tháng. Cô ấy kể là đang sống hết sức hạnh phúc, hết sức hài lòng về cuộc sống gia đình và rất mực yêu thương chồng, một giảng viên Triết học ở Harvard.

    - Chị có tin cô ấy không?

    - Tôi chẳng có lý do gì để không tin.

    - Hai người có nhắc đến Nick không?

    - Không, bấy giờ không phải lúc thích hợp. Cô ấy vừa kết hôn và sinh con. Tôi sẽ không lật lại quá khứ làm gì.

    - Sau đó hai người không gặp lại nhau sao?

    - Tôi có rủ, nhưng cô ấy không bao giờ trả lời mail hay điện thoại. Được một thời gian thì tôi cũng thôi.

    Joyce buột một tiếng thở dài rồi sự im lặng chụp lên căn phòng. Emma ngoảnh mặt nhìn ra cửa sổ. Cô nheo mắt nhìn cho rõ dòng sông, đen kịt và ảm đạm, đang chảy bên dưới.

    - Tốt lắm. Cảm ơn chị đã hợp tác, - cô nói đoạn đứng dậy.

    Joyce cũng đứng dậy.

    - Để tôi tiễn cô, trung úy.

    Emma đi theo nhà khoa học ra hành lang rồi vào trong thang máy.

    - Cô thực sự không thể nói cho tôi biết người ta quy kết Kate tội gì sao? - Joyce cố nài trong lúc ấn nút thang máy để xuống tầng trệt.

    - Vẫn còn sớm quá, tôi xin lỗi. Tôi cũng yêu cầu chị đừng nói cho ai biết về cuộc trao đổi giữa hai ta.

    - Tùy cô thôi. Tôi thực sự hi vọng đã không xảy ra chuyện gì nghiêm trọng, nhưng dù Kate có thể làm gì chăng nữa, cô cũng nên hiểu rõ một điều: một khi đã bắt đầu vào chuyện gì đó, cô ấy đều thực hiện với trí thông minh và lòng quyết tâm. Và cô ấy sẽ đi đến cùng. Cô ấy chỉ có một điểm mềm lòng, một điểm yếu duy nhất.

    - Tình yêu?

    - Dĩ nhiên là vậy. Kate thường tự nói rằng, khi yêu, cô ấy cảm thấy tâm hồn Nga trong mình trỗi dậy và cô ấy có khả năng làm những điều thái quá nhất. Tin tôi đi, đó không phải một câu đùa đâu.

    Joyce đưa cho cô tấm card khi đã tới đại sảnh của viện.

    - Nếu cần thêm những thông tin khác, xin trung úy đừng ngại.

    - Cảm ơn chị. Một câu hỏi cuối cùng: phải chăng Kate có khả năng làm chuyện gì đó để trả thù Nick?

    Joyce khoát tay trong một cử chỉ bất lực. Hai người phụ nữ tiếp tục trao đổi hơn nửa tiếng nữa trong ánh sáng màu sữa của Viện Não.

    Cuối cùng, Emma bước đi trong màn đêm. Trời đã về khuya. Tuyết đã ngừng rơi nhưng bầu không khí buốt giá đã khiến khu học xá đóng băng.

    Nhìn quanh không thấy bóng dáng chiếc taxi nào. Cô cuốc bộ tới bến Kendall/MIT rồi lên tàu điện ngầm quay về Boston.

    Đẩy cửa bước vào khách sạn, cô thấy Romuald đã ngủ thiếp đi trước một dãy màn hình, đầu gối lên hai cánh tay khoanh lại.

    Cô mở to mắt tò mò nhìn dàn máy móc điện tử. Cậu nhóc đã biến căn phòng khách sạn hạng sang thành một đại bản doanh an ninh.

    Cô rời khỏi phòng không một tiếng động rồi quay trở lại quầy bar của khách sạn.

    Vào lúc khuya thế này, nơi đây chỉ còn vài khách.

    Cô gọi một ly cocktail caipiroska nữa rồi vừa nhấm nháp vừa nhớ lại những gì Joyce Wilkinson đã kể cô nghe trước khi học chia tay nhau.

    Cuộc gặp đầu tiên giữa Kate và Nick.

    --------------------------------
    1 Tiếng Anh trong nguyên bản: Một người phụ nữ giống như một túi trà, bạn sẽ không bao giờ biết cô ấy mạnh như thế nào cho tới khi cô ấy được nhúng vào nước nóng.
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:52 PM.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    19. Nữ thần Pê ru bất tử
    Những lời tình tứ như những mũi tên mà người thợ săn
    bắn ra. Con hươu trúng tên tiếp tục chạy và người ta không
    ngay lập tức biết được là vết thương có chí tử hay không.
    - Maurice MAGRE


    Mười chín năm về trước

    Tháng Hai 1991

    Kate mười sáu tuổi – Nick hai mươi ba tuổi

    Nhà hàng của một trạm phục vụ xe hơi gần St. Helens tại Oregon.

    Trời đang có tuyết rơi. Căn phòng gần như vắng ngắt. Một khách hàng duy nhất đang vừa kết thúc món trứng Benedict vừa chơi một ván cờ điện tử. Đằng sau quầy, cô phục vụ hết sức trẻ trung đang nghe album Nevermind quay trong ổ CD. Một cuốn sách sinh học mở rộng trước mắt, cô nhóc có vẻ đang chăm chú đọc sách ngay cả khi thân hình đang rung lên theo nhịp nhạc.

    - Cô ơi! Cô làm ơn rót thêm cà phê cho tôi được không?

    Kate ngước lên khỏi cuốn sách giáo khoa, vớ lấy bình cà phê đang hâm nóng trên giá rồi tiến về phía khách hàng. Cô vừa rót cà phê vừa né tránh ánh mắt của anh ta. Sự chú ý của cô dồn vào ván cờ anh ta đang chơi. Cô cắn lưỡi, ngập ngừng không biết có nên nói với anh ta một điều, làm vậy sẽ đi ngược lại với nguyên tắc mà cô đã tự đặt ra cho mình: né tránh lũ đàn ông xa chừng nào tốt chừng đó. Cuối cùng, khi nhìn thấy anh ta trỏ một quân trên bàn cờ, cô bước qua lằn ranh và chỉ thị:

    - Đặt quân xe xuống và quên việc nhập thành 1 đó đi.

    - Gì kia? - Nick hỏi.

    Giọng anh trầm bổng và tươi vui. Lần đầu tiên cô thực sự nhìn anh. Anh mặc đồ đen, nhưng gương mặt duyên dáng và mái tóc sáng lấp lánh như mật ong.

    - Ngay bây giờ thì muốn nhập thành không phải là một ý hay, - cô giải thích vẻ tự tin. - Hãy di chuyển con mã ở ô E7 thì hơn.

    - Sao lại thế?

    - Anh đang ở nước cờ thứ mười đúng không?

    Nick nhìn bàn cờ rồi gật đầu:

    - Chính xác.

    - Vậy thì hình thế ván cờ này đang theo hình mẫu của một ván cờ nổi tiếng: Nữ thần Pêru bất tử.

    - Chưa từng nghe nói đến.

    - Thế nhưng đó là một ván cờ hết sức nổi tiếng, - cô nhận xét với đôi chút hạ cố.

    Anh thích thú trước vẻ táo tợn của cô nhóc này.

    - Cô kể tôi nghe đi.

    - Ván cờ diễn ra tại Budapest vào năm 1934 bởi bậc thầy chơi cờ người Pêru tên là Esteban Canal. Bị chiếu bí ở nước cờ thứ mười bốn, mất quân hậu và hai quân xe.

    Anh khoát tay mời cô ngồi xuống.

    - Chỉ tôi xem nào.

    Cô không biết nên thế nào, nhưng rốt cuộc cũng ngồi xuống phía đối diện rồi bắt đầu dịch chuyển một quân cờ, rồi một quân khác, đi bước nào bình luận luôn bước đó:

    - Vậy thì nếu anh di chuyển xe, quân tốt của đối thủ sẽ ăn quân tốt của anh ở ô b4, rồi quân hậu của anh sẽ di chuyển đến ô a1, nhất trí không? Sau đó, quân vua của đối phương sẽ đi tới ô d2 và tới đó, anh không còn lựa chọn: quân hậu của anh phải sang ô h1. Quân hậu của đối phương ăn quân tốt của anh ở ô c6, buộc anh ăn quân hậu của anh ta rồi ván cờ kết thúc bằng một nước chiếu bí khi quân tượng di chuyển đến ô a6.

    Nick sững sờ. Kate đứng dậy rồi kết thúc phần chứng minh bằng cách nói rõ:

    - Đó là một nước chiếu bí kiểu Boden.

    Hơi tự ái, anh nhìn bàn cờ đăm đăm, tự chơi lại ván cờ trong đầu.

    - Không, chờ đã! Tại sao quân hậu phải ăn quân xe?

    Cô nhún vai.

    - Nếu như vậy đối với anh là quá nhanh thì cứ bình tĩnh mà chơi lại ván cờ. Anh sẽ thấy đó là giải pháp duy nhất khả dĩ.

    Vượt qua nỗi thẹn vừa chuốc lấy, anh đề nghị cô chơi một ván cờ, nhưng cô liếc nhìn đồng hồ đeo tay rồi từ chối.

    Anh nhìn cô quay lại sau quầy trong khi chủ nhà hàng xuất hiện.

    - Được rồi, Kate, cô có thể đi rồi, - người đàn ông nói và chìa cho cô bốn tờ 10 đô.

    Cô gái nhét vào túi, tháo tạp dề, cất quyển sách vào túi xách rồi băng qua phòng để đi ra.

    Nick gọi cô lại:

    - 10 đô cho một ván cờ nhỏ nào! - Anh vừa nhấn mạnh vừa đặt một tờ tiền lên bàn. - Tôi nhường cô quân trắng!

    Kate nhìn tờ tiền, ngần ngừ một phần tư giây rồi ngồi xuống và lên một quân tốt.

    Nick mỉm cười. Những nước đi đầu tiên diễn ra trong chốc lát. Kate nhanh chóng hiểu ra rằng cô sắp thắng ván cờ và thậm chí cô còn có thể thắng rất nhanh, nhưng điều gì đó trong cô không muốn làm vậy. Hầu như vô thức, cô đi vài nước vào thế bí để kéo dài thời gian. Có những lúc, cô buộc mình không nhìn ra cửa sổ để khỏi trông thấy những bông tuyết đang quay cuồng trên bầu trời. Bên ngoài, cô biết đang có những cơn gió quất rát, cái lạnh cắt da cắt thịt, nỗi sợ, cảm giác bấp bênh. Cô biết sớm hay muộn, cô sẽ phải thu hết can đảm để đối diện với chúng, nhưng ngay lúc này, cô tự cho mình một khoảng trời riêng với chàng kỵ sĩ đen với mái tóc vàng, được ru theo tiếng nhạc, trong bầu không khí ấm áp đặc sếnh của nhà hàng.

    - Tôi sẽ trở lại ngay, - Nick nói rồi đứng dậy.

    Cô nhìn anh đi về phía toa lét. Hai phút sau anh quay lại rồi tự rót tự lấy một tách cà phê, tự nhiên như đang ở nhà mình trước khi quay trở lại chỗ và ngồi xuống. Cả hai người họ chơi càng lúc càng chậm. Cô kéo dài thú vui thêm năm phút nữa trước khi thúc nhanh mọi chuyện. Bằng ba nước đi, Nick đã rơi vào thế tiến thoái lưỡng nan.

    Thua và bị chiếu bí.

    - Xong nhé, - cô xẵng giọng rồi cầm tờ tiền trên bàn đút túi.

    Đến lượt cô đứng dậy rồi vớ lấy túi xách.

    - Chờ đã! - Anh kêu lên. - Cho tôi cơ hội gỡ lại.

    - Không, xong ván rồi.

    Cô đi khỏi rồi khép cánh cửa lại sau lưng. Anh nhìn theo cô qua cửa kính.

    Những lời sau cùng của cô vang vọng trong đầu anh.

    Xong nhé…

    - Khỉ thật, cô gái kia là ai vậy? - Anh hỏi trong lúc tiến về phía quầy.

    - Tôi chịu, - ông chủ đáp. - Một cô bé người Nga, tôi nghĩ thế. Tôi vừa nhận cô bé vào làm sáng nay.

    - Tên cô ta?

    - Tôi không nhớ nữa. Nghe phức tạp phết. Tiếng Nga chứ sao nữa. Thế nên, cô bé tự xưng là “Kate”.

    - Kate, - Nick thì thầm nhắc lại, như để tự mình ghi nhớ.

    Anh nhún vai, rút ví từ túi quần jean rồi bỏ lại một tờ tiền thanh toán. Rồi anh mặc chiếc áo khoác dày sụ, quàng khăn và tìm chìa khóa xe, thoạt tiên trong túi quần, rồi tìm trong túi áo khoác.

    - Khỉ thật!

    - Gì thế? - Chủ tiệm hỏi.

    - Cô ta lấy trộm chìa khóa xe của tôi rồi!

    ° ° °

    Cùng ngày hôm đó

    Năm giờ sau

    Hai tiếng gõ cửa kéo Nick ra khỏi giấc ngủ. Anh mở mắt nhìn quanh. Phải mất vài giây sau anh mới nhớ ra mình đang ở đâu (trong căn phòng nhỏ của một nhà trọ hơi buồn thảm ở Oregon) và tại sao (bởi vì anh đã khá ngu ngốc để mất trộm xe vào tay một con nhóc trong khi vài tiếng nữa là anh có một cuộc họp mang tính quyết định tại San Francisco…)

    - Ai đấy? - Anh hỏi trong lúc mở cửa.

    - Ông Fitch phải không? Tôi là Gabriel Alvarez, phó cảnh sát trưởng hạt Columbia. Chúng tôi đã tìm thấy xe của ông cùng kẻ trộm.

    - Thật sao? Tôi có thể nhanh chóng lấy lại xe không? Tôi đang khá vội và…

    - Đi nào, tôi sẽ đưa ông tới nhận xe.

    ° ° °

    Chiếc 4x4 của phó cảnh sát trưởng khó nhọc băng qua màn đêm. Tuyết đã ngừng rơi nhưng mặt đường vẫn rất trơn.

    - Anh làm gì trong chốn nhà quê bọn tôi vậy? - Gabriel Alvarez làu bàu hỏi.

    - Tôi vừa dự một hội nghị về trò chơi điện tử tại Seattle. Tôi đang trên đường trở về San Francisco thì bỗng nhiên có tuyết rơi và…

    - Thực sự là trò chơi điện tử hả? Thằng nhóc nhà tôi ngồi hàng giờ chơi mấy thứ đó. Thứ đó hứa hẹn mang đến cho chúng ta cả một thế hệ teo não.

    - Chuyện đó thì còn phải bàn, - Nick thận trọng đáp. - Thế còn xe của tôi? Các ông tìm ra nó ở đâu vậy?

    - Giấu trong một vạt rừng thấp, khu rừng cách đây chừng hai chục cây số. Con nhóc đang ngủ bên trong.

    - Tên nó là gì vậy?

    - Ekaterina Svatkovski. Nó mười sáu tuổi. Theo những gì con nhóc khai thì nó đang sống cùng mẹ trong một chiếc xe moóc cắm trại Bellevue. Cách đây hai tháng bà mẹ đã qua đời. Con nhóc từ chối sống với gia đình tiếp nhận và đã trốn khỏi gia đình được chỉ định nuôi dạy nó. Kể từ đó nó lang thang khắp nơi.

    - Tương lai nó sẽ thế nào?

    - Chẳng có gì tốt đẹp, tôi e là thế. Chúng tôi đã liên lạc với bên bảo trợ xã hội, nhưng chuyện đó cũng chẳng giải quyết được vấn đề.

    - Có thể tôi nên rút đơn khiếu nại?

    - Cứ làm những gì anh muốn.

    - Tôi có thể nói chuyện với cô nhóc chứ?

    - Nếu anh thích, nhưng tôi báo trước để anh biết: chúng tôi đã giam nó lại, để dẫu sao cũng cảnh cáo nó một chút…

    ° ° °

    Nick đẩy cánh cửa xà lim.

    - Chào Caitlín. Grr! Ngồi đây buốt hết cả mông nhỉ.

    - Anh xéo đi!

    - Bình tĩnh nào! Vấn đề của cô là gì vậy?

    - Mẹ tôi mất rồi, bố thì chuồn mất dạng, tôi không có tiền, không có chỗ ngủ: anh thấy ưng bức tranh đó chưa?

    Anh ngồi xuống cạnh cô trên băng ghế gỗ gắn vào tường xà lim.

    - Tại sao cô không chịu tới ở trong một gia đình hay cơ sở nào đó?

    - Mặc xác tôi! - Cô vừa hét vừa thụi vào vai anh.

    Để tự vệ, anh khóa tay cô lại.

    - Cô bình tĩnh lại nào, khỉ thật!

    Cô nhìn anh thách thức rồi đẩy anh ra đầu băng ghế.

    - Nhưng cô tính làm gì nào, trong cái lạnh này? - Anh nổi cáu. - Chết gí trong cái vùng nhớp nháp này ư?

    - Buông tôi ra, đồ khốn.

    - Cảnh sát cho tôi xem túi xách của cô rồi. Tôi nhìn thấy mấy quyển giáo trình sinh học của cô. Cô muốn trở thành bác sĩ chứ gì?

    - Đúng thế, và tôi sẽ làm được.

    - Không đâu. Nếu cô cứ bỏ học thế này.

    Cô quay đi để anh không nhìn thấy mắt cô ầng ậc nước. Cô biết anh nói đúng. Cô xấu hổ.

    - Để tôi giúp cô, - anh đề nghị.

    - Giúp tôi ư? Tại sao anh lại giúp tôi? Chúng ta thậm chí còn chẳng quen biết nhau!

    - Đúng vậy, - anh thừa nhận. - Nhưng chuyện đó thì có thay đổi được gì? Những người tôi biết rõ nhất chính là những người tôi ghét nhất.

    Cô vẫn cứng rắn.

    - Tôi đã nói là không. Mọi người không bao giờ giúp đỡ anh miễn phí. Tôi không muốn nợ anh thứ gì.

    - Cô sẽ không nợ tôi thứ gì hết.

    - Ban đầu ai chẳng nói thế…

    Anh rút bàn cờ từ túi xách ra rồi đổi chủ đề.

    - Cô đồng ý cho tôi chứ?

    - Anh không bao giờ đầu hàng sao! - Cô thở dài.

    - Tôi nghĩ đó là một phẩm chất mà cô cũng có đấy, Caitlín.

    - Đừng có gọi tôi như vậy nữa đi! Lần này chúng ta chơi gì đây?

    - Nếu cô thắng, tôi cuốn xéo,- anh đề xuất.

    - Thế nếu anh thắng?

    - Cô để tôi giúp cô.

    Cô hỉ mũi. Anh chìa cho cô một tờ khăn giấy.

    - OK, - cô quyết định. - Nói cho cùng, nếu anh muốn thua trận thứ hai… Quân trắng thuộc về anh đấy.

    Anh mỉm cười, xếp các quân tốt trên bàn cờ rồi đi nước đầu tiên. Cô cũng làm thế.

    - Đúng là ở đây lạnh băng thật, - cô vừa nói vừa run lập cập.

    - Mặc áo khoác của tôi vào, - anh đề nghị.

    Cô nhún vai.

    - Chẳng cần.

    Anh đứng dậy rồi khoác chiếc áo da của mình lên vai cô.

    Cô nép vào bên trong rồi nhượng bộ:

    - Cái thứ này nặng phải đến cả tấn, nhưng siêu ấm đấy.

    Họ tiếp tục ván cờ. Trong lúc hai người yên lặng đánh cờ, cô nhận ra rằng nỗi e sợ và nghi hoặc trong cô đang dần quay trở lại. Tuy nhiên, mùi vị nỗi sợ đã ám vào cô từ khi cô còn nhỏ: sợ mẹ chết, sợ họ mất chỗ ở, sợ chỉ còn lại một mình trên cõi đời này…

    Cô nhắm mắt lại rồi ra một quyết định gỡ cho cô một gánh nặng: cô sẽ thua ván cờ. Cô chấp nhận để chàng hiệp sĩ không biết đến từ nơi nào này giúp đỡ.

    Cô còn chưa biết điều này, nhưng cô đang trải qua thời khắc quyết định cuộc đời.

    Trong những năm tiếp theo, cô sẽ ôn lại hàng nghìn lần đoạn phim về cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa cô với Nick Fitch. Người đàn ông đầu tiên mà cô yêu. Người duy nhất. Mỗi lần cần tiếp thêm can đảm hoặc cảm thấy quyết tâm đang xẹp bớt, cô sẽ tìm ra nguồn năng lượng khi nhớ lại khoảnh khắc kỳ diệu và bất ngờ lúc Nick xuất hiện trong đời cô. Ngày hôm đó khi cô quyết định sẽ thuộc về anh mãi mãi, “cho điều đẹp nhất và điều tệ hại nhất, trong cảnh giàu sang cũng như nghèo hèn, lúc khỏe mạnh cũng như ốm đau bệnh tật, trong niềm vui cũng như nỗi đau. Cho đến lúc cái chết chia lìa”.

    - Chiếu tướng hết cờ, - anh nói trong lúc tấn quân hậu.

    - Nhất trí, anh thắng ván thứ hai này rồi.

    Anh thỏa mãn đặt tay lên vai cô.

    - Được, nghe tôi cho kĩ đây, Caitlín: tôi sẽ rút đơn kiện rồi gọi luật sư riêng. Từ giờ tới đó, đề nghị cô án binh bất động, OK?

    - Luât sư riêng á?

    - Anh ta sẽ đưa cô ra khỏi đây và tránh cho cô các gia đình cũng như cơ sở tiếp nhận. Anh ta sẽ sắp xếp để cô được quyền theo học tại trường St. Joseph.

    - Chỗ nào vậy?

    - Một trường trung học Công giáo tư thục, quy mô nhỏ do các sơ tốt bụng điều hành. Tôi từng theo học ở đó. Đó là nơi lý tưởng nếu cô thực sự muốn học hành.

    - Nhưng tôi làm thế nào để…

    - Cô được học ba năm, không phải lo chi phí, - anh ngắt lời. - Cô không phải lo chỗ ở, giặt giũ, ăn uống. Cô chỉ phải lo học thôi. Nếu cô học hành nghiêm túc thì có thể học lên trường Y. Sau đó sẽ có học bổng và tự cô phải xoay xở. Nhất trí không?

    Cô im lặng gật đầu rồi hỏi:

    - Tôi không nợ gì anh chứ?

    Anh lắc đầu.

    - Cô không chỉ không nợ tôi chút gì, mà cô sẽ không bao giờ nghe nhắc đến tôi nữa.

    - Tại sao anh lại làm vậy?

    - Để cô không thể nói là không ai cho cô cơ hội, - anh trả lời như thế đó là lẽ hiển nhiên.

    Anh cất bàn cờ vào túi xách, đứng dậy để đi rồi nhìn đồng hồ đeo tay.

    - Tôi bị muộn rồi, Caitlín, ở San Francisco người ta đang đợi tôi. Hân hạnh được gặp cô. Bảo trọng nhé.

    Anh bỏ đi, để lại chiếc áo khoác cho cô. Dù anh cố tình hay chỉ lỡ quên thì cô vẫn sẽ giữ lại nó trọn đời.

    --------------------------------
    1 Trong môn cờ vua, nhập thành tháp là một nước đi cho phép đổi chỗ quân xe và quân vua để quân vua được an toàn. (Chú thích của tác giả)
    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:52 PM.

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết



    Phần năm: Lựa chọn cái ác

    20. Ký ức sống
    Đàn ông thích phụ nữ tóc vàng bởi
    phụ nữ tóc vàng biết thứ đàn ông thích.
    - Marilyn MONROE


    Boston

    24 tháng Mười hai 2010

    7 giờ 46

    Mặt trời đã lên trên Boston, chiếu nắng vào phòng khách sạn rồi phản chiếu lên bề mặt kim loại của các tầng giá. Lóa mắt mới ánh phản chiếu đó, Romuald đưa tay lên che mắt rồi quay mặt sang hướng khác để tránh luồng sáng.

    Cậu nhóc phải mất hồi lâu mới tỉnh ngủ. Cổ họng cậu khô khốc, mũi nghẹt và hai cánh tay lân rân như kiến bò. Đứng dậy rồi cậu mới nhận ra là tứ chi đều tê cứng. Cậu bước vài bước để lấy chai nước khoáng để trên mặt bàn thấp, nhưng vấp phải chiếc túi du lịch rồi ngã sóng sượt. Cậu bực bội đứng dậy mò mẫm tìm kính.

    Đeo được kính vào rồi, cậu nhận ra Emma không có trong phòng. Cậu nhìn đồng hồ đeo tay và hãi hùng. Trên hết, cậu không muốn lỡ thời điểm Kate xuất hiện tại bệnh viện.

    Ấn một phím trên bàn phím, cậu bật màn hình rồi gõ vài dòng mã hiện lên hình ảnh các camera giám sát ở bãi đỗ xe ngoài trời.

    Rồi cậu gọi Emma.

    - Ngủ ngon chứ đầu đất? - Cô hỏi trong lúc thở dốc.

    - Chị đang ở đâu thế?

    - Tầng trên cùng, trong phòng gym. Cậu cũng thế, cậu phải chịu khó động cựa một chút cho tiêu bớt mỡ đi.

    - Làm gì có thời gian, - cậu né tránh. - Nếu vẫn còn quan tâm đến cuộc điều tra, chị nên về phòng ngay đi.

    - Được rồi, tôi về phòng đây.

    Cậu nhóc nhìn chăm chú các màn hình rồi gãi đầu.

    Chỉ bằng vài thao tác, cậu đã kiểm soát được các camera. Từ giờ trở đi, cậu không chỉ có thể chụp lại được hình ảnh mà còn có thể phóng to rồi định hướng các máy quay tùy thích. Cậu lướt qua toàn bộ bãi đỗ xe ngoài trời: xe của Kate vẫn còn chưa đến.

    Tay cầm chai nước, khăn vắt qua cổ, Emma bước vào phòng.

    - Có tin gì mới chưa? - Cô nói ngay khi đẩy cửa bước vào.

    - Chưa có gì, nhưng sắp đến giờ rồi. Thế còn chị?

    Emma thấm mồ hôi trên mặt rồi kể cho cậu nhóc nghe chi tiết cuộc điều tra của mình ngày hôm qua. Romuald chăm chú lắng nghe cô gái, mắt nhìn lên các màn hình. Rồi cậu nhóc đột nhiên ngắt lời cô.

    - Người này là chồng của Kate đúng không? - Cậu chỉ một người đàn ông đang dựng chiếc mô tô.

    Emma lại gần màn hình. Cậu nhóc tín đồ tin học nói đúng. Matthew đang gài khóa dây quanh chiếc Triumph cũ kĩ.

    - Anh ta làm gì ở đó một mình thế nhỉ?

    - Chắc vợ anh ta sắp tới, - Emma đoán.

    Quả nhiên, chưa đầy một phút sau, chiếc xe mui trần Mazda cũ kĩ phóng qua ba ri e của bãi gửi xe rồi tới đỗ cạnh chiếc mô tô.

    - Cậu zoom lên được không?

    Romuald làm theo và hình ảnh của chiếc roadster màu đỏ chiếm hết màn hình. Với thùng xe đường nét thuôn thuôn, ghế hình bồn, đèn pha có thể gấp gọn và nút điều khiển mạ crôm, chiếc xe trông dễ nhận thấy giữa hàng nghìn xe khác. Ngày nay ít nhìn thấy loại xe này, nhưng Emma vẫn còn nhớ, những năm 1990, hàng trăm ngàn mẫu xe này đã tràn ngập những nẻo đường trên toàn thế giới.

    Kate mở cửa xe, rời khỏi chiếc xe mui trần rồi tiến về phía chồng.

    - Mẹ kiếp! - Emma buột miêng, tay chỉ màn hình. - Nhìn này!

    Romuald tháo cặp kính cận ra rồi ghé mặt vào cách màn hình chỉ vài xăng ti mét.

    Mặc chiếc áo khoác ôm sát thanh lịch, nữ bác ngoại khoa tiến về phía Matthew.

    Tay trái cô xách một chiếc túi du lịch màu đỏ pha trắng nặng trịch.

    ° ° °

    Dưới làn gió quất ràn rạt, bãi đỗ xe sáng lấp lóa dưới ánh nắng mặt trời. Một chiếc xe tải quyên máu trang trí biểu tượng của hội Chữ thập Đỏ đang đậu giữa lòng đường dưới một dải băng rôn treo cao:

    HIẾN MÁU CÓ THỂ CỨU MỘT MẠNG NGƯỜI

    Matthew thổi vào hai bàn tay để sưởi ấm.

    - Em thực sự muốn ép anh hiến máu vào buổi sáng sớm này sao? - Anh thở dài nói với vợ.

    - Dĩ nhiên! Em hiến hôm qua rồi, - Kate cam đoan. - Hôm nay đến lượt anh.

    - Nhưng em biết anh sợ kim tiêm mà!

    - Ngừng than vãn đi anh yêu! Anh có thể vì em làm chuyện này sáu tháng một lần mà! Anh thừa biết chính khoa của em đã cùng hội Chữ thập Đỏ tổ chức hoạt động này. Đây là điều ít ỏi nhất chúng ta có thể làm gương để khuyến khích các cán bộ công nhân viên trong bệnh viện.

    - Nhưng anh có làm việc ở đây đâu!

    - Thôi nào, Matt, chúng ta đang vội, rồi sau đó chúng ta sẽ tới căng tin đánh chén một bữa ngon lành. Anh cho em biết món bánh kếp rưới xi rô vị cây thích họ làm có ngon không nhé.

    - Trong trường hợp này, - anh mỉm cười, - thật khó lòng từ chối.

    Tay trong tay, họ bước lên bậc thang của xe hiến máu.

    Bên trong chiếc xe tải được bố trí tiện nghi. Máy sưởi quay hết tốc lực. Tiếp sóng đài địa phương, chiếc radio phát những ca khúc Giáng sinh.

    - Chào Mary, - Kate nói với cô thư ký ngồi sau chiếc bàn nhỏ của quầy tiếp đón.

    - Chào bác sĩ Shapiro.

    Đã nhiều năm nay Matt và Kate hiến máu tại hội Chữ thập Đỏ. Cô nhân viên chỉ việc nhập tên họ vào phần mềm để cho hiển thị hồ sơ của họ. Vậy nên cặp đôi có thể nhanh chóng vào khu vực lấy máu bao gồm bốn ghế hiến.

    - Khỏe chứ Vaughn? - Kate hỏi thăm đồng nghiệp. - Anh biết chồng tôi chứ nhỉ?

    Vị bác sĩ phụ trách xe hiến máu gật đầu rồi chào hỏi hai vợ chồng.

    - Matthew thấy anh mạnh tay đấy nhé, - Kate đùa. - Nói cho đúng ra, anh ấy muốn được chính tôi chọc kim tiêm vào da thịt cơ. Chính nhờ vậy mà bọn tôi quen nhau đấy!

    - Được rồi, tôi để mặc hai người nhé, đôi chim cu, - Vaughn đề nghị mà không thực sự biết mình phải nhìn nhận mọi việc như thế nào. - Tôi đi mua cà phê đây. Lúc nào hai người xong thì báo cho tôi biết nhé.

    Trong lúc vị bác sĩ đi ra, Matthew cởi áo khoác rồi ngồi xuống một trong những chiếc ghế có thể ngả ra sau.

    - Anh không biết là ta lại có kiểu trò chơi này đấy, - anh đùa trong lúc xắn tay áo sơ mi.

    - Đừng có nói là chuyện này không kích thích anh chút nào đấy nhé, - cô nói trong lúc xỏ đôi găng vô trùng.

    Kate dùng một miếng bông tẩm đẫm cồn sát trùng lên cánh tay chồng. Sau đó cô băng ga rô quanh bắp tay để làm nổi ven trong hõm khuỷu tay.

    - Anh nắm chặt tay lại.

    Matthew làm theo rồi quay đi chỗ khác để khỏi nhìn thấy mũi kim chọc vào.

    - Túi kia đựng gì vậy? - Anh hỏi, hất hàm chỉ chiếc túi du lịch màu đỏ. - Anh chưa thấy nó bao giờ.

    - Bộ quần áo thể thao và đôi giày thể thao của em, - Kate đáp trong lúc chỉnh lại chiếc túi nhựa bắt đầu đầy máu.

    - Em tập thể thao trở lại rồi à?

    - Vâng, có lẽ em sẽ tới phòng tập của bệnh viện tầm mười hai giờ đến một giờ trưa. Thực sự em phải tập gym trở lại thôi. Anh nhìn thấy vòng ba của em chưa?

    - Anh thì mê mẩn vòng ba của em mà!

    ° ° °

    Emma cắn móng tay.

    - Khỉ thật, tại sao cô ta lại mạo hiểm đi loăng quăng với chiếc túi đựng 500.000 đô chứ nhỉ?

    - Chị có nghĩ chồng chị ta biết không?

    Emma lắc đầu.

    - Tôi không nghĩ vậy.

    Mặt cúi gằm, Roumuald bồn chồn đi vòng quanh phòng.

    - Nếu chị ta mang tiền theo người, dĩ nhiên không phải để đi gửi ngân hàng rồi.

    Cậu ta trở lại ngồi bên cạnh Emma và họ im lặng chăm chú theo dõi màn hình cho tới khi nhìn thấy cặp đôi rời khỏi chiếc xe tải.

    Nhờ hệ thống camera giám sát, họ theo dõi vợ chồng Shapiro trong đại sảnh và hành lang của bệnh viện tới tận căng tin.

    - Tiếc là ta không thể nghe thấy họ nói với nhau những gì, - Emma nhận xét.

    - Chị chẳng bao giờ biết hài lòng cả! - Romuald làu bàu vì coi nhận xét này như một lời trách.

    - Đi đâu Kate cũng xách theo tiền, - Emma lưu ý, tay chỉ chiếc túi du lịch mà nữ bác sĩ ngoại khoa đang đặt trên một chiếc ghế ngay cạnh.

    Trong vòng mười lăm phút, họ ngồi theo dõi màn hình chăm chú. Nhưng họ không nhìn thấy gì ngoài một đôi vợ chồng đang ăn sáng.

    - Họ làm tôi thấy đói, với món bánh kếp kia, - cậu nhóc buồn thiu như thể chưa ăn gì ba ngày nay.

    Emma nổi cáu.

    - Cậu có biết đời này còn tồn tại những thú vui khác ngoài ăn uống và máy tính không hả?

    Romuald im lặng rồi hướng cuộc trò chuyện sang chủ đề khác.

    - Cảm giác thực sự là họ yêu nhau. Khó mà tin được chị ta có người tình phải không?

    - Đúng đấy, - Emma nhượng bộ, - cô ta giả bộ như thật…

    Sau chừng mười lăm phút, cặp đôi đứng dậy. Kate cùng chồng ôm hôn thắm thiết rồi mỗi người một hướng rời căng tin.

    Matthew ra bãi để xe lấy mô tô trong khi Kate ghé qua phòng gửi đồ dành cho các bác sĩ – cô để chiếc túi du lịch ngăn tủ của mình – trước khi lên khu phẫu thuật.

    Romuald tra cứu lịch làm việc của nữ bác sĩ ngoại khoa đã tải sẵn về máy tính.

    - Chị ta bắt đầu ngày làm việc với cuộc phẫu thuật thay van tim rồi sau đó là giải quyết chỗ phình mạch của động mạch chủ lồng ngực. Chị có muốn ở lại xem không?

    - Thôi, cảm ơn. Sẽ không có chuyện gì xảy ra cho đến trưa và tôi đã xem trọn bộ các phim Urgences và Grey’s Anatomy rồi.

    - Tôi thì vẫn thèm mấy chiếc bánh kếp đó, - Romuald nhắc lại đầy vẻ thành thực.

    - Đây là một lời gợi ý khéo để tôi đãi cậu một bữa sáng chăng? - Emma mỉm cười.

    - Có lẽ thế, - cậu nhóc mê tin học nhún vai nói, hài lòng vì đã bị lật tẩy.

    - Vậy thì cậu thắng rồi đó, bởi tôi cũng thế, đã đói và có đôi lời muốn nói với cậu.

    ° ° °

    Mặc chiếc áo vest ca rô và mang bộ râu quai nón, nhân viên phục vụ bàn mang tới bàn hai tách cappuccino mà lớp bọt tạo thành một hình trái tim màu kem đang quay cuồng trên bề mặt. Emma và Romuald đang ngồi trong một quán cà phê nhỏ sành điệu của phố Boylston, cách khách sạn họ ở hai bước chân.

    Với những chậu cây xanh, những bức tranh vintage, những băng ghế bằng gỗ mộc trắng và những chiếc đèn retro, thoạt nhìn nơi này toát lên một không khí phảng phất nét đồng quê.

    Emma vừa trộn món ngũ cốc Bircher muesli với một hũ sữa chua vừa nhìn Romuald, không phải không có chút âu yếm, cậu nhóc đang cẩn thận rót một nửa lọ xi rô vị cây thích lên bánh kếp.

    - Cậu phải giải thích tôi nghe chuyện này, Romuald.

    - Chuyện chì chũng chược, - cậu nhóc hứa với cái miệng nhồm nhoàm.

    - Cậu tới Mỹ làm gì?

    Cậu nhóc nuốt một miếng bánh kếp rồi chiêu bằng một ngụm cappuccino.

    - Tôi đã nói với chị rồi: tôi đi theo bạn gái vốn đến làm giúp việc ở New York…

    - … và khi đến đây cô nàng đã bỏ cậu, phải rồi, cậu đã nói với tôi như vậy. Nhưng cả hai chúng ta điều biết chuyện đó không đúng, phải vậy không nhỉ?

    - Dĩ nhiên là đúng chứ! - Cậu nhóc nổi đóa.

    - Thừa nhận đi, - cô nói, - nhưng tại sao cậu không liên lạc cho bố mẹ biết tin?

    - Tôi có liên lạc với bố mẹ đấy chứ, - cậu nhóc đáp, mắt nhìn chằm chằm vào đĩa bánh.

    - Không, có phải thế đâu. Tối nay tôi vừa gọi cho họ. Họ đang lo lắng muốn chết. Ba tuần nay cậu không gọi điện thoại cho họ.

    - Nhưng… làm sao chị có được số điện thoại của họ?

    - Ồ, có chứ sao không? Nếu cậu nghĩ chỉ mình cậu biết sử dụng máy tính!

    - Chị không có quyền, - cậu trách cô.

    - Ít ra thì tôi cũng trấn an họ. Đã đến nước này rồi, nói tôi biết đi: tại sao cậu ở lại New York, nếu cô bé đó thực sự đã bỏ rơi cậu? Tại sao cậu không quay về Pháp mà học tiếp trung học?

    - Bởi vì tôi chán ngấy vùng Beaune rồi, và chán ngấy cả bố mẹ tôi nữa, chị không thể hiểu được chuyện này sao?

    - Có chứ, hiểu rất rõ là khác, nhưng nếu đã đến Mỹ, cậu có thể du lịch, thăm thú đất nước, tìm một công việc vui vẻ và thu nhập khá hơn. Điều đó nằm trong tầm tay cậu, cậu rất lanh lợi mà. Thay vì thế, cậu đã mất mười lăm ngày lay lắt qua một kỳ thực tập tại Thống Soái với một công việc cậu không hề yêu thích. Để làm gì nhỉ?

    - Buông tha cho tôi đi, đừng bắt tôi phải trả lời những câu hỏi của chị. Chị đâu phải cảnh sát.

    - Có đấy, tôi có hơi là cảnh sát từ khi cầm trong tay chiếc thẻ cậu đã chế cho tôi. Và như mọi cảnh sát có lương tri có tự trọng, tôi còn một câu hỏi nữa: Chủ nhật tuần trước cậu tới nhà Michele Berkovic, tổng giám đốc của Thống Soái, tại Scarsdale làm gì?

    Cậu nhóc lắc đầu.

    - Tôi chưa bao giờ đặt chân tới đó.

    - Ngừng coi tôi như một con ngốc đi, - cô đe nẹt rồi đặt lên bàn chiếc vé tàu tìm thấy trong túi áo cậu nhóc?

    - Chị đã lục túi tôi ư? Chị không có quyền!

    - Thế hả, vậy cậu làm gì khác khi nấp sau những màn hình và camera của cậu? Cậu dành hàng ngày trời để lục lọi cuộc sống của mọi người. Để quan sát họ, xâm phạm đời tư của họ.

    - Nhưng tôi đang làm chuyện đó để giúp chị, - cậu nhóc chống chế.

    - Tôi cũng vậy, tôi muốn giúp cậu. Cậu tìm tới nhà Michele Berkovic để làm gì?

    - Bởi vì đó là mẹ tôi.

    Cô ngước mắt lên rồi phát cáu với cậu nhóc.

    - Cậu còn bịa đặt với tôi chuyện ngớ ngẩn gì vậy? Đêm qua tôi vừa nói chuyện với mẹ cậu! Bà ấy lên là Marie Noëlle Leblanc. Bà ấy làm việc tại… Quỹ bảo hiểm y tế sơ cấp tại Beaune, - cô khẳng định trong khi đọc những ghi chép đã ghi lại trên cẳng tay.

    Romuald hướng cái nhìn trống rỗng ra phía khung cửa kính rộng rồi chìm đắm trong sự im lặng khó hiểu.

    Emma lay vai cậu.

    - Ơ này, đầu đất! Cậu giải thích đi chứ?

    Cậu buột thở dài rồi dụi mắt. Cậu những muốn ở nơi khác, ngay cả khi một phần bản thân cậu vẫn muốn gỡ bỏ gánh nặng bí mật của mình.

    - Cách đây ba năm, - cậu mở lời, - trong lúc lục lọi đồ đạc của mẹ, tôi phát hiện ra là mình được nhận nuôi từ lúc lọt lòng.

    Emma phác một cử chỉ kinh ngạc.

    - Bố mẹ cậu chưa bao giờ kể cậu nghe chuyện này ư?

    - Chưa, nhưng tôi đoán được.

    - Bằng cách nào?

    - Những chi tiết nhỏ nhặt thôi, những phản xạ, những nhận xét, những sự im lặng đã khiến tôi dần dà thấy nghi…

    Emma ngờ ngợ chuyện diễn ra sau đó.

    - Cậu đã thử tìm lại bố mẹ đẻ?

    - Tôi mất hai năm trời mới tìm ra. Thoạt tiên, tôi xoay xở để đánh cắp hồ sơ tại nhà hộ sinh Auxerre, nhưng đúng như tôi lo ngại, hồ sơ không nhắc gì đến danh tính của mẹ tôi. Rồi tôi hack hệ thống mạng của sở Cứu trợ xã hội về trẻ em của Tổng hội vùng Côte-d’Or. Ở đó tôi vẫn chưa tìm thấy gì. Rồi mọi chuyện không có thêm tiến triển gì cho tới khi tôi xâm nhập vào được hệ thống mạng của Tổng hội quốc gia để tiếp cận mục gốc gác cá nhân. Tôi đã chặn các thư từ cho tôi biết rằng vào năm 1993 mẹ đẻ tôi đã sinh tôi rồi cho đi ngay lập tức. Vào thời đó, bà ấy tên là Michèle Roussel. Nhờ đối chiếu nhiều nguồn, tôi đã lần ra dấu vết của bà ấy. Bà ấy đã sang Mỹ làm lại cuộc đời. Bà đã cưới một chủ ngân hàng rồi đổi sang họ ông ta, Berkovic. Bà ấy sinh cho ông ta hai đứa con. Khi biết bà ấy đang điều hành mảng hành chính của nhà hàng Thống Soái, tôi đã quyết định tới New York với hi vọng nối lại quan hệ. Tôi muốn gặp bà ấy, nói chuyện với bà ấy. Nhu cầu mạnh hơn tất thảy. Như một nỗi ám ảnh. Tôi cần phải biết mình sinh ra từ đâu…

    - Được rồi, vậy đã xảy ra chuyện gì?

    - Chẳng có gì hết. Tôi tới xin việc làm. Sáng nào tôi cũng gặp bà ấy ở văn phòng, nhưng bà ấy không bao giờ thèm nhìn đến tôi.

    - Chuyện bình thường thôi. Làm sao cậu muốn…

    - Được hai tuần, tôi quyết định thú nhận sự thật với bà. Tôi dò được địa chỉ nhà bà bằng cách truy cập các phiếu lương của nhà hàng. Tôi đã đợi đến cuối tuần và mua vé tàu tới Scarsdale. Tôi đến nơi lúc mười một giờ hơn. Tôi phải đi bộ hơn nửa tiếng đồng hồ từ ga tới khu phố nhà họ. Trời thì lạnh, lại còn mưa, tôi run lập cập. Chân tôi nhũn ra, tim tôi nện thình thịch. Cuối cùng, tôi đã bấm chuông cửa rồi chính bà ấy ra mở cửa. Bà ấy hơi lùi lại, gần như ghê tởm. Tôi nghĩ bà ấy coi tôi như một thằng vô gia cư vì quần áo tôi ướt sũng và bộ dạng lố lăng của tôi.

    - Rồi sau đó?

    - Sau đó tôi nói với bà ấy…

    ° ° °

    - Chào bà, bà Berkovic.

    - Chào… chào cậu, cậu là ai thế?

    - À phải rồi, tôi vẫn nhớ, cậu thực tập sinh người Pháp. Cậu muốn gì?

    Bà ấy để cửa mở. Qua khe cửa, tôi nhìn thấy một phòng khách tiện nghi, một cây thông Giáng sinh. Tôi nghe thấy tiếng nhạc, tiếng trẻ con reo hò vui vẻ. Tôi ngửi thấy mùi thơm của một món ăn ngon đang hầm trên bếp.

    Trong khoảng gần một phút, tôi nhìn chăm chú vào mắt bà ấy. Cho tới khoảnh khắc cuối, tôi cứ ngỡ bà ấy nhận ra tôi. Cứ ngỡ bà ấy phát hiện ra nét giống trong các đường nét hoặc giọng nói của tôi.

    Nhưng chẳng có gì. Bà ấy đang đứng trước một kẻ xa lạ. Một kẻ quấy rối.

    - Được, giờ thì đủ rồi đấy, - Michele Berkovic cáu kỉnh. - Cậu không nên tới đây đứng như trời trồng với cái vẻ ngờ nghệch đó. Cậu đi đi, hoặc tôi bảo chồng tôi gọi cảnh sát đấy.

    Tôi lắc đầu. Tôi lưỡng lự rồi bảo bà ấy:

    - Con là con trai của mẹ đây mà.

    Thoạt tiên, nét mặt bà ấy ngây ra, rồi sắc mặt bà ấy tái nhợt.

    - Cậu bịa đặt chuyện gì thế? - Bà ấy thốt lên hãi hùng.

    Bà ấy đóng cửa nhà lại, rồi bước vài bước để giục tôi theo bà ấy ra vườn.

    - Nghe này, tôi không biết ai đã kể cho cậu nghe những chuyện tầm phào ấy, nhưng không phải vậy đâu.

    Tôi lục trong túi rồi chìa cho bà ấy những tài liệu tôi khó khăn lắm mới thu thập được, trong đó có hồ sơ nhận con nuôi của hội Cứu trợ trẻ em có ghi tên bà ấy.

    Bà ấy đọc lướt qua hồ sơ và tôi thấy trong mắt bà ấy hiện lên nỗi kinh hãi. Bà ấy không ngừng ngoái đầu lại vì sợ chồng hoặc một trong hai đứa con ra gặp mình. Tôi tới để tìm kiếm tình yêu thương, bà ấy chỉ tặng tôi nỗi sợ hãi.

    Bà ấy trả lại tôi tập hồ sơ tiễn tôi ra tận ngoài đường. Bà ấy giải thích với tôi rằng lần sinh nở ấy chỉ là một “sai lầm của tuổi trẻ”. Khi đó bà ấy mới mười tám tuổi và chưa nhận ra ngay là mình đã dính bầu. Có vẻ như bà ấy đã áp dụng các biện pháp phòng tránh, thế nhưng…

    ° ° °

    - Tôi đoán cậu đã hỏi bà ấy để biết bố cậu là ai.

    - Chính bà ấy còn chẳng biết. “Một gã tình một đêm”, bà ấy dám chắc như vậy, một quân nhân gặp trong quán bar tại Besançon. Thời đó bà ấy còn độc thân, nhưng đã hình thành tham vọng này: bà ấy muốn rời khỏi miền Đông nước Pháp bằng mọi giá và sang Mỹ học hành. Và không thể có chuyện đèo bòng thêm một đứa trẻ…

    - Bà ấy có hỏi cậu gì không?

    - Không hề. Tôi thừa hiểu là bà ấy muốn biết càng ít càng tốt. Bà ấy giải thích với tôi rằng cả chồng lẫn con bà ấy đều không biết đến quãng thời gian này trong cuộc đời bà ấy và điều tuyệt đối quan trọng là họ không bao giờ nên biết chuyện gì hết, bởi chính những tiết lộ kiểu này có thể phá tan một gia đình. Rồi bà ấy biến đi đâu mất một lúc. Khi trở lại, tay bà ấy cầm một cuốn sổ séc. Bà ấy yêu cầu tôi ngày hôm sau đừng quay lại nhà hàng làm việc nữa, và bà ấy viết cho tôi một tấm séc 5.000 đô. Bà ấy chìa tấm séc cho tôi như thể chúng tôi xong nợ rồi ra lệnh cho tôi đừng bao giờ tìm gặp bà ấy nữa. Bà ấy quay vào nhà và đóng cửa. Tôi thì vẫn đứng đó, sững sờ, một thân một mình dưới mưa. Rồi tôi cuốc bộ ra ga, tôi đã vứt tấm séc vào thùng rác công cộng rồi tôi quyết định quay về Pháp. Chị gọi cho tôi đúng lúc tôi đang thu xếp hành lý…

    - Tôi lấy làm tiếc vì mọi chuyện đã xảy ra như vậy, Roumuald. Nhưng cậu nên cố nhìn ra trong đó những điểm tích cực. Bố mẹ thực sự của cậu, đó chính là những người đã nuôi dạy cậu, cậu thừa biết điều đó còn gì. Và ít nhất thì hiện tại, cậu cũng đã biết ai là bố mẹ đẻ của mình. Cậu có thể tiến lên phía trước và…

    Tiếng chuông điện thoại di động của cậu nhóc vang lên cắt ngang bài diễn văn của Emma.

    Romuald nhìn màn hình rồi quyết định nhận cuộc gọi. Là Jarod.

    Cậu nhóc bắt máy, trao đổi vài lời với chuyên gia máy tính rồi trợn tròn mắt.

    - Chúng ta phải về khách sạn càng nhanh càng tốt, - cậu ta nói rồi khoác chiếc áo phao vào.

    - Có chuyện gì vậy?

    - Tôi biết làm cách nào Kate kiếm được 500.000 đô kia rồi.

    Last edited by giavui; 07-05-2020 at 08:53 PM.

Trang 2 / 3 ĐầuĐầu 123 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Thiên Đường
    By giavui in forum Truyện Dài
    Trả Lời: 77
    Bài Viết Cuối: 04-05-2019, 12:39 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 07-29-2017, 12:06 PM
  3. Thiên Đàng Du Kí
    By giavui in forum Audio Tôn Giáo
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 11-30-2016, 06:40 PM
  4. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 08-14-2016, 01:11 PM
  5. Thiên Đường Sụp Đổ
    By giahamdzui in forum Truyện Ngắn Audio
    Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 05-20-2014, 12:30 AM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •