Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Những ai chưa từng đau khổ thì những kẻ ấy không bao giờ biết tận hưởng được hạnh phúc.
Ugo Foscolo
Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối
Results 11 to 20 of 38

Chủ Đề: Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

    Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

    Stieg Larsson

    Dịch giả: Trần Đĩnh







    Giới thiệu

    Cô gái có hình xăm rồng là tập 1 trong bộ ba tiểu thuyết Millennium của nhà văn Thụy Điển Stieg Larsson. Ngay từ khi ra mắt vào năm 2004 tại Thụy Điển, bộ tiểu thuyết đã gây được tiếng vang lớn, và năm 2009 đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất châu Âu, với khoảng 26 triệu ấn bản đã được phát hành trên toàn thế giới. Nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản ấn bản tiếng Việt của bộ tiểu thuyết này, với tập 1 Cô gái có hình xăm rồng đã được phát hành trên toàn quốc vào tháng 3 năm 2010. Hai tập tiếp theo dự kiến sẽ ra mắt độc giả Việt Nam cùng trong năm 2010.

    Nhân vật xuyên suốt của bộ ba tiểu thuyết là Lisbeth Salander, một cô gái trẻ có tuổi thơ và tuổi trưởng thành hết sức đặc biệt. Bị coi là có vấn đề về mặt tâm thần, từ năm 13 tuổi Salander được nuôi dạy trong một bệnh viện dành cho thiếu nhi, một mô hình nửa giống trại trẻ mồ côi, nửa giống bệnh viện tâm thần. Cô bé lớn lên cô độc và mất lòng tin vào phần lớn những người xung quanh. Vẻ bề ngoài cứng rắn gai góc, cách cư xử, giao tiếp như đi ngược lại những nguyên tắc xã hội, nhưng Salander có một trí thông minh tuyệt vời, trí nhớ đáng ngạc nhiên, cộng với sự liều lĩnh và quyết đoán đến không ngờ.

    Trong tập đầu tiên, Cô gái có hình xăm rồng, Salander bị cuốn vào một cuộc điều tra cùng với Mikael Blomkvist, một nhà báo lão luyện nhưng uy tín đang suy giảm do một bài báo anh viết về vụ bê bối tài chính của Tập đoàn Wennerstrom bị cho là “không có căn cứ”. Blomkvist được Henrik Vanger, người đứng đầu một dòng họ giàu có và danh giá, thuê để tìm hiểu sự thật đằng sau vụ mất tích từ hơn 40 năm trước của cô cháu gái Harriet. Henrik Vanger hứa rằng nếu Blomkvist vén màn được câu chuyện, thì ông sẽ cung cấp cho anh những bằng chứng chống lại Tập đoàn Wennerstrom.

    Blomkvist nhận lời với Henrik Vanger, từ đó tình cờ quen biết Lisbeth Salander. Với sự hiểu biết xuất sắc (nhưng bất hợp pháp) của một tin tặc về mọi ngóc ngách trong thế giới mạng, Salander đã giúp Blomkvist lần ra được sự thật sau vụ mất tích của Harriet Vanger và phát hiện bí mật của những vụ giết người hàng loạt có liên quan đến người của dòng họ Vanger. Hơn thế nữa, cô còn giúp anh đưa ra ánh sáng những gian lận thương mại của Tập đoàn Wennerstrom. Cô đã bất chấp nguy hiểm và nhiều chuẩn mực xã hội thông thường để cứu không chỉ uy tín nhà báo của Blomkvist mà còn cứu chính mạng sống của anh.

    Với Cô gái có hình xăm rồng, những bí ẩn của một dòng họ, những góc đen tối của thế giới tài chính, những mặt trái của chế độ giám hộ thanh thiếu niên – vốn được coi là một tiến bộ của xã hội Thụy Điển, những vấn đề đạo đức nghề nghiệp đặt ra với người làm báo… tất cả đều được phơi bày không khoan nhượng. Cuốn sách dày hơn 500 trang, nhưng khó có thể dứt ra cho tới khi đọc hết dòng cuối cùng.


    LỜI DẪN

    Một thứ Sáu tháng Mười một

    Việc này diễn ra hằng năm gần như là một nghi thức. Và đây là ngày sinh lần thứ tám mươi hai của ông. Như thường lệ, khi hoa được đem đến, ông lại lột tờ giấy bọc và nhấc điện thoại gọi sĩ quan cảnh sát điều tra Morell, ông này khi về hưu đã chuyển đến hồ Siljan ở Dalarna. Họ không chỉ cùng tuổi mà còn sinh cùng ngày, điều này có một chút gì đó nhạo cợt trong hoàn cảnh hiện nay. Người cảnh sát già ngồi đợi với tách cà phê, chờ cuộc gọi.

    - Đến rồi đấy.

    - Năm nay nó thế nào ?

    - Tôi không biết là loại gì. Phải hỏi ai đó mới được. Màu trắng.

    - Không thư, tôi ngờ thế.

    - Chỉ hoa thôi. Khung cũng như kiểu năm ngoái. Kiểu tự làm lấy ấy mà.

    - Dấu bưu điện?

    - Stockholm

    - Viết tay?

    - Như mọi bận, bằng chữ hoa hết. Thẳng đứng nhưng chữ viết rõ ràng.

    Đến đây thì đề tài đã cạn và trong chừng một phút không một lời trao đi đổi lại. Viên cảnh sát già về hưu ngả người vào chiếc ghế bếp, hút tẩu thuốc. Ông biết ông không còn được mong đưa ra một lời bình luận súc tích hay một câu hỏi sắc sảo nào nữa, một câu hỏi có thể rọi ánh sáng mới vào một vụ án. Những ngày ấy đã qua lâu rồi và sự trao đổi giữa hai người xem ra giống như một gắn bó về nghi thức với một bí mật mà có một ai khác trên thế gian này gỡ ra thì cũng chẳng được lợi lộc gì.

    Với cái tên Latin là Leptospermum (Myrtaceae) rubinette, đó là một loại cây cao khoảng mười centimét với bộ lá nhỏ giống như thạch nam, hoa thì trắng với năm cánh xòe ngang chừng hai centimét rưỡi.

    Loài cây này gốc gác từ các bụi rậm và cao nguyên nước Úc, người ta tìm thấy chúng ở trong các trảng cỏ bên đó. Ở đấy nó có tên là Tuyết Sa mạc. Sau này một ai đó ở Vườn thực vật học tại Uppsala sẽ xác nhận ở Thụy Điển ít trồng giống cây này. Nhà thực vật học viết trong báo cáo của bà rằng nó có họ với cây trà và đôi khi nó thường bị lẫn nhiều hơn với cây Leptospermum scoparium, người anh em họ phổ biến của nó vốn mọc vô vàn ở New Zealand. Bà chỉ ra chỗ để phân biệt chúng là thứ rubinette này có vô sô các chấm li ti màu hồng ở đầu các cánh hoa, đem cho hoa một ánh hồng hồng nhạt.

    Rubinette gần như là một thứ hoa không tham vọng. Nó không có thuộc tính y học nào được biết đến và nó cũng không gây ảo giác. Không ăn được, nó cũng không có ứng dụng nào trong sản xuất thuốc nhuộm từ thực vật. Mặt khác, thổ dân Úc coi vùng núi Ayers Rock và thực vật quanh đó là thiêng liêng.

    Nhà thực vật học nói bản thân bà trước đây chưa hề nhìn thấy một cây nào như thế này, nhưng sau khi tham vấn các đồng nghiệp bà sẽ báo cáo rằng bà đã có ý định du nhập cây này vào một vườn ươm ở Goteborg và nó có thể được các nhà thực vật học nghiệp dư trồng, dĩ nhiên thôi, khó trồng nó ở Thụy Điển vì nó hợp với khí hậu khô và phải ở trong nhà nửa năm trời. Nó không hợp đất có đá vôi và nó cần được tưới từ bên dưới. Nó cần được nuông chiều.

    Là một thứ hoa hiếm như thế thì chắc tiêu bản đặc biệt này sẽ làm cho người ta dễ dàng tìm ra gốc tích của nó hơn, nhưng trong thực tế lại không thể được. Không có sổ đăng ký để kiểm tra nó, không có bằng phát minh để khai thác. Ở bất cứ đâu, ai yêu hoa hoặc ham thích những thực vật mới lạ cũng đều có thể tiếp xúc được với hạt giống hay cây của nó. Và ở bất cứ đâu tại Châu Âu, ở bất cứ đâu tận bên kia bán cầu nhiều người có thể sang tay giữa bạn bè hay mua nó qua đường bưu điện.

    Nhưng đây chỉ là một trong sêri những đóa hoa bí ẩn hằng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng Mười một lại đến bằng đường bưu điện. Chúng luôn đẹp và phần lớn là loại hoa hiếm, luôn được ép và bày xếp trên giấy màu nước ở trong một cái khung đơn giản ngang mười lăm centimét, dọc hai mươi bảy centimét rưỡi.

    Chỉ một ít người biết câu chuyện kỳ lạ về các bông hoa mà báo chí không bao giờ nói đến. Ba chục năm trước, việc những bông hoa đến đều đặn đã là đối tượng của nhiều soi mói - ở phòng hóa nghiệm Pháp y Quốc gia, của các chuyên gia vân tay, chuyên gia chữ viết, các nhà điều tra hình sự và một hai họ hàng hay bạn bè của người được nhận hoa. Nay các diễn viên của vở kịch này chỉ còn có ba; ông già hằng năm chờ đến ngày sinh nhật, viên cảnh sát về hưu và cái người đem hoa đến bưu điện gửi. Hai người đầu ít nhất cũng đã tới cái tuổi mà chả còn mấy nỗi.

    Viên cảnh sát là một người kỳ cựu lọc lõi. Ông sẽ chẳng bao giờ quên vụ án đầu tiên của mình, cái vụ ông đã phải bắt giam một công nhân hung hãn và say xỉn đến phát sợ ở một trạm điện nhánh phụ trước khi hắn gây ra những rắc rối khác. Trong đời cảnh sát của mình, ông đã tóm về đồn những tay gian lận vặt, những ông chồng vũ phu, những kẻ ăn cắp xe hơi và lái xe say rượu. Ông đã phải xử lý những kẻ đục tường bẻ khóa, bán ma túy, hiếp dâm và một gã đánh bom loạn óc. Ông đã dính vào chín vụ án mạng hay tàn sát nhẫn tâm. Năm trong chín vụ này, kẻ giết người đã tự ý trình báo cảnh sát, đầy ăn năn, thú nhận đã giết vợ mình hay anh em hay một vài họ hàng khác. Hai vụ khác được giải quyết trong ít ngày. Một vụ nữa đòi Cảnh sát Hình sự Quốc gia giúp đỡ và kéo dài những hai năm.

    Vụ thứ chín được giải quyết trong sự hài lòng của cảnh sát, ý nói họ biết kẻ giết người là ai nhưng vì tang chứng không đủ vững chãi nên bên công tố quyết định không xét xử. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra thất vọng, cuối cùng cũng đến lúc hết thời hiệu nên vụ án phải chấm dứt. Nhưng nói chung ông có thể ngoái nhìn lại một sự nghiệp đầy ấn tượng.

    Ông chả thấy gì trừ vui.

    Với người điều tra, “Vụ hoa ép” – cái vụ cuối cùng, không giải quyết được và khiến ông nản lòng – vẫn hằng năm trời ray rứt ông. Tình hình thế là thành những hai lần phi lý. Vì sau khi bỏ thật sự cả hàng nghìn giờ ra nghiền ngẫm, trong giờ làm việc hay lúc nghỉ ngơi, ông vẫn không thể yên tâm mà nói được rằng một vụ án quả là đã được gây ra.

    Hai người đàn ông biết rằng người bày xếp những bông hoa chắc chắn phải đi găng tay, rằng không hề có vân tay ở trên khung hay miếng kính. Cái khung có thể mua ở cửa hàng camera hay các tiệm văn phòng phẩm trên khắp thế giới. Khá là đơn giản, gần như không có manh mối nào để lần theo. Phần lớn gói hàng gửi qua bưu điện ở Stockholm nhưng đã ba bận ở London, hai bận ở Paris, hai bận ở Copenhagen, một bận ở Madrid, một bận ở Born và một bận ở Pensacola, Florida. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra đã phải dò tìm nó trong tập bản đồ thế giới.

    Sau khi đặt điện thoại xuống, ông già vừa trải qua sinh nhật lần thứ tám mươi hai ngồi một lúc lâu nhìn các bông hoa đẹp nhưng vô nghĩa mà ông không biết đến cả tên. Rồi ông nhìn lên bức tường ở bên trên bàn giấy. Ở đấy treo bốn mươi bông hoa ép trong các khung. Bốn hàng mười và một ở dưới cùng có bốn khung. Hàng trên cùng ở khung thứ chín một hoa đã bị mất. Tuyết sa mạc sẽ là số bốn mươi tư đây.

    Ông bất thần bật khóc. Ông ngạc nhiên về chính cơn xúc động bùng phát đột ngột sau gần bốn chục năm.


    PHẦN 1

    DỮ KIỆN
    20 THÁNG MƯỜI HAI – 3 THÁNG GIÊNG

    Mười tám phần trăm phụ nữ ở Thụy Điển đã từng một lần bị đàn ông đe dọa



    Chương 1

    Thứ Sáu, 20 tháng Mười hai

    Phiên tòa đã kết thúc hẳn hoi; mọi cái có thể nói thì đều đã nói nhưng anh không bao giờ ngờ là anh sẽ thua. Bản nghị án viết tay đã trao xuống lúc 10 giờ sáng thứ Sáu và tất cả những gì còn lại là kết luận của các phóng viên đang chờ ở hành lang bên ngoài tòa án quận.

    Nhìn thấy họ qua lối cửa ra vào, “Carl” Mikael Blomkvist bước chậm lại. Anh không có hy vọng kháng án nhưng các câu hỏi thì không thể tránh được và anh - người của bàn dân thiên hạ - biết rằng chúng sẽ được đặt ra và phải được trả lời. Là tội phạm là thế này đây, anh nghĩ. Ở phía bên kia cái micro. Anh thẳng người lên và cố mỉm cười. Các phóng viên đáp lại bằng vẻ thân thiện, gần như bối rối.

    Blomkvist nói:

    - Ta xem nào… Aftonbladet, Expressen, hãng tin TT, kênh truyền hình TV4 và … anh ở đâu nhỉ? … à đúng, Dagens Nyheter 1, chắc tôi là một tên tuổi nổi tiếng rồi đây.

    Phóng viên một tờ báo chiều lên tiếng:

    - Kalle Blomkvist 2, xin anh hãy nói ý kiến của mình với báo chí.

    Nghe thấy biệt hiệu, Blomkvist cố không trợn mắt lên như mọi lần. Một lần, khi anh hai mươi ba tuổi và vừa bắt đầu công việc làm thêm trong dịp hè như một phóng viên, Blomkvist may mắn vớ được một băng nhóm đã thoát khỏi năm vụ cướp ngân hàng trong hai năm liền. Chắc ở tất cả mọi vụ thì vẫn là cái băng này. Thương hiệu của chúng là nẫng hai nhà băng luôn một lèo mà chính xác như quân sự. Chúng đeo mặt nạ các nhân vật Disney nên cảnh sát đã cho chúng cái biệt hiệu là Băng Vịt Donald. Báo chí đổi tên chúng ra là Băng Gấu nghe rùng rợn hơn, hợp hơn với thực tế là ở hai trường hợp chúng đã thẳng cánh bắn cảnh cáo và nạt những người đi qua.

    Lần thứ sáu chúng cướp một ngân hàng tại Ostergotland là vào lúc mùa nghỉ lễ đang rộ. Một phóng viên đài phát thanh địa phương tình cờ lại ở ngân hàng lúc ấy. Bọn cướp vừa đi là anh ta đến ngay điện thoại công cộng đọc bài tường thuật của mình để cho đài phát thanh phát đi trực tiếp.

    Blomkvist đang ở vài ngày với một cô bạn gái tại nhà bố mẹ cô ta, một căn nhà gỗ nhỏ mùa hè gần Katrineholm. Anh không thể giải thích chính xác, ngay cả với cảnh sát, tại sao có mối quan hệ này, nhưng khi nghe tường thuật báo chí, anh đã nhớ đến một nhóm bốn người đàn ông ở trong một căn nhà gỗ mùa hè bên dưới đường đi chừng trăm mét. Anh đã thấy họ chơi cầu lông ngoài sân: bốn gã lực sĩ tóc vàng mặc quần soóc và bỏ sơ mi. Họ rõ ràng là những người luyện thể hình và có một cái gì đó ở họ khiến anh nhìn thêm lần nữa – có thể vì trận cầu lại chơi ở dưới cái nắng nóng rẫy.

    Chả có lý do rõ rệt nào để nghi họ là những tên cướp ngân hàng nhưng anh vẫn lên một quả đồi rồi nhìn xuống căn lều của họ. Được khoảng chừng bốn chục phút thì một chiếc Volvo đi lên đỗ ở trong sân. Những người trẻ tuổi vội vã đi ra và ai cũng mang túi thể thao cho nên có thể chỉ là họ đi bơi trở về chứ chả làm gì. Nhưng một người trong bọn họ quay lại xe, lấy ở trong cốp ra một cái gì mà hắn hấp tấp che áo jacket lên. Ngay ở chỗ quan sát khá xa của mình, Blomkvist vẫn có thể thấy đó là một khẩu AK4 cũ ngon lành, thứ súng vẫn là bạn đồng hành thường xuyên của anh trong những năm làm nghĩa vụ quân sự.

    Anh đã gọi cảnh sát và thế là bắt đầu một cuộc phong tỏa ba ngày ngôi nhà gỗ, báo chí thoải mái đưa tin với Blomkvist ở ghế trên cùng và nhận một khoản thù lao hậu hĩ của một tờ báo chiều. Cảnh sát đặt bản doanh trong một đoàn xe trong vườn của nhà gỗ mà Blomkvist đang ở.

    Băng Gấu bị tóm gọn đã làm cho anh thành ngôi sao số dách, tâng anh lên làm một nhà báo trẻ. Mặt trái của sự nổi tiếng này là chuyện một tờ báo chiều khác không thể kìm nổi đã giật tít “Kalle Blomkvist phá án”. Do một bà có tuổi giữ chuyên mục viết, bài báo mỉa mai này có gợi đến nhà thám tử trẻ tuổi trong các sách cho thiếu nhi của Astrid Lindgren. Tệ hơn nữa, kèm với bài viết, tờ báo còn đăng một bức ảnh Blomkvist đang há hốc mồm ra ngay cả khi anh đã giơ ngón tay trỏ lên cảnh báo.

    Chả hề hấn gì vì Blomkvist cả đời không dùng tên Carl. Nhưng từ đấy, anh bị các đồng nghiệp đặt cho biệt hiệu Kalle Blomkvist và nó làm anh ngán ngẩm, tính từ này được dùng đề khiêu khích, không thân thiện nhưng cũng không hẳn là thân thiện. Tuy kính trọng Astrid Lindgren – anh yêu sách của bà – anh vẫn ghét cái biệt hiệu này. Phải mất nhiều năm và sau những thành công báo chí nặng ký hơn nữa, cái biệt hiệu ấy mới bắt đầu nhạt đi, nhưng mỗi khi người ta dùng cái tên ấy cốt để anh nghe thấy thì anh vẫn ngỡ mình khuỵu chân xuống.

    Còn ngay lúc này, anh cho chấm hết bằng nụ cười tỉnh bơ rồi nói với tay phóng viên tờ báo chiều:

    - Ô, thôi nào, hãy tự nghĩ lấy một cái gì đi chứ. Anh vẫn quen thế cơ mà.

    Giọng anh không khó chịu. Họ tất cả đều ít nhiều hiểu nhanh và sáng hôm đó những lời phê phán Blomkvist hiểm độc nhất chưa đến. Một trong những nhà báo ở đó đã có lúc cùng làm việc với anh. Và trong một bữa tiệc vài năm trước, anh đã gần như ngon lành nhót được một trong những phóng viên – cô phóng viên của chương trình She trên TV4.

    - Hôm nay ông thật sự nổi – người của Dagenes Nyheter, rõ ràng một tay trẻ tuổi làm thêm nói – Ông cảm thấy sao?

    Mặc dù không khí đang nghiêm túc, cả Blomkvist lẫn các nhà báo lớn tuổi hơn đều không thể nén cười. Anh liếc nhìn TV4 – Ông cảm thấy sao? Chỉ có tay phóng viên thể thao cả ngố mới đi chĩa micro mặt chàng vận động viên vừa chạy hết hơi về đến đích mà hỏi câu ấy.

    - Tôi chỉ tiếc là tòa án đã không ra một kết luận khác, - anh nói, hơi giận dỗi đôi chút.

    - Ba tháng tù ngồi và 150.000 curon tiền bồi thường. Tòa đã khá là nghiêm khắc – Phóng viên của She trên TV4 nói.

    - Tôi sẽ sống sót.

    - Ông sẽ xin lỗi Wennerstron không? Bắt tay ông ta chứ?

    - Tôi nghĩ là không.

    - Vậy ông vẫn sẽ nói ông ấy là một kẻ lừa đảo? – Dagens Nyheter hỏi.

    Tòa đã xử Blomkvist là vu cáo hạ nhục nhà tài chính Hans-Erik Wennerstron. Phiên tòa kết thúc và Blomkvist không có ý khiếu nại. Nếu ở trên các bậc tam cấp của tòa án này, anh nhắc lại các tuyên bố của mình thì cái gì sẽ xảy ra? Blomkvist đã quyết định là anh không muốn tìm ngả đó.

    - Tôi nghĩ tôi có lý do tử tế để công bố cái thông tin mà tôi đang giữ. Tòa đã xử khác và tôi phải thừa nhận quá trình xét xử là làm đúng quy trình. Những người của chúng tôi ở bộ phận xã luận sẽ phải thảo luận việc xét xử rồi chúng tôi mới quyết định sẽ làm gì. Tôi không có gì để nói thêm cả.

    - Nhưng sao ông lại quên mất rằng các nhà báo phải thẳng thắn ủng hộ các khẳng định của họ? – Cô phóng viên của She ở TV4 hỏi. Nét mặt cô ta trông có vẻ là trung lập nhưng Blomkvist nghĩ đã thoáng thấy ánh mắt cô lộ vẻ bất bình đầy thất vọng.

    Các phóng viên ở đó, ngoài cậu con trai ở Dagens Nyheter, đều là những dân kỳ cựu trong nghề. Với họ không thể quan niệm nổi câu hỏi kia lại được trả lời.

    - Tôi không có gì để nói thêm, - anh nhắc lại. Nhưng khi những người khác đành bằng lòng với câu trả lời ấy, thì TV4 đã chẹn anh lại ở cửa tòa án để phỏng vấn anh ngay trước camera. Cô ta rất tử tế và anh đã có đủ các câu trả lời rành rọt để thỏa mãn tất cả các phóng viên đang đứng ở sau cô ta. Câu chuyện rồi sẽ lên các tít báo, nhưng anh tự nhắc mình rằng họ đâu có tìm sự kiện truyền thông của năm ở đây. Đã có cái họ cần, các phóng viên đang quay về các phòng tin tức riêng của họ.

    Anh tính đi bộ nhưng hôm nay là một ngày tháng Mười hai gió quật đùng đùng và sau phỏng vấn anh đã thấm rét. Khi đi xuống các bậc tam cấp tóa án, anh trông thấy William Borg ra khỏi xe hơi. Hắn chắc đã ngồi ở đây suốt cuộc phỏng vấn. Mắt họ gặp nhau và Borg mỉm cười.

    - Đến tận đây để thấy anh cầm tờ giấy này trong tay là bõ công rồi.

    Blomkvist không nói không rằng. Blomvist và Borg biết nhau đã mười lăm năm. Họ cùng làm với nhau như phóng viên mới vào nghề cho bộ phận tài chính của một tờ báo sáng. Có thể là một vấn đề thuộc về hóa chất nhưng nền móng cho một thù hận suốt đời đã được đặt nền móng từ đấy. Trong mắt Blomvist, Borg là một phóng viên hạng ba chuyên chọc kháy tất cả những ai ở quanh hắn, làm họ khó chịu bằng những trò đùa bẩn thỉu và bằng những nhận xét hạ uy tín các phóng viên có kinh nghiệm, nhiều tuổi hơn. Hắn hình như đặc biệt không ưa các nữ phóng viên có tuổi. Họ đã từng có những cãi cọ đầu tiên rồi sau đó còn tiếp diễn, rồi không bao lâu thì đối kháng đã quay ra thành chuyện cá nhân.

    Họ đã đều đặn vập phải nhau trong nhiều năm nhưng chỉ tới cuối những năm 90 họ mới trở thành những kẻ thù đáng gờm. Blomkvist đã ra một quyển sách về nghiệp vụ báo chí tài chính trích la liệt từ một số bài báo ngu ngốc của Borg. Xuất hiện như một gã đần độn, Borg đã đổi trắng thay đen nhiều việc hắn làm và đã viết ca ngợi các công ty “.com” 3 đang trên bờ vực phá sản. Sau đó, khi tình cờ gặp nhau ở một quán bar tại Soder, họ đã dùng đến mọi chiêu trừ quả đấm. Borg bỏ nghề báo và bây giờ hắn làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng (PR) – với mức lương cao hơn đáng kể – ở một hãng mà, làm cho chuyện càng tệ hại hơn, chính lại là một bộ phận trong vòng ảnh hưởng của nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstrom.

    Hai người nhìn nhau hồi lâu rồi Blomkvist quay ngoắt đi. Chỉ có người như Borg mới lái xe đến tòa án chỉ để ngồi đó cười nhạo anh.

    Chiếc xe buýt số 40 phanh lại ở bến ngay trước xe của Borg. Và Blomkvist nhảy phóc lên để trốn tránh. Anh xuống xe ở Freidhemsplan, phân vân nên làm gì. Anh vẫn cầm tờ phán quyết ở trong tay. Cuối cùng anh đi bộ tới quán Kafé Anna, cạnh lối vào gara dẫn xuống bên dưới đồn cảnh sát.

    Nửa phút sau, anh gọi một cốc cà phê latte và một miếng sandwich; radio đang phát tin tức buổi trưa. Câu chuyện tiếp theo là tin một kẻ đánh bom tự sát ở Jerusalem và tin Chính phủ đã chỉ định một tiểu ban điều tra cái được cho là sự hình thành của một cácten mới trong công nghiệp xây dựng.

    Nhà báo Mikael Blomkvist của tạp chí Millennium sáng nay đã bị tuyên án 90 ngày tù vì vu khống nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Trong một bài báo đầu năm nay từng làm cho cái gọi là vụ Minos được chú ý đến, Blomkvist nói với Wennerstom đã buôn bán vũ khí bằng vốn mà Nhà nước dự định đầu tư vào công nghiệp ở Ba Lan. Blomkvist cũng bị tuyên án trả 150.000 curon tiền bồi thường. Bertil Cammermarker, luật sư của Wennerstom trong một phát ngôn đã nói thân chủ của ông hài lòng về sự xét xử. Ông nói đây là một vụ vu khống đặc biệt xúc phạm.

    Bản án dài hai mươi sáu trang. Nó trình bày các lý do cho thấy Blomkvist đã phạm tội ở mười lăm điểm vi phạm về vu khống chồng chất nhà doanh nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Nên anh phải trả cho mỗi điểm vi phạm mười nghìn curon và sáu ngày tù. Và rồi lại còn án phí và tiền trả cho luật sư của anh. Anh không thể bắt mình cứ nghĩ đến tất cả các chi phí này nhưng suy đi tính lại thấy rằng lẽ ra còn tệ hại hơn thế nữa kia; tòa đã cho anh trắng án ở bảy điểm vi phạm khác.

    Trong khi đọc bản xét xử, anh cảm thấy dạ dày trướng dần lền và khó chịu. Anh ngạc nhiên. Khi phiên tòa bắt đầu, anh biết rằng nếu anh không bị kết án thì sẽ là điều kỳ lạ và rồi anh đã giải hòa được với kết quả của phiên tòa. Anh đã ngồi suốt hai ngày xét xử, bình tĩnh đến mức ngạc nhiên và trong hơn mười một ngày tiếp theo chờ tòa kết thúc nghị án anh vẫn không cảm thấy có gì đặc biệt trong người để rồi đi tới chỗ cầm tờ phán quyết này ở trong tay như hiện nay. Bây giờ chỉ còn một cảm giác không thoải mái về thân xác đang lan khắp người anh.

    Khi anh cắn miếng sandwich, miếng bánh như phồng to ra ở trong miệng. Anh thấy khó nuốt và anh gạt đĩa thức ăn sang bên.

    Đây là lần đầu tiên Blomkvist đối mặt với một cuộc luận tội. Thực ra vụ xét xử này chỉ là một chuyện nhỏ. Một tội vào hạng nhẹ cân. Dẫu sao cũng không phải cướp có vũ khí, giết người hay hiếp dâm. Nhưng xét từ quan điểm tài chính thì nó lại nghiêm trọng – Millennium không phải là soái của truyền thông thế giới với nguồn tiền vô hạn, tờ tạp chí chỉ vừa xoẳn hòa vốn – nhưng tòa xử đã không báo hiệu sẽ có thảm họa. Vấn đề nằm ở chỗ Blomkvist là một trong các chủ đồng sở hữu Millenium và đồng thời, khá là ngu ngốc, anh vừa viết lại vừa là chủ bút tờ tạp chí. Anh có thể tự trả 150.000 curon bồi thường tuy như thế sẽ gần như là xóa sổ món tiền tiết kiệm của anh. Tờ tạp chí có thể lo án phí. Nếu chi tiêu khôn ngoan thì chuyện này có thể ổn.

    Anh loay hoay với ý định bán căn hộ của mình, tuy anh sẽ tan nát lòng. Vào cuối những năm 80 lên như diều, trong thời kỳ có công việc chắc chắn và một đồng lương khá hậu, anh đã tìm đây đó lấy một nơi thường xuyên để sống. Anh đã chạy khắp lượt các hãng giới thiệu nhà rồi cuối cùng loạng quạng gặp căn hộ áp mái hơn 200 mét vuông ở ngay cuối đường Bellmansgatan. Người chủ trước đang làm dở nó thì thình lình nhận việc trong một công ty “.com” ở nước ngoài nên Blomkvist đã có thể mua nó không đắt lắm.

    Anh bỏ hết các thiết kế đầu tiên của người thiết kế nội thất, tự làm lấy công việc này. Anh bỏ tiền vào sửa khu vực buồng tắm và bếp nhưng thay vì làm sàn gỗ và các bức tường bên trong để làm cho nó thành một căn hộ hai phòng mhư dự định thì anh đã lấy cát đánh bóng gỗ sàn, sơn trắng các bức tường xù xì rồi dấu các mảng xấu nhất vào sau hai bức tranh màu nước của Emanuel Bernstone. Kết quả là một không gian sinh hoạt mở với khu vực buồng ngủ ở sau một giá sách, khu vực ăn uống và buồng sinh hoạt cạnh ngay một cái bếp nhỏ sau một quầy bar. Ngôi nhà có hai cửa sổ trên mái và một cửa sổ ở đầu hồi có thể nhìn thấy các mái nhà đến Gamla Stan, khu vực cổ kính nhất ở Stockholm và con sông Riddarfjarrden. Anh nhìn thấp thoáng thấy nước sông ở gần cửa cống Slussen và quang cảnh Tòa thị chính thành phố. Nay anh sẽ không thể cho mình một căn hộ như thế và anh thiết tha muốn giữ lấy nó.

    Nhưng việc anh có thể mất căn hộ không là cái gì bên cạnh việc anh nhận lấy một cú đập thật sự vào giữa mặt về mặt nghề nghiệp. Để sửa chữa các tổn thất cũng phải mất thời gian - nếu quả như có thể sửa chữa được.

    Đây là một vấn đề về uy tín. Trong tương lai có thể thấy trước, các vị biên tập viên sẽ ngại ngùng đăng các bài báo có tên anh. Vẫn có nhiều bạn bè trong nghề báo nhận thấy rằng anh là nạn nhân của vận đen và hoàn cảnh trớ trêu chứ anh sẽ không thể nào phạm phải sai lầm sơ đẳng đến như vậy.

    Cái làm đau nhất là bị bẽ mặt. Anh đã nắm mọi con bài chủ thế nhưng anh đã chịu thua một kẻ găngxtơ hạng bét mặc một bộ hàng hiệu Armani. Một kẻ đầu cơ thị trường chứng khoán ti tiện. Một tên lưu manh cùng một gã luật sư tên tuổi đã nhăn nhở cười nhạo nông nỗi của anh trong suốt phiên toà.

    Sao nhân danh Chúa mà sự tình lại đi đến oan trái như thế này chứ?

    Vụ Wennerston bắt đầu từ câu chuyện trong buồng lái của một chiếc Malar-30 hơn mười hai mét vào Đêm Giữa mùa hè 4 một năm rưỡi trước. Nó tình cờ xảy ra, tất cả do một cựu đồng nghiệp nhà báo nay là một chân PR xun xoe ở hội đồng hạt, muốn trộ cô bạn gái mới của gã. Gã đã quýnh quáng thuê một chiếc Scampi làm chuyến dong buồm lãng mạn vài ngày trong quần đảo Stockholm. Vừa từ Hallstahammar đến Stockholm để học hành, cô gái sau khi cho ra vài dấu hiệu phản đối đã nhận lời đi nhưng với điều kiện chị cô ta và cậu bạn trai của cô chị cũng được đi cùng. Cả bộ ba ở Hallstahammar đều chả có chút kinh nghiệm lái du thuyền, còn đồng nghiệp cũ của Blomkvist thì không may lại có nhiều nhiệt tình hơn kinh nghiệm. Ba hôm trước khi dong buồm đi họ đã tuyệt vọng gọi và thuyết phục anh đến làm thành viên thứ năm trong đoàn, thành viên biết hàng hải.

    Không màng lắm đến đề nghị này nhưng rồi khi được hứa hẹn vài ngày thư giãn trong quần đảo với thức ăn ngon và bạn cùng đi vui vẻ thì Blomkvist đã đổi ý. Các hứa hẹn này đã thành mây khói và chuyến viễn du đã quay ra là một thảm họa ngoài tưởng tượng. Họ đi con đường đẹp nhưng không gây ấn tượng lắm từ Bullando qua eo biển Furusund với chỉ 9 hải lý một giờ, nhưng cô bạn gái mới say sóng liên hồi kỳ trận. Chị cô bắt đầu cãi nhau với cậu bạn trai và chả ai trong bọn họ tỏ ra quan tâm mảy may đến việc học lái tàu. Mau chóng thấy rõ là người ta chờ đợi Blomkvist gánh vác lấy con tàu còn họ thì cho anh những lời khuyên có thiện ý nhưng ngu xuẩn. Sau đêm đầu tiên ở một vịnh trên Angso, anh đã sẵn sàng neo tàu vào cảng ở Furusund rồi đi xe buýt về nhà. Chỉ có những lời kêu gọi tuyệt vọng của họ mới thuyết phục được anh ở lại.

    Trưa hôm sau, khá sớm để vẫn còn có một ít khoảng trống, họ cột tàu vào cầu tàu ở trên đảo Arholma đẹp như tranh. Họ cùng làm chút bữa trưa thịnh soạn và lúc vừa ăn xong thì Blomkvist để ý thấy một con tàu M-30 màu vàng lướt vào trong vịnh, dùng chỉ một buồm cái. Con tàu nghiên sườn yêu kiều chạy vát tới trong khi người cầm lái tìm một chỗ ở cầu tàu. Cũng lục soát không gian xung quanh, Blomkvist nhìn thấy một cái khe duy nhất còn lại ở khoảng cách giữa con tàu của bọn anh và một con tàu H ở mạn. Con tàu M-30 hẹp thân sẽ vào lọt khuýp chỗ này. Anh đứng lên ở đuôi tàu, chỉ chỗ; người đàn ông trong chiếc M-30 giơ tay cảm ơn rồi cho tàu hướng đến cầu tàu. Một thủy thủ đơn độc không ngần ngại chuyện khởi động máy, Blomkvist nhận xét. Anh nghe thấy tiếng xích neo cọ và vài giây sau tấm buồm chính hạ xuống, trong khi như một con mèo phải nước sôi, thuyền trưởng di chuyển để ngắm bánh lái thẳng băng với khe đậu, đồng thời ở đằng mũi tàu thì chuẩn bị đưa tàu vào bến.

    Blomkvist leo lên trên lan can thành tàu chìa tay ra nắm dây neo. Con tàu mới đến chỉnh lần cuối cùng đường đi rồi lướt hoàn hảo đến đuôi con Scampi, lúc này đang dịch chuyển rất chậm. Chỉ lúc người đàn ông tung dây neo cho Blomkvist họ mới nhận ra nhau và toét miệng cười khoái trá.

    - Chào, Robban. Sao không dùng động cơ của cậu để cho các con tàu ở bến này không bị bong sơn hả?

    - Chào, Mike. Tớ nghĩ thấy có gì đó quen quen ở cậu. Tớ chỉ thích dùng máy tớ nếu như tớ khởi động được cái của khỉ ấy. Nó đã chết hai hôm trước ở ngoài Rodloga rồi.

    Họ bắt tay nhau qua lan can tàu.

    Cách đây đã lâu, từ hồi những năm 70, ở trường Kungsholmen, Blomkvist và Robert Lindberg là bạn, thậm chí bạn rất tốt của nhau. Như thường xảy ra với các chí cốt thời đi học, sau khi mỗi người một ngả riêng rẽ, tình bạn nhạt đi. Trong hai chục năm qua, có lẽ họ đã gặp nhau đến nửa tá lần, lần cuối vào bảy tám năm trước. Nay hai người thú vị xem xét nhau. Lindberg có bộ tóc rối tung, nước da rám nắng và chòm râu hai tuần chưa cạo.

    Blomkvist vụt thấy phơi phới trên chín tầng mây. Khi thằng cha PR và cô bạn gái ngố nghế của anh ta lên bờ đi nhảy loanh quanh ở Cực Giữa Mùa hè đằng trước cửa hàng tạp phẩm ở phía bên kia hòn đảo thì Blomkvist ở lại trong buồng lái của chiếc M-30, với cá trích và rượu aquavit 5, cùng gã bạn cũ thời học trò đấu hót.

    Tối hôm đó, sau khi hai người đã ngừng cuộc chiến chống lại đám muỗi Arholma nổi tiếng và chuyển xuống cabin, sau một vài ngụm aquavit, câu chuyện quay sang nói giỡn thân mật đến đạo đức ở trong thế giới các tập đoàn. Lindberg đã từ nhà trường đến trường Kinh tế Stockholm rồi vào ngân hàng. Blomkvist đã tốt nghiệp trường Báo chí Stockholm rồi dành nhiều năm tháng sự nghiệp của mình vào việc vạch ra nạn tham nhũng trong thế giới ngân hàng và doanh nghiệp. Câu chuyện của họ bắt đầu khai thác sang những điều từng đã được cho là vừa ý về đạo đức ở trong một số hiệp định có lọng vàng 6 vào những năm 90. Cuới cùng, Lindberg thừa nhận đã có một hai tên xấu xa vô luân ở trong thế giới kinh doanh. Anh bỗng nhìn Blomkvist, vẻ mặt chợt nghiêm túc.

    - Tại sao cậu không viết về Hans-Erik Wennerstrom?

    - Tớ chẳng biết gì về lão ta thì viết làm sao.

    - Đào, đào đi, nhân danh Chúa. Cậu biết bao nhiêu về chương trình AIA?

    - À, một thứ chương trình cứu trợ trong những năm 90 để giúp vực nền công nghiệp ở cái Khối Đông Âu cũ đứng dậy. Nó mới đóng lại hai ba năm trước. Tớ đã có nhìn vào và không thấy gì cả.
    Last edited by giavui; 04-30-2014 at 07:29 PM.

  2. #11
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Blomkvist đã phải nhắc nhở mình rằng, công việc đích thực của anh không phải là viết tiểu sử gia đình Vanger mà là tìm ra chuyện gì đã xảy đến với Harriet Vanger. Tiểu sử nhà Vanger sẽ chả có gì khác với trò bày tranh ở gallery. Sau một năm anh sẽ nhận đồng lương vô lí của mình – Bản hợp đồng Frode thảo đã được ký. Anh hy vọng phần thưởng đích thực sẽ là thông tin về Wennerstrom mà Vanger nói là có nắm được. Nhưng sau khi nghe Vanger, anh bắt đầu nghĩ rằng năm sắp tới sẽ không uổng phí. Một quyển sách về họ Vanger sẽ có giá trị đáng kể. Khá dễ hiểu thôi, nó là một câu chuyện tuyệt vời.

    Trong đầu anh không bao giờ thoáng có ý nghĩ là anh có thể phát hiện ra kẻ giết Harriet Vanger – đó là trường hợp cô bị giết chứ không phải chết vì một tai nạn vớ vẩn nào đó. Blomkvist tán thành với Vanger rằng không thể tồn tại các cơ may cho một cô gái mười sáu tuổi tự ý bỏ nhà đi rồi sống ẩn nấp trong ba mươi sáu năm, bất chấp sự dò xét của tất cả bộ máy quan liêu của chính phủ. Mặt khác anh không loại trừ khả năng Herriet đã bỏ trốn, có thể đến Stockholm rồi sau đó một cái gì đó đã xảy đến với cô – ma túy, đĩ điếm, một vụ tấn công hay thuần túy một tai nạn.

    Về phần ông, Vanger cũng tin rằng Harriet đã bị giết chết và một thành viên gia đình chịu trách nhiệm về chuyện này – có thể cộng tác với một người nào khác. Lý lẽ của ông dựa trên việc Harriet đã mất tích trong cơn hoang mang vào giữa lúc hòn đảo bị cắt ra với đất liền và mọi con mắt đều bận hướng vào vụ tai nạn.

    Berger đã đúng khi nói: Nếu như anh có mục đích tìm ra bí mật của một vụ án mạng, thì khi nhận lấy nhiệm vụ đó, đầu óc anh đã mất bình thường rồi. Nhưng Blomkvist bắt đầu thấy số phận của Harriet đóng vai trò trung tâm trong gia đình, và đặc biệt với Henrik Vanger. Bất kể đúng hay sai, các lời kết tội của Vanger đối với họ hàng đều có ý nghĩa quan trọng trong lịch sử gia đình. Sự kết tội đã được đưa ra công khai trong hơn ba chục năm, nó đã gia thêm màu sắc cho các cuộc tụ họp gia đình cũng như khơi dậy những thù oán độc địa, những cái góp phần làm cho tập đoàn Vanger mất ổn định. Một nghiên cứu về việc Harriet mất tích sẽ giống như một chương hoàn toàn riêng biệt, cũng như cung cấp một sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử gia đình và một lượng dồi dào về tư liệu gốc. Harriet có là việc đầu tiên của anh hay không, liệu anh có viết mau lẹ để làm xong một biên niên gia đình hay không thì điểm xuất phát vẫn cứ cần là phải dựng nên một loạt các nhân vật. Đây là lý do chính vì sao anh đã chuyện trò rất lâu với Vanger ngày hôm đó.

    Gia đình gồm khoảng một trăm người, tính cả con cái của các anh chị em họ bậc một lẫn anh chị em họ bậc hai. Gia đình lớn rộng đến nỗi anh phải tạo ra một cơ sở dữ liệu trong iBook của mình. Anh dùng chương trình NotePad ( www.ibrium.se), một trong những sản phẩm đầy giá trị mà hai người ở đại học Kỹ thuật Hoàng gia đã tạo ra và phát hành như chương trình tự nguyện miễn phí trên Internet. Một phần chương trình của nó cũng có ích cho một nhà báo điều tra. Mỗi thành viên trong gia đình lại có phần tư liệu của bản thân lấy ra từ trong cơ sở dữ liệu.

    Dòng họ có thể được vạch ngược lên tới đầu thế kỷ mười sáu, khi tên gọi còn là Vangeersad. Theo Vanger, tên này có thể bắt nguồn từ họ Geerstat của Hà Lan; nếu đúng là thế thì có thể vạch lui dòng họ lại tới thế kỷ mười hai.

    Thời hiện đại, gia đình đến ở miền Bắc nước Pháp, đầu thế kỷ mười chín, tới Thụy Điển cùng với Quốc vương Jean Baptiste Bernadotle. Alexandre Vangeersad là một người lính và tuy không quen biết nhà vua nhưng ông đã nổi lên như một người đứng đầu giỏi giang của một doanh trại. Năm 1818 ông được cấp phong vùng đất Hedeby như một phần thưởng cho sự phục vụ nhà vua. Alexandre cũng có tài sản của mình, ông lấy nó để mua những khoảnh đất rừng rộng lớn ở Norrland. Con trai ông, Adrian, sinh ở Pháp nhưng theo yêu cầu của bố đã chuyển đến Hedeby, tại khu vực hẻo lánh của Norrland kia, xa cách các phòng khách sang trọng ở Paris để tiếp nhận lấy việc cai quản đất đai cơ nghiệp. Ông làm nghề rừng và nghề nông, áp dụng các phương pháp mới nhập từ châu Âu. Và ông lập nhà máy bột giấy và giấy, Hedestad chính là đã được xây dựng lên ở xung quanh nó.

    Cháu trai của Alexandre tên là Henrik đã rút ngắn tên mình lại thành Vanger. Ông mở giao thương với Nga, tạo ra một hạm tàu buôn nhỏ gồm những thuyền buồm để phục vụ vùng Baltic và Đức, cũng như nước Anh với công nghiệp thép của nó hồi giữa những năm 1800.

    Vị Henrik cao niên ấy đã đa dạng hóa các xí nghiệp của gia đình và lập ra một doanh nghiệp mỏ khiêm tốn cũng như vài công nghiệp thép đầu tiên của Norrland. Ông rời hai người con trai, Birger và Gottfried, họ đã là những người đặt nền móng cho sự nghiệp tài chính của gia tộc Vanger.

    - Anh có biết luật thừa kế cổ tí nào không? – Vanger hỏi.

    - Không.

    - Tôi cũng lơ mơ nốt. Theo truyền thống gia đình, Birger và Gottfried đã chiến đấu như cọp – họ lừng tiếng là dân cạnh tranh cho quyền lực và ảnh hưởng vì chuyện làm ăn của gia đình. Đấu tranh cho quyền lực đã đe dọa chính ngay cả sự sống còn của công ty ở nhiều mặt. Vì lý do ấy, ngay trước khi bố chết, họ đã quyết định đặt ra một hệ thống theo đó tất cả thành viên trong gia đình sẽ nhận được một phần thừa kế - một cổ phần – trong doanh nghiệp. Dụng ý này tốt, điều này không phải nghi ngờ, nhưng nó dẫn tới một tình hình là lẽ ra có thể đưa người có tài và những đối tác tiềm năng từ bên ngoài vào thì chúng tôi có một ban lãnh đạo chỉ gồm toàn thành viên gia đình.

    - Và nay còn áp dụng?

    - Đúng. Nếu một thành viên gia đình muốn bán cổ phần của mình thì cổ phần ấy phải ở trong gia đình. Hiện nay hội nghị hàng năm của các chủ đồng sở hữu gồm có 50% thành viên gia đình. Martin nắm hơn 10% các cổ phần này, tôi có 5% sau khi bán một số của tôi cho Martin cùng mấy người khác.Ông anh Harald của tôi sở hữu 7% nhưng những người đến hội nghị cổ đông thì phần lớn chỉ sở hữu 1% hoặc 0,5% thôi.

    - Nghe cái kiểu cứ như thời trung cổ ấy.

    - Nó lố. Có nghĩa là bây giờ nếu Martin muốn đưa ra một chính sách nào đó, nó sẽ phải mất thì giờ “Vận động hành lang” để bảo đảm có ít nhất 20 đến 25% cổ đông ủng hộ. Đây là mảnh chăn chắp vá, gá ghép của các liên minh, bè phái và mưu mẹo.

    Vanger tóm tắt lịch sử lại:

    - Gottfried chết năm 1901 không có con cái. Hay đúng hơn, xin tha lỗi cho tôi, ông là bố của bốn đứa con gái, nhưng ngày ấy con gái thật sự không được đếm xỉa. Họ sở hữu cổ phần nhưng đàn ông trong gia đình mới là bận tâm về quyền sở hữu. Mãi đến lúc, vào thế kỷ hai mươi, phụ nữ giành quyền được đi bầu, họ mới được cho phép dự các đại hội cổ đông.

    - Rất tự do.

    - Không cần châm biếm. Lúc ấy khác. Muốn gì – Birger, em của Gottfried cũng có ba con trai: Johan, Fredrik và Gideon Vanger. Tất cả đều ra đời vào cuối thế kỉ mười chín. Chúng ta có thể lơ Gideon đi; ông ta bán cổ phần rồi di cư sang Mỹ. Vẫn có một nhánh của gia đình ở bên đó. Còn Johan và Fredrik Vanger thì đã làm cho công ty biến thành Tập đoàn Vanger hiện tại.

    Vanger lấy ra một album ảnh, cho Blomkvist xem những bức ảnh trong gallery các nhân vật mà ông vừa nói tới. Các bức ảnh từ đầu những năm 1900 cho thấy hai người đàn ông với cái cằm nghị lực và tóc chải ém mượt xuống về đằng sau đang nhìn vào ống kính không hề hé ra cho lấy một nụ cười nào.

    - Johan là thiên tài của gia đình. Là kỹ sư ông đã phát triển công nghiệp chế tạo với nhiều sáng chế mà ông đăng ký lấy bằng. Sắt và thép trở thành cơ sở của hãng nhưng kinh doanh cũng mở rộng sang nhiều địa hạt khác gồm cả dệt may. Johan Vanger chết năm 1956 và có ba con gái: Sofia, Marit và Ingrid, những người phụ nữ đầu tiên giành quyền tham dự hội nghị cổ đông. Người anh em khác, Fredrik, là bố tôi. Ông là một doanh nhân và là người lãnh đạo công nghiệp đã biến các sáng chế của Johan thành ra thu nhập. Bố tôi sống mãi đến năm 1964. Ông hoạt động tích cực trong quản lý công ty cho tới khi chết, tuy ông đã chuyển giao việc điều hành hàng ngày cho tôi vào giữa những năm 50 rồi. Đúng là giống thế hệ trước – nhưng ngược lại, Johan chỉ có con gái – Vanger cho Blomkvist xem các bức mấy phụ nữ thân thể vạm vỡ, đội mũ rộng vành và mang dù. – Còn Fredrik bố tôi lại toàn con trai. Chúng tôi có 5 anh em: Richard, Harald, Greger, Gustav và tôi.

    Blomkvist đã vẽ cây dòng họ lên mấy tờ giấy A4 dán liền. Anh gạch dưới tên của tất cả những ai trên đảo Hedeby dự cuộc họp gia đình năm 1966, vậy là những ai, về lý thuyết có thể có ít nhất một cái gì đó dính dáng đến việc Harriet Vanger mất tích. Anh bỏ đi những trẻ dưới 12 tuổi – anh sẽ vẽ đám này ra một chỗ nào đó. Sau nhiều lần cân nhắc anh cũng bỏ Henrik Vanger ra. Nếu vị trưởng lão này có liên quan gì đó đến việc con gái của ông anh mất tích, thì hành động của ông trong 36 năm qua sẽ được cho là biểu hiện thần kinh không bình thường. Mẹ của ông, năm 1966 đã 81 tuổi, cũng có thể hợp lý đem loại trừ. Còn lại là 23 thành viên gia đình, những người mà theo Vanger, cần được gộp vào trong nhóm “nghi can”. Bảy trong số đó nay đã chết, nhiều người hiện cũng đã lên hàng lão đáng kính nể rồi.

    Blomkvist không muốn chia sẻ niềm tin chắc nịch của Vanger rằng một thành viên gia đình đã đứng đằng sau vụ Harriet mất tích. Một số người khác cũng cần được cho thêm vào danh sách nghi can.

    Dirch Frode bắt đầu làm việc với tư cách luật sư cho Vanger vào mùa xuân năm 1962. Và ngoài gia đình ra, ai là gia nhân khi Harriet “bốc hơi”? Gunnar Nilsson – có bằng chứng ngoại phạm hay không chưa nói rõ – thì mười chín tuổi, còn bố anh ta, Magnus thì gần như chắc chắn là có mặt trên Đảo Hedeby cũng như họa sĩ Norman; và mục sư Falk. Falk nữa, có vợ không? Chủ nông trại Aronsson ở OsterGarden, cùng con trai ông, Jerker Aronsson, sống ở trên đảo, khá gần với Harriet Vanger trong thời gian cô ta lớn lên – họ đã có quan hệ với nhau như thế nào? Aronsson vẫn có vợ? Vào lúc ấy còn những ai khác sống ở trại này?
    FREDRIK VANGER

    (1886-1964)

    lấy Ulrika (1885 - 1969)

    Richard (1907 - 1940)

    Lấy Margareta (1906 - 1959)

    Gottfried (1927 - 1965)

    Lấy Isabella (1928 - )

    Martin (1948 - )

    Harriet (1950 - ?)

    Harald (1911 - )

    lấy Ingrid (1925 - 1992)

    Birger (1939 - )

    Cecilia (1946 - )

    Anita (1948 - )

    Greger (1912 - 1974)

    lấy Gerda (1922 - )

    Alexander (1946 - )

    Gustav (1918 - 1955)

    Không vợ, không con

    Henrik (1920 - )

    lấy Edith (1921 - 1958)

    Không con
    JOHAN VANGER

    (1884 – 1956)

    lấy Gerda (1888 - 1960)

    Sofia (1909 - 1977)

    Lấy Ake Sjogren (1906 - 1967)

    Magnus Sjogren (1929 - 1994)

    Lấy Sara Sjogren (1931 - )

    Erik Sjogren (1951 - )

    Hakan Sjogren (1955 - )

    Marit (1911 - 1988)

    lấy Algot Gunther (1904 - 1987)

    Ossian Gunther (1930 -)

    lấy Agnes (1933 - )

    Jacob Gunther (1952 - )

    Ingrid (1916 - 1990)

    lấy Harry Karlman (1912 - 1984)

    Maria Karlman (1944 - )

    Gunnar Karlman (1948 - )


    Khi Blomkvist viết tất cả các tên, bản danh sách lên đến những 40 người. Đã 3 giờ 30 sáng và hàn thử biểu chỉ âm 6 độ F. Anh thèm cái giường của mình ở Bellmansgatan.

    Anh bị người làm công ở Telia đến đánh thức. Đến 11 giờ, anh đã tỉnh hẳn và cảm thấy không còn ngỡ ngàng về nghiệp vụ nữa. Mặt khác, điện thoại của anh vẫn cứ ngoan cố im lìm. Anh thấy có lẽ cũng cần ương bướng và sẽ không gọi cho tòa soạn nữa.

    Anh mở email, xem lướt 350 bức thư gởi anh trong tuần qua. Anh lưu hơn 10 cái, chỗ còn lại là thư rác và các chương trình thư điện anh thuê bao. Bức đầu tiên là từ : ĐỒ DÒI BỌ KHỐN NẠN, ĐỒ CON LỢN THỐI THA. Anh cho nó vào hồ sơ có tên “NHỮNG PHÊ BÌNH THÔNG MINH”.

    Anh gởi cho Erika, chỉ để nói “Anh đã mở được Net, sẵn sàng liên lạc với em khi em tha thứ cho anh. Hedeby là một nơi thô mộc, đáng đến thăm. M.”. Khi thấy đã đến giờ ăn trưa, anh để iBook vào ba lô, và đi bộ đến quán Cà phê và bánh đầu cầu Susanne. Anh ngồi vào cái bàn ở góc quen thuộc. Đem cà phê và bánh kẹp thịt đến, Susanne tò mò nhìn vào máy tính của anh. Chị hỏi anh đang làm gì. Lần đầu tiên Blomkvist dùng đến câu chuyện hỏa mù che mắt. Họ đùa với nhau. Susanne giục anh, khi nào sẵn sàng nói thật được thì nhớ nói với chị một tiếng.

    - Phục vụ Vanger đã ba mươi lăm năm, tôi biết phần lớn những đồn đại về gia đình này. – Chị nói rồi lệnh khệnh đi vào bếp.

    Với đám con, cháu, chắt mà anh không ngại cho gộp vào, hiện nay gia đình anh em Fredrik và Johan có xấp xỉ 50 người còn sống. Gia tộc này co xu hướng sống thọ. Fredrik sống đến bảy mươi tám, còn em của ông, Johan, thì bảy mươi hai. Trong các con của Fredrik đang còn sống, Harald chín mươi hai và Henrik tám mươi hai.

    Ngoại lệ duy nhất là Gustav, chết vì bệnh phổi ở tuổi ba mươi bảy. Vanger giải thích rằng Gustav luôn ốm đau và đã đi con đường của ông ấy, không bao giờ thật sự hòa hợp với đám còn lại của gia đình. Ông ấy không lấy vợ và không có con.

    Những người chết non khác thì đổ quỵ vì những yếu tố khác chứ không phải vì bệnh tật. Richard Vanger bị giết trong chiến tranh mùa đông khi mới ba mươi ba. Gottfried Vanger, bố của Harriet, chết đuối năm trước năm cô mất tích. Harriet thì mới mười sáu. Mikael ghi lại nét đối xứng kỳ lạ trong cái nhánh đặc biệt này của gia đình – ông, bố, con gái, tất cả đều gặp phải bất hạnh. Người con còn lại duy nhất của Richard là Martin, người đến năm mươi tư tuổi vẫn chưa lấy vợ. Nhưng Vanger giải thích rằng cháu ông thật sự là ở ẩn với một người phụ nữ đang sống ở Hedestad.

    Blomkvist ghi lại hai yếu tố ở trong gia đình này. Thứ nhất là không có Vanger nào trong gia đình này đã li hôn hay tái hôn, ngay cả khi vợ của họ chết trẻ. Anh nghĩ điều này thông thường thôi, theo như các thống kê. Cecilia Vanger đã li thân với chồng trong nhiều năm, nhưng bề ngoài họ vẫn là vợ chồng.

    Nét đặc biệt khác là trong khi con cái của Fredrik Vanger, kể cả Henrik đều đóng vai trò lãnh đạo trong doanh nghiệp và ban đầu sống tại hoặc gần Hedestad, thì nhánh gia đình của Johan Vanger, chỉ đẻ ra toàn con gái, lại đều kết hôn và phân tán đến Stockholm, Malmo, và Goteborg hoặc nước ngoài. Và họ chỉ đến Hedestad vào mùa hè hay các cuộc họp gia đình quan trọng hơn. Ngoại lệ duy nhất là Ingrid Vanger có con trai là Gunnar Karlman, lại sống ở Hedestad. Gunnar Karlman là tổng biên tập của tờ Hedestad Courier.

    Suy nghĩ như một thám tử tư, Blomkvist cho rằng động cơ ẩn bên dưới việc giết Harriet có thể tìm ra ở trong cấu trúc của công ty – việc ngay từ đầu Henrik Vanger đã cho biết Harriet là đặc biệt với ông; động cơ có thể là để hành ngay chính bản thân Vanger, hay có thể Harriet đã phát hiện ra vài ba thông tin nhạy cảm liên quan đến công ty, do đó trở thành mối đe dọa của một ai đó. Đây chỉ thuần túy là suy diễn; nhưng bằng cách này anh đã nhận dạng ra được một nhóm gồm 13 cá nhân mà anh coi là có tầm quan trọng tiềm năng.

    Câu chuyện của Blomkvist với Vanger hôm trước đã làm sáng tỏ ra một điểm khác. Từ đầu, ông già đã nói với Blomkvist về rất nhiều thành viên của gia đình ông bằng cái giọng khinh rẻ và bêu xấu. Anh sửng sốt về điều này. Blomkvist nghĩ sự nghi ngờ của vị trưởng lão về gia đình ông liệu đã có làm méo mó đi mất phán xét của ông đối với việc Harriet mất tích hay không, nhưng nay anh bắt đầu nhận thấy Vanger đã có một đánh giá đúng mức khiến cho anh phải ngạc nhiên.

    Qua hình ảnh đang nổi lên, anh thấy một gia đình thành đạt về xã hội và tài chính nhưng lại bị vẹo vọ khá rõ ở mọi phương diện thông thường khác.

    Bố của Henrik Vanger là một người lạnh lùng, dửng dưng cho lũ con ra đời rồi để mặc cho vợ trông nom chúng cùng với hạnh phúc gia đình. Cho đến tuổi mười sáu, đám trẻ vẫn ít khi thấy bố trong những dịp gia đình hội họp, đặc biệt chúng được yêu cầu có mặt, nhưng nào có gặp ông bố. Henrik không nhớ nổi một vẻ yêu thương nào, dù là nhỏ nhất ở bố ông. Trái lại, người con thường được dạy rằng mình bất tài, thường thấy mình là mục tiêu của những lời phê phán. Ít dùng đến trừng phạt thân xác; chuyện đó không cần. Muộn mằn mãi sau này, qua các thành công với Tập đoàn Vanger, anh con trai mới được bố nể trọng.

    Người anh cả đã nổi loạn. Sau một phen cãi cọ - mà lý do vì sao thì gia đình không được bàn đến – anh con trai chuyển đến học ở Uppsala. Ở đây các hạt giống của sự nghiệp quốc xã đã được gieo xuống, chuyện này Vanger đã nhắc đến, rồi cuối cùng là dẫn tới các chiến hào ở Phần Lan. Điều mà ông già trước đây không nói, là hai người anh khác cũng có sự nghiệp giống y như vậy.

    Năm 1930, theo bước chân Richard, Harald và Greger đến Uppsala. Hai người thân nhau nhưng Henrik không dám chắc họ đã sống như thế nào với Richard. Khá rõ là mấy anh em đều gia nhập phong trào phát xít Per Engdahl, Nước Thụy Điển Mới. Harald trung thành theo Per Engdahl trong nhiều năm, đầu tiên với Liên hiệp Quốc gia Thụy Điển, cuối cùng sau chiến tranh thì với Phong trào Thụy Điển Mới. Harald tiếp tục là Đảng viên cho tới những năm 90 khi Engdahl chết, trong một số thời kỳ nhất định ông đã là một trong những người đóng góp chủ chốt vào phong trào phát xít trùm chăn nằm im của Thụy Điển.

    Học y ở Uppsala, Harald Vanger gần như ngay lập tức nhập bọn với đám người bị ám ảnh với các thứ vệ sinh chủng tộc, sinh học chủng tộc. Harald làm việc ở viện Sinh học chủng tộc Thụy Điển một thời gian; là bác sĩ, ông trở thành một nhà vận động hàng đầu cho việc loại bỏ những người không hoàn hảo trong đám dân chúng.

    Trích Henrik Vanger, băng 2, 02950:

    Harald còn đi xa hơn. Năm 1937, với một cái tên giả, cảm ơn Chúa, ông viết chung một quyển sách tên là Châu Âu mới của Nhân dân. Mãi tới những năm 70, tôi mới tìm ra nó. Tôi có một bản mà anh có thể đọc. Chắc nó là một trong những quyển sách đáng ghét nhất từng được xuất bản bằng tiếng Thụy Điển. Harald không chỉ bênh vực cho việc loại bỏ mà còn cho cả việc cho phép tự ý chết- tích cực kết án chết những người vi phạm vào các thị hiếu mỹ học của ông cũng như không phù hợp với hình ảnh của ông về chủng tộc Thụy Điển hoàn hảo. Nói cách khác, trong một bản văn được viết bằng thứ văn xuôi kinh viện không thể chê vào đâu được và mang đầy đủ các luận cứ y học cần thiết, ông đã kêu gọi giết người hàng loạt. Trừ bỏ những ai bị khuyết tật. Không cho dân Saami sinh sôi; họ chịu ảnh hưởng Mông Cổ. Những người bị bệnh tâm thần sẽ coi cái chết như là một hình thức giải phóng, họ có coi như thế không? Những phụ nữ buông tuồng, những kẻ lang thang, những người Gi1pxi và người Do Thái – cậu có thể tưởng tượng ra họ. Trong các hoang tưởng của anh tôi, trại giết người Auschwiz có thể được đặt ở Dalarna.

    Sau chiến tranh, Greger là giáo viên trường trung học cơ sở và cuối cùng là hiệu trưởng của trường dự bị đại học Hedestad. Henrik nghĩ sau chiến tranh ông ta không còn thuộc đảng phái nào và đã từ bỏ Quốc xã. Ông chết năm 1974 và mãi tới khi đọc hết thư tín của ông anh, Henrik mới được biết trong những năm 50, Greger đã gia nhập cái nhóm vô tích sự về chính trị nhưng hoàn toàn lập dị có tên là Đảng Quốc gia Bắc Âu. Ông là hội viên của nó cho tới khi chết.

    Trích, Henrik Vanger băng 2, 04167:

    Kết quả là ba ông anh tôi đều bệnh hoạn về chính trị. Ở các mặt khác họ bệnh hoạn như thế nào?

    Người anh duy nhất đáng được phần nào thông cảm trong con mắt Henrik là Gustav quặt quẹo chết năm 1955 vì bệnh phổi. Gustav chẳng bao giờ quan tâm đến chính trị, ông ta hình như có một kiểu tâm hồn nghệ sĩ, không thích con người, không hề quan tâm chút nào đến kinh doanh hay làm việc trong Tập Đoàn Vanger.

    Blomkvist hỏi Vanger:

    - Nay còn lại có ông và Harald , vậy tại sao ông ấy lại chuyển về Hedeby?

    - Anh ấy chuyển về nhà năm 1979. Anh ấy sở hữu cái nhà đó.

    - Lạ nhỉ, sao ông lại sống gần người anh mà mình không ưa đến vậy?

    - Tôi không ghét anh tôi. Tôi thương anh ấy. Anh ấy ngu ngốc hoàn toàn, anh ấy ghét tôi.

    - Ông ấy ghét ông?

    - Đúng, tôi nghĩ đó là lý do tại sao anh tôi trở lại đây. Để cho những năm cuối cùng còn sống anh ấy được ghét tôi một cách trực diện.

    - Tại sao ông ấy ghét ông?

    - Vì tôi lấy vợ.

    - Tôi nghĩ chỗ này là ông sẽ cần phải giải thích đây nha.

    Henrik thôi tiếp xúc với các ông anh đã lâu. Ông là người duy nhất cho thấy thích nghi với việc kinh doanh làm ăn – ông là hy vọng cuối cùng của ông bố. Ông không thích chính trị và tránh xa Uppsala. Thay vào đó, ông học ở Stockholm. Sau khi đã mười tám tuổi, mỗi kỳ nghỉ hay mùa hè, ông đều làm việc ở một trong các văn phòng của tập đoàn Vanger hay làm công việc quản lý ở một trong các công ty của nó. Ông trở nên quen thuộc với mọi ngóc ngách mê cung của doanh nghiệp gia đình.

    Ngày 10 tháng 6 năm 1941, vào giữa chừng một cuộc chiến tranh tổng lực, Henrik được cử đi Đức sáu tuần xem xét các văn phòng kinh doanh của Tập đoàn Vanger tại Hamburg. Ông mới hai mươi mốt, và người đại diện của Tập đoàn Vanger tại Đức, một thành viên kỳ cựu trong công ty, Hermann Lobach là người đi kèm và cố vấn của ông.

    - Tôi sẽ không làm anh mệt vì mọi chi tiết, nhưng khi tôi đến đó, Hitler và Stalin vẫn là bạn tốt của nhau và chưa có Mặt trận phía Đông. Ai cũng tin Hitler là không thể bại. Có một cảm giác vừa lạc quan lại vừa thất vọng. Tôi nghĩ những chữ ấy rất chính xác. Hơn nửa thế kỷ sau, vẫn khó nói đúng với tâm trạng đó. Đừng hiểu lầm tôi – tôi không là một tay Quốc xã, trong mắt tôi Hitler nom vẻ như một nhân vật bé nhỏ trong một màn kịch con con. Nhưng gần như không thể không bị nhiễm phải cái nhìn lạc quan về tương lai đang tràn ngập ở trong đám thường dân tại Hamburg. Mặc dù sự thật là chiến tranh đang gay gắt hơn, nhiều trận bom đã ném xuống Hamburg trong thời gian tôi ở đó, dân chúng hình như đều nghĩ, quá lắm thì chuyện này chỉ là một phiền toái tạm thời – sớm sẽ hòa bình, Hitler sẽ thành lập Châu Âu mới của ông ta. Dân thích tin rằng Hitler là Thượng đế. Cái này nghe y hệt như tuyên truyền.

    Vanger mở ra một trong nhiều quyển album ảnh.

    - Đây là Lobach. Ông ta biến mất năm 1944, bị cho là mất tích trong một trận ném bom. Trong mấy tuần ở Hamburg, tôi trở thành ra thân với ông ta, sống với ông và gia đình ở một ngôi nhà lịch sự trong vùng lân cận giàu có của Hamburg. Ngày ngày, chúng tôi ở cùng nhau. Ông ta chả có gì là Quốc xã hơn tôi nhưng để cho làm ăn dễ dàng, ông đã vào đảng. Cái thẻ đảng này mở các cánh cửa và tạo nhiều cơ hội thuận lợi cho tập đoàn Vanger – mà kinh doanh thì đúng là việc chúng tôi đang làm. Chúng tôi đóng toa chở hàng cho các xe lửa của họ - tôi đã luôn nghĩ liệu có toa nào của chúng tôi được nhằm đưa đến Ba Lan không. Chúng tôi bán vải vóc để may quân phục và đèn điện tử cho radio – tuy chúng tôi không biết họ dùng những thứ đó vào chuyện gì. Lobach thì biết cách tìm ra hợp đồng; ông ta dễ được lòng và bản tính tốt. Một người theo chủ nghĩa Quốc xã hoàn hảo. Dần dần, tôi bắt đầu thấy ông cũng là một người đang tuyệt vọng cố giấu đi một bí mật. Trong những giờ phút đầu tiên của ngày 22 tháng 6 năm 1941, Lobach gõ cửa buồng ngủ của tôi. Buồng tôi ở cạnh buồng vợ ông, ông ra hiệu tôi im lặng, mặc quần áo vào và đi với ông. Chúng tôi xuống gác, vào ngồi ở phòng khách hút thuốc. Lobach đã thức cả đêm. Ông mở radio, tôi nhận thấy một điều nghiêm trọng nào đó sắp xảy ra. Chiến dịch Barbarossa đã bắt đầu. Đức đã xâm chiếm Liên xô vào đêm trước Hạ chí, - Vanger phác một cử chỉ nhẫn chịu. – Lobach lấy ra ba cái cốc, rót đầy rượu aquavit cho mỗi chúng tôi. Ông ta rõ ràng xúc động. Tôi hỏi thế này có nghĩa là gì, thì với cái đầu nhìn trước được mọi thứ, ông đáp lại rằng đây có nghĩa là kết thúc của Đức và Quốc xã. Tôi chỉ tin ông có một nửa – Dầu sao Hitler vẫn có vẻ là không thể chiến bại – nhưng chúng tôi đã uống rượu mừng cho sự sụp đổ của nước Đức. Rồi ông chuyển chú ý sang những vấn đề thực tiễn hơn.

    Blomkvist gật đầu tỏ ý vẫn nghe.

    - Thoạt tiên, không có khả năng liên lạc với bố tôi để xin chỉ thị, nhưng theo sáng kiến của Lobach, ông quyết định dừng ngay chuyến thăm Đức của tôi và cử tôi về nhà. Thứ hai, ông yêu cầu tôi làm một việc gì đó cho ông.

    Vanger chỉ vào bức chân dung ba phần tư mặt đã ố của một phụ nữ tóc vàng.

    - Lobach lấy vợ đã bốn mươi năm nhưng năm 1919, ông gặp một phụ nữ đẹp theo kiểu man dại bằng nửa tuổi ông và ông đã vô vọng mà phải lòng cô ta. Cô ấy là một thợ may nghèo, đơn giản. Lobach tán tỉnh và như quá nhiều đàn ông giàu có khác, ông cho cô ấy sống trong một căn hộ cách văn phòng ông một khoảng vừa phải. Cô thành người tình của ông. Năm 1921, cô ấy sinh một con gái, mang tên thánh Edith.

    - Người đàn ông giàu, người phụ nữ nghèo và một đứa con của tình yêu – những cái không thể gây ra nhiều tai tiếng trong những năm 40, - Blomkvist nói.

    - Hoàn toàn chính xác. Nếu như không vướng một điều. Người đàn bà ấy là người Do Thái, do đó Lobach là bố của một người Do Thái lại ở đúng cái nước Đức Quốc xã. Ông bị họ gọi là một “kẻ phản bội lại giống nòi”.

    - A… cái này khiến tình hình thay đổi đi đây. Đã xảy ra chuyện gì?

    - Mẹ của Edith bị dẫn đi năm 1939 và mất tích, chúng tôi chỉ có thể đoán được số phận bà ra sao thôi. Dĩ nhiên được biết cô con gái bà chưa bị liệt vào danh sách đem đi tập trung, người mà bây giờ sở cảnh sát Gestapo lùng tìm, việc của họ là mò ra những người Do Thái chạy trốn. Mùa hè năm 1941, tuần mà tôi đến Hamburg, mẹ của Edith không hiểu sao lại liên hệ được với Lobach, và ông đã bị gọi đi thẩm vấn. Ông nhận có mối quan hệ kia và có con, nhưng ông nói ông không biết con gái ông hiện đang ở đâu và ông không hề có liên lạc với nó từ mười năm nay.

    - Vậy cô con gái ở đâu?

    - Ở nhà Lobach, ngày nào tôi cũng thấy cô ta. Một cô gái 20 tuổi dịu dàng êm ả. Dọn dẹp buồng tôi và giúp nấu bữa ăn tối. Vào năm 1937, việc khủng bố người Do Thái đã được tiến hành nhiều năm và mẹ Edith đã cầu xin Lobach giúp đỡ. Ông đã giúp – Lobach yêu đứa con bất hợp pháp cũng ngang những đứa con hợp pháp của ông. Ông giấu cô ở một nơi không ngờ nhất mà ông có thể nghĩ ra – ngay ở trước mũi của mọi người. Ông đã cố có được các tư liệu giả mạo và ông lấy cô vào làm người trông nom nhà cửa.

    - Vợ ông có biết cô ấy là ai không?

    - Không, hình như bà ấy không biết. Chuyện đã trót lọt được bốn năm nhưng nay Lobach cảm thấy cái dây thòng lọng đang thít lại. Chỉ là vấn đề thời gian trước khi Gestapo đến gõ cửa. Lúc ấy ông đem con gái đến giới thiệu với tôi. Cô ấy rất ngượng, không dám nhìn cả vào mắt tôi. Cô chắc đã phải thức mất nửa đêm để chờ gọi đến. Lobach cầu van tôi cứu mạng cô.

    - Thế rồi sao?

    - Ông ấy xếp đặt mọi việc. Tôi được bảo ở lại ba tuần nữa rồi bắt chuyến tàu đêm đi Copenhagen, đi tiếp bằng phà qua eo biển – một chuyến đi tương đối an toàn trong thời chiến. Nhưng sau hôm chúng tôi nói chuyện hai ngày, một tàu chở hàng của tập đoàn Vanger phải rời Hanburg đi Thụy Điển. Lobach muốn cử tôi không chậm trễ đi cùng con tàu chở hàng này để rời Đức. Việc thay đổi kế hoạch đi của tôi đã được sở An ninh bằng lòng; nó là một thủ tục, không phải là một vấn đề. Nhưng Lobach muốn tôi lên con tàu này.

    - Cùng với Edith, tôi chắc thế.

    - Edith đã được đưa lậu lên tàu, giấu trong một trong ba trăm cần cẩu chứa máy móc. Việc của tôi là bảo vệ cô và không để cho thuyền trưởng làm điều gì ngu xuẩn nếu cô bị lộ khi còn ở vùng biển của Đức.Nói khác đi là tôi được bảo chờ cho tới khi đã ở khá xa nước Đức mới đưa cô ra khỏi chỗ nấp.

    - Nghe thật đáng sợ.

    - Thoạt nghe thấy đơn giản, nhưng hóa ra lại là một chuyến đi ác mộng. Thuyền trưởng tên là Oskar Granath, còn lâu ông ta mới bằng lòng chịu trách nhiệm về thằng oắt tì con thừa kế của ông chủ hãng tàu. Chúng tôi rời Hamburg vào khoảng 9 giờ tối, cuối tháng Sáu. Chúng tôi đang trên đường ra khỏi cảng trong thì còi báo động không kích rú lên. Một trận bom của Anh – trận nặng nhất tôi từng trải qua và bến cảng dĩ nhiên là mục tiêu chính. Nhưng chả hiểu sao chúng tôi đã qua thoát và sau một vụ máy bị hỏng và một đêm giông bão trong vùng nước đầy mìn, chiều hôm sau chúng tôi đến Karlskrona. Chắc anh sẽ hỏi tôi cô gái rồi ra sao.

    - Tôi nghĩ là tôi biết.

    - Dễ hiểu là bố tôi đã điên tiết lên. Tôi đã liều mọi thứ vì câu chuyện mạo hiểm ngu ngốc của tôi. Mà cô gái thì có thể bị trục xuất ra khỏi Thụy Điển bất cứ lúc nào. Nhưng như Lobach với mẹ cô ấy ngày xưa, tôi cũng vô vọng yêu mất cô ấy. Tôi ngỏ lời với cô ấy và đưa ra một tối hậu thư cho bố tôi – hoặc bố chấp nhận hôn nhân này hoặc bố tìm một con bò béo ú khác ra mà trông nom công việc làm ăn của gia đình. Bố tôi đã chấp nhận.

    - Nhưng bà ấy chết?

    - Đúng, quá trẻ, vào năm 1958. Cô ấy bị khuyết tật tim bẩm sinh. Thế nên tôi không có con được. Và đó là lý do tại sao anh tôi ghét tôi.

    - Vì ông đã lấy bà ấy.

    - Vì, dùng đúng chữ của anh tôi thì tôi đã lấy một con đĩ Do Thái.

    - Thế thì ông ấy điên.

    - Tôi không tài nào nói hay được hơn anh nữa đâu.
    --------------------------------
    1Vào ngày 6 tháng Giêng, Giáo hội Kitô giáo thường làm lễ tưởng niệm ngày sinh của Chúa và cuộc viến thăm của các Vua pháp sư

  3. #12
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 10

    Thứ Năm, 9 tháng Giêng
    Thứ Sáu, 31 tháng Giêng

    Theo tờ Hedestad Courier, cái tháng đầu tiên Blomkvist tới vùng đồng quê cũng là tháng rét nhất theo mọi người còn nhớ hay (như Vanger báo với anh) ít nhất từ mùa đông thời chiến tranh năm 1942. Sau một tuần ở Hedeby anh đã học được phải mặc quần áo nịt dài, bít tất len và áo sơ mi kép ở trong như thế nào.

    Anh đã có mấy ngày thê thảm vào giữa tháng khi nhiệt độ tụt xuống âm 35 độ F. Anh chưa từng trải qua như thế bao giờ, ngay cả những năm anh sống ở Kiruna tại Lapland làm nghĩa vụ quân sự.

    Một sáng, ống nước bị đóng băng. Nilsson cho anh hai thùng nước to bằng chất dẻo để đun nấu và rửa ráy nhưng cái rét đã làm cho tê cóng tất cả lại. Những bông hoa băng hiện lên trên ô cửa kính và bất kể bao nhiêu gỗ vào lò, anh vẫn cứ rét. Anh bỏ ra nhiều thì giờ bổ củi ở cái lán cạnh nhà.

    Đôi lúc anh đã toan khóc và đùa với ý nghĩ bắt đầu chuyến tàu đầu tiên về nam. Thay vì anh lại mặc thêm áo len và quấn một cái chăn khi ngồi vào bàn bếp, uống cà phê và đọc các báo cáo của cảnh sát.

    Rồi thời tiết cũng thay đổi, nhiệt độ vọt lên 14 độ F.

    Mikael đang bắt đầu làm quen với mọi người ở Hedeby. Martin Vanger giữ lời hứa, mời anh một bữa bít tết nai sừng tấm. Bà bạn gái của Martin cũng đến ăn tối với họ. Eva là một phụ nữ đầm ấm, chan hòa và vui vẻ. Blomkvist thấy bà hấp dẫn lạ thường. Bà là một phụ nữ có nhan sắc, sống ở Hedestad nhưng qua những ngày cuối tuần ở nhà Martin. Dần dần Blomkvist biết hai người đã gặp gỡ nhau đã nhiều năm nhưng chỉ đến khi ở tuổi trung niên thì họ mới đi ra ngoài cùng nhau. Rõ ràng họ không thấy lý do gì khiến cho phải kết hôn.

    - Bà ấy là bác sĩ thực sự của tôi. – Martin cười to và nói.

    - Mà vào cái nhà điên điên khùng khùng này để lấy chồng thì thật sự không phải điều tôi mong. – Eva nói, vỗ vỗ Martin đang âu yếm quỳ bên.

    Biệt thự của Martin Vanger bày đồ nội thất đen, trắng và mạ kền. Có những miếng mẫu thiết kế đắt tiền có thể làm cho Christer Malm sành sỏi khoái trá. Trong phòng sinh hoạt, có một dàn máy nghe stereo siêu cấp với một bộ sưu tập ghê gớm những đĩa jazz từ Tommy Dorsey đến John Coltrane. Martin Vanger có tiền, nhà của anh vừa sang lại vừa hữu dụng. Nó cũng không mang hơi hướng cá nhân. Các tranh nghệ thuật trên tường là các bản sao hay tranh quảng cáo, kiểu thường tìm thấy ở IKEA. Các giá sách, ít ra ở chỗ mà Blomkvist trông thấy ở đây, để một bộ bách khoa toàn thư Thụy Điển và một số sách ở bàn cà phê có thể là quà tặng Noel, vì chắc người ta chẳng biết tặng món gì hay hơn. Tóm lại, anh có thể nhận ra hai phương diện cá nhân trong đời sống Martin: âm nhạc và nấu nướng. Máy quay đĩa 3000 vòng một phút hay hơn thế của anh ta nói hộ cho cái nhận xét thứ hai là có thể suy ra từ cái bụng xệ của Martin.

    Bản thân con người này là một pha trộn của giản dị, hiểu biết và hòa nhã. Không cần có tài phân tích đủ kết luận rằng vị CEO của tập đoàn là một người có vấn đề. Nghe Đêm Tunisia nhưng chuyện của họ lại dành cho Tập đoàn Vanger và Martin chả giấu diếm gì rằng công ty đang phải chiến đấu để sống sót. Anh chắc biết khách của anh là một phóng viên tài chính, anh ít biết tiếng, nhưng anh công khai bàn các vấn đề nội bộ đến mức như có vẻ bất cần. Chắc anh cho rằng Blomkvist là người trong gia đình do chỗ của anh ta làm việc cho ông chú vĩ đại của anh ta, và giống như vị CEO trước, Martin chấp nhận quan điểm cho rằng tình hình công ty như hiện nay thì chỉ các thành viên gia đình đáng phải chịu quở trách. Mặt khác, anh gần như có vẻ thú vị với căn bệnh rồ dại không thể chữa trị của gia đình. Eva gật đầu nhưng không đưa ra phán xét nào. Rõ ràng trước đó họ đã có cùng một lập trường giống nhau.

    Martin chấp nhận chuyện mướn Blomkvist để viết biên niên của gia đình; anh hỏi công việc tiến hành ra sao, Blomkvist mỉm cười nói với anh khó khăn nhất là nhớ tên các thành viên họ hàng. Anh hỏi liệu có thể trở lại để phỏng vấn đúng như đã quy định không. Hai lần anh quay câu chuyện sang nỗi ám ảnh của ông già về việc Harriet mất tích. Henrik chắc đã quấy nhiễu ông anh của Harriet bằng những lý luận của mình và Martin chắc phải nhận ra rằng nếu Blomkvist viết về nhà Vanger thì không thể nào lại không biết chuyện một thành viên gia đình đã biến mất trong hoàn cảnh thật bi thảm. Nhưng không thấy dấu hiệu Martin muốn bàn đến vấn đề này.

    Sau vài chầu vodka, buổi tối kết thúc vào lúc 2 giờ sáng. Blomkvist khá chuếnh choáng khi ngật ngưỡng qua ba trăm mét đến nhà khách. Đây là một buổi tối vui.

    Một buổi chiều trong tuần thứ hai Blomkvist ở Hedeby, có tiếng gõ cửa. Anh gạt tập hồ sơ báo cáo của cảnh sát anh vừa mở sang bên - cặp thứ sáu trong cả loạt – đóng cửa phòng làm việc lại rồi ra mở cửa bên ngoài cho một phụ nữ tóc vàng quấn kín mít để chống rét.

    - Chào, tôi chỉ nghĩ là đến chào. Tôi là Cecilia Vanger.

    Họ bắt tay nhau và anh mang tách cà phê ra. Con gái của Harald Vanger, Cecilia có vẻ là một phụ nữ cởi mở, cuốn hút. Blomkvist nhớ lại Henrik đã nói về chị với giọng tán thưởng; ông cũng nói hai bố con nhà này tuy là hàng xóm mà không hợp nhau. Họ cà kê một lúc rồi Cecilia nói lý do vì sao đến.

    - Tôi biết anh đang viết một quyển sách về gia đình. - Chị nói. - Chắc chắn là tôi không quan tâm đến việc đó. Tôi chỉ muốn xem anh là như thế nào.

    - À vâng, Henrik Vanger mướn tôi. Đây là chuyện của ông ấy, hãy cứ coi là như thế.

    - Và đối với gia đình thì đúng là thái độ của chú Henrik hiền lành của chúng tôi không được trung lập.

    Blomkvist xem xét Cecilia, không biết chị đang muốn nhằm tới điều gì.

    - Chị phản đối viết một quyển sách về gia đình Vanger?

    - Tôi không nói như thế. Và tôi nghĩ thế nào thì điều ấy thật sự không quan trọng. Nhưng bây giờ chắc anh cũng đã nhận thấy là làm thành viên của gia đình này không phải đều luôn luôn suôn sẻ.

    Blomkvist không hiểu Henrik đã nói gì về mình hay Cecilia đã biết đến đâu về công việc của anh. Anh chìa hai tay ra.

    - Tôi được chú chị mướn để viết một biên niên của gia đình. Ông ấy có một vài nhìn nhận rất sinh động về các thành viên gia đình nhưng tôi chỉ được cho biết những gì có thể lấy ra làm tư liệu.

    Cecilia cười nhạt.

    - Điều tôi muốn biết là khi quyển sách ra mắt thì liệu tôi có phải sống lưu đày hay di cư không thôi.

    - Tôi không mong đợi thế. – Blomkvist nói. - Người ta sẽ phân biệt được dê với cừu.

    - Như bố tôi chẳng hạn.

    - Bố chị, một đảng viên Quốc xã nổi tiếng ấy ư?

    Cecilia Vanger tròn xoe mắt lên.

    - Bố tôi điên mà. Mỗi năm tôi chỉ gặp ông ấy vài lần.

    - Tại sao chị không muốn gặp ông ấy?

    - Khoan - trước khi anh hỏi một lô một lốc... Anh có định trích dẫn bất cứ cái gì tôi nói không đấy? Hay tôi có thể nói chuyện bình thường được với anh không đây?

    - Việc của tôi là viết một quyển sách mở đầu bằng việc Alexandre Vangeersad đến Thụy Điển cùng với Bernadotte rồi đi lên cho đến tận nay. Nó nói về đế chế thương mại này qua nhiều thập niên nhưng nó cũng bàn đến chuyện tại sao đế chế hiện tại đang lâm vào cảnh khó và nó sẽ đụng chạm đến sự thù oán vẫn có ở trong gia đình. Với cái nhìn tổng quát như thế e khó tránh được việc sẽ có một vài mảnh giẻ bẩn thỉu nổi lên trên mặt nước. Nhưng như thế không có nghĩa là tôi sắp bắt tay giới thiệu chân dung nham hiểm cả một ai. Chẳng hạn tôi đã gặp Martin Vanger; tôi thấy anh ấy là một con người rất dễ mến và tôi sẽ miêu tả anh ấy dễ mến như vậy.

    Cecilia Vanger không đáp.

    - Về chị, tôi biết chị là giáo viên...

    - Thật ra còn tồi hơn cơ đấy – tôi là hiệu trưởng trường dự bị Hedestad.

    - Tôi xin lỗi. Tôi biết chú chị yêu quý chị, chị đã kết hôn nhưng li thân... và đến nay thì... hãy biết đến chừng ấy. Vậy xin cứ đi tiếp, cứ nói với tôi và không sợ bị trích bị dẫn gì cả. Chắc chắn không lâu sẽ có một ngày tôi đến gõ cửa nhà chị. Lúc ấy sẽ là một phỏng vấn chính thức, và chị có thể chọn xem có muốn trả lời các câu hỏi của tôi hay không.

    - Vậy thỉnh thoảng tôi có thể nói chuyện với anh... không có ghi chép, như họ nói chứ?

    - Dĩ nhiên.

    - Lần này cũng là không ghi chép?

    - Dĩ nhiên. Gì thì đây cũng là một cuộc thăm viếng xã giao.

    - OK. Vậy tôi có thể hỏi chút chứ?

    - Xin cứ việc.

    - Quyển sách này nói đến Harriet mất tích nhiều tới đâu?

    Blomkvist cắn môi và cố sức trả lời thoải mái.

    - Thật thà là tôi chưa có ý gì. Có thể là đầy một chương, Đây là một sự kiện bi thảm đã phủ bóng tối lên một nửa đời của ông chú chị, ít nhất là như thế.

    - Nhưng anh đến đây chẳng phải là để rọi vào câu chuyện mất tích hay sao?

    - Điều gì khiến chị nghĩ ra thành thế?

    - À, việc Nilsson chở bốn cái thùng to tướng đến đây. Cái đó có thể là những tư liệu điều tra riêng của chú Henrik trong nhiều năm. Tôi nhìn vào phòng cũ của Harriet, nơi Henrik để chúng thì không còn thấy nữa.

    Cecilia không phải dân u ơ.

    - Nhưng vấn đề này chỉ nên hỏi Henrik chứ không phải với tôi. – Blomkvist nói. Nhưng biết là Henrik đã nói nhiều đến việc Harriet mất tích thì chị cũng không có gì ngạc nhiên mà, tôi nghĩ sẽ thú vị nếu đọc hết những cái thu thập được ở các thùng đó.

    Cecilia lại mỉm cười nhạt nhẽo.

    - Đôi khi tôi nghĩ không biết bố tôi hay chú tôi ai điên hơn ai. Tôi chắc đã nghe ông già nói có đến nghìn lần việc Harriet mất tích rồi...

    - Chị nghĩ chuyện gì đã xảy ra với chị ấy?

    - Là một câu phỏng vấn chăng?

    - Không, - anh bật cười nói. – Tôi chỉ là tò mò.

    - Tôi thắc mắc là liệu anh có phải là một dân ngố hay không. Hoặc là anh nuốt trôi những điều Henrik tin hoặc anh là một tay xúi giục ông già làm chuyện đó.

    - Chị nghĩ Henrik ngố sao?

    - Chớ hiểu lầm tôi. Ông già là người nồng nhiệt nhất, có đầu óc nhất mà tôi được biết. Tôi rất yêu ông già. Nhưng ông già bị cái đề tài cá biệt này nó ám.

    - Nhưng Harriet bị mất tích thật kia mà.

    - Tôi cũng đau buồn lắm. Nó đầu độc cuộc sống của chúng tôi hàng chục năm rồi mà vẫn chưa thôi. – Cecilia đột ngột đứng lên mặc áo khoác bằng lông vào. – Tôi phải đi. Anh xem vẻ cũng thuộc loại hấp dẫn đấy. Martin cũng nghĩ như thế nhưng xét đoán của Martin không phải luôn luôn là đáng tin cậy. Bất cứ lúc nào anh thích đến tôi uống cà phê, đều được hoan nghênh. Gần như tối nào tôi cũng ở nhà.

    - Cảm ơn chị, - Blomkvist nói. Chị chưa trả lời cái câu không phải là câu phỏng vấn kia đấy nhé.

    Cecilia dừng lại ở cửa, không nhìn anh, đáp lại.

    - Tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ đây là một tai nạn mà ngộ nhỡ có tìm ra thì chúng ta đều sẽ sửng sốt vì sao lời giải của nó lại đơn giản đến thế cơ chứ.

    Chị quay lại mỉm cười với anh - lần đầu tiên nồng ấm. Rồi đi.

    Nếu đây là lần đầu tiên với Cecilia mà dễ chịu thì không thể nói như thế về lần đầu tiên anh gặp Isabella. Mẹ của Harriet hoàn toàn đúng như Henrik đã cảnh báo anh: bà tỏ ra là một phụ nữ trang nhã khiến anh thoáng nhớ đến Lauren Bacall 1. Bà mảnh mai, mặc áo măng tô lông cừu Ba Tư màu đen, với mũ trùm đầu phù hợp và bà chống một cây can đen như cái sáng hôm anh đi đến Susanne mà đâm quàng phải bà. Bà nom giống một mụ chuyên chài đàn ông đang về già - vẫn đẹp đến ngạc nhiên nhưng độc như một con rắn. Isabella rõ ràng là đang trên đường về nhà sau khi đi dạo. Bà gọi anh ở một ngã tư.

    - Xin chào, đây đây, chàng trai kia. Lại đây.

    Khó lầm được với cái giọng sai bảo này. Blomkvist nhìn quanh rồi kết luận mình là người được vời đến. Anh làm theo.

    - Tôi là Isabella Vanger. – Bà nói.

    - Chào bà, tôi là Mikael Blomkvist. – Anh chìa tay ra nhưng bà lờ đi.

    - Anh là người đang rình mò chuyện nhà chúng tôi đấy phải không?

    - À, nếu bà muốn nói tôi là người mà Henrik đã đưa vào hợp đồng để giúp ông ấy làm quyển sách về gia đình Vanger thì vâng, tôi đây.

    - Chuyện đó không phải là việc của anh.

    - Việc gì? Việc Henrik Vanger cho tôi một hợp đồng hay việc tôi nhận nó?

    - Anh thừa biết tôi nói cái gì. Tôi không quan tâm đến những người đến chọc bới lăng nhăng vào đời tôi.

    - Tôi không chọc bới lăng nhăng vào đời bà. Ngoài ra có việc gì xin bà bàn với Henrik.

    Isabella giơ gậy lên rồi ấn đầu gậy vào ngực Blomkvist. Bà không lấy nhiều sức nhưng anh đã phải lùi lại một bước vì giật mình.

    - Cứ ở đâu cho khuất mắt tôi, - bà nói rồi quay gót và loạng choạng về nhà.

    Blomkvist đứng như trời trồng, nom như một người vừa gặp đúng ở trong đời thật một nhân vật truyện tranh. Nhìn lên anh thấy Henrik đang đứng bên cửa sổ văn phòng ông, tay cầm một cái ly, ông nâng nó như gửi tới một lời chào chế nhạo.

    Chuyến ngao du duy nhất mà Blomkvist làm trong tháng đầu tiên là lái xe đến một cái vịnh trên hồ Siljan. Anh mượn chiếc Mercedes của Frode và lái qua một cảnh tuyết để dành một buổi chiều với viên cảnh sát điều tra Morell. Trong khi đọc các báo cáo của cảnh sát, Blomkvist đã cố hình thành một ấn tượng về Morell. Điều mà anh nhận thấy là một ông già sắt đanh, cử động nhẹ nhàng và nói năng còn chậm chạp hơn. Blomkvist mang theo sổ tay với mười câu hỏi, phần lớn là các ý anh đã thu nhặt được trong khi đọc báo cáo của cảnh sát. Theo kiểu các ông giáo, Morell trả lời từng câu hỏi. Cuối cùng Blomkvist cất sổ tay đi, rồi giải thích rằng các câu hỏi chỉ là cái cớ để gặp nhau. Điều anh thực sự mong muốn là tán chuyện với ông và hỏi ông một câu hỏi chủ yếu: trong cuộc điều tra có điều duy nhất nào mà đã không được đưa vào trong bản báo cáo viết thành văn không? Thậm chí bất cứ linh cảm nào đó mà ông có thể chia sẻ với anh không?

    Vì Morell, giống Vanger, suy nghĩ về bí mật này ròng rã đã ba mươi sáu năm trời nên Blomkvist đã chờ đợi ông già sẽ có chút nào đó cưỡng lại – anh là người mới vào cuộc và bắt đầu dò dẫm loanh quanh trong cái bụi rậm mà Morell đã bị lạc ở đó. Nhưng không có một chút mảy may thù nghịch nào. Morell khoan thai nạp thuốc lá vào tẩu, châm nó lên rồi mới trả lời.

    - À được, rõ là tôi có ý kiến của riêng tôi chứ. Nhưng tôi chưa nói ra được thành lời vì chúng còn mơ hồ quá, chập chờn quá.

    - Theo ông thì đã xảy ra chuyện gì?

    - Tôi nghĩ là Harriet đã bị giết. Henrik và tôi nhất trí với nhau ở điểm này. Đấy là giải thích duy nhất hợp lý. Nhưng chúng tôi không tìm ra được động cơ là gì. Tôi chỉ nghĩ cô ấy bị giết là vì một lý do rất đặc biệt – đây không phải là một hành vi điên rồ hay hãm hiếp hay bất cứ một cái gì đại loại. Nếu chúng tôi biết được động cơ thì chúng tôi đã biết ai là kẻ đã giết cô ấy. – Morell ngừng lại nghĩ một lúc. - Việc một ai đó đã chớp lấy cơ hội, cơ hội này tự nó bày ra lúc mới xảy ra vụ đâm xe và người đi lại láo nháo. Tên giết người đã giấu cái xác rồi sau đó mang nó đi trong khi chúng tôi thì mải tìm kiếm cô ấy.

    - Chúng ta có thể là nói đến một ai đó có thần kinh bằng thép.

    - Có một chi tiết... Harriet đến buồng Henrik, muốn nói với ông ấy. Sau này nghĩ lại thì tôi thấy việc này có vẻ lạ - cô ấy biết ông ấy đang có đầy họ hàng phải tiếp đang xúm xít ở quanh. Tôi nghĩ Harriet sống sẽ là mối đe dọa nghiêm trọng cho một người nào đó, cô ấy sắp nói với Henrik một cái gì thì tên giết người biết là cô sắp sửa..., ừ, cho lộ thông tin ra.

    - Còn Henrik thì mải bận với nhiều thành viên trong gia đình.

    - Có bốn người ở trong phòng, không kể Henrik. Greger, anh ông, một anh em họ tên là Magnus Sjogren và Birger cùng Cecilia, hai người con của Harald. Nhưng điều đó không nói lên với chúng ta điều gì hết. Hãy giả định là Harriet phát hiện ra một ai đó đã cuỗm tiền của công ty – dĩ nhiên là giả thiết thế thôi. Chuyện này có lẽ cô ta đã biết cả mấy tháng rồi và có thể ở một mức độ nào đó cô ta đã bàn việc này với người liên quan. Có thể cô ấy đã thử bắt chẹt người ấy hay cảm thấy tiếc cho người ấy và cảm thấy không tiện vạch vòi người ấy ra. Thình lình cô ấy đã quyết định nói chuyện đó với tên giết người và trong lúc tuyệt vọng hắn liền giết cô ấy.

    - Ông nói “hắn” hay “cô” đấy nhỉ?

    - Sách nói phần lớn kẻ sát nhân là đàn ông. Nhưng trong gia đình Vanger, nhiều phụ nữ đã xúi châm ngòi cũng là điều có thật.

    - Tôi đã gặp Isabella.

    - Là một trong số đó. Nhưng còn những người khác, Cecilia Vanger có thể là cay độc cực kỳ đấy. Anh có gặp Sara Sjogren chứ?

    Blomkvist lắc đầu.

    - Cô ấy là con của Sofia Vanger, một trong những chị em họ của Henrik. Nói tới cô ta là chúng ta nói đến một phu nhân thật sự khó chịu, thiếu suy nghĩ. Nhưng cô ấy sống ở Malmo, và ở mức độ mà tôi có thể chắc chắn thì cô ấy không có động cơ để giết Harriet.

    - Vậy cô ấy ra khỏi danh sách được?

    - Cái chính là bất kể chúng ta có xoay dọc xoay ngang thế nào thì cũng không tìm ra được động cơ. Điều quan trọng nằm ở đấy.

    - Ông đã bỏ nhiều công sức vào vụ này. Có một đầu mối nào mà ông nhớ là đã không lần theo nó không?

    Morell lặng lẽ cười.

    - Không. Tôi đã bỏ không biết bao nhiêu thời gian vào vụ này, tôi cũng nhớ là cho đến khúc kết dẫu cay đắng và vô hiệu quả tôi cũng chưa từng bỏ qua một dấu hiệu gì. Ngay cả sau khi tôi được đề bạt và chuyển đi khỏi Hedestad.

    - Chuyển đi?

    - Tôi không phải gốc Hedestad. Tôi phục vụ ở đấy từ năm 1963 đến năm 1968. Sau đó tôi được thăng chức sĩ quan và chuyển đến sở cảnh sát Gavle cho đến lúc về hưu. Ngay ở Galve, tôi vẫn tiếp tục đào bới vụ án.

    - Tôi không cho rằng Henrik đã buông.

    - Đúng thế, nhưng với tôi lý do không phải ở đấy. Bài đố nan giải của vụ Harriet vẫn mê hoặc tôi cho đến hôm nay. Ý tôi nói là nó giống như thế này: cảnh sát điều tra nào cũng đều có một bí mật chưa được giải quyết. Tôi nhớ những ngày tôi còn ở Hedestad, các đồng nghiệp lớn tuổi đã nói ở trong căng tin đến vụ Rebecka như thế nào. Đặc biệt có một sĩ quan, ông ta tên là Tostensson - chết đã nhiều năm rồi - hết năm này đến năm khác cứ quay lại cái vụ ấy. Lúc rỗi rãi hay ngày nghỉ lễ, bất cứ khi nào yên được với đám lưu manh địa phương, ông ấy lại đem các hồ sơ kia ra nghiên cứu.

    - Cũng là vụ một cô gái mất tích chứ?

    Morell nom ngạc nhiên. Rồi ông cười khi nhận ra Blomkvist đang tìm một kiểu liên quan nào đó.

    - Không, đó không phải là điều tôi muốn nói. Tôi muốn nói đến tâm hồn của một người cảnh sát. Vụ Rebecka xảy ra trước cả khi Harriet ra đời và đã hết thời hiệu. Giữa những năm 40, vào một lúc nào đó một người phụ nữ đã bị tấn công, bị hiếp và bị giết chết ở Hedestad. Việc đó gần như là bình thường. Vào một lúc nào đó trong nghề nghiệp, mỗi sĩ quan cảnh sát đều phải điều tra loại tội ác này. Nhưng điều tôi muốn nói đây là những vụ ngay đang trong điều tra đã bấu chặt vào anh, ăn vào xương tuỷ anh. Cô gái đã bị giết tàn bạo nhất. Tên giết người trói cô và đập đầu cô vào than hồng trong lò sưởi. Người ta chỉ có thể đoán cô gái đã phải mất bao lâu để chết, cô đã phải chịu đựng sự hành hạ như thế nào.

    - Lạy Chúa.

    - Đúng. Bạo dâm quá đỗi. Sau khi tìm thấy cô gái, ông Torstensson tội nghiệp là cảnh sát đầu tiên tại hiện trường. Và cứ chưa tìm được tên giết người, cho dù mời cả các chuyên gia ở Stockholm đến, Torstensson không bao giờ dứt nổi được cái vụ này.

    - Tôi có thể hiểu được chuyện đó.

    - Vụ Rebecka của tôi là Harriet. Trong trường hợp này cô ấy chết ra sao chúng tôi cũng không biết. Thậm chí chúng tôi cũng không thể chứng minh được rằng đã có một vụ án mạng. Nhưng tôi không bao giờ buông nó được. – Ông ngừng lại nghĩ một lúc. – Làm một cảnh sát điều tra án mạng có lẽ là một công việc cô đơn nhất trần đời này. Bạn bè của cô gái đều kinh ngạc và thất vọng nhưng sớm hay muộn - họ lại trở về với đời sống thường ngày của họ. Với những gia đình thân thiết thì phải mất lâu hơn nhưng với phần đông thì rồi cũng là vượt qua được nỗi đau thương và thất vọng. Cuộc đời phải tiếp diễn, nó đang tiếp diễn đây. Nhưng bọn giết người không lộ mặt thì cứ lủi thoát, cuối cùng chỉ còn mỗi một người bị bỏ lại để đêm ngày ngẫm nghĩ về nạn nhân: đó là người cảnh sát điều tra bị vất lại với cuộc điều tra.

    Ba người khác trong gia đình Vanger sống ở trên đảo Hedeby. Alexander Vanger, con trai của Greger, sinh năm 1946, sống ở một ngôi nhà gỗ mới sửa sang. Henrik bảo Blomkvist rằng Alexander hiện đang ở Tây Ấn, nơi anh ta tự cho anh ta hưởng cái thú tiêu khiển của mình: giong buồm và giết thì giờ, không làm qua mảy may một việc gì. Alexander đã hai mươi tuổi và có mặt hôm ấy.

    Alexander ở cùng với mẹ, Gerda, tám mươi tuổi, vợ goá của Greger Vanger. Blomkvist chưa nhìn thấy bà ta bao giờ, phần lớn thời gian bà ôm giường.

    Thành viên thứ ba của gia đình là Harald Vanger. Trong tháng đầu tiên, Blomkvist chả thấy ông ta lấy một lần nào. Ở gần với căn nhà nhỏ của Blomkvist nhất, ngôi nhà của Harald nom âm u và gở với những bức rèm kéo kín hết cửa sổ để ngăn ánh sáng. Đôi khi đi ngang qua, Blomkvist ngỡ trông thấy các bức rèm gờn gợn, và một đêm khuya khi anh sắp lên giường, anh để ý thấy một ánh sáng chập chờn từ một gian phòng trên gác. Có một khe hở giữa các bức rèm. Anh đứng ở cửa sổ gian bếp tối om nhìn cái ánh sáng đó hơn hai mươi phút rồi ăn qua loa một ít và run rẩy lên giường. Buổi sáng, các bức rèm lại lặng như tờ.

    Có vẻ Harald là một người vô hình nhưng hồn ma quấy rối đời sống ở làng chính bằng sự vắng mặt của nó. Trong tưởng tượng của Blomkvist thì Harald ngày lại càng nom giống với con ma Gollum chuyên rình mò xung quanh và ẩn sau những bức rèm.

    Hàng ngày, một người giúp việc (thường là phụ nữ) ở bên kia cầu đến gặp Harald một lần. Bà ta sẽ mang các bịch tạp phẩm tới, lê bước qua các đống tuyết đến trước cửa nhà ông. Nilsson lắc đầu khi Blomkvist hỏi về Harald. Ông đã đề nghị cuốc xới dọn dẹp giúp nhưng Harald không muốn ai đặt chân lên đất đai của ông ta. Chỉ một lần, trong mùa đông đầu tiên sau khi Harald quay về đảo Hedeby, Nilsson mới lái máy kéo đến dọn sạch tuyết ở sân vườn, như ông vẫn dọn cho các đường xe rẽ vào các nhà. Harald đã ngạc nhiên ra khỏi nhà, quát tháo, xua tay cho tới khi Nilsson đi.

    Không may, cổng nhà Blomkvist hẹp quá, Nilsson không đưa máy kéo vào dọn tuyết ở sân cho anh được. Chỉ có cách lấy xẻng mà xúc tuyết đi.

    Vào giữa tháng Giêng, Blomkvist nhờ luật sư tìm hộ xem anh đã sắp phải gọi đi thụ án ba tháng tù chưa. Anh nóng lòng muốn giải quyết chuyện này xong càng sớm càng tốt. Vào tù rồi quay lại dễ hơn là anh tưởng. Sau vài tuần bàn soạn, lệnh ban ra là ngày 17 tháng Ba, Blomkvist có mặt ở nhà tù Rullaker bên ngoài Ostersund, một nhà tù an ninh tối thiểu. Luật sư khuyên anh là xem vẻ bản án rất có thể được rút ngắn.

    - Tốt. – Blomkvist nói, không phấn khởi lắm.

    Anh ngồi vào bàn bếp, nựng con mèo nay cứ mươi ngày lại đến qua đêm với Blomkvist. Qua Nilsson anh biết tên con mèo là Tjorve. Nó không thuộc về riêng ai. Nó cứ luân phiên đến mọi nhà.

    Gần như chiều nào Blomkvist cũng gặp Henrik. Có khi nói dăm ba câu, có khi ngồi hàng giờ. Nội dung câu chuyện thường là Blomkvist nêu ra một lý lẽ và Henrik bẻ gẫy lập tức. Blomkvist cố giữ một khoảng cách nhất định với công việc của anh nhưng có những lúc anh thất vọng thấy mình đã bị bí mật của vụ cô gái mất tích kia lôi cuốn. Blomkvist đã bảo đảm với Berger rằng anh cũng sẽ đề ra một chiến lược tiếp tục của cuộc chiến với Wennerstrom, nhưng sau một tháng ở Hedestad, anh vẫn chưa mở các hồ sơ từng đưa anh đến ghế bị cáo ở tòa án quận. Trái lại, anh lại cố tình gạt vấn đề này sang bên vì mỗi khi anh nghĩ đến Wennerstrom và tình cảnh của mình, anh đều bị đắm chìm vào trong suy sụp và thẫn thờ. Anh nghĩ liệu mình có bị hóa điên như ông già này không. Uy tín nghề nghiệp của anh đã tan tành và cách hồi phục của anh là giấu mình vào trong một thị trấn nhỏ bé tại vùng quê xa săn lùng các bóng ma.

    Henrik Vanger cho rằng Blomkvist đang trải qua những ngày mất cân bằng. Cuối tháng Giêng, ông già ra một quyết định mà chính ông cũng phải sửng sốt. Ông nhấc điện thoại gọi Stockholm. Kéo dài hai chục phút, phần lớn câu chuyện là vấn đề liên quan đến Mikael Blomkvist.


    Phải mất gần một tháng trời, cơn thịnh nộ của Berger mới hết. Vào một trong những ngày cuối tháng Giêng, lúc 9 giờ 30 phút tối, cô gọi Blomkvist.

    - Anh thật sự có ý ở lại đó phải không? – Cô mở đầu.

    Cuộc gọi quá đột ngột khiến Blomkvist không thể trả lời tức khắc. Rồi anh mỉm cười, quấn chặt thêm chăn vào người.

    - Chào Erika, em nên đến đây thử xem.

    - Sao phải thử? Hay gì! Sống ở nơi khỉ ho cò gáy thì có gì hấp dẫn chứ?

    - Anh vừa đánh răng bằng nước đóng băng, các chỗ hàn răng đang đau buốt lên đây.

    - Anh hãy tự trách anh ấy. Nhưng ở đây, ở Stockholm cũng rét chết người đây.

    - Hãy nghe những cái tồi tệ nhất đã nhỉ.

    - Chúng ta đã mất hai phần ba khách hàng thuê bao quảng cáo. Không ai muốn thôi ngay và nói ra nhưng…

    - Anh biết. Lên một danh sách những người “đổi tàu” đi. Có ngày chúng ta sẽ làm một chuyện hay hay về họ đấy…

    - Mikael… Em đã xem đến các con số, nếu chúng ta không cột được vài mục quảng cáo mới thì vào mùa thu này chúng ta sẽ đi tong đấy.

    - Mọi sự sẽ ổn trở lại.

    Cô cười gượng gạo ở đầu dây.

    - Lên tít tận cái địa ngục Laplander ấy xây tổ ấm mà chỉ nói được có thế thôi nhỉ.

    - Erika, anh…

    - Em biết. Đàn ông người ta có những việc và những thứ tào lao phải làm. Anh không phải nói gì cả. Em xin lỗi đã không trả lời các thư của anh. Chúng ta có thể khởi động lại được chứ. Liệu em có dám đến đó gặp anh không đây?

    - Bất cứ lúc nào tùy em.

    - Em có cần mang theo một khẩu súng với đạn bắn sói không?

    - Không cần chút nào. Chúng ta sẽ có những cỗ xe Lapp, bầy chó kéo xe và tất cả lệ bộ của riêng chúng ta… Bao giờ em đến?

    - Tối thứ Sáu, OK?





    Ngoài con đường hẹp dẫn vào cửa đã được cuốc tuyết, có khoảng một mét tuyết phủ lên ngôi nhà. Blomkvist nhìn với vẻ lên án cái cuốc một hồi rồi đi đến nhà Nilsson để hỏi liệu Berger có đậu được chiếc BMV của cô ở đây không. Không thành vấn đề; họ có chỗ ở trong gara và họ có cả lò sấy động cơ.

    Berger lái suốt chiều và tới quãng 6 giờ. Họ thận trọng nhìn nhau vài giây rồi ôm chầm lấy nhau.

    Chả có gì nhiều để ngắm nhìn trong bóng tối, trừ nhà thờ thắp sáng, nhà hàng Khôngnsum và quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne đều đã đóng cửa. Cho nên họ vội vã về nhà. Blomkvist nấu bữa tối còn Berger thì thăm thú quanh nhà, đưa ra vài nhận xét về mấy số tạp chí Rekhôngrdmagasinet từ những năm 50 vẫn còn ở đó, và đang choán chỗ trong các hồ sơ của Mikael trong phòng làm việc.

    Họ ăn sườn cừu với khoai tây sốt kem và uống vang đỏ. Blomkvist muốn tiếp tục tuyến chuyện trước đó của họ nhưng Berger không có bụng dạ nào bàn bạc về Millenium. Thay vào đó họ nói chuyện hai giờ về công việc Blomkvist đang làm ở đây, về anh và Vanger xoay sở chuyện kia ra sao. Sau đó họ đi xem cái giường có đủ rộng để cho cả hai người không.

    Lần gặp thứ ba của Salander với luật sư Nils Bjurman đã được xếp đặt lại và cuối cùng thì định vào 5 giờ chiều cũng thứ Sáu ấy. Trong lần gặp trước, một phụ nữ trung niên sặc mùi xạ hương và là thư ký của luật sư đón tiếp cô. Lần này bà ta đã về còn Bjurman thì sực mùi say muốn xỉn. Ông vẫy Salander đến một chiếc ghế của khách rồi lơ đãng lật giở các tài liệu ở bàn làm việc cho đến khi ông giật mình tỉnh ra là cô đang có mặt ở đây.

    Quay qua quay lại thành một cuộc chất vấn mới. Lần này ông hỏi Salander về đời sống tình dục của cô – điều mà cô không định thảo luận với bất kỳ ai.

    Sau cuộc gặp cô biết là về chuyện này cô chẳng biết tí gì. Trước hết là cô từ chối tất cả các câu hỏi của ông ta. Ông ta lại hiểu như thế là vì cô ngượng, lạc hậu hay có một cái gì đó cần giấu nên ông cứ ép cô trả lời. Salander nhận ra ông ta sẽ không chịu thôi nên trả lời vài câu hỏi ngắn ngủn, nhợt nhạt, thuộc cái loại mà cô cho rằng sẽ hợp với diện mạo tâm lý của cô. Cô nhắc tới “Magnus” – người mà theo cô miêu tả thì là một lập trình viên máy tính yếu ớt, trạc tuổi cô, đối xử với cô lịch lãm, đưa cô đi xem phim và đôi khi ngủ chung giường với cô. “Magnus” là bịa, nói đến đâu cô dựng anh ta đến đó nhưng Bjurman lại lấy chuyện đó làm một cớ để vẽ chi tiết tỉ mỉ về đời sống tình dục của cô. Cô sex thường xuyên không? Thỉnh thoảng. Ai chủ động – cô hay anh ta? Tôi. Cô có dùng bao cao su không? Dĩ nhiên – cô biết về HIV mà. Cô ưa tư thế nào hơn? Hừm, thường là tôi nằm ngửa. Cô có thích tính giao đằng miệng không? Ơ ơ, để xem… Cô có tính giao đằng hậu môn không?

    - Không, nhưng ông đang làm cái đồ quỷ gì đây thế hả?

    Đây là lần duy nhất cô mất kiềm chế. Cô phải giữ cho mắt nhìn xuống sàn để chúng không phản lại cơn giận dữ của cô. Khi cô lại nhìn vào ông, ông ngoác mồm ra cười với cô qua bàn. Cô rời văn phòng ông ta, với một cảm giác tởm lợm. Palmgren không bao giờ hỏi những câu như thế. Mặt khác, ông luôn luôn ở đây mỗi khi cô muốn bàn bạc một việc gì. Cô lại không thế.

    Bjurman đang đi trên con đường tới một Vấn đề Then chốt.
    --------------------------------
    1Một nữ diễn viên Mỹ

  4. #13
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 11

    Thứ Bảy, 1 tháng Hai
    Thứ Ba, 18 tháng Hai

    Trong mấy giờ ngắn ngủi có ánh mặt trời của ngày thứ Bảy, Blomkvist và Berger đi bộ qua bến tàu nhỏ dọc con đường đến Ostergarden. Anh đã sống ở đảo Hedeby một tháng nhưng anh chưa làm chuyến đi nào vào sâu bên trong; thời tiết rét ướt và các cơn bão tuyết đều đặn đã ngăn anh. Nhưng thứ Bảy này trời nắng và tươi sáng, tựa hồ như Berger đã mang một thoáng xuân đến đây. Đường viền tuyết hai bên, được vén lên cao một mét. Họ vừa ra khỏi căn nhà gỗ nhỏ mùa hè là đi ngay vào rừng dương xỉ dày đặc. Blomkvist ngạc nhiên khi thấy Soderberget, quả đồi chạy ngang qua những căn gỗ nhỏ, khi ở dưới làng nhìn nó thì lại thấy nó quá cao, quá khó lọt vào đến thế. Anh nghĩ lúc còn là một đứa bé chắc Harriet đã đùa nghịch nhiều lần ở đây nhưng rồi anh lại gạt đi khỏi đầu mình mọi ý nghĩ về cô gái. Sau chừng một dặm, một hàng rào cho biết đã hết rừng, đất nông trại Ostergarden bắt đầu từ đó. Họ có thể nhìn thấy những kiến trúc cổ bằng gỗ trắng và những ngôi nhà trại màu đỏ thành hàng thành lối vuông vắn. Họ quay lại để về bằng con đường cũ.

    Khi họ đi qua con đường cho xe rẽ vào dinh cơ gia đình Vanger, Vanger gõ vào cửa sổ ở trên gác rồi vẫy tay bảo họ đi lên. Blomkvist và Berger nhìn nhau.

    - Em có muốn gặp một dã sử về tập đoàn không?

    - Ông ta có cắn không?

    - Thứ Bảy thì không.

    Henrik đón họ ở của phòng làm việc của ông.

    - Chắc đây là cô Berger, tôi nhận ra cô. - Ông nói. - Mikael không hé ra tí nào là cô đến Hedeby.

    Một trong những tài năng xuất sắc của Berger là có thể nhập ngay vào chuyện với những người không quen biết bằng những lời lẽ thân thiện. Blomkivist đã thấy cô trổ tài nghệ mê hoặc đám con nít năm sáu tuổi khiến cho chỉ trong vòng mười phút là chúng liền hoàn toàn sẵn sàng bỏ mẹ chúng. Các ông trên tám chục hình như cũng không phải là ngoại lệ. Sau hai phút, Berger và Vanger đã mải chuyện với nhau quên cả Blomkvist. Cứ tựa như hai người quen biết nhau từ hồi còn trẻ con cơ - thôi được, ít nhất thì cũng là tuổi trẻ con của Erika.

    Mở đầu Berger chẳng nể nang gì trách ngay Vanger đã mồi chài chủ bút của cô vào tròng. Ông già đáp lại rằng, theo như ông biết, qua báo chí, thì chính cô đã sa thải anh ấy. Mà nếu cô không sa thải thì nay cũng đã đến lúc ban lãnh đạo báo cần gọn nhẹ lại. Trong trường hợp này, Vanger nói, để cho Blomkvist trẻ trung sống thô tháp một thời kỳ là có lợi đôi chút cho anh.

    Hai người đã tranh luận đến năm phút về các điều thiếu sót của Blomkvist bằng những từ ngữ khiến cho phát cáu lên được. Blomkvist ngả người ra sau, vờ ra vẻ bị mắng mỏ nhưng anh cau mày khi Berger đưa ra vài nhận xét phê bình có thể ngụ ý rằng anh là một nhà báo tuy thất bại nhưng lại có vẻ thành thạo các ngón tình dục. Vanger nghiêng đầu cười phá lên.

    Blomkvist ngạc nhiên. Anh chưa thấy Vanger tự nhiên, nhẹ nhõm như thế này bao giờ. Anh có thể thình lình thấy rằng, cách đây hơn năm chục tuổi - hay thậm chí ba chục - Vanger chắc đã phải là một người đàn ông khá hấp dẫn, lôi cuốn các bà các cô. Chắc đã có những phụ nữ đi ngang qua con đường của ông, thế nhưng trong gần một nửa thế kỷ ông vẫn cứ độc thân.

    Blomkvist uống một ngụm cà phê rồi lại dỏng tai lên khi thấy câu chuyện đột nhiên xoay ra nghiêm túc và liên quan đến Millennium.

    - Mikael bảo tôi là các anh chị đang có vấn đề ở tạp chí. - Berger liếc Blomkvist. - Không, anh ấy không bàn gì đến công chuyện nội bộ của anh chị đâu, nhưng phải điếc hay mù thì ai đó mới không thấy tạp chí của anh chị đang gặp khó khăn, như Tập đoàn Vanger.

    - Tôi tin rằng chúng tôi có thể chữa chạy được tình thế này, - Berger nói.

    - Tôi nghi ngờ. - Vanger nói.

    - Tại sao chứ?

    - Hãy xem đây - anh chị có bao nhiêu nhân viên? Sáu? Một tạp chí ra hàng tháng với số lượng in 21.000 bản, giá thành xuất bản, lương lậu, phát hành, các văn phòng... Anh chị cần thu nhập chừng 10 triệu. Tôi nghĩ chúng ta đều biết bao nhiêu phần trăm của món tiền này là phải đến từ tiền thuê quảng cáo.

    - Vậy ư?

    - Cho nên trong lúc vội vàng ông bạn Wennerstrom, một kẻ ba láp thù dai và thiển cận đã quên mất cú đánh bồi theo của hắn. Trong sáu tháng qua hai người mất bao nhiêu mục quảng cáo?

    Berger thận trọng nhìn Blomkvist. Blomkvist bất chợt nín thở. Trong các dịp anh và Vanger đề cập đến tương lại của Millennium, thì những nhận xét khiến cho rầu lòng hay tình cảnh của tờ tạp chí là có liên quan đến khả năng hoàn thành công việc của Blomkvist ở Hedestad. Nhưng nay Vanger đang nói với Erika, giữa một ông chủ với một bà chủ. Những tín hiệu trao đổi giữa hai người mà Blomkvist không thể hiểu kia chứng tỏ một điều rằng anh cơ bản chỉ là một người thuộc tầng lớp lao động nghèo ở Norrland còn Berger là một cô gái thượng lưu với dòng dõi danh giá.

    - Có thể cho tôi một ít cà phê nữa không? - Berger hỏi. Lập tức Vanger rót ngay. - OK, ông đã trả được bài làm. Chúng tôi thì đang chảy máu.

    - Bao lâu?

    - Chúng tôi đã có sáu tháng để xoay xở loanh quanh. Tám tháng là tối đa.Chúng tôi không có đủ vốn giữ cho nổi lềnh bềnh được lâu hơn nữa.

    Không thể dò ra nổi vẻ mặt của ông già khi ông ta nhìn ra ngoài cửa sổ. Nhà thờ vẫn đứng đó.

    - Hai người có biết tôi đã từng ở trong nghề báo? - ông nói, một lần nữa với cả hai.

    Blomkvist và Berger cùng lắc. Vanger lại cười, rầu rĩ.

    - Chúng tôi sở hữu sáu tờ báo ngày ở Norrland. Trong những năm 50, 60 trước kia. Đó là theo ý bố tôi - cụ nghĩ có một mảng truyền thông đại chúng ở sau lưng thì có thể được lợi thế về chính trị. Hiện tại chúng tôi vẫn đang là một trong những chủ sở hữu của tờ Hedestad Courier. Birger là chủ tịch của ban quản trị của nhóm những người sở hữu. Con trai của Harald, - ông nói thêm, điều này là hay cho Blomkvist.

    - Và cũng là một nhà chính trị địa phương. - Blomkvist nói.

    - Martin cũng ở trong ban quản trị này. Anh ta giữ cho Birger đi đúng đường lối.

    - Tại sao ông buông tờ báo mà ông sở hữu? - Blomkvist hỏi.

    - Do đổi mới tổ chức hồi những năm 60. Ở mặt nào đó, các báo xuất bản cũng là một thú chơi hơn là một lợi ích. Khi chúng tôi cần giảm nhẹ ngân sách, thì một trong những tài sản chúng tôi bán là tờ báo... Nhưng tôi biết là một tờ báo phải là thế nào... Tôi hỏi hai người một câu riêng tư được không?

    Lần này hướng vào riêng Erika.

    - Tôi chưa hỏi Blomkvist điều này và nếu bạn không muốn trả lời thì không sao. Tôi muốn biết các bạn sẽ kết thúc ra sao trong cái thế sa lầy này. Các bạn có hay không có chuyện?

    Lần này vẻ mặt Blomkvist nom khó dò xét. Chỉ một thoáng ngập ngừng Berger đã nói:

    - Chúng tôi có một chuyện. Nhưng đó là một chuyện rất khác.

    Vanger gật đầu, vẻ như hiểu đích xác điều Berger nói. Blomkvist thì không.

    - Tôi không muốn bàn vấn đề này. - Blomkvist cắt gọn. - Tôi đã điều tra nghiên cứu

    và đã viết bài báo . Tôi có mọi nguồn tôi cần. Nhưng rồi ra ma hết.

    - Mọi điều mới nhất anh viết cũng là có nguồn tin cả?

    - Có.

    Giọng Vanger thình lình sắc đanh lại.

    - Tôi không thể hiểu anh bị ma xui quỷ ám thế nào mà lại đi đạp vào một bãi mìn như thế. Tôi không nhớ ra nổi có chuyện nào lại thế này, trừ có lẽ cái vụ trên tờ Expressen trong những năm 60, nếu như cánh trẻ các bạn có nghe nói đến. Nguồn của anh cũng là từ một cha ngoa ngoắt, điêu xạo chứ? - Ông lắc đầu, quay sang Berger nói một cách bình tĩnh. - Trước kia tôi đã là một chủ phát hành báo và giờ tôi vẫn có thể lại là một chủ phát hành báo. Cô nói sao về vấn đề nhận một đối tác khác?

    Câu hỏi đến như tiếng sét giữa trời xanh nhưng xem vẻ Berger không hề sửng sốt chút nào cả.

    - Ông hãy nói kỹ hơn. - Cô nói.

    Vanger nói:

    - Cô ở Hedestad bao lâu?

    - Mai tôi về. - Cô nói.

    - Cô, dĩ nhiên cả Blomkvist, có coi việc ăn uống với tôi tối nay là làm vui cho một ông già không? 7 giờ có hợp với các bạn không?

    - Hợp quá. Chúng tôi thích được như thế. Nhưng ông chưa trả lời câu tôi hỏi. Tại sao ông muốn là một đối tác của Millennium?

    - Tôi không muốn tảng lờ câu cô hỏi. Chỉ là nghĩ chúng ta có thể bàn chuyện đó khi ăn tối. Tôi cần nói chuyện với luật sư của tôi rồi mới có thể đặt ra một đề nghị cụ thể. Nhưng nói sơ sơ thì tôi có tiền để đầu tư. Nếu tờ tạp chí sống sót và bắt đầu lời lãi tôi sẽ rút lui ngay. Nếu không - ừ phải, xưa, tôi đã có những thua thiệt lớn hơn nhiều ấy chứ.

    Blomkvist sắp nói thì Berger đặt tay lên đầu gối anh.

    - Mikaerl và tôi đã phấn đấu dữ nên có thể hoàn toàn độc lập được.

    - Vớ vẩn. Không ai hoàn toàn độc lập cả. Nhưng tôi nhảy ra không phải là để tiếp cận tờ báo và tôi cũng chả bận gì đến nội dung. Cha Stenbeck ác ôn phát hành tờ Modern Times mà được đủ trăm đường thì tại sao tôi không thể đỡ lưng Millennium được chứ? Nhân thể, làm những gì thì thành một tờ tạp chí hay?

    - Chuyện này có dính dáng đến Wennestrom không? - Blomkvist nói.

    Vanger mỉm cười.

    - Mikael, tôi hơn tám chục hơn rồi. Có những điều tôi ân hận là không làm, có những người làm tôi đã ân hận là không đánh nhiều hơn nữa. Nhưng, nhân đề tài này, - ông lại quay sang Berger, - kiểu đầu tư này ít nhất cũng sẽ có một điều kiện.

    - Xin cho nghe, - Berger nói.

    - Mikael phải làm chủ bút lại.

    - Không. - Blomkvist quặc luôn.

    - Nhưng mà có đấy. - Vanger nói, cũng cộc lốc thế. - Wennerstrom sẽ lên cơn đột quỵ nếu chúng ta tung tin báo nói Tập đoàn Vanger hỗ trợ cho Millennium, đồng thời anh lại quay về làm chủ bút. Đây cũng là tín hiệu rõ ràng nhất mà chúng ta tuyệt đối có thể phát đi - ai cũng hiểu đây không phải là một chuyển giao và đường lối biên tập của tờ tạp chí thì vẫn cứ nguyên như cũ. Chỉ riêng điều này thôi cũng đủ làm các chương trình quảng cáo đang muốn rút ra sẽ có lý do nghĩ lại. Wennerstrom không phải toàn năng. Hắn cũng co kẻ thù và những công ty mới sẽ nghĩ đến chuyện xí chỗ.

    - Tất cả các cái này là trò quỷ gì thế nhỉ? - Berger vừa kéo cánh cửa đóng lại, Blomkvist đã nói.

    - Em nghĩ đây là những trò thăm dò trước khi bàn đến một vụ làm ăn. - Cô nói. - Anh không báo trước em Henrik Vanger là một người dễ mến như thế.

    Blomkvist đến đứng ngay trước mặt Berger:

    - Erika, em biết rất rõ cuộc nói chuyện này dẫn đến cái gì rồi mà.

    - Hê, chàng trai. Mới 3 giờ mà em thì đã muốn được tiêu khiển tử tế trước khi ăn tối đấy nha.

    Blomkvist đóa lên. Nhưng có bao giờ anh nổi đóa được lâu với Erika.

    Cô mặc đầm đen, jacket dài ngang eo, giầy đế bằng mà tình cờ cô mang theo trong chiếc va li nhỏ của cô. Cô đòi anh mặc jacket và thắt cà vạt. Anh mặc quần đen, sơ mi xám, cà vạt đen và áo ngoài thể thao màu xám. Đúng giờ khi họ gõ cửa nhà Vanger, thì té ra Dirch Frode và Martin Vanger cũng là khách mời. Ai cũng jacket, cà vạt, trừ Henrik Vanger.

    - Cái lợi của tuổi ngoài tám mươi là anh mặc như thế nào cũng chả ai phê phán, - ông tuyên bố. Ông thắt nơ con bướm và mặc áo len nâu.

    Berger rất phấn chấn vui vẻ trong suốt bữa ăn. Chỉ đến khi họ sang phòng khách có lò sưởi và cognac đã được rót ra, câu chuyện bàn bạc mới mang một giọng điệu nghiêm túc. Họ trò chuyện gần hai giờ rồi mới ra được một đề cương phác thảo cho một vụ làm ăn.

    Frode sẽ cơ cấu một công ty hoàn toàn do Henrik Vanger sở hữu, ban giám đốc sẽ gồm có Henrik, Martin và Frode. Trong một thời kỳ bốn năm, công ty này sẽ đầu tư một khoản tiền lấp cho khoảng trống giữa thu chi của Millennium. Tiền sẽ đến từ tài khoản riêng của Vanger. Đổi lại, Vanger sẽ có một vị trí nổi bật trong Ban biên tập của tờ tạp chí. Thỏa thuận này có giá trị trong bốn năm, nhưng sau hai năm Millennium có thể kết thúc nó.

    Nhưng việc kết thúc trước hạn này sẽ tốn kém vì Vanger chỉ rút ra khi nào ông được trả lại khoản tiền đã đầu tư. Trong trường hợp Henrik Vanger chết, Martin Vanger sẽ thay ông ở ban biên tập trong thời gian còn lại của thời kỳ mà thỏa thuận này có giá trị. Nếu sau thời kỳ này, Martin muốn tiếp tục ở lại tạp chí thì anh có thể tự quyết định khi đáo hạn. Anh có vẻ thú với triển vọng được trả miếng Wennerstrom và Blomkvist lại một phen nghĩ ngợi nguồn gốc thù ghét giữa hai người này là cái gì đây.

    Martin rót đầy các cốc rượu nho của họ. Để làm rõ ý, Henrik ngả người về Blomkvist thấp giọng bảo anh rằng bố trí mới này không có bất cứ ảnh hưởng nào đến thỏa thuận đã có giữa hai người. Blomkvist có thể nhận lại phận sự chủ bút chính thức của anh vào cuối năm nay.

    Để cho tác động mạnh nhất vào giới truyền thông đại chúng, việc tổ chức lại này nên được giới thiệu vào đúng ngày Blomkvist bắt đầu thụ án tù vào giữa tháng Ba. Phối hợp hai sự kiện tiêu cực lớn như thế là, nói theo thuật ngữ của quan hệ công chúng, một sai lầm ngớ ngẩn đến mức nó không làm những kẻ bêu xấu Blomkvist ngạc nhiên cũng như những kẻ khiến cho người ta chú ý tối ưu tới vai trò mới của Heenrik Vanger. Nhưng ai cũng thấy cái lô gích ở đây - nó là một cách chỉ cho thấy rằng lá cờ vàng báo có dịch bệnh phơ phất trên toàn soạn Millennium đang sắp sửa được hạ xuống; đứng đằng sau tờ tạp chí là những người dám làm những việc độc địa nhẫn tâm. Có thể đang bị khủng hoảng nhưng Tập đoàn Vanger vẫn là một hãng công nghiệp hàng đầu có thể ra đòn tấn công khi cần thiết.

    Tất cả buổi tối ấy là một cuộc bàn bạc giữa một bên là Berger và bên kia là Henrik, Martin. Chả ai hỏi Blomkvist là anh đang nghĩ gì.

    Khuya đêm đó, Blomkvist nằm gối đầu trên ngực Berger, nhìn vào mắt cô.

    - Em và Hennrik Vanger bàn về sự dàn xếp mất bao lâu?

    - Chừng một tuần. - Cô nói, mỉm cười.

    - Christer bằng lòng không?

    - Dĩ nhiên.

    - Tại sao không bảo anh?

    - Tại sao lại phải bàn với anh trong cả cái thế giới này chứ? Anh đã từ chức chủ bút, anh đã bỏ ban biên tập và ban quản trị, anh vào rừng sống rồi cơ mà.

    - Cho nên anh mới đang được đối xử như một thằng ngu.

    - Ồ vâng, - Cô nói - Anh quyết tâm làm thế mà.

    - Em đã giận anh thật.

    - Miakael, khi anh bỏ đi em chưa bao giờ thấy phẫn nộ đến thế, bị bỏ rơi đến thế, bị phản bội đến thế. Trước đây em chưa bị điên đảo như thế với anh bao giờ. - Cô túm chặt lấy tóc anh rồi đẩy anh ra xa nữa xuống cuối giường.

    Chủ nhật, trong lúc Berger rời Hedeby, Blomkvist vẫn bực Vanger đến nỗi không muốn tình cờ bắt gặp ông hay ai khác trong dòng họ nhà ông. Thay vì thế, hôm thứ Hai, anh đã đi xe buýt vào Hedestad, bỏ cả chiều ra đi bộ trong thị trấn, thăm thư viện, uống cà phê trong một hiệu làm bánh. Tối vào rạp xi nê xem Chúa tể những chiếc nhẫn mà anh chưa có thì giờ để xem trước kia. Anh nghĩ thủy quái là những tạo vật đơn giản, không phức tạp như con người.

    Anh kết thúc cuộc ngao du ở nhà hàng McDonald ở Hedestad, rồi bắt chuyến xe buýt cuối cùng về Hedeby. Pha cà phê, lấy một cặp hồ sơ ra, ngồi vào bàn bếp. Anh đọc cho đến 4 giờ sáng.

    Blomkvist càng đi sâu vào các tư liệu càng có một số câu hỏi liên quan đến cuộc điều tra xem vẻ không ngừng thêm quái lạ. Đấy không phải là những phát hiện đảo ngược gì mà anh tự tìm ra; chúng là những vấn đề làm cho Morell bận tâm trong nhiều thời kỳ dài, đặc biệt trong những lúc rảnh rỗi của ông.

    Trong những năm cuối cùng của đời mình, Harriet đã có thay đổi. Ở một số mặt nào đó, thay đổi này có thể được giải thích như là thay đổi mà ai ai cũng đều trải qua dưới hình thức này hay hình thức khác ở lứa tuổi teen. Harriet đang lớn. Nhưng bạn học, thầy cô giáo và nhiều thành viên gia đình đều nhận thấy cô đã ngày càng hướng vào nội tâm và ngại giao tiếp.

    Cô gái mà hai năm trước, là một thiếu nữ mười mấy đáng yêu đã bắt đầu lánh xa mọi người quanh cô. Ở trường cô vẫn gặp gỡ bạn bè nhưng bây giờ cô ứng xử bằng một kiểu "lơ ma lơ mơ", như một người bạn cũ của cô đã tả. Từ này không đủ quen tai với Morell nên ông không ghi nó vào sổ và hỏi thêm nhiều câu hỏi. Người ta giải thích với ông rằng Harriet không còn nói về mình nữa, không còn tán gẫu, không còn tâm sự với bạn bè.

    Harriet theo đạo Cơ đốc, theo nghĩa con nít hiểu về từ này - đi học giáo lý vào Chủ nhật, đọc kinh tối, và được xác nhận. Trong những ngày về cuối đời, cô hình như sùng đạo hơn. Cô đọc Kinh thánh và đi nhà thờ đều đặn. Nhưng cô không đến ông Otto Falk, mục sư của đảo Hedybe, người vốn là bạn của nhà Vanger. Thay vào đó, vào mùa xuân cô đã tìm những giáo đoàn Pentecostal ở Hedestad. Nhưng cô tham gia nhà thờ không lâu mấy. Chỉ hai tháng sau cô đã bỏ giáo đoàn này và bắt đầu thật sự đọc các sách về đức tin Cơ đốc.

    Lòng tin đắm đuối của một thiếu nữ mười mấy đối với tôn giáo chăng? Có thể, trong gia đình Vanger chưa có người nào khác từng được ghi nhận là có đức tin tôn giáo và khó mà nhận ra các xung lực lòng tin nào đã dẫn đưa cô đi. Dĩ nhiên, một điều có thể giải thích cho lòng tin của cô vào Chúa là bố cô bị chết đuối năm trước. Morell đi đến kết luận rằng một chuyện gì đó đã xảy ra với cuộc đời Harriet và quấy rối cô hay tác động đến cô. Như Vanger, Morell đã dành ra rất nhiều thời gian để trò chuyện với bạn bè của Harrite, cố tìm ra một ai đó mà cô gái có thể tâm sự cùng.

    Người ta đã móc một chút hy vọng nào đó vào Anita Vanger, con gái của Harald và kém Harrite hai tuổi. Anita đã qua mùa hè 1966 ở đảo Hedeby và người ta nghĩ hai cô gái là bạn thân của nhau. Nhưng Anita không cấp cho được thông tin nào là chắc chắn. Hai cô đã quấn quýt với nhau mùa hè ấy, bơi lội, cuốc bộ, nói chuyện phim ảnh, các ban nhạc pop và sách. Harriet có đôi lần đi với Arita khi cô đến lớp học lái xe. Một lần tìm thấy hai đứa đang say sưa bên chai vang mà chúng tháu của nhà. Trong nhiều tuần hai cô cũng đã từng ở trong căn nhà gỗ nhỏ của Gottfried tại cái mỏm xa nhất của hòn đảo.

    Thế là vẫn không trả lời được các câu hỏi về ý nghĩ và tình cảm riêng tư của Harriet. Nhưng Blomkvist có một ghi nhận về một trái ngược báo cáo thông tin về trạng thái không giao tiếp của Harriet chủ yếu là do các bạn học của cô nói và ở một mức độ nào đó là do người trong nhà. Arita Vanger không nghĩ Harriet lại hướng nội chút nào cả. Blomkvist ghi lại để rồi bàn với Henrik một phần nào đó của chuyện này.

    Một câu hỏi cụ thể hơn, Morell đã chú ý nhiều đến nó hơn, là một trang khiến cho phải ngạc nhiên ở trong quyển sổ tay kèm theo lịch của Harriet, một quyển sổ bìa da đẹp, quà Noel người ta cho cô năm trước cái năm cô mất tích. Nửa đầu quyển sổ là lịch từng ngày trong đó Harriet ghi những cuộc gặp, những ngày thi ở trường, bài làm ở nhà v.v... Quyển sổ có một phần để ghi nhật ký nhưng Harriet chỉ ghi bữa đực bữa cái. Tháng Giêng, với khá nhiều tham vọng cô bắt đầu có nhiều mẩu ngắn gọn ghi về những người mà cô gặp trong dịp lễ Noel, và một số về những phim ảnh mà cô đã xem. Sau đó cô không viết gì về mình cho đến cuối năm học thì rõ ràng cô - tùy theo cách hiểu các mẩu ghi này - quan tâm từ xa đến một vài cậu con trai chưa từng nhắc đến tên bao giờ.

    Những trang liệt kê các số điện thoại là những trang đã nắm giữ cái điều bí mật thật sự. Rõ ràng, theo trật tự a b c, là tên và số của các thành viên gia đình, bạn học, một số thày cô, một vài thành viên của giáo đoàn Pentecostal và vài người khác có thể dễ nhận ra là những người mà cô gái quen biết. Ở trang cuối cùng là mục địa chỉ trong quyển sổ, vốn để trống, và không thật sự nằm trong chỗ ghi theo trật tự a,b,c nói trên kia, có năm cái tên và số điện thoại. Ba tên phụ nữ và hai bộ chữ viết tắt.

    Magda ― 32016

    Sara - 32019

    R. J - 30112

    R. L - 32027

    Mari - 32018

    Số điện thoại bắt đầu 32 là số của Hedestad trong những năm 60. Số bắt đầu bằng 30 là số của Norrbyn, không xa Hedestad. Vấn đề là khi Morell tiếp xúc với từng người bạn và quen biết của Harriet, không ai biết được những các con số này là thuộc về ai.

    Con số đầu tiên thuộc về "Magda" ban đầu xem ra có hứa hẹn. Nó đưa đến một hiệu bán kim chỉ ở 12 Parkgatan. Điện thoại là của một người mang tên Margon Lundmark, mẹ người này tên là Magda thật, đôi khi bà có ra giúp đỡ ở cửa hiệu. Nhưng Magda đã sáu mươi chín tuổi và không biết Harriet là ai. Cũng không có bằng chứng nào rằng Harriet đã đến hay mua cái gì ở cửa hiệu đó. Cô gái không thích chuyện khâu may.

    Số thứ hai là của "Sara" thuộc về một gia đình có họ là Toeson, sống ở Vaststan, bên kia đường xe lửa. Gia đình gồm có Anders và Monica cùng các con của họ, Jonas và Peter lúc ấy đang ở tuổi mẫu giáo. Không có Sara nào trong gia đình, họ cũng không biết Harriet Vanger, ngoài chuyện cô mất tích được báo trên truyền thông đại chúng. Một quan hệ mơ hồ giữa Harriet và gia đình Toresson là Anders, thợ lợp mái, vài tuần trước đã lợp ngói cho ngôi trường mà Harriet học ở đó. Vậy là về lý thuyết thì đã có một cơ hội hai người gặp nhau, tuy có thể coi chuyện này là cực kỳ khó mà xảy ra được.

    Ba con số còn lại cũng dẫn đến bế tắc như thế. Con số 32027 cho "R.L." thuộc về một Rosmarie Larsson thật. Không may bà ta đã chết vài năm trước.

    Trong suốt mùa đông 1966 - 1967, Morell đã cố giải thích tại sao Harriet Vanger lại viết những tên và con số này vào sổ.

    Một khả năng là các số điện thoại này đã được viết theo một kiểu mã số riêng nào đó - nên Morell cố qua đây đoán xem một cô gái tuổi mới lớn có thể nghĩ như thế nào. Do sê ri số ba mươi hai chỉ rõ tới Hedestad, ông đã đem xếp lại ba con số còn lại. Cả 32601 lẫn 32160 đều dẫn tới một Magda. Khi ông tiếp tục môn số hiệu học của mình, ông nhận ra nếu ông cứ chơi quanh quẩn với đủ các con số, sớm muộn ông sẽ tìm ra một mối liên hệ nào đó với Harriet. Thí dụ nếu ông thêm số 1 cho ba chữ số còn lại ở 32016 thì có 32017 – là số điện thoại của văn phòng Frode ở Hedestad. Nhưng một mối liên hệ như thế chả nói lên được cái gì. Ngoài ra ông không bao giờ phát hiện ra một mã số nào đó làm cho tất cả năm con số kia có ý nghĩa.

    Morell mở rộng cuộc tìm tòi. Thí dụ các con số có thể là nói đến các biển sỗ xe hơi mà trong những năm 60 đều mang mã số đăng ký tỉnh gồm hai chữ và năm con số? Lại tắc tị nốt.

    Morell bèn tập trung vào các tên gọi. Ông được một danh sách từng người ở Hedestad có tên Mari, Magda, hay Sara hay ai có hai chữ đầu tên viết tắt là R.L. hay R.J. Danh sách này ông có 307 người. Trong dó, 29 người có quên hệ thật sự với Harriet. Thí dụ một cậu ở lớp cô tên là Roland Jacobsson - R.J. Họ ít biết nhau và không tiếp xúc từ khi Harriet bắt đầu vào trường dự bị. Và không có liên hệ với số điện thoại.

    Bí mật các con số trong quyển sổ vẫn không được giải quyết.

    Lần thứ tư cô gặp luật sư Bjurman không nằm trong chương trình đã đặt. Ông buộc cô phải tiếp xúc.

    Trong tuần thứ hai của tháng Hai, máy tính xách tay của Salander bị hỏng trong một tai nạn mà không nên gọi thế vì lẽ ở vụ đó cô cảm thấy cấp bách muốn giết một ai đó.

    Salander đi xe máy đến họp ở An ninh Milton, để nó ở đằng sau một cái cột trong gara. Khi cô đặt ba lô xuống đất, một chiếc xe hơi Saab đỏ thẫm quay ngược ra. Cô bị xô quay lưng đi nhưng nghe thấy tiếng gẫy vỡ trong ba lô. Người lái xe hơi không thấy gì, vô tâm cho xe chạy ra khỏi ga ra.

    Cái ba lô đựng chiếc iBook Apple màu trắng của cô với một đĩa cứng 25 gig và 420 megs RAM, màn hình 14 inch, chế tạo tháng Giêng năm 2002. Lúc cô mua, nó là máy tính xách tay tiên tiến nhất của Apple. Các máy tính của Salander đều được nâng cấp với những cấu hình mới nhất và đôi khi đắt nhất - thiết bị máy tính là khoản duy nhất ngông càn trong danh sách chi tiêu của cô.

    Khi mở ba lô, cô thấy nắp máy tính đã bị vỡ. Cô mở máy tính, thử cho nó chạy nhưng chả có tí ọ ẹ nào cả. Cô mang đến cửa hiệu MacJesus của Timmy ở Brannkyrkagatan, hy vọng ít ra có thể cứu được một cái gì đó ở đĩa cứng. Xem xét nó một lúc, Timmy lắc đầu.

    - Xin lỗi. Vô vọng.- Anh ta nói. - Cô sẽ cần thu xếp một tang lễ thật oách.

    Mất chiếc máy tính thì đáng rầu nhưng không là tai họa. Salander đã có một mối quan hệ tốt đẹp với nó trong cả năm cô làm chủ nó. Cô đã sao lưu hết các tư liệu và cô có một máy tính để bàn cũ hơn Mac G3 ở nhà cũng như một máy tính cá nhân Toshiba. Nhưng cô cần một máy nhanh hơn, hiện đại hơn.

    Không ngạc nhiên thấy cô để mắt vào một thứ thay thế tốt nhất: chiếc Apple PowerBook G4/1.0 GHz vỏ nhôm với bộ xử lý Power PC 7451 và một AltiVec Velocity Engine, 960 Mb RAM cùng một đĩa cứng 60 Gb. Nó có một BlueTooth và một bộ phận ghi CD và DVD cài trong máy.

    Hơn hết, nó có một màn hình 17 inch đầu tiên trong thế giới máy tính xách tay với NVIDIA đồ họa với đọ nét 1440 x 900 pixels, món này làm chấn động các dân bênh vực máy tính để bàn và vượt lên trước xa mọi cái ở trên thị trường.

    Nói về phần cứng, nó là Rolls Royce của máy tính xách tay, nhưng cái thật sự thúc Salander cần nó là cái đặc tính đơn giản này: bàn phím được hiển thị sáng lên ở đáy có thể đọc chữ trên bàn phím trong đêm tối mù. Quá ư đơn giản. Thế mà trước đây không ai nghĩ tới!

    Trông thấy một cái là mê liền.

    Nó giá 38.000 curon, cả thuế.

    Đó là vấn đề.

    Muốn ra sao thì ra, cô cứ đặt mua ở MacJesus. Cô mua mọi linh kiện máy tính ở đây nên họ giảm giá phải chăng cho cô. Cô tính toán các chi tiêu của mình. Bảo hiểm của chiếc máy tính bị hỏng sẽ bù một phần đáng kể vào tiền bỏ ra mua một cái máy mới nhưng tiền đóng bảo hiểm cho cái mới và giá cái mới cao hơn cho nên cô vẫn bị hụt mất 18.000 curon. Cô có 10.000 curon giấu trong một hộp sắt đựng cà phê và chi trần có thế . Cô nghĩ độc địa về ông Bjurman nhưng rồi ngậm đắng gọi người giám hộ giải thích cô bất ngờ cần tiền mua sắm. Thư ký của Bjurman nói hôm nay ông ta không có thì giờ gặp. Salander nói ông ta chỉ mất có hai chục tích tắc để viết một cái séc 10.000 curon thôi. Người ta bảo cô 7 giờ 30 phút tối đến văn phòng ông.

    Blomkvist có thể không có kinh nghiệm trong việc đánh giá điều tra tội phạm nhưng anh thừa nhận viên cảnh sát điều tra Morell quả là người có lương tâm nghề nghiệp. Khi anh đọc xong kết quả điều tra của cảnh sát, Morell vẫn cứ quanh quẩn như một anh chơi bạc ở trong các ghi nhận của Henrik Vanger. Hai người đã thành bạn và Blomkvist nghĩ liệu ông cảnh sát rồi sẽ có bị ám ảnh như ông trùm công nghiệp đã bị hay không.

    Theo anh, không có vẻ Morell đã để mất một cái gì đó. Giải đáp cho bí mật này không phải sẽ tìm ra được ở trong các biên bản của cảnh sát. Mọi câu hỏi có thể tưởng tượng tới đều đã được đặt ra, mọi manh mối đều đã được lần theo, có một số cái thậm chí còn được lần xa tới độ có vẻ như dớ dẩn. Anh không đọc từng câu chữ của báo cáo nhưng anh càng thâm nhập cuộc điều tra thì các manh mối và các mách nước lại càng hóa ra tối mò. Anh sẽ không tìm ra được cái gì mà người chuyên nghiệp đi trước anh cùng đội ngũ dầy dạn của ông ta đã để lọt và anh do dự nên dùng cách tiếp cận nào cho vấn đề này. Cuối cùng anh bật nghĩ ra rằng, với anh con đường thực tiễn duy nhất hợp lý cần đi là cố gắng tìm ra động cơ tâm lý của các cá nhân dính líu trong vụ.

    Câu hỏi đầu tiên liên quan đến chính bản thân Harriet. Cô là người thế nào?

    Từ cửa sổ bếp, Blomkvist để ý thấy sau 5 giờ chiều một tý là ánh đèn cứ sáng ở trên gác nhà Cecilia Vanger. 7 giờ 30 phút tối anh gõ cửa nhà chị, đúng lúc ti vi bắt đầu phát tin. Chị mở cửa, mặc áo tắm, mớ tóc ướt ở dưới một chiếc khăn màu vàng. Blomkvist lập tức xin lỗi đã đến quấy rầy chị và toan quay lui nhưng chị vẫy anh vào trong phòng khách. Chị cho máy pha cà phê chạy và biến mất ở trên gác trong vài phút. Khi trở xuống, chị mặc quần jean và sơ mi flanen ca rô.

    - Tôi đang bắt đầu nghĩ anh sẽ không bao giờ gọi.

    - Tôi nên bấm chuông trước nhưng thấy có ánh sáng thế là tôi như bị một sức mạnh đẩy đi.

    - Tôi thấy ánh đèn suốt đêm ở chỗ anh. Và sau nửa đêm anh thường đi bộ. Anh là cú đêm ư?

    Blomkvist nhún vai.

    - Nó hóa ra như thế mất rồi. - Anh nhìn vào những sách giáo khoa để đống trên rìa bàn bếp. - Chị vẫn làm cô giáo?

    - Không. Làm hiệu trưởng thì không có thì giờ. Nhưng tôi đã quen dạy lịch sử, tôn giáo và nghiên cứu xã hội. Mà tôi thì còn lại vài năm.

    - Còn lại?

    Chị cười.

    - Tôi năm mươi sáu. Sắp hưu rồi mà.

    - Trông chị không quá năm chục, giống với quãng bốn chục có dư.

    - Rất biết tán đấy. Anh bao nhiêu tuổi?

    - À, hơn bốn chục. - Blomkvist nói, mỉm cười.

    - Và có một ngày anh vừa đúng hai chục. Tất cả đi nhanh làm sao. Cuộc đời là thế.

    Cecilia Vanger dọn cà phê và hỏi anh có đói không. Anh nói anh đã ăn, cái này đúng một phần. Không thích nấu nướng, anh chỉ ăn bánh kẹp thịt nhưng anh không đói.

    - Vậy tại sao anh đến? Tới lúc hỏi tôi rồi phải không?

    - Thật thà thì... Tôi không phải đến để hỏi. Tôi nghĩ là tôi muốn chào một tiếng.

    Chị mỉm cười.

    - Anh bị kêu án tù, anh chuyển đến Hedeby, sục vào tất cả tư liệu của cái thú vui ưa thích của Henrik, đêm anh không ngủ, hay ra ngoài đi bộ khi trời lạnh cứng... Tôi có sót mất cái gì không?

    - Đời tôi đang đi đến với chó.

    - Cuối tuần vừa rồi người phụ nữ đến thăm anh là ai đấy?

    - Erika... Tổng biên tập tờ Millennium.

    - Bạn gái anh?

    - Không hẳn. Cô ấy đã có chồng. Tôi là bạn nhiều hơn, người tình đôi hồi.

    Cecilia cười rũ.

    - Cái gì mà ngộ thế?

    - Cách anh nói. Người tình đôi hồi. Tôi thích cái chữ ấy.

    Blomkvist liền có thiện cảm với Cecilia Vanger.

    - Tôi có thể như một người tình đôi hồi được. - Chị nói.

    Chị đá văng đôi dép lê, gác một chân lên đầu gối anh. Blomkvist để tay lên chân chị vỗ nhè nhẹ vào mắt cá. Anh ngập ngừng một thoáng - anh có thể cảm thấy anh đang bước vào một vùng nước không được chờ đợi. Nhưng có ý tứ, anh bắt đầu xoa bóp bàn chân chị bằng ngón cái.

    - Tôi cũng đã có chồng. - Chị nói.

    - Tôi biết. Trong gia đình Vanger không ai li hôn sất.

    - Tôi chưa thấy chồng tôi làm ăn trong hai chục năm.

    - Đã có chuyện gì?

    - Không phải việc anh. Tôi chưa làm tình trong... hừm... ba năm rồi.

    - Tôi ngạc nhiên đấy.

    - Tại sao? Đây là chuyện cung cầu. Một bạn trai, hay thích một người vợ hay một ai đó sống với tôi, chuyện ấy tôi không thích. Tôi tự làm lấy là tốt nhất. Tôi nên ngủ với ai? Một trong những ông giáo ở trường? Tôi không nghĩ thế. Một trong đám sinh viên? Một câu chuyện ngon lành cho các bà già ngồi lê tán gẫu. Mà họ thì luôn theo dõi sít sao những người mang tên Vanger. Ở đây, trên đảo Hedeby đây, chỉ toàn là họ hàng và người có vợ. - Chị cúi về trước hôn vào cổ anh. - Tôi có làm anh thấy chướng không?

    - Không. Nhưng tôi nghĩ thế này có phải một ý hay không đây. Tôi làm việc cho chú chị.

    - Và tôi sẽ là người cuối cùng nói ra điều đó. Nhưng thật thà thì chắc Henrik sẽ chả có gì để mà chống lại chuyện này đâu.

    Chị cưỡi lên người anh, hôn vào miệng anh. Tóc chị còn ẩm và thơm mùi nước dầu gội. Anh lóng ngóng lần tìm các cúc của chiếc áo sơ mi flanen rồi kéo tụt nó xuống quanh vai chị. Chị không mặc nịt vú. Chị ghì lấy anh khi anh hôn vú chị.

    Blomkvist đi quanh bàn làm việc đến đưa cho cô xem bản khai trương mục của cô ở ngân hàng - cô đã thuộc nó đến từng xu - tuy cô không có quyền tùy ý sử dụng nó. Ông đứng sau cô. Thình lình ông xoa gáy cô, một tay trượt khỏi vai trái cô để qua vú cô. Ông đặt một tay lên vú phải cô và cứ để nó ở đấy. Khi cô có vẻ không phản ứng, ông bóp vú cô. Salander không động đậy. Cô có thể cảm thấy hơi thở của ông sau gáy mình trong khi cô xem xét con dao mở thư trên bàn làm việc của ông; bàn tay rảnh của cô có thể với lấy nó được.

    Nhưng cô không làm gì cả. Nếu có một bài học Holger Palmgren đã dạy cô trong nhiều năm thì những hành động bốc đồng sẽ dẫn tới rắc rối và rắc rối có thể có những hậu quả không vui. Cô không làm cái gì mà không cân nhắc hậu quả trước tiên.

    Công kích tình dục khai mào này - mà thuật ngũ pháp lý là quấy nhiễu tình dục và lợi dụng một cá nhân đang ở trong vị trí lệ thuộc có thể đem lại cho Bjurman tới những hai năm tù giam - chỉ kéo dài vài giây. Nhưng nó cũng đã đủ để cho băng qua mãi mãi một ranh giới. Với Salander thì đây là một lực lượng thù địch thi thố sức mạnh - một dấu hiệu cho thấy ngoài mối quan hệ pháp lý đã được định nghĩa cẩn thận ra, cô còn phải phó mặc cho ý thích của ông ta và cho cả tình cảnh hết phương cầu cứu của mình. Sau đó, khi mắt hai người gặp nhau, môi ông ta khẽ hé ra và cô đọc được thấy vẻ dâm dục trên mặt ông ta. Mặt của Salander chẳng biểu lộ một xúc cảm nào.

    Bjurman lùi về phía bên kia bàn, ngồi xuỗng chiếc ghế da vững chãi.

    - Tôi không thể cứ hễ cô muốn là tôi đưa tiền. - Ông nói. - Tại sao cô lại cần đến cái máy tính đắt tiền như thế chứ? Có nhiều mô đen rẻ hơn để cô có thể chơi game máy tính được kia mà.

    - Tôi muốn được trông coi tiền bạc của tôi như trước kia.

    Bjurman nhìn cô thương hại.

    - Ta phải xem sự thể như thế nào đã.

    Nếu Bjurman đọc được ý nghĩ của cô gái ở đằng sau hai con mắt ơ hờ, ông ta có thể đã bớt cười đi hơn. - Tôi nghĩ cô và tôi sẽ là bạn tốt của nhau, - ông nói. - Chúng ta cần tin cậy được vào nhau.

    Khi cô chả ư cũng chả đừng, ông nói:

    - Bây giờ cô đã là một cô gái khôn lớn rồi, Lisbeth.

    Cô gật.

    - Lại đây. - Ông nói và chìa tay ra.

    Salander nhìn chằm chằm vào con dao mở thư rồi đứng lên đi lại phía ông ta. Hậu quả. Ông cầm tay cô, ấn nó vào đũng quần ông. Qua lần quần thẫm màu của ông, cô có thể cảm thấy bộ phận sing dục.

    - Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô.

    Ông quàng tay kia của ông vào cổ cô, kéo cô khuỵu gối xuống, mặt chiếu vào đũng quần ông.

    - Cô đã từng làm thế này rồi, đúng không? - ông vừa nói vừa kéo khóa quần xuống. Sực mùi nước và xà phòng, có vẻ như ông vừa rửa ráy xong.

    Salander ngoảnh mặt đi và cố đứng lên nhưng ông túm chặt cứng. Xét theo sức người, cô có thể không đọ được với ông ta; cô nặng có 46 ký còn ông ta hơn một tạ. Hai tay ông cầm lấy đầu cô, quay cô lại cho mắt hai người nhìn nhau.

    - Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô. - Ông nhắc lại. - Nếu cô làm lôi thôi, tôi có thể đưa cô vào viện chăm sóc cho đến hết đời cô. Cô có thích như thế không?

    Cô không nói không rằng.

    - Cô có thích thế không?- Ông lại nói.

    Cô lắc đầu.

    Ông chờ cho mắt cô cúi xuống, coi như cô đã thuần phục qua con mắt. Rồi ông kéo cô lại gần hơn, Salander hé môi ngậm lấy nó vào mồm. Vẫn kẹp tay vào gáy cô, ông hung dữ kéo xốc cô lại đằng ông. Trong suốt mười mấy phút ông huých vập, ông xay nghiền, ông như suýt nôn, cuối cùng là sướng lên. Ông ghì cô đến nỗi cô không thở được.

    Ông chỉ cho cô buồng tắm trong văn phòng. Salander run bắn lên khi rửa mặt, cô cọ sạch những cái vết trên áo len. Cô nhai một ít kem đánh răng để khử đi cái mùi vị. Khi cô quay lại văn phòng, ông ta đang ngồi sau bàn làm việc, xem xét vài giấy tờ.

    - Ngồi xuống, Lisbeth, - không ngửng đầu lên, ông nói với cô. Cô ngồi xuống. Cuối cùng ông nhìn cô và mỉm cười.

    - Bây giờ thành người lớn rồi, đúng không, Lisbeth?

    Cô gật.

    - Vậy cô cũng cần biết các trò chơi của người lớn đi. - Ông ta nói. Ông ta dùng cái giọng như nói với trẻ con. Cô không đáp. Lông mày ông hơi nhíu lại.

    - Tôi nghĩ đem kể với người khác chuyện này là không hay gì cho cô đâu. Nghĩ xem, ai mà tin cô chứ? Có tài liệu tuyên bố cô là người có vấn đề tâm thần đây. Nó sẽ là lời mà cô dùng để chống lại tôi. Cô nghĩ lời ai nói sẽ có trọng lượng hơn?

    Ông thở dài khi cô gái vẫn lặng thinh. Ông ngán cho cái kiểu cô ngồi đó nín thinh mà nhìn ông - nhưng ông kìm lại được

    - Chúng ta sẽ là bạn tốt, cô và tôi. - Ông ta nói. - Tôi nghĩ cô đến gặp tôi tối nay là cô thông minh. Cô có thể đến chỗ tôi luôn luôn.

    - Tôi cần 10.000 curon mua máy tính. - Cô nói, chính xác, y như cô lại tiếp tục câu chuyện nói dở trước đây.

    Bjurman nhíu lông mày. Con đĩ cứng cổ. Thật là một con trì độn. Ông ta đưa tấm séc đã viết khi cô ở trong buồng tắm. Còn hay hơn một con điếm. Tiền của nó lại trả về nó mà. Ông ngạo nghễ mỉm cười với cô. Cô cầm lấy tấm séc và bỏ đi.

  5. #14
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 12

    Thứ Tư, 19 tháng Hai

    Nếu là một công dân bình thường thì ngay sau khi rời văn phòng luật sư Bjurman, nhiều phần chắc chắn Salander sẽ gọi cảnh sát báo chuyện bị cưỡng hiếp. Những vết thâm tím trên cổ cô, cũng như “chữ ký” của ADN của ông ta ở trong tinh dịch đang còn vấy bẩn thân xác và áo quần cô đây sẽ ghim ông ta lại không cho giãy cựa. Ngay nếu như ông ta nói cô ấy muốn làm chuyện đó hay cô ấy đã quyến rũ tôi hay bất cứ lý do nào mà những kẻ cưỡng hiếp vẫn dùng, thì ông cũng đã vi phạm quá nhiều các quy định của chế độ giám hộ, đến mức ông sẽ lập tức bị tước bỏ quyền kiểm soát cô. Một bản báo cáo có thể sẽ dẫn đến việc Salander được nhận một luật sư thích hợp, một người giàu kinh nghiệm bào chữa những vụ hành hung, xâm hại phụ nữ; điều này đến lượt nó sẽ dẫn đến cuộc thảo luận về cốt lõi của vấn đề- tức là cái lý do mà người ta tuyên bố Salander không có thẩm quyền pháp lý.

    Từ năm 1989, thuật ngữ “ không có thẩm quyền pháp lý” cho những người trưởng thành đã thôi áp dụng.

    Có hai nấc bảo vệ phúc lợi: - chế độ đỡ đầu và chế độ giám hộ.

    Người đỡ đầu sẽ tình nguyện giúp đỡ những cá nhân mà, vì những lý do này nọ, gặp các vấn đề về cai quản đời sống hàng ngày của họ về thanh toán hóa đơn hay tự chăm sóc vệ sinh cá nhân. Người được chỉ định làm người đỡ đầu thường là người họ hàng hay bạn thân. Nếu không có ai thân cận với người trong cuộc thì các cơ quan phụ trách phúc lợi có thể đưa ra một người đỡ đầu. Chế độ đỡ đầu là một hình thức nhẹ nhàng của chế độ giám hộ; trong chế độ trên, thân chủ - người bị tuyên bố là không có thẩm quyền- vẫn được trông coi tài sản của mình và các quyết định về việc này là có tư vấn của người đỡ đầu.

    Chế độ giám hộ là một hình thức kiểm soát ngặt hơn, theo nó, thân chủ bị tước mất quyền làm chủ tiền bạc của bản thân hay quyền ra các quyết định liên quan đến các vẫn đề này nọ. Văn bản chính xác nói rằng người giám hộ sẽ tiếp quản các quyền lợi hợp pháp của thân chủ. Ở Thụy Điển có khoảng 4.000 người chịu chế độ giám hộ. Lý do thông thường nhất để áp dụng chế độ giám hộ là bệnh tâm thần hay bệnh tâm thần kết hợp với lạm dụng nghiêm trọng rượu hay ma túy. Một nhóm nhỏ hơn bao gồm những người bị điên. Trong số chịu chế độ giám hộ, nhiều người tương đối trẻ- ba mươi lăm hay ít hơn, và Lisbeth Salander là một trong số đó.

    Lấy đi của ai quyền trông coi cuộc đời của chính mình- có nghĩa là cả tài khoản ngân hàng- một trong những vi phạm lớn nhất mà một chế độ dân chủ có thể áp đặt, đặc biệt khi nó áp dụng với người trẻ tuổi. Ngay cả khi có thể xem là ý đồ tốt và có giá trị về mặt xã hội thì nó vẫn cứ là một sự vi phạm. Các vấn đề về chế độ giám hộ vẫn là những đề tài về chính trị nhạy cảm, nó được các quy định ngặt nghèo bảo vệ cũng như được sở Chế độ giám hộ kiểm soát. Sở này ở dưới quyền của cơ quan hành chính tỉnh và đến lượt nó được Ombudsman của Quốc hội kiểm soát.

    Sở Chế độ giám hộ phần lớn hoạt động trong những điều kiện khó khăn. Nhưng nhìn vào các vấn đề nhạy cảm do các cơ quan quyền hành nắm giữ thì phải thấy là ở trên phương tiện truyền thông đại chúng rất ít có các lời phàn nàn hay tai tiếng.

    Thỉnh thoảng có các tường thuật cho hay một vài người đỡ đầu hay giám hộ đã bị kết tội biển thủ ngân sách hay bán nhà chung cư của thân chủ hay nhét các khoản thu nhập vào túi. Các trường hợp tương đối hiếm này có thể là kết quả của hai điều: các thân chủ đã bằng lòng công việc này của các nhà chức trách hay họ không có cơ hội ca thán và không có cách nào chắc chắn để làm cho truyền thông đại chúng hay các nhà chức trách nghe thấu tới họ.

    Sở Chế độ giám hộ buộc phải làm một tổng kết hàng năm để xem liệu có nguyên nhân nào khiến cho nên rút chế độ giám hộ với một ai đó không. Do Salander khăng khăng từ chối khám về tâm thần- cô thậm chí chả chào thày cô giáo theo phép xã giao- nên các nhà chức trách vẫn không bao giờ tìm ra được lý do để thay đổi quyết định của mình. Kết quả là đẻ ra một tình thế nguyên trạng và cô gái thì cứ năm này sang năm khác chịu chế độ giám hộ.

    Nhưng Palmgren đã hiểu lời lẽ pháp luật nói rằng các điều kiện giám hộ “phải thích hợp với từng cá nhân” có nghĩa là Salander có thể cai quản tiền và cuộc đời cô. Ông đã làm chu đáo các yêu cầu của nhà chức trách, nộp đều báo cáo hàng tháng cũng như bản tổng kết hàng năm. Trong mọi phương diện khác, ông đối xử với Salander như đối với một người bình thường khác, ông không xía vào việc cô lựa chọn cách sống hay bạn bè. Cô gái nên đeo khoen vào mũi hay xăm lên cổ hay không, ông nghĩ người quyết định chuyện này không phải là ông hay xã hội. Thái độ khá bướng bỉnh này ở trước tòa án quận là một trong những lý do khiến cho tại sao hai người lại hợp với nhau.

    Chừng nào Palmgren là người giám hộ thì Salander không cần phải chú ý nhiều đến thân phận pháp lý của mình chừng nấy.

    Salander không giống với bất cứ một người bình thường nào. Kiến thức về pháp luật của cô thô sơ – đây là một để tài cô không có dịp khám phá bao giờ - còn lòng tin của cô vào cảnh sát nói chung là hạn hẹp. Với cô, cảnh sát là đại diện cho một sức mạnh thù địch đã bắt bớ và làm nhục cô trong nhiều năm. Công chuyện mới nhất của cô có với cảnh sát là vào tháng Năm năm ngoái khi trên đường đến An ninh Milton, cô đi bộ qua Gotgatan, thình lình cô thấy mình đứng trước một sĩ quan cảnh sát đeo mặt nạ chống bạo loạn. Mặc dù cô không hề mảy may khiêu khích, ông ta đã vung gậy đánh vào vai cô. Phản ứng đầu tiên của cô là phản công dữ tợn, dùng ngay chai Coca-Cola đang cầm trong tay. Viên sĩ quan vội quay gót chạy, trước khi cô kịp chửi cho một trận. Mãi sau đó cô mới thấy một đám biểu tình đang giương biểu ngữ “Đòi lại đường phố” ở cuối con đường.

    Vào sở của những tên vũ phu đeo mặt nạ chống bạo động kia để kiện Nils Bjurman cưỡng hiếp, ngay điều này cũng chả hề có lúc nào thoáng qua trong đầu cô. Và rồi cô báo cáo gì đây? Bjurman đã sờ vú cô. Một sĩ quan sẽ liếc vào cô và kết luận ti bé thế kia thì khó có khả năng xảy ra lắm. Và nếu như có bóp vú thật thì cô phải tự hào rằng thế mà có đứa đã quấy rồi chứ. Về đoạn mút cu lão – thì như lão đã báo trước đó là lời cô chống lại lão và theo kinh nghiệm cô, lời của người khác nặng cân hơn lời của cô nhiều. Vậy chọn đến cảnh sát làm gì.

    Cô rời văn phòng Bjurman về nhà, tắm vòi sen, ăn hai bánh kẹp thịt với pho mát và rau dầm chua rồi ngồi lên chiếc ghế sofa tã nát trong phòng khách nghĩ ngợi.

    Một người bình thường có thể thấy nếu cô không phản ứng thì cũng sẽ quay sang tự trách móc mình – điều này có thể cũng là một dấu hiệu khác nữa cho thấy cô quá ư bất bình thường để đến nỗi cũng không có nổi được cả phản ứng thích đáng với việc bị cưỡng hiếp nữa.

    Chốn quen biết của cô không lớn, cũng không gồm có một thành viên nào thuộc tầng lớp trung lưu. Lúc mười tám, Salander đã biết chả có một cô gái nào mà lại không từng bị bắt buộc phải làm vài trò tình dục trái với ý mình. Phần nhiều các vụ cưỡng hiếp đều dính líu đến các bạn trai nhiều tuổi hơn một chút. Như Salander biết thì các sự cố này thường dẫn đến khóc lóc hay những cơn nổi giận chứ không bao giờ dẫn đến việc báo cảnh sát.

    Trong thế giới của cô, đây là trật tự tự nhiên của mọi sự. Là con gái, cô là con mồi hợp pháp, đặc biệt khi cô mặc chiếc quần jacket da đen tàng tu và mi mắt thì chọc lỗ, có hình xăm và thân phận xã hội là con số không.

    Rên rỉ về chuyện này chẳng nên cơm cháo gì.

    Mặt khác, không có chuyện luật sư Bjurman sẽ không bị trừng phạt, Salander không bao giờ quên một chuyện bất công nào, xét về bản chất thì cô là đủ mọi thứ trừ có mỗi món tha thứ.

    Nhưng thân phận pháp lý của cô khó khăn. Vì như cô có thể nhớ thì cô được coi là xảo quyệt, hung bạo đến mức không thể bào chữa được. Những nhận xét đầu tiên trong lý lịch của cô là từ các hồ sơ của cô bảo mẫu trường tiểu học. Cô bị đuổi học vì đã đánh một bạn trong lớp, đập bạn đó vào mẩu treo áo khiến vãi máu ra. Cô vẫn ngán ngẩm nhớ lại nạn nhân – một thằng con trai béo phì tên là David Gustavsson vốn quen trêu ghẹo cô, ném các thứ vào cô; Lớn lên nó sẽ thành một đứa bắt nạt nanh nọc. Hồi ấy cô chưa từng biết chữ “quấy rối” có nghĩa là gì nhưng hôm sau cô tới trường thì thằng kia dọa trả thù. Thế là cô cho nó một cú đấm tay phải được tăng cường bằng một quả bóng golf khiến nó lăn quay – Chuyện đã làm chảy thêm một ít máu và một để mục mới trong lý lịch của cô.

    Cô luôn gặp trở ngại với các quy tắc về ứng xử xã hội ở trường học. Cô nghĩ đến việc của mình, không can thiệp vào bất cứ việc gì mà những người ở quanh cô làm. Nhưng luôn có một ai đó nhất định không để cho cô yên. Lên trung học, cô đã mấy lần bị đuổi về nhà sau những trận đánh nhau dữ dội với các bạn trong lớp. Những đứa con trai khỏa hơn trong lớp sớm thấy ra rằng đánh nhau với con bé xương xẩu này có thể là không thú vị. Không giống các cô gái khác trong lớp, cô không bao giờ lùi mà dùng ngay quả đấm hay một vũ khí đang có ở trong tay để tự vệ không do dự một giây. Cô đi lại với thái độ cho thấy cô thà chết chứ không nhận một nhục nhã nào.

    Và cô luôn trả được thù.

    Một lần Salander đánh nhau với một thằng con trai to hơn, khỏe hơn. Về sức lực thì cô không đọ nổi. Thoạt tiên nó khoái trá đẩy cô ngã xuống đất mấy lần rồi tát cô khi cô định đánh trả. Nhưng không hay cho nó, bất kể nó khỏe hơn như thế nào, cô gái ngốc nghếch vẫn cứ đánh nó và một lúc sau ngay cả bạn học của thằng con trai ấy cũng nhận thấy câu chuyện đã đi quá xa. Rõ ràng cô gái hết đường chống đỡ, đứng xem mà vẫn thấy thương tâm. Cuối cùng thằng con trai thoi vào mặt cô, môi cô bị rách và mắt nổ đom đóm. Chúng để cô ở dưới đất sau nhà thể dục. Cô ở nhà hai ngày. Sáng hôm thứ ba, cô chờ tên hành hạ với một cây gậy bóng chày rồi phang một nhát vào mang tai nó. Vì vụ quậy này, cô phải gặp Hiệu trưởng, và bị báo cáo với cảnh sát về tội đánh người, điều dẫn đến một cuộc điều tra phúc lợi đặc biệt.

    Ngỡ cô điên, các bạn học đối xử theo lối nghĩ đó. Cô cũng gây được rất ít thiện cảm trong thày cô giáo. Cô đặc biệt không chuyện trò bao giờ và nổi tiếng là một học sinh không bao giờ giơ tay và thường không trả lời ngay cả khi thày cô hỏi trực tiếp. Cô không trả lời được hay vì một lý do nào khác, không ai biết chắc và điều này đã phản ánh vào các lớp học của cô. Cô có vấn đề, nhất định thế rồi, nhưng không ai muốn gánh trách nhiệm với cô gái khó tính khó nết dù cho ở các cuộc họp thày cô vẫn bàn đến cô. Đó là lý do đưa cô đến tình cảnh bị thày cô giáo lờ đi và cho phép ngồi ủ rũ trong im lặng

    Cô bỏ trường trung học đổi sang một trường khác, không có một người bạn nào chào một câu từ biệt. Một cô gái với cách ứng xử kỳ quái không được ai yêu thích. Thế rồi khi cô đến ngưỡng của tuổi thiếu nữ, thì “tất cả xấu xa” đã diễn ra, điều mà cô không muốn nghĩ đến. Cơn bùng nổ cuối cùng đã buộc người ta phải rà soát lại các mục ở trong lý lịch cô gái từ hồi ở trường tiểu học. Sau vụ đó, cô được coi là…điên, ừ thế đấy, về mặt pháp lý. Tính nết đồng bóng, Salander bất cần đến một tư liệu gì để biết rằng mình là kẻ khác người. Nhưng chuyện này không làm phiền lòng cô khi mà người giám hộ là Holger Palmgren; nếu nhu cầu nổi dậy, cô có thể quấn lấy ông với những ngón tay nhỏ của mình.

    Nils Bjurman xuất hiện, lời tuyên bố cô không có thẩm quyền pháp lý đã đe dọa trở thành một gánh nặng phiền lụy trong đời cô. Bất kể cô quay đi ngả nào, cạm bẫy vẫn cứ mở ra và điều gì sẽ xảy đến nếu cô chiến bại? Cô có lại bị đưa vào viện tâm thần không? Bị nhốt lại? Thật sự là hết đường.

    Khuya đêm đấy, Cecilia Vanger và Blomkvist nằm bên nhau êm ả, vú Cecilia đè vào sườn anh. Chị ngước nhìn anh.

    - Cảm ơn, kể ra lâu rồi đấy. Mà anh không tồi.

    Anh mỉm cười. Mấy lời phỉnh nịnh ấy khiến anh phởn như con nít.

    - Không mong đợi thế đâu, nhưng tôi thấy hay.

    - Nếu một lần nữa tôi sẽ sung sướng,- Cecilia nói.- Nếu anh thấy thích thế.

    Anh nhìn chị.

    - Chị định nói là thích có một người yêu à, đúng không?

    - Một người yêu đôi hồi.- Cecilia nói.- Nhưng tôi muốn anh về kẻo không lại ngủ đi mất. Tôi không muốn sáng mai thức dậy thấy anh ở đây mà tôi thì chưa tập thể dục và chưa chấn chỉnh cái mặt. Và đừng có rao lên khắp làng là chúng tôi thế đấy thì tốt.

    - Không nghĩ tới chuyện đó,- Blomkvist nói.

    - Trước hết tôi không muốn Isabella biết. Không thể tin bà ấy được.

    - Và hàng xóm gần nhất của chính chị. Tôi đã gặp.

    - Ừ, nhưng may mà chị ta không nhìn thấy cửa ra vào nhà tôi. Mikael, hãy kín đáo.

    - Được, kín đáo.

    - Cảm ơn. Anh có hay uống rượu không?

    - Cũng đôi khi.

    - Tôi mê gin cho thêm chút gì đó có vị hoa quả. Muốn một chút không?

    - Chắc là có muốn.

    Chị quấn mảnh vải trải giường quanh người đi xuống cầu thang. Blomkvist trần truồng đang đứng nhìn các giá sách của chị thì chị quay lại với một bình nước lạnh và hai cốc gin pha chanh. Họ đụng cốc.

    - Tại sao anh sang đây?- Chị hỏi.

    - Chả có lý do gì đặc biệt. Chị…

    - Anh đang ngồi ở nhà, đọc hết các điều tra của Henrik. Rồi đến đây. Không cần phải thông minh cỡ siêu cũng biết đầu óc anh đang mải nghĩ chuyện gì.

    - Chị đọc các cuộc điều tra chưa?

    - Phần nào. Cả cuộc đời trưởng thành của tôi là sống với chuyện điều tra này mà. Sống với Henrik thì thế nào anh cũng bị bí mật Harriet tác động đến.

    - Thật sự đây là một vụ án hấp dẫn. Trong nghề tôi gọi cái điều mà tôi tin này là một bí mật của gian phòng khóa kín, trên một hòn đảo. Xem vẻ khi điều tra người ta đã không theo lô gíc thông thường. Chả có câu hỏi nào được trả lời, manh mối nào cũng dẫn đến ngõ cụt.

    - Đây là trò dễ ám ảnh người ta.

    - Chị có ở trên đảo hôm ấy chứ?

    - Có. Tôi ở đây và chứng kiến toàn bộ cuộc chấn động. Lúc ấy tôi đang học ở Stockhônglm. Tôi mong cuối tuần ấy được ở lại nhà.

    - Harriet thật sự như thế nào? Hình như mỗi người lại nhìn cô ấy một cách.

    - Cái này không được ghi chép hay…?

    - Không ghi chép.

    - Tôi chả biết tí nào về những gì đang diễn ra hay Harriet nghĩ gì ở trong đầu. Dĩ nhiên là anh đang nghĩ đến năm cuối cùng của cô ấy. Hôm nay cô ấy là một người lập dị về tôn giáo, ngày mai cô ấy son phấn lên như một con điếm, rồi mặc một cái áo len chật ních mà cô ấy có để đến trường. Rõ ràng là cô ấy hết sức không hạnh phúc. Nhưng như tôi đã nói, tôi ở đây không phải chỉ để nhặt dưa lê đi buôn.

    - Sao lại ra nông nỗi ấy?

    - Gottfried với Isabella chứ ai. Hôn nhân của họ thật rối ren. Hoặc là họ vào một bè hoặc là họ đánh lộn. Không phải thân xác – Gottfried không phải loại người vũ phu mà lại còn gần như sợ Isabella. Tính khí cô ta thật kinh khủng. Đầu những năm 60 đôi khi anh ta ở hoặc một thời gian dài, hoặc rất ít ngày trong căn nhà gỗ nhỏ của anh ta, chỗ này thì Isabella không bao giờ đặt chân đến. Có những thời kỳ anh ta quay về làng, nom như một gã lang thang. Rồi anh ta bớt rượu, lại ăn mặc sạch sẽ gọn gàng và thử trông nom đến công việc của anh ta.

    - Đã có ai muốn giúp đỡ Harriet không?

    - Henrik, dĩ nhiên. Cuối cùng cô bé đến ở nhà chú ấy. Nhưng chớ quên mất là Henrik đang bận đóng vai trò nhà công nghiệp lớn. Chú ấy thường đi đến những đâu đâu, không dành nhiều thời giờ cho tôi cũng như cho Harriet và Martin. Tôi không rõ nhiều chuyện này vì tôi ở Uppsala rồi Stockhônglm và tôi nói cho anh biết nha, tuổi thơ của tôi cũng không dễ dàng với bố tôi. Nghĩ lại, tôi nhận thấy vấn đề là Harriet không tâm sự với một ai bao giờ. Cô ấy cố hết sức để giữ cái vẻ bề ngoài, làm như họ là một gia đình hạnh phúc vậy.

    - Phủ nhận.

    - Đúng. Nhưng khi bố Harriet chết đuối thì cô bé thay đổi. Mọi sự không còn như trước nữa. Cho đến khi cô bé… tôi không biết nói như thế nào đây: có năng khiếu và trưởng thành sớm hơn tuổi nhưng nhìn chung vẫn là một cô bé ở tuổi mới lớn nhưng khá bình thường. Trong năm cuối cùng cô ấy vẫn xuất sắc thế, kỳ thi nào điểm cũng dẫn đầu, nhưng có vẻ như là cô ta vô hồn.

    - Bố cô ấy chết đuối thế nào?

    - Theo một cách vô duyên nhất. Ông ấy ngã từ chiếc thuyền bơi chèo ở ngay bên dưới buồng lái của ông ấy xuống biển. Quần của ông ấy phanh ra và lượng rượu trong máu ông ấy cực cao nên anh có thể hình dung được vì sao chuyện đó xảy ra. Martin là người đã tìm thấy ông ấy.

    - Tôi không biết chuyện đó.

    - Thật ngộ. Hóa ra Martin lại là một người thật sự hay. Ba mươi lăm năm trước nếu anh hỏi, tôi sẽ nói cậu ấy là người trong gia đình cần điều trị tâm thần.

    - Sao lại thế?

    - Harriet không phải là người duy nhất bị đau ốm vì tình trạng gia đình. Martin trong nhiều năm yên lặng và hướng nội nhiều đến mức đã lánh bỏ xã hội. Cả hai đứa trẻ đều đã có những tháng ngày gay go vì gia đình. Tôi muốn nói là tất cả chúng tôi. Tôi có vấn đề với ông bố - tôi cho rằng anh đã nhận thấy ở ông ấy một lòng say mê sự bạt mạng. Em tôi, Anita, cũng có vấn đề như thế, như Alexander, em họ tôi. Trẻ tuổi mà ở trong gia đình Vanger thì gay.

    - Chuyện gì xảy ra với em chị?

    - Em tôi sống ở London. Những năm 70 cô ấy đến đó làm việc trong một công ty du lịch Thụy Điển rồi ở lại. Em tôi lấy một người mà nó không hề giới thiệu cả với gia đình rồi bỏ nhau không lâu sau. Nay Anita là một giám đốc cao cấp của hãng hàng không British Airways. Nó với tôi hợp nhau nhưng liên hệ với nhau không nhiều, chỉ hàng năm mới lại gặp nhau. Anita không bao giờ đến Hedestad.

    - Sao vậy?

    - Vì một ông bố điên mà. Nói thế đã đủ rõ chưa?

    - Nhưng chị thì ở lại.

    - Tôi ở lại. Với Birger, anh tôi.

    - Nhà chính trị kia.

    - Anh chọc tôi đấy à? Birger nhiều tuổi hơn Anita và tôi. Chúng tôi không thân nhau bao giờ. Trong mắt anh ấy, anh ấy là một chính trị gia quan trọng ngoài sức tưởng tượng của con người với một tương lai ở trong Nghị viện và có thể cả ở hàng bộ trưởng nếu như đảng bảo thủ thắng. Thực tế anh ấy là một ủy viên hội đồng địa phương, tài cán èng èng tại một xó hẻo lánh của Thụy Điển, vai ủy viên này chắc sẽ là đỉnh cao và cũng là cả toàn bộ sự nghiệp của anh ấy.

    - Một điều làm tôi lạ là các thành viên trong nhà Vanger đều đánh giá nhau thấp cả.

    - Thật ra không phải thế. Tôi rất yêu Martin và Henrik. Và tôi luôn hợp với em tôi, bởi chúng tôi ít gặp nhau. Tôi ghét Isabella và không thể chịu nổi Alexander. Và tôi không bao giờ nói năng với bố. Thế là năm mươi năm mươi trong gia đình đấy chứ. Birger là…, ừ, một cha óc bã đậu huênh hoang chứ không phải là một người xấu. Nhưng tôi hiểu ý anh định nói. Hãy nhìn vấn đề như thế này: nếu là một thành viên gia đình Vanger, anh hãy sớm học nói ra ý nghĩ của mình. Chúng tôi nghĩ gì đều nói tuột ra hết.

    - Ồ đúng, tôi để ý thấy các vị đều nói rất thẳng. – Blomkvist giơ tay sờ vú Cecilia.- Tôi ở đây chưa đến mười lăm phút mà chị đã tấn công tôi liền.

    - Nói cho trung thực, vừa gặp anh là tôi đã nghĩ là làm thế nào để đưa được anh lên giường. Đúng là đáng để thử lắm.

    Lần đầu tiên trong đời, Salander cảm thấy rất cần được một ai đó khuyên bảo. Vấn đề là hỏi xin lời khuyên thì có nghĩa là cô phải tâm sự với người khác và như thế lại có nghĩa là vạch vòi bí mật của cô ra. Cô nên nói với ai đây? Đơn giản là cô không giỏi tạo nên những mối quan hệ với người khác.

    Sau khi tra thầm trong đầu quyển sổ ghi địa chỉ, cô có được mười người, tính cho nghiêm ngặt, có thể gọi là chốn quen biết của cô. Cô có thể nói với Dịch Bệnh, anh ít nhiều đã có mặt bền bỉ trong đời cô. Nhưng anh dứt khoát không là bạn và anh cũng là người cuối cùng trên thế gian này có thể giúp cô giải quyết các vấn đề của cô. Không được.

    Đời sống tình dục của Salander không hẳn là khiêm tốn như cô đã để cho luật sư Bjurman tin là thế. Mặt khác, tình dục luôn (hay ít nhất là rất hay) xảy ra theo các điều kiện và sự chủ động của cô. Từ tuổi mười lăm cô đã có hơn năm chục “đối tác”. Như thế có nghĩa là mỗi năm năm anh, điều này là OK với một cô gái độc thân, coi tình dục là một tiêu khiển đáng thưởng thức. Nhưng phần lớn quan hệ với các đối tác dăm bữa nửa tháng này chỉ kéo dài được hai năm. Đó là những năm sôi động trong đoạn cuối của cái tuổi mười tám mười chín, khi cô bước tới trưởng thành.

    Có một thời Salander đứng ở ngã ba đường, thật sự buông mặc đời mình – khi tương lai cô chỉ lại có thể nối thêm vào lý lịch nào nghiện ma túy, nghiện rượu và bị giam giữ ở nhiều nơi. Sau khi bước sang tuổi hai mươi và đi làm ở An ninh Milton, cô mới dịu đi đáng kể và – cô nghĩ – mới nắm lấy đời mình.

    Cô không còn cảm thấy nhu cầu lấy lòng một ai đó để mua cho cô ba lon bia trong quán nữa, cô cũng không cảm thấy cần coi nhẹ bản thân qua việc đưa về nhà một cha say xỉn nào đó mà tên anh ta cô cũng chẳng thèm nhớ. Trong năm ngoái cô chỉ có một đối tác tình dục đều đặn – hầu như tình cờ chăng chớ, như các đề mục trong lý lịch của cô đã chỉ rõ.

    Với cô, tình dục phần lớn là với một đứa trong đám bạn lỏng lẻo; cô không phải là thành viên thật sự nhưng được chấp nhận vì cô quen Cilla Noren. Cô quen Cilla hồi mười tám, mười chín tuổi, theo lời Palmgren nài nỉ, khi cô cố lấy cái bằng của nhà trường mà cô đã trượt ở Khôngmvux. Cilla có mái tóc màu mận chín xem với những lọn tóc đen, quần da đen, một khoen ở mũi và những đinh tán ở thắt lưng cũng nhiều như Salander. Trong năm thứ nhất hai đứa đã nghi ngờ lừ mắt nhau. Vì lý do nào đó Salander không biết, hai đứa lại quấn quýt. Salander không phải là người dễ có bạn và đặc biệt trong những năm tháng này nhưng Cilla chẳng buồn quan tâm điều ấy mà vẫn đưa cô đi quán bar. Qua Cilla, cô trở thành một thành viên của Những Ngón tay Ma quỷ, nó bắt đầu là một băng ngoại ô ở Enskede đi quán xá với bốn cô gái tuổi mới lớn rồi đi vào nhạc rock. Mười năm sau họ trở thành một nhóm bạn gặp nhau các tối thứ Ba ở Kvarnen để nói sự xấu xa của bọn con trai và thảo luận về phong trào bảo vệ phụ nữ, về ngôi sao năm cánh, âm nhạc, chính trị đồng thời nốc vô thiên lủng bia là bia. Chúng cũng sống xứng với những cái tên của chúng.

    Salander thấy mình ở cái rìa của nhóm này, cô ít khi góp chuyện, nhưng người ta cũng không đòi hỏi gì hơn ở cô. Cô đến rồi đi tùy và được phép ngồi im lặng hết tối trước vại bia của cô. Cô cũng được mời dự tiệc sinh nhật và mừng Noel, tuy cô thường không đến.

    Trong năm năm quần thảo vơi đám Những Ngón tay Ma quỷ, các bạn gái bắt đầu biến hóa. Tóc họ bớt cực đoan đi, quần áo đến từ các tiệm của H&M nhiều hơn là từ Myrorna tân kỳ. Họ đi học hoặc đi làm, một cô gái đã làm mẹ. Salander cảm thấy mình là đứa duy nhất không có thay đổi mấy tí, điều cũng có thể được hiểu là vì cô chỉ đơn giản chỉ ì ra tại chỗ và chẳng đi đến đâu. Nhưng họ vẫn vui vầy. Nếu có chỗ nào cô còn cảm thấy một kiểu đoàn kết của bè nhóm thì đó là trong vòng tay bầu bạn của Những Ngón tay Ma quỷ, và nói rộng hơn, với những đứa con trai là bạn với những đứa con gái.

    Những Ngón tay Ma quỷ sẽ nghe cô. Chúng cũng sẽ đứng lên vì cô. Nhưng chúng không biết chuyện tòa án quận có lệnh tuyên bố cô bị bệnh tâm thần. Cô cũng không muốn chúng nhìn sai cô đi. Không chọn ngả này được.

    Ngoài đó ra Salander không có lấy một người bạn học nào ở trong sổ địa chỉ. Cô không có mật mã hay nhóm ủng hộ hay các tiếp xúc chính trị thuộc bất cứ loại gì. Vậy cô nhờ ai để nói các vấn đề của cô đây?

    Có thể có một nguời. Cô suy nghĩ một lúc xem liệu có nên tâm sự với Dragan Armansky không, Ông đã bảo cô cần giúp đỡ gì thì cứ đến ông không do dự. Cô chắc chắn là ông nói như thế.

    Armansky cũng đã sờ mó cô một lần nhưng đó là sự sờ mó thân thiện, không có ý bệnh hoạn và không để phô trương quyền lực. Nhưng nhờ ông giúp đỡ thì không xuôi. Ông là sếp của cô, nhờ ông như thế sẽ đặt cô vào cái thế mang nợ. Salander giễu cợt với cái ý nghĩ rằn đời cô ra sao nếu người giám hộ cô là Armansky chứ không phải Bjurman. Cô mỉm cười. Ý nghĩ này nó ngồ ngộ, nhưng Armansky có thể coi nhiệm vụ ấy nghiêm túc quá đến mức ông sẽ đem vây kín cô lại cùng với sự chú ý của ông. Ngả này. Được, có thể tính đến ngả này.

    Dù cô có biết rõ trung tâm khủng hoảng cho một người phụ nữ là gì thì cô cũng không bao giờ nảy ra cái ý định tự mình quay đến một trung tâm này. Trong mắt cô, các trung tâm khủng hoảng tồn tại là để cho các nạn nhân mà cô thì không bao giờ coi mình là nạn nhân. Kết quả, lựa chọn duy nhất còn lại với cô là làm cái điều cô vẫn làm – tự tay nắm lấy vấn đề và tự mình giải quyết lấy vấn đề. Đó là một sự lựa chọn dứt khoát.

    Và nó không báo trước điều gì hay ho cho ngài luật sư Nils Bjurman sất cả.

  6. #15
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 13

    Thứ Năm, 20 tháng Hai
    Thứ Sáu, 7 tháng Ba

    Trong tuần cuối cùng của tháng Hai, với Bjurman.N, sinh năm 1950, Salander cũng làm giống thân chủ cô, như một dự án đặc biệt, ưu tiên đặc biệt. Cô làm gần như mười sáu giờ mỗi ngày, tiến hành một cuộc điều tra cá nhân thấu triệt hơn những cái cô đã từng làm trước kia. Cô sử dụng hết mọi văn bản và tư liệu công cộng mà cô có thể chạm tới. Cô điều tra cả giới họ hàng và bè bạn của viên luật sư. Cô nhòm vào tài chính của ông ta và cho vào biểu đồ mọi chi tiết về học hành và nghề nghiệp của ông ta.

    Kết quả làm nản lòng.

    Ông ta là một luật sư, thành viên của Hội Luật gia, tác giả của một luận văn cà kê đến đáng nể nhưng lại đặc biệt chán ngấy về luật tài chính. Tiếng tăm ông ta không tì vết. Luật sư Bjurman chưa bao giờ bị phê phán.Trừ một lần ông ta phải mang ra Hội Luật gia - ông bị buộc tội đã làm trung gian trong một vụ buôn bán nhà đất chui gần mười năm trước, nhưng ông đã chứng minh được rằng mình vô tội. Tài chính của ông đúng quy tắc; Bjurman là người đã được thử thách với ít nhất 10 triệu curon trong tài sản. Ông ta nộp thuế nhiều hơn nợ, là thành viên của Hoà bình Xanh và Hội Ân xá Quốc tế,ông ta cúng tiền cho Hội Tim Phổi. Ông ta ít xuất hiện trên báo đài. Tuy ông đã kí tên mấy lần vào các bản kêu gọi cộng đồng ủng hộ những tù nhân ở thế giới thứ ba. Ông ta sống trong căn hộ năm buồng trên Upplandsgatan gần Odenplan, ông ta là thư kí hội đồng các hộ chung cư ở đây, Bjurman đã li hôn và không có con.

    Salander tập trung soi vào người vợ li hôn tên là Elena. Bà sinh ra ở Ba Lan nhưng sống hết đời ở Thụy Điển. Bà làm việc ở một trung tâm phục hồi, có vẻ đã lấy một người là đồng nghiệp của Bjurman và hạnh phúc. Mục này không giúp được gì. Hôn nhân của Bjurman dài mười bốn năm, và li hôn thì suôn sẻ, không tranh chấp.

    Công việc chính thức của luật sư Bjurman là làm người kiểm soát trông nom đám trẻ từng bị lôi thôi với pháp luật. Ông đã đỡ đầu cho bốn thanh niên trước khi làm giám hộ Salander. Tất cả các trường hợp này đều đính dáng đến vị thành niên và khi đám trẻ đến tuổi trưởng thành thì các nhiệm vụ này đã kết thúc với một quyết nghị của tòa án. Một trong các thân chủ của ông vẫn tham vấn Bjurman trong vai trò luật sư của ông cho nên ở mục này cũng không có thù oán nốt, Nếu Bjurman vẫn đang khai thác có hệ thống trẻ được giám hộ thì cũng không có dấu hiệu nào về chuyện này và bất kể Salander thăm thú sâu đến đâu cô cũng không tìm ra được một dấu vết sai trái nào. Cả bốn thanh niên đều đã dựng lập cuộc sống cùng với một bạn trai hay bạn gái, họ đều có việc làm, có chỗ để sống, được cấp thẻ nợ khi mua sắm.

    Cô gọi từng người trong bốn thân chủ, tự giới thiệu là thư ký phúc lợi xã hội đang làm một nghiên cứu về cuộc sống của những đứa trẻ khi sống với sự trông nom của người đỡ đầu sẽ ra sao so với những trẻ khác. Vâng, sẽ được giấu tên, đó là chuyện tự nhiên mà. Cô cũng hỏi qua điện thoại mười câu hỏi. Mấy câu hỏi nhằm làm cho người trả lời đưa ra cách nhìn nhận của họ về chế độ đỡ đầu đã tiến hành ra sao – nếu họ có ý kiến về người đỡ đầu của họ, luật sư Bjurman thì sao? Không ai nói ra điều gì xấu xa về ông ta.

    Khi làm xong cuộc truy xét, Salander thu tư liệu vào trong túi xách nhãn ICA rồi mang ra ngoài gian sảnh cùng với hai mươi túi xách đựng báo cũ. Xem ra Bjurman không có gì đáng chê trách. Quá khứ của ông ta không có gì để cô có thể sử dụng. Cô biết mười mươi ông ta là một kẻ gian xảo, một con lợn nhưng không tìm ra được cái gì để chứng minh.

    Đã đến lúc tính sang cách làm khác. Sau khi phân tích, một khả năng cho thấy ngày càng hấp dẫn hơn - hay ít nhất có vẻ là một ngả thực tiễn thật sự. Ðiều dễ nhất sẽ là Bjurman đơn giản biến khỏi đời cô, thế thôi. Một cơn đau tim đột ngột. Hết chuyện. Kẹt là ngay cả những gã năm mươi ba tuổi đáng ghét, cũng không chịu nghe theo ý cô, mà ngoan ngoãn lên cơn đau tim cho.

    Nhưng kiểu chuyện như thế này có thể thu xếp được.

    Blomkvist giữ kín chuyện quan hệ với bà Hiệu trưởng Cecilia Vanger. Chị có ba quy tắc: không muốn bất cứ ai biết hai người gặp nhau; anh chỉ sang khi nào chị gọi và anh không ở lại hết đêm.

    Niềm đam mê của chị làm cho anh ngạc nhiên và lạ. Khi anh tình cờ gặp chị ở quán Susanne, chị thân mật nhưng lạnh và xa cách. Khi hai người gặp nhau trong phòng ngủ của chị, chị cuồng say như rồ đại.

    Blomkvist không muốn dò vào đời tư của chị nhưng anh lại được mướn để dò vào đời tư của mỗi người trong gia đình Vanger. Anh cảm thấy bị giằng xé và đồng thời cũng tò mò. Một hôm anh hỏi Henrik chị đã lấy ai và đã xảy ra chuyện gì. Anh hỏi câu này khi họ đang bàn đến Alexander và Birger

    - Cecilia ấy à? Tôi nghĩ cháu nó không dính gì đến Harriet cả.

    - Ông nói quá khứ của chị ấy cho tôi đi.

    - Sau khi tốt nghiệp Cecilia chuyển về đây, làm cô giáo. Nó gặp một người tên là Jerry Karlsson, người này không may lại làm việc cho Tập đoàn Vanger. Họ lấy nhau. Tôi nghĩ cuộc hôn nhân này hạnh phúc – muốn gì thì cũng ở thời kì đầu. Nhưng sau hai năm, tôi bắt đầu thấy cơ sự không diễn ra như tôi chờ đợi. Anh chồng đối xử không tốt với vợ. Đấy là chuyện thường xuyên – hắn đánh Cecilia nhưng nó vẫn trung thành bảo vệ hắn. Cuối cùng một lần hắn đánh nhiều quá. Cecilia bị thương nặng đến nước phải vào bệnh viện. Tôi giúp đỡ, nó dọn đi khỏi đây đến đảo Hederby và từ đó từ chối gặp tay chồng. Còn tôi thì chắc chắn là đã đuổi việc hắn.

    - Nhưng họ vẫn là vợ chồng ?

    - Chuyện này là tuỳ theo định nghĩa của anh thôi. Tôi không hiểu tại sao Cecilia không làm đơn li hôn. Nhưng nó không bao giờ muốn tái hôn. Cho nên tôi cho là như vậy cũng chả làm cho khác đi.

    - Tay Karlsson này, có liên quan gì với...

    - ... với Harriet? Không, năm 1966 hắn không ở Hedestad, hắn không làm việc cho chúng tôi lúc ấy.

    - OK.

    - Mikael, tôi yêu Cecilia. Nó có thể mưu mô trong công chuyện nhưng là một người tốt trong gia đình.

    Salander dành cả tuần cho việc đánh gục Nils Bjurman. Cô xem xét và loại bỏ nhiều cách làm khác nhau cho đển khi rút lại chỉ còn một vài kịch bản để chọn. Không làm cái gì xốc nổi.

    Có điều là phải tạo được một điều kiện. Bjurman phải chết bằng cái cách nào đó mà cô là vô can. Bất cứ cuộc điều tra nào của cảnh sát cũng sẽ dính cô vào, việc đó cô cho là lẽ đương nhiên; sớm muộn khi người ta xét đến các trách nhiệm của Bjurman, tên cô cũng sẽ được trưng lên. Nhưng cô chỉ là một trong cả cả một rừng thân chủ cũ mới, cô mới chỉ gặp ông ta bốn lần, và sẽ không có manh mối nào cho thấy cái chết của ông ra có liên quan đến một ai trong các thân chủ của ông. Đã có bạn gái cũ, họ hàng, người quen biết chốc nhát, đồng nghiệp và những người khác. Cũng có cả cái đã quen được định nghĩa là “bạo hành ngẫu nhiên” khi mà người thủ ác và nạn nhân không biết nhau.

    Nếu tên cô xuất hiện, cô sẽ là một cô gái không nơi nương tựa, bất tài bất lực với các tư liệu cho thấy cô có vấn đề về tâm thần. Cho nên sẽ rất lợi nếu Bjurman chết một cách đủ phức tạp để cho rất khó có thể nghĩ một cô gái tâm thần có vấn đề lại là kẻ thủ ác được.

    Cô thôi dùng súng. Có súng không phải là chuyện lớn nhưng trong việc dò tìm súng đạn thì cảnh sát giỏi đáng sợ.

    Cô nghĩ đến dùng dao, dao thì có thể mua ở bất cứ hiệu ngũ kim nào, nhưng lại quyết định thôi. Cho dù cô có thể bất thần hiện ra gí dao vào lưng ông ta thì ông ta cũng chưa chắc chết ngay. Tệ hơn, có thể lại còn vật lộn, khiến cho bị chú ý rồi máu có thể vấy vào quần áo cô, làm bằng chứng chống lại cô.

    Cô nghĩ dùng một kiểu bom gì đó nhưng phương án này quá phức tạp. Làm một quả bom, bản thân chuyện ấy không thành vấn đề - Internet đầy các sách dạy cách chế tạo các của giết được nhiều người nhất này. Sẽ rất khó tìm một chỗ đặt bom sao cho người qua đường vô tội không bị thương. Ngoài ra lại cũng không đảm bảo chắc chắn ông ta sẽ chết.

    Điện thoại réo.

    - Chào, Lisbeth. Dragan. Tôi có một việc cho cô.

    - Tôi không có thì giờ.

    - Việc này quan trọng.

    - Tôi bận.

    Cô dập máy.

    Cuối cùng cô đậu lại ở phương án dùng thuốc độc .Cô ngạc nhiên đã chọn môn này nhưng xét kỹ thì đó là một cách hoàn hảo.

    Salander bỏ mấy ngày rà trên Internet. Vô thiên lủng tha hồ chọn. Một thứ là nằm trong những thuốc độc chết người nhất mà khoa học biết đến – axit hydrocyanic, nôm na là axit prussic hay axit màu xanh Phổ. Chỉ một vài miligam axit xanh Phổ đủ giết chết một người; một lít trong một thùng tưới ô doa có thể dọn sạch một thành phố cỡ trung.

    Rõ ràng một chất chết người như thế là bị kiểm soát ngặt nghèo. Nhưng lại có thể chế được trong một cái bếp bình thường. Mọi thứ cần đến chỉ là một số không nhiều thiết bị hoá nghiệm và có thể tìm thấy ở trong một bộ dụng cụ hoá học của trẻ con giá vài trăm curon cùng mấy thành phần chiếu xuất từ các sản phẩm thông thường dùng trong gia đình và được Sách giáo khoa dạy làm ở trên Internet.

    Một lựa chọn khác là nicôtin. Từ một tút thuốc lá có thể chiết xuất ra những miligam nicôtin, đốt chúng lên thành một thứ xirô nhầy dính. Một chất còn tốt hơn, tuy sản xuất hơi phức tạp hơn là nicôtin sunphát , cái này có đặc tính là có thể thấm qua da. Mọi việc cô phải làm là đi găng tay cao su, đổ đầy nước ấy vào một súng lục hơi rồi bơm vào mặt Bjurman. Ông ta liền hôn mê trong vòng hai chục giây và chết thẳng cẳng trong vài phút.

    Salander không ngờ quá nhiều vật dụng trong nhà có thể thành vũ khí giết người. Sau vài hôm nghiên cứu vấn đề, cô đã tin rằng không có môn kỹ thuật nào lấy được cái mạng của kẻ canh giữ cô.

    Có hai vấn đề: Cái chết của Bjurman tự nó không có cho cô quay lại tự cai quản lấy cuộc đời cô, và không có đảm bảo rằng người kế chân Bjurman sẽ tử tế hơn. Hãy phân tích về các hậu quả.

    Vậy thì điều mà cô cần làm là kiểm soát người giám hộ cô và do đó kiểm soát được cả tình cảnh cô. Cô ngồi hết cả buổi tối trên chiếu ghế sofa cũ nát ở trong phòng khách thầm duyệt lại toàn bộ tình hình ở trong đầu. Sắp sáng, cô vứt bỏ cái ý ám sát bằng thuốc độc mà sắp xếp một kế hoạch mới.

    Đây là một lựa chọn chả thú vị gì, nó vẫn cho phép Bjurman tiếp tục tấn công cô. Nhưng nếu thực hiện nó, cô sẽ thắng.

    Đến cuối tháng Hai, Blomkvist sa vào một nếp làm việc hàng ngày khiến nó thay đổi việc anh ở lại Hedestad. Sáng sáng anh dậy lúc 9 giờ, ăn điểm tâm, rồi làm việc tới trưa. Trong thời gian này anh nhồi nhét các tài liệu mới vào đầu. Sau đó đi bộ một giờ đồng hồ bất kể thời tiết ra sao. Chiều anh làm việc tiếp, hoặc ở nhà hoặc ở quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne, chế biến sắp xếp những cái anh đọc trong buổi sáng hay viết vài đoạn có thể sẽ là tự truyện của Henrik Vanger. Từ 3 đến 6 giờ anh luôn luôn rảnh. Anh có thể mua sắm, tắm giặt hoặc vào Hedestad. Khoảng 7 giờ anh đến nhà Vanger hỏi ông những câu hỏi nổi lên hôm đó. 10 giờ anh ở nhà, có thể đọc tới 1 hay 2 giờ sáng. Anh làm việc chu đáo với các tư liệu của Vanger.

    Việc định hình cho quyển tự truyện diễn ra êm ả. Anh đã viết 120 trang bản thảo sơ bộ về biên niên gia đình. Anh đã tới những năm 1920. Quá đoạn này anh sẽ làm chậm hơn và bắt đầu cân nhắc chữ nghĩa.

    Qua thư viện ở Hedestad, anh đã mượn những sách viết về chủ nghĩa Quốc xã trong thời gian ấy, gồm cả luận văn tiến sĩ của Helene Loow, Chữ thập ngoặc và bố Wasa, viết về các biểu tượng mà đám Quốc xã Ðức và Thụy Ðiển đã dùng. Anh đã có bốn chục trang bản thảo khác về Henrik và mấy người anh của ông, tập trung vào Henrik là người giữ cho câu truyện gắn kết lại với nhau. Anh có danh sách những đề tài anh cần nghiên cứu về cách công ty hoạt động lúc bấy giờ. Và anh đã phát hiện ra thấy gia đình Vanger từng dính líu nặng vào đế chế lvar Kreuger-một khía cạnh khác của câu chuyện anh cần khai thác. Anh ước lượng còn phải viết khoảng 300 trang nữa. Theo kế hoạch anh đặt ra, anh muốn vào ngay đầu tháng Chín có một bản thảo cuối cùng cho Henrik Vanger xem để anh có được cả mùa thu soát lại bài viết.

    Vì tất cả sự đọc và viết này, Blomkvist không tiến bộ một li nào trong vụ Harriet dù anh nghiền ngẫm các chi tiết trong đống hồ sơ, anh cũng không tìm ra nổi một mẩu thông tin duy nhất nào mâu thuẫn với báo cáo điều tra.

    Một tối thứ Bảy cuối tháng Hai, anh có một cuộc nói chuyện với Henrik Vanger, trong đó anh báo cáo về những tiến bộ mới đây của mình. Ông già kiên nhẫn nghe trong khi Blomkvist kể ra hết các ngõ cụt anh đã rúc phải.

    - Không có án mạng nào lại hoàn hảo cả. - Henrik nói. - Tôi chắc chắn chúng ta đã để lọt mất một cái gì.

    - Vụ án mạng này được gây ra như thế nào, chúng ta vẫn chưa nói được chỗ ấy.

    - Nắm lấy chỗ ấy, - Henrik nói. – Và hoàn thành công việc.

    - Vô ích.

    - Có thể là thế. Nhưng không bỏ cuộc.

    Blomkvist thở dài.

    - Các số điện thoại. - Cuối cùng anh nói.

    - Ừ.

    - Chắc là chúng phải nói lên cái gì.

    - Tôi đồng ý.

    - Chúng được ghi lại vì một mục đích gì đó.

    - Ừ

    - Nhưng chúng ta không diễn giải được.

    - Ừ

    - Hoặc nói khác đi là chúng ta đã diễn giải sai.

    - Chính xác.

    - Không phải số điện thoại. Là một cái gì đó.

    - Có thể là thế.

    Blomkvist lại thở dài, rồi về nhà đọc tiếp.

    Luật sư Bjurman nhẹ người khi Salander lại gọi, nói rõ là cô cần thêm tiền nữa. Cô hoãn lần gặp đã lên lịch gần đây nhất với lý do là cô có việc phải làm và ông bị một cảm giác không thoái mái cắn rứt. Cô sẽ lại quay về là một đứa trẻ có vấn đề không thể xử lý được chăng? Nhưng do lỡ cuộc gặp nên cô đã không được trợ cấp vậy thì sớm muộn cô buộc sẽ phải đến gặp ông. Ông không thể giúp nhưng ông băn khoăn cô có bàn với một người ngoài cuộc nào đó về câu chuyện đã xảy ra không.

    Sẽ phải kiềm chế cô ta. Sẽ phải cho cô ta hiểu ai là người có quyền quyết định. Cho nên ông bảo cô lần này gặp không ở sở mà tại nhà ông ta gần Odenplan. Nghe tin này, Salander im lặng hồi lâu trong máy rồi cuối cùng bằng lòng.

    Cô đã dự định gặp ông ta ở sở, đúng như lần trước. Nay cô buộc phải gặp ông ở miếng đất không quen thuộc. Cuộc hẹn vào tối thứ Sáu. Cô đã được cho số toà cao ốc và cô bấm chuông nhà ông hồi 8 giờ, muộn hơn hẹn nửa giờ. Đó là bấy nhiêu thì giờ cô cần trong bóng tối của thang gác toà cao ốc để soát lại một lần cuối cùng kế hoạch, tính đến các khả năng, lên gân cốt và huy động lòng can đảm cô sẽ cần tới.

    8 giờ Blomkvist tắt máy tính, mặc quần áo đi ra phố. Anh để đèn sáng trong phòng làm việc. Bên ngoài trời sáng sao và đêm lạnh buốt. Anh đi gấp lên đồi, qua nhà Vanger, bắt vào đường tới Ostergarden. Khỏi nhà Vanger anh rẽ trái, đi theo một con đường xấu hơn dọc bờ biển. Các phao thắp sáng lập loè trong vùng nước và ánh sáng từ Hedestad lấp loá vui vẻ trong bóng tối. Anh cần khí trời trong lành nhưng trên hết anh muốn tránh con mắt rình mò của Isabella Vanger. Quá nhà Vanger không xa. Anh lại ra đường cái và đến cửa nhà Cecilia Vanger ngay sau 8 rưỡi. Họ đến ngay phòng ngủ của chị.

    Họ gặp nhau mỗi tuần hai lần. Cecilia không chỉ thành người tình của anh ở đây, tại chốn anh «lưu vong» này mà còn là người mà anh bắt đầu tâm sự. Thảo luận với Cecilia về Harriet Vanger thì được thưởng có ý nghĩa hơn so với Henrik, chú của chị.

    Gần như kế hoạch đã tỏ ra sai ngay từ đầu.

    Bjurman mặc áo choàng tắm khi ông ta mở cửa. Bực cô gái đến muộn, ông đẩy mạnh cô vào trong. Cô mặc quần jean đen, áo phông đen và chiếc jacket da bắt buộc. Cô đi bốt đen và đeo một ba lô nhỏ có dây đeo chéo qua ngực.

    - Cô không biết xem cả giờ nữa hay sao? – Bjurman nói.

    Salander không đáp. Cô nhìn quanh. Ngôi nhà nom rất giống như cô đã hình dung sau khi nghiên cứu bản đồ xây dựng trong lưu trữ văn thư của sở Phân vùng Thành phố. Đồ nội thất sáng màu bằng gỗ bu lô và sồi.

    - Nào, vào đi, - Bjurman nói, giọng thân mật hơn, tay quàng qua vai cô và đưa cô đến cuối gian sảnh vào một chỗ bên trong căn nhà. Không cố rón rén. Ông ta mở cửa vào phòng ngủ. Không còn nghi ngờ gì nữa về cái việc ông ta chờ đợi Salander sẽ hoàn thành. Cô nhìn vội xung quanh. Ðồ đạc cho kẻ độc thân. Một cái giường đôi với một khung giường bằng thép không gỉ. Một cái tủ ngăn kéo có chức năng như một cái bàn đầu giường. Cạnh các đèn tắt bật không tiếng động. Một tủ quần áo với gương hết một bên cánh. Một ghế mây và một bàn làm việc nhỏ ở góc gần cửa. Ông cầm tay cô đưa đến bên giường.

    - Bảo tôi lần này cô cần tiền làm gì. Thêm linh kiện máy tính à?

    - Cái ăn. - Cô nói.

    - Dĩ nhiên. Tôi ngớ ngẩn thế cơ chứ. Cô đã bỏ mất lần gặp truớc. - Ðặt tay vào dưới cằm cô, ông ta nâng mặt cô lên cho mắt hai người gặp nhau. - Cô sao?

    Cô nhún vai.

    - Cô có nghĩ đến những điều tôi nói lần trước không?

    - Về gì?

    - Lisbeth, đừng có mà vờ ngu đi. Tôi muốn chúng ta là bạn tốt và giúp đỡ lẫn nhau.

    Cô chẳng nói chẳng rằng. Luật sư Bjurman nén cơn hung muốn tát cô một cái - để cho cô hoạt lên một ít.

    - Cô có thích trò chơi người lớn của chúng ta tối nọ không?

    - Không.

    Ông nhíu mày.

    - Lisbeth, đừng điên rồ.

    - Tôi cần tiền để mua cái ăn.

    - Nhưng hôm nọ tôi đã nói với cô rồi đấy. Nếu cô tử tế với tôi, tôi sẽ tử tế với cô. Nhưng nếu cô định phá quấy..., - ông bóp mạnh cằm cô và cô vẹo người đi.

    - Tôi muốn lấy tiền của tôi. Ông muốn tôi làm gì ?

    - Cô biết tôi muốn gì, - ông nắm lấy vai cô kéo đến giường.

    - Khoan, - Salander vội nói. Cô nhẫn nhục nhìn ông ta rồi gật cụt lủn một cái. Cô cởi ba lô và chiếc jacket da có những đinh tán ra, nhìn quanh. Cô để chiếc jacket lên ghế nhựa rồi ngập ngừng đi mấy bước lên giường. Rồi cô dừng lại, như bị lạnh chân. Bjurman lại gần hơn.

    - Khoan, - cô nói một lần nữa, với cái giọng tựa như giảng đạo lý. - Tôi không muốn mỗi lần cần tiền lại phải mút của quý của ông.

    Vẻ mặt Bjurman thình lình biến đổi. Ông ta tát mạnh cô một cái. Salander mở to mắt nhưng cô chưa kịp phản ứng, thì Bjurman đã túm lấy vai cô rồi ném cô lên giường. Cô sửng sốt vì hành vi hung bạo. Khi cô cố xoay người dậy thì ông ta đè cô xuống gìường và cưỡi lên người cô.

    Giống như lần trước, cô không thể đọ được với ông ta về sức khỏe, cơ may đánh trả duy nhất của cô là có thể cào vào mắt hay dùng một vũ khí nào đó làm cho ông ta bị thuơng. Kịch bản cô bày ra đã đi đời nhà ma. Cứt, cô nghĩ khi ông ta lột chiếc áo phông của cô ra. Cô kinh hoàng nhận thấy cô đã hoàn toàn hết phương đối phó.

    Cô nghe thấy ông ta mở ngăn kẻo cạnh giường rồi tiếng kim loại lanh canh. Ban đầu cô không hiểu chuyện gì; rồi cô thấy còng số tám thít chặt lấy cổ tay cô. Ông ta giơ tay cô lên, đặt còng số tám vào quanh một cọc giường rồi khóa tay kia của cô lại. Ông chả mất mấy thì giờ để tụt bốt và quần jean cô ra. Rồi cởi quần lót dài ngang đùi của cô ra cầm ở trong tay.

    - Cô phải học cách tin cậy tôi, Lisbeth, - ông ta nói. - Tôi sắp dạy cô chơi như thế nào cái trò của người lớn đây. Nếu cô đối xử không tử tế với tôi, cô sẽ bị trừng trị. Nếu cô tử tế với tôi thì chúng ta sẽ là bạn.

    Ông ta lại cưỡi lên người cô.

    - Vậy là cô không thích làm đằng hậu môn à?

    Salander há mồm ra hét. Ông ta túm tóc cô, nhét quần lót dài tới ngang đùi của cô vào mồm cô. Cô cảm thấy ông ta đặt một cái gì vào quanh cổ chân cô, giạng hai chân cô ra rồi trói chúng lại để cho nằm hoàn toàn bất lực. Cô nghe thấy ông ta đi quanh gian phòng nhưng không nhìn thấy gì qua chiếc áo phông quấn quanh mặt. Ông ta phải mất vài phút. Cô thở khó nhọc. Rồi cô thấy đau kinh khủng khi ông ta thúc một cái gì đó vào hậu môn cô.

    Cecilia vẫn có một quy định là Blomkvist không ở lại cả đêm. Đôi khi sau hai giờ sáng, anh bắt đầu mặc quần áo, chị vẫn nằm trần truồng trên giường, mỉm cười với anh.

    - Tôi thích anh đấy, Mikael. Tôi thích anh ở bên.

    - Tôi cũng thích chị.

    Chị kéo anh lại giường, cởi áo sơ mi anh vừa mặc vào. Anh ở lại thêm một giờ nữa.

    Sau đó về qua nhà Vanger, anh chắc chắn là đã trông thấy một bức rèm ở trên gác lay động.

    Salander được bảo mặc quần áo vào. Lúc ấy là 4 giờ sáng thứ Bảy.

    Cô nhặt jacket da, ba lô lên và tập tễnh đi ra cửa, ông luật sư tắm táp và ăn mặc sạch sẽ đã chờ cô ở đó. Ông ta đưa cho cô tấm séc 2.500 Curon.

    - Tôi lái xe đưa cô về. - Ông ta mở cửa nói.

    Cô bước qua ngưỡng cứa, ra ngoài ngôi nhà rồi quay lại nhìn ông ta. Người cô nom mảnh dẻ, mặt sưng húp híp vì khóc; ông ta gần như co rúm lại khi va phải mắt cô. Trong đời mình, ông ta chưa từng bao giờ trông thấy vẻ căm thù nào trần trụi, nung nấu âm ỉ như thế này. Salander nom đúng là điên như lý lịch cô đã ghi.

    - Không. - Cô nói quá khẽ đến độ ông nghe không rõ. – Tôi về một mình được.

    Ông ta đặt một tay lên vai cô.

    - Có chắc không ?

    Cô gật. Tay ông ta bóp chặt hơn lấy vai cô.

    - Hãy nhớ cái mà chúng ta đã thoả thuận. Thứ Bảy sau lại đến đây.

    Cô lại gật. Sợ. Ông ta để cô đi.

  7. #16
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 14

    Thứ Bảy, 8 tháng Ba
    Thứ Hai, 17 tháng Ba

    Cả tuần Salander nằm bẹp, đau bụng, trực tràng chảy máu và những vết thương không trông thấy thì phải mất thời gian lâu hơn mới khỏi. Cô trải qua một điều khác hẳn lần bị cưỡng hiếp đầu tiên trong văn phòng ông luật sư, nó không còn là chuyện cưỡng bức và suy đồi nữa mà là sự tàn bạo.

    Cô nhận ra quá muộn rằng cô đã đánh giá sai đến đáng sợ Bjurman.

    Cô đã cho rằng ông ta đang hưởng mùi quyền lực và thích thống trị mà không thấy ông ta còn là một tên bạo dâm. Ông đã tra tay cô vào còng đến nửa đêm. Có lúc cô đã tin là ông ta muốn giết cô khi ông ta đè cái gối lên mặt cô.

    Cô đã không kêu khóc.

    Ngoài nước mắt vì đau đớn thuần túy về thể xác cô không rơi một giọt nước mắt nào. Khi cô rời ngôi nhà đi, cô đã chật vật đi đến chỗ đậu taxi ở Odenplan. Cô nặng nhọc leo cầu thang về nhà mình. Cô tắm vòi sen, lau máu ở bộ phận sinh dục. Rồi uống một cốc nước to với hai viên Rohypnol, lảo đảo đến giường, kéo tấm chăn lông chim trùm kín đầu.

    Cô tỉnh dậy vào trưa Chủ nhật, đầu trống rỗng, cơ bắp và bụng thì đau liên miên. Cô uống hai cốc kefir, ăn một quả táo. Rồi lại uống hai viên thuốc ngủ và quay lại giường.

    Cô cảm thấy như đã không thức dậy cho đến thứ Ba. Cô ra ngoài mua một hộp to Pan Pizza của cửa hàng Billy, quẳng hai chiếc vào trong lò vi ba và đổ đầy cà phê vào một chiếc phích. Đêm ấy cô thức với Internet, đọc các bài báo và luận văn về tâm lý bạo dâm.

    Cô tìm thấy một bài báo của một nhóm phụ nữ ở Mỹ trong đó tác giả viết rằng tên bạo dâm gần như có linh cảm chọn “các mối quan hệ của hắn”; nạn nhân mà tên bạo dâm thích nhất là người tự nguyện đến với hắn vì cô ta nghĩ mình đã cùng đường. Tên bạo dâm chuyên tìm những người đang ở vị trí lệ thuộc.

    Luật sư Bjurman đã chọn cô làm nạn nhân. Qua đấy cô thấy ra được cái cách người khác nhìn nhận cô.

    Thứ Sáu, một tuần sau lần thứ hai bị hiếp, cô đi đến tiệm xăm ở quận Hornstull. Cô đã hẹn trước để khi đến tiệm sẽ không gặp khách khác. Nhận ra cô, chủ tiệm gật đầu. Cô chọn một hình xăm nho nhỏ là một dải băng hẹp và bảo muốn xăm vào cổ chân. Cô chỉ chỗ.

    - Da chỗ này rất mỏng, sẽ bị đau nhiều đấy. – Người thợ xăm nói.

    - Không sao, - Salander nói, cởi quần jeam rồi giơ chân lên.

    - OK, một cái băng. Cô đã xăm cả một đống rồi đây. Cô chắc chắn là muốn thêm một cái nữa chứ?

    - Cái này là để giúp cho nhớ một chuyện.

    Blomkvist rời quán cà phê lúc 2 giờ chiều thứ Bảy sau khi Susanne đóng cửa. Anh đã bỏ cả sáng ra đánh các ghi chép của anh vào iBook. Anh đi bộ ra Khôngnsum mua một ít thực phẩm và thuốc lá rồi về nhà. Anh đã mua xúc xích rán với khoai tây, củ cải đường – một món anh không bao giờ thích, nhưng chả hiểu sao xem vẻ nó lại như hợp một cách hoàn hảo với căn nhà gỗ nhỏ ở nông thôn.

    Quãng 7 giờ tối anh đứng bên cửa sổ bếp ngẫm nghĩ. Cecilia Vanger không gọi. Anh bổ quàng phải chị chiều hôm ấy lúc chị đang mua bánh mì nhưng đang mải nghĩ ngợi nên chị không thấy. Xem chừng chị sẽ không gọi tối nay. Anh liếc vào chiếc tivi nhỏ mà anh gần như không bao giờ dùng. Thay vì anh ngồi vào bàn bếp và mở một truyện bí ẩn của Sua Grafton.

    Salander theo hẹn quay đến nhà Bjurman ở gần Odenplan. Mỉm cười lịch sự, chào đón, ông ta mời cô vào.

    - Hôm nay cô làm thế nào đây nhỉ, Lisbeth thân mến?

    Cô không đáp. Ông quàng tay qua vai cô.

    - Tôi cho là lần trước có hơi dữ dằn. – Ông ta nói. – Nom cô đã đỡ căng đi một chút.

    Cô mỉm cười xảo trá và ông thình lình thấy dội lên một cảm giác bất trắc. Tâm trí con bé này không hoàn toàn ở đây. Ta phải nhớ cái đó. Ông ta nghĩ liệu cô sẽ giở trò gì đây.

    - Ta có vào buồng ngủ không? – Salander nói.

    Mặt khác con bé có vẻ lại chịu... Hôm nay ta nhẹ tay với nó thôi. Làm cho nó tin. Ông đã để còng số tám lên trên tủ ngăn kéo. Đến lúc sắp lên giường Bjurman mới nhận thấy có một cái gì đó không ổn.

    Cô là người đưa ông đến giường chứ không phải kiểu co kéo trước. Ông ta dừng lại phân vân nhìn cô khi cô lấy ở trong túi jacket ra một cái gì mà ông ngỡ là điện thoại di động. Rồi ông nhìn vào mắt cô.

    - Chúc ngủ ngon đi. – Cô nói.

    Thục khẩu súng bắn điện vào nách trái ông, cô phóng ra 75.000 vôn. Khi ông khuỵu chân, cô giơ vai ra đỡ rồi lấy hết sức đẩy ông xuống giường.

    Cecilia Vanger cảm thấy hơi ngà ngà. Chị đã quyết định không gọi Blomkvist. Quan hệ của họ đã phát triển thành một trò hề phòng the nực cười khiến Blomkvist phải loanh qua loanh quanh rón rén để đến nhà chị mà không bị bắt gặp. Phần mình, chị đã sắm vai một thiếu nữ mười mấy tuổi tương tư sầu não không thể kiểm soát nổi. Mấy tuần qua chị đã xử sự liều lĩnh.

    Vấn đề là tại mình thích anh ấy quá, chị nghĩ. Cuối cùng anh ấy sẽ làm cho mình khổ đây. Chị ngồi hồi lâu mong giá như Blomkvist không đến Hedeby.

    Chị đã mở một chai vang và uống hai li trong cảnh một thân trơ trọi. Chị quay sang tivi để xem chương trình Rapport và cố theo dõi tình hình thế giới nhưng rất nhanh đã thấy mệt với những bình luận lý do tại sao Tổng thống Bush phải ném bom Iraq và các thứ linh tinh khác. Chị lại ngồi vào ghế sofa trong phòng khách, cầm lấy quyển Người Laser của Gellert Tamas. Đọc được vài trang chị lại đặt sách xuống. Lập tức việc này khiến cho chị nghĩ đến bố mình. Ông đã làm những trò quái đản gì vậy nhỉ?

    Lần cuối cùng hai bố con thật sự gặp nhau là vào năm 1984, khi chị và bố cùng anh Birger đi săn thỏ rừng ở bắc Hedestad. Birger đem ra thử một con chó săn mới – một con săn cáo nòi Thụy Điển mà anh vừa mới có được. Lúc ấy Harald bảy mươi ba và chị đã làm hết sức để chấp nhận các trò rồ dại của bố, những cái đã biến tuổi thơ của chị ra thành cơn ác mộng cũng như đã ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời trưởng thành của chị.

    Trước kia chưa bao giờ Cecilia mong manh như hồi ấy. Hôn nhân của chị vừa chấm dứt ba tháng trước. Bạo hành gia đình... cái thuật ngữ này mới nhạt nhẽo làm sao. Với chị nó đã mang một kiểu lạm dụng triền miên không dừng. Những quả đấm vào đầu, những quăng quật hung hãn, những dấu hiệu rầu rĩ và những lần bị đánh lăn quay ra sàn bếp. Những cơn nổi khùng nổi đóa của chồng chị là không thể hiểu được và các trận đánh đập quá thường hay xảy ra đến nỗi chị đã bị thương thật sự. Chị bắt đầu quen đi.

    Cho đến ngày chị đánh trả và anh ta hoàn toàn mất kiểm soát. Cuối cùng anh ta đã ném chiếc kéo cắm vào bả vai chị.

    Anh ta hối hận và hoảng hốt đưa chị đi bệnh viên, dựng ra một chuyện tai nạn kỳ quái mà nhân viên phòng cấp cứu nhìn thấu ngay. Chị thấy xấu hổ. Họ khâu cho chị mười hai mũi và giữ chị ở lại bệnh viện hai ngày. Rồi chú chị đón chị về nhà chú. Chị không nói chuyện với chồng nữa.

    Mùa thu năm ấy, tính khí Harald Vanger vui vẻ, gần như thân mật. Nhưng vào rừng một quãng xa rồi, thình lình không cơn chẳng cớ, ông bắt đầu mắng mỏ chị bằng những lời thóa mạ nhục nhã và những nhận xét không thể nào chịu nổi về đạo đức và những triển vọng về tính dục của chị. Ông gầm gừ rằng thảo nào một con điếm như thế mà không giữ nổi được một thằng đàn ông.

    Birger có vẻ như không thấy mỗi một lời của bố là một lằn roi da bện quất vào em gái. Thay vì lại cười to lên, rồi theo cách của riêng anh, quàng tay ôm lấy bố, làm cho tình hình dịu đi bằng cách bình luận rằng bố thừa biết đàn bà họ là gì mà. Anh nháy mắt vui vẻ với Cecilia và bảo Harald Vanger lên đứng ở trên một gờ đất nhỏ.

    Trong một thoáng giây nhìn bố và anh trai, Cecilia nhận ra mình đang cầm ở trong tay một khẩu súng săn nạp sẵn đạn. Chị nhắm mắt lại. Lựa chọn duy nhất cho chị lúc ấy hình như là giơ súng lên bắn hết cả hai viên. Chị muốn bắn luôn cả bố lẫn anh, nhưng chị đặt súng xuống dưới chân, quay gót đi đến chỗ đậu xe. Chị thẳng thừng vất họ lại, một mình về nhà. Từ hôm ấy chị từ chối cho bố vào nhà mình và không bao giờ vào nhà bố.

    Ông đã hủy hoại đời tôi, Cecilia nghĩ. Ông hủy hoại đời tôi ngay từ lúc tôi còn là một đứa trẻ.

    8 giờ 30 phút, chị gọi Blomkvist.

    Bjurman đau. Ông không điều khiển được bắp tay bắp chân của ông. Người ông như bị bại liệt. Ông không nhớ ông có bị ngất đi không nhưng ông u u minh minh. Khi ông dần dần kiểm soát lại được cơ thể, ông phát hiện thấy ông nằm trần truồng trên giường, cổ tay bị đeo còng số tám và hai chân giạng đau đớn sang hai bên. Ông đau nhức bởi những vết bỏng ở chỗ bị điện cực phạm vào.

    Salander đã kéo chiếc ghế mây đến bên, kiên nhẫn ngồi hút thuốc lá chờ, bốt ghếch lên giường. Khi ông toan nói thì nhận thấy miệng đã bị dính kín. Ông quay đầu. Cô đã kéo hết các ngăn tủ ra, đổ mọi thứ đựng ở trong đó lên sàn.

    - Tôi đã tìm thấy các đồ chơi của ông. – Salander nói. Cô giơ lên một roi da bện, chọc chọc vào một đống các dương vật giả, dây rợ khung cốt, mặt nạ cao su ở trên bàn. – Cái này dùng làm gì? – Cô giơ lên một cái nút to tướng để cắm vào hậu môn. – Không, đừng cố mà nói, tôi không thiết nghe những cái ông nói đâu. Có phải đây là cái hôm nọ ông dùng với tôi không? Ông chỉ cần lắc hay gật thôi. – Cô ngả người lại phía ông ta, chờ.

    Cảm thấy kinh hoàng xuyên qua ngực, Bjurman mất hết bình tĩnh. Ông giằng giằng cái còng. Nó đã làm chủ tình thế. Không thể. Ông không thể làm gì để chống lại được khi Salander cúi xuống nhét cái nút to tướng kia vào giữa hậu môn ông.

    - Vậy ra ông là một thằng bạo dâm. – cô nói tưng tửng như không. – Ông thích nhồi nhét các thứ vào bên trong người ta, có phải thế không? – Cô nhìn vào mắt ông ta. Mặt cô không mang một biểu hiện gì. – Không có thứ bôi trơn ư, đúng chứ hả?

    Bjurman rú lên ở sau miếng băng dính khi Salander tát mạnh vào hai má ông ta và tọng cái nút vào cái chỗ đích thực của nó.

    - Đừng thút thít. – Salander nói, bắt chước giọng ông ta. – Nếu ông kêu, tôi sẽ phải trừng phạt ông đấy nha.

    Cô đứng lên đi sang bên kia giường. Bjurman bất lực đưa mắt nhìn theo cô... Cái quỷ gì thế này nhỉ? Cô đã đẩy chiếc tivi 32 inch ở bên phòng khách sang. Đầu máy DVD của ông thì cô để ở trên sàn. Cô nhìn ông ta, tay vẫn lăm lăm chiếc roi.

    - Tập trung chú ý đây, không được phân tán. Cũng đừng cố nói năng, - chỉ là gật thôi. Có nghe thấy tôi nói không?

    Ông gật.

    - Tốt. – Cô cúi xuống nhặt chiếc ba lô. – Có nhận ra cái này không? – Ông gật. – Đây là cái ba lô tôi mang đến nhà ông lần vừa rồi. Một món có ích. Tôi mượn của An ninh Milton. – Cô kéo khóa mở cái túi dưới đáy. – Đây là một camera số. Ông có xem chương trình Insider trên TV3 không? Đây là máy mà bọn phóng viên xấu xa kia vẫn dùng khi cần ghi lại một cái gì bằng một camera giấu kín.

    Cô kéo khóa đóng lại.

    - Thấu kính đâu, hẳn ông đang muốn hỏi thế? Nó giỏi là ở chỗ này đây. Ống kính quang học góc độ rộng bằng sợi phíp. Thấu kính nom như một cái cúc thì nằm ẩn ở trong một cái cựa khóa của một dây quàng vai. Có lẽ ông nhớ ra được là tôi đã đặt cái ba lô lên bàn đây trước khi ông sờ soạng tôi. Tôi đã làm cho thấu kính chắc chắn là chĩa vào giường này.

    Cô cầm một đĩa DVD lên, lùa nó vào trong hộp đĩa. Rồi cô quay ghế mây lại để có thể ngồi xem màn hình. Châm một điếu thuốc lá khác, cô bấm điều khiển từ xa. Luật sư Bjurman đích thân mở cửa cho Salander.

    Cô không biết cả xem giờ nữa hay sao?

    Cô cho cái đĩa quay ông ta từ đầu đến cuối. Nó chấm hết sau chín chục phút, giữa chừng là cảnh luật sư Bjurman trần như nhộng ngồi tựa vào thành giường uống một cốc vang và nhìn Salander, co rúm với hai bàn tay bị còng lại ở đằng sau.

    Cô tắt tivi ngồi trên ghế chừng mười phút không nhìn Bjurman, ông ta không dám nhúc nhích. Rồi cô đứng lên vào buồng tắm. Khi trở lại cô lại ngồi vào ghế. Giọng cô sạn sắc như giấy ráp.

    - Tuần vừa rồi tôi đã có một sai lầm, - cô nói. - Tôi nghĩ ông sẽ giúp tôi tạo ra cớ để mà đánh tôi nữa. Ở ông điều vốn dĩ đã đủ là bỉ ổi nhưng vẫn chưa đủ bỉ ổi nên tôi đã không tạo được cớ cho ông. Tôi ngỡ có thể dễ dàng thu thập được tư liệu thú vị để chứng minh ông là một lão già bẩn thỉu. Tôi đã đánh giá ông sai. Tôi không biết ông mắc cái thói bệnh hoạn như thế. Tôi sẽ nói chẻ hoe ra đây. Cái đĩa này cho thấy ông cưỡng hiếp một cô gái hai mươi tư tuổi, tâm thần có vấn đề mà ông được chỉ định làm người giám hộ. Và ông không biết nếu bị đẩy đến đường cùng thì tôi sẽ có thể bị ảnh hưởng về mặt tâm thần đến đâu. Bất kỳ ai xem cái đĩa này cũng sẽ thấy ông không chỉ là một tên sa đọa mà còn là một thằng bạo dâm cuồng loạn. Đấy là điều thứ hai và tôi hy vọng tôi sẽ phải xem cái đĩa này lần chót. Khá là bổ ích, ông có nghĩ thế không? Mong muốn của tôi là ông mới chính là kẻ sẽ phải nhập viện chứ không phải tôi. Ông có nghe tôi nói những gì từ nãy đến giờ không?

    Cô chờ. Ông ta không phản ứng nhưng cô có thể trông thấy ông ta run. Cô chộp lấy cái roi da, khẽ ve vẩy dứ dứ nó ở trên bộ phận sinh dục của Bjurman.

    - Có nghe tôi không? – cô nói to hơn.

    Ông gật.

    - Tốt. Vậy chúng ta là cùng hội cùng thuyền đấy.

    Cô kéo ghế lại gần để nhìn thấy được mắt ông ta.

    - Ông nghĩ chúng ta nên làm gì về chuyện này nhỉ? – Ông không trả lời câu này. – Có ý nào hay không? – Khi ông không đáp, cô thò tay túm lấy bìu ông kéo ra cho đến lúc ông đau nhăn rúm cả mặt lại. – Có cái ý nào hay không? – cô nhắc lại.

    Ông lắc đầu.

    - Tốt. Nếu vẫn không có ý nào thì tôi sẽ cho ông một trận phát rồ phát dại lên nhỉ.

    Cô ngả lại đằng sau, dụi thuốc lá vào thảm.

    - Nghe đây, tuần tới, chừng nào rút được cái của này ra khỏi đít thì báo ngay lập tức cho ngân hàng của tôi rằng tôi – và chỉ mình tôi thôi – được mở tài khoản của tôi. Tôi nói cái gì có hiểu không?

    Bjurman gật.

    - Tốt đấy. Từ nay ông sẽ không còn bao giờ gặp tôi nữa. Mai đây chỉ gặp khi nào tôi thấy cần. Ông phải chấp hành một cái lệnh ngặt nghèo của tôi là biến cho khuất mắt tôi.

    Ông gật đầu như giã gạo. Nó không định giết mình.

    - Nếu mai này còn cố tiếp xúc với tôi thì các bản sao đĩa này sẽ bay tứ tung tới mọi tòa soạn ở Stockholm. Hiểu không?

    Ông gật.

    - Mỗi năm ông phải chyển báo cáo về phúc lợi của tôi cho sở Chế độ giám hộ một lần. Ông sẽ báo cáo rằng đời sống của tôi hoàn toàn bình thường, rằng tôi có một việc làm chắc chắn, rằng tôi đang tự trông nom cho tôi và ông không thấy có gì là bất thường trong ứng xử của tôi cả. OK?

    Ông gật.

    - Mỗi tháng ông sẽ chuẩn bị một báo cáo về việc ông và tôi không hề gặp nhau. Ông sẽ nói chi tiết những điều tích cực về tôi cũng như mọi sự diễn ra tốt đẹp với tôi như thế nào. Ông sẽ gửi một bản sao đó cho tôi. Hiểu chứ?

    Ông lại gật. Salander để ý thấy mồ hôi đang vã ra trên trán ông ta.

    - Trong vòng một năm hay hơn gì đó, hãy cứ cho là hai đi, ông sẽ chủ động tiến hành thương lượng ở tòa án quận để rút bỏ tuyên bố về tình trạng không có thẩm quyền về pháp lý của tôi. Ông sẽ lấy các báo cáo giả mạo của ông về các lần ông gặp tôi ra làm cơ sở cho đề nghị này của ông. Ông sẽ tìm một bác sĩ tâm thần đứng ra thề rằng tôi đã hoàn toàn bình thường. Ông sẽ phải cố gắng đấy. Ông sẽ phải làm chính xác mọi sự trong quyền hạn của ông để bảo đảm rằng tôi đã đủ thẩm quyền về pháp lý.

    Ông gật.

    - Ông có biết vì sao ông sẽ phải cố gắng hết sức không? Mẹ kiếp ông có lý do hay đấy. Nếu ông không làm thì tôi sẽ cho cái đĩa này ra công khai.

    Bjurman nghe từng lời của Salander. Mắt ông ta rực lên vì thù hận. Ông ta cả quyết cô gái để cho ông ta sống là đã phạm sai lầm. Mày sẽ kết thúc cái đời mày bằng cái quả này. Sớm muộn tao sẽ nghiền nát mày ra. Nhưng ông ta vẫn tiếp tục cố hết sức gật đầu đáp lại từng câu hỏi.

    - Nếu ông định tiếp xúc với tôi thì cũng sẽ bị tương tự.

    Cô làm một cử chỉ cứa cổ.

    - Hãy chào từ biệt với lối sống sang trọng này, với tên tuổi hay ho của ông cùng với hàng triệu bạc của ông ở trong cái tài khoản ở nước ngoài này.

    Bất giác mắt ông mở to ra khi cô nhắc đến tiền. Mẹ kiếp con quỷ này sao lại biết chuyện này...

    Cô mỉm cười rút ra một điếu thuốc khác.

    - Tôi muốn giữ mớ chìa khóa vào nhà ông và văn phòng ông.

    Ông ta nhíu mày. Cô ngả về trước, mỉm cười ngọt ngào.

    - Trong tương lai tôi sẽ kiểm soát cuộc đời ông. Khi ông ít chờ đợi nhất, khi ông đang ngủ trên giường chắc thế, tôi sẽ xuất hiện ở trong buồng ngủ này với cái này trong tay. – Cô giơ súng bắn điện lên. – Tôi sẽ kiểm tra ông. Nếu tôi thấy ông lại có một đứa con gái nào nữa – và dù cho nó tự nguyện – nếu tôi lại thấy ông với một người đàn bà nào nữa...

    Salander lại làm cử chỉ cứa cổ.

    - Nếu tôi bị chết... nếu tôi là nạn nhân của một tai nạn hay bị xe hơi đè hay một cái gì đó thì các bản sao này sẽ tự động được đăng lên trên các báo. Cộng thêm một báo cáo tôi tả rõ cho thấy có một người giám hộ như ông thì sẽ ra làm sao. Một điều nữa. – Cô lại ngả về đằng trước, gần đến mức chỉ cách mặt ông ta có năm sáu phân tay. – Nếu ông mà còn đụng đến tôi thì tôi sẽ giết ông. Đây là một lời hứa hẹn.

    Bjurman tin cô tuyệt đối. Không có vẻ lừa bịp nào trong con mắt cô.

    - Hãy ghi vào trong đầu rằng tôi là một con điên. Nhớ không?

    Ông gật.

    Cô tư lự nhìn Bjurman.

    - Tôi không nghĩ tôi và ông sẽ là bạn tốt của nhau. – Salander nói. Ngay bây giờ ông hãy nằm đây tự chúc mừng mình là tôi đã khá ngố nên mới để cho ông sống. Ông nghĩ dù có là tù nhân của tôi, ông vẫn kiểm soát được vì ông nghĩ nếu tôi không giết ông thì tôi chỉ còn mỗi cách là để cho ông đi. Nên ông chứa chan hy vọng là như thế nào đó sẽ khôi phục được ngay lập tức quyền lực của ông với tôi. Đúng không?

    Ông lắc đầu. Ông bắt đầu cảm thấy yếu thật sự.

    - Ông sẽ nhận một món quà của tôi để cho ông luôn nhớ đến thỏa thuận của chúng ta.

    Cô mỉm cười ma mãnh rồi leo lên giường quỳ vào giữa hai đùi ông. Bjurman không biết cô định làm gì nhưng thình lình cảm thấy khiếp đảm.

    Rồi ông trông thấy cái kìm ở trong tay cô. Ông quẫy đầu, ông cố oằn vặn người cho đến khi cô đè một đầu gối lên bụng dưới của ông và thúc mạnh xuống để cảnh cáo.

    - Hãy nằm im vì lần đầu tiên tôi dùng món đồ này đấy.

    Cô làm việc cần mẫn trong hai giờ đồng hồ. Khi cô làm xong, ông thôi thút thít. Ông hình như đã rơi vào trong trạng thái ù lì vô cảm.

    Cô tụt xuống giường, nghẹo đầu sang một bên nhìn cái tác phẩm thủ công của mình với một con mắt phê phán. Tài năng nghệ thuật của cô có hạn. Ở mức hay nhất thì cho là các chữ cô viết nom có vẻ ấn tượng chủ nghĩa. Cô đã dùng mực đỏ và xanh. Thông điệp viết bằng chữ hoa thành năm dòng ở trên bụng ông ta, từ núm vú đến vừa khít bộ phận sinh dục. TÔI LÀ MỘT CON LỢN BẠO DÂM, MỘT ĐỨA SA ĐỌA, MỘT ĐỨA HIẾP DÂM.

    Cô thu dọn mấy cái kim và đặt các ống mực vào trong ba lô. Rồi cô vào buồng tắm rửa ráy. Cô cảm thấy khỏe khoắn hơn khi trở lại buồng ngủ.

    - Chúc ngủ ngon. – Cô nói.

    Cô mở một bên còng số tám, đặt chìa lên bụng ông ta rồi bỏ đi. Cô mang theo các đĩa DVD và chùm chìa khóa của ông ta.

    Quãng sau nửa đêm, lúc hai người hút chung điếu thuốc, anh bảo chị là hai người sẽ không thể gặp nhau một thời gian. Cecilia ngạc nhiên quay nhìn anh.

    - Anh bảo sao?

    Anh có vẻ ngượng.

    - Thứ Hai tôi phải ở tù ba tháng.

    Không cần phải giải thích thêm. Cecilia nằm im. Chị thấy như muốn khóc.

    Chiều thứ Hai, Dragan Armansky ngạc nhiên thấy Salander gõ cửa nhà ông. Ông không thấy tăm hơi cô từ khi ông ngừng cuộc điều tra về vụ Wennerstrom hồi đầu tháng Giêng, mỗi lần ông toan liên hệ thì cô hoặc không trả lời hoặc dập máy nói cô bận.

    - Ông có việc cho tôi không? – cô hỏi, chả chào chả hỏi.

    - Chào. Thấy cô là nhất rồi. Ngỡ cô chết hay làm sao rồi chứ.

    - Có một vài việc tôi phải thu xếp.

    - Hình như cô thường phải thu xếp gì đó.

    - Lần này thì cấp bách. Nay tôi quay lại rồi đây. Ông có việc gì cho tôi không?

    Armansky lắc đầu.

    - Xin lỗi. Lúc này không.

    Salander bình thản nhìn ông. Một lát, ông bắt đầu nói.

    - Lisbeth, cô biết tôi mến cô và muốn có việc cho cô. Nhưng cô đi đã hai tháng mà tôi thì có đến cả tấn việc. Đơn giản là không thể dựa vào cô được. Tôi đã phải trả lương cho người khác để thế vào chỗ cô, còn hiện nay thì thật tình tôi không có việc gì.

    - Ông có thể cho âm lượng to lên không?

    - Gì chứ?

    - Ở radio ấy.

    ... tạp chí Millennium. Tin về nhà công nghiệp kỳ cựu Henrik Vanger sẽ là chủ đồng sở hữu và có một ghế ở ban lãnh đạo tạp chí Millennium, tin đến cùng ngày hôm đó cũng cho hay Mikael Blomkvist nguyên CEO và chủ bút bắt đầu thụ án tù ba tháng vì vu cáo doanh nhân Hans-Erik Wennerstrom, Erika Berger, Tổng biên tập Millennium nói trong một cuộc họp báo rằng Blomlvist sẽ tiếp tục giữ vai chủ bút sau khi mãn hạn tù.

    - Kìa, có chuyện đấy.

    Salander đáp quá khẽ khiến Armansky chỉ thấy môi cô mấp máy. Cô đứng lên và đi ra cửa.

    - Khoan. Cô đi đâu?

    - Nhà. Tôi muốn sục vài thứ. Gọi tôi nếu ông có công việc gì.

    Tin Millennium được tăng cường bằng việc Henrik Vanger gia nhập là sự kiện còn ghê gớm hơn là Lisbeth Salander chờ đợi. Bản in tối của Aftombladel đã ra, với một bài tóm tắt sự nghiệp của Vanger và xác nhận đây là lần đầu tiên trong khoảng hai mươi năm ông trùm công nghiệp già đời xuất hiện trước công chúng. Tin ông thành chủ đồng sở hữu của Millennium được coi như chuyện khó tin chẳng khác gì chuyện Peter Wallenberg hay Erik Penser bật nhảy ra làm các chủ đồng sở hữu của ETC hay các nhà bảo kê của tạp chí Ordfront vậy. Bài viết lớn quá đến nỗi bản tin 7 giờ 30 phúc của Rapport phát nó như mẩu tin quan trọng thứ ba và được cho lâu ba phút. Erika Berger được phỏng vấn ở tòa soạn Millennium. Thình lình vụ Wennerstron lại hóa thành ra tin tức mới toanh.

    - Năm ngoái chúng tôi có sai sót nghiêm trọng dẫn đến tạp chí chúng tôi bị khởi tố vì vu cáo. Chúng tôi ân hận về điều này... và chúng tôi sẽ theo đuổi chuyện này vào một dịp thích hợp.

    - Chữ “theo đuổi câu chuyện” mà bà nói là có ý gì?

    - Ý tôi nói là cuối cùng chúng tôi sẽ kể lại các sự kiện theo cách của chúng tôi mà tới nay thì chúng tôi chưa làm.

    - Bà có thể làm việc đó ở tòa không?

    - Chúng tôi không chọn cách ấy. Nhưng chúng tôi vẫn tiếp tục nghiệp vụ điều tra của báo chí như trước kia.

    - Thế có nghĩa là bà đang nắm câu chuyện nó làm nảy ra việc buộc tội kia?

    - Về vấn đề này tôi không có gì để nói hơn.

    - Sau khi bản nghị án đưa ra bà sa thải luôn Mikael Blomkvist?

    - Nói thế không chính xác. Xin đọc thông báo của chúng tôi ở trên báo. Ông ấy cần nghỉ. Cuối năm ông ấy sẽ quay lại, vẫn là CEO và chủ bút.

    Camera quét khắp phòng tòa soạn trong khi các phóng viên vội vã thuật lại thông tin về câu chuyện sóng gió của Millennium, một tạp chí độc đáo và nói thẳng nói thật. Blomkvist không có mặt để bình luận. Anh đang trong nhà tù Rullaker ở Jamtland, cách Ostersund một giờ đồng hồ.

    Salander thấy Dirch Frode ở rìa màn hình đi qua một cánh cửa vào các phòng ban biên tập. Cô cau mày, cắn môi dưới suy nghĩ.

    Thứ Hai mãi đến 9 giờ, Vanger được dành một đoạn bốn phút ở bản tin. Ông được phỏng vấn trong một trường quay truyền hình ở Hedestad. Người phóng viên mở đầu bằng tuyên bố sau hai thập niên đứng trong hậu trường, nhà công nghiệp Hanrik Vanger đã trở lại. Đoạn tin được bắt đầu với một tiểu sử lướt nhanh bằng các hình ảnh trắng đen cho thấy ông với Thủ tướng Erlander khánh thành các nhà máy trong những năm 60. Rồi camera tập trung vào chiếc sofa ở trường quay, nơi Henrik Vanger đang ngồi hoàn toàn thoải mái. Ông mặc sơ mi vàng, cà vạt hẹp xanh lá cây và một bộ comlê nâu sẫm vừa vặn người. Ông gầy nhưng giọng nói trong, rắn rỏi. Ông cũng khá hồn nhiên. Người phóng viên hỏi ông điều gì đã đẩy ông trở thành chủ đồng sở hữu của Millennium.

    - Đó là tờ tạp chí hay nhất mà tôi hết sức thích thú đọc trong nhiều năm. Hiện nay việc phát hành đang bị công kích. Có những kẻ đang tổ chức một cuộc phong tỏa thuê bao quảng cáo, cố làm cho nó quỵ.

    Người phóng viên không ngờ tới câu trả lời này, nhưng lập tức phỏng đoán câu chuyện vốn đã bất bình thường sẽ có thêm những khía cạnh bất ngờ.

    - Cái gì ở đằng sau cuộc phong tỏa?

    - Đây là điều mà Millennium đang xem xét kỹ lưỡng. Nhưng bây giờ tôi nói rõ rằng Millennium sẽ không bị chết trong loạt đạn đầu tiên đâu.

    - Đó là lý do khiến ông đã mua tạp chí?

    - Thật là tồi tệ nếu những lợi ích đặc biệt lại có quyền lực làm câm họng những tiếng nói nghịch tai trong truyền thông đại chúng.

    Vanger làm cứ như suốt đời mình ông là một phần tử cấp tiến về văn hóa gắn bó với quyền tự do ngôn luận. Blomlvist phá lên cười khi anh qua buổi tối đầu tiên ở trong nhà tù Rullaker bằng xem tivi. Các bạn tù khác khó chịu liếc anh.

    Khuya hôm ấy, khi anh nằm trên chiếc giường hẹp trong xà lim – nó làm anh nhớ tới một căn phòng gò bó ở trong nhà trọ cho xe hơi qua đường với cái bàn tí xíu, một chiếc ghế và một cái giá trên tường – anh phải thừa nhận rằng Vanger và Erika đã đúng như thế nào trong việc cần tung cái tin này ra thị trường. Quả là anh đã thấy được trong thái độ của dân chúng với Millennium một cái gì đó đã thay đổi. Sự ủng hộ của Hanrik Vanger là một lời tuyên chiến với Wennerstrom không hơn không kém. Thông điệp đã rõ: trong tương lai anh không chỉ có chiến đấu với một tòa soạn sáu mống người và một ngân sách hàng trăm năm tương đương với giá tiền của một hội nghị có ăn trưa của Tập đoàn Wennerstrom. Nay anh sẽ chống lại với cả Tập đoàn Vanger, có thể chỉ là cái bóng của tầm vóc to lớn xưa nhưng vẫn đại diện được cho một sự thách thức gay go đáng kể.

    Thông điệp Vanger tung lên truyền hình là cốt để nói ông đã chuẩn bị chiến đấu và cuộc chiến này với Wennerstrom sẽ là đắt giá đây.

    Berger thận trọng chọn chữ chọn lời. Cô không nói nhiều nhưng việc cô nói rằng tạp chí chưa kể vụ việc ra theo cách của nó đã cho ra một ấn tượng là cô đang có một cái gì để nói. Mặc dù Blomlvist bị kết tội, nghị án và nay đang ngồi tù, cô vẫn xuất hiện và nói – kiệm lời – rằng anh không phạm tội vu cáo, rằng có một sự thật khác nữa tồn tại. Chính xác ra thì vì cô đã không dùng chữ “vô tội” mà sự vô tội của anh lại rõ hơn bao giờ hết. Việc anh sẽ quay lại vai chủ bút đã chứng tỏ rằng Millennium chẳng có chuyện gì đáng để phải xấu hổ. Trong mắt công chúng, sự tin cậy đã không thành vấn đề - ai cũng yêu thích một lý luận nổi loạn và nếu phải chọn giữa một doanh nhân giàu có nhưng thối nát và một tổng biên tập duyên dáng lại nói năng thẳng băng thì cũng có thể đoán được công chúng ngả thiện cảm về phía nào. Nhưng truyền thông đại chúng sẽ không dễ mua chuyện này đến thế - song Berger có thể đã “lấy lòng” được một số người phê bình.

    Ngày hôm ấy chả có việc nào làm cho tình hình thay đổi cơ bản nhưng họ đã tranh thủ được thời gian và làm cho cán cân quyền lực nhích lệch một tí. Blomkvist hình dung Wennerstrom chắc đã phải có một buổi tối không vui. Wennerstrom có thể không biết là họ đã biết nhiều ít đến đâu, nên trước khi làm một cuộc động binh, hắn sẽ cần phải tìm cho ra được điều này.

    Mặt lầm lì, Berger tắt tivi và máy VCR sau khi xem cuộc phỏng vấn mình trước rồi tới Vanger. Đã là 2 giờ 45 phút sáng; cô phải nén cơn thèm gọi Blomkvist. Anh bị giam, xem ra khó lòng được phép giữ điện thoại di động. Cô về nhà quá muộn, chồng cô đã ngủ. Cô đi đến quầy rượu, rót lấy một cốc to rượu mạch nha Aberlour suất đơn – mỗi năm cô uống rượu một lần – rồi ngồi bên cửa sổ nhìn qua Saltsjon sang nhà đèn ở cửa eo biển Skuru.

    Sau ký thỏa thuận với Vanger, khi chỉ còn hai người, cô và Blomkvist đã cãi nhau ầm ĩ. Họ đã trải qua nhiều cuộc tranh cãi kịch liệt về việc lên trang cho một bài báo đặc biệt, về mẫu thiết kế của tạp chí, về đánh giá mức tin cậy của các nguồn tin và về trăm thứ bà dằn khác liên quan đến việc cho ra một tờ tạp chí. Nhưng cuộc cãi nhau ở nhà khách của Vanger đã chạm đến các nguyên tắc khiến cô nhận thấy mình đang đứng ở trên một miếng đất rung rinh.

    - Anh không biết làm gì bây giờ. – Blomkvist nói. – Người này thuê anh giả vờ viết tự truyện của ông ta. Cho đến nay, dù ông ta cố buộc anh viết một cái gì đó giả dối hoặc cố thuyết phục anh viết trẹo câu chuyện đi theo cái cách không hợp với anh thì anh vẫn được tự do và có thể bỏ đi. Bây giờ ông ta là chủ đồng sở hữu của tạp chí chúng ta – và là người duy nhất có nguồn lực cứu được Millennium. Thình lình anh hóa ra chung chiêng ở giữa, trong tư thế mà các nhà đạo đức học chuyên nghiệp sẽ chẳng bao giờ lại tán thành.

    - Anh có ý nào hay hơn không? – Berger hỏi. – Vì nếu có thì cứ nói thẳng nó ra để còn đánh máy hợp đồng và ký chứ.

    - Erika, Vanger đang lợi dụng chúng ta trong một kiểu trả thù cá nhân chống lại Wennerstrom.

    - Vậy thì sao? Chính chúng ta cũng cần trả thù Wennerstrom.

    Blomkvist quay đi châm thuốc lá.

    Chuyện trò của hai người kéo dài một lúc kha khá cho đến khi Berger vào phòng ngủ, cởi quần áo, leo lên giường. Hai giờ sau anh đến nằm bên, cô vờ ngủ.

    Tối hôm ấy, một phóng viên của tờ Dagens Nyheter hỏi cô một câu tương tự:

    - Khẳng định mình là độc lập thì Millennium có thể đáng tin đến đâu?

    - Anh muốn nói gì?

    Người phóng viên nghĩ câu hỏi đã đủ rõ nhưng dẫu sao vẫn nói lại một lần nữa.

    - Một trong những mục tiêu của Millennium là điều tra các tập đoàn công ty. Tạp chí sẽ còn có thể đáng tin cậy khi nói rằng nó đang điều tra Tập đoàn Vanger không?

    Berger ngạc nhiên nhìn anh ta tựa như cô hoàn toàn không ngờ lại có thể có câu hỏi này.

    - Anh định ám chỉ rằng mức độ tin cậy của Millennium đã bị giảm sút vì một nhà tài chính nổi tiếng với tài sản lớn đã bước vào cùng làm chủ phải không?

    - Bây giờ bà không thể điều tra Tập đoàn Vanger mà vẫn còn được tin cậy nữa.

    - Đây là một quy tắc áp dụng đặc biệt với Millennium thôi hay sao?

    - Xin lỗi?

    - Ý tôi là anh làm việc cho một tờ báo mà phần lớn là do các thực thể công ty sở hữu. Như thế phải chăng có nghĩa là bất cứ báo nào do Tập đoàn Bonnier phát hành thì đều không đáng tin hay sao? Sở hữu tờ Aftonbladet là một tập đoàn Na Uy đồ sộ, tập đoàn này cũng lại là người chơi chủ yếu trong IT và truyền thông – phải chăng cái này có nghĩa là những gì Aftonbladet đăng lên về công nghiệp điện tử đều không đáng tin cậy? Chủ sở hữu của Metro là Tập đoàn Stenbeck. Anh có muốn nói rằng ở Thụy Điển không tờ báo nào có lợi ích kinh tế lớn ở đằng sau mà lại đáng tin cậy cả không?

    - Không, dĩ nhiên không rồi.

    - Vậy sao anh lại vòng vo ám chỉ rằng mức độ tin cậy của Millennium sẽ bị giảm sút vì có người ủng hộ chúng tôi?

    Người phóng viên giơ hai tay lên trời.

    - OK, tôi rút câu hỏi ấy lại.

    - Không. Đừng làm thế. Tôi muốn các anh in ra đúng những gì tôi nói mà thôi. Và anh có thể thêm vào là nếu DN hứa tập trung nhiều hơn một ít vào Tập đoàn Vanger thì chúng tôi cũng sẽ tập trung hơn một ít vào Tập đoàn Bonnier.

    Nhưng đây là thế tiến thoái đều khó về đạo đức.

    Blomkvist làm việc cho Henrik Vanger, người ở vị trí vẩy bút một cái là Millennium chìm. Cái gì sẽ xảy ra nếu Blomkvist và Vanger trở thành kẻ thù?

    Và trên hết, cô đã đặt giá bao nhiêu cho sự tin cậy của bản thân cô và từ khi nào, từ một biên tập viên độc lập cô đã trở thành một biên tập viên “hư hỏng”?

    Salander tắt trình duyệt máy tính và đóng iBook của cô lại. Cô đang không có việc và đói. Tình cảnh trên không làm cô lo phiền nhiều lắm vì cô đã lấy lại quyền cai quản tài khoản ở ngân hàng và Bjurman đã gánh lấy cái quy chế về quá khứ khó chơi của cô. Cô xử lý cái đói bằng mở cho máy pha cà phê chạy. Cô làm ba miếng sandwich to tướng bằng bánh mì đen kẹp với pho mát, trứng cá cavia và một quả trứng luộc. Cô vừa ăn bữa khuuya trên ghế sofa ở phòng khách vừa làm việc với đống thông tin mới thu nhặt được.

    Luật sư Frode ở Hedestad thuê cô điều tra Mikael Blomkvist, nhà báo bị tù vì vu cáo nhà tài chính Hans-Erik Wennerstrom. Vài tháng sau, Henrik Vanger, cũng ở Hedestad, vào ban lãnh đạo tờ tạp chí của Blomkvist, tuyên bố có một âm mưu muốn nghiền nát tờ tạp chí. Tất cả cùng diễn ra trong cái ngày nhà báo vào tù. Hấp dẫn nhất là một bài báo từ hai năm trước – “Với hai bàn tay trắng” – về Hans-Erik Wennerstrom mà cô tìm thấy trong tờ Monopoly Financial phát hành trên mạng. Hình như anh ta bắt đầu nghề báo cũng ở trong cái Tập đoàn Vanger hồi cuối những năm 60.

    Bạn không cần là một nhà khoa học về tên lửa để nhìn thấy các sự kiện này là có phần nào liên quan nhau. Phải có cả đến một bộ xương người ở trong tủ của họ mất và Salander thích săn lùng các bộ xương. Hơn nữa vì hiện nay cô chả có việc quái gì để mà làm.

  8. #17
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 15

    Thứ Sáu, 16 tháng Năm
    Thứ Bảy, 31 tháng Năm

    Thứ Sáu, 16 tháng Năm, Mikael Blomkvist ra khỏi nhà tù Rullaker sau hai tháng được nhận vào đó. Cũng hôm anh vào đây, anh đã làm, chả có mấy lạc quan, bản cam kết giữ kỷ luật nhà tù. Lý do nào đứng ở sau việc tha anh, điều ấy anh không bao giờ hiểu hết nhưng nó có thể liên quan gì đó tới việc anh không hề xin nghỉ phép tới việc danh sách tù nhân là bốn mươi hai mà số giường lại có ba mươi mốt. Muốn gì thì người coi tù- Peter Sarowsky, một người Ba Lan lưu vong bốn mươi tuổi- mà Blomkvist cánh hẩu với, chắc đã viết nhận xét nên rút ngắn hạn tù của anh đi.

    Thời gian ở trong tù anh không bị căng thẳng mà còn khá vui. Sarowsky cho hay nhà tù được thiết kế cho đám gây gổ phá quấy và những dân lái xe say rượu chứ không phải cho đám tội phạm hình sự lõi nghề. Nề nếp thường ngày khiến anh nhớ đến lúc sống ở một ký túc xá thanh niên. Các bạn tù, một nửa là những thế hệ dân nhập cư thứ hai, nhìn Blomkvist như một loài chim lạ ở trong bầy. Anh là người tù duy nhất xuất hiện trong bản tin truyền hình, điều đã cho anh một địa vị nhất định nào đó.

    Ngày đầu tiên, anh được gọi đến nói chuyện và được tổ chức Khôngmvux chữa bệnh, chỉ bảo hay tạo cho cơ hội học hành dành cho người lớn tuổi cũng như tư vấn nghề nghiệp. Anh không cảm thấy có chút nhu cầu rèn cặp nào để trở lại với xã hội, anh nghĩ anh đã được học hành và có nghề nghiệp rồi. Mặt khác, anh đề nghị được giữ iBook ở trong xà lim để anh có thể tiếp tục làm quyển sách đã nhận viết cho người ta. Yêu cầu của anh được thỏa mãn không khó khăn. Sarowsky còn thu xếp mang đến cho anh một chiếc tủ khóa để cất máy tính ở trong xà lim. Không phải vì một bạn tù nào có thể lấy cắp hay phá hay một chuyện gì đại loại mà với anh, họ luôn giữ một con mắt bảo vệ. Cứ kiểu đó Blomkvist qua hai tháng làm việc chừng sáu giờ một ngày cho quyển biên niên của gia đình Vanger, công việc chỉ bị ngừng lại chút ít để làm vệ sinh và giải trí hàng ngày. Blomkvist và hai người khác, một ở Skhôngvde đến và một gốc rễ tận Chile, được phân công quét dọn nhà thể dục thể thao mỗi ngày. Giải trí thì có xem tivi, đánh bài hay tập vật. Blomkvist phát hiện mình là một tay chơi poker khá nhưng ngày nào anh cũng bị thua một ít tiền. Nội quy cho phép đánh ăn tiền nếu tổng số tiền đánh không quá năm curon. Trước ngày được tha một hôm anh mới được báo. Sarowsky gọi anh đến văn phòng và hai người đụng cốc rượu aquavit mừng với nhau.

    Blomkvist đi thẳng về căn nhà gỗ nhỏ ở Hedestad. Khi đi tới bậc tam cấp anh nghe thấy tiếng meo meo và con mèo nâu đỏ đã hộ tống anh.

    - OK, mày có thể vào,- anh nói,- Nhưng tao không còn sữa đâu nhá.

    Anh dỡ đồ khỏi túi. Tựa như anh đang nghỉ lễ và anh thấy thật tình nhớ những ngày tháng gần gũi với Sarowsky và các bạn tù. Có vẻ như phi lý song quả là anh đã sống vui vẻ ở Rullaker, việc phóng thích anh đến quá đột ngột khiến anh không kịp cho ai hay biết.

    Vừa sau 6 giờ tối. Anh vội đến Khôngnsum để mua thực phẩm đồ dùng e nó đóng cửa. Khi về nhà, anh gọi Berger. Một tin nhắn nói hiện thời cô không có mặt. Anh bảo cô ngày mai gọi anh.

    Rồi anh đi đến nhà người mướn anh. Anh thấy ông già ở tầng trệt. Trông thấy Mikael, ông già ngạc nhiên nhướng lông mày lên.

    - Trốn ư?

    - Tha sớm.

    - Lạ đấy.

    - Lạ cả với tôi.

    Hai người nhìn nhau một thoáng. Rồi ông già làm Blomkvist ngạc nhiên khi ông dang tay ra ôm lấy anh.

    - Tôi sắp sửa ăn đây. Đi với tôi.

    Anna mang lên nhiều bánh kếp nhân thịt và dâu rừng. Họ ngồi trong phòng ăn chuyện trò gần hai giờ, Blomkvist cho biết anh làm biên niên gia đình đã đến đâu và vẫn có những lỗ thủng và khoảng cách. Họ không nói gì đến Harriet nhưng Vanger đã kể hết với anh chuyện về Millennium.

    - Chúng tôi đã có một cuộc họp tòa soạn. Cô Berger và đối tác Malm của anh khá tốt nên đã đến đây họp hai lần còn Dirch thì thay mặt tôi dự một cuộc họp ở Stockholm. Tôi thật lòng mong trẻ hơn vài tuổi nhưng thật là đi xa thì quá mệt với tôi. Tôi sẽ cố đi xuống dưới đó mùa hè này.

    - Chả có lý do nào mà phải họp ở trên này. – Blomkvist nói. – Vậy làm chủ sở hữu một phần tạp chí rồi thì ông thấy sao?

    Henrik mỉm cười giễu.

    - Bao nhiêu năm rồi mới có một điều thú vị nhất ấy. Tôi đã ngó vào tài chính, thấy khá là sòng phẳng. Tôi sẽ không phải bỏ nhiều tiền vào như tôi nghĩ, khoảng cách giữa thu và chi đang co hẹp lại.

    - Tôi đã nói chuyện với Erika tuần này. Cô ấy nói số đối tác thuê quảng cáo đã tăng lên.

    - Đã bắt đầu chạy đều nhưng còn phải cần thời gian. Thoạt tiên là các công ty của Tập đoàn Vanger mua một loạt các trang quảng cáo. Nhưng hai đối tác thuê quảng cáo trước kia- điện thoại di động và đại lý du lịch - đã trở lại. – Ông cười toét. – Chúng ta cũng đang chen lên chút ít với từng đứa một trong đám kẻ thù của Wennerstrom. Và tin tôi đi, danh sách này dài đấy.

    - Ông có trực tiếp thấy gì từ phía Wennerstrom không?

    - À, thật sự thì không. Nhưng chúng tôi xì ra câu chuyện Wennerstrom đang tổ chức một cuộc bao vây Millennium. Cái này chắc sẽ làm cho lão lộ mặt đê tiện ra. Nghe nói một phóng viên ở DN đã liên hệ được với lão và bị lão hằm hằm trả lời.

    - Ông thú chuyện này, đúng không?

    - Chữ thú không trúng. Tôi nên dấn chân vào chuyện này nhiều năm trước rồi mới phải.

    - Giữa ông và Wennerstrom có chuyện gì đấy?

    - Đừng có cố mà moi. Cuối năm nay anh sẽ thấy thôi.

    9 giờ khi Blomkvist rời nhà Henrik, trong không khí có một cảm giác rõ rệt tiết xuân. Bên ngoài trời tối, anh do dự một lát. Rồi anh trở lại cung đường quen thuộc đến gõ cửa nhà Cecilia Vanger.

    Anh không ngờ tới điều anh sắp thấy. Cecilia mở to mắt và lập tức nom không thoải mái khi để anh vào nhà. Hai người đứng đó, thình lình không cầm chắc được về nhau. Chị cũng hỏi anh vượt ngục phải không và anh nói rõ sự thể.

    - Tôi chỉ đến chào. Tôi có làm công việc bị ngắt không?

    Chị tránh mắt anh. Mikael thấy ngay là chị không đặc biệt vui khi gặp anh.

    - Không…không, vào đi. Anh muốn cà phê không?

    - Muốn.

    Anh theo chị vào bếp. Chị quay lưng lại anh trong khi đổ nước vào máy pha cà phê. Anh đặt một tay lên vai chị, chị cứng ngay người lại.

    - Cecilia, xem vẻ chị không muốn mời tôi cà phê đâu.

    - Tôi không chờ anh, tưởng một tháng nữa cơ, - Chị nói. – Anh làm tôi ngạc nhiên.

    Anh quay người chị lại để nhìn được vào mặt chị. Họ đứng lặng một lúc. Chị vẫn không nhìn vào mắt anh.

    - Cecilia, quên cà phê đi. Có chuyện gì thế?

    Chị lắc đầu, thở dài.

    - Mikael, tôi muốn anh đi đi. Đừng hỏi. Cứ đi đi thôi.

    Đầu tiên Mikael về căn nhà gỗ nhỏ, nhưng dừng lại ở cổng ngoài, phân vân. Thay vì vào nhà, anh lại qua cầu đi xuống bờ nước, ngồi lên một tảng đá. Anh hút một điếu thuốc, soát lại các ý nghĩ của mình và nghĩ cái gì đã có thể thay đổi được thái độ của Cecilia đối với anh ghê gớm đến thế.

    Đột nhiên anh nghe thấy tiếng máy nổ và trông thấy một con tàu to màu trắng lướt vào eo biển bên dưới cây cầu. Khi nó đi qua, Mikael trông thấy Martin đứng cầm lái, mắt chăm chú nhìn để tránh đá ngầm dưới nước. Đây là tàu động cơ đi biển gần mười lăm mét, một vật mang sức mạnh đáng nể. Anh đứng lên đi vào con đường bờ biển. Anh phát hiện thấy nhiều tàu đã đang ở các bến khác nhau trong vùng nước, một mớ lẫn lộn những tàu buồm và tàu máy. Cô nhiều tàu Petersson, ở một bên là một du thuyền yatch loại IF đang dập dềnh theo lằn nước. Những tàu khá là những chiếc lớn hơn, đắt tiền hơn. Anh để ý thấy một chiếc Hallberg-Rassy. Các con tàu cũng chỉ ra sự phân chia hơn kém của của bến du thuyền ở Hedestad – không nghi ngờ gì là Martin Vanger có con tàu lớn nhất và lộng lẫy nhất.

    Anh dừng lại trước cửa nhà Cecilia Vanger, liếc trộm lên cửa sổ thắp sáng ở tầng trên cùng. Rồi về nhà pha cà phê cho mình. Anh vào phòng làm việc chờ cà phê ngấm.

    Trước khi tự tìm đến trình diện ở nhà tù, anh đã trao lại tất cả tư liệu về Harriet. Khôn ngoan ra thì không để chúng ở lại tại một căn nhà trống không. Nay các giá sách nom trần trụi. Trong kho các báo cáo, anh chỉ có năm sổ tay của chính Henrik Vanger còn những cái anh mang theo đến nhà tù thì nay anh đã thuộc lòng. Anh để ý thấy ở trên giá trên cùng một quyển album anh để quên ở đó, anh mang nó ra bàn nhà bếp. Anh rót cà phê và bắt đầu xem quyển album. Đó là những ảnh chụp ngày Harriet mất tích. Bức đầu tiên là cái ảnh cuối cùng của Harriet, trong cuộc diễu hành Ngày trẻ con ở Hedestad. Rồi có vài ảnh rất rõ về hiện trường vụ xe đâm nhau trên cầu. Trong nhiều dịp trước kia, anh đã xem xét từng chiếc bằng cả kính phóng lớn. Nay anh gần như lơ đãng lật giở các trang; anh biết anh sẽ chẳng tìm ra được một bức nào mà anh chưa từng xem qua. Anh chợt cảm thấy bận tâm thật tình đến vụ mất tích không thể giải thích của Harriet Vanger và đóng sập quyển album lại.

    Bồn chồn anh đến bên cửa sổ nhà bếp nhìn vào bóng tối.

    Rồi anh đảo mắt về lại quyển album. Anh không giải thích được cái cảm giác nhưng một ý nghĩ vụt lướt qua đầu anh tựa như anh vừa phản ứng lại với một cái gì anh mới trông thấy. Nó giống như một tạo vật vô hình nào vừa thì thào bên tai anh khiến tóc gáy anh dựng đứng.

    Anh mở quyển album. Anh xem kỹ từng trang, xem từng chiếc ảnh về cây cầu. Anh nhìn tấm ảnh về Henrik Vanger trẻ hơn đang hót dầu và một Harald trẻ hơn, một người mà anh chưa hề gặp. Thành lan can cầu gẫy, các cao ốc, các cửa sổ và những xe cộ nhìn thấy trong các tấm ảnh. Anh không nhận ra được Cecilia hai mươi tuổi ở giữa đám người đứng xem. Cô mặc cái váy liền áo màu sáng và một jacket thẫm màu, hầu như có mặt ở trong ít nhất hai chục tấm ảnh.

    Anh cảm thấy mình đang vừa mới bị kích động, qua nhiều năm Blomkvist đã học được là hãy tin ở bản năng của mình. Các bản năng này đang phản ứng lại với một cái gì đó trong quyển album nhưng anh không thể nói ra nó là cái gì.

    11 giờ anh vẫn ở bên bàn bếp xem kỹ từng bức ảnh một thì nghe tiếng cửa mở.

    - Tôi vào được không?

    Đó là Cecilia Vanger. Không chờ trả lời, chị ngồi xuống đối diện anh ở bên kia bàn. Blomkvist có một cảm giác là lạ về một điều gì anh từng quen quen. Chị mặc một váy liền áo mỏng, suông và sáng màu cùng một jacket lơ xám, các thứ gần như giống với váy áo chị mặc trong các bức ảnh từ 1966.

    - Anh thành vấn đề mất rồi đấy.- Chị nói.

    Blomkvist nhướng lông mày.

    - Xin lỗi, hồi tối anh đến gõ cửa đã làm tôi ngạc nhiên. Nay tôi khổ tâm quá không ngủ nổi.

    - Tại sao chị khổ tâm?

    - Anh còn không biết sao?

    Anh lắc đầu.

    - Anh hứa là tôi nói ra thì không cười nhé.

    - Hứa.

    - Mùa đông vừa rồi tôi quyến rũ anh là đã làm một việc ngu ngốc, bốc đồng. Tôi chỉ muốn hưởng thụ, có thế thôi. Đêm đầu tôi uống rượu khá say và hơn nữa, tôi không định bắt đầu một cái gì lâu dài với anh. Rồi hóa ra khác. Tôi muốn anh biết rằng trong đời tôi những tuần cùng anh, người tình thoảng qua, là sung sướng nhất.

    - Tôi cũng nghĩ nó hay.

    - Mikael, tôi nói dối anh và cả với tôi. Tôi không hề thanh thản về tình dục. Tôi đã có năm bạn tình. Một là khi tôi hai mươi mốt và lần đầu có chuyện. Rồi với chồng tôi, tôi gặp ông ta năm hai mươi lăm và ông ta quay ra là một kẻ xấu. Rồi một ít thời gian với ba người mà tôi gặp riêng rẽ trong vài năm một. Nhưng anh đã khơi lên ở trong tôi một cái gì. Đơn giản là tôi không thể thỏa mãn. Có một cái gì đó liên quan đến việc anh không quá đòi hỏi.

    - Cecilia, không cần phải…

    - Suỵt, chớ chặn lời, nếu không tôi không nói được với anh điều này.

    Blomkvist ngồi im.

    - Hôm anh đi tù, tôi vô cùng thảm hại. Anh đi, cứ y như anh chưa từng tồn tại bao giờ. Nhà khách đây tối om. Giường tôi trống không và lạnh. Và tôi, một mẹ nạ dòng năm mươi sáu.

    Chị im lặng một lát rồi nhìn vào mắt Blomkvist.

    - Mùa đông vừa rồi tôi phải lòng anh. Tôi không muốn nhưng nó đã xảy ra. Và rồi tôi đánh giá lại và hiểu ra là anh ở đây cũng chỉ tạm bợ thôi, một ngày nào đó anh sẽ bỏ đi mãi mãi còn tôi thì ở lại đây suốt đời. Tôi đau khổ quá cho nên quyết định không cho anh vào nhà nữa khi anh ở tù ra.

    - Tôi xin lỗi.

    - Không phải lỗi của anh. Hồi nãy khi anh đi, tôi ngồi khóc. Tôi mong có cơ hội lại sống được cuộc đời mình. Rồi tôi quyết định một điều.

    - Là gì?

    Chị nhìn xuống bàn.

    - Chỉ vì một ngày nào đó anh bỏ đây đi mà thôi anh thì tôi điên lên mất. Mikael, chúng ta có bắt đầu lại được không? Anh có thể quên chuyện xảy ra hồi đầu hôm không?

    - Đã quên rồi. – Anh nói. – Nhưng cảm ơn vì đã nói với tôi.

    Chị vẫn nhìn xuống gầm bàn.

    - Nếu anh còn muốn tôi thì chúng ta hãy cùng nhau.

    Chị lại nhìn anh. Rồi chị đứng lên đi đến phòng ngủ. Chị vứt jacket xuống sàn, vừa đi vừa kéo váy lên qua đầu.

    Blomkvist và Cecilia Vanger thức dậy khi cửa chính mở ra và một ai đó đang đi qua bếp. Họ nghe thấy tiếng một vật gì nặng buông xuống gần lò bếp. Rồi Berger đứng ở ngưỡng phòng ngủ mỉm cười, nhưng nụ cười mau chóng biến ra thành bàng hoàng.

    - Ôi trời. – Cô lùi lại một bước.

    - Chào, Erika, - Blomkvist nói.

    - Chào, tôi rất xin lỗi. Tôi xin lỗi nghìn lần vì đã xộc vào như thế này. Tôi lẽ ra phải gõ cửa.

    - Bọn này lẽ ra phải khóa cửa chính. Erika, đây là Cecilia Vanger. Cecilia, Erika Berger là Tổng biên tập của tạp chí Millennium.

    - Chào. – Cecilia nói.

    - Chào. – Berger nói. Trông cô lúng túng như không dứt khoát được là lịch sự bắt tay hay bỏ đi. – Ơ…, tôi có thể đi bộ một lúc.

    - Không đi bộ mà đi chuẩn bị cà phê có được không? – Blomkvist nhìn đồng hồ báo thức trên bàn đầu giường. Đã quá trưa.

    Berger gật đầu rồi đóng cửa buồng ngủ lại. Blomkvist và Cecilia nhìn nhau. Chị nom bối rối. Họ đã làm tình và trò chuyện đến 4 giờ sáng. Rồi Cecilia nói chị nên ngủ lại và rồi mai đây có dân ba lăng nhăng nào biết chị đã ngủ với Mikael Blomkvist thì chị cũng cứ là tỉnh khô. Chị đã quay lưng lại anh còn anh thì hai tay ấp lấy chị.

    - Nghe nhé, - anh nói. – Eriaka đã có chồng và không phải bạn tình của tôi. Thỉnh thoảng bọn này gặp nhau nhưng chúng ta có gì thì cô ấy cũng không bận tâm gì hết…Bây giờ chắc cô ấy đang cảm thấy ngượng.

    Một lát sau khi họ vào bếp, Erika đã bày ra cà phê, nước quả, mứt chanh, pho mát và bánh mì nướng. Trông đã thấy ngon. Cecilia đi thẳng đến Erika chìa tay ra.

    - Tôi ở đây bất ngờ quá. Chào.

    - Cecilia thân mến, tôi xin lỗi là đã đâm xầm vào như một con voi. – Erika nói với vẻ rất ngượng.

    - Hãy quên đi vì Chúa. Mà thôi, ăn sáng với nhau đi đã.

    Sau điểm tâm, Berger xin lỗi nói phải đi chào Henrik Vanger, để hai người ở lại. Cecilia dọn bàn, quay lưng lại Mikael. Anh đã đi đến ôm lấy chị.

    - Bây giờ thì thế nào đây? – Cecilia nói.

    - Chả thế nào. Là thế đấy – Erika là bạn tốt nhất của tôi. Hai chục năm nay bọn này vẫn cứ lúc thân sơ với nhau và chắc vẫn cứ như thế trong hai chục năm nữa. Tôi hy vọng như vậy. Nhưng bọn này chưa bao giờ là một đôi và cũng không bao giờ thọc vào chuyện tình tang của nhau.

    - Cái chúng ta đang có đây là gì? Tình tang chứ?

    - Tôi không biết là gì nhưng xem ra chúng ta ăn ý với nhau.

    - Tối nay cô ấy ngủ đâu?

    - Chúng ta sẽ tìm một chỗ nào đó cho cô ấy. Một trong những phòng để không của Henrik. Muốn gì thì cô ấy cũng sẽ không ngủ ở giường tôi cơ mà.

    Cecilia nghĩ một lúc.

    - Không biết tôi có xử lý được không. Anh và cô ấy thì có thể nhưng tôi thì không biết… tôi không… - Chị lắc đầu. – Tôi về lại chỗ của tôi, tôi cần nghĩ về chuyện này một lát.

    - Cecilia, từ đầu chị đã hỏi và tôi đã nói với chị về quan hệ của tôi với Erika. Với chị, việc cô ấy không có gì đáng ngạc nhiên ghê gớm đến thế.

    - Đúng. Nhưng chừng nào cô ấy ở Stockholm, xa tít tận dưới kia thì tôi còn có thể lờ cô ấy đi được.

    Cecilia mặc jacket vào.

    - Cảnh này nhố nhăng. – Chị mỉm cười nói. –Tối nay đến ăn tối, mang Berger đến, tôi nghĩ tôi bắt đầu thích cô ấy.

    Erika đã giải quyết chuyện ngủ ở đâu. Trước đây trong các dịp đến Hedeby thăm Vanger cô đã ở một trong những buồng để không của ông và cô đã hỏi thẳng là có thể mượn của ông được không. Henrik khó giấu được vui mừng, ông cam đoan với cô là bất cứ lúc nào cô đều được hoan nghênh.

    Các thủ tục này không còn là vấn đề, Blomkvist và Berger đi bộ qua cầu, vào ngồi ở sân trời của quán Cà phê & bánh đầu cầu Susanne ngay trước giờ đóng cửa.

    - Em thật là ngu, - Berger nói. –Lái xe từng ấy đường đất lên để mừng anh trở về với tự do thì lại thấy anh trên giường với người đàn bà định mệnh của thị trấn.

    - Anh xin lỗi.

    - Anh với quý bà ấy đã bao lâu… -Berger ngoáy ngoáy ngón tay trỏ.

    - Khoảng từ lúc Henrik Vanger thành chủ chung.

    - À…à…

    - À à là thế nào?

    - Tò mò thôi.

    - Cecilia là người tốt. Anh thích chị ấy.

    - Em không phê phán, em chẳng qua là ngu thế thôi. Mỡ đến mồm thì lại bỏ đi ăn chay. Tù sao?

    - Như một kỳ nghỉ lễ bình an vô sự. Công việc ở tạp chí thế nào?

    - Tốt lên. Lần đầu tiên trong năm, thu nhập về quảng cáo tăng. Năm ngoái chúng ta tụt dốc thì nay đã thay đổi, nhờ Henrik. Nhưng lạ là khách hàng đặt mua báo cũng tăng lên chứ.

    - Có vẻ họ đang dao động.

    - Ở mọi mặt. Nhưng trong quý vừa rồi chúng ta có được những ba nghìn khách hàng đặt mua báo. Mới đầu em nghĩ chỉ là may nhưng các khách hàng đặt mua mới cứ tiếp tục tăng thêm. Xưa nay trong chuyện đặt mua báo thì đây là cú nhảy vọt lớn nhất. Đồng thời các khách hàng vẫn đặt mua cũng đang qua ban biên tập mà thường xuyên đổi mới tạp chí. Không ai trong chúng ta hiểu được chuyện này. Chúng ta không mở lấy một chiến dịch quảng cáo nào. Christer bỏ cả tuần ra làm sơ đồ chấm điểm xem ở mục này loại khách hàng nào xuất hiện. Thứ nhất, họ đều là những khách hàng mới toe đặt mua báo. Thứ hai, 70 phần trăm trong đó là phụ nữ. Thường là khác đấy. Thứ ba, có thể nói các khách hàng đặt mua báo này đều là viên chức có thu nhập trung bình ở ngoại thành: giáo viên, tầng lớp quản lý bậc trung, viên chức dân sự.

    - Nghĩ xem, tầng lớp trung lưu nổi lên chống tư sản gộc nhỉ?

    - Em không biết. Nếu đà này duy trì thì có nghĩa là diện mạo người đặt mua báo có thay đổi lớn. Hai tuần trước họp ban biên tập bọn này quyết định bắt đầu mở các mục mới trên tạp chí. Em muốn có nhiều hơn những vấn đề về công ăn việc làm gắn với TCO, Hội liên hiệp những Người làm thuê có tay nghề, cũng như các phóng sự điều tra về các vấn đề của phụ nữ, đại khái là vậy.

    - Đừng thay đổi quá nhiều, - Blomkvist nói. – Nếu có nhiều người đặt mua báo hơn lên thì có nghĩa họ thích cái chúng ta đang làm ở trên báo rồi đó.

    Cecilia mởi cả Henrik Vanger ăn tối, có thể là để tránh bớt nguy cơ một số đề tài chuyện trò dễ gây rắc rối. Chị làm món nai om.

    Berger và Henrik bỏ khá nhiều thời gian bàn việc phát triển Millennium và các khách hàng đặt mua báo mới, nhưng chuyện trò đã chuyển dần sang các vấn đề khác. Đến một lúc, Berger bỗng quay sang Blomkvist hỏi công việc anh ra sao.

    - Tôi tính một tháng nữa thì xong bản thảo về biên niên gia đình để Henrik Vanger xem.

    - Một biên niên theo tinh thần của gia đình Addams. – Cecilia nói.

    - Nó cũng có một vài khía cạnh lịch sử nhất định đấy. – Blomkvist nhượng bộ.

    Cecilia liếc sang Vanger.

    - Mikael, Henrik không thật sự quan tâm đến biên niên gia đình đâu. Thật ra chú ấy muốn anh giải đáp bí mật vụ Harriet mất tích.

    Blomkvist không nói không rằng. Từ khi bắt đầu quan hệ với Cecilia anh nói với chị khá công khai về Harriet. Cecilia đã suy luận đó mới là công việc giao cho anh cho dù anh chưa bao giờ chính thức thừa nhận. Chắc chắn anh không bao giờ nói với Henrik rằng anh và Cecilia đã bàn tới chuyện này.

    Cặp lông mày chổi xể của Henrik hơi rúm lại, Erika im lặng.

    - Chú Henrik thân mến, - Cecilia nói. – Cháu không ngu. Cháu biết chú với Mikael đã thỏa thuận gì cho nhau nhưng anh ấy ở đây là về Harriet. Có đúng không?

    Vanger gật đầu và liếc nhanh Blomkvist.

    - Tôi đã cảnh báo anh là lưỡi cô ấy bén mà. – Ông quay sang Berger. – Tôi cho rằng Blomkvist đã nói rõ với cô việc anh ấy đến làm ở Hedeby đây.

    Cô gật đầu.

    - Và tôi cho rằng cô thấy đó là một việc vô nghĩa. Không, cô không cần trả lời. Đây là một nhiệm vụ ngớ ngẩn và vô nghĩa. Nhưng tôi cần phải tìm cho ra.

    - Tôi không có ý kiến về chuyện này. – Berger trả lời xã giao.

    - Với cô dĩ nhiên là có đấy. – Ông quay sang Blomkvist. – Bảo xem anh đã tìm ra được một cái gì có thể đưa chúng ta tiến lên chưa.

    Blomkvist tránh cái nhìn của Henrik. Anh lập tức nghĩ tới cái sự quả quyết lạnh băng, dẫu chưa thể phân xử sai đúng mà anh đã có đêm qua. Cảm giác ấy theo anh suốt ngày nhưng anh không có thì giờ để làm theo cách của anh qua quyển album nữa. Cuối cùng anh ngước lên nhìn Vanger rồi lắc đầu.

    - Tôi chưa tìm ra cái gì đặc biệt cả.

    Đôi mắt lục lọi của ông già nhìn rọi vào anh. Ông kìm lại không bình luận.

    - Các bạn trẻ, tôi không hiểu các bạn. - Ông nói. – Nhưng với tôi thì đã đến giờ đi nằm. Cảm ơn bữa ăn, Cecilia. Chúc ngủ ngon, Erika. Mai gặp tôi trước khi đi nhé.

    Vanger đóng cửa chính lại rồi, tất cả đám họ đều chìm trong im lặng. Cecilia nói trước tiên.

    - Mikael, tất cả là về chuyện gì thế nhỉ?

    - Nghĩa là Henrik nhạy cảm với các phản ứng của con người như một cái máy đo địa chấn vậy. Hôm qua lúc chị đến tôi, tôi đang xem kỹ một tập album.

    - Thế à?

    - Tôi nhìn thấy một cái gì đó nhưng tôi chưa biết đó là cái gì. Nó là một cái gì gần như đã thành ra một ý nghĩ nhưng tôi đã để lọt mất.

    - Vậy anh đã nghĩ đến cái gì?

    - Tôi thật không thể nói được. Chị đến đúng lúc ấy.

    Cecilia đỏ mặt. Tránh mắt Berger nhìn mình, chị đi ra pha cà phê.

    Đó là một ngày nắng ấm. Những mầm xanh mới đã ló và Blomkvist bất chợt nhận thấy mình đang khẽ ư ử bài hát xưa về mùa xuân. Thời hoa nở đang đến. Hôm nay thứ Hai và Berger đã đi sớm.

    Giữa tháng Ba lúc anh đi tù, tuyết còn phủ kín đất. Nay đã trở lại xanh và thảm cỏ quanh căn nhà gỗ của anh mơn mởn. Lần đầu tiên anh có cơ hội nhìn thấy tất cả đảo Hedeby xa gần. 8 giờ anh đến mượn Anna một phích nước nóng. Anh nói qua qua với Vanger cũng vừa mới dậy và được ông đưa cho tấm bản đồ đảo của ông. Anh muốn nhìn thật sát hơn căn nhà gỗ của Gottfried. Henrik bảo anh căn nhà này thuộc sở hữu của Martin Vanger nhưng quanh năm thường không có người ở đây. Thỉnh thoảng họ hàng có mượn đến nó.

    Blomkvist túm được Martin trước khi anh đi làm. Anh hỏi liệu có mượn chìa khóa được không. Martin cười vui vẻ:

    - Tôi cho rằng biên niên đang đến chương về Harriet.

    - Tôi chỉ là muốn nhòm một cái…

    Martin trở lại sau một phút với chiếc chìa khóa.

    - Thế này OK chưa?

    - Chừng nào tôi còn có liên quan thì nếu cần anh cứ đến đây. Phiền là nó nằm ở đầu đằng kia của đảo. Đúng nó là một điểm đẹp hơn cái căn nhà gỗ anh đang ở kia thật.

    Blomkvist làm cà phê và bánh kẹp. Anh lấy đầy một chai nước trước khi đi, nhét bữa ăn trưa của anh vào ba lô. Anh đi theo một lối mòn hẹp cỏ mọc um tùm mất một phần chạy men theo vịnh biển ở trên mạn bắc đảo Hedeby. Căn nhà gỗ củ Gottfried ở một mũi đất cách làng một dặm rưỡi và anh ung dung cất chân đến đó mất có một nửa giờ.

    Martin Vanger nói đúng. Khi Blomkvist đến khúc quành của con đường mòn hẹp, một vùng bóng râm cây cối mở ra ở cạnh biển. Có một cảnh quan tuyệt vời về cái phá con con của sông Hede, bến du thuyền Hedestad ở bên trái và bến công nghiệp ở bên phải.

    Anh ngạc nhiên thấy không ai nghĩ đến chuyện vào nhà Gottfried. Đó là một kiến trúc thô sơ làm bằng những súc gỗ ố đen nằm ngang với một mái ngói và một khung màu xanh cùng một cổng có mái ở trước cửa ra vào chính. Người ta đã quên trông coi căn nhà gỗ. Sơn ở cửa và cửa sổ đã bong thành mảng và chỗ chắc từng là thảm cỏ thì nay cỏ dại cao đến nửa mét. Dọn dẹp nó cũng phải mất một ngày làm bở hơi tai.

    Blomkvist mở cửa và tháo đinh ốc các cánh cửa chớp ở mặt trong cửa sổ ra. Nhà có vẻ là một kho chứa cũ không tới 400 mét vuông. Bên trong bằng ván gỗ, gồm có một buồng với các cửa sổ to hướng ra mặt nước ở hai bên cửa ra vào. Một cầu thang dẫn lên gác xép để ngủ không che kín ở cuối căn nhà và cái gác xép này trùm lên một nửa không gian căn nhà. Dưới cầu thang là một khoang có lò ga, một quầy bar và một chậu rửa. Đồ đạc cơ bản cần thiết, ẩn trong tường ở bên trái cửa ra vào, có một cái ghế dài, một bàn làm việc ọp ẹp và bên trên là một giá sách với các ngăn bằng gỗ tếch. Dưới xa hơn ở cùng bên là một tủ quần áo rộng. Ở bên phải cửa là một bàn tròn với năm chiếc ghế gỗ; một lò sưởi đứng ở giữa bức tường hông nhà.

    Căn nhà không có điện; thay vì có mấy cây đèn dầu hỏa. Trên bậu một cửa sổ có một cái radio bán dẫn Grunding cũ. Ăng ten gẫy rời. Blomkvist bấm nút mở máy nhưng pin đã hết.

    Anh lên cầu thang hẹp nhìn khắp cái gác xép. Có một giường đôi với tấm đệm trần, một bàn đầu giường và một tủ ngăn kéo.

    Blomkvist để một lúc lục lọi kỹ căn nhà gỗ. Bàn làm việc trống rỗng trừ vài cái chiếc khăn tay và vải thoang thoảng mùi mốc. Trong tủ quần áo có vài bộ quần áo lao động, một đôi áo khoác, ủng cao su, một đôi giày tennis cũ nát và một lò đốt bằng dầu hỏa. Trong các ngăn kéo bàn làm việc là giấy viết, bút chì, một cỗ bài và vài cái gài đánh dấu trang sách. Trong tủ bếp có đĩa, cốc vại, cốc thủy tinh, nến và vài gói muối, vài túi trà. Trong ngăn kéo bàn có các dụng cụ bếp núc.

    Anh tìm thấy những dấu vết duy nhất cho thấy sự quan tâm đến tri thức ở trên bàn làm việc. Mikael bắc một cái ghế để ngó lên giá sách. Ở ngăn dưới cùng có mấy số Se, Recordmagasinet, Tidsfordriv và Lektyr từ cuối những năm 50 và đầu 60. Có vài tờ báo hàng ngày từ 1965 và 1966, Matt Livs Novell, và một vài truyện tranh: Số 91, Những người ma và Những người Digan. Anh mở một tờ Lektyr từ 1964 rồi tủm tỉm cười thấy các cô gái gợi dâm nom trinh trắng quá.

    Chừng một nửa sách là bìa thường thuộc xe ri Manhaltan của Wahlstrom: Mickey Spillane với các đầu đề như Hôn em đi, Chết người với các bìa kinh điển của Bertil Hegland. Anh tìm thấy hơn chục sách của Kitty, bộ năm tiểu thuyết nổi tiếng của Enid Blyton, và Bí mật Tàu điện ngầm của Sivar Ahlrud. Anh tủm tỉm nhận ra chốn quen thuộc. Ba quyển của Astrid Lindgren: Những đứa con của Ngôi làng huyên náo, Kalle Blomkvist và Rasmus, và Pippi Tất dài. Ngăn trên cùng có một quyển sách hướng dẫn nuôi chim, một sách với tên Đế chế Xấu xa, một quyển về Chiến tranh Mùa đông của Thụy Điển, sách giáo lý của Luther, Sách về các Thánh ca, và Kinh thánh.

    Anh mở Kinh thánh, đọc trang bên trong: Harriet Vanger, 12 tháng Năm, 1963. Đây là Kinh thánh Xác chứng của cô gái. Anh bùi ngùi đặt nó trở về ngăn giá.

    Đằng sau căn nhà có một lán gỗ và dụng cụ với một lưới hái, cào, búa và một thùng to những cưa, bào và nhiều dụng cụ khác. Anh đem một chiếc ghế đến cổng có mái rồi rót cà phê ở trong phích ra. Anh châm một điếu thuốc lá và nhìn suốt vịnh Hedestad qua tấm màn che của những bụi cây thấp cằn.

    Căn nhà gỗ của Gottfried xuềnh xoàng hơn là anh tưởng. Đây là nơi mà Harriet và bố của Martin rút về khi hôn nhân của ông với Isabella đang tới đoạn cuối hồi những năm 50. Ông đã lấy căn nhà gỗ này làm nhà và ở đây ông đã rượu chè say sưa. Ông chết đuối dưới kia, gần cầu tàu. Sống ở căn nhà gỗ về mùa hè hẳn là dễ chịu, nhưng khi nhiệt độ tụt xuống dưới âm đóng băng thì chắc chắn phải lạnh buốt. Theo lời Henrik, Gottfried tiếp tục làm việc cho Tập đoàn Vanger cho tới năm 1964 – thời kỳ này thường bị gián đoạn vào những lúc ông say xỉn. Việc ông có thể ít nhiều vừa thường xuyên sống trong căn nhà gỗ này mà vẫn xuất hiện ở chỗ làm việc với râu ria cạo nhẵn, tắm rửa sạch sẽ, xúng xính trong áo jacket và cà vạt cũng đã cho thấy ông là người nghiêm khắc với bản thân mình tới mức nào. Và đây cũng là nơi Harriet thường hay ở đến mức họ đã đến đây tìm cô trước tiên. Vanger đã bảo anh rằng trong năm cuối cùng của mình, Harriet hay đến căn nhà gỗ, có vẻ để được yên tĩnh trong những ngày nghỉ lễ hay cuối tuần. Trong mùa hè cuối cùng, cô đã sống ba tháng ở đây tuy hàng ngày có vào làng. Anita Vanger, em của Cecilia, sống sáu tuần với cô ở đây.

    Khi chỉ có một mình ở đây thì cô đã làm gì? Các tạp chí Mitt Livs Novell và Người Digan cũng như một số sách về Kitty chắc phải là của cô. Có thể cả quyển vở nháp cũng là của cô. Và cuốn Kinh thánh của cô thì vẫn còn ở đây.

    Phải chăng cô muốn ở gần với ông bố đã khuất – có thể đó là thời kỳ tang lễ mà cô cần trải qua đầy đủ chăng? Hay có liên quan gì đến những suy ngẫm về tôn giáo của cô? Căn nhà gỗ đạm bạc - cô có ý sống ở trong một tu viện sao?

    Blomkvist đi theo bờ biển xuống phía đông nam nhưng đường luôn bị các khe núi cắt quãng và những bụi bách xù mọc đầy không thể vượt qua. Anh quay lại căn nhà gỗ và bắt đầu quay trở về Hedeby. Theo bản đồ thì có một đường mòn qua rừng đi đến một chỗ gọi là Pháo đài. Anh phải mất hai mươi phút để tìm thấy nó ở trong những bụi cây rậm rạp. Pháo đài là cái gì còn lại của tuyến phòng thủ bờ biển trong Đại chiến Thế giới thứ hai; những boong ke xi măng với những đường hào tỏa ra ở xung quanh một tòa nhà chỉ huy. Cỏ dày đặc và các bụi cây mọc trùm lên tất cả.

    Anh theo một con đường mòn xuống tới nhà tàu. Cạnh nhà tàu anh tìm thấy xác một con tàu Petersson bị đắm. Anh quay lại Pháo đài, theo một đường mòn đi đến một hàng rào – anh đã đến Ostergarden từ lối bên kia. Đường mòn khó đi – có những vạt xâm xấp nước buộc phải đi vòng. Cuối cùng anh đến một đầm lầy và qua đó là một nhà kho. Như mắt anh nhìn thấy thì con đường mòn chấm hết ở đó, cách đường đi Ostergarden chừng non trăm mét.

    Quả đồi Soderberget nằm ở bên kia đường. Blomkvist đi lên một con dốc dựng đứng và ở đoạn cuối thì phải trèo. Đỉnh đồi Soderberget là một vách đá tương đối thẳng đứng chiều đi xuống. Anh theo gờ đất quay về Hedeby và dừng lại bên những căn nhà gỗ nghỉ hè để thưởng thức cảnh bến cá cổ và nhà thờ cùng căn nhà gỗ của chính anh. Anh ngồi lên một tảng đá phẳng và rót chỗ cà phê âm ấm còn lại ra.

    Cecilia Vanger giữ khoảng cách. Anh không muốn phiền nhiễu cho nên chờ một tuần mới đến nhà chị. Chị để anh vào.

    - Chắc anh nghĩ tôi khá là rồ, một bà hiệu trưởng đáng kính, năm mươi sáu tuổi mà hành động như đứa con gái mười mấy.

    - Cecilia, chị là một phụ nữ trưởng thành. Chị có quyền làm những gì mà chị muốn.

    - Tôi biết nên tôi đã quyết định sẽ không gặp anh nữa. Tôi không chịu nổi…

    - Xin chị mà, chị không nợ tôi một giải thích nào hết. Tôi hy vọng chúng ta vẫn là bạn.

    - Tôi muốn chúng ta là bạn. Nhưng quan hệ với anh thì tôi không xoay sở nổi. Tôi vẫn vốn không được tốt trong các quan hệ. Tôi thích anh để cho tôi được yên tĩnh một thời gian.

  9. #18
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    PHẦN 3

    LIÊN KẾT
    16 THÁNG NĂM - 11 THÁNG BẢY

    Mười ba phần trăm phụ nữ ở Thụy Điển đã là đối tượng của xâm phạm tình dục nghiêm trọng, bên ngoài một quan hệ tính giao



    Chương 16

    Chủ nhật, 1 tháng Sáu
    Thứ Ba, 10 tháng Sáu

    Sau sáu tháng nghiền ngẫm không hiệu quả, vụ Harriet bỗng nứt rạn. Tuần đầu tháng Sáu, Blomkvist phát hiện ra ba miếng mới toanh trong bảng ghép hình. Hai trong ba miếng đó la anh tìm ra. Miếng thứ ba có người giúp.

    Sau lần Berger đến thăm vào tháng Năm, anh lại nghiên cứu quyển album lần nữa, ngồi hàng ba giờ đồng hồ liền, xem lần lượt từng tấm ảnh một, cố phát hiện thêm những chi tiết đã từng gây ấn tượng cho anh. Vẫn không ăn thua cho nên anh để quyển album sang bên và quay về với quyển biên niên của gia đình.

    Một hôm vào tháng Sáu, ở Hedestad anh đang nghĩ đến một chuyện hoàn toàn khác thì chiếc xe buýt nhỏ chở anh rẽ vào Jarnvagsgatan và cái điều đang ủ mầm trong đầu anh bỗng hiện ra như sét đánh giữa trời xanh. Anh thấy bàng hoàng đến nỗi cứ đứng đực ra ở trên xe buýt cho tới tận trạm đỗ sau cạnh ga xe lửa. Anh bắt ngay chuyến xe buýt đầu tiên quay về Hedeby để kiểm tra xem anh nhớ có đúng hay không.

    Đó là bức ảnh đầu tiên trong album, bức Harriet Vanger chụp lần cuối cùng vào cái ngày định mệnh ấy, ở Jarnvagsgatan tại Hedestad trong khi cô đang xem cuộc diễu hành của Ngày Trẻ con.

    Bức ảnh này là một bức lạ lùng đã được cho vào album. Nó được để vào đây vì nó được chụp cùng ngày hôm ấy, nhưng nó là bức duy nhất không phải về tai nạn xe trên cầu. Mỗi lần Blomkvist và mỗi ai khác (anh cho là vậy) xem quyển album thì sự chú ý đều bị hút mất vào con người và các chi tiết trong các bức ảnh của cây cầu. Không có kịch tính nào trong bức ảnh về một đám đông tại cuộc diễu hành Ngày Trẻ Con, vài giờ trước đó.

    Blomkvist xem bức ảnh dễ có đến cả nghìn lần, một việc làm nó cứ gợi cho anh đau buồn nhớ rằng anh sẽ không còn bao giờ thấy lại cô gái nữa.

    Nhưng Blomkvist không phản ứng lại với điều đó.

    Nó được chụp từ bên kia đường, chắc là từ một cửa sổ tầng hai. Ống kính mở ở góc độ rộng nên đã chụp được mũi đằng trước của một trong những con thuyền diễu hành. Trên thuyền là những phụ nữ mặc những bộ đồ bơi lấp lánh hay những quần áo của cung tần thị nữ, ném kẹo xuống cho đám đông. Một số người trong họ nhảy múa. Ba anh hề nhảy nhót ở trước mũi con thuyền.

    Harriet ở trong hàng đầu của đám đông đứng trên đường lát đá. Cạnh cô là ba cô gái, rõ ràng là bạn học của cô, và ít nhất một trăm người xem khác ở quanh và sau lưng họ.

    Từ trong tiềm thức Blomkvist đã lưu lại điều này và khi chiếc xe buýt đi qua vào đúng chỗ ấy thì nó chợt bừng tỉnh.

    Đám đông cũng giống như một công chúng khán, thính giả vậy. Mắt họ dõi theo quả bóng trên sân tennis hay quả cầu trên mặt băng đánh khúc côn cầu. Những người ở đầu cùng bên trái bức ảnh nhìn những anh hề ngày đằng trước mặt họ. Những người ở gần con thuyền hơn thì đều nhìn vào những cô gái ăn mặc hở hang. Vẻ mặt của họ bình thản. Trẻ con chỉ trỏ. Một vài người cười toe toét. Nom đều vui vẻ.

    Trừ một.

    Harriet lại nhìn chéo sang bên. Ba cô bạn và những người khác ở quanh cô đều đang nhìn những anh hề. Mặt Harriet quay đi gần đến 30, 35 độ sang bên phải. Mắt cô như đang tập trung vào một cái gì ở bên kia đường nhưng ở ngoài rìa trái của bức ảnh.

    Blomkvist lấy kính phóng to ra cố cho nổi rõ mọi chi tiết. Bức ảnh chụp từ một khoảng cách quá xa khiến cho anh không thể cầm chắc hoàn toàn nhưng không như mọi người ở xung quanh, mặt Harriet không hớn hở. Miệng cô thành một đường ngang mỏng. Mắt cô mở to. Hai tay buông thõng vô hồn. Cô nom có vẻ sợ. Sợ hay giận dữ.

    Blomkvist lấy bức ảnh in ở album ra cho vào một cặp nhựa cứng rồi chờ chuyến xe buýt sau quay về Hedestad. Anh xuống xe ở Jarnvagsgatan, đứng ở dưới cái cửa sổ là nơi có thể đã chụp bức ảnh kia. Nó là ở rìa của trung tâm thị trấn Hedestad. Đó là một tòa nhà gỗ ba tầng, trong là cửa hàng video cùng với hiệu Haberdashery của Sundstrom thành lập năm 1932 theo như ghi trên tấm biển ở trên cổng chính. Anh đi vào, thấy cửa hàng là ở trên tầng ba, có một cầu thang xoáy trôn ốc đưa lên tầng thượng.

    Hai cửa sổ trên đỉnh cầu thang xoáy trôn ốc nhìn ra phố.

    - Tôi có thể giúp gì ông không? – một nhân viên bán hàng có tuổi hỏi khi anh lấy cái cặp nhựa cùng tấm ảnh ra. Chỉ có vài ba người trong cửa hàng.

    - Tôi chỉ muốn xem bức ảnh này được chụp ở chỗ nào. Tôi mở cửa sổ ra một lát thôi có được không ạ?

    Người đàn ông nói có thể được. Vậy là Blomkvist có thể trông thấy chính xác cái chỗ Harriet đã đứng. Một trong những tòa nhà gỗ ở đằng sau cô đã không còn, thay vào là một tòa nhà góc cạnh. Tòa nhà gỗ khác từng là một cửa hàng bán văn phòng phẩm năm 1966 thì nay là một cửa hàng bán thực phẩm bổ dưỡng và một tiệm săn sóc da. Blomkvist đóng cửa sổ lại, cảm ơn người nhân viên và xin lỗi đã làm mất thì giờ của ông.

    Anh qua đường và đứng vào chỗ Harriet đã đứng. Anh đã có được những cột mốc ở giữa cửa sổ của tầng thượng nhà Haberdashery và cửa ra vào cửa tiệm săn sóc da. Anh quay đầu và nhìn theo hướng nhìn của Harriet. Cô gái nhìn về góc của tòa nhà có cửa hiệu Haberdashery, một cái góc hoàn toàn bình thường của một tòa nhà, nó che khuất một ngã tư phố. Harriet, chị nhìn thấy cái gì ở đằng ấy đấy?

    Blomkvist cho bức ảnh vào trong ba lô rồi đi đến quảng trường gần ga. Anh bước vào một quán cà phê vỉa hè. Anh bỗng thấy hồi hộp.

    Ở tiếng Anh họ gọi đó là “bằng chứng mới”, rất khác với tiếng Thụy Điển: ”vật liệu chứng minh mới”. Anh đã nhìn thấy một cái hoàn toàn mới, một cái mà trong suốt cuộc điều tra kéo dài ba mươi bảy năm, không ai khác ngoài anh đã để ý thấy.

    Vấn đề là anh không chắc cái thông tin mới này của anh nó có giá trị gì nếu quả như có một giá trị nào đấy. Nhưng anh cảm thấy sắp chứng minh được là nó có ý nghĩa.

    Cái ngày tháng Chín mà Harriet mất tích kia đã thành ra quan trọng ở nhiều mặt. Nó là ngày lễ Hedestad với một đám đông hàng nghìn người, trẻ già, trên đường phố. Nó là ngày gia đình gặp mặt ở trên đảo Hedeby. Riêng hai việc ấy đã làm cho khu vực này ra khỏi nếp sống quen thuộc của nó. Vụ đâm xe đã che khuất đi mất mọi chuyện khác.

    Sĩ quan cảnh sát Morell, Henrik Vanger và những người khác từng nghiền ngẫm về vụ Harriet mất tích đã tập trung chú ý vào đảo Hedeby. Morell thậm chí viết ông không sao dứt đi nỗi nghi ngờ rằng hai vụ mất tích và đâm xe là có dính líu đến nhau. Nay Blomkvist tin rằng ông đã nghĩ sai.

    Dây chuyền sự việc không phải bắt đầu ở trên đảo Hedeby mà là ở Hedestad trước đó vài giờ. Harriet đã trông thấy một cái gì khiến cô khiếp sợ và giục giã cô về nhà, đi thẳng đến nhà ông chú nhưng không may là ông chú lại không có thì giờ nghe cô. Rồi xảy ra tai nạn xe trên cầu. Rồi tên giết người giáng đòn xuống.

    Blomkvist nghĩ ngợi. Đây là lần đầu tiên anh có ý thức nói ra thành lời cái ý nghĩ cho rằng Harriet bị ám sát. Anh chấp nhận niềm tin của Henrik, Harriet đã chết và anh đang săn lùng một kẻ giết người.

    Anh quay lại với các báo cáo của cảnh sát. Trong cả nghìn trang giấy chỉ có một phần xét đến các sự kiện ở Hedestad. Harriet đã ở đây với ba cô bạn học, cả ba đều đã được thẩm vấn. Họ đã gặp nhau ở quảng trường gần ga lúc 9 giờ. Một cô còn mua quần jean và có các bạn đi cùng. Các cô đã uống cà phê ở quán cà phê của nhà hàng EPA rồi đi thẳng đến sân vận động, loăng quăng trong những lán của liên hoan hóa trang và các ao câu cá, ở đấy họ lại tình cờ gặp một số bạn khác ở trường. Trưa họ dễu dện về lại thị trấn để xem diễu hành. Ngay trước 2 giờ chiều, Harriet thình lình bảo họ cô phải về nhà. Họ chia tay nhau ở bến xe gần Jarnvagsgatan.

    Không cô bạn nào của cô để ý thấy có điều gì khác thường. Một trong họ, Inger Stenberg, người đã tả sự thay đổi của Harriet trong năm trước bằng câu nói rằng cô ấy đã rất “bàng quan cuộc sống”. Cô nói hôm ấy Harriet lì xì, không bình thường, phần lớn là làm theo người khác.

    Sĩ quan Morell đã nói chuyện với tất cả những ai gặp Harriet hôm ấy, cho dù họ chỉ là chào nhau nhân có cuộc gặp mặt của gia đình. Một bức ảnh của cô đã được đăng trên tờ báo địa phương khi cuộc tìm kiếm đang tiếp diễn. Sau khi cô gái mất tích, mấy người dân ở Hedestad đã gặp cảnh sát để nói họ đã trông thấy cô gái trong hôm diễu hành, nhưng không ai báo được gì khác thường cả.

    Sáng hôm sau, Blomkvist tìm Henrik Vanger ở bàn ăn điểm tâm của ông.

    - Ông nói gia đình Vanger vẫn có một món lãi trong tờ Hedestad Courier?

    - Đúng.

    - Tôi muốn xem hồ sơ ảnh của nó. Từ 1966.

    Vanger đặt cốc sữa xuống, lau miệng rồi hỏi:

    - Mikael, anh đã phát hiện ra cái gì rồi?

    Anh nhìn thẳng vào mắt ông già.

    - Không có gì là chắc chắn. Nhưng tôi nghĩ chúng ta đã bị lầm cả một chuỗi các sự kiện.

    Anh đưa cho ông già xem bức ảnh và nói những điều anh đang suy nghĩ. Vanger ngồi nghe im lặng một hồi lâu.

    - Nếu tôi đúng, chúng ta cần phải nhìn xa tới những gì đã xảy ra ở Hedestad hôm ấy chứ không phải chỉ ở đảo Hedeby. – Blomkvist nói, - Tôi không biết làm chuyện đó như thế nào sau một thời gian quá dài như vậy nhưng nhiều ảnh chắc là đã được chụp trong Ngày Trẻ con mà chưa đăng lên bao giờ. Tôi muốn xem các bức đó.

    Vanger dùng điện thoại trong bếp. Ông gọi Martin, nói rõ ông muốn gì và hỏi ai là biên tập viên ảnh hôm ấy. Trong mười phút đã xác định được người cần tìm và thu xếp xong việc tìm trong hồ sơ ảnh.

    Biên tập viên ảnh của tờ Hedestad Courier là Madeleine Blomberg, thường gọi là Maja. Chị là nữ biên tập viên ảnh đầu tiên mà Blomkvist gặp trong nghề báo, nơi mà nhiếp ảnh trước hết vẫn được coi là loại hình thức nghệ thuật dành cho đàn ông.

    Do là chủ nhật, tòa soạn vắng tanh nhưng Maja Blomberg lại sống cách đấy có năm phút, chị gặp Blomkvist ở cổng tòa báo. Chị làm cho Hedestad gần hết đời mình. Chị bắt đầu làm người đọc bản in thử năm 1964, đổi sang làm việc in tráng ảnh và đã qua nhiều năm tháng trong buồng tối, thỉnh thoảng có được cử ra ngoài làm phóng viên ảnh khi nguồn ảnh quen thuộc không đủ. Chị lên được chức biên tập viên, kiếm được một ghế chính thức ở bộ phận ảnh tại tờ báo, mười năm trước, khi người biên tập viên ảnh về hưu, chị tiếp quản vai trưởng ban ảnh.

    Blomkvist hỏi hồ sơ ảnh ở đây sắp đặt thế nào.

    - Nói thật với anh, hồ sơ khá là lộn xộn. Từ khi chúng tôi có máy tính và ảnh kỹ thuật số thì hồ sơ là ở trong các đĩa. Chúng tôi có một nhân viên tập sự ở đây quét các bức ảnh cũ quan trọng hơn, chỉ có một ít ảnh trong đống kho lộn xộn kia là đã được xếp loại. Các ảnh cũ hơn được xếp theo ngày tháng trong các hồ sơ âm bản. Chúng đang ở trong tòa soạn này hay ở trong nhà kho trên tầng áp mái.

    - Tôi đang cần đến các ảnh chụp trong cuộc diễu hành Ngày Trẻ con năm 1966, nhưng kể cả bất cứ ảnh nào chụp trong tuần ấy.

    Blomberg kỳ quặc nhìn anh.

    - Anh muốn nói cái tuần Harriet Vanger mất tích chăng?

    - Chị biết chuyện?

    - Anh không biết chuyện ấy thì anh không làm ở đây cả đời được, sớm hôm nay là ngày nghỉ của tôi mà Vanger gọi là tôi đã rút ra kết luận. Có cái gì mới rồi thế?

    Blomberg có cái mũi thính tin. Blomkvist mỉm cười lắc đầu rồi kể cho chị một câu chuyện hỏa mù.

    - Không, tôi cho rằng không ai tìm ra được lời giải cho bài đố này đâu. Chuyện này khá riêng tư, nhưng sự thật là tôi đang viết tự truyện cho Henrik Vanger. Chuyện cô gái mất tích là một đề tài lạ nhưng nó là một chương thật sự không thể lờ đi. Tôi đang tìm một cái gì trước đây chưa được dùng đến mà lại có thể làm sáng tỏ cái ngày hôm ấy – về Harriet và các bạn của cô ấy.

    Blomberg có vẻ nghi hoặc nhưng lời giải thích nghe hợp lý nên chị không hỏi thêm, vả chăng cũng là do chị đã biết vai trò của Blomkvist.

    Một phóng viên nhiếp ảnh ở một tờ báo nhận chừng từ hai đến mười cuộn phim một ngày. Với các sự kiện lớn có thể gấp đôi. Mỗi cuộn được băm sáu âm bản và chỉ có một số ít trong đó được đăng lên mà thôi cho nên thường thường một tờ báo địa phương không tích quá ba trăm hình ảnh một ngày. Một ban ảnh giỏi tổ chức đem cắt rời các cuộn phim ra và để các âm bản ở trong một ống măng sông sáu khung ảnh. Một cuộn phim chiếm chừng một trang ở cặp hồ sơ âm bản. Một cặp hồ sơ giữ chừng 110 cuộn phim. Âm bản trong một năm được cất đầy trong chừng hai mươi tư cặp hồ sơ. Sau nhiều năm, một lượng lớn cặp hồ sơ đã tích lại và thường không có giá trị thương mại nên chúng được xếp đầy các ngăn giá của ban ảnh. Nhưng mỗi phóng viên ảnh và ban ảnh lại đinh ninh các bức ảnh đó đang chứa đựng một tư liệu lịch sử vô giá nên không vứt bất kì một tấm ảnh bao giờ.

    Hedestad Courier thành lập năm 1922, bán ảnh thì tồn tại từ 1937. Kho ảnh trên tầng áp mái chứa chừng 1,200 cặp hồ sơ, dược Blomberg sắp xếp theo ngày tháng. Các âm bản của tháng Chín 1966 để ở trong bốn cặp lưu trữ bằng bìa các tông rẻ tiền.

    - Chúng ta làm thế nào với những cái này nhỉ? – Blomkvist nói. - Tôi thật sự cần một cái bàn làng nhàng để ngồi sao lại những cái gì hay hay.

    - Chúng tôi không còn buồng tối nữa rồi. Mọi cái đều đã cho scan. Anh có biết dùng máy scan âm bản không?

    - Có, tôi đã làm và có riêng một máy scan âm bản Agfa. Tôi làm Photoshop trên máy tính.

    - Vậy là anh dùng các thiết bị giống của chúng tôi.

    Blomberg đưa anh đi một vòng quanh căn phòng nho nhỏ của ban ảnh, cho anh một chiếc ghế và một chiếc bàn gọn nhẹ rồi mở máy tính và máy scan hình. Chị chỉ cho anh chỗ máy cà phê trong khu căng tin. Họ nhất trí để Blomkvist tự làm lấy một mình nhưng khi nào anh muốn đi thì anh cần gọi chị để cho chị có thể đặt hệ thống báo động. Rồi chị chào “Thú vị nha!” và để anh ở lại.

    Ngược trở lại giai đoạn ấy, Courier có hai phóng viên nhiếp ảnh. Người trực hôm ấy là Kurt Nylund và Blomkvist có quen biết anh ta. Vào năm 1966, Nylund chừng hai mươi tuổi. Rồi anh chuyển đến Stockholm trở thành một nhà nhiếp ảnh nổi tiếng vừa làm tự do vừa là nhân viên của Scanpix Thụy Điển ở Marieberg. Trong những năm 90, Blomkvist đã có những lần gặp Nylund khi Millennium còn dùng ảnh của Scanpix. Anh nhớ Nylund là một người xương xẩu góc cạnh, tóc thưa. Hôm diễu hành, Nylund dùng phim ánh sáng ngày, không nhanh quá, loại nhiều phóng viên ảnh tin tức thường dùng.

    Blomkvist lấy ra các âm bản ảnh chàng Nylund trẻ tuổi chụp, đặt chúng lên bàn. Anh xem kĩ từng khuôn hình bằng một kính phóng đại. Đọc âm bản ảnh là một nghệ thuật đòi hỏi kinh nghiệm mà Blomkvist thì không có. Để quyết định ảnh có giá trị thông tin hay không anh phải rà quét từng hình ảnh và xem xét nó trên màn hình máy tính. Việc này phải mất hàng giờ. Cho nên anh xem lướt trước tất cả các bức ảnh mà anh có thể thấy ra điều gì lý thú ở đó.

    Anh xem dần những bức chụp vụ tai nạn xe cộ mà bộ sưu tập ảnh của Henrik Vanger không đầy đủ. Người sao ảnh làm sưu tập – có thể là chính Nylund – đã bỏ ra khoảng ba chục bức hoặc bị lóa hoặc bị coi là kém chất lượng không đáng đăng báo.

    Blomkvist tắt máy tính, cắm máy scan Agfa vào iBook của mình. Anh bỏ hai giờ để scan chỗ ảnh còn lại.

    Có một bức đập ngay vào mắt anh tức khắc. Khoảng giữa 3 giờ 10 và 3 giờ 15 chiều, đúng vào lúc Harriet tan biến đi, một người đã mở cửa sổ của buồng cô. Vanger cố tìm mãi không ra đó là ai. Trên màn hình của Blomkvist có một bức ảnh mà chắc đã được chụp vào đúng vào lúc cửa sổ mở ra. Có một người và một bộ mặt lờ mờ không rõ. Anh quyết định scan hết các ảnh trước khi quay sang phân tích tỉ mỉ chi tiết bức ảnh này.

    Rồi anh xem xét các ảnh về Ngày Trẻ con. Nylund đã để ra sáu cuộn phim, khoảng hai trăm lần chụp cho chuyện này. Có một dòng vô tận những trẻ con với những quả bóng, người lớn, sinh hoạt đường phố với những người bán xúc xích nóng, cuộc diễu hành, một nghệ sĩ trên sân khấu và một cuộc trao phần thưởng gì đó.

    Blomkvist quyết định scan toàn bộ sưu tập. Sáu giờ sau, anh có một cặp giấy đựng chín chục ảnh nhưng anh sẽ còn phải quay lại nữa. 9 giờ anh gọi Blomberg, cảm ơn chị và đáp xe buýt về nhà ở đảo Hedeby.

    9 giờ sáng Chủ nhật anh quay lại. Tòa soạn vẫn vắng khi Blomberg để anh vào. Anh không nhận ra đây là ngày lễ Whitsuntide trùng vào cuối tuần, và sẽ không có tờ báo nào cho tới thứ Ba hết. Anh bỏ cả ngày ra để scan ảnh. 6 giờ chiều vẫn còn lại bốn chục bức chụp Ngày Trẻ con. Blomkvist đã dò các âm bản và quyết định những bức cận cảnh mặt đám trẻ xinh xắn hay các bức tranh của một họa sĩ xuất hiện trên lễ đài không phải là mục tiêu chú ý của anh. Những cái anh cho scan là các ảnh về sinh hoạt đường phố và đám đông.

    Blomkvist đi qua ngày lễ Whitsuntide với đống “vật liệu mới”. Anh có mười phát hiện. Phát hiện đầu làm cho hết sức ngạc nhiên. Cái thứ hai làm cho tim anh đập rộn.

    Cái thứ nhất là bộ mặt ở cửa sổ buồng Harriet Vanger. Ảnh hơi nhòe nên anh bỏ nó ra ngoài. Người chụp đứng ở trên đồi nhà thờ và hướng nhìn về cây cầu. Các tòa nhà lớn là bối cảnh. Blomkvist cắt cúp bức ảnh để chỉ còn lại cái cửa sổ rồi anh thử điều chỉnh độ sáng tối và tăng độ nét cho đến khi đạt tới chất lượng tốt nhất.

    Kết quả là một bức ảnh lấm chấm gần như ngả trắng cho thấy một bức rèm, một phần cánh tay và một bộ mặt tròn tròn mờ nhạt ở bên trong gian phòng. Bộ mặt không phải của Harriet Vanger vốn tóc đen, còn người này tóc lại sáng màu hơn.

    Không thể phân biệt rõ được các nên mặt nhưng anh chắc chắn đây là một phụ nữ, phần mặt sáng hơn tiếp tục xuống đến ngang vai chỉ ra một bộ tóc phụ nữ lượn sóng bồng bềnh và người phụ nữ này mặc quần áo sáng màu.

    Anh tính chiều cao của người này với khung cửa sổ, đó là một phụ nữ cao chừng mét sáu.

    Anh bấm sang các ảnh khác chụp sau vụ tai nạn thì thấy có một người hợp với miêu tả ở trong bức ảnh bên cửa sổ: cô Cecilia Vanger hai mươi tuổi.

    Nylund đã chụp mười tám bức ở cửa sổ nhà Haberdashy Sundstrom. Harriet là cái thứ mười bảy trong đó. Blomkvist thừa nhận rằng các ảnh này đã được chụp trong vòng năm phút. Trong các ảnh đầu, ở trong khuôn hình, Harriet và các cô bạn đang đi xuôi phố xuống. Trong các ảnh 2 – 7 họ đứng yên xem diễu hành. Rồi họ chuyển chừng ba bốn mét xuống dưới phố. Trong bức cuối cùng, có lẽ được chụp sau một thời gian đã trôi qua thì không còn các cô gái nữa.

    Blomkvist in một loạt ảnh trong đó anh lược bỏ đi nửa đầu của Harriet và gia công chúng để có được độ tương phản trắng đen tốt nhất. Anh để các bức ảnh này vào một hồ sơ riêng, mở chương trình đồ họa Graphic Converter và bắt đầu cho các ảnh lần lượt hiện lên, mỗi hình ảnh được hiện ra hai giây.

    Harriet đến, hình ảnh với chiều nghiêng mặt. Harriet đứng lại, nhìn xuôi xuống dưới phố, Harriet mở miệng nói gì với các bạn, Harriet cười. Harriet giơ tay trái lên tai, Harriet mỉm cười. Harriet thình lình nom ngạc nhiên, mặt cô ở một góc 20 độ về bên trái camera. Mắt Harriet mở to và cô thôi cười. Miệng Harriet mím lại thành một đường mỏng. Mắt Harriet tập trung nhìn. Trên mặt cô có thể đọc được ra… cái gì đây? Buồn, sốc, giận dữ? Harriet cụp mắt xuống. Harriet đã đi.

    Blomkvist quay đi quay lại trường đoạn này. Anh xác định khá mạnh mẽ cái lý lẽ vừa chợt đến với anh. Một cái gì đó xảy ra ở Jarnvagsgatan.

    Harriet đã nhìn thấy một cái gì – một ai đó - ở bên kia đường phố. Phản ứng lại là cô thấy sốc. Cô gặp Henrik Vanger để nói chuyện riêng nhưng không được. Cô biến đi không một tăm tích.

    Một cái gì đã xảy ra nhưng bức ảnh không nói rõ là gì.

    2 giờ sáng thứ Hai Blomkvist ăn bánh kẹp và cà phê ở ghế dài trong bếp. Anh vừa nản lại vừa háo hức. Trái với chờ đợi anh đã đi tới được bằng chứng mới. Có điều là tuy nó rọi ánh sáng vào chuỗi sự kiện nhưng nó không đưa anh lại gần hơn tới bước giải được bí mật.

    Anh nghĩ lung mãi về vai trò mà Cecilia Vanger có thể đã sắm ở trong vở bi kịch. Henrik Vanger lập biểu đồ về hoạt động của mọi người liên quan đến hôm đó, không chừa một ai và Cecilia cũng không là ngoại lệ. Chị đang sống ở Uppsala nhưng chị đến Hedeby hai hôm trước cái ngày định mệnh kia. Chị ở với Isabella Vanger. Chị từng nói có thể chị đã gặp Harriet sớm buổi sáng hôm đó nhưng không trực tiếp nói chuyện với Harriet. Chị không thấy Harriet ở đó, và chị quay về đảo Hedeby vào khoảng 1 giờ chiều, vào cái lúc Nylund chụp các ảnh kia ở Jarnvagsgatan. Chị thay quần áo và khoảng 2 giờ thì giúp bày biện bàn ghế cho bữa tiệc lớn tối hôm đó.

    Tạo một bằng chứng ngoại phạm – nếu cần phải có – thì nó khá là yếu. Các khoảng thời gian là tương đối đúng, đặc biệt về thời gian chị trở lại đảo Hedeby, nhưng Henrik không tìm ra được điều gì cho thấy là chị nói dối. Cecilia là một trong những người nhà được ông chú Henrik thương nhất. Vả lại giờ chị đã là người tình của anh. Blomkvist khách quan sao nổi được cơ chứ? Anh chắc chắn không thể tưởng tượng ra chị lại là một kẻ giết người.

    Bây giờ một bức ảnh mà cho đến nay không ai biết đang bảo với anh rằng chị đã nói dối khi bảo hôm ấy chị không vào phòng Harriet. Blomkvist rối đầu lên với cái ý tại sao chị lại phải dối trá như thế.

    Và nếu chuyện đó em đã nói dối thì em còn có thể nói dối những gì khác nữa đây?

    Anh soát lại trong đầu những điều anh đã biết về Cecilia. Một con người hướng nội rõ ràng là đã bị quá khứ tác động. Sống một mình, không có đời sống tình dục, khó gần gũi tiếp xúc với người đời. Giữ khoảng cách và khi đã buông lỏng thì không kìm hãm nổi. Chị đã chọn một người xa lạ làm người tình. Nếu chị phải kết thúc chuyện đó thì là vì chị không thể sống với cái ý nghĩ rằng anh sẽ bất ngờ đi khỏi đời chị cũng như khi anh bất ngờ hiện ra. Blomkvist cho rằng chị dám mở ra câu chuyện yêu đương với anh thì chính xác là vì anh chỉ ở đây có một thời gian. Chị không phải lo anh về lâu dài sẽ làm cho đời chị thay đổi đi bằng một cách nào đó.

    Anh thở dài và gạt môn tâm lý học nghiệp dư sang một bên.

    Trong đêm ấy, anh có cái phát hiện thứ hai. Chìa khóa cho bí mật này là điều Harriet đã trông thấy ở Hedestad. Anh sẽ không tìm ra cái đó trừ phi anh sáng chế ra được một cỗ máy thời gian hay đứng ở ngay đằng sau cô gái, nhìn qua vai cô.

    Và thế rồi một ý đã nảy ra. Anh vỗ trán rồi mở iBook. Anh bật mở các bức ảnh chưa cắt cúp trong xê ri ảnh chụp ở Jarnvagsgatan ra thì… đây!

    Đằng sau Harriet và ở bên phải cô chừng non một mét là một cặp trẻ tuổi, người đàn ông mặc áo len kẻ sọc, người phụ nữ mặc áo jacket lơ nhạt. Người đàn bà cầm máy ảnh. Khi Blomkvist phóng to bức ảnh, thì đó là một chiếc Khôngdak Instamatic chụp lấy liền có đèn – một máy ảnh làm quà rẻ tiền vào Noel cho những người không biết gì về nhiếp ảnh. Người phụ nữ cầm máy ảnh ở ngang cằm. Rồi chị ta giơ lên chụp đám hề đúng vào lúc Harriet thay đổi vẻ mặt. Blomkvist so vị trí chiếc máy ảnh với hướng nhìn của Harriet. Người phụ nữ chụp đúng cái thứ mà Harriet đang nhìn vào.

    Tim anh đập loạn. Anh ngả lại đằng sau, cắm thuốc lá trượt cả ra ngoài túi ngực. Ai đó đã chụp một bức ảnh. Anh làm sao nhận dạng và tìm ra nổi người phụ nữ? Anh có thể nắm được bức ảnh này của chị ta không? Cuộn phim ấy có được tráng rửa và nếu có thì liệu có còn lại các bức ảnh hay không?

    Anh mở hồ sơ có các ảnh của Nylund chụp đám đông ra. Trong hai giờ sau anh phóng to từng bức và soi kĩ từng li một. Cho đến các bức cuối cùng anh không còn thấy cặp nam nữ này nữa. Nylund đã chụp một anh hề khác cầm bóng đứng cười hềnh hệch ở trước máy ảnh của anh. Các bức ảnh được chụp ở một bãi đỗ xe gần cửa ra vào sân vận động, nơi diễn ra các lễ hội. Chắc đã phải là sau 2 giờ chiều. Ngay sau đó Nylund được tin xe đâm nhau trên cầu và nhanh chóng kết thúc các chân dung của Ngày Trẻ con.

    Người phụ nữ gần như ẩn đi nhưng người đàn ông áo len sọc vẫn thấy rõ, ở chiều nghiêng mặt. Ông ta cầm chùm chìa khóa trong tay và đang cúi xuống mở cửa một chiếc xe. Máy ảnh tập trung vào anh hề đứng ở đằng trước và chiếc xe thì hơi bị mờ nhòa. Biển số bị che mất một phần nhưng anh có thể đọc thấy nó bắt đầu với “AC3”. Biển số trong những năm 60 bắt đầu với một mã hiệu theo hạt và lúc bé, Blomkvist đã nhớ các mã hiệu hạt này “AC” cho Vasterbotten.

    Rồi anh nhận ra một cái khác nữa. Trên cửa sổ đằng sau có một tờ quảng cáo gì đó. Anh phóng to thì dòng chữ nhòa đi không còn. Anh cắt rời tờ quảng cáo, điều chỉnh trắng đen, độ nét. Phải mất một lúc. Anh vẫn chưa đọc được phần có chữ viết nhưng anh dựa trên những hình mờ nhòa này mà hình dung ra các chữ đó. Nhiều chữ nom giống nhau kì lạ. Một chữ “O” có thể bị lầm thành “D” hay “B” hay “E”, vân vân. Anh lấy giấy bút ra và sau khi loại đi một số chữ, anh còn lại được một bản viết không thể đọc ra, ở trong cùng một dòng.

    R JO NI K RIFA RIK

    Anh nhìn chăm chăm vào cái hình cho đến khi chảy nước mắt. Rồi anh xem chữ viết. “NORSJO SNICKERIFABRIK”, tiếp theo sau là những con số cỡ bé hơn đến mức khó mà đọc ra nổi, chắc là số điện thoại.

  10. #19
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 17

    Thứ Tư, 11 tháng Sáu
    Thứ Bảy, 14 tháng Sáu

    Blomkvist có được miếng thứ ba trong trò chơi ghép hình là nhờ một nguồn tin bất ngờ.

    Sau khi làm việc với các bức ảnh thực tế gần như hết đêm anh ngủ một mạch tới chiều. Lúc thức dậy anh thấy đau đầu, anh tắm và đi đến quán Susanne ăn sáng. Anh còn phải đến Vanger để báo cáo anh đã phát hiện ra những gì. Thay vì, khi quay về, anh lại đến nhà Cecilia, gõ cửa. Anh cần hỏi chị sao đã nói dối anh về việc đã có ở trong phòng Harriet. Không ai ra cửa.

    Vừa bỏ đi thì anh nghe thấy có tiếng nói:

    - Con điếm của ông không ở nhà.

    Một lão già hom hem, gớm ghiếc thò ra khỏi cái hang của lão. Lão ta từng có thời cao lớn gần hai mét, nhưng đã khòng đi vì tuổi tác. Và nay mắt lão chỉ ngang tầm với mắt Blomkvist. Mặt và cổ lão đầy những vết đồi mồi sẫm đen. Lão mặc bộ pyjama với một cái áo khoác nâu, chống gậy nên càng thêm quái dị.

    - Ông vừa nói gì vậy?

    - Tôi bảo con điếm của ông không ở nhà.

    Blomkvist sấn lên, mũi anh gần như gí vào mũi ông già.

    - Ông nói con gái của ông như thế ư, đồ con lợn bẩn thỉu!

    - Tôi không phải người ban đêm lén lút đến đây. – Harald nói, cái miệng không răng nhe ra cười. Ở lão ta sặc mùi rồ dại. Blomkvist đi sạt qua Harald xuống đường không ngoái lại. Anh thấy Henrik Vanger ở trong văn phòng.

    - Tôi vừa có hân hạnh được gặp anh trai ông. – Mikael nói.

    - Harald? Tốt, tốt, thế hả, anh ấy đã liều đi ra ngoài. Mỗi năm anh ấy liều như thế một hai lần.

    - Tôi đang gõ cửa nhà Cecilia thì có người ở đằng sau tôi nói: “Con điếm của ông không có nhà”.

    - Nghe thì là Harald đấy. – Henrik bình thản nói.

    - Lạy Chúa, ông ta gọi con gái mình là điếm.

    - Gọi như thế nhiều năm rồi. Vì thế mà hai bố con không trò chuyện với nhau nhiều.

    - Sao ông ấy lại gọi như thế?

    - Cecilia mất trinh năm hai mươi mốt tuổi, ngay ở Hedestad đây sau một chuyện tình mùa hè, sau năm Harriet mất tích.

    - Rồi?

    - Người đàn ông mà nó yêu ấy tên là Peter Samuelsson. Anh ta là trợ lý tài chính ở Tập đoàn Vanger. Một chàng trai xuất sắc. Hiện nay anh ta làm cho ABB. Kiểu người mà tôi khá tự hào là bố vợ nếu như Cecilia là con gái tôi. Harald đại loại đã kiểm tra dòng họ Samuelsson rồi phát hiện ra Peter có một phần tư máu là Do Thái.

    - Trời đất!

    - Toàn gọi là con điếm miết từ đấy.

    - Ông ấy có biết tôi và Cecilia có…

    - Chắc ai ở trong làng cũng biết chuyện đó trừ có Isabella, vì chẳng ai đầu óc lành lặn lại đi kể một cái gì cho bà ấy và nhờ trời bà ấy cũng khá là tốt để toàn lên giường từ 8 giờ tối. Mặt khác nghe nói Harald đang theo dõi mỗi bước chân đi của anh.

    Blomkvist thộn mặt ngồi xuống.

    - Ông nói ai cũng biết…

    - Dĩ nhiên rồi…

    - Mà ông không quan tâm?

    - Mikael thân mến, đấy thật sự không phải việc của tôi.

    - Cecilia ở đâu?

    - Năm học đã hết. Hôm thứ Bảy nó đi London để thăm người em sau đó thì nghỉ ở… hừm… hừm… tôi nghĩ là ở Florida. Sẽ trở về chừng một tháng nữa.

    Blomkvist nom lại càng ngu ngơ.

    - Chúng tôi đã bập vào nhau phần nào trong một thời gian.

    - Tôi biết nhưng không phải là việc của tôi. Công việc của anh đến đâu rồi?

    Blomkvist rót cho mình một tách cà phê.

    - Tôi nghĩ đã tìm ra được vài cái mới.

    Anh lấy iBook ở trong ba lô ra rồi lần lượt đưa xê ri ảnh cho thấy Harriet đã phản ứng như thế nào ở Jarnvagsgatan. Anh nói rõ đã tìm thấy các khán giả khác như thế nào cùng với máy ảnh, xe của họ và quảng cáo của cửa hàng Đồ mộc Norsjo.

    Khi anh nói xong, Henrik bảo muốn xem lại tất cả một lần nữa. Khi ông ngửng đầu lên khỏi máy tính, mặt ông xám ngoét. Blomkvist chợt hoảng hốt đặt một tay lên vai ông. Vanger hất tay anh ra rồi ngồi im một lúc.

    - Anh đã làm được cái điều mà tôi cho là không thể làm được. Anh đã xoay ra được một cái gì hoàn toàn mới. Anh sẽ làm gì tới đây?

    - Tôi sẽ tìm cái ảnh này, nếu như nó vẫn còn.

    Anh không nói tới bộ mặt trong khung cửa sổ.

    Harald Vanger quay về cái hang của ông ta thì Blomkvist đi ra. Khi rẽ ở góc nhà, anh thấy một ai đó khá lạ ngồi đọc báo ở cổng căn nhà gỗ của anh. Trong một tích tắc anh ngỡ là Cecilia nhưng cô gái tóc sẫm màu ở cổng là con gái anh.

    - Chào bố. – Pernilla Abrahamsson nói.

    Anh ôm con gái hồi lâu.

    - Ở đâu mà vọt tới thế này?

    - Ở nhà chứ còn ở đâu nữa. Con đang đi đến Skelleftea. Con ở lại một đêm được không?

    - Dĩ nhiên là được chứ, nhưng làm sao con đến đây được?

    - Thì mẹ biết bố ở đâu mà. Và con hỏi quán cà phê họ có biết bố đang ở đâu không. Bà chủ quán bảo con cách đi chính xác đến đây. Gặp con bố có vui không?

    - Chắc chắn vui chứ. Vào đi. Con nên báo trước để bố mua một cái gì đó ăn ngon hay một thứ gì đó.

    - Con bốc đồng dừng lại. Con muốn chào mừng bố ra tù về nhà nhưng bố không gọi bao giờ.

    - Bố xin lỗi.

    - Thôi mà. Mẹ bảo con tại sao bố luôn cứ chìm đắm vào trong ý nghĩ của bố.

    - Mẹ bảo con như thế?

    - Đại loại thế. Nhưng không quan trọng. Con vẫn yêu bố.

    - Bố cũng yêu con nhưng con biết…

    - Con biết chứ. Con nay đã khá là người lớn rồi mà.

    Anh pha trà và mang bánh ngọt ra.

    Con gái anh nói đúng. Cô chắc chắn không còn là một cô gái bé nhỏ nữa rồi; cô gần tới mười bảy, thực tế đã là một thiếu nữ. Anh phải biết thôi đối xử với cô như một đứa bé.

    - Thế nó ra sao?

    - Cái gì ra sao?

    - Nhà tù ấy.

    Anh cười thành tiếng.

    - Con có tin không nếu bố nói cứ y như đi nghỉ có trợ cấp vậy, suốt ngày đêm con muốn nghĩ hay viết là tùy con?

    - Con tin. Con cho rằng không có gì khác nhau nhiều lắm giữa nhà tù và nhà tu kín, con người ta thường đến nhà tu kín để ngẫm.

    - Tốt, con đã đến. Bố hy vọng chuyện đó, bố thành con chim trong lồng, với con không thành vấn đề.

    - Không hề nhé. Con tự hào về bố, hễ có cơ hội khoe bố vào tù vì cái điều mà bố tin là con không có chịu để lỡ đâu.

    - Tin?

    - Con thấy cô Erika Berger trên tivi mà.

    - Pernilla, bố không phải là vô tội. Bố ân hận đã nói với con những chuyện từng xảy ra nhưng bố không bị kết tội oan. Dựa trên những cái mà tòa nghe nói đến trong phiên xét xử để ra quyết định.

    - Nhưng bố không bao giờ nói đến phía của bố trong câu chuyện.

    - Đúng, vì quay ra thế nào bố lại không có bằng chứng cơ chứ.

    - OK, vậy trả lời con câu này: Wennerstrom có xấu không?

    - Ông ta là một trong những tên vô lại xấu xa nhất mà bố chưa từng bao giờ chuyện trò cùng.

    - Đủ hay cho con rồi. Con có quà cho bố đây.

    Pernilla lấy ở trong túi xách ra một gói. Blomkvist mở ra và thấy một đĩa CD: Những giai điệu hay nhất. Pernilla biết đó là một trong những băng nhạc ông bố mình ưa thích nhất ngày xưa. Blomkvist cho đĩa vào iBook và cả hai cùng nghe Những giấc mơ êm đềm.

    - Con đến Skelleftea làm gì?

    - Lớp học Kinh thánh ở một trại hè cùng với giáo đoàn có tên là Ánh sáng Cuộc sống. – Pernilla nói, tựa hồ đó là sự lựa chọn rõ ràng nhất ở trên thế gian.

    Blomkvist thấy một luồng lửa lạnh buốt chạy dọc xuống sống lưng anh. Anh nhận thấy con gái anh và Harriet Vanger mới giống nhau làm sao. Pernilla mười sáu, đúng cái tuổi của Harriet khi cô biến mất. Cả hai đều có những ông bố vắng mặt. Cả hai đều bị lôi cuốn đến sự cuồng tín tôn giáo của các giáo đoàn kỳ lạ - Harriet tới Pentecostals còn Pernilla thì tới một cái mầm mới nhú của một cái gì đó đúng là lập dị chẳng khác gì Tiếng nói Cuộc sống.

    Anh không biết anh nên kiểm soát sự thích thú mới về tôn giáo của con gái anh như thế nào. Anh sợ ngăn cản vào quyền tự định đoạt của con gái. Đồng thời Ánh sáng Cuộc sống cũng chắc chắn là cái loại giáo phái mà anh sẵn sàng quật ngã không chút do dự ở trên tờ Millennium. Hễ có cơ hội là anh bàn chuyện này với mẹ của Pernilla ngay.

    Pernilla ngủ vẹo cổ và một mình ở trên giường còn anh thì quấn chăn nằm ở trên ghế dài trong bếp. Bị sái cổ và đau mình mẩy, anh tỉnh dậy. Pernilla khăng khăng đòi đi nên anh làm điểm tâm và đi với con gái ra ga. Hai bố con có ít thì giờ nên mua cà phê ở siêu thị mini rồi ngồi trên ghế dài ở cuối sân ga chuyện gẫu về mọi thứ ở đời. Cho đến khi Pernilla nói:

    - Bố không thích việc con đến Skelleftea sao?

    Anh không thích.

    - Không nguy hiểm đâu mà. Nhưng bố không theo đạo Cơ đốc, đúng không?

    - À, muốn gì thì bố cũng không phải là một người ngoan đạo.

    - Bố không tin Chúa?

    - Bố không tin Chúa nhưng bố trọng việc con tin Chúa. Ai cũng có một cái gì để mà tin vào cả.

    Tàu đến, hai bố con ôm nhau lâu cho tới khi Pernilla lên tàu. Một chân trên bậc lên xuống, cô quay lại.

    - Bố, con sẽ không đổi đạo. Bố tin hay không, chuyện ấy không quan trọng với con, con luôn yêu bố. Nhưng con nghĩ bố nên nghiên cứu tiếp Kinh thánh đi.

    - Sao con nói thế?

    - Con thấy các câu bố trích dẫn ở trên tường. – Cô nói. – Nhưng ủ ê với căng đầu óc lên làm gì thế chứ hả bố? Hôn bố nhiều. Gặp nhau sau.

    Cô vẫy tay rồi đi khuất. Anh đứng trên sân ga, thẫn thờ, nhìn con tàu kéo đi. Nó chưa kịp biến vào sau khúc quành, thì ý nghĩa đã bị chìm nghỉm mất.

    Mikael nhào ra khỏi nhà ga. Phải gần một tiếng nữa chuyến xe buýt cuối cùng mới lăn bánh. Anh quá sốt ruột để có thể chờ lâu như thế. Anh ra trạm xe buýt tìm Hussein người lái có cái giọng Norrland.

    Mười phút sau anh ở trong phòng làm việc của mình. Anh tính toán cái mẩu giấy để ở trên bàn:

    Magda – 32016

    Sara – 32109

    R.J. – 30112

    R.L. – 32027

    Mari – 32018

    Anh nhìn quanh phòng. Rồi anh nhận ra là anh có thể tìm được một cuốn Kinh thánh ở đây. Anh mang tờ giấy kia đi tìm các chìa khóa mà anh để trong một cái bát trên thành cửa sổ rồi rảo chân đi sang căn nhà gỗ của Gottfried. Tay anh thật sự run run khi anh cầm quyển Kinh thánh xuống khỏi giá sách.

    Harriet không viết số điện thoại. Các con số chỉ các chương và khổ thơ trong Leviticus, quyển ba trong Pentateuch 1.

    (Magda) Leviticus, 20:16

    “Nếu một người đàn bà lại gần và nằm với một con thú thì ngươi phải giết người đàn bà cùng con thú; chúng phải bị xử chết, chúng phải bị nhuốm máu chính chúng”.

    (Sara) Leviticus, 21:9

    “Nếu con gái của bất cứ thầy tế nào, tự làm ô uế nó bằng hành nghề đĩ thì cũng làm ô uế chính cả bố nó; đứa con gái sẽ bị lửa thiêu”.

    (R.J.) Leviticus, 1:12

    “Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ”.

    (R.L.) Leviticus, 20:27

    “Một người đàn ông hay một người đàn bà làm đĩ hay phù thủy thì sẽ bị xử chết, chúng sẽ bị ném bằng đá, máu sẽ nhuốm người chúng”.

    (Mari) Leviticus, 20:18

    “Nếu một người đàn ông nằm với một người đàn bà đang đau ốm và phơi trần truồng người đàn bà ra, làm lộ cái giếng của người đàn bà và người đàn bà cũng để lộ ra máu tháng của mình thì cả hai sẽ bị đồng loại ruồng bỏ”.

    Anh ra ngoài ngồi ở cổng mái. Mỗi khổ thơ ở trong cuốn Kinh thánh của Harriet đều được gạch dưới. Anh châm một điếu thuốc và nghe chim hót xung quanh.

    Anh đã có các con số. Nhưng anh chưa có tên. Magda, Sara, Mari, R.J., R.L.

    Trong khi đầu óc Blomkvist làm một cú nhảy đầy linh cảm thì một vực thẳm thình lình mở ra. Anh nhớ đến nạn nhân hỏa hoạn ở Hedestad mà sĩ quan điều tra Morell đã bảo với anh. Vụ của Rebecka xảy ra cuối những năm 40. Cô gái bị hiếp dâm và giết, đầu bị đặt lên trên đống than đá mốc meo. “Và nó sẽ bị tùng xẻo cùng với đầu và mỡ của chính nó rồi thầy tế sẽ đặt chúng lên trên củi của ngọn lửa trên bàn thờ”. Rebecka. R.J. Họ của cô ta là gì?

    Nhân danh Chúa Harriet đã dính líu vào chuyện gì đây?

    Vanger đổ bệnh. Ông nằm trên giường khi Blomkvist gõ cửa. Nhưng Anna cho anh vào, bảo anh có thể thăm ông già vài phút.

    - Bị cảm mùa hè ấy mà. – Vanger giải thích, sụt sịt. – Anh muốn gì?

    - Tôi muốn hỏi một câu.

    - Thế hả?

    - Ông có nghe nói đến một vụ giết người xảy ra ở Hedestad vào một lúc nào đó hồi những năm 40 không? Một cô gái tên là Rebecka – đầu cô ta bị đặt trên lửa.

    - Rebecka Jacobsson, - Henrik nói ngay, không ngập ngừng. Cái tên này tôi không bao giờ quên, tuy trong nhiều năm, tôi không nghe nhắc đến.

    - Nhưng ông có biết vụ án mạng này?

    - Thì biết chứ. Khi chết Rebecka Jacobsson hai mươi ba hay hai mươi tư tuổi. Phải là vào quãng… Đó là năm 1949. Người ta la hét quát tháo ghê gớm lắm, tôi cũng góp một phần nho nhỏ ở trong đó.

    - Ông có góp?

    - Ô có. Rebecka là ở trong bộ phận thư ký của chúng tôi, một cô gái được lòng dân và rất hấp dẫn. Nhưng sao anh lại hỏi chuyện này?

    - Henrik, tôi không chắc lắm, nhưng có thể có một cái gì đó. Tôi sẽ phải nghĩ đến nơi đến chốn chuyện này.

    - Anh đoán là giữa Rebecka với Harriet có một quan hệ gì đó ư? Đã gần… mười bảy năm chia cách hai người ấy rồi còn gì.

    - Để tôi nghĩ và mai nếu ông khỏe hơn tôi sẽ đến gặp.

    Ngày hôm sau Blomkvist không gặp Henrik. Ngay trước 10 giờ sáng khi đang ngồi ở bàn bếp đọc cuốn Kinh thánh của Harriet thì anh nghe thấy tiếng xe hơi phóng nhanh qua cầu. Anh nhòm qua cửa sổ thấy ánh đèn xanh nhay nháy của xe cứu thương.

    Như linh tính báo trước, anh chạy ra ngoài. Chiếc xe cứu thương đỗ ở bên nhà Henrik Vanger. Đèn tầng trệt đều bật hết. Anh lao tới bậc tam cấp của cổng mái và thấy Anna đang run lẩy bẩy ở gian sảnh.

    - Tim ông ấy, - bà nói. – Trước đây một lát ông ấy đánh thức tôi dậy, kêu là bị đau ở ngực. Rồi quỵ xuống.

    Blomkvist quàng tay ôm người quản gia, vừa lúc các thầy thuốc đi ra với Henrik Vanger bất tỉnh ở trên một cái cáng. Martin Vanger nom căng thẳng ra mặt, đi ở đằng sau. Anh đã đi nằm thì Anna gọi.

    Chân anh không bít tất sục vào đôi dép lê và anh cũng không đóng cả khóa quần. Anh khẽ chào Blomkvist rồi quay sang Anna.

    - Tôi đi với ông đến bệnh viện. Gọi Birger và xem bà có liên hệ được với Cecilia ở London sáng nay không, - anh nói. – Và báo cả Dirch.

    - Tôi có thể đến nhà Dirch. – Blomkvist nói. Anna gật đầu cám ơn.

    Phải mất vài phút thì Frode ngái ngủ mới trả lời tiếng chuông cửa Blomkvist bấm.

    - Tin xấu đây, Dirch. Henrik phải đi bệnh viện rồi. Hình như bị một cơn đau tim. Martin muốn tôi báo cho ông.

    - Lạy Chúa. – Frode nói. Ông liếc đồng hồ - Thứ Sáu ngày 13. – Ông nói.

    Phải đến sáng hôm sau, sau khi chuyện vắn với Dirch Frode qua di động và yên tâm rằng Vanger vẫn sống, Blomkvist mới gọi Berger cho tin đối tác mới của Millennium đã bị đưa đến bệnh viện vì một cơn đau tim. Không tránh khỏi là Berger đã buồn rầu và lo lắng nhận cái tin này.

    Sắp tối thì Frode đến gặp anh để cho biết tình hình cụ thể của Henrik Vanger.

    - Ông ấy sống nhưng còn mệt nhiều. Ông ấy bị một cơn đau tim nghiêm trọng và lại bị cả viêm nhiễm gì đó.

    - Ông có gặp ông ấy không?

    - Không. Ông ấy đang trong chế độ hồi sức cấp cứu. Martin và Birger hiện ngồi với ông ấy.

    - Có qua khỏi được không?

    Frode huơ huơ bàn tay.

    - Ông ấy sống qua cơn đau tim, đó là tin vui. Tình hình Henrik là tốt nhưng ông ấy đã già. Chúng ta cứ chờ xem.

    Họ ngồi im lặng, chìm trong suy nghĩ. Blomkvist pha cà phê. Frode nom rất không vui.

    - Tôi cần hỏi ông là bây giờ chuyện sẽ thế nào. – Blomkvist nói.

    Frode ngước lên nhìn.

    - Ông vẫn cứ được thuê mướn, không có gì thay đổi. Việc này đã được quy định trong hợp đồng có giá trị đến cuối năm nay, dù Henrik sống hay chết thì vẫn thế.

    - Không, tôi không có ý ấy. Tôi nghĩ là khi ông ấy vắng mặt thì tôi báo cáo với ai.

    Frode thở dài.

    - Mikael, anh biết rõ cũng như tôi mà, tất cả câu chuyện về Harriet chỉ là trò giải trí trong lúc nhàn rỗi của Henrik.

    - Đừng nói thế, Dirch.

    - Thế anh định nói gì?

    - Tôi tìm ra bằng chứng mới. – Blomkvist nói. – Hôm kia tôi đã nói một ít với Henrik, tôi rất sợ là việc ấy đã góp phần làm cho ông ấy lên cơn đau tim thôi.

    Frode nhìn anh với cái vẻ lạ lùng.

    - Anh nói đùa, anh chắc…

    Blomkvist lắc đầu.

    - Trong ít ngày qua, tôi đã tìm ra một vài chứng cớ có ý nghĩa về việc Harriet mất tích. Tôi lo là chúng ta chưa bàn tới việc tôi sẽ báo cáo với ai khi Henrik không còn ở đây.

    - Anh báo cáo với tôi.

    - OK. Tôi sẽ cứ theo như thế mà tiếp tục. Tôi có thể cho ông thấy qua tình hình bây giờ chứ?

    Blomkvist cố hết sức nói cho cụ thể những gì anh đã tìm thấy và cho Frode xem xê ri ảnh ở Jarnvagsgatan. Rồi anh giải thích việc con gái anh đã giải mã bí mật những cái tên trong cuốn sách có ngày tháng như thế nào. Cuối cùng anh đề nghị, như anh đã đề nghị với Vanger ngày hôm trước, gắn vụ Harriet vào với vụ giết chết Rebecka Jacobsson năm 1949, R.J.

    Điều duy nhất anh giữ cho riêng anh là khuôn mặt của Cecilia Vanger ở cửa sổ buồng Harriet. Anh cần nói chuyện với chị trước để báo chị biết rằng anh đặt chị vào một vị trí mà chị có thể bị nghi ngờ về một điều gì ở đó.

    Lông mày Frode cau rúm lại suy nghĩ.

    - Anh thật sự nghĩ vụ giết Rebecka là có liên quan gì đó với chuyện Harriet mất tích chứ?

    - Xem có vẻ thì như là không, nhưng sự thật là Harriet đã viết hai chữ tắt R.J. trong sổ ngày tháng của cô ấy bên cạnh các quy chiếu đến luật của Kinh Cựu ước về việc hỏa thiêu để hiến tế. Rebecka Jacobsson bị thiêu chết. Có một mối liên hệ với nhà Vanger mà không thể tránh né được – đó là cô ta làm việc cho tập đoàn.

    - Nhưng liên quan với Harriet ở cái gì mới được chứ?

    - Tôi chưa biết. Nhưng tôi muốn tìm ra. Tôi sẽ nói ông mọi cái mà tôi đã nói với Henrik. Ông phải quyết định thay cho ông ấy.

    - Có lẽ chúng ta phải báo cảnh sát.

    - Không. Ít nhất phải được phép của Henrik đã. Vụ Rebecka đã hết thời hiệu rồi, điều tra của cảnh sát cũng đã đóng lại. Họ không đời nào đi mở lại một cuộc điều tra đã thôi từ năm mươi tư năm về trước.

    - Đúng. Vậy anh định làm gì?

    Blomkvist đi một vòng quanh bếp.

    - Thứ nhất, tôi muốn lần theo manh mối bức ảnh này. Nếu tôi xem được cái mà Harriet đã trông thấy… thì nó có thể là cái chìa mở. Tôi cần một cái xe để đi Norsjo lần theo manh mối này, bất kể nó dẫn tôi đến đâu. Và tôi cũng muốn nghiên cứu từng khổ thơ trong Leviticus. Chúng ta có một móc xích với một vụ án mạng. Chúng ta có bốn khổ thơ, có thể là bốn đầu mối khác. Để làm việc này… tôi cần giúp đỡ.

    - Anh cần giúp kiểu gì?

    - Tôi thật sự cần một trợ lý nghiên cứu có lòng kiên nhẫn sục kỹ vào tất cả các hồ sơ báo chí cũ để tìm “Magda” và “Sara” và các tên khác. Nếu như tôi đúng khi nghĩ rằng Rebecka không phải là một nạn nhân.

    - Anh định nói là anh muốn để một người nào đó tham gia…

    - Có nhiều việc phải làm và cần nhanh. Nếu tôi là một sĩ quan cảnh sát liên quan đến một cuộc điều tra tích cực thì tôi sẽ chia thì giờ và tài lực ra và sẽ có người đào bới cho tôi. Tôi cần một người chuyên môn am hiểu công việc hồ sơ và có thể tin cậy được.

    - Tôi hiểu… Tôi thật sự có biết một chuyên gia nghiên cứu. – Frode nói và chưa kịp ngừng lại ông đã tiếp luôn. – Cô ta là người đã điều tra về quá khứ của ông.

    - Ai làm cái gì cơ? – Blomkvist nói.

    - Tôi buột miệng thôi. – Frode nói. – Không có gì cả. – “Mình già mất rồi”, ông nghĩ.

    - Ông nhờ ai điều tra về tôi?

    - Không có gì quan trọng cả, Mikael. Chúng tôi muốn mướn anh thì chúng tôi cần kiểm tra xem anh là người thế nào thôi.

    - Thảo nào mà Henrik biết là tìm được tôi chính xác ở đâu. Điều tra ấy kỹ đến mức nào?

    - Khá là kỹ.

    - Nó có nhòm vào các vấn đề của Millennium không?

    Frode nhún vai.

    - Nó có một ý nghĩa.

    Blomkvist châm thuốc lá, điếu thứ năm của hôm nay.

    - Một báo cáo viết ư?

    - Mikael, không có gì để phải bận tâm về nó đâu mà.

    - Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Anh nói.

    - Ô thôi, toàn là chuyện thường thường cả. Chúng tôi muốn kiểm tra về anh trước khi mướn.

    - Tôi muốn đọc bản báo cáo. – Blomkvist nhắc lại.

    - Tôi không thể cho phép việc đó.

    - Thật ư? Vậy thì tôi sẽ nói với ông điều này: Hoặc trong một giờ tôi có báo cáo đó trong tay hoặc tôi bỏ tất. Tôi sẽ đi chuyến tàu tối trở về Stockholm. Bản báo cáo ấy đâu?

    Hai người nhìn nhau một lúc. Rồi Frode thở dài quay đi.

    - Ở văn phòng tôi, tại nhà.

    Frode đã quan trọng hóa lên ghê gớm. Phải tới 6 giờ tối hôm ấy Blomkvist mới cầm được bản báo cáo của Lisbeth Salander. Nó dài gần tám chục trang, cộng vài chục ảnh, những bài báo và các ghi băng khác về các chi tiết của đời sống và nghề nghiệp của anh.

    Đọc chính ngay đời mình dưới dạng vừa có phần là tự truyện vừa có phần là do thám tình báo là một trải nghiệm kỳ lạ. Càng đọc anh càng ngạc nhiên với bản báo cáo làm sao mà chi tiết được đến thế. Salander đã đào bới lên những việc anh ngỡ đã bị vùi sâu lâu rồi ở trong mùn trong cặn của thời gian. Cô đã bới lên quan hệ thời trẻ của anh với một phụ nữ từng là một người hoạt động công đoàn rực lửa và nay là một chính trị gia. Cô ta đã nói chuyện với ai đây? Cô ta đã tìm ra băng nhạc rock Bootstrap của anh, điều mà chắc chắn nay chả còn ai nhớ nữa. Cô đã soi vào tài khoản của anh chi li cho đến đồng xu cuối cùng. Cái quỷ gì mà cô ta lại làm được như thế chứ?

    Là nhà báo, Blomkvist đã từng bỏ nhiều năm ra săn thông tin về những người khác và anh có thể đánh giá được chất lượng của việc săn lùng này thuần túy chỉ ở trên lập trường nghiệp vụ. Rõ ràng cái cô Salander này là một dân điều tra siêu thủ đây. Nếu phải tìm hiểu về một người hoàn toàn xa lạ thì chính anh cũng khó có thể làm được bản báo cáo chi tiết đến vậy. Bản báo cáo cũng làm cho anh sáng ra là chả có lý do gì khiến cho anh và Berger cứ phải giữ kẽ trước mặt Henrik Vanger; ông đã biết tới quan hệ của hai người. Bản báo cáo còn đi tới chỗ đánh giá chính xác đến mức phiền toái hoàn cảnh tài chính của Millennium; lần đầu tiếp xúc với Berger, Henrik đã biết tỏng tình trạng của tờ tạp chí lung lay ra sao. Ông ta đang chơi trò gì đây?

    Vụ Wennerstrom đã được tóm tắt lại nhưng rõ ràng bất cứ ai viết báo cáo này đều phải là một người dự phiên tòa. Bản báo cáo thắc mắc việc Blomkvist từ chối bình luận trong phiên tòa. Người đàn bà này thông minh đây.

    Ngay giây phút sau đó, Blomkvist đã bổ chửng ra, không tin nổi con mắt mình. Salander đã viết một đoạn ngắn đưa ra những đánh giá của cô về điều sẽ xảy ra sau phiên tòa. Cô đã cho nhắc lại từng lời một bản thông cáo báo chí nói rằng anh và Berger đã đầu hàng sau khi anh từ chức chủ bút của Millennium.

    Nhưng cô ta đã dùng chữ nghĩa độc đáo của mình. Anh lại liếc vào bìa bản báo cáo. Nó được thảo ra ba hôm trước ngày tòa nghị án Blomkvist. Thật là không thể nào có được. Lúc ấy thông cáo báo chí chỉ tồn tại có ở một nơi trên toàn thế giới. Là ở trong máy tính của Blomkvist. Ở trong iBook của anh, và không ở trong máy tính của văn phòng. Bản báo cáo không bao giờ được in ra. Bản sao Berger cũng không có, tuy hai người đã nói đến vấn đề này.

    Blomkvist đặt bản báo cáo của Salander xuống. Anh mặc jacket vào và đi ra ngoài vào trong đêm, trước lễ Giữa Mùa hè một tuần, đêm rất sáng. Anh đi dọc bờ của eo biển, qua cơ ngơi của Cecilia Vanger và chiếc thuyền máy lộng lẫy ở bên dưới biệt thự của Martin Vanger. Anh bước thong thả, vừa đi vừa ngẫm nghĩ. Cuối cùng anh ngồi lên một tảng đá nhìn ánh sáng nhấp nháy của phao chỉ đường trong vịnh Hedestad. Chỉ có duy nhất một kết luận mà thôi.

    - Cô đã vào máy tính của tôi, cô Salander. – Anh nói to lên. – Cô là một hacker chết rấp.
    --------------------------------
    1Pentateuch là năm quyển trong Kinh Cựu ước

  11. #20
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,796
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 18

    Thứ Tư, 18 tháng Sáu

    Salander giật mình tỉnh dậy sau một giấc ngủ không mộng mị. Không phải quay đầu cô cũng biết Mimmi đã đi làm nhưng mùi của cô ta vẫn lẩn quất trong không khí ngột ngạt của phòng ngủ. Đêm qua Salander đã uống quá nhiều bia với nhóm. Những Ngón tay Tội lỗi ở Mill,Mimmi đã hiện ra không lâu trước giờ đóng cửa rồi cùng với cô về nhà và lên giường.

    Không giống Mimmi, Salander không bao giờ nghĩ mình là một đồng tính nữ. Cô không bao giờ loay hoay nghĩ xem mình là bình thường, đồng tính nữ hay là cả nữ lẫn nam. Cô không thèm bận tâm đến những cách gọi ấy, hàng đêm cô ngủ với ai là việc của cô. Nếu phải chọn thì cô thích bọn con trai hơn – và xét theo thống kê thì bọn chúng là vai chính. Vấn đề duy nhất là tìm ra một đứa không phải là một thằng cả ngố và tốt được cả ở trên giường. Mimmi là một thỏa hiệp ngon lành. Hai người gặp nhau ở một lều vải bán bia trong Liên hoan Tự hào năm ngoái. Và Mimmi là người duy nhất mà Sanlander giới thiệu vào Những Ngón tay Tội lỗi. Nhưng nó vẫn chỉ là một chuyện phất phơ với cả hai. Nằm sát vào thân người ấm, mềm mại của Mimmi thì thích nhưng Sanlander không thiết thức dậy cùng với Mimmi rồi ăn điểm tâm với nhau.

    Đồng hồ cho biết là 9 rưỡi và cô đang nghĩ xem cái gì đã đánh thức cô thì chuông cửa réo. Cô ngạc nhiên ngồi lên. Không ai bấm chuông vào nhà cô giờ này xưa nay. Rất ít người bấm chuông nhà cô thật. Cô quấn một mảnh vải quanh người rồi uể oải đi ra gian sảnh để mở cửa. Cô va ngay phải mắt Mikael Blomkvist, cảm thấy sự hoảng hốt chạy qua người, cô lùi lại một bước.

    -Chào cô Salander. – Anh chào cô nồng nhiệt. – Đêm ngủ muộn, tôi thấy mà, tôi có vào được không?

    Không đợi cô trả lời, anh đi ngay vào, đóng cửa lại. Anh tò mò nhìn chồng quần áo ở trên sàn gian sảnh và một bức tường thành những ba lô nhồi đầy báo; rồi anh nhòm qua cửa phòng ngủ trong khi thế giới của Salander bắt đầu quay tít vào một phương hướng sai. Sao đây? Cái gì? Ai? Blomkvist thú vị nhìn vẻ hoang mang của cô.

    -Tôi cho là cô chưa ăn điểm tâm cho nên đã mang đến vài ổ bánh mì có nhân đây. Tôi có một cái với thịt bò quay, một với gà tây và mù tạc Dijon Pháp, một cái chay với quả bơ, không biết cô thích thứ gì, - Anh đi vào bếp và bắt đầu cọ rửa máy pha cà phê. – Cà phê cô để ở đâu? – Anh hỏi.

    Sadander đứng như trời trồng ở gian sảnh cho đến khi nghe thấy tiếng nước chảy. Cô nhảy vội ba bước vào.

    -Ngừng! Ngừng ngay! – Cô nhận thấy mình quát lên nên hạ giọng xuống. – Cái quỉ gì thế này, anh không được đâm bổ vào đây như là chủ của chỗ này vậy. Anh và tôi chưa hề biết nhau cơ mà.

    Blomkvist dừng tay, cầm một cái bình to quay lại nhìn cô.

    -Sai! Cô biết tôi gần như hơn bất kể một ai khác đấy. Có phải thế không? – Anh quay lưng lại cô, đổ nước vào máy pha cà phê. Rồi anh mở tủ li tìm cà phê. – Nói lại chuyện kia, tôi biết cô làm như thế nào. Tôi biết các bí mật của cô mà.

    Salander nhắm mắt lại, mong sàn nhà sẽ thôi sụt xuống ở dưới chân mình. Cô rơi vào trạng thái mụ mị. Cô như bị treo lơ lửng. Tình thế này là không thật mà đầu óc cô thì nó đực ra. Chưa bao giờ cô gặp một trong những đối tượng điều tra của cô mà lại đối mặt như thế này. Hắn biết mình ở đâu! Hắn đang đứng ở trong bếp của cô. Không thể có được. Thật là xúc phạm. Hắn lại biết mình là ai nữa chứ! Cảm thấy mảnh vải tụt xuống, cô bèn quấn chặt nó lại vào người. Anh nói cái gì đó nhưng cô thoạt đầu không hiểu.

    -Chúng ta phải nói chuyện. – Anh lại nói. – Nhưng tôi thấy trước hết cô nên đi tắm đi đã.

    Cô cố nói cho mạch lạc.

    -Anh nghe tôi nói này – nếu anh định gây lôi thôi rắc rối thì tôi không phải là người để mà nói chuyện đâu. Tôi đúng là đang có việc làm. Anh có thể nói chuyện với ông chủ của tôi.

    Anh giơ hai tay lên. Một tín hiệu có tính toàn cầu về hòa bình hay là tôi không có vũ khí.

    -Tôi đã nói chuyện với Armansky. Nhân đây, ông ấy muốn cô gọi cho ông ấy – đêm qua ông ấy gọi và cô không trả lời.

    Không cảm thấy bị đe dọa nhưng cô vẫn lùi lại một bước khi anh đến cầm tay cô đưa tới cửa buồng tắm. Cô ghét ai sờ vào người mà không được phép của cô.

    -Tôi không muốn làm lôi thôi rắc rối, - anh nói, - Nhưng tôi rất sốt ruột muốn nói chuyện với cô. Sau khi cô đã dậy, là nói như thế. Cô mặc quần áo xong thì cà phê cũng xong. Trước hết hãy tắm đi. Nào, phới lẹ!

    Cô bị động nghe theo. Lisbeth Salander không bao giờ bị động, cô nghĩ.

    Cô tựa vào cửa buồng tắm cố sắp xếp lại ý nghĩ. Cô run chứ không như cô tưởng là mình có thể kiềm chế. Dần dần cô nhận ra tắm không chỉ là một lời khuyên hay mà còn là một tất yếu cho mọi trò quấy rối đêm qua. Tắm xong cô lẻn vào buồng ngủ, mặc quần jean và cái áo phông có chạy dòng chữ ARMADEDDON WAS YESTERDAY, TODAY WE HAVE A SERIOUS PROBLEM. 1

    Nghỉ chừng một tích tắc, cố tìm trong túi áo jacket da vắt trên ghế, cô lấy khẩu súng bắn điện ra kiểm tra xem nó có nạp điện không nhét vào túi sau quần jean. Mùi cà phê lan đi khắp căn hộ. Cô hít một hơi dài rồi trở vào trong bếp.

    -Cô không dọn dẹp bao giờ ư?

    Anh đã để các đĩa bẩn và gạt tàn thuốc lá vào đầy chậu rửa, anh đã cho những hộp sữa cũ vào một túi rác và lau sạch bàn bằng báo chí của năm tuần rồi bày ra mấy cái bình và bánh mì – thế ra anh ta nói thật kìa. Ok, để xem rồi dẫn đến đâu. Cô ngồi xuống trước mặt anh.

    -Cô chưa trả lời tôi. Bò quay, gà tây hay chay?

    -Bò quay.

    -Vậy thì tôi ăn gà tây.

    Họ ăn lặng lẽ, quan sát lẫn nhau. Ăn xong suất mình, cô làm luôn một nửa suất chay. Cô nhặt lên một bao thuốc lá nhàu nát ở trên bậu cửa sổ moi ra một điếu. Anh phá bầu không khí im lặng trước.

    -Tôi có thể không giỏi điều tra bằng cô nhưng ít nhất tôi cũng tìm thấy cô không phải là dân ăn chay hay chê ăn như ông Frode tưởng. Tôi sẽ nạp thông tin này vào bản báo cáo của tôi.

    Salander trừng trừng nhìn anh nhưng nom anh quá vui nên cô cũng mỉm cười một cái cho phải lệ. Tình hình thật sự là khó hiểu và khó đối phó. Cô nhấp cà phê. Anh ta có con mắt hiền. Cô cả quyết rằng anh ta có thể là bất cứ cái gì nhưng không phải là người hiểm độc. Và trong điều tra về anh ta cũng không có cái gì cho thấy anh ta là một tên vô lại xấu xa lạm dụng các bạn gái hay bất cứ điều gì tương tự. Cô nhớ ra mình là kẻ đã biết mọi sự. Hiểu biết là quyền lực.

    -Anh cười cái gì?

    -Tôi xin lỗi. Thật ra tôi không có ý ra mắt theo kiểu này. Tôi không muốn làm cho cô sợ. Nhưng cô nên nhìn mặt cô lúc mở cửa. Không ra thế nào cả.

    Im lặng. Salander ngạc nhiên thấy cô có thể chấp nhận được việc anh đường đột không mời mà đến – ít nhất thì cũng không thấy nó là khó chịu.

    -Chắc cô nghĩ tôi đến trả thù việc cô đã thọc vào đời sống riêng của tôi – Anh nói. – Cô có sợ không?

    -Không chút nào.

    -Tốt. Tôi đến đây không phải để gây lôi thôi cho cô.

    -Cho là anh cố làm cho tôi bị tổn hại đi nữa thì chắc là tôi cũng sẽ phải làm cho anh bị tổn hại một cái gì đó tương tự.

    Blomkvist quan sát kỹ cô gái. Cô chỉ cao thước rưỡi hay nhỉnh hơn chút ít và nom vẻ chả có mấy nả để chống cự nếu anh là một kẻ tấn công đã xộc được vào nhà cô. Nhưng không để lộ một vẻ gì, mắt cô trông bình thản.

    -Được, việc đó là không cần thiết. – Cuối cùng anh nói. – Tôi chỉ cần nói chuyện với cô. Nếu cô muốn tôi đi thì cô cứ việc nói. Như thế thì ngộ đấy nhưng…, à không có gì cả…

    -Cái gì?

    -Cái này nghe điên đây nhưng bốn hôm trước tôi thậm chí chả biết là có cả cô nữa kia. Rồi tôi đọc bản báo cáo cô phân tích về tôi. – Anh tìm trong chiếc ba lô và lấy bản báo cáo ra. – Cái này không phải là thứ đọc thú vị.

    Anh nhìn ra ngoài cửa sổ bếp một lúc.

    -Tôi hút thuốc lá được chứ?

    Cô hẩy bao thuốc trượt trên mặt bàn.

    -Cô nói rằng chúng ta không biết nhau nhưng tôi nói là có đấy, chúng ta có biết nhau. – Anh chỉ vào bản báo cáo. – Tôi không đọ được với cô. Tôi chỉ kiểm tra theo nếp quen làm gấp gáp để cho cô ngày tháng năm sinh và địa chỉ của một ai đó, các thứ đại khái thế. Nhưng chắc cô biết nhiều về tôi. Phần lớn những điều ấy là riêng tư, khỉ thế, những điều chỉ có bạn tôi biết. Thế rồi bây giờ tôi ở đây, ngồi ở trong bếp của cô ăn bánh mì với cô. Chúng ta mới biết nhau có nửa giờ nhưng tôi có cảm giác chúng ta đã là bạn bè nhiều năm rồi. Cái đó có nghĩa gì với cô không?

    Cô lắc.

    -Mắt cô đẹp. – Anh nói.

    -Mắt anh cũng hay. – Cô nói.

    Im lặng hồi lâu.

    -Tại sao anh đến đây? – Cô nói.

    Kalte Blomkvist – cô nhớ lại biệt hiệu này và kìm không nói to nó ra – thình lình nom vẻ nghiêm chỉnh. Cũng có vẻ mệt. Vẻ tự tin anh cho thấy lúc mới đến đã không còn. Trò hề đã hết, hay ít nhất đã được cất đi. Cô cảm thấy mình đang bị anh quan sát kỹ lưỡng.

    Salander cảm thấy điệu bộ mình chỉ là xốc nổi bề ngoài, mình hoàn toàn không tự kiểm soát được thần kinh gân cốt. Cuộc đến thăm hoàn toàn không chờ đợi này đã làm cô lay động theo một kiểu mà cô chưa từng bao giờ trải qua, xét về mặt công việc. Cơm áo của cô là nhờ do thám mọi người. Trong thực tế cô chưa từng coi điều cô làm cho Armansky là một công việc đích thực, cô nhiều phần coi nó là một trò tiêu khiển phức tạp, một thú vui cá nhân như đã bị nghiền.

    Sự thật là cô thích đào bới vào cuộc đời người khác, khám phá các bí mật mà họ đang cố che giấu. Như cô có thể nhớ thì cô làm chuyện đó hoặc với cách này hoặc với cách kia mà thôi. Và hiện bây giờ cô cũng đang làm chuyện đó, không phải cô chỉ làm khi nào Armansky trao cho cô mà đôi khi cô còn làm vì cái sự hay hay thuần túy của nó nữa. Nó kích động cô. Nó giống như một trò chơi game máy tính phức tạp, trừ một điều là nó dính đến cuộc đời thực sự của con người ta. Và nay một trong những thú vui riêng của cô lại đang ngồi ngay chính tại nhà cô đây, trong gian bếp này, cho cô ăn bánh nhân thịt bò quay. Thật là phi lý hết nói.

    -Tôi có một vấn đề hấp dẫn, - Blomkvist nói. – Cô hãy cho tôi biết điều này, là khi cô điều tra nghiên cứu về tôi cho ông Frode, cô có biết người ta sẽ dùng nó vào chuyện gì không.

    -Không.

    -Mục đích tìm ra tất cả thông tin về tôi là vì lẽ Frode, hay đúng hơn vì chủ của ông ấy, muốn cho tôi làm một công việc tự do.

    -Tôi thấy.

    Anh mỉm một nụ cười héo hon với cô.

    -Một hôm nào đó tôi với cô nên thảo luận về đạo đức học của việc rình mò vào cuộc đời của thiên hạ. Nhưng ngay bây giờ tôi có một vấn đề khác. Cái việc người ta trao cho tôi, mà không hiểu sao tôi đã nhận làm, rõ ràng là một việc lạ lùng nhất tôi từng gánh vác. Trước khi nói thêm nữa, tôi cần tin được cô, Lisbeth.

    -Ý anh là gì?

    -Armansky bảo tôi rằng cô trăm phần trăm đáng tin cậy. Nhưng tôi vẫn muốn hỏi cô. Tôi có thể kể với cô những chuyện bí mật mà không bị cô đem kể ra với bất cứ ai khác, bằng bất cứ một kiểu gì, được không?

    -Khoan đã. Anh đã nói chuyện với Dragan? Có phải ông ta là người bảo anh đến đây không? “Ta sẽ giết ngươi, cái tên Armenia ngu ngốc chết giẫm này”.

    -Không đúng. Không phải chỉ cô duy nhất mới tìm được địa chỉ của người khác, tôi đã tự làm lấy việc đó. Tôi tìm cô ở trong sổ danh bạ quốc gia. Trong đó có ba Lisbeth Salander nhưng hai người không khớp lắm. Nhưng hôm qua tôi có nói chuyện với Armansky. Ông cũng nghĩ tôi sẽ gây lôi thôi cho cô vì đã đi chọc ngoáy vào đời sống riêng tư của tôi. Cuối cùng tôi đã thuyết phục được ông rằng tôi có mục đích hợp lệ.

    -Là gì?

    -Như tôi đã nói đấy, ông chủ của Frode mướn tôi làm một việc. Tôi đã đến bước cần có một điều tra viên giỏi. Frode nói với tôi về cô, bảo cô là người khá tốt. Ông ấy không có ý nói tung tích cô, chỉ là buột ra tự nhiên thôi. Tôi nói rõ với Armansky là tôi cần gì. Ông ta chấp nhận tất cả và cố gọi cho cô. Giờ thì tôi đây, ở nhà cô. Gọi ông ấy đi nếu cô muốn.

    Sờ lần mất một lúc trong đống quần áo, Salander mới tìm thấy chiếc di động mà Mimmi đã lấy ra nghịch.

    Blomkvist vừa thú vị nhìn cô lóng ngóng tìm vừa quan sát căn hộ. Tất cả đồ đạc nội thất của cô hình như đều là lạc đường quên lối mà đến đây. Cô có một máy tính PowerBook cực hiện đại đặt ở trên một cái được cho là bàn làm việc ở trong phòng khách. Một máy quay đĩa trên giá sách. Sưu tập các đĩa CD của cô là một tổng số đáng thương hại gồm các CD chia làm mười nhóm anh chưa nghe bao giờ, các nhạc công trên bìa đĩa nom như những ma cà rồng đến từ ngoài không gian. Nhạc chắc không phải là thích thú lớn của cô.

    Salander nhìn thấy Armansky đã gọi cô bảy lần đêm qua và hai lần sáng nay. Cô bấm vào số điện thoại của ông trong khi Blomkvist tựa khung cửa nghe câu chuyện.

    -Tôi đây… xin lỗi… vâng… nó bị tắt… Tôi biết, anh ấy định mướn tôi… không, anh ấy đang đứng ở giữa phòng khách mẹ kiếp của tôi, vì Chúa… - Cô cao giọng lên. – Dragan, tôi đang lơ mơ vi vu mà đầu thì đau cho nên xin nào, không đùa, việc này ông có OK hay không đấy? Cám ơn.

    Salander nhìn qua cửa vào phòng khách, Blomkvist đang ở đó rút các đĩa CD ra và lấy sách ra khỏi giá. Anh vừa tìm thấy một lọ thuốc màu nâu đã mất nhãn và đưa lên ánh sáng xem. Anh đã sắp vặn nút lọ nên cô nhào ra giật nó về. Cô quay lại bếp ngồi lên một chiếc ghế xoa xoa trán cho đến khi anh vào.

    -Quy định thì đơn giản thôi, - cô nói. – Bất cứ cái gì anh đã bàn với tôi hay với Armansky thì không được tiết lộ với bất cứ ai. Sẽ có một hợp đồng khẳng định rằng An ninh Milton cam kết giữ kín chuyện riêng tư. Tôi muốn biết trước đó là việc gì để xem tôi có muốn làm cho anh hay không. Như thế cũng có nghĩa là tôi bằng lòng giữ những điều anh nói với tôi cho riêng tôi còn tôi có nhận việc đó hay không thì còn phải xem liệu anh đang có một hành động phạm pháp nghiêm trọng gì đó nữa hay không. Trong trường hợp này tôi sẽ báo cáo với Dragan và đến lượt ông ấy sẽ báo cáo với cảnh sát.

    -Tốt. – Anh do dự. – Aramansky có thể không biết hết cái việc mà tôi muốn mướn cô vì…

    -Một nghiên cứu lịch sử nào đó, ông ấy nói thế.

    -À, vâng, thế thì ổn thôi. Tôi muốn cô tìm ra cho tôi một kẻ giết người.

    Blomkvist phải mất cả một giờ để nói rõ mọi chi tiết chằng chịt trong vụ Harriet Vanger. Anh không bỏ sót một chi tiết nào. Anh đã được Frode cho phép mướn Salander và như thế có thể là anh phải tin cậy được cô hoàn toàn.

    Anh nói với cô mọi sự về Cecilia Vanger, cả việc thấy mặt chị ở cửa sổ buồng Harriet. Anh cố hết sức tả rõ tính cách của chị cho cô. Chị đã nhích cao ở trên bảng nghi can mà anh dựng ra. Nhưng anh vẫn lâu mới tin được rằng chị lại có thể cộng tác bằng một cách nào đó với một tên sát nhân đang hoành hành khi chị mới là một cô gái hai mươi tuổi.

    Anh cho Salander bản sao danh sách ở trong quyển sổ ngày tháng: “Magda – 32016; Sara – 32109; R.J – 30112; R.L – 32027; Mari – 32018” và anh cho cô bản sao mấy khổ thơ trong Leviticus.

    -Anh muốn tôi làm gì?

    -Tôi đã nhận dạng được R.J là Rebecka Jacabsson. – Anh cho cô hay năm con số là chỉ cái gì. – Nếu tôi đúng thì chúng ta sẽ tìm ra bốn nạn nhân khác nữa. – Magda, Sara, Mari và R.L.

    -Anh nghĩ là bị giết cả?

    -Điều tôi nghĩ là chúng ta đang tìm một ai đó – nếu các con số khác và các chữ viết tắt đầu tên học kia cũng là cách viết tắt về bốn vụ giết khác của một tên sát nhân đang hoạt động trong những năm 50 và có thể cả ở những năm 60 nữa. Và là người mà bằng một cách nào đó có liên hệ với Harriet Vanger. Tôi đã quay lại các số báo Hedestad Courier. Vụ án mạng Rebecka là cái tội ác duy nhất kỳ cục mà tôi thấy có liên quan với Hedestad. Tôi muốn cô tiếp tục đào bới, khắp Thụy Điển nếu cần, cho đến khi cô hiểu được các tên họ và các khổ thơ kia.

    Salander bình thản suy nghĩ trong im lặng một lúc lâu khiến cho Blomkvist đã sốt ruột. Anh nghĩ hay là đã chọn lầm nơi nhờ vả thì cuối cùng cô ngửng đầu lên.

    -Tôi nhận việc này. Nhưng trước hết anh phải ký một hợp đồng với Armansky.

    Armansky in bản hợp đồng ra để Blomkvist mang về Hedestad cho Frode ký. Khi trở lại phòng làm việc của Salander ông thấy hai người đang chúi xuống chiếc PowerBook của Salander. Tay Blomkvist đặt trên vai Salander – anh ta đang chạm vào cô ta – và chỉ trỏ. Armansky dừng lại ở hành lang. Blomkvist nói cái gì đó có vẻ làm cho Salander ngạc nhiên. Rồi cô cười phá lên.

    Armansky chưa từng nghe cô cười to như thế trước đây và trong nhiều năm ông đã cố tranh thủ lòng tin của cô. Blomkvist gặp cô mới có năm phút và thực tế là cô đã rúc rích với anh ta. Lúc ấy ông thấy ghét Blomkvist đến độ ông phải ngạc nhiên với cả chính mình. Ông đằng hắng khi đứng ở lối ra vào cửa rồi đặt hồ sơ có bản hợp đồng xuống.

    Buổi chiều Blomkvist ghé thăm nhanh Millennium. Đây là lần anh quay về lại đầu tiên. Chạy trên các bậc thang quen thuộc lên gác anh có một cảm giác kỳ lạ. Họ không thay mã số ở các cửa buồng và anh có thể lẻn vào đứng nhìn xung quanh một lúc mà không ai hay.

    Các buồng của Millennium bố trí theo hình chữ L. Chỗ vào là một gian sảnh chiếm mất nhiều không gian có thể dùng vào được nhiều việc. Ở đây có hai ghế sofa nên có thể làm chỗ tiếp khách. Trong nữa là một bếp con cho các bữa trưa nho nhỏ rồi phòng mắc áo kiêm nhà vệ sinh và hai buồng kho với những giá sách và các tủ hồ sơ. Cũng có một bàn làm việc cho người thực tập. Bên phải lối vào là bức tường kính của phòng ảnh của Malm, nơi choán mất trăm rưỡi mét vuông với lối ra vào riêng ở đầu cầu thang. Ở bên trái là buồng biên tập khoảng một trăm mét vuông với các cửa sổ mở ra Gotgatan.

    Berger đã thiết kế mọi cái, tạo nên các vùng phân cách bằng kính để có những khu vực riêng biệt cho ba bốn nhân viên và một mặt bằng không che chắn cho những nhân viên khác. Cô lấy cho mình cái phòng lớn nhất ở tận cuối nhà và cho Blomkvist cái buồng cũ của anh ở đầu cùng đối lại. Đó là buồng duy nhất anh có thể nhìn thấy ngay khi bước vào tòa soạn. Hình như không có ai dọn đến đó.

    Buồng thứ ba hơi ở tách ra khỏi các buồng khác và nó là của Sonny Magnusson, người từ bao nhiêu lâu nay vốn là người rao bán quảng cáo có kết quả nhất của Millennium. Berger đã tự tay kén anh; cô cho anh một đồng lương khiêm tốn và một khoản hoa hồng. Qua năm ngoái, không thấy có sự khác biệt nào về việc anh, với tư cách là một người bán dạo, đã năng nổ đến đâu, thu nhập quảng cáo của họ đã bị thất bát lớn, thu nhập Magnusson cũng theo cùng. Nhưng thay vì nhòm đến nơi khác, anh đã thắt lưng buộc bụng và trung thành trụ lại. Không như mình, kẻ đã gây nên trận lở đất, Blomkvist nghĩ.

    Anh lấy dũng khí đi vào tòa soạn. Nó gần như vắng teo. Anh có thể trông thấy Berger ngồi ở bàn làm việc, điện thoại áp vào tai. Monika Nilsson ở bàn làm việc, một phóng viên như con dao pha nhiều kinh nghiệm chuyên đảm đương các vấn đề chính trị; chị có lẽ là người hoài nghi chán đời bậc nhất mà anh từng gặp. Chị đã ở Millennium chín năm và đang gắng phấn đấu. Henry Cortez là nhân viên trẻ nhất trong ban biên tập. Hai năm trước anh đi thẳng từ JMK đến thực tập ở tạp chí, nói anh thích làm ở đây chứ không ở đâu cả, Berger không có ngân sách để mướn anh nhưng Berger cho anh một bàn giấy ở một góc rồi mau chóng nhận anh làm một người chuyên sinh sự và không lâu thì là một phóng viên.

    Cả hai bên đều kêu lên vui sướng. Má Blomkvist nhận những cái hôn, còn lưng anh thì bị vỗ dồn dập. Mọi người hỏi ngay anh là về làm việc hẳn lại rồi phải không. Không, anh chỉ dừng lại để chào nhau một tiếng và nói với sếp một lời.

    Berger vui được gặp anh. Cô hỏi về bệnh tình Vanger. Blomkvist không biết gì ngoài những cái Frode bảo với anh: bệnh tình của ông nghiêm trọng gần như là khó qua khỏi.

    -Vậy anh làm gì ở thành phố?

    Blomkvist lúng túng. Anh đã ở An ninh Milton, cách đây chỉ có vài khu phố và anh quyết định vào đó thuần túy chỉ là vì cao hứng nhất thời. Hình như giải thích việc anh ở đấy để thuê một trợ thủ điều tra, cái người vốn là một tư vấn an ninh từng đột nhập máy tính của anh, là một điều quá ư phức tạp. Nên thay vì anh nhún vai nói anh về Stockholm vì có việc liên quan đến Vanger và anh sẽ ngược lên bắc ngay bây giờ. Anh hỏi công việc ở tạp chí ra sao.

    -Ngoài tin vui về quảng cáo và thêm khách hàng đặt mua báo ra thì ở đằng chân trời có một đám mây.

    -Là gì?

    -Janne Dahlam.

    -Tất nhiên thôi.

    -Tháng Tư em có nói chuyện với anh ta, sau đó bọn này ra một thông cáo báo chí nói Vanger là đối tác. Em không biết liệu có phải vì tính khí tay Janne Dahlam này tiêu cực hay là có một chuyện gì đó nghiêm trọng hơn đang diễn ra hay không, liệu tay này có đang chơi một trò gì đó không.

    -Xảy ra chuyện gì?

    -Không là chuyện mà em phải nhúng tay vào, đúng ra là em không tin anh ta nữa. Sau khi chúng ta ký bản thỏa thuận với Henrik Vanger, Christer và em đã phải quyết định hoặc thông báo cho tất cả tòa soạn biết rằng chúng ta không còn bị nguy cơ chìm nghỉm trong mùa thu này hoặc…

    -Hoặc chỉ nói với một số ít người được chọn.

    -Đúng. Có thể là em bị tâm thần phân lập nhưng em không muốn có nguy cơ bị Dahlam cho rỉ chuyện này ra. Cho nên bọn em quyết định thông báo cho toàn tòa soạn vào đúng hôm công bố bản thỏa thuận. Nghĩa là bọn em đã giữ bí mật trong hơn một tháng.

    -Và rồi?

    -Đây là mẩu tin hay họ có đầu tiên trong một năm nay. Ai cũng hoan hô trừ Dahlam. Em cần nói – ban biên tập của chúng ta không phải là cái ban lớn nhất thế giới. Chỉ có ba người hoan hô cộng cậu thực tập và một người bực bội vì chúng em thông báo muộn với mọi người.

    -Anh ta có ý kiến…

    -Em biết. Nhưng vấn đề là anh ta cứ chê miết chuyện ấy mà tinh thần trong tòa soạn thì bị ảnh hưởng. Sau hai tuần chết tiệt ấy, em gọi anh ta đến phòng Tổng biên tập bảo thẳng vào mặt anh ta rằng sỡ dĩ em thông báo với tòa soạn muộn vì em không tin anh ta giữ nổi được bí mật cái tin này.

    -Anh ta nghe rồi sao?

    -Ngỡ ngàng ghê gớm, dĩ nhiên chứ. Em kiên quyết và cho anh ta một tối hậu thư – hoặc là anh ta chịu phép hoặc anh ta tìm việc khác.

    -Rồi?

    -Rồi chịu phép em. Nhưng vẫn cứ ta đây lên mặt nên đã có sự căng thẳng giữa anh ta và mọi người. Christer không chịu được anh ta và nói toẹt ra chả giấu gì.

    -Em nghi Dahlam đã làm gì?

    -Em không biết. Ta mướn anh ta một năm trước đây, lúc chúng ta bắt đầu nói đến chuyện lôi thôi với Wennerstorm. Em không chứng minh được là có gì nhưng em có cảm giác khó chịu là anh ta không làm việc cho chúng ta.

    -Đấy chỉ là cảm tính của em.

    -Có thể chỉ là một con sâu tí teo thôi nhưng anh ta đã làm rầu nồi canh.

    -Có thể. Nhưng anh đồng ý là chúng ta đã sai khi mướn anh ta.

    Nửa giờ sau, anh đã ở trên con đường ngược lên phía bắc qua các nút ách tắc tại Slussen trong chiếc xe mượn của vợ Frode. Đó là một chiếc Volvo mười tuổi mà bà không bao giờ dùng. Blomkvist được phép mượn bất cứ lúc nào anh muốn.

    Chính các chi tiết nho nhỏ anh mới dễ bỏ qua nếu như đầu óc anh không cảnh giác: một vài giấy tờ chất lên nhau không phẳng phiu như anh nhớ, một vài cặp hồ sơ không ngay ngắn trên giá, ngăn kéo bàn làm việc của anh đóng khít lại – anh chắc chắn là khi anh rời đi thì nó hở ra đến một đốt ngón tay.

    Một ai đó đã vào căn nhà gỗ của anh.

    Anh đã khóa cửa nhưng đó là một cái khóa cũ mà gần như ai cũng có thể cạy ra bằng một chiếc tua vít và ai mà biết được là hiện có bao nhiêu khóa đang lưu hành. Anh tìm kỹ càng trong phòng làm việc, xem có thể đã bị mất cái gì. Sau một hồi anh dứt khoát là mọi sự vẫn đâu ở đấy.

    Nhưng một ai đó đã tới căn nhà gỗ và xem hết giấy tờ cùng các cặp hồ sơ của anh. Anh đã mang máy tính đi theo nên họ đã không thể vào được. Hai câu hỏi nổi lên: người ấy là ai? Và vị khách này của anh đã có thể tìm ra bao nhiêu thứ?

    Các cặp hồ sơ là một phần ở trong sưu tập của Henrik Vanger, anh đã mang chúng về nhà khách khi ra tù. Không có gì là tài liệu mới ở trong đó. Các sổ tay của anh ở trên các giá sách đọc cứ như là mật mã với những ai chưa quen – nhưng cái người tìm tòi bàn làm việc của anh thì có phải là chưa quen không đây?

    Trong một cặp ni-lông ở giữa bàn làm việc anh đã để bản sao bản danh sách và một bản sao mấy khổ thơ của quyển sổ đề ngày tháng. Cái đó quan trọng. Nó sẽ bảo ai đó rằng mã hiệu của quyển sổ ngày tháng kia đã bị bể vỡ.

    Vậy người đó là ai?

    Vanger đang nằm bệnh viện. Anh không nghĩ là Anna. Frode ư? Thì anh đã bảo với ông mọi chi tiết rồi mà. Cecilia thì đã bỏ chuyến đi Florida và đã từ London trở về - cùng với bà em. Blomkvist đã một lần thấy bà ta lái xe qua cầu hôm trước đây. Martin Vanger, Harald Vanger, Birger Vanger – anh đã nghĩ tới một cuộc họp gia đình cái hôm Henrik bị đau tim mà Blomkvist không được mời dự. Alexander Vanger, Isabella Vanger.

    Frode đã nói với ai? Lần ấy ông ta có thể đã để xổng một cái gì không? Bao nhiêu người trong đám họ hàng lo lắng đã được mời tới nhân việc Blomkvist có một đội phá ở trong cuộc điều tra?

    Đã quá 8 giờ. Anh gọi một thợ khóa ở Hedestad yêu cầu làm một cái khóa mới. Thợ khóa nói mai mới đến được. Anh nói nếu đến ngay thì được trả gấp đôi. Hai bên thỏa thuận thợ khóa sẽ đến vào khoảng 10 rưỡi đêm hôm ấy để lắp một cái khóa mới, đừng có ai hòng mà chọc với cạy.

    Blomkvist lái xe đến nhà Frode. Vợ ông đưa anh vào mảnh vườn ở sau nhà và mời anh một chai bia Pilsner mát lạnh mà anh cảm ơn nhận. Anh hỏi thăm tình hình Henrik.

    Frode lắc đầu.

    -Ông ấy phải mổ, bị nghẽn các động mạch vành. Các bác sĩ nói mấy ngày tới là quyết định đây.

    Họ im lặng suy nghĩ về điều này trong khi uống Pilsner.

    -Ông đã nói với ông ấy, tôi cho là thế?

    -Không. Ông ấy có khỏe gì đâu mà nói chứ. Việc ở Stockholm thế nào?

    -Cô Salander nhận làm. Đây là hợp đồng của An ninh Milton. Ông phải ký vào đây rồi gửi nó qua bưu điện.

    Frode đọc hết bản hợp đồng.

    -Cô này đắt. - Ông nói.

    -Henrik có thể cho phép đắt.

    Frode gật đầu. Ông lấy bút ở túi ngực ra và ngoáy tên ông.

    -Ông ấy đang còn sống mà tôi ký thế này là hay. Anh có thể trên đường về nhà bỏ nó vào thùng thư ở Khôngsum được không?

    Nửa đêm Blomkvist đang ở trên giường nhưng anh không ngủ được. Đêm nay công việc của anh ở đảo Hedeby xem vẻ giống như là đi tìm một hiếu kỳ về lịch sử. Nhưng nếu việc làm đã khiến cho một ai đó đủ quan tâm đến mức phải đột nhập phòng làm việc của anh thì chắc lời giải là gần với hiện tại nhiều hơn anh tưởng.

    Rồi anh lại nảy ý là cũng có thể có những người khác nữa quan tâm đến những việc anh làm. Vanger thình lình xuất hiện trong ban lãnh đạp Millennium, việc ấy không thể nào mà Wennerstrom lại không biết. Hay đó là anh bị tâm thần phân lập?

    Blomkvist rời khỏi giường, trần truồng đi vào đứng ở cửa sổ bếp nhìn sang nhà thờ ở bên kia cầu, châm một điếu thuốc.

    Anh không thể hình dung ra được Lisbeth Salander. Cô gần như kỳ dị. Những lúc ngừng lâu giữa chừng câu chuyện. Nhà cô bừa bộn, bên bờ của sự tanh bành. Túi đựng báo la liệt trong sảnh. Một gian bếp chưa vệ sinh hay dọn dẹp đã hàng năm nay. Quần áo đánh thành những đống ở trên sàn. Rõ ràng cô qua gần hết đêm ở quán bar. Cổ cô có những vết cắn yêu và rành rành là cô có bạn đồng hành suốt đêm. Có trời biết bao nhiêu các hình xăm và hai cái lỗ xâu khoen ở trên mặt cô và có lẽ còn ở cả nơi khác nữa. Cô khác người.

    Armansky đảm bảo với anh cô là người điều tra giỏi nhất của họ và báo cáo của cô về anh đúng lã cặn kẽ vô cùng. Một cô gái dị thường.

    Salander ngồi với chiếc PowerBook nhưng nghĩ tới Mikael Blomkvist. Trong đời trưởng thành của cô, cô chưa bao giờ cho ai xéo qua ngưỡng cửa nhà cô mà không có một lời mời đặc biệt và cô thì có thể đếm được trên đầu ngón tay những ai đã xéo qua. Blomkvist đã lửng khửng bổ nhào vào đời cô mà cô chỉ thốt ra lí nhí được có vài lời phản đối.

    Nào chỉ thế, anh còn chế giễu cô.

    Trong những trường hợp bình thường, kiểu ứng xử này đã làm cho cô lên thầm ngay cò súng ở trong đầu rồi. Nhưng cô không cảm thấy mảy may đe dọa hay thù địch nào ở phía anh. Anh có lý do tốt để đọc cho cô nghe luật cấm quậy phá, thậm chí báo cáo được cả với cảnh sát. Nhưng thậm chí việc cô đột nhập máy tính của anh, anh cũng đối xử như một trò đùa.

    Đấy là cái khúc nhạy cảm nhất trong chuyện trò của hai người. Blomkvist có vẻ cố ý không đề cập chuyện này và cuối cùng cô không thể không hỏi:

    -Anh bảo anh biết tôi đã làm gì.

    -Cô đã vào máy tính của tôi. Cô là một hacker.

    -Sao anh biết được? – Salander tuyệt đối tin rằng mình không để lại một dấu vết nào và bất cứ ai cũng không thể phát hiện ra việc cô sục vào trừ phi một cố vấn an ninh chóp bu ngồi xuống quét hình đĩa cứng cùng với lúc cô lọt vào máy tính.

    -Cô bị sai một cái.

    Cô đã trích một văn bản mà nó chỉ có ở trên máy tính của anh thôi. Salander ngồi im. Cuối cùng cô ngước nhìn anh, mắt bình thản như không.

    -Sao cô làm thế? – Anh hỏi.

    -Bí mật của tôi. Anh nghĩ làm như thế để làm gì?

    Mikeal nhún vai.

Trang 2 / 4 ĐầuĐầu 1234 Cuối Cuối

Chủ Đề Tương Tự

  1. Mười Phương Bụi Lấm
    By Minh Nguyệt in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 05-01-2011, 01:06 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-28-2011, 12:39 AM
  3. Bụi đời
    By Nhipcauduyen in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 2
    Bài Viết Cuối: 04-07-2011, 11:04 PM
  4. Hòa Tấu Guitar - Cát Bụi Tình Xa
    By Duy_Khang in forum Tặng Nhau Âm Điệu
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 12-04-2010, 08:50 PM
  5. Cát bụi giang hồ
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 204
    Bài Viết Cuối: 10-26-2010, 01:49 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •