Tự Do - Vui Vẻ - Tôn Trọng - Bình Đẳng

Upload Hình Ảnh Chữ Trang Trí My Album My Music Tạo Index


Tự Do Tôn Giáo
Thời Sự Chính Trị
Góc Bếp Ngũ Vị
Nhạc Việt Nam
Show Ca Nhạc - Hài

>>Suy Ngẫm: “ * Cái trở ngại to nhất của hạnh phúc là trông chờ một hạnh phúc khác to hơn.
Fontenelle
Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234
Results 31 to 38 of 38

Chủ Đề: Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

  1. #1
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết

    03 Rose Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

    Cô Gái Có Hình Xăm Rồng

    Stieg Larsson

    Dịch giả: Trần Đĩnh







    Giới thiệu

    Cô gái có hình xăm rồng là tập 1 trong bộ ba tiểu thuyết Millennium của nhà văn Thụy Điển Stieg Larsson. Ngay từ khi ra mắt vào năm 2004 tại Thụy Điển, bộ tiểu thuyết đã gây được tiếng vang lớn, và năm 2009 đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất châu Âu, với khoảng 26 triệu ấn bản đã được phát hành trên toàn thế giới. Nhà xuất bản Phụ nữ xuất bản ấn bản tiếng Việt của bộ tiểu thuyết này, với tập 1 Cô gái có hình xăm rồng đã được phát hành trên toàn quốc vào tháng 3 năm 2010. Hai tập tiếp theo dự kiến sẽ ra mắt độc giả Việt Nam cùng trong năm 2010.

    Nhân vật xuyên suốt của bộ ba tiểu thuyết là Lisbeth Salander, một cô gái trẻ có tuổi thơ và tuổi trưởng thành hết sức đặc biệt. Bị coi là có vấn đề về mặt tâm thần, từ năm 13 tuổi Salander được nuôi dạy trong một bệnh viện dành cho thiếu nhi, một mô hình nửa giống trại trẻ mồ côi, nửa giống bệnh viện tâm thần. Cô bé lớn lên cô độc và mất lòng tin vào phần lớn những người xung quanh. Vẻ bề ngoài cứng rắn gai góc, cách cư xử, giao tiếp như đi ngược lại những nguyên tắc xã hội, nhưng Salander có một trí thông minh tuyệt vời, trí nhớ đáng ngạc nhiên, cộng với sự liều lĩnh và quyết đoán đến không ngờ.

    Trong tập đầu tiên, Cô gái có hình xăm rồng, Salander bị cuốn vào một cuộc điều tra cùng với Mikael Blomkvist, một nhà báo lão luyện nhưng uy tín đang suy giảm do một bài báo anh viết về vụ bê bối tài chính của Tập đoàn Wennerstrom bị cho là “không có căn cứ”. Blomkvist được Henrik Vanger, người đứng đầu một dòng họ giàu có và danh giá, thuê để tìm hiểu sự thật đằng sau vụ mất tích từ hơn 40 năm trước của cô cháu gái Harriet. Henrik Vanger hứa rằng nếu Blomkvist vén màn được câu chuyện, thì ông sẽ cung cấp cho anh những bằng chứng chống lại Tập đoàn Wennerstrom.

    Blomkvist nhận lời với Henrik Vanger, từ đó tình cờ quen biết Lisbeth Salander. Với sự hiểu biết xuất sắc (nhưng bất hợp pháp) của một tin tặc về mọi ngóc ngách trong thế giới mạng, Salander đã giúp Blomkvist lần ra được sự thật sau vụ mất tích của Harriet Vanger và phát hiện bí mật của những vụ giết người hàng loạt có liên quan đến người của dòng họ Vanger. Hơn thế nữa, cô còn giúp anh đưa ra ánh sáng những gian lận thương mại của Tập đoàn Wennerstrom. Cô đã bất chấp nguy hiểm và nhiều chuẩn mực xã hội thông thường để cứu không chỉ uy tín nhà báo của Blomkvist mà còn cứu chính mạng sống của anh.

    Với Cô gái có hình xăm rồng, những bí ẩn của một dòng họ, những góc đen tối của thế giới tài chính, những mặt trái của chế độ giám hộ thanh thiếu niên – vốn được coi là một tiến bộ của xã hội Thụy Điển, những vấn đề đạo đức nghề nghiệp đặt ra với người làm báo… tất cả đều được phơi bày không khoan nhượng. Cuốn sách dày hơn 500 trang, nhưng khó có thể dứt ra cho tới khi đọc hết dòng cuối cùng.


    LỜI DẪN

    Một thứ Sáu tháng Mười một

    Việc này diễn ra hằng năm gần như là một nghi thức. Và đây là ngày sinh lần thứ tám mươi hai của ông. Như thường lệ, khi hoa được đem đến, ông lại lột tờ giấy bọc và nhấc điện thoại gọi sĩ quan cảnh sát điều tra Morell, ông này khi về hưu đã chuyển đến hồ Siljan ở Dalarna. Họ không chỉ cùng tuổi mà còn sinh cùng ngày, điều này có một chút gì đó nhạo cợt trong hoàn cảnh hiện nay. Người cảnh sát già ngồi đợi với tách cà phê, chờ cuộc gọi.

    - Đến rồi đấy.

    - Năm nay nó thế nào ?

    - Tôi không biết là loại gì. Phải hỏi ai đó mới được. Màu trắng.

    - Không thư, tôi ngờ thế.

    - Chỉ hoa thôi. Khung cũng như kiểu năm ngoái. Kiểu tự làm lấy ấy mà.

    - Dấu bưu điện?

    - Stockholm

    - Viết tay?

    - Như mọi bận, bằng chữ hoa hết. Thẳng đứng nhưng chữ viết rõ ràng.

    Đến đây thì đề tài đã cạn và trong chừng một phút không một lời trao đi đổi lại. Viên cảnh sát già về hưu ngả người vào chiếc ghế bếp, hút tẩu thuốc. Ông biết ông không còn được mong đưa ra một lời bình luận súc tích hay một câu hỏi sắc sảo nào nữa, một câu hỏi có thể rọi ánh sáng mới vào một vụ án. Những ngày ấy đã qua lâu rồi và sự trao đổi giữa hai người xem ra giống như một gắn bó về nghi thức với một bí mật mà có một ai khác trên thế gian này gỡ ra thì cũng chẳng được lợi lộc gì.

    Với cái tên Latin là Leptospermum (Myrtaceae) rubinette, đó là một loại cây cao khoảng mười centimét với bộ lá nhỏ giống như thạch nam, hoa thì trắng với năm cánh xòe ngang chừng hai centimét rưỡi.

    Loài cây này gốc gác từ các bụi rậm và cao nguyên nước Úc, người ta tìm thấy chúng ở trong các trảng cỏ bên đó. Ở đấy nó có tên là Tuyết Sa mạc. Sau này một ai đó ở Vườn thực vật học tại Uppsala sẽ xác nhận ở Thụy Điển ít trồng giống cây này. Nhà thực vật học viết trong báo cáo của bà rằng nó có họ với cây trà và đôi khi nó thường bị lẫn nhiều hơn với cây Leptospermum scoparium, người anh em họ phổ biến của nó vốn mọc vô vàn ở New Zealand. Bà chỉ ra chỗ để phân biệt chúng là thứ rubinette này có vô sô các chấm li ti màu hồng ở đầu các cánh hoa, đem cho hoa một ánh hồng hồng nhạt.

    Rubinette gần như là một thứ hoa không tham vọng. Nó không có thuộc tính y học nào được biết đến và nó cũng không gây ảo giác. Không ăn được, nó cũng không có ứng dụng nào trong sản xuất thuốc nhuộm từ thực vật. Mặt khác, thổ dân Úc coi vùng núi Ayers Rock và thực vật quanh đó là thiêng liêng.

    Nhà thực vật học nói bản thân bà trước đây chưa hề nhìn thấy một cây nào như thế này, nhưng sau khi tham vấn các đồng nghiệp bà sẽ báo cáo rằng bà đã có ý định du nhập cây này vào một vườn ươm ở Goteborg và nó có thể được các nhà thực vật học nghiệp dư trồng, dĩ nhiên thôi, khó trồng nó ở Thụy Điển vì nó hợp với khí hậu khô và phải ở trong nhà nửa năm trời. Nó không hợp đất có đá vôi và nó cần được tưới từ bên dưới. Nó cần được nuông chiều.

    Là một thứ hoa hiếm như thế thì chắc tiêu bản đặc biệt này sẽ làm cho người ta dễ dàng tìm ra gốc tích của nó hơn, nhưng trong thực tế lại không thể được. Không có sổ đăng ký để kiểm tra nó, không có bằng phát minh để khai thác. Ở bất cứ đâu, ai yêu hoa hoặc ham thích những thực vật mới lạ cũng đều có thể tiếp xúc được với hạt giống hay cây của nó. Và ở bất cứ đâu tại Châu Âu, ở bất cứ đâu tận bên kia bán cầu nhiều người có thể sang tay giữa bạn bè hay mua nó qua đường bưu điện.

    Nhưng đây chỉ là một trong sêri những đóa hoa bí ẩn hằng năm cứ vào ngày đầu tiên của tháng Mười một lại đến bằng đường bưu điện. Chúng luôn đẹp và phần lớn là loại hoa hiếm, luôn được ép và bày xếp trên giấy màu nước ở trong một cái khung đơn giản ngang mười lăm centimét, dọc hai mươi bảy centimét rưỡi.

    Chỉ một ít người biết câu chuyện kỳ lạ về các bông hoa mà báo chí không bao giờ nói đến. Ba chục năm trước, việc những bông hoa đến đều đặn đã là đối tượng của nhiều soi mói - ở phòng hóa nghiệm Pháp y Quốc gia, của các chuyên gia vân tay, chuyên gia chữ viết, các nhà điều tra hình sự và một hai họ hàng hay bạn bè của người được nhận hoa. Nay các diễn viên của vở kịch này chỉ còn có ba; ông già hằng năm chờ đến ngày sinh nhật, viên cảnh sát về hưu và cái người đem hoa đến bưu điện gửi. Hai người đầu ít nhất cũng đã tới cái tuổi mà chả còn mấy nỗi.

    Viên cảnh sát là một người kỳ cựu lọc lõi. Ông sẽ chẳng bao giờ quên vụ án đầu tiên của mình, cái vụ ông đã phải bắt giam một công nhân hung hãn và say xỉn đến phát sợ ở một trạm điện nhánh phụ trước khi hắn gây ra những rắc rối khác. Trong đời cảnh sát của mình, ông đã tóm về đồn những tay gian lận vặt, những ông chồng vũ phu, những kẻ ăn cắp xe hơi và lái xe say rượu. Ông đã phải xử lý những kẻ đục tường bẻ khóa, bán ma túy, hiếp dâm và một gã đánh bom loạn óc. Ông đã dính vào chín vụ án mạng hay tàn sát nhẫn tâm. Năm trong chín vụ này, kẻ giết người đã tự ý trình báo cảnh sát, đầy ăn năn, thú nhận đã giết vợ mình hay anh em hay một vài họ hàng khác. Hai vụ khác được giải quyết trong ít ngày. Một vụ nữa đòi Cảnh sát Hình sự Quốc gia giúp đỡ và kéo dài những hai năm.

    Vụ thứ chín được giải quyết trong sự hài lòng của cảnh sát, ý nói họ biết kẻ giết người là ai nhưng vì tang chứng không đủ vững chãi nên bên công tố quyết định không xét xử. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra thất vọng, cuối cùng cũng đến lúc hết thời hiệu nên vụ án phải chấm dứt. Nhưng nói chung ông có thể ngoái nhìn lại một sự nghiệp đầy ấn tượng.

    Ông chả thấy gì trừ vui.

    Với người điều tra, “Vụ hoa ép” – cái vụ cuối cùng, không giải quyết được và khiến ông nản lòng – vẫn hằng năm trời ray rứt ông. Tình hình thế là thành những hai lần phi lý. Vì sau khi bỏ thật sự cả hàng nghìn giờ ra nghiền ngẫm, trong giờ làm việc hay lúc nghỉ ngơi, ông vẫn không thể yên tâm mà nói được rằng một vụ án quả là đã được gây ra.

    Hai người đàn ông biết rằng người bày xếp những bông hoa chắc chắn phải đi găng tay, rằng không hề có vân tay ở trên khung hay miếng kính. Cái khung có thể mua ở cửa hàng camera hay các tiệm văn phòng phẩm trên khắp thế giới. Khá là đơn giản, gần như không có manh mối nào để lần theo. Phần lớn gói hàng gửi qua bưu điện ở Stockholm nhưng đã ba bận ở London, hai bận ở Paris, hai bận ở Copenhagen, một bận ở Madrid, một bận ở Born và một bận ở Pensacola, Florida. Viên sĩ quan cảnh sát điều tra đã phải dò tìm nó trong tập bản đồ thế giới.

    Sau khi đặt điện thoại xuống, ông già vừa trải qua sinh nhật lần thứ tám mươi hai ngồi một lúc lâu nhìn các bông hoa đẹp nhưng vô nghĩa mà ông không biết đến cả tên. Rồi ông nhìn lên bức tường ở bên trên bàn giấy. Ở đấy treo bốn mươi bông hoa ép trong các khung. Bốn hàng mười và một ở dưới cùng có bốn khung. Hàng trên cùng ở khung thứ chín một hoa đã bị mất. Tuyết sa mạc sẽ là số bốn mươi tư đây.

    Ông bất thần bật khóc. Ông ngạc nhiên về chính cơn xúc động bùng phát đột ngột sau gần bốn chục năm.


    PHẦN 1

    DỮ KIỆN
    20 THÁNG MƯỜI HAI – 3 THÁNG GIÊNG

    Mười tám phần trăm phụ nữ ở Thụy Điển đã từng một lần bị đàn ông đe dọa



    Chương 1

    Thứ Sáu, 20 tháng Mười hai

    Phiên tòa đã kết thúc hẳn hoi; mọi cái có thể nói thì đều đã nói nhưng anh không bao giờ ngờ là anh sẽ thua. Bản nghị án viết tay đã trao xuống lúc 10 giờ sáng thứ Sáu và tất cả những gì còn lại là kết luận của các phóng viên đang chờ ở hành lang bên ngoài tòa án quận.

    Nhìn thấy họ qua lối cửa ra vào, “Carl” Mikael Blomkvist bước chậm lại. Anh không có hy vọng kháng án nhưng các câu hỏi thì không thể tránh được và anh - người của bàn dân thiên hạ - biết rằng chúng sẽ được đặt ra và phải được trả lời. Là tội phạm là thế này đây, anh nghĩ. Ở phía bên kia cái micro. Anh thẳng người lên và cố mỉm cười. Các phóng viên đáp lại bằng vẻ thân thiện, gần như bối rối.

    Blomkvist nói:

    - Ta xem nào… Aftonbladet, Expressen, hãng tin TT, kênh truyền hình TV4 và … anh ở đâu nhỉ? … à đúng, Dagens Nyheter 1, chắc tôi là một tên tuổi nổi tiếng rồi đây.

    Phóng viên một tờ báo chiều lên tiếng:

    - Kalle Blomkvist 2, xin anh hãy nói ý kiến của mình với báo chí.

    Nghe thấy biệt hiệu, Blomkvist cố không trợn mắt lên như mọi lần. Một lần, khi anh hai mươi ba tuổi và vừa bắt đầu công việc làm thêm trong dịp hè như một phóng viên, Blomkvist may mắn vớ được một băng nhóm đã thoát khỏi năm vụ cướp ngân hàng trong hai năm liền. Chắc ở tất cả mọi vụ thì vẫn là cái băng này. Thương hiệu của chúng là nẫng hai nhà băng luôn một lèo mà chính xác như quân sự. Chúng đeo mặt nạ các nhân vật Disney nên cảnh sát đã cho chúng cái biệt hiệu là Băng Vịt Donald. Báo chí đổi tên chúng ra là Băng Gấu nghe rùng rợn hơn, hợp hơn với thực tế là ở hai trường hợp chúng đã thẳng cánh bắn cảnh cáo và nạt những người đi qua.

    Lần thứ sáu chúng cướp một ngân hàng tại Ostergotland là vào lúc mùa nghỉ lễ đang rộ. Một phóng viên đài phát thanh địa phương tình cờ lại ở ngân hàng lúc ấy. Bọn cướp vừa đi là anh ta đến ngay điện thoại công cộng đọc bài tường thuật của mình để cho đài phát thanh phát đi trực tiếp.

    Blomkvist đang ở vài ngày với một cô bạn gái tại nhà bố mẹ cô ta, một căn nhà gỗ nhỏ mùa hè gần Katrineholm. Anh không thể giải thích chính xác, ngay cả với cảnh sát, tại sao có mối quan hệ này, nhưng khi nghe tường thuật báo chí, anh đã nhớ đến một nhóm bốn người đàn ông ở trong một căn nhà gỗ mùa hè bên dưới đường đi chừng trăm mét. Anh đã thấy họ chơi cầu lông ngoài sân: bốn gã lực sĩ tóc vàng mặc quần soóc và bỏ sơ mi. Họ rõ ràng là những người luyện thể hình và có một cái gì đó ở họ khiến anh nhìn thêm lần nữa – có thể vì trận cầu lại chơi ở dưới cái nắng nóng rẫy.

    Chả có lý do rõ rệt nào để nghi họ là những tên cướp ngân hàng nhưng anh vẫn lên một quả đồi rồi nhìn xuống căn lều của họ. Được khoảng chừng bốn chục phút thì một chiếc Volvo đi lên đỗ ở trong sân. Những người trẻ tuổi vội vã đi ra và ai cũng mang túi thể thao cho nên có thể chỉ là họ đi bơi trở về chứ chả làm gì. Nhưng một người trong bọn họ quay lại xe, lấy ở trong cốp ra một cái gì mà hắn hấp tấp che áo jacket lên. Ngay ở chỗ quan sát khá xa của mình, Blomkvist vẫn có thể thấy đó là một khẩu AK4 cũ ngon lành, thứ súng vẫn là bạn đồng hành thường xuyên của anh trong những năm làm nghĩa vụ quân sự.

    Anh đã gọi cảnh sát và thế là bắt đầu một cuộc phong tỏa ba ngày ngôi nhà gỗ, báo chí thoải mái đưa tin với Blomkvist ở ghế trên cùng và nhận một khoản thù lao hậu hĩ của một tờ báo chiều. Cảnh sát đặt bản doanh trong một đoàn xe trong vườn của nhà gỗ mà Blomkvist đang ở.

    Băng Gấu bị tóm gọn đã làm cho anh thành ngôi sao số dách, tâng anh lên làm một nhà báo trẻ. Mặt trái của sự nổi tiếng này là chuyện một tờ báo chiều khác không thể kìm nổi đã giật tít “Kalle Blomkvist phá án”. Do một bà có tuổi giữ chuyên mục viết, bài báo mỉa mai này có gợi đến nhà thám tử trẻ tuổi trong các sách cho thiếu nhi của Astrid Lindgren. Tệ hơn nữa, kèm với bài viết, tờ báo còn đăng một bức ảnh Blomkvist đang há hốc mồm ra ngay cả khi anh đã giơ ngón tay trỏ lên cảnh báo.

    Chả hề hấn gì vì Blomkvist cả đời không dùng tên Carl. Nhưng từ đấy, anh bị các đồng nghiệp đặt cho biệt hiệu Kalle Blomkvist và nó làm anh ngán ngẩm, tính từ này được dùng đề khiêu khích, không thân thiện nhưng cũng không hẳn là thân thiện. Tuy kính trọng Astrid Lindgren – anh yêu sách của bà – anh vẫn ghét cái biệt hiệu này. Phải mất nhiều năm và sau những thành công báo chí nặng ký hơn nữa, cái biệt hiệu ấy mới bắt đầu nhạt đi, nhưng mỗi khi người ta dùng cái tên ấy cốt để anh nghe thấy thì anh vẫn ngỡ mình khuỵu chân xuống.

    Còn ngay lúc này, anh cho chấm hết bằng nụ cười tỉnh bơ rồi nói với tay phóng viên tờ báo chiều:

    - Ô, thôi nào, hãy tự nghĩ lấy một cái gì đi chứ. Anh vẫn quen thế cơ mà.

    Giọng anh không khó chịu. Họ tất cả đều ít nhiều hiểu nhanh và sáng hôm đó những lời phê phán Blomkvist hiểm độc nhất chưa đến. Một trong những nhà báo ở đó đã có lúc cùng làm việc với anh. Và trong một bữa tiệc vài năm trước, anh đã gần như ngon lành nhót được một trong những phóng viên – cô phóng viên của chương trình She trên TV4.

    - Hôm nay ông thật sự nổi – người của Dagenes Nyheter, rõ ràng một tay trẻ tuổi làm thêm nói – Ông cảm thấy sao?

    Mặc dù không khí đang nghiêm túc, cả Blomkvist lẫn các nhà báo lớn tuổi hơn đều không thể nén cười. Anh liếc nhìn TV4 – Ông cảm thấy sao? Chỉ có tay phóng viên thể thao cả ngố mới đi chĩa micro mặt chàng vận động viên vừa chạy hết hơi về đến đích mà hỏi câu ấy.

    - Tôi chỉ tiếc là tòa án đã không ra một kết luận khác, - anh nói, hơi giận dỗi đôi chút.

    - Ba tháng tù ngồi và 150.000 curon tiền bồi thường. Tòa đã khá là nghiêm khắc – Phóng viên của She trên TV4 nói.

    - Tôi sẽ sống sót.

    - Ông sẽ xin lỗi Wennerstron không? Bắt tay ông ta chứ?

    - Tôi nghĩ là không.

    - Vậy ông vẫn sẽ nói ông ấy là một kẻ lừa đảo? – Dagens Nyheter hỏi.

    Tòa đã xử Blomkvist là vu cáo hạ nhục nhà tài chính Hans-Erik Wennerstron. Phiên tòa kết thúc và Blomkvist không có ý khiếu nại. Nếu ở trên các bậc tam cấp của tòa án này, anh nhắc lại các tuyên bố của mình thì cái gì sẽ xảy ra? Blomkvist đã quyết định là anh không muốn tìm ngả đó.

    - Tôi nghĩ tôi có lý do tử tế để công bố cái thông tin mà tôi đang giữ. Tòa đã xử khác và tôi phải thừa nhận quá trình xét xử là làm đúng quy trình. Những người của chúng tôi ở bộ phận xã luận sẽ phải thảo luận việc xét xử rồi chúng tôi mới quyết định sẽ làm gì. Tôi không có gì để nói thêm cả.

    - Nhưng sao ông lại quên mất rằng các nhà báo phải thẳng thắn ủng hộ các khẳng định của họ? – Cô phóng viên của She ở TV4 hỏi. Nét mặt cô ta trông có vẻ là trung lập nhưng Blomkvist nghĩ đã thoáng thấy ánh mắt cô lộ vẻ bất bình đầy thất vọng.

    Các phóng viên ở đó, ngoài cậu con trai ở Dagens Nyheter, đều là những dân kỳ cựu trong nghề. Với họ không thể quan niệm nổi câu hỏi kia lại được trả lời.

    - Tôi không có gì để nói thêm, - anh nhắc lại. Nhưng khi những người khác đành bằng lòng với câu trả lời ấy, thì TV4 đã chẹn anh lại ở cửa tòa án để phỏng vấn anh ngay trước camera. Cô ta rất tử tế và anh đã có đủ các câu trả lời rành rọt để thỏa mãn tất cả các phóng viên đang đứng ở sau cô ta. Câu chuyện rồi sẽ lên các tít báo, nhưng anh tự nhắc mình rằng họ đâu có tìm sự kiện truyền thông của năm ở đây. Đã có cái họ cần, các phóng viên đang quay về các phòng tin tức riêng của họ.

    Anh tính đi bộ nhưng hôm nay là một ngày tháng Mười hai gió quật đùng đùng và sau phỏng vấn anh đã thấm rét. Khi đi xuống các bậc tam cấp tóa án, anh trông thấy William Borg ra khỏi xe hơi. Hắn chắc đã ngồi ở đây suốt cuộc phỏng vấn. Mắt họ gặp nhau và Borg mỉm cười.

    - Đến tận đây để thấy anh cầm tờ giấy này trong tay là bõ công rồi.

    Blomkvist không nói không rằng. Blomvist và Borg biết nhau đã mười lăm năm. Họ cùng làm với nhau như phóng viên mới vào nghề cho bộ phận tài chính của một tờ báo sáng. Có thể là một vấn đề thuộc về hóa chất nhưng nền móng cho một thù hận suốt đời đã được đặt nền móng từ đấy. Trong mắt Blomvist, Borg là một phóng viên hạng ba chuyên chọc kháy tất cả những ai ở quanh hắn, làm họ khó chịu bằng những trò đùa bẩn thỉu và bằng những nhận xét hạ uy tín các phóng viên có kinh nghiệm, nhiều tuổi hơn. Hắn hình như đặc biệt không ưa các nữ phóng viên có tuổi. Họ đã từng có những cãi cọ đầu tiên rồi sau đó còn tiếp diễn, rồi không bao lâu thì đối kháng đã quay ra thành chuyện cá nhân.

    Họ đã đều đặn vập phải nhau trong nhiều năm nhưng chỉ tới cuối những năm 90 họ mới trở thành những kẻ thù đáng gờm. Blomkvist đã ra một quyển sách về nghiệp vụ báo chí tài chính trích la liệt từ một số bài báo ngu ngốc của Borg. Xuất hiện như một gã đần độn, Borg đã đổi trắng thay đen nhiều việc hắn làm và đã viết ca ngợi các công ty “.com” 3 đang trên bờ vực phá sản. Sau đó, khi tình cờ gặp nhau ở một quán bar tại Soder, họ đã dùng đến mọi chiêu trừ quả đấm. Borg bỏ nghề báo và bây giờ hắn làm việc trong lĩnh vực quan hệ công chúng (PR) – với mức lương cao hơn đáng kể – ở một hãng mà, làm cho chuyện càng tệ hại hơn, chính lại là một bộ phận trong vòng ảnh hưởng của nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstrom.

    Hai người nhìn nhau hồi lâu rồi Blomkvist quay ngoắt đi. Chỉ có người như Borg mới lái xe đến tòa án chỉ để ngồi đó cười nhạo anh.

    Chiếc xe buýt số 40 phanh lại ở bến ngay trước xe của Borg. Và Blomkvist nhảy phóc lên để trốn tránh. Anh xuống xe ở Freidhemsplan, phân vân nên làm gì. Anh vẫn cầm tờ phán quyết ở trong tay. Cuối cùng anh đi bộ tới quán Kafé Anna, cạnh lối vào gara dẫn xuống bên dưới đồn cảnh sát.

    Nửa phút sau, anh gọi một cốc cà phê latte và một miếng sandwich; radio đang phát tin tức buổi trưa. Câu chuyện tiếp theo là tin một kẻ đánh bom tự sát ở Jerusalem và tin Chính phủ đã chỉ định một tiểu ban điều tra cái được cho là sự hình thành của một cácten mới trong công nghiệp xây dựng.

    Nhà báo Mikael Blomkvist của tạp chí Millennium sáng nay đã bị tuyên án 90 ngày tù vì vu khống nhà công nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Trong một bài báo đầu năm nay từng làm cho cái gọi là vụ Minos được chú ý đến, Blomkvist nói với Wennerstom đã buôn bán vũ khí bằng vốn mà Nhà nước dự định đầu tư vào công nghiệp ở Ba Lan. Blomkvist cũng bị tuyên án trả 150.000 curon tiền bồi thường. Bertil Cammermarker, luật sư của Wennerstom trong một phát ngôn đã nói thân chủ của ông hài lòng về sự xét xử. Ông nói đây là một vụ vu khống đặc biệt xúc phạm.

    Bản án dài hai mươi sáu trang. Nó trình bày các lý do cho thấy Blomkvist đã phạm tội ở mười lăm điểm vi phạm về vu khống chồng chất nhà doanh nghiệp Hans-Erik Wennerstom. Nên anh phải trả cho mỗi điểm vi phạm mười nghìn curon và sáu ngày tù. Và rồi lại còn án phí và tiền trả cho luật sư của anh. Anh không thể bắt mình cứ nghĩ đến tất cả các chi phí này nhưng suy đi tính lại thấy rằng lẽ ra còn tệ hại hơn thế nữa kia; tòa đã cho anh trắng án ở bảy điểm vi phạm khác.

    Trong khi đọc bản xét xử, anh cảm thấy dạ dày trướng dần lền và khó chịu. Anh ngạc nhiên. Khi phiên tòa bắt đầu, anh biết rằng nếu anh không bị kết án thì sẽ là điều kỳ lạ và rồi anh đã giải hòa được với kết quả của phiên tòa. Anh đã ngồi suốt hai ngày xét xử, bình tĩnh đến mức ngạc nhiên và trong hơn mười một ngày tiếp theo chờ tòa kết thúc nghị án anh vẫn không cảm thấy có gì đặc biệt trong người để rồi đi tới chỗ cầm tờ phán quyết này ở trong tay như hiện nay. Bây giờ chỉ còn một cảm giác không thoải mái về thân xác đang lan khắp người anh.

    Khi anh cắn miếng sandwich, miếng bánh như phồng to ra ở trong miệng. Anh thấy khó nuốt và anh gạt đĩa thức ăn sang bên.

    Đây là lần đầu tiên Blomkvist đối mặt với một cuộc luận tội. Thực ra vụ xét xử này chỉ là một chuyện nhỏ. Một tội vào hạng nhẹ cân. Dẫu sao cũng không phải cướp có vũ khí, giết người hay hiếp dâm. Nhưng xét từ quan điểm tài chính thì nó lại nghiêm trọng – Millennium không phải là soái của truyền thông thế giới với nguồn tiền vô hạn, tờ tạp chí chỉ vừa xoẳn hòa vốn – nhưng tòa xử đã không báo hiệu sẽ có thảm họa. Vấn đề nằm ở chỗ Blomkvist là một trong các chủ đồng sở hữu Millenium và đồng thời, khá là ngu ngốc, anh vừa viết lại vừa là chủ bút tờ tạp chí. Anh có thể tự trả 150.000 curon bồi thường tuy như thế sẽ gần như là xóa sổ món tiền tiết kiệm của anh. Tờ tạp chí có thể lo án phí. Nếu chi tiêu khôn ngoan thì chuyện này có thể ổn.

    Anh loay hoay với ý định bán căn hộ của mình, tuy anh sẽ tan nát lòng. Vào cuối những năm 80 lên như diều, trong thời kỳ có công việc chắc chắn và một đồng lương khá hậu, anh đã tìm đây đó lấy một nơi thường xuyên để sống. Anh đã chạy khắp lượt các hãng giới thiệu nhà rồi cuối cùng loạng quạng gặp căn hộ áp mái hơn 200 mét vuông ở ngay cuối đường Bellmansgatan. Người chủ trước đang làm dở nó thì thình lình nhận việc trong một công ty “.com” ở nước ngoài nên Blomkvist đã có thể mua nó không đắt lắm.

    Anh bỏ hết các thiết kế đầu tiên của người thiết kế nội thất, tự làm lấy công việc này. Anh bỏ tiền vào sửa khu vực buồng tắm và bếp nhưng thay vì làm sàn gỗ và các bức tường bên trong để làm cho nó thành một căn hộ hai phòng mhư dự định thì anh đã lấy cát đánh bóng gỗ sàn, sơn trắng các bức tường xù xì rồi dấu các mảng xấu nhất vào sau hai bức tranh màu nước của Emanuel Bernstone. Kết quả là một không gian sinh hoạt mở với khu vực buồng ngủ ở sau một giá sách, khu vực ăn uống và buồng sinh hoạt cạnh ngay một cái bếp nhỏ sau một quầy bar. Ngôi nhà có hai cửa sổ trên mái và một cửa sổ ở đầu hồi có thể nhìn thấy các mái nhà đến Gamla Stan, khu vực cổ kính nhất ở Stockholm và con sông Riddarfjarrden. Anh nhìn thấp thoáng thấy nước sông ở gần cửa cống Slussen và quang cảnh Tòa thị chính thành phố. Nay anh sẽ không thể cho mình một căn hộ như thế và anh thiết tha muốn giữ lấy nó.

    Nhưng việc anh có thể mất căn hộ không là cái gì bên cạnh việc anh nhận lấy một cú đập thật sự vào giữa mặt về mặt nghề nghiệp. Để sửa chữa các tổn thất cũng phải mất thời gian - nếu quả như có thể sửa chữa được.

    Đây là một vấn đề về uy tín. Trong tương lai có thể thấy trước, các vị biên tập viên sẽ ngại ngùng đăng các bài báo có tên anh. Vẫn có nhiều bạn bè trong nghề báo nhận thấy rằng anh là nạn nhân của vận đen và hoàn cảnh trớ trêu chứ anh sẽ không thể nào phạm phải sai lầm sơ đẳng đến như vậy.

    Cái làm đau nhất là bị bẽ mặt. Anh đã nắm mọi con bài chủ thế nhưng anh đã chịu thua một kẻ găngxtơ hạng bét mặc một bộ hàng hiệu Armani. Một kẻ đầu cơ thị trường chứng khoán ti tiện. Một tên lưu manh cùng một gã luật sư tên tuổi đã nhăn nhở cười nhạo nông nỗi của anh trong suốt phiên toà.

    Sao nhân danh Chúa mà sự tình lại đi đến oan trái như thế này chứ?

    Vụ Wennerston bắt đầu từ câu chuyện trong buồng lái của một chiếc Malar-30 hơn mười hai mét vào Đêm Giữa mùa hè 4 một năm rưỡi trước. Nó tình cờ xảy ra, tất cả do một cựu đồng nghiệp nhà báo nay là một chân PR xun xoe ở hội đồng hạt, muốn trộ cô bạn gái mới của gã. Gã đã quýnh quáng thuê một chiếc Scampi làm chuyến dong buồm lãng mạn vài ngày trong quần đảo Stockholm. Vừa từ Hallstahammar đến Stockholm để học hành, cô gái sau khi cho ra vài dấu hiệu phản đối đã nhận lời đi nhưng với điều kiện chị cô ta và cậu bạn trai của cô chị cũng được đi cùng. Cả bộ ba ở Hallstahammar đều chả có chút kinh nghiệm lái du thuyền, còn đồng nghiệp cũ của Blomkvist thì không may lại có nhiều nhiệt tình hơn kinh nghiệm. Ba hôm trước khi dong buồm đi họ đã tuyệt vọng gọi và thuyết phục anh đến làm thành viên thứ năm trong đoàn, thành viên biết hàng hải.

    Không màng lắm đến đề nghị này nhưng rồi khi được hứa hẹn vài ngày thư giãn trong quần đảo với thức ăn ngon và bạn cùng đi vui vẻ thì Blomkvist đã đổi ý. Các hứa hẹn này đã thành mây khói và chuyến viễn du đã quay ra là một thảm họa ngoài tưởng tượng. Họ đi con đường đẹp nhưng không gây ấn tượng lắm từ Bullando qua eo biển Furusund với chỉ 9 hải lý một giờ, nhưng cô bạn gái mới say sóng liên hồi kỳ trận. Chị cô bắt đầu cãi nhau với cậu bạn trai và chả ai trong bọn họ tỏ ra quan tâm mảy may đến việc học lái tàu. Mau chóng thấy rõ là người ta chờ đợi Blomkvist gánh vác lấy con tàu còn họ thì cho anh những lời khuyên có thiện ý nhưng ngu xuẩn. Sau đêm đầu tiên ở một vịnh trên Angso, anh đã sẵn sàng neo tàu vào cảng ở Furusund rồi đi xe buýt về nhà. Chỉ có những lời kêu gọi tuyệt vọng của họ mới thuyết phục được anh ở lại.

    Trưa hôm sau, khá sớm để vẫn còn có một ít khoảng trống, họ cột tàu vào cầu tàu ở trên đảo Arholma đẹp như tranh. Họ cùng làm chút bữa trưa thịnh soạn và lúc vừa ăn xong thì Blomkvist để ý thấy một con tàu M-30 màu vàng lướt vào trong vịnh, dùng chỉ một buồm cái. Con tàu nghiên sườn yêu kiều chạy vát tới trong khi người cầm lái tìm một chỗ ở cầu tàu. Cũng lục soát không gian xung quanh, Blomkvist nhìn thấy một cái khe duy nhất còn lại ở khoảng cách giữa con tàu của bọn anh và một con tàu H ở mạn. Con tàu M-30 hẹp thân sẽ vào lọt khuýp chỗ này. Anh đứng lên ở đuôi tàu, chỉ chỗ; người đàn ông trong chiếc M-30 giơ tay cảm ơn rồi cho tàu hướng đến cầu tàu. Một thủy thủ đơn độc không ngần ngại chuyện khởi động máy, Blomkvist nhận xét. Anh nghe thấy tiếng xích neo cọ và vài giây sau tấm buồm chính hạ xuống, trong khi như một con mèo phải nước sôi, thuyền trưởng di chuyển để ngắm bánh lái thẳng băng với khe đậu, đồng thời ở đằng mũi tàu thì chuẩn bị đưa tàu vào bến.

    Blomkvist leo lên trên lan can thành tàu chìa tay ra nắm dây neo. Con tàu mới đến chỉnh lần cuối cùng đường đi rồi lướt hoàn hảo đến đuôi con Scampi, lúc này đang dịch chuyển rất chậm. Chỉ lúc người đàn ông tung dây neo cho Blomkvist họ mới nhận ra nhau và toét miệng cười khoái trá.

    - Chào, Robban. Sao không dùng động cơ của cậu để cho các con tàu ở bến này không bị bong sơn hả?

    - Chào, Mike. Tớ nghĩ thấy có gì đó quen quen ở cậu. Tớ chỉ thích dùng máy tớ nếu như tớ khởi động được cái của khỉ ấy. Nó đã chết hai hôm trước ở ngoài Rodloga rồi.

    Họ bắt tay nhau qua lan can tàu.

    Cách đây đã lâu, từ hồi những năm 70, ở trường Kungsholmen, Blomkvist và Robert Lindberg là bạn, thậm chí bạn rất tốt của nhau. Như thường xảy ra với các chí cốt thời đi học, sau khi mỗi người một ngả riêng rẽ, tình bạn nhạt đi. Trong hai chục năm qua, có lẽ họ đã gặp nhau đến nửa tá lần, lần cuối vào bảy tám năm trước. Nay hai người thú vị xem xét nhau. Lindberg có bộ tóc rối tung, nước da rám nắng và chòm râu hai tuần chưa cạo.

    Blomkvist vụt thấy phơi phới trên chín tầng mây. Khi thằng cha PR và cô bạn gái ngố nghế của anh ta lên bờ đi nhảy loanh quanh ở Cực Giữa Mùa hè đằng trước cửa hàng tạp phẩm ở phía bên kia hòn đảo thì Blomkvist ở lại trong buồng lái của chiếc M-30, với cá trích và rượu aquavit 5, cùng gã bạn cũ thời học trò đấu hót.

    Tối hôm đó, sau khi hai người đã ngừng cuộc chiến chống lại đám muỗi Arholma nổi tiếng và chuyển xuống cabin, sau một vài ngụm aquavit, câu chuyện quay sang nói giỡn thân mật đến đạo đức ở trong thế giới các tập đoàn. Lindberg đã từ nhà trường đến trường Kinh tế Stockholm rồi vào ngân hàng. Blomkvist đã tốt nghiệp trường Báo chí Stockholm rồi dành nhiều năm tháng sự nghiệp của mình vào việc vạch ra nạn tham nhũng trong thế giới ngân hàng và doanh nghiệp. Câu chuyện của họ bắt đầu khai thác sang những điều từng đã được cho là vừa ý về đạo đức ở trong một số hiệp định có lọng vàng 6 vào những năm 90. Cuới cùng, Lindberg thừa nhận đã có một hai tên xấu xa vô luân ở trong thế giới kinh doanh. Anh bỗng nhìn Blomkvist, vẻ mặt chợt nghiêm túc.

    - Tại sao cậu không viết về Hans-Erik Wennerstrom?

    - Tớ chẳng biết gì về lão ta thì viết làm sao.

    - Đào, đào đi, nhân danh Chúa. Cậu biết bao nhiêu về chương trình AIA?

    - À, một thứ chương trình cứu trợ trong những năm 90 để giúp vực nền công nghiệp ở cái Khối Đông Âu cũ đứng dậy. Nó mới đóng lại hai ba năm trước. Tớ đã có nhìn vào và không thấy gì cả.
    Last edited by giavui; 04-30-2014 at 07:29 PM.

  2. #31
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Blomkvist ngạc nhiên nhìn cô. Một ánh ương bướng trong mắt cô. Không một chút thiện cảm ở đó.

    - Cũng giống như tất cả ai khác, Martin có cơ hội đánh trả lại mà. Hắn giết và hiếp là vì hắn thích thế.

    - Anh cũng đâu có nói khác. Nhưng Martin là một thằng con trai bị đàn áp và chịu ảnh hưởng của bố, y như Gottfried cú bố lão ta, một tên Quốc xã vậy.

    - Vậy anh cho là Martin không có ý chí của riêng hắn và con người ta được dạy dỗ thế nào thì sẽ thành ra y như vậy à?

    Blomkvist cười thận trọng.

    - Vấn đề này nhạy cảm ư?

    Mắt Salander giận dữ lóe rực lên. Blomkvist vội nói tiếp.

    - Anh chỉ nói là anh nghĩ việc giáo dục của một người là có vai trò của nó. Bố của Gottfried đã đánh ông ta hằng năm ròng không thương xót. Cái đó để lại dấu vết.

    - Cục cứt. – Salander lại nói. – Gottfried không phải là đứa bé duy nhất bị ngược đãi. Việc đó không cho lão ta cái quyền được giết phụ nữ. Lão ta chọn cho lão cái đó. Với Martin thì cũng như vậy.

    Blomkvist giơ tay lên.

    - Chúng ta không cãi nhau được không nhỉ?

    - Em không cãi. Em chỉ nghĩ lâm li thay là cái bọn sâu bọ này luôn phải có một ai đó khác để mà trách móc.

    - Chúng chịu trách nhiệm về cá nhân chúng chứ. Sau này chúng ta sẽ làm rõ ra chuyện này. Điều đáng nói là khi Gottfried chết, Martin mới mười bảy tuổi, hắn chẳng có ai hướng dẫn. Hắn cố đi theo bước chân của bố. Tháng Hai, 1966 ở Uppsala.

    Blomkvist với lấy một điếu thuốc của Salander.

    - Anh không suy luận về việc Gottfried đã cố thỏa mãn dục lực nào trong lão hay lão đã diễn giải như thế nào những cái lão đang làm. Một nhà phân tâm học có thể hình dung ra đây là một kiểu tập tọng giải nghĩa Kinh thánh nào đó, một cái gì đó liên quan đến trừng phạt và thanh lọc hiểu theo nghĩa bóng. Nó là cái gì thì không quan trọng. Chỉ biết lão là một tên giết người hàng loạt không có gì độc đáo.

    - Gottfried muốn giết phụ nữ nhưng bọc hành động của lão vào một trò ba láp giả mạo tôn giáo. Martin lại không thèm có một lý do nào nữa kia. Hắn đã tổ chức và thực hiện có hệ thống việc giết chóc. Hắn cũng lại có tiền để ném vào thú vui riêng này. Và hắn nhát gan hơn bố hắn, Gottfried mỗi phen để lại một cái xác ở đằng sau và đều dẫn đến một cuộc điều tra của cảnh sát cùng với nguy cơ có người mò ra được chính lão, hay ít nhất liên hệ tới những tên giết người khác.

    - Martin xây nhà của hắn hồi những năm 70. – Salander nói tư lự.

    - Henrik nói là vào năm 1978. Nghe nói hắn sai xây một phòng an toàn để cất các hồ sơ quan trọng hay một vài mục đích gì đó. Hắn đã có một buồng với thiết bị cách âm, không cửa sổ và một cửa ra vào bằng thép.

    - Hắn đã có cái buồng này trong hai mươi lăm năm.

    Hai người im lặng một lúc trong khi Blomkvist nghĩ biết bao nhiêu điều tàn khốc đã xảy ra ở đây trong một phần tư thế kỷ. Salander chả cần bận tâm đến cái chuyện này; cô đã xem các video. Cô để ý thấy Blomkvist hay bất giác sờ sờ lên cổ.

    - Gottfried ghét phụ nữ và cùng với lúc đang dạy con trai ghét phụ nữ thì lão hiếp con trai lão. Nhưng cũng có một thứ ẩn ý nào đó ở đây… Anh nghĩ Gottfried hoang đường mơ tưởng rằng các con lão sẽ chia sẻ với lão cái thế giới quan sa đọa của lão, hãy tạm nói là thế. Khi anh hỏi Martin về Harriet, cô em gái duy nhất của hắn thì hắn nói: Chúng tôi đã cố nói chuyện với nó. Nhưng nó chỉ là một đứa tầm thường. Nó định hót với Henrik.

    - Em đã nghe hắn nói. Lúc em sắp xuống dưới tầng hầm. Và như thế có nghĩa là chúng ta biết được cái điều mà trong câu chuyện mà Harriet muốn nói với Henrik nhưng không thành.

    Blomkvist nhăn mặt.

    - Không đúng. Em hãy nghĩ đến thứ tự thời gian. Ta không biết Gottfried hiếp con trai lần đầu tiên vào lúc nào nhưng lão đưa Martin đi khi lão giết Lea Persson ở Uddevalla năm 1962. Lão chết đuối năm 1965. Trước đó lão và Martin đã định nói với Harriet. Cái đó dẫn chúng ta tới đâu đây?

    - Martin không phải là người duy nhất mà lão xâm hại. Lão cũng đã xâm hại cả Harriet.

    - Gottfried là ông thầy, Martin là học trò. Vậy Harriet là cái gì? Đồ chơi của hai tay kia à?

    - Gottfried dạy Martin làm bậy em gái. – Salander chỉ ngón tay vào tấm ảnh Polaroid.

    - Khó mà xác định được thái độ chị ấy từ hai bức ảnh này vì chúng ta không nhìn thấy mặt chị ấy, nhưng chị ấy cố giấu mặt đi khỏi máy ảnh.

    - Hãy cứ cho là chuyện này bắt đầu khi chị ấy mười bốn, năm 1964. Chị tự chống đỡ - không thể chấp nhận chuyện ấy, như Martin nói. Chị ấy doạ nói với Henrik chuyện ấy. Trong tương quan này rõ rệt là Martin chả có cái gì để mà nói sất; hắn chỉ làm cái mà bố hắn bảo làm. Nhưng hắn và Gottfried đã hình thành nên một kiểu…hiệp ước nào đó và chúng cố làm Harriet nhập môn luôn.

    Salander nói:

    -Trong các ghi chép của anh, anh viết rằng Henrik để cho Harriet dọn đến ở nhà của ông vào mùa đông năm 1964.

    -Có thể Henrik đã thấy có một chuyện gì không phải ở trong gia đình ông, Ông nghĩ là chuyện cãi vã và xích mích giữa Gottfried với Isabella là nguyên nhân, ông đưa Harriet đến nhà để cho chị ấy được phần nào yên ổn và tĩnh lặng cũng như tập trung học hành.

    Một vật cản không ngờ tới trước cho Gottfried và Martin. Chúng không thể dễ dàng đặt tay lên chị ấy hay kiểm soát cuộc đời của chị ấy nữa. Nhưng cuối cùng… các lần xâm hại diễn ra ở đâu nhỉ?

    -Chắc là ở căn nhà nhỏ của Gottfried. Em gần như khẳng định rằng hai bức ảnh này là chụp ở đấy - cũng có thể kiểm tra ra thôi. Căn nhà này ở một vị trí hoàn hảo, cách biệt và xa làng. Rồi Gottfried bị say một lần cuối cùng và chết bằng một các vô duyên nhất.

    - Vậy là bố Herriet đã toan làm tình với chị ấy nhưng em đoán là lão ấy không vỡ lòng cho chị ấy chuyện giết người.

    Blomkvist nhận thấy đây là một điểm yếu. Harriet đã ghi lại tên các nạn nhân của Gottfried, cho chúng đi kèm các câu thơ dẫn của Kinh thánh, nhưng đến những năm cuối cùng chị ấy mới bắt đầu quan tâm đến kinh thánh và lúc ấy thì Gottfried đã chết. Anh ngừng lại, cố đi đến một kết luận lô gích.

    -Dần dần Harriet cũng phát hiện ra Gottfried không chỉ là một tên loạn luân mà còn là một kẻ giết người hàng loạt.

    -Chúng ta không biết khi nào thì chị ấy phát hiện ra các vụ giết người. Có thể là ngay trước khi Gottfried chết đuối. Cũng có thể là sau nếu như lão ấy có nhật ký hay lưu cắt dán báo về các vụ đó. Một cái gì đó đưa chị ấy vào được lõng của lão ấy.

    - Nhưng đó không phải là điều chị ấy doạ nói với Henrik - Blomvist nói.

    - Là Martin - Salander nói - bố chị ấy đã chết nhưng Martin vẫn tiếp tục lạm dụng chị ấy.

    - Đúng thế.

    - Nhưng đó là năm trước khi chị ấy quyết định hành động.

    - Em sẽ làm gì nếu em phát hiện bố em là tên giết người và hiếp anh trai em?

    - Em giết luôn thằng khốn nạn - Salander nói, cái giọng lạnh lùng khiến cho anh tin.

    Anh nhớ lại mặt cô khi đánh Martin Vanger.Anh cười chả vui chút nào.

    - OK, nhưng Harriet không giống em.Gottfried chết nhưng chị ấy làm được một cái gì. Như thế cũng có ý nghĩa đấy. Khi Gottfried chết, Isabella cử Martin đi Uppsala. Hắn có thể về nhà dự lễ Noel hay một nghi lễ nào đó nhưng cả một năm sau đó hắn rất ít hay gặp Harriet, chị ấy cũng có thể ở xa hắn phần nào.

    - Và bắt đầu nghiên cứu Kinh thánh.

    - Và nay trong ánh sáng đó chúng ta biết chị ấy làm việc đó không hề vì một lý do tôn giáo nào cả. Có thể chị ấy chỉ muốn biết bố chị ấy đã đi đến thành ra cái thứ gì. Chị ấy nghiền ngẫm chuyện này cho đến lễ Ngày Trẻ con năm 1966. Rồi thình lình chị ấy thấy anh trai ở Jarnvagsgatan và hiểu ra là hắn đã trở lại.Chúng ta không biết hai anh em có nói chuyện với nhau không hay anh ta đã nói cái gì. Nhưng bất kể xảy ra chuyện gì thì Harriet cũng cảm thấy cần khẩn cấp về nhà nói với Henrik.

    - Và rồi chị ấy mất tích.

    Sau khi hai người rà lại chuỗi sự kiện thì hiểu ra phần còn lại của bài đố ghép hình chắc phải là như thế nào sẽ không còn khó nữa. Blomkvist và Salander đóng gói vali, ba lô lại trước khi rời đó, Blomkvist gọi Frode bảo ông rằng anh và Salander có việc phải đi một thời gian nhưng anh cần phải gặp Henrik trước khi đi.

    Blomvist cần biết Frode đã nói những gì với Henrik. Ông ta có vẻ căng thẳng trong điện thoại quá đến nỗi Blomkvist thấy lo ngại cho ông ta. Frode nói ông mới chỉ báo Henrik là Martin chết vì tai nạn xe hơi.

    Sấm lại dậy khi Blomkvist đỗ xe ở bên ngoài bệnh viện Hedestad, và mây đen báo mưa lại một lần nữa đùn đến đầy trời. Anh vội rảo bước qua sân thì trời bắt đầu mưa xuống.

    Henrik Vanger khoác một cái áo tắm, ngồi ở một cái bàn bên cửa sổ phòng ông. Bệnh hoạn đã để lại dấu vết nhưng mặt Henrik đã lấy lại đôi chút màu sắc, ông nom như đang ở trên đường hồi phục. Họ bắt tay nhau, Blomkvist đề nghị cô y tá để cho hai người nói chuyện riêng ít phút.

    - Anh tránh tôi đấy nha. – Henrik nói.

    Mikael gật đầu.

    - Theo yêu cầu. Gia đình ông không muốn tôi đến, nhưng hôm nay ai cũng ở nhà Isabella.

    - Tội nghiệp Martin.- Henrik nói.

    - Henrik, ông trao cho tôi nhiệm vụ đào bới sự thật về chuyện gì đã xảy đến với Harriet. Ông có mong đợi sự thật không đau đớn không?

    Ông già nhìn anh.Rồi mắt ông mở to ra.

    - Martin?

    - Anh ấy là một phần của câu chuyện.

    Henrik nhắm mắt lại.

    - Nay tôi có một câu muốn hỏi ông. - Blomkvist nói.

    - Nói đi.

    - Ông vẫn muốn biết điều gì đã xảy ra chứ? Cho dù chuyện đó quay ra lại là đau đớn, thậm chí sự thật lại còn tệ hại hơn cả ông tưởng tượng nữa chứ?

    Henrik nhìn Blomkvist hồi lâu, rồi ông nói:

    - Tôi muốn biết. Đây là ý của tôi khi trao việc này cho anh.

    - OK, tôi nghĩ tôi biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet. Nhưng vẫn còn thiếu một miếng cuối cùng của bài đố ghép hình cho nên tôi chưa dám chắc.

    - Anh nói tôi xem.

    - Không, hôm nay thì chưa được.Cái điều ngay bây giờ tôi muốn ông làm là nghỉ ngơi. Các bác sĩ nói cơn nguy kịch đã qua rồi và tình hình của ông đang khá lên.

    - Anh bạn trẻ, chớ cư xử với tôi như một đứa trẻ nha.

    - Tôi chưa tìm xong được tất cả câu chuyện. Tôi mới có về lý lẽ thôi. Tôi đang đi tìm miếng hình cuối cùng để ghép vào. Lần sau ông gặp tôi, tôi sẽ bảo ông toàn bộ câu chuyện. Có thể mất một thời gian nhưng xin ông biết cho là tôi sẽ quay lại và ông sẽ biết sự thật.

    Salander kéo tấm vải cao su lên che cái xe máy để ở bên phía râm của căn nhà gỗ nhỏ. Rồi cô lên chiếc xe hơi Blomkvist mượn. Cơn dông đã lại bắt đầu dữ dội thêm và ngay ở phía nam của Gavle đã có một trận mưa lớn khiến Blomkvist không nhận được ra đường. Để an toàn, anh cho xe vào một trạm xăng. Chờ mưa tạnh cho nên mãi 7 giờ tối hôm ấy họ mới đến được Stockhom. Blomkvist cho Salander mã khóa bảo hiểm của tòa nhà của anh rồi thả cô xuống giữa đường xe điện ngầm trung tâm. Căn nhà của anh trông không ra chốn quen thuộc.

    Anh chạy máy hút bụi rồi lau chùi bàn ghế trong khi Salander đi gặp Dịch bệnh. Cô đến nhà Blomkvist vào quãng nửa đêm và bỏ mười phút ra xem xét các xó xỉnh, khe nứt, vết rạn của căn nhà. Rồi cô đứng một lúc lâu ở cửa sổ, nhìn khung cảnh đối diện với các cửa cổng ở Slussen.

    Họ cởi quần rồi đi ngủ.

    Trưa hôm sau, họ đổ bộ xuống sân bay Gatwick London. Họ lại gặp mưa. Blomkvist thuê một phòng ở khách sạn James gần quảng trường Hyde Park, một khách sạn khá so với tất cả các chỗ một sao ở Bayswater, nơi trong các chuyến đến London trước đây anh thường đến trọ.

    5 giờ chiều họ đứng ở quầy bar thì có một anh chàng đi đến. Gần như hói, bộ râu cằm màu vàng, anh ta mặc quần jean và chiếc jacket to quá cỡ.

    - Vò vẽ?

    - Chúa Ba Ngôi?- cô nói. Hai người gật đầu với nhau. Anh ta không hỏi tên Blomkvist.

    Người đối tác của Chúa Ba Ngôi được giới thiệu là Bob Chó. Anh ta ngồi trong một chiếc xe tải VW đỗ ở gần góc đường. Họ lên xe qua cửa lùa rồi ngồi xuống những chiếc ghế gập chốt chặt vào sườn xe. Trong khi Bob lái thì Vò Vẽ và Chúa Ba Ngôi nói chuyện.

    - Dịch bệnh nói cái này là dính đến trò dỏng tai liếc mắt nào đó.

    - Nghe lỏm điện thoại và kiểm tra thư điện tử của một máy tính. Có thể làm nhanh hay là mất một hai ngày, tùy theo sức anh ta ép đến đâu.- Lisbeth chỉ trỏ ngón tay cái về Blomkvist- Cậu có làm được không?

    - Chó có rận có bọ không?- Chúa Ba Ngôi nói.

    Anita Vanger sống trong một ngôi nhà mái bằng ở ngoại ô hấp dẫn của khu Thánh Albans, mạn bắc cách một giờ xe. Trong xe tải, họ thấy chị đi đến nhà mở khóa cửa, quãng sau 7 giờ rưỡi tối hôm ấy. Họ chờ cho chị yên vị, ăn bữa tối nhẹ xong ngồi vào trước tivi rồi Blomkvist mới bấm chuông.

    Một bản sao giống gần như đúc với Cecilia Vanger mở cửa, vẻ mặt lịch sự dò hỏi.

    - Chào Anita, tôi là Mikael Blomkvist. Henrik Vanger bảo tôi đến gặp chị. Tôi cho là chị đã biết tin về Martin.

    Từ ngạc nhiên mặt chị chuyển sang thành cảnh giác. Chị biết đích xác Blomkvist là ai nhưng cái tên Henrik có nghĩa là chị buộc phải mở cửa. Chị đưa anh vào phòng khách. Anh để ý thấy một bức tranh in đá của Anders Zorn ở trên lò sưởi. Gian phòng này có thể nói là đáng yêu.

    - Xin lỗi là tôi đã đường đột quấy rầy chị nhưng tôi tình cờ qua khu Thánh Albans và tôi đã cố gọi chị trong ngày.

    - Tôi hiểu. Xin cho biết là chuyện gì ạ.

    - Chị có định đến dự tang lễ không?

    - Không , quả thật là không. Tôi và Martin không thân nhau và muốn sao tôi cũng không thể đi xa vào lúc này được.

    Anita Vanger đã ở xa Hedestad ba chục năm. Sau khi bố chị quay về đảo Hedeby, chị hiếm khi đặt chân lên đó.

    - Tôi muốn biết chuyện gì đã xảy ra với Harriet Vanger, Anita. Đến lúc nói sự thật rồi.

    - Harriet? Tôi không hiểu anh định nói gì.

    Blomkvist mỉm cười với vẻ ngạc nhiên giả bộ của chị.

    - Chị là người bạn thân nhất của Harriet ở trong gia đình. Chị là người duy nhất chị ấy kể cho nghe câu chuyện hãi hùng của chị ấy.

    - Cái điều anh vừa nói ấy, tôi không nghĩ ra nổi đâu. - Anita nói.

    - Anita, chị ở trong buồng của Harriet hôm ấy. Tôi có bằng chứng về việc này ở trong ảnh, dù chị đã nói với cảnh sát điều tra Morell như thế nào đi nữa. Ít ngày nữa, tôi sẽ báo cáo với Henrik và ông ấy sẽ nghe ở đây. Tốt hơn là chị bảo tôi chuyện gì đã xảy ra.

    Anita Vanger đứng lên.

    - Ra ngay khỏi nhà tôi từ phút này.

    Blomkvist đứng lên.

    - Sớm muộn rồi chị cũng phải nói với tôi thôi mà.

    - Bây giờ hay cả sau này nữa, tôi không có gì, không có cái gì hết để nói với anh cả.

    - Martin chết rồi. - Blomkvist nói. - Chị không ưa Martin bao giờ. Tôi nghĩ chị chuyển đến London sống không phải chỉ để tránh gặp bố mà còn cả là để cho chị không phải gặp Martin. Như thế có nghĩa là chị cũng biết về Martin và người duy nhất có thể kể với chị là Harriet. Vấn đề là: chị làm gì với cái điều mà chị biết này cơ chứ?

    Anita Vanger đóng sầm cửa vào mặt anh.

    Salander thỏa mãn mỉm cười bỏ chiếc micro cài ở bên dưới sơ mi của cô ra.

    - Cánh cửa vừa duỗi thẳng bản lề ra được mới hai chục giây là chị ta cầm ngay điện thoại lên. - Cô nói.

    - Mã Australia, - Chúa Ba Ngôi nói, gỡ chiếc mũ nghe để xuống cái bàn nho nhỏ ở trong xe tải. - Tôi phải dò mã khu vực. - Anh mở máy tính xách tay. - OK. Chị ta gọi con số sau, nó là một điện thoại ở một thị trấn tên là Vũng Tennant, bắc suối Alice ở Lãnh thổ Bắc. Các cậu có muốn nghe câu chuyện không?

    Blomkvist gật.

    - Bây giờ ở Australia là mấy giờ?

    - Khoảng 3 giờ sáng. - Chúa Ba Ngôi cho máy quay đĩa chạy và gắn loa vào đó. Mikael nghe chuông réo tám lần rồi một người cầm máy lên. Câu chuyện nói bằng tiếng Anh.

    - Chào, tớ đây.

    - Hem, tớ biết tớ là người dậy sớm thế nhưng…

    - Tớ đã định gọi từ hôm qua cơ…Martin chết rồi. Hình như anh ta lái xe đâm vào một xe tải ngày hôm kia.

    Im lặng. Rồi nghe như có ai dặng hắng nhưng cũng có thể là “Tốt”

    - Nhưng chúng ta có một vấn đề. Một tay nhà báo kinh tởm mà Henrik móc được ở cái lỗ nào ra đã gõ vào cửa nhà tớ, ở tại Thánh Albans đây này. Hắn hỏi về những chuyện xảy ra từ 1966. Hắn biết một số.

    Lại im lặng.Rồi một cái giọng chỉ huy.

    - Anita. Bỏ ngay điện thoại xuống. Chúng mình không liên hệ với nhau một thời gian.

    - Nhưng…

    - Viết thư.Bảo tớ chuyện gì.

    Và câu chuyện hết.

    - Con mẹ này ghê gớm phết.- Salander nói.

    Họ quay về khách sạn đúng trước 11 giờ. Nhân viên lễ tân giúp họ đặt vé máy bay cho chuyến bay đi Australia sắp tới. Rồi họ mua được vé trên một máy bay rời đây tối mai, hồi 7 giờ 05 đi Melbourne, nghỉ giữa chừng ở Singapore.

    Đây là lần đầu tiên Salander thăm London. Buổi sáng họ đi dạo từ Vonvent Garden đến Soho. Họ dừng lại uống café ở phố cổ Compton. Quãng 3 giờ họ về khách sạn để thu dọn hành lý. Trong khi Blomkvist thanh toán tiền khách sạn, Salander mở di động. Cô có một tin nhắn.

    - Armansky bảo gọi ngay.

    Cô dùng điện thoại ở gian sảnh. Đứng xa cô một chút, Blomkvist để ý thấy cô quay lại phía anh với một bộ mặt lạnh băng. Anh lập tức đến cạnh cô.

    - Gì thế?

    - Mẹ em chết. Em phải về nhà.

    Salander nom đau khổ khiến anh quàng tay ôm quanh người cô. Cô đẩy anh ra.

    Họ ngồi ở quầy bar khách sạn. Khi Blomkvist nói có thể hủy vé đi Australia và trở về Stockhom với cô thì cô lắc đầu.

    - Không. - Cô nói - Chúng ta không thể bỏ dở công việc bây giờ. Anh cần phải tự đi riêng một mình.

    Họ chia tay ở trước khách sạn, người nào đi đến sây bay của người nấy.

  3. #32
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 26

    Thứ Ba, 15 tháng Bảy
    Thứ Năm, 17 tháng Bảy

    Blomkvist bay từ Melbourne đi suối Alice. Sau đó anh phải chọn hoặc thuê một máy bay hoặc một xe hơi cho chuyến đi còn lại lên miền bắc dài 250 dặm. Anh chọn xe hơi.

    Một người không quen biết với một tên ký rất Kinh thánh là Joshua, người này thuộc bộ phận của mạng lưới quốc tế bí mật của Dịch Bệnh, đã để lại cho anh một phong bì ở phòng thông tin sân bay Melbourne.

    Số điện thoại mà Anita gọi thuộc về một nơi gọi là trang trại Cochran. Đấy là một trại nuôi cừu. Một bài báo rút ra ở Internet cho biết những nét khái quát.

    Australia: dân số 18 triệu; người chăn cừu, 53.000; xấp xỉ 120 triệu đầu cừu. Len xuất khẩu hàng năm xấp xỉ 3 tỉ rưỡi đôla. Australia xuất khẩu 700 triệu tấn cừu lớn, cừu non, cộng với da để làm quần áo. Chế biến thịt và len là một trong những ngành công nghiệp quan trọng nhất của đất nước…

    Trang trại Cochran được Jeremy Cochran thành lập năm 1891, xí nghiệp nông nghiệp lớn nhất thứ năm của Australia, xấp xỉ 60.000 con cừu Merinos (len được coi là đặc biệt đẹp). Trang trại cũng nuôi gia súc, lợn và gà. Cochran có lượng xuất khẩu hàng năm đáng nể sang Mỹ, Nhật, Trung Quốc và châu Âu.

    Tiểu sử cá nhân cũng hấp dẫn.

    Năm 1972 trang trại Cochran truyền từ Raymond Cochran sang Spencer Cochran học Oxford. Spencer chết năm 1994, trang trại do bà vợ góa cai quản. Blomkvist tìm được ra bà ở trong một bức ảnh không rõ nét, mờ nhòa tải từ địa chỉ mạng trang tại Cochran xuống. Nó cho thấy một phụ nữ tóc vàng, mặt hơi bị che khuất, bà đang xén lông một con cừu.

    Theo lời ghi của Joshua, hai người này lấy nhau ở Ý vào năm 1971. Tên bà là Anita Cochran.

    Blomkvist dừng chân qua đêm ở một cái lỗ hẻo lánh khô cong khô queo của thị trấn mang cái tên đầy hy vọng Wannado. Anh ăn cừu rán và uống ba vại bia tại một quán hàng cùng với mấy người địa phương gọi anh là “bồ”.

    Việc cuối cùng anh làm trước khi đi ngủ là gọi Berger ở New York.

    - Anh xin lỗi, Erika, bận quá không có thì giờ gọi.

    - Công việc ra cái quái gì rồi? – cô nổ - Christer gọi bảo em là Martin Vanger đã bị chết vì tai nạn xe cộ.

    - Chuyện này dài.

    - Tại sao không trả lời điện thoại? Em gọi như điên hai hôm nay.

    - Không bắt sóng được ở đây.

    - Đây là đâu?

    - Ngay lúc này anh đang ở trên phía bắc suối Alice một trăm hai mươi lăm dặm. Đây là Australia.

    Mikael ít khi làm được cho Berger ngạc nhiene. Lần này cô im lặng trong khoảng mười tích tắc.

    - Thế nhưng anh làm gì ở Australia? Nếu em hỏi mà không làm sao.

    - Anh đang làm nốt việc kia. Ít ngày anh sẽ về. Anh gọi em chỉ để nói anh gần như đã làm xong công việc của Henrik Vanger.

    Quãng trưa hôm sau anh đến trang trại Cochran, sau khi biết Anita Cochran ở một trạm cừu gần một chỗ gọi là Makawaka cách bảy mươi lăm dặm nữa về phía tây.

    4 giờ chiều thì Blomkvist tìm ra được lối đi đến đó, trên những con đường bụi bặm ở sâu vào bên trong. Anh dừng lại ở một cái cổng, mấy chủ trại đang tập trung uống cà phê bên nắp mũi một chiếc xe jeep đỗ ở đó. Blomkvist xuống xe nói muốn tìm Anita Cochran. Họ đều quay vào một người đàn ông trẻ tuổi lực lưỡng chắc là người có quyết định ở trong đám. Anh ta phanh trần ngực và da rất đỏ, trừ những nơi chiếc áo phông của anh ta thường che đi. Anh ta đội một chiếc mũ rộng vành.

    - Bà chủ ở cách đây mười tám dặm về phía này. – Anh ta nói, chỉ bằng ngón tay cái.

    Anh ta nghi ngờ nhìn chiếc xe của Blomkvist rồi nói đi đến đó với cái xe Nhật trả con chơi này có lẽ không phải là một ý hay. Cuối cùng chàng lực sĩ da thịt đỏ au kia nói cũng đi về phía đằng đó anh ta sẵn sàng chở Blomkvist trên chiếc xe jeep của anh ta. Blomkvist cảm ơn rồi mang chiếc máy tính theo cùng.

    Người đàn ông tự giới thiệu là Jeff và nói anh làm “giám đốc ngựa” ở trại. Blomkvist nhờ anh giải thích chữ này. Jeff nhìn anh một hồi rồi kết luận Blomkvist không phải dân ở đây. Anh giải thích giám đốc ngựa cũng tương tự như giám đốc tài chính ở ngân hàng, tuy anh trông coi cừu vào chữ “trại” ở Australia có nghĩa là trại chăn nuôi.

    Họ tiếp tục chuyện trò nhiệt tình lái chiếc xe Jeep đi với một tốc độ mười cây số một giờ xuống một rãnh núi dốc dựng 20 độ. Blomkvist thầm cảm tạ các ngôi sao chiếu mệnh đã khiến cho anh không có ý lái chiếc xe thuê kia đi. Anh hỏi bên dưới rãnh núi là gì thì Jeff nói là đồng cỏ cho 700 đầu cừu.

    - Như chỗ tôi biết thì trang trại Cochran là một trong những trang trại lớn.

    - Trại chúng tôi là một trong những cái lớn nhất Australia. – Jeff nói, giọng có chút tự hào. - Ở quận Makawaka đây chúng tôi nuôi 9.000 cừu, nhưng chúng tôi có cả trại ở New South Wales lẫn ở Tây Australia. Chúng tôi có hơn 60.000 đầu cừu.

    Họ ra khỏi rãnh núi vào một vùng đồi nhưng thoai thoải hơn. Blomkvist thình lình nghe thấy tiếng súng. Anh nhìn thấy xác cừu, những đống lửa trại lớn và chừng mười tay chăn cừu. Một vài người hình như mang súng. Xem vẻ họ đang giết cừu. Bất giác anh nghĩ đến những con cừu non dâng cúng trong Kinh thánh.

    Rồi anh thấy một phụ nữ tóc vàng để ngắn, mặc jean và sơ mi ô cờ trắng đỏ. Jeff dừng lại cách chị ta một ít.

    - Chào bà chủ. Chúng ta có một khách du lịch. – Anh ta nói.

    - Chào Harrier. Lâu lắm rồi. – Anh nói bằng tiếng Thụy Điển.

    Không ai trong đám nhân viên ở đây hiểu anh nói gì nhưng họ đều trông thấy phản ứng của chủ. Chị lùi lại một bước, nom vẻ chấn động. Thấy phản ứng này đám đàn ông bèn thôi đùa cợt, đứng thẳng cả lên, sẵn sàng can thiệp chống lại người ngoại quốc kỳ lạ này. Sự thân thiện của Jeff thình lình tan biến, anh đi đến trước Blomkvist.

    Blomkvist biết rõ cái mạng mình mong manh như thế nào. Anita Cochran nói một câu thôi là anh rồi đời.

    Rồi giây phút ấy qua đi. Harriet hẩy tay ra ý bình thường và mọi người lùi lại. Chị đi lên và nhìn vào mắt Blomkvist. Mặt chị đầy mồ hôi và bụi bặm. Chân tóc chị sẫm màu hơn. Mặt chị già hơn, gầy hơn nhưng so với bức ảnh xác nhận, chị đẹp ra.

    - Chúng ta có gặp nhau trước kia chưa? – chị hỏi.

    - Có, đã. Tôi là Mikael Blomkvist. Chị đã là cô trông trẻ coi tôi một mùa hè lúc tôi lên ba. Lúc ấy chị mười hai hay mười ba.

    Phải một lúc vẻ bối rối của chị mới hết và rồi anh thấy chị đã nhớ ra. Chị nom ngạc nhiên.

    - Anh muốn gì?

    - Harriet, tôi không phải là kẻ thù của chị. Tôi đến đây không để gây rối cho chị. Nhưng tôi cần nói chuyện với chị.

    Chị quay lại Jeff bảo anh trôgn nom thay rồi ra hiệu cho Blomkvist theo chị. Họ đi vài trăm mét đến một nhóm lều màu trắng ở dưới một lùm cây. Chị chỉ cho anh một chiếc ghế đẩu ở bên một chiếc bàn thô sơ rồi đổ nước vào một cái thau. Chị rửa mặt, lau khô mặt rồi vào trong lều thay sơ mi. Chị lấy hai chai bia ở trong một cái tủ lạnh nhỏ ra.

    - Nào, nói chuyện.

    - Sao chị lại bắn cừu?

    - Đang có dịch bệnh. Cừu phần lớn khỏe mạnh nhưng tôi không thể để cho nguy cơ lan rộng. Chúng tôi sắp phải giết hơn sáu trăm con trong tuần tới. Cho nên người tôi không được bình tĩnh lắm.

    Blomkvist nói:

    - Anh của chị tông xe vào một chiếc xe tải mấy ngày trước đây. Anh ấy chắc là chết tức khắc.

    - Tôi có nghe thấy.

    - Anita bảo, chị ấy đã gọi cho chị.

    Chị dò xét anh hồi lâu. Rồi chị gật đầu. Thấy chối chả được cái gì.

    - Sao anh tìm được ra tôi?

    - Chúng tôi nghe lén điện thoại của Anita. – Blomkvist thấy chả có lý do gì để nói dối. – Tôi nhìn thấy anh cảu chị ít phút trước khi anh ấy chết.

    Harriet nhăn mặt, anh nhìn thấy mắt chị. Anh bèn cởi chiếc khăn nhố nhăng anh quàng quanh cổ, giơ cho chị xem vết dây thòng lọng còn để lại. Nó vẫn còn viền đỏ và anh cahức sẽ có một vết sẹo khiến anh mãi nhớ đến Martin Vanger.

    - Ông anh chị đã treo tôi lên một cái mấu nhưng nhờ ơn Chúa, người cộng tác với tôi đã đến kịp nên anh ấy không giết được tôi.

    Mắt Harriet chợt lóe sáng lên.

    - Tôi nghĩ anh kể cho tôi nghe từ đầu thì hay hơn.

    Chuyện phải mất hơn một giờ. Anh bảo chị anh là ai, anh đang làm công việc gì. Anh kể lại anh được Henrik Vanger trao việc ra sao. Anh nói rõ cảnh sát điều tra đã đi đến tắc tị, anh kể chuyện Henrik từng đã tự điều tra mãi và cuối cùng bảo chị bức ảnh của chị với các bạn Jarnvagsgatan tại Hedestad đã dẫn như thế nào đến việc phát hiện ra những nỗi buồn phiền ở đằng sau sự bí mật mất tích của chị cùng đoạn tiếp theo lạ lùng của nó, cái đoạn đưa tới việc Martin Vanger chết.

    Trong khi anh nói, hoàng hôn xuống dần. Đám đàn ông ngưng việc, đèn thắp sáng, các xoong nồi thức ăn bắt đầu sôi. Blomkvist để ý thấy Jeff ở sát bên bà chủ và canh chừng nhìn anh. Đầu bếp dọn bữa tối cho họ. Mỗi người được một chai bia nữa. Ăn uống xong, Harrier ngồi hồi lâu im lặng.

    Mãi rồi chị nói:

    - Tôi mừng là bố tôi đã chết và hết bạo hành. Tôi không bao giờ nghĩ Martin…tôi mừng là anh ấy đã chết.

    - Tôi có thể hiểu được.

    - Anh không nói rõ chuyện tại sao anh biết tôi còn sống?

    - Đã hiểu những gì xảy ra thì hiểu được chỗ còn lại cũng không khó lắm. Để biến đi chị cần có người giúp. Anita là người mà chị tâm sự và thậm chí là người duy nhất chị coi trọng. Hai chị là bạn của nhau, chị ấy đã nghỉ hè với chị. Hai người không ở trong căn nhà nhỏ của bố chị. Nếu có ai mà chị tâm sự với được thì đó phải là Anita – và chị ấy cũng vừa mới nhận được bằng lái xe.

    Vẻ mặt khó đoán nhận, Harriet nhìn anh.

    - Vậy nay biết tôi còn sống thì anh sẽ làm gì?

    - Tôi cần nói với Henrik. Ông ấy đáng được biết.

    - Và rồi nữa? Anh là nhà báo cơ mà.

    - Tôi không có ý đem chị phô ra. Trong tất cả câu chuyện rắc rối này, tôi đã phạm vào quá nhiều quy tắc về hạnh kiểm nghề nghiệp đến nước chắc chắn Hội nhà báo sẽ tống cổ tôi ra nếu họ biết chuyện này. – Anh cố làm sáng tỏ chỗ này. – Thêm một vi phạm nữa cũng chả làm cho hơn kém gì, còn tôi thì không muốn cô coi trẻ của tôi giận.

    Chị không thấy câu đùa thú vị.

    - Bao nhiêu người biết sự thật?

    - Là chị còn sống ư? Ngay lúc này thì có chị, tôi, Anita và người cộng tác với tôi. Ông luật sư của Henrik biết được hai phần ba câu chuyện. Nhưng vẫn nghĩ là chị đã chết từ những năm 60.

    Harriet Vanger hình như đang nghĩ đến gì đó. Chị nhìn đăm đăm vào đêm tối. Một lần nữa Blomkvist có cảm giác khó chịu rằng anh đang ở trong một tình thế hiểm nghèo. Anh nhớ rằng Harriet có một khẩu súng trường ở trên chiếc giường cắm trại cách đó ba bước. Anh lắc lắc người và ngừng tưởng tượng linh tinh. Anh bắt sang chuyện khác.

    - Nhưng rồi sao mà chị lại thành ra một chủ trại cừu ở Australia thế chứ? Tôi biết là Anita đưa chị trốn đi khỏi Hedeby, chắc là ở trong cốp xe chị ấy sau hôm có tai nạn cầu lại mở.

    - Đúng là tôi nằm trên sàn ghế sau xe, phủ một cái chăn lên. Nhưng không ai nhòm. Khi Anita đến đảo tôi đã gặp chị ấy và bảo là tôi cần trốn đi. Tôi tin chị ấy, anh đoán đúng đấy. Chị ấy đã giúp tôi, suốt từng ấy năm chị ấy luôn là một người bạn trung thành.

    - Sao lại là Australia?

    - Tôi ở nhà Anita tại Stockholm ít tuần. Anita có tiền riêng, chị ấy hào hiệp cho tôi vay. Cũng cho tôi cả hộ chiếu của chị ấy. Chúng tôi gần như giống hệt nhau mà, tôi chỉ cần nhuộm tóc đi thôi. Tôi sống bốn năm trong một nhà tu ở Italy – không làm nữ tu. Có những nhà tu mà anh có thể thuê phòng rẻ tiền ở đó để được bằng an và tĩnh tâm mà suy nghĩ. Rồi tôi gặp Spencer Cochran. Anh ấy nhiều hơn vài tuổi, vừa tốt nghiệp ở Anh xong, lúc ấy đang đi khắp châu Âu bằng ghé xe độ đường. Tôi yêu. Anh ấy cũng yêu. Chuyện là như thế, "Anita" Vanger lấy anh ấy năm 1971. Tôi không có gì phải ân hận. Anh ấy là một người tuyệt vời. Rất buồn là tám năm trước đây anh áy đã chết và tôi thành ra người sở hữu trạm này.

    - Nhưng hộ chiếu của chị - chắc chắn sẽ có người phát hiện ra là có hai Anita Vanger?

    - Không chứ, tại sao lại phát hiện? Một cô gái Thụy Điển tên là Anita Vanger lấy Spencer Cochran. Chị ta sống ở London hay Australia thì cũng chả có làm cho khác đi cái gì cả. Người ở London là vợ đã xa lìa của Spencer Cochran. Người ở Australia là người vợ hiện tại của ông ta, họ không xứng khớp với hồ sơ máy của của London và Canberra. Ngoài ra tôi đã có một hộ chiếu Australia với họ của chồng. Chúng tôi đã xếp đặt rất hoàn hảo. Điều duy nhất có thể làm cho câu chuyện đổ nhào là nếu Anita muốn lấy chồng. Hôn nhân của tôi đã phải đăng ký ở hồ sơ đăng ký quốc gia Thụy Điển.

    - Nhưng chị ấy không lấy chồng.

    - Chị ấy bảo chả kiếm ra tấm nào. Nhưng tôi biết chị ấy làm thế vì an toàn của tôi. Chị ấy thực sự là bạn.

    - Chị ấy đã làm gì ở trong buồng của chị?

    - Hôm ấy đầu óc tôi linh tinh lắm. Tôi sợ Martin, nhưng chừng nào anh ấy còn ở Uppsala thì tôi còn gạt được ra khỏi tâm trí. Thế rồi anh ấy về Hedestad và tôi nhận ra là tôi không thể an toàn cho đến hết đời. Tôi lẩn quẩn giữa muốn nói với chú Henrik và muốn trốn. Khi chú Henrik không có thời giờ thì tôi bồn chồn đi loanh quanh trong làng. Dĩ nhiên tôi biết với mọi người thì vụ tai nạn trên cầu đã choán mất hết tất cả mọi chuyện khác đi rồi nhưng với tôi thì không thế. Tôi có vấn đề của tôi. Và tôi thậm chí còn biết rất ít đến cả vụ tai nạn nữa, mọi sự đều như là không có thật. Thế rồi tôi tình cờ nhào phải Anita lúc ấy đang ở trong một căn nhà khách nhỏ trong một khu chung cư với Gerda và Alexander. Chính lúc ấy tôi định đoạt số phận mình. Tôi ở suốt thời gian ấy với Anita và không dám ra ngoài. Nhưng có một thứ tôi cần mang theo – tôi đã viết vào trong một nhật ký những chuyện xảy ra và tôi cần một ít áo quần. Anita đã lấy các thứ đó cho tôi.

    - Tôi lại cho là chị ấy không cưỡng lại được ý muốn xem hiện trường vụ tai nạn. – Blomkvisk nghĩ một lúc. – Tôi không hiểu một điều là tại sao chị lại không đi tìm Henrik như chị đã có ý thế.

    - Tại sao anh nghĩ thế?

    - Tôi không hiểu thật tình. Henrik chắc chắn sẽ giúp chị. Martin sẽ bị đưa đi ngay – chắc là sang Australia để điều trị hay chữa chạy gì đó.

    - Anh không biết chuyện gì đã xảy ra ư?

    Đến lúc này Blomkvist mới chỉ nhắc tới chuyện Gottfried xâm hại tính dục Martin, để vai trò của Harriet ở ngoài.

    - Gottfried gạ gẫm Martin. – Anh nói thận trọng. – Tôi ngờ ông ấy gạ gẫm cả chị.

    Harriet Vanger không mảy may biến sắc. Chị hít vào một hơi rồi úpmặt lên hai bàn tay. Năm giây sau Jeff đã ở bên chị, hỏi có chuyện gì không. Harriet nhìn anh, cười gượng gạo. Rồi chị đứng lên và làm cho Blomkvist ngạc nhiên, chị ôm lấy anh quản lý ngựa, hôn lên má anh ta. Tay quàng qua vai Jeff, chị quay lại Blomkvist.

    - Jeff, đây là Mikael, một bạn…cũ từ xưa. Ông ấy mang đến những chuyện và các tin không hay nhưng chúng ta sẽ không bắn người đưa tin. Mikael, đây là Jeff Cochran, con trai của tôi. Tôi có một con trai nữa và một con gái.

    Blomkvist đứng lên bắt tay Jeff, nói anh ân hận đã mang đến những tin không hay làm cho mẹ Jeff phải rầu long. Harriet nói với Jeff vài lời rồi bảo Jeff đi. Chị lại ngồi xuống và xem vẻ đã có quyết định.

    - Không nói dối nữa. Tôi chấp nhận mọi sự đã kết thúc. Từ 1966, ở một ý nghĩa nào đó tôi đã chờ đến cái ngày hôm nay. Trong nhiều năm tôi khiếp sợ có ai đó đến đây nói tên tôi ra. Nhưng anh biết sao không? Thình lình tôi không bận tâm đến chuyện đó nữa. Quy chế về thời hiệu đã không còn hiệu lực với tội ác của tôi. Còn người ta nghĩ thế nào về tôi thì tôi coi như rác rưởi thôi mà.

    - Tội ác?

    Chị khẩn thiết nhìn anh nhưng anh vẫn không hiểu chị đang nói đến chuyện gì.

    - Tôi mười sáu tuổi. Tôi sợ. Tôi xấu hổ. Tôi thất vọng. Tôi cô đơn. Những người duy nhất biết là Anita và Martin. Tôi đã bảo với Anita về các xâm hại tính dục nhưng tôi không có can đảm bảo chị ấy rằng bố tôi cũng là một kẻ bệnh hoạn giết phụ nữ. Anita không bao giờ biết chuyện đó. Nhưng tôi đã bảo chị ấy cái tội ác của chính tôi gây nên. Chuyện ấy tôi kinh hãi quá đến mức không dám bảo với Henrik. Tôi cầu xin Chúa tha thứ cho tôi. Và tôi đã ẩn náu trong một nhà tu trong mấy năm.

    - Harriet, bố chị là một kẻ hiếp và giết phụ nữ. Không phải lỗi của chị.

    - Tôi biết thế. Bố tôi gạ gẫm tôi trong một năm. Tôi làm mọi thứ để tránh…nhưng ông ấy là bố tôi và tôi không thể từ chối ông ấy bất cứ điều gì mà không cho ông ấy một lời giải thích. Cho nên tôi đã nói dối và đóng một vai trò cố cho rằng mọi sự đều ổn. Và tôi tìm cách sao cho khi gặp bố tôi thì luôn có người khác nữa. Mẹ tôi biết ông bố đang làm gì, dĩ nhiên nhưng bà ấy không màng.

    - Isabella có biết?

    - Dĩ nhiên biết. Trong gia đình này chả chuyện gì xảy ra mà Isabella lại không biết. Nhưng mọi sự nào mà không vui cho bà ấy hay đặt bà ấy vào trong một góc nhìn không đẹp là bà ấy lờ đi. Bố tôi có thể hiếp tôi ở giữa phòng khách và ở ngay trước mặt bà ấy mà bà ấy vẫn như không. Bà ấy không thể nhận ra điều gì trục trặc trong đời bà ấy hay trong đời tôi.

    - Tôi đã gặp Isabella. Trong gia đình Vanger, tôi không ưa bà ấy.

    - Suốt đời bà ấy cứ là như thế thôi. Tôi thường nghĩ về mối quan hệ của bố mẹ tôi. Tôi nhận thấy họ hiếm khi hay có thể là không bao giờ ăn nằm với nhau sau khi đẻ tôi. Bố tôi có những người phụ nữ khác nhưng vì một lý do lạ lùng nào đó, ông ấy sợ Isabella. Ông lánh xa Isabella nhưng không thể li hôn.

    - Trong gia đình Vanger không ai li hôn cả.

    Lần đầu tiên Harriet cười.

    - Đúng, họ không li hôn. Nhưng vấn đề là tôi không thể nói gì được. Cả thế giới tìm ra được cách đấy. Các bạn học, bà con họ hàng của…

    - Harriet, tôi rất xin lỗi.

    - Tôi mười bốn tuổi thì bị ông ấy hiếp lần đầu tiên. Năm tiếp theo ông ấy đưa tôi đến căn nhà nhỏ của ông ấy. Nhiều lần Martin cùng dự. Ông ấy bắt Martin và tôi làm trò ấy với ông ấy. Ông ấy giữ tay tôi cho Martin…ấy tôi. Khi bố tôi chết, Martin liền sẵn sàng tiếp quản vai trò của ông bố. Anh ấy mong tôi thành người yêu của anh ấy và anh ấy nghĩ tôi thần phục anh ấy là chuyện rất tự nhiên. Đến lúc ấy, tôi hết lựa chọn. Tôi buộc phải làm những gì Martin bảo. Tôi thoát được kẻ hành hạ này lại rơi vào nanh vuốt của một kẻ hành hạ khác. Điều duy nhất tôi có thể làm là bảo đảm sao cho khi tôi ở một mnhf với anh ấy thì không bao giờ có cơ hội…

    - Henrik đã…

    - Anh vẫn chưa hiểu đâu.

    Chị cao giọng lên. Blomkvist thấy mấy người ở căn lều gần đấy đang nhìn anh. Chị lại hạ giọng xuống và cúi về phía anh.

    - Tất cả các quân bài đã ở trên bàn. Anh phải tự tìm lấy đoạn kết.

    Chị đứng lên lấy hai chai bia. Khi chị trở lại, Mikael nói mỗi một câu:

    - Gottfried.

    Chị gật đầu.

    - Mồng 7 tháng Tám năm 1965, bố tôi bắt tôi ra ở căn nhà nhỏ của ông ấy. Henrik đi xa. Bố tôi uống rượu và ông ấy cố sức làm chuyện đó với tôi. Nhưng ông ta không lên được, thế là ông ta nổi ngay một cơn điên của người say xỉn. Ông ấy luôn thô bạo và dữ tợn với tôi khi chỉ có hai bố con, nhưng lần này ông ấy vượt ranh giới. Ông ấy đái lên người tôi. Rồi nói sắp sửa làm gì với tôi. Ông ấy nói về những người phụ nữ ông ấy đã giết. Ông ấy khoác lác khoe tài về chuyện ấy. Ông ấy trích dẫn Kinh thánh. Tiếp tục cả giờ như vậy. Tôi chả hiểu được một nửa những gì ông ấy nói nhưng tôi nhận thấy ông ấy hoàn toàn bệnh hoạn.

    Chị uống một hơi bia.

    - Một lúc nào đó khoảng nửa đêm ông ấy lên cơn. Ông ấy hoàn toàn loạn trí. Chúng tôi ở trên gác xép phòng ngủ. Ông ấy quấn một chiếc áo phông quanh cổ tôi rồi gia sức thắt chặt nó. Mắt tôi đã tối sầm lại rồi. Tôi tin chắc là ông ấy sẽ giết tôi thật và đêm ấy, lần đầu tiên ông ấy hiếp được hẳn hoi tôi.

    Harriet nhìn Blomkvist, cái nhìn mong anh thấu hiểu.

    - Nhưng ông ấy say quá nên không thể hiểu thế nào tôi đã thoát đi được. Tôi nhảy từ trên gác xép xuống và chạy. Trần truồng, tôi cứ thế chạy chả suy nghĩ cuối cùng thì đến con đê chắn sóng cạnh biển. Ông ấy loạng choạng đi tìm tôi.

    Blomkvist bỗng mong chị đừng có nói gì thêm nữa.

    - Tôi đủ khỏe để đẩy được một người say rượu xuống nước. Tôi lấy mái chèo dìm ông ấy xuống nước cho đến khi ông ấy không giãy giụa nữa.

    Khi chị ngừng nói, bầu im lặng đặc quánh lại.

    - Rồi khi tôi nhìn lên thì Martin đã đứng ở đấy. Nom anh ấy kinh sợ nhưng đồng thời lại nhe răng cười. Tôi không biết anh ấy ra khỏi căn nhà bám theo chúng tôi đã bao lâu. Từ giờ phút này tôi là do anh ấy định đoạt. Anh ấy đi đến túm lấy tóc tôi, đưa tôi về lại căn nhà nhỏ - đến giường của ông bố. Anh ấy trói tôi lại rồi hiếp tôi trong khi ông bố vẫn nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Và tôi chả có thể chống cự được tí nào.

    Blomkvist nhắm mắt lại. Anh xấu hổ ghê gớm, anh mong anh đem lại bình yên cho Harriet. Nhưng chị đã lại cất tiếng, rắn rỏi.

    - Từ hôm ấy tôi bị anh ấy sai khiến. Anh ấy bảo gì tôi làm thế. Tôi cảm thấy tê liệt, điều duy nhất cứu tôi khỏi điên là Isabella – hay có thể là chú Henrik – đã quyết định Martin sau khi bố chết cần phải thay đổi khung cảnh sống cho nên bà ấy cử Martin đến Uppsala. Dĩ nhiên do bà ấy biết anh ấy đã làm gì với tôi và cách giải quyết vấn đề của bà ấy là như vậy. Anh có thể cầm chắc là Martin thất vọng. Trogn năm sau anh ấy chỉ về nhà dịp lễ Noel. Tôi đã giữ đựơc cho tôi ở xa anh ấy. Giữa Noel với Năm mới, tôi theo Henrik đi một chuyến sang Copenhagen. Còn nghỉ hè thì Anita ở đấy. Tôi tâm sự với chị ấy và suốt thời gian hè chị ấy đều ở bên tôi, đảm bảo anh ấy không đến gần tôi được.

    - Cho đến khi chị trông thấy anh ấy ở Jarnvagsgatan.

    - Tôi nghe nói anh ấy vẫn ở Uppasala, không về họp gia đình. Nhưng rõ là anh ấy đổi ý, thình lình đứng ngay bên kia đường phố, nhìm chằm chằm vào tôi. Anh ấy cười với tôi. Tôi cảm thấy giống như một cơn mơ ghê tởm. Tôi đã giết bố và biết rằng tôi không thể nào thoát khỏi được anh tôi. Cho đến lúc ấy tôi đã nghĩ đến tự sát. Nhưng tôi chọn chạy trốn. – Chị nhìn Blomkvist, con mắt gần như nguôi dịu đi. – Nói hết sự thật ra mà lại cảm thấy thật hay. Đấy, thế là nay anh đã biết.

  4. #33
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 27

    Thứ Bảy, 26 tháng Bảy
    Thứ Hai, 28 tháng Bảy

    Blomkvist đón Salander ở cửa nhà cô tại Lundagatan vào lúc 10 giờ rồi lái xe đưa cô đến nhà hỏa táng. Anh đứng bên cô suốt buổi lễ. Hồi lâu họ là những người đưa ma duy nhất cùng với mục sư nhưng khi tang lễ bắt đầu thì Armansky lẻn nhanh vào. Ông gật đầu cộc lốc với Blomkvist rồi đứng ở sau Salander, nhẹ nhàng đặt một tay lên vai cô. Không nhìn ông, cô gật đầu chào, tựa như đã biết ai ở đây rồi. Rồi ông cô chẳng màng đến cả hai.

    Salander không nói gì với anh về mẹ mình nhưng có vẻ mục sư đã nói chuyện với ai đó ở nhà dưỡng lão nơi mẹ Salander qua đời, nên Blomkvist biết bà chết vì xuất huyết não. Suốt lễ tang Salander không nói một lời. Mục sư đã hai lần làm cô nghĩ bị cắt quãng khi mục sư nói trực tiếp với cô. Salander nhìn thẳng vào mắt mục sư, mặt không thể hiện một tình cảm gì. Lễ tang xong, cô quay gót đi, không cảm ơn cũng chẳng chào chia tay. Blomkvist và Armansky thở phào nhìn nhau.

    - Cố ấy rất buồn. – Armansky nói.

    - Tôi biết. – Blomkvist nói. – Ông đến là tốt quá.

    Armansky nhìn chằm chằm vào Blomkvist.

    - Nếu anh quay lên phía bắc, hãy chú ý đến cô ấy.

    Anh đã hứa. Hai người chào nhau và chào mục sư ở cửa nhà thờ. Salander đã ngồi chờ ở trong xe.

    Cô phải về Hedestad với anh để lấy xe máy của cô và các thiết bị cô mượn của An ninh Milton. Chỉ khi đã qua Uppsala cô mới cất tiếng hỏi chuyến đi Australia ra sao. Blomkvist đã đáp xuống sân bay Arlanda muộn đêm qua và ngủ có vài giờ. Vừa lái xe anh vừa kể cho cô chuyện của Harriet. Salander lặng thinh trong nửa giờ rồi mới mở miệng.

    - Con đĩ. – Cô nói

    - Ai?

    - Harriet Mẹ kiếp Vanger. Nếu chị ta làm cái gì đó từ 1996 thì Martin không thể hiếp và giết trong ba mươi bảy năm.

    - Harriet biết bố giết nhiều phụ nữ nhưng không biết Martin lại dính dáng đến các chuyện đó. Chị ấy trốn chạy một ông anh hiếp chị ấy rồi lại đe tố cáo chị ấy dìm chết bố nếu không làm những trò ông anh bảo.

    - Cứt.

    Sau đó họ ngồi im lặng miết cho tới Hedestad. Blomkvist đã lỡ giờ hẹn nên thả cô xuống chỗ rẽ đi đảo Hedeby; anh hỏi cô có thích ở đây khi anh quay lại không.

    - Anh nghĩ ở lại qua đêm sao?

    - Anh nghĩ thế.

    - Anh có muốn em ở đây không?

    Anh ra xe đi vòng sang quàng tay ôm cô. Cô đẩy anh ra, gần như thô bạo. Blomkvist lùi lại.

    - Lisbeth, em là bạn anh mà.

    - Anh có muốn em ở lại đây để đêm nay anh sẽ có một đứa cho anh…?

    Blomkvist nhìn cô hồi lâu. Rồi anh quay lên xe, nổ máy. Anh hạ cửa kính xuống. Sờ không khí cũng thấy sự thù địch ở cô.

    - Anh muốn là bạn của em. – Anh nói. – Nếu em muốn khác thế thì em không cần ở đây khi anh trở về nhà.

    Henrik đang ngồi, mặc quần áo khi Dirch Frode đưa Blomkvist vào phòng bệnh viện.

    - Họ nghĩ để tôi đứng ngoài lễ tang Martin ngày mai đây.

    - Frode bảo ông những gì rồi?

    Henrik nhìn xuống sàn.

    - Ông ấy bảo tôi những điều Martin và Gottfried đã làm. Xấu, xấu xa hơn nhiều so với những cái tôi có thể tưởng tượng ra.

    - Tôi biết chuyện chị Harriet.

    - Kể tôi xem nó chết như thế nào.

    - Chị ấy không chết. Chị ấy còn sống. Và nếu ông thích thì chị ấy rất muốn gặp ông.

    Henrik và Frode, cả hai cùng nhìn anh trừng trừng, tựa như quả đất này đang bị lộn ngược đầu đuôi.

    - Phải mất thì giờ mới thuyết phục chị ấy đến, nhưng chị ấy đang sống, đang làm ăn tốt và chị ấy đang ở đây, tại Hedestad này. Chị ấy đến sáng nay và trong một giờ nữa có thể ở đây. Nếu ông muốn gặp chị ấy thì đấy.

    Blomkvist phải kể từ đầu đến đuôi câu chuyện. Đôi ba lần Henrik ngăn lại hỏi hay bảo anh nhắc lại một điều gì đó. Frode không nói năng gì.

    Chuyện kể xong, Henrik ngồi im lặng. Blomkvist sợ ông già chịu không nổi nhưng Henrik không lộ ra một vẻ xúc động gì trừ khi ông bắt đầu lên tiếng thì giọng nói của ông nghe thấy có sức hơn.

    - Tội nghiệp, tội nghiệp Harriet. Cốt sao nó đến được với tôi thôi.

    Blomkvist nhìn đồng hồ. Bốn giờ kém năm.

    - Ông muốn gặp chị ấy chứ? – Chị ấy sợ ông sẽ không muốn gặp sau khi biết những chuyện chị ấy đã làm.

    - Về các bông hoa kia thì sao?

    - Tôi đã hỏi chị ấy trên máy bay về nhà. Trong gia đình, chỉ có một người mà chị ấy yêu, không kể Anita, là ông. Vậy dĩ nhiên chị ấy là người gửi các bông hoa. Chị ấy nói chị ấy hy vọng ông sẽ hiểu là chị ấy còn sống và làm ăn tốt tuy không ra mắt. Nhưng vì kênh thông tin duy nhất của chị ấy là Anita, người ra nước ngoài ngay sau khi học hành xong và không về Hedestad bao giờ nên Harriet biết rất ít về tình hình ở nhà. Chị ấy không biết ông đã đau khổ ghê gớm như thế nào hay ông nghĩ hoa đó là kẻ giết chị ấy đang trêu chọc ông.

    - Tôi cho là Anita đã gửi các hoa kia.

    - Chị ấy làm cho một hãng hàng không bay khắp thế giới. Chị ấy tình cờ ở đâu thì gửi qua bưu điện ở đấy.

    - Nhưng sao anh biết Anita là người giúp Harriet?

    - Chị ấy là người ở trước cửa sổ buồng Harriet mà.

    - Nhưng có thể là nó cũng dính vào…nó có thể chính là kẻ giết Harriet. Sao anh tìm ra được là Harriet còn sống?

    Blomkvist nhìn Henrik hồi lâu. Rồi anh mỉm cười, cái cười đầu tiên từ khi về đến Hedestad.

    - Anita dính vào việc Harriet mất tích nhưng Anita không thể giết Harriet được.

    - Sao anh lại dám cả quyết như vậy?

    - Vì đây không phải là truyện thám tử, vụ án, phòng khóa trái. Nếu Anita giết Harriet thì ông đã tìm thấy xác nhiều năm trước rồi. Vậy điều lô gích duy nhất là chị ấy đã giúp Harriet mất tích đi thôi. Ông có muốn gặp Harriet không?

    - Dĩ nhiên là ta muốn gặp rồi chứ.

    Blomkvist tìm thấy Harriet bên thang máy trong sảnh khách sạn. Thoạt đầu anh không nhận ra chị. Từ lúc chia tay ở sân bay Arianda đêm hôm trước, chị đã lại nhuộm nâu tóc đi. Chị mặc quần đen, áo sơ mi trắng bên trong chiếc jacket xám sang trọng. Chị nom rạng rỡ và Blomkvist cúi xuống ôm chị một cái, dấu hiệu cổ vũ khích lệ.

    Henrik đứng lên khỏi ghế khi Blomkvist mở cửa. Harriet thở sâu một hơi dài.

    - Chào chú Henrik. – Chị nói.

    Ông già xem xét chị từ đầu đến ngón chân. Rồi Harriet đi đến hôn ông. Blomkvist gật đầu với Frode và đóng cửa lại.

    Salander không ở căn nhà nhỏ khi Blomkvist trở về đảo Hedeby. Thiết bị video và xe máy của cô không còn cũng như cái túi chứa số quần áo vượt mức cần của cô và cái túi xách nhỏ. Căn nhà nhỏ trống rỗng. Nom nó thình lình như đã biến hóa và không thật. Blomkvist nhìn vào các chồng giấy trong buồng làm việc mà anh phải chất vào các thùng các hộp rồi mang đến nhà Henrik. Nhưng anh không thể quay lại bắt đầu công việc. Anh lái xe ra Konsum mua bánh mì, sữa, phó mát và một vài thứ gì đó ăn tối nhè nhẹ. Về nhà anh đặt nước pha cà phê, ngồi trong vườn đọc báo chiều, không nghĩ tới cái gì khác nữa.

    5 rưỡi, một chiếc taxi qua cầu. Ba phút sau nó quay lại con đường nó đi đến. Blomkvist chộp được cái liếc của Isabella ngồi ở ghế sau xe.

    Khoảng 7 giờ anh đang lơ mơ ngủ ở vườn thì Frode đánh thức anh.

    - Henrik và Harriet sao rồi?

    - Đám mây không vui này lại có ánh bạc viền quanh. – Frode nói, miệng cố giữ cho không cười hẳn. – Nếu như anh tin tôi, này, Isabella bổ nhào vào buồng bệnh của Henrik. Bà ấy chắc thấy anh đã về và thế là đùng đùng nổi cơn nổi cớ. Bà ấy hét lên với ông ấy là phải chấm dứt ngay cái trò loạn xà ngầu này về Harriet của bà, nói thêm rằng chính anh là đứa đã chõ mũi vào khiến cho con trai bà ấy chết.

    - Được, ở mặt nào đó bà ấy đúng đấy.

    - Bà ấy ra lệnh Henrik thải việc anh ngay và tống cổ anh ra khỏi đất đai cơ ngơi nhà Vanger mãi mãi. Và Henrik thì phải ngừng ngay cái trò tìm ma dò quỷ này đi.

    - Ư hứ!

    - Bà ấy chẳng thèm đoái gì đến người phụ nữ đang ngồi bên giường Henrik trò chuyện. Bà ấy chắc nghĩ đó là thư ký gì đó của ông ấy. Tôi sẽ không bao giờ quên được cái lúc Harriet đứng lên nói: “Chào mẹ”.

    - Rồi thì sao?

    - Chúng tôi phải gọi bác sĩ đến khám ngay sức khỏe cho Isabella. Ngay bây giờ bà ấy vẫn không chịu tin rằng đó là Harriet. Anh bị bà ấy kết tội là đưa một con lừa đảo đến.

    Frode đang trên đường đi gặp Cecilia và Alexander để cho họ tin về Harriet đã từ cõi chết đứng lên. Ông bỏ đi, để mặc Blomkvist ở lại với những trầm ngâm đơn lẻ của mình.

    Salander dừng lại đổ đầy bình xăng ở một trạm xăng mạn bắc Uppsala. Cô lái đi lùi lũi, nhìn thẳng trước mặt. Cô trả tiền nhanh và trở lại với cỗ xe. Lại nổ máy và đến lối ra trạm thì dừng lại phân vân.

    Tính khí cô vẫn đang trong cơn hung tợn. Cô giận điên lên khi rời Hedeby nhưng trên đường đi cơi giận đã tiêu tan dần. Cô không thể hiểu vì cớ gì mà lại giận Blomkvist đến thế hay tựa hồ anh là người duy nhất mà cô giận.

    Cô nghĩ Martin Vanger và Harriet Mẹ kiếp Vanger hay Dirch. Mẹ kiếp Frode, tất cả cái gia tộc Vanger đang ngồi ở Hedestad trị vì cái đế chế nho nhỏ và mưu mô hại lẫn nhau. Họ phải cần cô giúp. Thường tình họ chả có thèm chào cô ở ngoài đường, chỉ giao cho cô những cái bí mật ghê tởm của họ mà thôi.

    Cái hạng ba láp mẹ kiếp.

    Cô thở một hơi sâu và nghĩ đến mẹ, người mà cô đã đem ký thác vào tro tàn chính ngay sáng nay. Cô sẽ không bao giờ có khả năng hàn gắn các chuyện. Mẹ cô chết có nghĩa là vết thương sẽ không bao giờ lành, do chỗ cô sẽ không bao giờ nhận được lời đáp cho các câu hỏi cô đã muốn đặt ra.

    Cô nghĩ đến Armansky đứng ở sau cô trong nhà hỏa táng. Lẽ ra cô đã nên nói một lời gì đó với ông. Ít nhất cho ông vài dấu hiệu cho thấy cô biết ông ở đó. Nhưng nếu cô làm thế, ông lại có thể coi đó là một cớ để thử làm lại cuộc đời cô. Nếu cô đưa cho ông một ngón tay, ông sẽ túm luôn lấy cả cánh tay. Và ông không bao giờ có thể hiểu.

    Cô nghĩ đến ông luật sư Bjurman, người vẫn đang giám hộ cô và ít nhất trong lúc này vẫn bị trung lập hóa và đang làm những gì cô đã bảo ông ta.

    Cô cảm thấy ghét ghê ghét gớm và nghiến răng lại.

    Cô nghĩ đến Mikael Blomkvist và hình dung xem anh sẽ nói gì khi anh phát hiện ra cô là một kẻ được tòa án bảo trợ và toàn bộ đời cô là một thứ rộc rệ như ổ chuột.

    Chuyện cho đến nay với cô thì đúng là cô không giận anh. Anh chính là cái người mà cô trút cơn giận dữ vào khi bụng cô mong mỏi nhất là giết béng đi một đứa nào đó hay vài người nào đó. Giận dữ với anh chả có lợi lộc gì.

    Cô cảm thấy với anh cô đã mập mờ lấp lửng lạ lùng.

    Anh chõ mũi vào công việc của người khác và chọc chọc dò dẫm vào đời cô và…nhưng…cô cũng lại thích làm việc cùng với anh. Cho dù đó là một cảm giác là lạ - làm việc cùng với một ai đó. Cô không quen chuyện đó, nhưng không ngờ nó lại chẳng đau đớn gì. Anh không gây rắc rối cho cô. Anh không cố bảo cô nên sống cái đời cô như thế nào.

    Cô là người đã quyến rũ anh chứ không phải là ngược lại.

    Ngoài ra, chuyện ấy đã được thỏa mãn.

    Vậy tại sao cô lại thấy muốn đá cho anh một cái vào mặt?

    Cô thở dài và không may ngước mắt lên để thấy chiếc máy bay liên lục địa gầm rú trên quốc lộ E4.

    8 giờ Blomkvist vẫn ở trong vườn thì bị tiếng xe máy phành phành qua cầu làm tỉnh dậy, anh trông thấy Salander đi về phía căn nhà nhỏ. Cô chống càng xe, cởi mũ bảo hiểm. Cô đi đến cái bàn trong vườn, sờ bình cà phê cạn trơ và lạnh. Blomkvist đứng lên ngạc nhiên nhìn cô trừng trừng. Cô cầm bình cà phê đi vào bếp. Khi trở ra cô đã cởi bộ quần áo da và ngồi xuống trong chiếc quần jean và cái áo phông với dòng chữ TÔI CÓ THỂ LÀ MỘT CON ĐIẾM ĐỨNG ĐẮN, CỨ THỬ COI.

    - Anh tưởng bây giờ em ở Stockholm rồi. – Anh nói.

    - Đến Uppsala em quay lại.

    - Bao đường đất.

    - Em bực bõ trong người.

    - Tại sao em quay lại?

    Không trả lời. Anh chờ cô nói trong khi cả hai uống cà phê. Mười phút sau cô nói, ngập ngừng.

    - Em thích có anh ở bên.

    Những câu này trước đây chưa từng buột ra khỏi môi cô.

    - Làm vụ này cùng với anh… thú vị đấy.

    - Anh cũng khoái làm việc với em. – Anh nói.

    - Hừm…

    - Sự thật là anh chưa làm việc với một điều tra viên nào xuất sắc như em. OK, anh biết em là một hacker và hay la cà với các đám khả nghi mà từ đó em có thể nghe trộm bất hợp pháp điện thoại liền trong hai mươi tư giờ và thu được kết quả.

    Từ lúc ngồi vào bàn, đến giờ Salander mới nhìn anh. Anh biết quá nhiều bí mật của cô.

    - Đúng là như thế đấy. Em biết máy tính. Đọc trộm văn bản và hấp thu hết những gì nó nói, chuyện ấy với em chả có khó khăn gì.

    - Trí nhớ em như máy ảnh. – Anh nói nhè nhẹ.

    - Em nhất trí. Em chả hiểu nó hoạt động ra sao hết. Không chỉ máy tính, mạng lưới điện thoại mà cả máy móc trong xe máy rồi cả tivi, máy hút bụi, các quá trình hóa chất và công thức trong vật lý thiên văn. Em là một đứa ương bướng, em chấp nhận nó: một đứa say mê.

    Blomkvist nhăn mặt. Anh ngồi im một lúc.

    Hội chứng Asperger 1, anh nghĩ. Hay một cái gì giống thế. Một tài năng nhìn nhận các mẫu hình và hiểu những luận lý trừu tượng ở những chỗ mà người khác chỉ thấy âm thanh trắng.

    Salander ngồi nhìn xuống bàn.

    - Phần đông người ta sẵn sàng cho đi cả răng lẫn mắt để có được thiên bẩm ấy.

    - Em không muốn nói chuyện ấy.

    - Chúng ta thôi nói vậy. Quay lại em có vui không?

    - Em không biết. Có thể là một sai lầm.

    - Lisbeth, em có thể định nghĩa cho anh về tình bạn không?

    - Đó là lúc anh thích một người nào.

    - Chắc thế rồi, nhưng cái gì nó làm cho em thích một ai đó?

    Cô nhún vai.

    - Tình bạn, theo anh, là xây dựng trên hai thứ, - anh nói, - tôn trọng và tin cậy. Cả hai cái ấy đều phải có ở đấy. Và là qua lại. Em có thể tôn trọng một người nhưng nếu em không tin, thì tình bạn sập.

    Cô vẫn lặng thinh.

    - Anh biết em không thích thảo luận chuyện em với anh nhưng một ngày nào đó em sẽ phải quyết định là em có tin anh hay không. Anh muốn chúng ta là bạn nhưng anh không thể một mình anh làm được chuyện đó.

    - Em thích làm tình với anh.

    - Tình dục chẳng dính dáng gì đến tình bạn. Chắc chắn là bạn bè có thể có tình dục nhưng khi liên quan đến em mà anh phải chọn giữa tình dục hay tình bạn thì chắc chắn là anh sẽ chọn cái gì.

    - Em không hiểu gì cả. Anh có muốn làm tình với em không đây nào?

    - Em không nên có chuyện tình dục với những người em đang cùng làm việc, - anh lẩm bẩm. – Nó sẽ dẫn đến rắc rối.

    - Em có quên cái gì ở chỗ này không đây hay đúng là mỗi khi có cơ hội anh và Erika đều không hề làm tình với nhau? Mà chị ấy có chồng.

    - Erika và anh…có chuyện bắt đầu từ lâu trước khi bọn này làm việc với nhau. Chuyện chị ấy có chồng không phải là việc của em.

    - Ồ, em hiểu, thình lình anh là người không muốn nói đến chuyện của bản thân anh. Và em ở đây học biết được rằng tình bạn là vấn đề tin cậy.

    - Anh muốn nói một điều là không nên nói sau lưng về một người bạn. Anh cũng không bàn với Erika về em sau lưng em.

    Salenda nghĩ về chuyện này. Nó đang hóa ra một câu chuyện khó nói. Cô không thích những chuyện khó nói.

    - Em thích làm tình với anh. – Cô nói.

    - Anh cũng thích… nhưng anh đáng tuổi bố em đấy.

    - Chuyện tuổi tác của anh em coi ngang…

    - Không, em không thể lờ được chuyện tuổi tác đâu. Nó không phải là cơ sở cho một quan hệ lâu bền mà.

    - Ai nói cái gì về lâu bền đây? – Salender hỏi. – Chúng ta vừa làm xong một vụ trong đó đóng vai trò nổi bật là những người với chuyện tình dục loạn xà ngầu. Nếu em cần quyết định, thì những người như thế cần phải bị tiêu diệt, cho đến tên cuối cùng.

    - Thôi được, ít nhất thì em cũng không thỏa hiệp.

    - Không, - cô nói, nhếch mép nửa vời cười với anh. – Nhưng ít nhất anh cũng không giống họ, - Cô đứng lên. – Bây giờ em đi tắm rồi em nghĩ sẽ lên giường với anh. Nếu anh nghĩ anh đã quá già thì anh cứ ra cái giường xếp ngoài kia mà ngủ nha.

    Bất kể Salader đang có những bứt rứt gì thì chuyện khiêm tốn chắc chắn không nằm ở trong số đó. Anh đã quên mất mọi cuộc tranh cãi với cô. Một lúc sau anh rửa đồ uống cà phê rồi vào buồng ngủ.

    Họ dậy lúc 10 giờ, cùng tắm chung và ăn lót dạ ở ngoài vườn. 11 giờ Dirch Frode gọi báo tang lễ sẽ bắt đầu lúc 2 giờ chiều, hỏi họ có ý định dự không.

    - Tôi nghĩ là không nên. – Blomkvist nói.

    Frode hỏi anh khoảng 6 giờ có thể đến nói chuyện được không, Blomkvist nói thế thì hay.

    Anh bỏ một ít giờ đồng hồ ra chọn lọc giấy tờ cho vào những sọt để mang đến văn phòng Henrik. Cuối cùng anh chỉ còn lại duy nhất một cuốn sổ tay của anh và hai cặp tài liệu về vụ Hans-Erik Wennerstrom mà sáu tháng nay anh chưa mở ra. Anh thở dài, nhét chúng vào ba lô.

    Frode gọi báo ông bận việc, phải 8 giờ ông mới đến được căn nhà nhỏ. Ông vẫn mặc bộ quần áo dự tang lễ và nom vẻ như phiền toái khi ngồi xuống chiếc ghế dài trong bếp rồi cảm ơn nhận tách cà phê Salander mời ông. Cô ngồi ở bàn bên với chiếc máy tính trong khi Blomkvist hỏi cả nhà đón nhận việc Harriet xuất hiện trở lại như thế nào.


  5. #34
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    - Có thể nói việc đó đã làm lu mờ đi việc Martin chết. Nay thông tin đại chúng cũng đã tìm ra được cô ấy.

    - Thế ông giải thích chuyện này như thế nào?

    - Harriet nói với một phóng viên của tờ Courier rằng chẳng qua là cô ấy không hợp với gia đình nên bỏ đi nhưng rõ ràng là cô ấy đã thành công, cô ấy lãnh đạo cả một doanh nghiệp rất có thực chất kia.

    Blomkvist huýt sáo.

    - Tôi phát hiện ra là có thể kiếm tiền ở đàn cừu bên Australia nhưng tôi không biết tình hình làm ăn lại tốt đến thế.

    - Trại cừu của cô ấy làm ăn thì tuyệt rồi nhưng không phải cô ấy chỉ có thu nhập đó. Tập đoàn Cochran có cả ở trong ngành mỏ, bạch ngọc, chế tạo, vận tải, điện tử và nhiều món khác nữa.

    - Ồ! Vậy bây giờ thì thế nào?

    - Quả thật là tôi không biết. Người kéo đến suốt ngày và trong nhiều năm rồi gia đình mới tụ họp với nhau như thế này. Từ nhánh Fredrik đến nhánh Johan Vanger đều có mặt, cả một ít thế hệ trẻ - đám hai chục tuổi và hơn nữa. Có đến bốn chục Vanger ở Hedestad tối ấy. Một nửa đám họ ở bệnh viện vần cho Henrik mệt phờ; nửa kia thì ở Grand Hotel chuyện trò với Harriet.

    - Harriet phải là chuyện giật gân lớn rồi. Bao nhiêu người trong bọn họ biết về Martin?

    - Cho đến nay là tôi, Henrik và Harriet. Chúng tôi đã nói chuyện lâu với nhau. Với chúng tôi, Martin và… cuộc đời không nói ra được của anh ta mà anh đã phát hiện ra hiện đang làm lu mờ đi mọi chuyện. Nó đã gây nên một khủng hoảng lớn cho công ty, ở tận chóp bu.

    - Tôi hiểu được điều này.

    - Không có người kế thừa tự nhiên nhưng Harriet còn đang ở Hedestad một thời gian. Gia đình sẽ bàn ai sẽ sở hữu cái gì, của thừa kế cần được chia ra sao, vân vân. Thật sự chị ấy đã có một phần ở trong đó và nếu chị ấy ở hẳn đây thì phần ấy sẽ khá là to. Một cơn ác mộng.

    Blomkvist cười to. Frode vẫn nghiêm trang.

    - Đang làm lễ tang thì Isabella ngã quỵ. Hiện đang nằm bệnh viện. Henrik nói ông sẽ không đi thăm.

    -Henrik thế là phải.

    - Nhưng Anita lại ở London đến. Tôi phải vời gia đình gặp nhau tuần tới đây. Hai mươi lăm năm, đây là lần đầu tiên chị ấy dự họp gia đình.

    - Ai sẽ là CEO của công ty?

    - Birger đang nhắm việc này nhưng anh ta bong rồi. Chuyện sắp tới sẽ là Henrik đứng ra làm CEO lâm thời ở trên giường bệnh cho tới khi ông ấy mướn được ai đó ở bên ngoài hay ở trong gia đình…

    Blomkvist nhướng lông mày lên.

    - Harriet? Ông nghiêm chỉnh đấy chứ?

    - Tại sao không? Chúng tôi đang nói đến một nữ doanh nhân đặc biệt có năng lực và được kính trọng.

    - Chị ấy có một công ty phải trông coi đến ở Australia rồi.

    - Đúng, nhưng con trai chị ấy, Jeff Cochran, đang lo liệu lúc mẹ vắng mặt. – Cậu ấy phụ trách tài chính của một trại cừu. Nếu tôi hiểu đúng vấn đề thì cậu ấy đang phải trông cho cừu đúng chuẩn phôi với cừu đúng chuẩn.

    - Cậu ấy cũng có bằng kinh tế của Oxford và một bằng luật của Melbourne đấy.

    Blomkvist nghĩ đến người đàn ông mồ hôi mồ kê gân guốc phanh trần sơ mi và lái đưa anh xuống hết một rãnh núi; anh cố tưởng tượng ra anh ta mặc một bộ com lê sọc nhỏ. Sao lại không được cơ chứ?

    - Tất cả các cái này phải có thì giờ để định hình. – Frode nói. – Nhưng Harriet cũng có thể là một CEO hoàn hảo. Được một ê kíp đỡ đần chị ấy có thể tiêu biểu cho một chuyện làm ăn hoàn toàn mới cho công ty.

    - Chị ấy không có kinh nghiệm…

    - Đúng thế. Chị ấy không thể nổ đánh bụp một cái mà ra từ một chỗ ít nhiều vô thiên vô địa và bắt đầu quản lý vi mô cho công ty được. Nhưng Tập đoàn Vanger là một tập đoàn quốc tế và chắc chắn là chúng ta có thể có một giám đốc người Mỹ không nói được một câu Thụy Điển nào… kể ra nói đi nói lại thì vẫn chỉ là chuyện kinh doanh thôi mà.

    - Sớm muộn các ông sẽ phải đương đầu với các vấn đề tầng hầm của Martin.

    - Tôi biết. Nhưng làm sao nói ra mà không hại Harriet chứ. Tôi mừng là tôi không phải kẻ quyết định chuyện này.

    - Frode, ông không thể chôn vùi được sự thật rằng Martin là một tên giết người hàng loạt.

    - Blomkvist, tôi ở một vị trí rất không thoải mái.

    - Bảo với tôi đi.

    - Tôi có một lời nhắn của Henrik. Ông ấy cám ơn anh đã làm được một công việc xuất sắc và nói rằng hợp đồng thế là đã được hoàn thành. Như thế có nghĩa là ông ấy buông bỏ mọi nghĩa vụ hệ lụy cho anh và anh không còn cần phải sống và làm việc ở Hedestad nữa v.v… Vậy nên, coi như có hiệu lực tức thì là anh có thể về Stockholm ngay và từ nay dành công sức cho các đeo đuổi mới của anh.

    - Ông ấy muốn tôi tan biến khỏi hiện trường, thâm ý là như thế chứ gì?

    - Hoàn toàn không phải. Ông ấy muốn anh đến thăm ông ấy để chuyện với nhau về tương lai, ông ấy bảo ông ấy hy vọng việc ông dính vào Millennium có thể tiến hành mà không có sự hạn chế. Nhưng…

    Frode nom càng không thoải mái, nếu như có thể nói là thế.

    - Thôi Frode, khỏi nói… ông ấy không muốn tôi viết lịch sử gia đình Vanger nữa.

    Frode gật. Ông mở sổ tay ra rồi đẩy lại phía anh.

    - Ông ấy viết cho anh cái thư này đây.

    Mikael thân mến.

    Tôi chả có nghĩ gì ngoài việc tôn trọng lòng trung thực của anh, tôi không có ý thóa mạ anh bằng việc thử bảo anh viết cái gì. Anh có thể viết và in bất cứ cái gì anh thích và tôi không gây sức ép nào với anh cả.

    Hợp đồng của chúng ta vẫn có giá trị nếu anh muốn tiếp tục. Anh có đủ tư liệu để hoàn thành biên niên gia đình Vanger.

    Mikael, tôi chưa xin ai một thứ gì trong đời tôi. Tôi luôn nghĩ rằng một con người thì nên đi theo đạo đức luân lý và những niềm tin của hắn. Lần này tôi không được chọn. Với lá thư này tôi đang xin anh, vừa là bạn vừa là chủ đồng sở hữu của Millennium, hãy cố không in ra sự thật về Gottfried và Martin. Tôi biết thế là sai nhưng tôi không trông thấy cách nào ra khỏi bóng tối này. Tôi phải chọn giữa hai điều xấu xa và đã là như vậy thì không có người chiến thắng.

    Tôi xin anh không viết bất cứ cái gì có thể làm tổn thương Harriet. Hơn ai hết, anh biết là đối tượng của một chiến dịch thông tin đại chúng thì nó ra thế nào. Chiến dịch chống anh còn ở trong những mức độ khá khiêm tốn. Anh chắc chắn có thể tưởng tượng được nếu sự thật bung ra thì sẽ như thế nào với Harriet. Nó đã bị đày đọa bốn chục năm và sẽ không thể chịu đựng hơn nữa vì những việc mà anh trai và bố nó đã làm. Tôi xin anh nghĩ kỹ đến các hậu quả mà câu chuyện này có thể có đối với hàng nghìn công nhân viên trong công ty. Nó có thể đè bẹp Harriet và hủy diệt chúng tôi.

    Henrik

    - Henrik cũng nói nếu anh yêu cầu bồi thường tài chính về việc anh phải kìm lại không in câu chuyện thì ông ấy hoàn toàn sẵn sàng thảo luận. Anh có thể đặt ra bất cứ yêu cầu nào mà anh thấy là thích hợp.

    - Henrik Vanger đang cố để cho tôi im đi. Bảo ông ấy là tôi ước giá ông ấy đừng đưa ra với tôi cái món biếu xén này.

    - Tình hình đúng là rắc rối cả cho Henrik lẫn cho anh. Ông ấy rất mến anh và coi anh như bạn.

    - Henrik Vanger là một tay tồi tệ thông minh, - Blomkvist nói, thình lình giận điên lên. – Ông ấy muốn bưng bít câu chuyện. Ông ấy chơi một đòn vào tình cảm của tôi và ông ấy biết tôi cũng mến ông ấy. Và ông ấy nói cái gì, nói tôi được tự do in và nếu tôi in thì ông ấy sẽ xem lại thái độ của ông ấy với Millennium.

    - Từ khi Harriet bước lên sân khấu, mọi cái đã thay đổi.

    - Nay Henrik đang nhận thấy cái thẻ ghi giá tiền của tôi có thể là gì. Tôi không có ý định vạch trần Harriet ra trước công luận nhưng một ai đó phải nói một cái gì về những người phụ nữ đã bị chết trong tầng hầm của Martin chứ. Frode, chúng ta thậm chí không biết có bao nhiêu phụ nữ đã bị tra tấn và tàn sát nữa. Ai sẽ thay mặt họ mà lên tiếng đây?

    Salander ngước mắt lên khỏi máy tính. Cô nói với Frode, giọng gần như không thể nghe rõ.

    - Có ai ở công ty ông muốn thử làm cho tôi câm không?

    Frode nom ngơ ngác. Một lần nữa ông cố lờ đi, không màng đến Salander.

    - Nếu lúc này Martin Vanger còn sống, tôi sẽ vạch mặt hắn ra trước công luận, - cô nói tiếp. – Mikael thỏa thuận gì với ông không biết nhưng tôi sẽ gửi từng chi tiết về Martin cho tờ báo chiều gần nhất. Và nếu có thể thì tôi sẽ ghim hắn xuống cái lỗ tra tấn của hắn, trói hắn vào cái bàn kia rồi cắm kim chi chít xuyên qua cái của quý của hắn. Không may hắn lại đã chết.

    Cô quay lại Blomkvist.

    - Giải quyết như thế em hài lòng. Chúng ta không thể làm được gì để hàn gắn được những đau khổ mà Martin đã gây ra với các nạn nhân của hắn. Nhưng đã nảy ra một tình hình thú vị. Anh đang ở một vị thế có thể tiếp tục hành hạ những người phụ nữ vô tội – đặc biệt là cái nhà chị Harriet mà anh đã quá nồng nhiệt che chở ở trên xe suốt từ dưới kia lên đây. Vậy em hỏi anh đây: việc Martin hiếp chị ấy và việc anh sắp phơi bày tất cả lên mặt báo thì cái nào tồi tệ hơn? Cái thế lưỡng nan này của anh hay đấy. Ủy ban đạo đức của Hội Nhà báo có thể hướng dẫn cho anh được chút nào đấy nhỉ!

    Cô ngừng lại, Blomkvist không thể nhìn vào mắt cô. Anh nhìn xuống bàn.

    - Nhưng tôi không phải là nhà báo. – Cuối cùng cô nói.

    - Cô muốn gì chứ?

    - Martin đã quay phim các nạn nhân của hắn. Tôi muốn ông làm cái việc mẹ kiếp nhất ấy là cố nhận diện ra càng nhiều càng tốt các nạn nhân của hắn và lo liệu sao cho gia đình họ nhận được tiền bồi thưởng xứng đáng. Tôi muốn Tập đoàn Vanger tặng mãi mãi mỗi năm 2 triệu curon cho Tổ chức Quốc gia vì các Trung tâm khủng hoảng của phụ nữ và thiếu nữ ở Thụy Điển.

    Frode cân nhắc giá tiền một lúc. Rồi ông gật đầu.

    - Như thế anh có thể sống được không Mikael? – Salander hỏi.

    Blomkvist chỉ cảm thấy tuyệt vọng. Sự nghiệp mà anh hiến dâng mình là để phát hiện ra những điều người khác cố giấu giếm, ấy thế mà giờ anh lại có thể tham gia vào việc che đậy các tội ác khủng khiếp Martin Vanger đã gây ra ở tầng hầm của hắn. Anh từng đánh ngã các bạn đồng nghiệp vì không đăng lên sự thật thì đây, anh đang ngồi bàn luận, thậm chí còn thương lượng tại đây cái công việc che đậy ma quái nhất mà anh chưa hề nghe nói đến.

    Anh ngồi im lặng hồi lâu. Rồi anh gật đầu bằng lòng.

    - Vậy là như thế. – Frode nói. – Còn về phần bồi thường tài chính mà Henrik tặng…

    - Ông ấy có thể vất nó đi, còn Frode, tôi muốn ông rời đây ngay. Tôi biết lập trường của ông nhưng chính ngay lúc này tôi đang phát rồ vì ông, Henrik và Harriet, nếu ông cứ ở đây thì chúng ta sẽ không là bạn của nhau nữa.

    Frode cứ ì ra.

    - Tôi chưa rời đi được. Tôi chưa xong việc. Tôi còn phải trao một thông tin nữa và anh cũng sẽ không thích thú gì nó đâu. Henrik nài tôi bảo anh tối nay. Anh có thể đến bệnh viện mắng chửi ông ấy nếu anh muốn.

    Blomkvist ngước mắt lên nhìn ông trừng trừng.

    Frode nói tiếp.

    - Đây là việc gay go nhất tôi chưa từng bao giờ làm trong đời. Nhưng tôi nghĩ với tất cả các quân bài đã bày ra ở trên bàn thì chỉ có lòng vô tư hoàn toàn mới cứu được tình hình hiện nay.

    - Rút cục thì cái vô tư ấy là gì?

    - Khi Henrik thuyết phục anh nhận lấy công việc này hồi Noel năm ngoái, - Frode nói, lờ đi thái độ mỉa mai của Blomkvist, - cả ông ấy lẫn tôi đều không ngờ rằng một chuyện gì đó sẽ lại xảy ra. Ông ấy nói chính xác như thế nhưng ông ấy muốn cố gắng một lần cuối nữa với câu chuyện. Ông ấy đã phân tích tình hình của anh, đặc biệt là với sự giúp đỡ của bản báo cáo mà cô Salander đã xây dựng nên. Ông ấy đã chơi vào cảnh cô lập của anh, ông ấy chỉ nhiều tiền và ông ấy dùng cái mồi chính xác.

    - Wennerstrom.

    Frode gật.

    - Ông bịp?

    - Không, không. – Frode nói.

    Salander nhướng lông mày lên thú vị.

    - Henrik đã hứa gì là ông ấy sẽ làm tốt hết. Ông ấy đang bố trí một cuộc phỏng vấn để đưa ra công khai với đòn đánh trực diện vào Wennerstrom. Sau này anh sẽ có tất cả các chi tiết nhưng đại khái nét lớn của tình hình là thế này: khi Wennerstrom làm ở bộ phận tài chính của Tập đòn Vanger, ông ta đã tiêu nhiều triệu curon vào việc buôn bán ngoại tệ. Việc này có đã từ lâu trước khi người ta làm như điên các hợp đồng trao đổi ngoại hối. Ông ta làm điều đó mà không được phép của tập đoàn. Làm ăn cứ lần lượt thất bại, ông ta ngồi đây làm thất thoát bảy triệu curon mà ông ta cố che giấu. Một phần bằng khai man sổ sách và phần bằng cách buôn ngoại tệ hăng hơn lên. Việc này không tránh khỏi bị lòi ra ánh sáng và ông ta bị đuổi việc.

    - Bản thân ông ta có kiếm được món lợi nào không?

    - Ô có chứ, ông ta xơi ngon khoảng nửa triệu curon, nực cười là tiền này lại hóa thành tiền con giống cho Tập đoàn Wennerstrom. Chúng tôi đã lên được thành tư liệu về tất cả chuyện này. Anh thích thì anh có thể dùng thông tin này, Henrik sẽ hậu thuẫn công luận lên án. Nhưng…

    - Nhưng, đây là cái nhưng to tổ bố đấy, Frode, thông tin này không có giá trị. – Blomkvist nói, đấm mạnh tay xuống bàn.

    - Tất cả xảy ra đã từ hơn ba chục năm trước, sổ sách đã khép mắt rồi.

    - Anh sẽ có được lời xác nhận Wennerstrom là một kẻ lừa gạt.

    - Chuyện này công khai ra thì sẽ có phiền cho Wennerstom đấy nhưng chả làm sầy vẩy gì hắn cả. Để chối, hắn sẽ cho ra một thông cáo báo chí nói Henrik Vanger là một ông già đã thành đạt nhưng còn cố nẫng của hắn vài ba món làm ăn và hắn chắc tuyên bố hắn làm việc kia là theo lệnh Henrik. Cho dù hắn không thể chứng minh được là hắn vô tội thì hắn cũng phun ra đủ hỏa mù khiến không ai cho câu chuyện là nghiêm túc cả.

    Frode nom không vui.

    - Ông lừa tôi. – Blomkvist nói.

    - Đó không phải là chủ ý của chúng tôi.

    - Tôi tự trách tôi thôi. Tôi túm lấy cái cọng rơm và tôi nên nhận ra đây là một thứ gì đó tương tự như thế. – Anh phá lên cười. – Henrik là một con cá mập già. Ông ấy rao bán một món hàng và bảo tôi cái điều mà khi ấy tôi muốn nghe. Frode, đã đến lúc ông đi đi thôi.

    - Mikael… tôi xin lỗi rằng…

    - Frode. Đi.

    Salander không biết nên đến với Blomkvist hay để anh một mình tại đó. Anh đã chọn hộ cô bằng cách nhặt chiếc jacket lên và không nói một lời, đóng sầm cửa lại ở đằng sau.

    Cô bồn chồn chờ hơn một giờ ở trong bếp. Cô thấy rất khó chịu nên đã dọn bàn, rửa bát đĩa – việc cô thường để cho Blomkvist. Chốc chốc cô ra cửa sổ nhìn xem có dấu hiệu gì của anh không. Cuối cùng quá căng thẳng cô mặc jacket vào và ra ngoài tìm anh.

    Đầu tiên cô ra bến tàu, trong các con tàu vẫn có ánh đèn nhưng không có dấu hiệu của anh. Cô men theo con đường mòn bên bờ biển mà buổi tối hai người thường lang thang đi dạo. Nhà Martin Vanger vẫn tối om và nom đã ra bỏ không. Cô đi ra các tảng đá ở mũi đất, nơi hai người hay ngồi. Rồi cô về nhà. Anh vẫn chưa về.

    Cô ra nhà thờ. Vẫn không có dấu hiệu nào. Cô bần thần không biết làm gì. Rồi cô đến chiếc xe máy lấy đèn pin ở túi yên ra và đi dọc bờ nước một lần nữa. Cô phải mất một thời gian để lượn theo con đường bị cây cỏ mọc che mất một nửa và còn phải mất lâu hơn nữa để tìm thấy con đường mòn đến căn nhà nhỏ của Gottfried. Nó lờ mờ hiện ra trong bóng tối đằng sau mấy thân cây khi cô đã gần như đến được nó. Không thấy anh đứng dưới hiên và cửa thì khóa.

    Cô đã rẽ về phía làng thì dừng lại và trở lại ra mũi đất. Cô nhận ra hình thù Blomkvist trong bóng tối, anh ở cuối con đê chắn sóng, nơi Harriet Vanger đã dìm chết bố. Cô nhẹ người thở dài.

    Khi cô ra tới con đê, anh nghe thấy và nhìn quanh. Không một lời cô ngồi xuống cạnh anh. Cuối cùng anh cất tiếng.

    - Xin lỗi. Anh cần yên một mình một lúc.

    - Em biết.

    Cô châm hai điếu thuốc và cho anh một. Blomkvist nhìn cô. Cô là con người kị xã hội nhất mà anh từng gặp. Thường thường mỗi khi anh định nói đến bất cứ chuyện gì thuộc về cá nhân cô, cô cũng lờ đi; và bất cứ biểu thị thiện cảm nào của anh, cô cũng không chấp nhận. Cô đã cứu mạng anh và bây giờ giữa đêm khuya cô dò tìm ra anh ở đây. Anh quàng một tay qua người cô.

    - Bây giờ anh biết cái giá của anh nó đến đâu. – Anh nói. – Chúng ta đã buông xuôi các cô gái kia. Họ sẽ chôn vùi đi toàn bộ câu chuyện. Mọi điều trong tầng hầm của Martin sẽ biến mất vào lãng quên.

    Salander không đáp lời.

    - Erika đúng, - anh nói. – Nếu anh đi Tây Ban Nha một tháng rồi về nhà tỉnh táo mà bắt tay vào vụ Wennerstrom thì chắc anh làm được hay hơn.

    - Nếu anh đi Tây Ban Nha thì Martin Vanger sẽ cứ làm công việc kia của hắn ở dưới tầng hầm.

    Ngồi một lúc Blomkvist gợi ý về nhà. Blomkvist ngủ trước Salander. Cô nằm nghe anh thở. Được một hồi cô vào bếp ngồi lên ghế dài, hút vài điếu thuốc trong khi suy nghĩ. Vanger và Frode có thể lừa Blomkvist, chuyện ấy cô coi là đương nhiên. Bản chất họ là thế mà. Nhưng đây là chuyện của Blomkvist, đâu phải của cô. Hay là của cô?

    Cuối cùng cô quyết định. Dập thuốc lá, cô vào buồng ngủ, bật đèn đánh thức Blomkvist. Đang 2 rưỡi sáng.

    - Gì thế?

    - Em có chuyện này. Ngồi lên.

    Blomkvist ngồi lên, ngái ngủ.

    - Khi anh bị khép án sao anh không cãi tự bào chữa?

    Blomkvist dụi mắt. Anh nhìn đồng hồ.

    - Chuyện dài mà, Lisbeth.

    - Em có thì giờ. Kể em nghe nào.

    Anh ngồi một lúc, nghĩ xem nên nói gì. Cuối cùng anh quyết định nói sự thật.

    - Anh không tự bào chữa. Thông tin trong bài báo là sai.

    - Khi em chui vào máy tính của anh đọc email trao đổi với Berger, có nhiều chỗ nhắc đến vụ Wennerstrom nhưng anh và chị ấy chỉ toàn thảo luận với nhau các tình tiết trong thực tế về phiên tòa chứ không phải về những cái thật sự xảy ra. Có phải sai vì thế không?

    - Lisbeth, anh không thể lộ câu chuyện thật ra. Anh bị sa bẫy. Erika và anh rõ hẳn hoi là nếu bọn này nói ra những điều đã thật sự xảy ra thì uy tín của bọn anh sẽ còn bị mất nhiều hơn nữa.

    - Em nói anh nghe, Kalle Blomkvist, chiều qua ngồi đây giảng dạy về tình bạn, lòng tin và các thứ bà dần. Em không có mang chuyện anh lên mạng đâu.

    Blomkvist phân trần. Nay đang là nửa đêm. Lúc này anh không thể nhìn ngó lại tất cả câu chuyện đó được. Cô cứ ngồi lì cho đến khi anh phải chịu. Anh vào buồng tắm rửa mặt và pha cà phê. Rồi quay về giường và kể chuyện về người bạn học cũ Robert Lindberg đã khều cho anh sinh tò mò như thế nào trên con tàu Malar-30 màu vàng đậu tại bến tàu dành cho khách ở Arholma.

    - Ý anh là bạn cũ của anh nói dối?

    - Không, không hề. Anh ấy biết chính xác cái gì thì bảo anh dùng cái ấy, anh có thể kiểm chứng từng câu chữ trong tài liệu của kiểm toán ở SIB. Anh còn đến Ba Lan chụp ảnh cái nhà rách nát bằng tôn sắt, nơi Công ty Minos đồ sộ của lão đã từng ở. Anh cũng đã phỏng vấn mấy công nhân viên cũ của công ty này. Họ đều nói những điều giống nhau.

    - Em không hiểu.

    Blomkvist thở dài. Một lúc anh mới lại nói được.

    - Anh có một câu chuyện hay chó chết. Anh vẫn chưa đương đầu với Wennerstrom nhưng câu chuyện thì bí mật; nếu anh đăng nó lên lúc ấy anh thật sự sẽ làm cho lão quay cuồng. Như thế sẽ không dẫn đến chuyện bị kết án là giả mạo bịa đặt – vụ việc đã được các kiểm toán viên thông qua rồi – nhưng anh có thể làm hủy hoại danh tiếng của lão.

    - Sai ở chỗ nào?

    - Trong lúc đó một ai đó nghe nói anh đang thọc mũi vào việc này và Wennerstrom liền biết đến anh. Thế là thình lình bắt đầu diễn ra các thứ chuyện lạ lùng. Trước hết anh bị đe dọa. Điện thoại gọi tới bằng thẻ vô danh nên không dò ra được ai gọi. Erika cũng bị đe dọa. Vẫn là trò ấm ớ quen thuộc: cúi đầu nghe tao không thì tao đóng đinh mày lên cửa nhà kho, đại khái thế. Dĩ nhiên cô ấy điên lên như một mụ già nanh nọc.

    Anh lấy một điếu thuốc của Salander.

    - Rồi xảy ra một việc tức vô cùng. Một tối đã muộn, anh ở tòa báo về thì bị tấn công, hai người đàn ông sấn tới đấm anh hai cú. Anh ngã xuống đường, môi sưng vều lên. Anh không nhận diện được chúng nhưng một trong hai thằng nom giống như một cha đua xe già.

    - Rồi, nói nốt…

    - Tất cả những trò này dĩ nhiên chỉ làm cho Erika cáu thêm và anh thì cứng cổ lên. Bọn này đặt hệ thống bíp bíp báo động ở Millennium. Vấn đề là các trò quấy rối này vượt ra ngoài mọi kích thước so với nội dung bài báo. Bọn này không thể dò ra tại sao lại có những trò ấy.

    - Nhưng bài báo của anh lại rất khác với cái đó?

    - Đúng. Thình lình anh có một cửa đột phá. Bọn này tìm được một cái nguồn, một “nguồn tin giấu tên” trong đám thân cận của Wennerstrom. Nguồn tin này thật ra cũng bị đe giết cho nên bọn này chỉ được gặp hắn ở các phòng khách sạn. Hắn bảo bọn này là tiền của Công ty Minos đang được dùng để buôn bán vũ khí trong cuộc chiến tranh ở Nam Tư. Wennerstrom đang làm ăn với cánh hữu Ustshe ở Croatia. Không chỉ thế, “nguồn tin” còn cho bọn này bản sao của các tài liệu để làm bằng.

    - Anh tin hắn?

    - Hắn láu. Hắn chỉ cho bọn này đủ tài liệu để dẫn bọn này đến một nguồn tin khác có thể xác nhận câu chuyện. Bọn anh còn được cho một bức ảnh chụp một trong các đồng sự thân thiết nhất của Wennerstrom bắt tay với người mua vũ khí. Đây là những vật liệu bom tấn với chi tiết tỉ mỉ và mọi cái nom vẻ thì đều là có thể kiểm chứng được. Cho nên bọn này đăng lên.

    - Và nó là rỏm.

    - Rỏm từ đầu đến cuối. Các tài liệu đã được dựng đặt ra rất siêu. Luật sư của Wennerstrom dễ dàng chứng minh bức ảnh của cấp dưới Wennerstrom và người lãnh đạo Ustashe là hai tấm hình khác nhau ghép lại.

    - Hấp dẫn kinh nhỉ. – Salander nói.

    - Sau nghĩ lại thấy bọn anh đã bị thao túng qua ư dễ. Câu chuyện ban đầu của bọn này thật sự có thể gây được thiệt hại cho Wennerstrom. Rồi nó đã bị chết chìm vì một trò giả mạo tinh vi. Bọn này đã đăng lên một bài báo mà Wennerstrom có thể nhặt riêng ra từng điểm để chứng minh lão vô tội.

    - Anh không thể hồi tố và nói ra sự thật sao? Anh không có tuyệt đối một bằng chứng nào cho thấy là Wennerstrom đã giả mạo à?

    - Nếu bọn anh cố nói ra sự thật và kết án Wennerstrom là đứng đằng sau tất cả chuyện này thì sẽ chả có ai tin đâu. Nó nom sẽ giống như một mưu toan tuyệt vọng đầy cái lỗi ngu xuẩn của bọn anh sang một nhà lãnh đạo công nghiệp vô tội này.

    - Em hiểu rồi.

    - Wennerstrom có hai tầng bảo vệ. Nếu sự giả mạo bị vạch ra thì lão sẽ có thể nói đây là một trong những kẻ thù của lão toan vu cáo lão. Và một lần nữa Millennium lại sẽ mất hết uy tín do bọn này mò thấy một cái gì rút cục lại là của giả.

    - Cho nên anh quyết định không cãi và nhận án tù.

    - Anh đáng bị thế. – Blomkvist nói. – Anh đã vu cáo. Bây giờ em biết rồi, anh có thể ngủ tiếp được không?

    Anh tắt đèn và nhắm mắt lại. Salander nằm xuống cạnh anh.

    - Wennerstrom là một tên găngxtơ.

    - Anh biết.

    - Không, em muốn nói, em biết lão là một tên găngxtơ. Hắn làm việc với tất cả từ mafia Nga đến cácten buôn ma túy Colombia.

    - Em định nói gì?

    - Khi em nộp cho Frode bản báo cáo, ông ta trao cho em một nhiệm vụ phụ thêm. Ông ta bảo em cố tìm ra cái gì đã xảy ra thật sự ở phiên tòa xét xử. Em vừa bắt đầu làm thì ông ta gọi Armansky và hủy việc kia với em.

    - Sao lại hủy?

    - Em cho rằng ngay khi anh nhận nhiệm vụ của Henrik Vanger là họ lập tức bỏ cuộc điều tra. Nó không còn là lợi ích tức thì trước mắt nữa.

    - Rồi sao?

    - Được, em không thích để công việc lấp lửng. Mùa xuân vừa rồi Armansky không có việc gì giao cho em, nên em đã đào bới đôi chút vào Wennerstrom để lấy vui.

    Blomkvist ngồi dậy, bật đèn nhìn Salander. Anh bắt gặp mắt cô. Nom cô thật sự là người có lỗi.

    - Em có tìm thấy cái gì không?

    - Toàn bộ cái đĩa cứng của lão hiện nằm trong máy tính của em. Bằng chứng về chuyện hắn là một tên găngxtơ, anh cần bao nhiêu cũng đủ cung cấp hết cho anh.
    --------------------------------
    1Được đặt theo tên bác sĩ nhi khoa người Áo Hans Asperger (1906 – 1980), là một dạng của bệnh tự kỷ. Người mắc hội chứng Asperger có thể có một số khả năng đặc biệt nhưng thường gặp khó khăn về giao tiếp xã hội

  6. #35
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 28

    Thứ Ba, 29 tháng Bảy
    Thứ Sáu, 24 tháng Mười

    Blomkvist miệt mài với máy in từ máy tính của Salander trong ba ngày ròng rã - những cái hộp đầy giấy. Vấn đề là các đầu đề cứ thay đổi miết với thời gian. Một vụ lựa chọn ở London. Một vụ tiền tệ ở Paris thông qua một trung gian. Một công ty với hòm thư ở Gibraltar. Một vụ thình lình tăng gấp đôi vốn trong tài khoản tại Chase Manhattan Bank ở New York.

    Và rồi tất cả cái vấn đề khó hiểu kia đưa đến chú ý sau: một công ty thương mại với 200.000 curon trong một tài khoản chưa đụng đến đăng ký năm năm trước ở Santiago, Chile – một trong gần ba chục công ty như thế ở mười hai nước khác nhau – mà không cho thấy có dính dáng đến một xíu loại hoạt động nào. Một công ty mai phục? Phục chờ cái gì? Một tiền phương cho một kiểu hoạt động nào đó khác ư? Máy tính không cho manh mối nào về cái gì đang diễn ra trong đầu Wennerstrom hay về cái gì có thể đã tỏ tường hoàn toàn với lão cho nên không cần phải diễn đạt ở trong tài liệu điện tử. Salander đinh ninh cho rằng phần lớn các câu hỏi này sẽ không bao giờ được giải đáp. Hai người có thể xem thông tin nhưng họ không có chìa khóa để hiểu được ý nghĩa của nó. Đế chế Wennerstrom giống như một củ hành có thể bóc lần lượt từng lớp; một mê cung những doanh nghiệp, cái này sở hữu cái kia. Công ty, tài khoản, cổ phần chứng khoán. Họ thừa nhận không ai – kể cả ngay chính Wennerstrom – có thể có được một cái nhìn bao quát khắp. Đế chế Wennerstrom có một cuộc sống của tự thân nó. Nhưng có một hình mẫu hay ít nhất một thoáng về mẫu hình. Một mê cung những doanh nghiệp cái này sở hữu cái kia. Đế chế của Wennerstrom được ước lượng xê xích ở vào giữa 100 và 400 tỉ curon tùy thuộc vào người mà bạn hỏi hay vào cách tính toán nó. Nhưng nếu các công ty sở hữu tài sản lẫn của nhau – vậy thì lúc đó giá trị của chúng sẽ là thế nào?

    Hai người đã rất vội vã rời đảo Hedeby sáng sớm cái hôm Salander thả “quả bom” mà giờ nó chiếm mất hết thời gian của Blomkvist. Họ đi xe đến chỗ Salander và bỏ hai ngày ra ở trước máy tính của cô trong khi cô hướng dẫn anh đi xuyên suốt vào vũ trụ của Wennerstrom. Anh có nhiều câu hỏi. Một cái thuần túy là tò mò.

    - Lisbeth, sao chỉ từ quan điểm thực hành thuần túy mà em lại có thể máy mó được vào máy tính của Wennerstrom?

    - Cái này là một sáng chế mà Dịch Bệnh bạn em đã mò được ra. Wennerstrom có một máy tính xách tay IBM để lão làm việc, cả ở nhà lẫn ở công ty. Có nghĩa là tất cả thông tin đều ở trong một đĩa cứng duy nhất. Lão có một kết nối băng thông rộng với máy tính của hắn ở nhà. Dịch Bệnh sáng chế ra một kiểu thiết bị thu dữ liệu để nối vào đường truyền băng thông rộng, và em thì đem thử nghiệm nó cho anh ấy. Mọi cái Wennerstrom truy cập đều được ghi lại qua thiết bị thu dữ liệu ấy, và thiết bị ấy gửi tiếp toàn bộ dữ liệu đến một máy chủ nằm ở đâu đó.

    - Lão không có tường lửa à?

    Salander mỉm cười.

    - Dĩ nhiên có chứ. Nhưng lý thú là ở chỗ cái thiết bị thu dữ liệu kia cũng vận hành như một kiểu tường lửa. Với thiết bị này thì phải mất một lúc mới chui được vào máy tính. Tạm nói là Wennerstrom có một email; nó đến trước tiên với thiết bị của Dịch Bệnh và bọn này có thể đọc được nó trước khi đi qua bức tường lửa của lão. Những chỗ siêu phàm là email này đã được viết lại và một vài bytes mã nguồn đã được thêm vào. Mỗi khi lão tải một cái gì đó về máy tính của lão thì việc này lại được lặp lại. Với hình ảnh thì còn tốt hơn nữa kia. Lão hay lướt mạng. Mỗi lần lão chọn nhặt một hình ảnh khiêu dâm hay mở một trang web, bọn này lại thêm vào vài dòng mã nguồn. Sau một thời gian, trong vài giờ hay vài ngày, tùy theo lão dùng máy tính nhiều hay ít, Wennerstrom đã vô tình tải xuống cả một chương trình xấp xỉ ba megabytes trong đó lần lượt các bit kết nối theo nhau.

    - Rồi sao?

    - Khi các bit cuối cùng đã yên vị, chương trình này liền tích hợp với trình duyệt Internet của lão. Với lão này thì máy lão nom cứ như đã bị khóa và lão phải khởi động lại. Trong khi khởi động, cả một chương trình phần mềm mới lập tức được cài đặt. Lão dùng Internet Explorer. Lần sau lão khởi động Explorer là lão thật sự khởi động toàn bộ một chương trình khác, hoàn toàn vô hình trên màn hình máy tính, nhìn và vận hành giống hệt Explorer nhưng còn làm được nhiều việc khác nữa. Trước hết nó kiểm soát tường lửa của lão và đảm bảo mọi việc chạy tốt. Rồi nó bắt đầu rà quét máy tính và truyền thông tin đi mỗi lần lão bấm chuột trong lúc lướt mạng. Sau một thời gian, lại tùy theo lão lướt nhiều hay ít, bọn này tích lũy được ở trên một máy chủ khác một bản sao hoàn hảo, gồm toàn bộ nội dung đĩa cứng của lão. Rồi thì đến lúc cho GLC.

    - GLC?

    - Xin lỗi. Dịch Bệnh gọi nó như thế, Giáp Lá Cà..

    - Hiểu rồi.

    - Điều thật sự tinh tế là chuyện xảy ra tiếp theo. Khi cấu trúc đã sẵn sàng, Wennerstrom có hai đĩa cứng hoàn chỉnh, một trong máy của lão và một trong máy chủ của bọn này. Lần sau lão mở máy tính thì thật ra là cái máy tính bản sao khởi động. Lão không còn làm việc trên máy tính của chính lão nữa, mà thực tế lão đang làm việc trên máy tính của bọn này. Máy tính của lão chạy có chậm hơn một ít, nhưng hầu như không thể phát hiện ra được. Và khi em kết nối với máy chủ, em có thể truy cập cùng lúc vào máy của lão. Mỗi khi Wennerstrom gõ một phím trên máy tính lão thì em sẽ thấy trên máy của em.

    - Bạn của em cũng là hacker à?

    - Anh ấy chính là người dàn xếp vụ nghe lỏm điện thoại ở London. Anh ấy có đôi chút xa lánh xã hội, nhưng trên Net thì anh ấy là một truyền thuyết.

    - OK. – Blomkvist nói, cười gượng gạo với cô. – Câu hỏi hai: sao em không bảo anh sớm chuyện Wennerstrom?

    - Anh có bao giờ hỏi đâu.

    - Và nếu không ai hỏi bao giờ - giả dụ chúng ta không gặp nhau – thì em sẽ ngồi đây biết Wennerstrom là một tên găngxtơ trong khi Millennium sập tiệm ư ?

    -Không ai bảo em trưng bày Wennerstrom ra là người thế nào cả. – Salander đáp lại, giọng của một người biết tỏng hết.

    - Đúng, nhưng nếu có ai hỏi thì sao ?

    - Thì em chả đã bảo anh rồi đấy thôi. – Cô nói.

    Blomkvist cho buông vấn đề này.

    Salander sao nội dung đĩa cứng của Wennerstrom – khoảng năm gigabytes – sang mười đĩa CD và cô cảm thấy ít nhiều đã dọn đến nhà Blomkvist. Cô kiên nhẫn chờ, trả lời mọi câu anh hỏi.

    - Anh không hiểu sao lão ấy lại cù lần đến nỗi đem cho tất cả các quần áo bẩn thỉu của lão vào một cái đĩa cứng. – Anh nói. – Nếu mà nó lại rơi vào tay cảnh sát...

    - Con người ta đôi khi lại rất ấm ớ, hẳn là lão ấy tin rằng cảnh sát không bao giờ nghĩ tịch thu máy tính của lão.

    - Không còn nghi ngờ gì nữa. Đồng ý rằng lão là một thằng cha vô lại ngạo mạn, nhưng lão phải có bọn cố vấn an ninh mách lão cách kiểm soát máy tính của mình chứ. Có những tài liệu trong máy này được lập từ hồi 1993.

    - Máy tính bản thân là tương đối mới. Nó được làm ra từ một năm trước nhưng xem vẻ lão đã chuyển hết các thư tín cũ của lão cùng mọi các thứ khác vào một đĩa cứng chứ không cất vào trong các đĩa CD. Nhưng ít nhất lão đã dùng một chương trình mã hóa.

    - Hoàn toàn vô dụng nếu anh đã ở trong máy tính của lão và đọc các mật khẩu mỗi lần lão đánh máy chúng vào.

    Họ về Stockholm được bốn ngày thì Malm gọi vào di động của Blomkvist vào lúc 3 giờ sáng.

    - Henry Cortez ở quán bar với bạn gái của hắn tối nay đấy.

    - Ừ..., - Blomkvist ngái ngủ đáp.

    - Trên đường về nhà chúng tôi sẽ đến bar Centralen.

    - Không phải chỗ hay ho để tán gái.

    - Nghe này. Dahlman đang nghỉ lễ. Henry thấy hắn ngồi ở một cái bàn với mấy gã.

    - Rồi thì?

    - Henry nhận ra cha này, Krister Soder, ngay từ dòng đầu tiên của bài báo của mình.

    - Tớ không nghĩ là nhớ được ra tên cha này nhưng...

    - Cha này làm cho tạp chí Monopoly Financial do Tập đoàn Wennerstrom sở hữu.

    Blomkvist ngồi dựng ngay lên ở trên giường.

    - Cậu còn nghe máy không đấy?

    - Vẫn đang nghe đây. Chuyện cậu vừa kể không nói lên cái gì cả. Soder là một nhà báo và cha này có thể là chiến hữu đấy.

    - Có thể tớ đã bị tâm thần phân lập. Nhưng trước đây một thời gian Millennium có mua một bài báo của một cha viết tự do. Một tuần trước khi chúng ta đăng nó, Soder cho ra một tường thuật tương tự gần như thế. Đấy là bài báo về nhà sản xuất điện thoại di động và bộ phận cấu thành bị hỏng.

    - Tớ hiểu ý cậu. Nhưng kiểu trò này vẫn cứ là xảy ra. Cậu đã bảo Erika chưa?

    - Không, tuần sau cô ấy mới về.

    - Đừng làm gì cả. Tớ sẽ gọi cho cậu sau. – Blomkvist nói.

    - Có vấn đề ư? – Salander hỏi.

    - Millennium. – Blomkvist nói. – Anh phải đến đó. Có muốn đi cùng không?

    Tòa soạn vắng tanh. Salander phải mất ba phút để bẻ gẫy bảo vệ mật lệnh ở máy tính của Dahlman. Và hai phút nữa để sao nội dung của nó sang iBook của Blomkvist.

    Chắc phần lớn email của Dahlman là ở máy tính xách tay của hắn, họ không vào được nó. Nhưng qua máy tính để bàn của Millennium, Salander có thể phát hiện thấy ngoài địa chỉ thư điện tử millennium.se, Dahlman còn có một địa chỉ Hotmail.

    Mất sáu phút để bẻ gẫy mã khóa và tải thư tín mấy năm qua của hắn. Năm phút sau Blomkvist có bằng chứng rằng Dahlman đã rò rỉ thông tin về tình hình ở Millennium và để cho biên tập viên tạp chí Monopoly Financial cập nhật được những chủ đề mà Berger dự định cho mỗi số Millennium. Việt dò thám ít nhất đã diễn ra từ mùa thu trước.

    Họ tắt máy tính rồi quay về nhà Blomkvist ngủ vài giờ. 10 giờ sáng, anh gọi Christer Malm.

    - Tớ có bằng chứng Dahlman đang làm cho Wennerstrom.

    - Tớ biết ngay mà. Được lắm, hôm nay tớ sẽ đuổi cổ con lợn khốn kiếp này đi.

    - Không, đừng. Đừng làm gì hết cả.

    - Không gì cả ư?

    - Christer, hãy tin tớ đi. Dahlman còn nghỉ chứ?

    - Ừ, thứ Hai hắn mới về.

    - Hôm nay có bao nhiêu người ở tòa soạn?

    - À, khoảng một nửa.

    - 2 giờ, cậu có thể triệu tập họp một lúc được không? Không nói họp việc gì. Tớ sẽ đến.

    Có sáu người ngồi quanh bàn họp. Nom Malm mệt mỏi. Cortez thì như một tay vừa mới yêu, cái dáng điệu chỉ đám hai mươi tư tuổi mới để lộ ra cho thấy. Nilsson nom cáu kỉnh – Malm chưa cho ai hay cuộc họp bàn chuyện gì – nhưng chị đã ở tạp chí khá lâu để biết rằng đang xảy ra một cái gì khác với thường nhật. Và chị bực là đã bị giữ ở bên ngoài mắt xích. Chỉ có một người vẫn như thường lệ là Ingela Oskarsson, người làm thêm, hai ngày một tuần đến xử lý những việc hành chính đơn giản, danh sách các khách hàng đặt mua báo; chị nom không thật sự thư thái do hai năm trước đã là mẹ. Người làm thêm thứ hai là phóng viên tự do Lotta Karim, người có hợp đồng giống như hợp đồng của Cortez và vừa mới trở về làm việc sau kỳ nghỉ. Malm cũng mời được Magnusson đến họp tuy anh vẫn còn hạn nghỉ.

    Blomkvist bắt đầu chào mừng nhiệt liệt mọi người và xin lỗi đã vắng mặt quá lâu.

    - Điều mà chúng ta sắp thảo luận sáng nay thì Christer và tôi chưa bàn với Erika nhưng tôi có thể bảo đảm với các bạn rằng trong trường hợp này tôi cũng nói cho cả chị ấy. Hôm nay chúng ta sẽ quyết định tương lai của Millennium.

    Anh dừng lại cho lời lẽ ngấm sâu. Không ai hỏi gì.

    - Năm vừa qua chúng ta gay go. Tôi ngạc nhiên và tự hào là không ai trong các bạn đã nghĩ lại mà đi tìm việc làm ở một nơi nào khác. Tôi phải thừa nhận rằng thế là hoặc các bạn hóa rồ hoặc trung thành tuyệt đối với thật tâm muốn làm việc tại tạp chí này. Bởi thế tôi không che giấu gì hết với các bạn mà xin các bạn một cố gắng cuối cùng.

    - Cố gắng cuối cùng? – Nilsson nói. – Nghe như anh muốn cho tạp chí đóng cửa vậy.

    - Đúng thế, Monika, - Blomkvist nói. – Và cảm ơn chị đã nói ra như thế. Lúc trở về Erika sẽ triệu tập tất cả chúng ta lại để có một cuộc họp buồn của tòa soạn và bảo chúng ta rằng Millennium sẽ đóng cửa vào lễ Giáng Sinh, rằng tất cả các bạn sẽ phải nghỉ việc.

    Tất cả bắt đầu nhớn nhác. Cả Malm trong thoáng giây cũng nghĩ Blomkvist nói nghiêm túc. Rồi mọi người nhận ra anh đang toét miệng cười.

    - Việc các bạn phải làm trong mùa thu này là chơi một trò hai mang. Điều không hay là giám đốc trị sự thân mến của chúng ta, Janne Dahlman đang làm “người đưa tin ngoài giờ” cho Hans-Erik Wennerstrom. Như thế nghĩa là ở tòa soạn đây chúng ta làm gì thì bên kia họ biết rõ hết. Như thế mới giải thích được tại sao chúng ta đã phải nếm một số thất bại. Đặc biệt chị, Sonny, khi mà các khách đăng quảng cáo vốn mặn mà với chúng ta bỗng dưng rút lui không hề báo trước.

    Dahlman chưa hề được lòng người ở tòa báo, việc vạch mặt anh ta không gây ra chấn động nào đối với ai. Blomkvist cắt ngang lời xì xầm bắt đầu nổi lên.

    - Sở dĩ tôi nói chuyện này với các bạn là vì tôi tin tưởng tuyệt đối ở các bạn. Tôi biết tất cả các bạn đều là những người đàng hoàng ngay thẳng. Cũng bởi thế tôi biết là các bạn sẽ phải “diễn” theo việc sẽ xảy ra trong mùa thu này. Để Wennerstrom tin rằng Millennium đang sắp sập tiệm là rất quan trọng. Công việc của các bạn là làm cho lão tin rằng chúng ta sập tiệm.

    - Tình hình thật sự của chúng ta ra sao? – Cortez hỏi.

    - OK, như thế này: căn cứ thông tin có được thì Millennium đúng là đang trên đường đi đến nấm mồ. Tôi lấy danh dự ra bảo đảm với các bạn là sẽ không có chuyện đó. Hiện nay Millennium mạnh hơn một năm trước. Cuộc họp này xong, tôi lại sẽ biến đi hai tháng. Đến cuối tháng Mười tôi sẽ trở lại. Lúc ấy chúng ta sẽ cắt cụt cánh của Wennerstrom.

    - Sao chúng ta lại làm như thế? – Nilsson hỏi.

    - Xin lỗi, Monika. Tôi không muốn nói với chị chi tiết nhưng tôi đang viết một bài báo mới và lần này chúng ta sẽ làm việc đó cho ra tấm ra món. Tôi đang nghĩ trong bữa tiệc Noel sẽ có món Wennerstrom quay cùng với món tráng miệng là nhiều kiểu bài phê phán.

    Không khí hào hứng hẳn lên. Blomkvist tự hỏi nếu anh là người ngồi cùng với anh chị em nghe những điều vừa rồi thì anh sẽ cảm thấy thế nào. Nghi hoặc? Phần lớn có thể là thế. Nhưng xem ra anh vẫn có vài “cốt cán” ở trong cái nhóm nhân viên nhỏ nhoi của Millennium. Anh giơ tay lên.

    - Muốn chuyện kia thành được thì quan trọng là phải để cho Wennerstrom tin là Millennium đang sắp sập tiệm vì tôi không muốn lão trổ ra vài kiểu trả miếng hay xóa đi bằng chứng mà chúng ta định đem trình làng. Cho nên chúng ta sắp viết một kịch bản mà trong các tháng tới các bạn sẽ làm theo. Trước hết, quan trọng là không một điều gì chúng ta thảo luận hôm nay lại được ghi lại hay nhắc đến trong các email. Chúng ta không biết Dahlman hiện đã thâm nhập đến đâu vào trong các máy tính của chúng ta và tôi bắt đầu nhận thấy là có một việc đơn giản đến đáng sợ là đọc thư cá nhân của đồng sự. Vậy chúng ta sẽ bàn bạc miệng thôi. Nếu các bạn thấy cần thông tin một cái gì thì đến nhà Christer mà gặp. Phải thật kín đáo.

    Blomkvist viết lên bảng trắng chữ: “Không email”.

    - Thứ hai, những lúc có Dahlman ở quanh, tôi muốn các bạn bắt đầu cãi cọ nhau và kêu ca tôi cùng Erika. Đừng tố quá liều. Hãy thả cho cái chất quậy tự nhiên trong mỗi chúng ta nó được sổng ra tung hoành. Christer, tôi muốn có một bất đồng nghiêm trọng giữa anh và Erika. Hãy vẽ đại ra một chuyện và giấu kín lý do.

    Anh viết lên bảng trắng: “Bắt đầu quậy đi”.

    - Thứ ba, khi Erika về, việc của chị ấy là làm sao cho Dahlman nghĩ thỏa thuận giữa chúng ta và Tập đoàn Vanger – họ quả thật ủng hộ chúng ta mạnh mẽ - đã sụp đổ hoàn toàn vì Henrik Vanger ốm nặng còn Martin Vanger thì chết vì đâm xe.

    Anh viết lên chữ: “Phao tin nhảm”.

    - Nhưng thỏa thuận là vững chắc thật chứ?

    - Xin tin tôi. – Blomkvist nói, - Tập đoàn Vanger sẽ làm tới số để cho Millennium sống sót. Vài tuần nữa, cho là cuối tháng Tám đi, Erika sẽ mời họp để báo cho các bạn về chuyện giãn bớt nhân sự. Các bạn đều biết đây là mẹo, người duy nhất sẽ dời đi là Dahlman. Nhưng hãy bàn chuyện tìm việc mới, rồi ca thán rằng Millennium là một vết xấu trong sơ yếu lý lịch.

    - Anh nghĩ trò chơi này đúng là sẽ cứu Millennium thật chứ? – Magnusson nói.

    - Tôi biết nó sẽ là như thế. Còn Sonny, tôi muốn chị làm một báo cáo giá hàng tháng cho thấy tiền thuê đăng quảng cáo tụt cũng như khách thuê đăng giảm đi.

    - Nghe ngộ đấy. – Nilsson nói. – Chuyện này chúng ta giữ ở trong nội bộ hay là cũng nên rỉ ra cho báo đài khác nữa?

    - Nội bộ thôi. Nếu câu chuyện này xuất hiện ở đâu thì chúng ta sẽ biết ai nói. Vài tháng sau, nếu có ai hỏi chúng ta về chuyện này, chúng ta có thể bảo họ: bạn đã nghe phải tin đồn không có cơ sở, chúng tôi không bao giờ lại muốn đóng cửa Millennium. Điều hay nhất có thể xảy ra là Dahlman đi mách lẻo cho các báo đài khác. Nếu có thể xì ra cho Dahlman một câu chuyện ngu xuẩn thì các bạn xì ra được nhiều bao nhiêu càng hay bấy nhiêu.

    Họ bỏ một giờ ra viết một kịch bản rồi phân vai.

    Sau cuộc họp Blomkvist uống cà phê với Malm ở quán Java trên đường Horngatspuckeln.

    - Christer, cậu ra đón Erika ở sân bay và báo cho cô ấy biết hết mọi sự. Cậu phải thuyết phục cô ấy cùng chơi trò này. Với tính khí của Erika thì cô ấy sẽ tức tốc đi đối chất với Dahlman ngay – nhưng không thể nào như thế được. Tớ không muốn Wennerstrom nghe thấy bất cứ xì xào nào rồi tìm cách xóa bằng chứng.

    - Sẽ làm.

    - Và trông sao cho Erika xa cái máy tính của cô ấy cho tới khi cô ấy cài được chương trình mã hóa PGP và học được cách sử dụng. Rất nhiều phần chắc là qua Dahlman, Wennerstrom đã đọc được mọi chuyện mà tớ và cô ấy vẫn email cho nhau. Tớ muốn cậu và mọi người ở tòa soạn đều cài đặt PGP. Làm rất là tự nhiên thôi. Tìm tên một cố vấn máy tính để liên hệ và mời ông ta đến kiểm tra mạng máy tính cùng mọi máy tính của tòa báo. Để ông ta cài đặt phần mềm kia y như là một phần việc hoàn toàn tự nhiên của tòa soạn vậy.

    - Tớ sẽ làm hết sức. Nhưng Blomkvist – cậu đang làm về cái gì thế?

    - Wennerstrom.

    - Chính xác ra là cái gì?

    - Lúc này đây là bí mật của tớ.

    Malm nom không thoải mái.

    - Blomkvist, tớ luôn tin cậu. Thế này là cậu không tin tớ à?


  7. #36
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Blomkvist cười to.

    - Tất nhiên tin chứ. Nhưng hiện giờ tớ đang dính vào những hoạt động tội phạm nghiêm trọng có thể cho tớ hai năm tù giam. Chính là tính chất của việc tớ điều tra nghiên cứu nó có chút khả nghi… Tớ đang chơi bằng các mánh gian giống như Wennerstrom đã chơi. Tớ không muốn cậu, Erika hay bất cứ ai ở Millennium vì kiểu gì đó mà bị liên lụy.

    - Cậu đang làm cho tớ căng thẳng phát sợ lên đây.

    - Bình tĩnh nào, Christer, bảo Erika là chuyện này sẽ thành lớn đấy.

    - Lớn thật.

    - Erika sẽ đòi biết bằng được cậu đang làm cái gì…

    Blomkvist nghĩ một lúc. Rồi mỉm cười.

    - Bảo cô ấy rằng mùa xuân, khi cô ấy ký ở sau lưng tớ một hợp đồng với Henrik Vanger rằng tớ nay chỉ là một tay viết tự do thông thường, không còn ngồi trong ban biên tập và không còn ảnh hưởng tí nào đến chính sách của Millennium là cô ấy đã làm cho tớ tỉnh ra rất nhiều rồi. Nghĩa là tớ không còn phải giữ cái bổn phận thông tin cho cô ấy nữa. Nhưng tớ hứa rằng nếu cô ấy ứng xử tốt, tớ sẽ cho cô ấy được lựa chọn đầu tiên trong câu chuyện.

    - Cô ấy sẽ đi tới bến đấy. – Malm hào hứng nói.

    Blomkvist biết anh đã không hoàn toàn trung thực với Malm. Anh có ý tránh Erika. Việc tự nhiên nhất phải làm là ngay lập tức phải tiếp xúc với cô và nói cho cô những thông tin mà anh nắm được. Nhưng anh không muốn nói với Erika. Đã đến chục lần anh đứng với di động trong tay chuẩn bị gọi cho cô. Lần nào anh cũng đổi ý.

    Anh biết vấn đề là gì. Anh không thể nhìn thẳng vào mắt cô. Chuyện giấu sự thật mà anh tham gia là không thể tha thứ xét từ quan điểm nghề nghiệp. Anh không biết làm thế nào để giải thích cho cô mà không phải nói dối, và một việc anh không bao giờ nghĩ sẽ phải làm, đó là nói dối Erika Berger.

    Trên hết, anh không có đủ sức để vừa giải quyết chuyện này lại vừa xử trí Wennerstrom. Cho nên anh thôi gặp cô, tắt di động và tránh chuyện trò với cô. Nhưng anh biết việc tự kìm mình lại này chỉ là tạm thời mà thôi.

    Ngay sau cuộc họp tòa soạn, Blomkvist đi đến căn nhà nhỏ bằng gỗ của anh ở Sandhamn; hơn một năm rồi anh chưa ở đây. Hành lý của anh gồm có hai hộp tài liệu đã in từ máy tính và các đĩa CD mà Salander đã cho anh. Anh mua sẵn nhiều thực phẩm, khóa cửa lại, mở iBook và bắt đầu viết. Ngày ngày anh làm một cuốc đi bộ ngắn, mua báo và tạp phẩm. Bến tàu cho khách vẫn đầy du thuyền, đám trẻ mượn tàu của bố thường ngồi ở quán bar Divers, uống cho đến mức ú a ú ớ. Blomkvist rất ít khi hòa nhập vào những người ở xung quanh anh. Anh ngồi trước máy tính từ lúc mở mắt cho đến lúc ngã lăn ra giường vào ban đêm, mệt phờ.

    Email được mã hóa của tổng biên tập <erika.berger@millennium.se> gửi chủ bút đang nghỉ phép vắng <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Mikael, em muốn biết đang có chuyện gì – trời ạ, em vừa nghỉ hè về mà đã phải giải quyết đống hỗn loạn này đây. Tin về Janne Dahlman và cái trò chơi hai mang anh nghĩ ra kia. Martin Vanger chết. Harriet Vanger sống. Chuyện gì ở Hedeby thế? Anh ở đâu? Có một bài báo ư? Tại sao di động của anh không trả lời? /E.

    T.B. Em hiểu sự ám chỉ mà Christer tiếp âm hể hả như thế kia. Anh sẽ phải nhận là anh sai. Anh cáu ghê với em ư?

    Lại T.B. Em tin anh lúc này nhưng anh sẽ phải cho ra bằng chứng – anh nhớ chứ, cái món đứng được trước tòa - ở J.D.

    _________

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Chào Erika. Không, thề có Chúa, anh không cáu. Xin lỗi đã không cập nhật cho em nhưng mấy tháng qua trong đời anh nó loạn xà ngầu. Anh sẽ nói hết khi chúng ta gặp nhau nhưng không qua email. Anh ở Sandhamn. Có chuyện nhưng không phải là về Harriet Vanger. Anh phải dính liền vào máy tính ở đây một thời gian. Rồi sẽ xong. Tin anh đi. Ôm hôn. M.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Sandhamn à? Em đến gặp anh ngay tức thì đây.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Ngay lúc này thì không được. Chờ hai ba tuần, ít nhất cũng tới khi anh dựng xong đề cương. Ngoài ra anh đang chờ bạn cùng làm.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Đã vậy thì em không đến. Nhưng em phải biết đang có chuyện gì. Henrik lại thành CEO, ông ta không trả lời em. Nếu mối làm ăn với Vanger bong thì em tuyệt đối cần được biết. Ricky.

    T.B. Cô ấy là ai?

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Trước hết, không có chuyện Henrik rút dù. Nhưng ông ấy vẫn chỉ làm chút ít, anh đoán cái náo loạn sau việc Martin chết và Harriet tái xuất hiện đang có hại cho sức khỏe của ông ấy.

    Thứ hai: Millennium sẽ sống. Anh đang viết một bài báo tường thuật quan trọng nhất trong cuộc đời chúng ta, khi đăng nó, chúng ta sẽ cho Wennerstrom chìm nghỉm tắp lự một lần và vĩnh viễn.

    Thứ ba, Đời sống của anh hiện đang tanh bành nhưng về phần em và anh và Millennium – thì không có gì thay đổi hết. Tin anh. Hôn nhiều/ Mikael.

    T.B. Hễ tự nhiên có dịp thì anh sẽ giới thiệu ngay em.

    Khi đến Sandhamn, Salander thấy một Blomkvist râu ria, mắt sâu hoắm, ôm vội cô một lát rồi bảo cô làm cà phê và chờ anh viết xong chỗ đang dở.

    Salander nhìn quanh căn nhà gỗ và gần như tức thì quyết định là thích nó. Nó ở ngay bên một đê chắn sóng, nước ở cách cửa nhà ba bước. Nó chỉ rộng năm trên sáu mét nhưng trần cao nên có được một gác lửng để ngủ. Cô có thể đứng thẳng ở trên đó hẳn hoi. Blomkvist sẽ phải lom khom. Giường đủ rộng cho cả hai người họ.

    Căn nhà gỗ có một cửa sổ lớn trông ra mép nước gần sát cửa ra vào. Bàn bếp của anh ở đó, kiêm thêm luôn là bàn làm việc. Trên tường gần bàn làm việc là một cái giá với một máy nghe đĩa và một bộ sưu tập lớn các đĩa nhạc của Elvis cùng hard rock, đều không phải là thứ mà thoạt nhìn Salander đã chọn lấy liền.

    Trong góc là một lò đun củi được xây bằng đá, mặt trước lên nước sáng bóng. Đồ đạc thưa thớt còn lại gồm một tủ to cất áo quần, chăn khăn, vải vóc và một bồn dùng làm chỗ rửa ráy ở đằng sau một tấm rèm. Gần bồn là một cửa sổ nhỏ ở hông căn nhà. Bên dưới cầu thang trôn ốc lên gác lửng, Blomkvist ngăn một chỗ riêng để làm nhà vệ sinh. Toàn bộ căn nhà nhỏ được xếp đặt giống như một ca bin trên một con tàu với những khe những hốc cho các vật cần chứa cất.

    Trong cuộc điều tra riêng về Mikael Blomkvist, Salander đã thấy anh tu sửa lại căn nhà gỗ và làm lấy đồ nội thất – kết quả này là rút ra từ bình luận của một chỗ quen biết sau khi thăm viếng Sandhamn – đã phục tài nghệ thủ công của anh mà gửi email cho anh. Mọi thứ đều sạch sẽ, không phô phang và đơn giản, gần với thanh đạm. Cô hiểu tại sao anh yêu căn nhà gỗ này ở Sandhamn đến thế.

    Sau hai giờ cô đã làm cho Blomkvist phân tâm đến mức thất vọng rời máy tính, cạo râu rồi dẫn cô đi một vòng xung quanh. Trời mưa gió, họ nhanh chóng náu vào trong một quán trọ. Blomkvist kể với cô anh đang viết gì và Salander thì cho anh một đĩa CD với những tài liệu mới nhất lấy từ máy tính của Wennerstrom.

    Rồi cô đưa anh lên gác lửng, xoay sở cởi quần áo anh ra và thậm chí còn làm cho anh khuây khỏa hơn nữa. Khuya đêm ấy cô thức dậy thấy mình nằm một mình. Cô hé mắt nhòm xuống thấy anh đang còng lưng ngồi trước máy tính. Cô nằm đó một lúc lâu, chống một tay lên cằm nhìn anh. Anh nhìn cô vẻ vui và cô cũng cảm thấy hài lòng lạ lùng với cuộc đời.

    Salander chỉ ở lại năm ngày rồi cô đi Stockholm làm việc cho Armansky. Cô làm viẹc này mất mười một ngày, làm báo cáo, rồi lại quay về Sandhamn. Đống giấy in bên cạnh Blomkvist cao dần lên.

    Lần này cô ở lại bốn tuần. Hai người đã rơi vào nếp quen, họ dậy lúc 8 giờ, ăn lót dạ, ở với nhau khoảng một giờ. Rồi Blomkvist làm việc cật lực cho đến chiều muộn thì hai người đi bộ và trò chuyện. Phần lớn thời gian Salander ôm giường, hoặc đọc sách hoặc lướt mạng bằng modem ADSL của Blomkvist. Cô cố không làm phiền anh ban ngày. Họ ăn tối khá muộn và rồi chỉ Salander chủ động buộc anh lên gác lửng, ở đấy cô thấy anh hiến hết tâm lực của anh cho cô.

    Cứ tựa như cô đang có kỳ nghỉ đầu tiên trong đời vây.

    Email đã được mã hóa của <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Chào M. nay đã chính thức, Janne Dahlman đã từ chức và ba tuần nay bắt đầu làm việc ở tạp chí Monopoly Financial. Em đã làm như anh yêu cầu và không nói gì, mọi người đang láo nháo chơi các trò con khỉ. E.

    T.B. Họ có vẻ thú. Hai hôm trước Henry và Lotta bắt đầu đánh nhau, ném các thứ vào nhau. Họ đang chọc lộ liễu vào cái đầu của Dahlman đến nỗi em không hiểu làm sao hắn lại không nhận ra được đây chỉ là một trò xếp đặt.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Chuyển lời anh chúc hắn may mắn, chuyển nhé, và để cho hắn đi tuốt một lèo luôn. Nhưng khóa “đĩa bạc” lại. Ôm hôn/M.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Hai tuần trước khi chúng ta đi in, em không có trưởng ban biên tập mà phóng viên điều tra của em thì ngồi ở Sandhamn lờ đi không chuyện trò gì với em. Mikael, em đang quỳ gối đấy. Anh vào được không? Erika.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Cố giữ vững hai tuần nữa là chúng ta sẽ tự do ở nhà. Hãy bắt đầu lên kế hoạch cho một số báo tháng Mười hai, không giống chút nào với các số báo chúng ta đã làm trước đây. Món này sẽ chiếm mất 40 trang. M.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    40 trang!!! Bị loạn óc à?

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Sẽ là một số đặc biệt. Anh cần ba tuần nữa. Em cố làm được những việc sau đây: (1) đăng ký một công ty phát hành với tên Millennium, (2) lấy một mã số ISBN, (3) đề nghị Christer làm một logo hay ho cho công ty phát hành mới của chúng ta, và (4) tìm một nhà in tốt có thể cho ra nhanh và rẻ một quyển sách bìa giấy thường. Nhân thể, sắp cần vốn để in quyển sách đầu tiên của chúng ta. Hôn/ Mikael.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Số đặc biệt. Nhà sách. Tiền. Vâng, thưa “ông chủ”. Em có thể làm cho ông cái gì khác nữa đây ạ? Nhảy khỏa thân ở Slussplan nhá?/ E.

    T.B. Em cho là em biết anh đang làm gì. Nhưng em làm gì với Dahlman đây?

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Đừng làm gì với Dahlman cả. Bảo hắn được tự do biến ngay và muốn gì em cũng không chắc trả được lương cho hắn. Monopoly Financial sẽ không sống sót lâu nữa đâu. Đưa nhiều hơn tài liệu của cây bút tự do vào số này. Và vì Chúa, hãy mướn một trưởng biên tập mới. /M .

    T.B. Slussplan ư? Đó là một cuộc hẹn hò.

    _______

    Từ <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Slussplan – trong mơ của anh ấy! Nhưng chúng ta luôn cùng nhau mướn người mà. / Erika.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Chúng ta luôn nhất trí nên mướn ai. Lần này cũng vậy, không cần biết em chọn ai. Chúng ta đang sắp hạ thủ Wennerstrom. Tất cả câu chuyện là vậy. Cứ để mặc anh kết thúc yên ổn việc này. / M.

    Đầu tháng Mười, Salander đọc một bài báo trên ấn bản Internet của Hedestad Courier. Cô nói với Blomkvist. Isabella đã chết sau một cơn bệnh ngắn ngủi. Bà đã được con gái, Harriet Vanger chôn cất và Harriet sau đó đã về Australia.

    Email được mã hóa của <erika.berger@millennium.se>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>:

    Chào Mikael,

    Harriet Vanger đến gặp em ở tòa báo hôm nay. Năm phút trước khi đến, chị ấy gọi và em chả chuẩn bị được gì. Một phụ nữ đẹp, quần áo sang trọng và một cái nhìn điềm đạm.

    Chị ấy đến nói sẽ thay Martin Vanger làm người đại diện của Henrik ở ban lãnh đạo tạp chí chúng ta. Xã giao và thân thiện, chị ấy bảo đảm với em rằng Tập đoàn Vanger không có kế hoạch rút ra khỏi bản thỏa thuận. Trái lại toàn gia đứng trọn vẹn ở đằng sau các nghĩa vụ của Henrik đối với tạp chí. Chị ấy yêu cầu đi một vòng xem các ban bệ của tòa soạn và chị ấy muốn biết em nhìn nhận tình hình như thế nào.

    Em nói sự thật với chị ấy. Là em cảm thấy như không có đất ở dưới chân, là anh cấm em đến Sandhamn, là em không biết anh đang làm gì, ngoài việc anh định cho Wennerstrom chìm tàu. (Em cho rằng nói thế là OK. Dẫu sao chị ấy cũng ở phe ta). Chị ấy nhướng lông này lên cười rồi hỏi em có nghi ngờ thành công của anh không. Em nên nói thế nào nhỉ? Em nói em sẽ ngủ dễ hơn chút chút nếu em biết chính xác anh đang viết cái gì. Ừ, lẽ đương nhiên em tin anh chứ. Nhưng anh làm em phát điên đấy.

    Em hỏi chị ấy có biết anh đang làm gì không. Chị ấy nói không nhưng chị ấy có cảm tưởng anh nắm rất nhiều thông tin và anh có một cách suy nghĩ sáng tạo mới mẻ (Lời chị ấy).

    Em nói rằng em cũng suy ra thấy một cái gì đó đau thương đã xảy ra ở Hedestad và em hơi tò mò về câu chuyện liên quan đến bản thân Harriet Vanger. Tóm lại em cảm thấy mình là con ngu. Chị ấy hỏi em là anh thật sự không nói gì với em hết à. Chị ấy nói chị ấy biết em và anh có một quan hệ đặc biệt và chắc chắn khi có thì giờ anh sẽ nói bài viết ấy với em. Rồi chị ấy hỏi liệu chị ấy có thể tin em được không. Em nên trả lời sao đây? Chị ấy ở trong ban lãnh đạo của Millennium còn anh thì bỏ em ở đây trong bóng tối hoàn toàn.

    Rồi chị ấy nói một điều ngồ ngộ. Chị ấy yêu cầu em đừng nhìn chị ấy và anh quá khắc nghiệt. Chị ấy nói chị ấy nợ anh một món nợ về lòng biết ơn, chị ấy thật sự muốn em và chị ấy cũng là bạn bè. Rồi chị ấy hứa một ngày nào đó sẽ kể với em câu chuyện nếu như anh không thể kể. Chị ấy đi cách đây nửa giờ mà em vẫn cứ còn ngơ ngẩn. Em nghĩ em mến chị ấy, nhưng con người này là ai?/ Erika.

    T.B. Em nhớ anh. Em có cảm giác đang xảy ra một chuyện gì kinh tởm ở Hedestad. Christer nói anh có một cái dấu lạ ở cổ.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <erika.berger@millennium.se>:

    Chào Erika. Chuyện về Harriet đáng sợ đến thảm thương mà em thậm chí chẳng thể tưởng tượng ra. Nếu chị ấy tự kể cho em thì nhất đấy. Anh thấy khó mà bắt anh nghĩ tới việc đó được.

    Nhân đây, em có thể tin chị ấy. Chị ấy bảo nợ anh cái sự biết ơn là chị ấy nói đúng đấy – và hãy tin anh đi, chị ấy sẽ không làm gì để gây khó dễ cho Millennium đâu. Nếu em mến chị ấy thì cứ làm bạn với chị ấy. Chị ấy đáng được kính trọng. Chị ấy là một nữ doanh nhân sừng sỏ đấy. / M.

    Hôm sau Blomkvist nhận được một email nữa.

    Từ <harriet.vanger@vangerindustries.com>

    Gửi <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Chào Mikael. Mấy tuần qua tôi cố tìm ra thì giờ để viết cho anh. Nhưng hình như trong một ngày không bao giờ lại có đủ thời gian cả. Anh bỏ Hedeby đi bất ngờ quá, tôi không được chào chia tay.

    Từ ngày về Thụy Điển, ngày giờ của tôi gồm đầy những cảm tưởng ngỡ ngàng và công việc gay go. Tập đoàn Vanger đang hỗn loạn, cùng với Henrik tôi đang chật vật để thu xếp cho nó ngăn nắp lại. Hôm qua tôi đến thăm tòa soạn Millennium; tôi sẽ là đại diện của Henrik ở ban lãnh đạo. Henrik đã nói với tôi mọi chi tiết về tình hình tờ tạp chí và anh.

    Tôi hy vọng anh chấp nhận tôi ra mắt như thế này. Nếu anh không muốn tôi (hay một ai khác trong gia đình) ở trong ban lãnh đạo thì tôi cũng thông cảm, nhưng tôi bảo đảm với anh rằng tôi sẽ làm hết sức để ủng hộ Millennium. Tôi mang nợ lớn với anh, ở mặt này tôi luôn có những ý định tốt đẹp nhất.

    Tôi đã gặp Erika Berger, đồng nghiệp của anh. Chị ấy nghĩ gì về tôi thì tôi không đoán chắc, tôi ngạc nhiên biết là anh không kể với chị ấy chuyện gì đã xảy ra.

    Tôi rất muốn là bạn của anh. Nếu anh có thể nhận có liên quan gì đó nhiều hơn nữa với gia đình Vanger. Hết sức trân trọng. / Harriet

    T.B. Qua Erika tôi biết anh lại đang dự định cho Wennerstrom đắm đò. Dirch Frode nói Henrik đã làm cho anh mệt, như họ nói ở Australia. Tôi có thể nói được gì đây? Tôi rất tiếc. Nếu tôi làm được gì, hãy cứ cho tôi hay.

    _______

    Từ <mikael.blomkvist@millennium.se>

    Gửi <harriet.vanger@vangerindustries.se>:

    Chào Harriet. Tôi rời Hedeby gấp gáp quá và hiện tôi đang làm cái việc thật sự tôi nên bỏ thì giờ của tôi trong năm nay ra cho nó. Chị sẽ được báo rất sớm trước khi bài báo được đăng. Nhưng tôi có thể nói các vấn đề của năm qua sẽ sớm kết thúc.

    Tôi hy vọng chị và Erika sẽ là bạn và dĩ nhiên là tôi chả có vấn đề gì với việc chị ở trong ban lãnh đạo của Millennium sất cả. Tôi sẽ nói với Erika những chuyện đã xảy ra, nếu chị thấy đó là khôn ngoan. Henrik muốn tôi không nói bất cứ cái gì với bất cứ ai. Để xem đã, nhưng trước mắt tôi không có thì giờ và năng lượng và tôi cần trước hết một khoảng cách nho nhỏ.

    Chúng ta hãy giữ liên hệ với nhau. Tốt đẹp nhất / Mikael.

    Salander chẳng quan tâm đặc biệt đến việc Blomkvist đang viết gì. Khi Blomkvist nói điều gì đó, cô ngửng đầu lên khỏi quyển sách, thoạt đầu cô không nghe thấy.

    - Xin lỗi, anh buột nói to lên thôi, anh nói cái này kinh khủng.

    - Cái gì kinh khủng?

    Wennerstrom có chuyện với một cô hầu hai mươi hai tuổi và làm cho cô ấy có chửa. Em có đọc thư lão gửi cho luật sư riêng không?

    - Mikael thân mến, anh có những mười năm thư tín, email, thỏa thuận, lịch đi lại, và Chúa mà biết là còn những gì nữa ở trong đĩa cứng. Em không thấy Wennerstrom hấp dẫn đến độ em phải đem sáu GB rác rưởi găm vào đầu mình. Em đã đọc qua một phần, chính là để thỏa cái sự tò mò và chỉ thế thôi cũng đã đủ cho em thấy lão là một tên găngxtơ.

    - OK. Lão làm cô ấy có chửa năm 1997. Khi cô ấy đòi bồi thường, luật sư của lão đã nhờ ai đó đến bảo cô ấy phá thai. Anh cho là lão định cho cô ấy một khoản tiền lớn nhưng cô ấy không thiết. Rồi cuộc thuyết phục kết thúc bằng việc dìm cô ấy trong bồn tắm đầy nước cho đến khi cô ấy bằng lòng để cho Wennerstrom yên. Thằng ngu của Wennerstrom viết tất cả chuyện đó vào email gửi luật sư – dĩ nhiên được mật hóa, nhưng dù cho là thế đi… Việc này không nói được mấy về IQ của cái lũ này.

    - Sau rồi cô gái sao?

    - Phá thai và Wennerstrom vui vẻ.

    Salander im lặng chừng mười phút. Mắt cô chợt tối sầm.

    - Thêm một đứa ghét phụ nữ nữa. – Cuối cùng cô lẩm bẩm.

    - Cô mượn các đĩa CD rồi bỏ mấy ngày sau ra đọc hết các email cùng tài liệu khác của Wennerstrom. Trong khi Blomkvist vẫn viết, Salander leo lên gác lửng với chiếc PowerBook đặt lên đầu gối nghiền ngẫm về đế chế khác thường của Wennerstrom.

    Cô bật ra một ý và cô không thể buông nó đi. Cô chỉ nghĩ tại sao cô không biết sớm hơn những cái này.

    Cuối tháng Mười, Blomkvist tắt máy tính lúc mới 11 giờ sáng. Anh lên gác lửng đưa cho Salander những cái anh vừa viết xong. Rồi ngủ. Chiều, cô đánh thức anh dậy, nói ý kiến của cô về bài báo.

    Đúng sau 2 giờ sáng, Blomkvist sửa lại lần cuối cùng. Hôm sau anh đóng cửa sổ lại và khóa trái nhà. Kỳ nghỉ của Salander chấm hết. Họ cùng nhau về Stockholm.

    Anh nói lại câu chuyện trong khi họ uống cà phê trong những cốc giấy ở trên phà Vaxholm.

    - Điều hai chúng ta cần quyết định là nói gì với Erika đây. Cô ấy sẽ từ chối đăng bài báo nếu anh không nói rõ được cách anh nắm tài liệu như thế nào.

    Erika Berger, Tổng biên tập Millennium và người tình lâu năm của Blomkvist, Salander chưa từng gặp và cô cũng không chắc là có muốn gặp. Berger có vẻ giống như một phiền phức khó định nghĩa nào đó trong đời cô.

    - Chị ấy biết gì về em?

    - Không gì cả. – Anh thở dài. – Sự thật là anh tránh miết cô ấy từ mùa hè. Cô ấy rất thất vọng về chuyện anh đã không thể kể với cô ấy những gì xảy ra ở Hedestad. Dĩ nhiên cô ấy biết anh ra Sandhamn để viết bài báo nhưng cô ấy không biết nó viết về cái gì.

    - Ừ hừm.

    - Một hai giờ nữa cô ấy sẽ có bản thảo. Rồi cô ấy sẽ tra khảo anh. Vấn đề là anh nên nói với cô ấy thế nào?

    - Anh định bảo sao với chị ấy?

    - Anh muốn nói sự thật.

    Salander cau mặt.

    - Lisbeth, anh và Erika cãi nhau hoài à. Ngỡ như đấy là một phần của cách bọn này giao lưu với nhau. Nhưng cô ấy đáng tin cậy tuyệt đối. Em là một nguồn tài liệu. Cô ấy thà chết hơn là phát hiện ra em là ai.

    - Anh còn phải nói với bao nhiêu người khác nữa?

    - Tuyệt đối không một ai. Điều này sẽ đi với anh và Erika xuống mồ. Nhưng anh không muốn bảo với cô ấy bí mật của em nếu em không muốn. Mặt khác anh lại không thể chọn cách nói dối Erika, bịa ra một nguồn tin nào đó không hề tồn tại.

    Salander nghĩ về điều này cho đến khi họ đặt chân lên bến ở gần Grand Hotel. Cuối cùng cô ngập ngừng cho phép Blomkvist giới thiệu cô với Erika.Anh bấm di động gọi.

    Erika đang ăn trưa với Malin Eriksson, cô có ý mướn Eriksson làm trưởng ban biên tập. Eriksson hai mươi chín tuổi, đã làm việc tạm trong năm năm. Cô chưa bao giờ nắm một công việc thường xuyên và bắt đầu ngờ khéo mình cứ sẽ là tàm tạm mãi. Ngay hôm Malin hết hạn làm tạm cuối cùng, Erika đã gọi và hỏi cô có muốn vào làm ở Millennium không.

    - Vị trí này là tạm thời trong ba tháng, - Erika nói. – Nếu công việc tốt thì có thể thành thường xuyên.

    - Tôi nghe đồn Millennium đang ở thời kỳ khó khăn.

    Erika mỉm cười.

    - Dahlman mà tôi sắp thay kia… - Malin ngập ngừng. – Ông ấy sắp đến làm ở một tạp chí do Hans-Erik Wennerstrom làm chủ.

    Erika gật đầu.

    - Khó mà giữ được bí mật chuyện xung đột giữa chúng tôi và Wennerstrom. Ông ấy không thích những người làm việc ở Millennium.

    - Vậy nếu tôi nhận việc ở chỗ chị thì cuối cùng tôi cũng đi đến loại ấy nốt.

    - Vâng, rất có khả năng.

    - Nhưng Dahlman đã có việc làm ở tạp chí Monopoly Financial, đúng thế không?

    - Cô có thể nói đó là cách Wennerstrom trả công cho những việc đã từng làm cho ông ta. Cô còn bận tâm không?

    Malin gật đầu.

    - Bao giờ chị muốn tôi bắt đầu?

    Đúng lúc đó thì Blomkvist gọi.

    Cô dùng chìa khóa của cô mở cửa nhà anh. Từ dịp lễ Giữa Mùa hè anh tạt vội qua thăm tòa báo đến nay cô mới cùng anh mặt đối mặt. Cô đi vào phòng khách, thấy một cô gái chê ăn gầy gò ngồi trên sofa, mặc jacket da tàng, chân ghếch lên bàn cà phê. Thoạt đầu Erika tưởng cô gái mười lăm tuổi nhưng đó là lúc cô chưa nhìn thấy ánh mắt cô gái. Cô vẫn còn nhìn “tạo vật” này khi Blomkvist đi vào với bình cà phê và bánh ngọt.

    - Xin lỗi vì anh đã hoàn toàn không phải.

    Erika nghiêng đầu. Có một cái gì khác ở anh. Nom anh ngơ ngác, gầy hơn là cô hình dung. Mắt anh có một vẻ xấu hổ và có một lúc anh tránh mắt cô. Cô liếc vào cổ anh. Cô thấy một đường đỏ mờ nhạt, nhận ra rõ được.

    - Anh đã tránh em. Câu chuyện này dài và anh không tự hào gì về vai trò của anh ở trong đó hết… Nay anh muốn giới thiệu với em cô gái này. Erika, đây là Lisbeth Salander, Lisbeth, đây là Erika Berger, Tổng biên tập Millennium và bạn thân nhất của anh.

    Salander xem xét áo quần lịch sự cùng phong độ tự tin của Erika rồi mấy giây sau quyết định nhiều phần xem ra sẽ không thành bạn thân nhất của chị ấy.

    Họ họp với nhau năm tiếng đồng hồ. Erika hai lần gọi hủy các cuộc họp khác. Cô bỏ một giờ ra đọc những phần bản thảo mà Blomkvist đưa vào tay cô. Cô có cả đến nghìn câu hỏi nhưng nhận thấy muốn được trả lời đầy đủ thì phải mất hàng tuần. Nếu một phần của bản thảo này là chính xác thì toàn bộ tình hình mới đã nổi rõ ra.

    Erika nhìn Blomkvist. Cô chưa từng nghi ngờ lòng trung thực của Blomkvist nhưng nay cô lơ mơ thấy phải chăng vụ Wennerstrom đã bẻ gẫy mất anh rồi – rằng cái việc mà anh đang làm đây đều là do óc tưởng tượng của anh bày đặt ra. Lúc này Blomkvist đang mở hai hộp tài liệu nguồn đã được in ra. Erika tái mét mặt. Dĩ nhiên cô muốn biết làm sao mà chúng lại đến được tay anh.

    Phải mất một lúc cô mới chịu thuyết phục rằng cô gái kỳ dị này, người trong suốt cuộc họp không hé răng lần nào, đã ra vào máy tính của Wennerstrom dễ như bỡn. Và không chỉ máy tính của lão – cô ấy còn lặn chui vào máy tính của vài luật sư và trợ lý thân cận của lão.

    Phản ứng đầu tiên của Erika là họ không thể sử dụng các tài liệu này vì họ đã dùng các thủ đoạn bất hợp pháp mà có chúng. Nhưng dĩ nhiên họ có thể dùng nó. Blomkvist chỉ ra rằng họ không có nghĩa vụ giải thích cách họ thu được tài liệu. Họ cũng có thể có một nguồn đi vào máy tính của Wennerstrom khi lão sao mọi cái ở trên đĩa cứng của lão lên một CD.

    Cuối cùng Erika hiểu ra cô đang nắm trong tay thứ vũ khí gì. Cô thấy mệt nhoài và vẫn còn muốn hỏi nhưng không biết bắt đầu từ đâu. Cuối cùng cô ngả vào lưng ghế sofa, hỏi thẳng.

    - Ở Hedestad đã xảy ra chuyện gì?

    Salander ngước mắt lên cảnh giác. Blomkvist trả lời bằng hỏi lại.

    - Em quan hệ với Harriet Vanger thế nào?

    - Tốt. Em nghĩ thế. Em gặp chị ấy hai lần. Tuần trước Christer và em lên đó họp ban lãnh đạo tạp chí. Chúng em đã nốc vang.

    - Thế cuộc họp ấy sao?

    - Chị ấy giữ lời hứa.

    - Erika, anh biết em thất vọng vì anh đã tránh em rồi cuối cùng lại xin lỗi là không nói hết với em câu chuyện. Em và anh chưa bao giờ có gì là bí mật với nhau, thế rồi trong đời anh thình lình sáu tháng qua, anh… đã không sẵn sàng kể hết với em.

    Erika bắt gặp mắt Blomkvist nhìn mình. Cô hiểu anh từ trong ra ngoài nhưng điều cô thấy trong mắt anh là một cái gì đó cô chưa từng thấy trước đây bao giờ. Anh đang cầu xin cô đừng hỏi. Salander quan sát cuộc đối thoại không thành lời của hai người. Cô chả dính dáng gì đến.

    - Chuyện đó xấu ra sao?

    - Còn tồi tệ hơn cơ. Nghĩ đến trò chuyện với em về việc này anh đã thấy sợ. Anh hứa nói với em nhưng anh đã phải mất mấy tháng nén đi cảm xúc của mình trong khi Wennerstrom lại cuốn hút mất hết tâm trí anh… Anh vẫn chưa sẵn sàng. Anh đúng là muốn Harriet nói với em thì hơn.

    - Cái vết gì ở trên cổ anh kia?

    - Lisbeth đã cứu sống anh ở trên đó. Nếu không nhờ cô ấy thì anh chết rồi.

    Erika mở to mắt. Cô nhìn chăm chú cô gái mặc jacket da.

    - Và ngay bây giờ em cần đi đến một thỏa thuận với cô ấy. Cô ấy là nguồn tin của chúng ta.

    Erika ngồi nghĩ một lúc. Rồi cô làm một điều khiến Mikael ngạc nhiên và Salander thì sững sờ, cô cũng tự thấy lạ lùng với chính mình. Ngồi ở bàn trong phòng khách của Blomkvist, suốt buổi họp cô cảm thấy con mắt của Salander ở trên người mình. Một cô gái lầm lì với những rung động thù nghịch.

    Erika đứng lên đi vòng quanh bàn giang hai tay ôm quàng lấy người cô gái. Salander liền ngó ngoáy như một con giun đang bị xuyên vào một cái móc.

  8. #37
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    Chương 29

    Thứ Bảy, 1 tháng Mười một
    Thứ Ba, 25 tháng Mười một

    Salander đang lướt qua đế chế ảo của Wenerstrom. Cô nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính gần như suốt mười một giờ liền. Cái ý hình thành nên ở trong một cái xó chưa bị khám phá nào đó của não bộ cô trong tuần qua ở Sandhamn đã lớn lên thành một bận bịu mang chứng tâm thần. Cô đã tự giam mình trong nhà suốt bốn tuần qua, lờ đi hết mọi giao lưu của Armansky. Mỗi ngày cô bỏ mười hai giờ trước máy tính, có ngày hơn thế nữa, ngoài đó ra, những lúc thức cô nghiền ngẫm chỉ một vấn đề.

    Trong tháng qua cô tiếp xúc thất thường với Blomkvist. Anh cũng quá bận, bù đầu lên ở tòa báo. Mỗi tuần họ liên hệ đôi lần qua điện thoại và cô cho anh cập nhật về thư tín và các hoạt động khác của Wennerstrom.

    Cô rà đi rà lại hàng cả trăm lần mỗi chi tiết. Không sợ đã để sót một cái gì đó nhưng cô không dám chắc cô đã hiểu từng mỗi kết nối chằng chịt khớp chúng vào nhau như thế nào.

    Cái đế chế được bàn đến nhiều này giống như một cơ thể sống, không hình thù, mạch đập thon thót và luôn thay đổi dạng. Nó gồm những quyền mua bán, kỳ phiếu, cổ phiếu, chế độ đối tác, lãi cho vay, lãi thu nhập, lãi gửi tiền ở ngân hàng, tài khoản ngân hàng, chuyển tiền thanh toán chi trả và hàng nghìn món khác nữa. Một phần lớn không ngờ được của tài sản đã được ký gửi ở các công ty ma.

    Các phân tích được thổi phồng lên nhất của các nhà bình luận tài chính của tập đoàn Wennerstrom đã ước lượng giá trị của nó lên tới hơn 900 tỉ curon. Đó là bịp, hay ít nhất là một con số tố điêu. Rõ ràng bản thân Wennerstrom không nghèo chút nào hết. Cô tính tài sản đích thực là đáng từ 90 đến 100 tỉ curon, không xoàng tí nào. Kiểm tra sổ sách của toàn bộ tập đoàn cũng phải mất hàng năm. Salander đã nhận diện ra tổng cộng gần ba nghìn tài khoản riêng rẽ và cổ phần ngân hàng ở trên khắp thế giới. Wennerstrom đã dâng hiến hết mình cho chuyện gian lận rộng lớn tới mức việc đó không còn là tội phạm – mà là kinh doanh.

    Đâu đó trong tổ chức Wennerstrom đã có một căn bản. Ba tài sản luôn được giữ nguyên trong hệ thống thứ bậc. Các tài sản Thụy Điển cố định thì chân xác, không thể công kích, sẵn sàng cho xem xét công khai, các giấy tờ quyết đoán thu chi, và các cuộc kiểm toán. Công ty Mỹ thì vững chãi và một ngân hàng ở New York là nơi tin cậy cho tất cả tư bản luân chuyển. Chuyện đáng nói là ở trong kinh doanh với các công ty ma tại những nơi như Gibraltar và Cyprus và Macao. Wennerstrom giống như một ngân hàng hối đoái cho việc mua bán vũ khí trái phép, rửa tiền cho các doanh nghiệp khả nghi ở Columbia và cho những vụ làm ăn cực kỳ tà giáo ở Nga.

    Một tài khoản giấu tên ở quần đảo Cayman do Wennerstrom đích thân kiểm soát nhưng không thể kết nối với bất kỳ công ty nào. Một số phần trăm của mỗi vụ làm ăn mà Wennerstrom tiến hành đều được rót vào quần đảo Cayman qua các công ty ma.

    Salander làm việc trong trạng thái nhập đồng. Tài khoản – click – email – click – giấy tờ quyết đoán – click. Cô ghi lại những vụ chuyển ngân mới nhất. Cô dò ra một mối giao dịch nhỏ ở Nhật Bản với Singapore và tiếp tục đến quần đảo Cayman, qua Lucxembourg. Những giao dịch chứng khoán nho nhỏ. Email mới nhất. Một tin ngắn có vẻ không mấy quan trọng đã được gửi đi lúc 10 giờ tối. Chương trình mã hóa PGP (lát chát, lát chát) là một trò đùa cho người đã nằm ở trong máy tính và có thể đọc được mẩu tin theo đúng bản viết rành rọt ban đầu:

    Berger đã ngừng tranh cãi về quảng cáo . Ả ta thôi cuộc hay là nung nấu một cái gì? Nguồn tin của anh ở tòa soạn cho chúng tôi yên tâm rằng chúng đang ở trên bờ sụp đổ nhưng nghe đâu như ả vừa mướn một người mới xong. Tìm xem đang có chuyện gì. Blomkvist làm việc ở Sandhamn trong mấy tuần qua nhưng không ai biết hắn đang viết gì. Ít ngày gần đây người ta thấy hắn ở toà soạn. Anh có xoay được một bản sao của số báo mới không? /HEW/

    Không có gì ghê gớm. Cứ để lão lo lắng. Lão già, thắng ngố của mi đã bị om rồi đấy.

    5 rưỡi sáng, cô tắt máy tính, lấy ra một bao thuốc lá mới. Trong đêm cô đã uống bốn, không, năm lon Coca Cola và nay cô lấy ra lon thứ sáu rồi ra ngồi trên sofa. Cô chỉ mặc quần ngố bó gối và sơ mi ngụy trang bạc phếch quảng cáo cho tạp chí Soldier of Fortune với khẩu hiệu GIẾT CHẾT CHÚNG ĐI RỒI ĐỂ CHÚA CHỌN LỌC CHÚNG. Cô thấy lạnh cho nên với lấy tấm chăn quấn vào quanh người.

    Cô thấy phê tựa như cô đã xài một chất gì không thích hợp và bị coi là bất hợp pháp. Salander nhìn tập trung vào đèn đường bên ngoài cửa sổ và ngồi yên trong khi óc cô vận hành hết tốc độ. Mẹ - click – em gái – click – Mimmi – click – Holger Palmgren. Những Ngón tay Tội lỗi. Và Armansky. Công việc, Harriet Vanger. Click. Martin Vanger. Click. Cây gậy đánh golf. Click. Luật sư Bjurman. Click. Tất cả mọi chi tiết mẹ kiếp mà cô không thể quên ngay cả khi cố gắng.

    Cô nghĩ Bjurman liệu nay có dám cởi quần áo ra trước phụ nữ nữa không, mà nếu cởi thì lão sẽ giải thích thế nào về cái bảng chữ xăm ở trên bụng lão nhỉ? Và lần tới đi bác sĩ khám bệnh thì hắn có tránh việc cởi bỏ áo quần ra không?

    Và Mikael Blomkvis. Click.

    Cô coi anh là một người tốt, có thể có một mặc cảm Con lợn Tháo vát đôi khi hơi quá lộ liễu tí chút. Anh ngây ngô đến không thể chịu nổi với một số vấn đề luân lý sơ đẳng. Anh có một nhân cách hào hiệp và khoan thứ đi tìm kiếm giải thích và lý do cho cái cách mà con người ta cư xử và anh sẽ không hiểu được rằng những con chim ăn thịt của thế giới này chúng chỉ hiểu duy nhất có một ngôn ngữ. Mỗi khi nghĩ đến anh cô lại cảm thấy gần như mình đang vụng về che chở anh.

    Cô không nhớ đã ngủ thiếp đi nhưng cô thức dậy lúc 9 giờ sáng, sái cổ còn đầu thì dựa vào tường ở đằng sau ghế sofa. Lảo đảo đi vào buồng, cô lăn ra ngủ tiếp.

    Không nghi ngờ gì đây là chuyện lớn nhất trong đời họ. Từ một năm rưỡi nay, lần đầu tiên Erika vui theo cái cách mà chỉ một biên tập viên có tin giật gân ghê gớm sắp cho bung ra mới có thể vui đến như thế. Cô và Blomkvist đang trau chuốt lại lần cuối cùng bào báo thì Salander gọi.

    - Em quên không nhắc là Wennerstrom đang bắt đầu lo lắng về cái việc anh đang làm hiện nay, lão cũng yêu cầu một bản sao số báo sắp tới.

    - Sao em biết…a, cho quên đi. Hắn định làm gì có biết không?

    - Coi chừng. Chỉ đoán theo lô gích.

    Blomkvist nghĩ một lúc.

    - Cái máy in. – Anh reo lên.

    Erika nhướng lông mày lên.

    - Nếu anh chỉ giữ bí mật ở tòa soạn thì sẽ không có nhiều khả năng khác nữa đâu. Miễn là bọn đầu gấu của lão không dự tính nửa đêm đến thăm anh.

    Blomkvist quay sang Erika.

    - Thuê một máy in cho số báo này. Làm ngay đi. Và gọi Armansky, tuần tới anh cần an ninh đêm ở đây. – rồi quay sang Salander, Blomkvist nói. – Cảm ơn.

    - Cái ấy đáng sao?

    - Em định nói gì?

    - Cái tin em mách ấy, đáng cái gì?

    - Em thích gì?

    - Em thích bàn chuyện ấy với cà phê. Ngay bây giờ.

    Họ gặp nhau ở quán Kaffebar trên đường Hornsgatan. Salander nom nghiêm chỉnh quá đến nỗi anh thấy nhói lên một mối lo âu. Như thường lệ cô vào ngay đề.

    - Em cần vay ít tiền.

    Cười một cáu ngô nghê nhất với cô, Blomkvist lấy ví ra.

    - Chuyện nhỏ. Bao nhiêu?

    - 120.000 curon.

    - Yên tâm, yên tâm. – Anh cất ví đi.

    - Em không đùa đâu. Em cần vay 120.000 curon để…hãy cho là sáu tuần. Em có cơ hội làm một chuyến đầu tư nhưng em không biết trông vào ai. Anh vừa mới đưa ra chừng 140.000 curon vào tài khoản đang dùng của anh. Anh hãy rút tiền của anh ra.

    Xin miễn bình việc Salander đã bẻ mã khóa tài khoản ngân hàng của anh.

    - Em không phải vay anh. – Anh đáp. – Chúng ta chả đã bàn đến phần của em rồi sao? Nhưng nó thừa đủ khoản tiền mà em vay.

    - Phần của em?

    - Lisbeth, anh có một khoản tiền công không lành mạnh Henrik trả cho và bọn này sẽ chấm dứt vụ làm ăn vào cuối năm nay. Không có em thì không có chuyện anh và Millennium làm được một cái gì như bây giờ. Anh đang định bửa đôi tiền công kia ra với em đây. Năm mươi năm mươi.

    Salander nhìn anh dò hỏi. Lông mày cô chau lại. Anh đã quen với những im lặng của cô. Cuối cùng cô lắc đầu.

    - Em không muốn lấy tiền của anh.

    - Nhưng ….

    Em không muốn lấy một curon nào của anh hết, trừ phi nó là ở dạng quà mừng sinh nhật em.

    - Thì hãy nghĩ là thế đi, anh chả biết cả khi nào thì sinh nhật em nữa cơ mà.

    - Anh là nhà báo. Hãy tự tra lấy.

    - Anh nghiêm chỉnh đấy, Lisbeth. Về chuyện bổ đôi tiền.

    - Em cũng nghiêm chỉnh. Em chỉ muốn vay thôi và ngày mai thì em cần đến.

    Cô ấy chả thiết hỏi phần cô ấy là bao nhiều nữa kia.

    -Anh rất vui đi với em ra ngân hàng ngay hôm nay và cho em món em cần kia. Nhưng đến cuối năm chúng ta nên có cuộc trò chuyện khác về phần tiền của em. – anh nâng tay cô lên. – Và nhân thể, khi nào là sinh nhật em?

    - Đêm Walpurgis 1 ấy.– Cô đáp. – Rất thích hợp nhá, anh nghĩ thế không? Đêm ấy em kẹp chổi vào hai cẳng bay đi lang thang khắp.

    Cô đáp xuống Zurich lúc 7 rưỡi tối, lên xe taxi đến khách sạn Matterhorn. Với tên Irene Nesser cô đã đặt sẵn một phòng. Dùng một hộ chiếu Na Uy cô khai mình dưới cái tên này. Irene Nesser có món tóc vàng chấm vai. Salander mua một bộ tóc giả ở Stockholm, chỉ 10.000 curon trong khoản tiền vay của Blomkvist ra mua hai hộ chiếu nhờ một trong những mối tiếp xúc trong mạng lưới quốc tế của Dịch Bệnh.

    Cô về phòng, khóa cửa lại, cởi quần áo. Cô nằm trên giường nhìn trần của cái gian phòng giá 1.600 curon mỗi đêm. Cô cảm thấy trống rỗng. Cô đã tiêu mất một nữa chỗ tiền vay của Blomkvist, và dù cô đã thêm vào đó từng curon cô dành dụm, cô vẫn cứ bị eo hẹp. Cô thôi suy nghĩ và cảm thấy buồn ngủ gần như ngay lập tức.

    Cô thức dậy đúng vào 5 giờ sáng, tắm rồi bỏ hồi lâu ra bôi một lớp phấn và kem nhuộm da lên che vết xăm trên cổ. Mục thứ hai trong bản liệt kê những việc cần làm là 6 rưỡi sáng nay đến mỹ viện trong đại sảnh của một khách sạn đắt hơn trông thấy. Cô mua một bộ tóc giả màu vàng khác, mang kiểu tóc của cậu tiểu đồng theo hầu rồi cô đến tiệm làm móng và gắn những cái móng màu hồng lên những cái móng đã bị cô nhắm cụt.

    Cô cũng làm lông mi giả, mua thêm phấn, sáp và cuối cùng son môi cùng các mỹ phẩm khác. Vừa xoắn 8.000 curon không có trả lại.

    Cô trả bằng thẻ tín dụng có tên Monica Sholes và cô chìa hộ chiếu Anh mang cái tên này ra với họ.

    Chặng dừng sau là Nhà Thời Trang của Camille ở cuối phố. Một giờ sau cô bước ra, đi bốt đen, mặc váy màu cát với áo blu cùng tông, áo nịt đen, một jacket dài đến eo và thêm cái mũ nồi. Món nào cũng mang nhãn nhà thiết kế đắt tiền cả. Cô đã để cho các cô gái bán hàng chọn giúp. Cô cũng chọn một cặp chuyên dùng bằng da và một va li Samsonite nho nhỏ. Những nét sửa sang tôn vinh cuối cùng là cặp hoa tai kín đáo và một dây vàng đơn giản ở quanh cổ. Thẻ tín dụng đã bị khấu đi mất 44.000 curon.

    Lần đầu tiên trong đời Salander có một đường nét thân hình nó làm cho cô – khi soi vào gương cao hết cỡ - nổi hẳn ngực lên. Vú thì cũng của rởm như căn cước của Monica Sholes vậy. Chúng được làm bằng cao su latex cô mua ở Copenhagen, nơi đám giả trang thành khác giới hay mua.

    Cô sẵn sàng cho trận đánh.

    Đúng sau 9 giờ cô đi bộ qua hai khối nhà đến khách sạn Zimmertal tôn nghiêm, nơi cô đã đặt sẵn phòng với tên Monica Sholes. Cô boa hậu hĩnh cho người hầu mang va li giúp lên (trong va li có cái ba lô du lịch của cô). Chuỗi phòng thuộc loại nhỏ, giá 22.000 curon một ngày. Cô ở đó một đêm. Khi còn có một mình, cô nhìn quanh. Cô nhìn thấy quang cảnh lấp lóa của hồ Zurich và cuối cùng cũng chả có được một chút hứng thú nào. Nhưng cô đã bỏ năm phút ra ngắm mình trong gương. Cô thấy một người xa lạ hoàn toàn. Monica Sholes ngực bự, bộ tóc vàng giả của một tiểu đồng theo hầu, trang điểm nhiều hơn cả cái điều Salander mơ tưởng dùng trong cả tháng. Salander nom…khác đi.

    9 rưỡi cô ăn lót dạ ở quán bar khách sạn: hai tách cà phê và một bánh mì vòng phết mứt. Giá là 210 curon. Các dân này đầu óc có hâm không nhỉ?

    Đúng 10 giờ, Monica Sholes đặt tách cà phê xuống, mở di động, bấm vào số của một modem kết nối với Hawaii. Sau ba hồi chuông thì có tín hiệu kết nối. Modem đã được nối mạng. Monica đáp lại bằng cách bấm vào một mã khóa sáu số ở di động của cô rồi soạn một tin nhắn cho ra những chỉ dẫn để khởi động một chương trình mà Salander đã đặc biệt lập trình cho mục đích này.

    Ở Honolulu, chương trình này được kích hoạt trên một trang chủ nặc danh trên một máy tính chủ nằm chính thức ở trường đại học. Chương trình đơn giản. Chức năng duy nhất của nó là gửi đi các chỉ thị để mở một chương trình khác ở một máy chủ khác, trong trường hợp cụ thể lúc này thì máy chủ này là một IPS thương mại thông thường chuyên cung cấp các dịch vụ Internet ở Hà Lan. Chức năng của chương trình kia, đến lượt nó, là tìm kiếm cái đĩa cứng thuộc về Hans-Erik Wennerstrom vốn đã được sao lại rồi điều khiển chương trình cho hiện lên nội dung của xấp xỉ 3.000 tài khoản ngân hàng của lão rải quanh thế giới.

    Chỉ có một tài khoản có một ý nghĩa nào đó. Salander nhận xét thấy Wennerstrom mỗi tuần nhòm vào nó hai lần. Nếu lão mở máy tính của lão để nhìn xem hồ sơ đặc biệt này thì mọi sự sẽ hiện ra bình thường. Chương trình cho thấy những thay đổi nho nhỏ vốn đã được chờ đợi, dựa trên những dao động bình thường trong tài khoản trong vòng sáu tháng vừa qua. Nếu trong vòng bốn mươi tám giờ tới Wennerstrom vào đây yêu cầu tài khoản chi trả hay chuyển ngân thì chương trình sẽ y phép báo cáo rằng việc đó đã được hoàn thành. Trong thực tế, sự thay đổi sẽ chỉ diễn ra trên cái đĩa cứng bản sao ở Hà Lan mà thôi.

    Monica Sholes tắt di động lúc cô nghe thấy bốn âm thanh ngắn xác nhận chương trình đã bắt đầu.

    Cô rời khách sạn Zimmertal, đi bộ đến Tổng Ngân hàng Hauser ở bên kia đường, nơi cô đã hẹn gặp ngài Wagner, Tổng giám đốc vào 10 giờ. Cô đến trước hẹn ba phút, bỏ quãng giờ chờ này ra đứng trước camera theo dõi an ninh, nó chụp hình cô khi cô đi vào bộ phận có các văn phòng dành cho các tư vấn bí mật.

    - Tôi cần giúp đỡ cho một số vụ giao dịch. – Cô nói bằng thứ tiếng Anh của trường đại học Oxford.

    Khi mở cặp, cô để rơi cây bút của khách sạn Zimmertal. Ngài Wagner bèn lịch sự nhặt lên đưa cho cô. Cô mỉm cười hóm hỉnh với ông ta rồi viết con số tài khoản lên một tệp giấy ở trước mặt cô trên bàn làm việc.

    Ngài Wagner xếp loại cô là loại gái hư nhà giàu hay em bé của một đại gia nào đó.

    - Có một con số tài khoản ở Ngân hàng Kroenenfeld tại quần đảo Cayman. Có thể dùng các mã khóa vượt từng chặng rào chắn để tự động chuyển ngân được. – Cô nói

    - Thưa cô tiểu thư Sholes, tiểu thư dĩ nhiên đã có các mã khóa vượt các chặng? – Ông ta hỏi.

    - Aber naturlich 2, - Cô đáp với một cái giọng nặng cho thấy rõ cô chỉ là tiếng Đức ở trình độ nhà trường.

    Cô bắt đầu đọc veo veo mấy loạt con số với những mười sáu chữ số mà chả cần thò ra bất cứ một thứ giấy tờ nào. Ngài Wagner thấy sắp sửa sẽ là một buổi sáng dài lê thê, nhưng với mức hoa hồng 4% cho các giao dịch thì ngài sẵn sàng bỏ bữa trưa và ngài sẽ sắp phải duyệt xét cái hộc tủ của ngài vì quý cô Sholes.

    Mãi đến quá trưa cô mới rời Tổng Ngân hàng Hauser, hơi muộn hơn kế hoạch, rồi đi bộ về Zimmertal. Cô xuất hiện ở quầy tiếp tân rồi lên phòng cởi các quần áo cô đã mua. Cô giữ nguyên bộ vú cao su nhưng thay bộ tóc cậu tiểu đồng bằng bộ tóc dài chấm vai của cô Irene Nesser. Cô mặc vào các áo quần quen thuộc hơn: bốt với gót đinh, quần đen, sơ mi giản dị và jacket da đẹp mua ở Malungsboden tại Stockholm. Cô quan sát mình trong gương. Không hề búi xùi tí nào nhưng cô không còn cái vẻ một cô gái thừa kế nữa. Trước khi Irene Nesser rời phòng, cô chọn một số kỳ phiếu cho vào một cái ví mỏng.

    1 giờ 05, muộn hơn hẹn vài phút, cô đến ngân hàng Dorffmann, ở cách Tổng Ngân hàng Hauser chừng năm chục mét. Irene Nesser đã hẹn trước gặp ngài Hasselmann. Cô xin lỗi đến muộn. Cô nói thứ tiếng Đức tuyệt vời pha giọng Na Uy.

    - Không hề gì thưa quý cô. – Ngài Hasselmann nói. – Tôi có thể giúp được dịch vụ gì ạ?

    - Tôi muốn mở một tài khoản. Tôi có một số kỳ phiếu của riêng tôi mà tôi muốn chuyển khoản.

    Irene để chiếc cặp lên bàn làm việc ở trước mặt ông ra.

    Ngài Hasselmann xem xét nội dung để trong cặp, thoạt tiên nhanh rồi chậm dần. Ông nhướng một lông mày lên rồi mỉm cười lịch sự.

    Cô mở năm tài khoản có đánh số mà cô có thể vào qua Internet và do một công ty ma rõ ràng vô danh ở Gibraltar sở hữu. Lập chúng cho cô, một người môi giới đã được 50.000 curon trong số tiền cô vay của Blomkvist. Cô lấy một nửa các kỳ phiếu bằng tiền mặt rồi gửi tiền vào các tài khoản. Mỗi kỳ phiếu đăng giá tương đương một triệu curon.

    Công việc làm ở ngân hàng Dorffmann bị mất nhiều thời gian hơn là dự tính, nên cô không có cơ hội trông nom đến các giao dịch cuối cùng của cô trước khi các ngân hàng đóng cửa trong ngày. Cho nên Irene Nesser quay lại khách sạn Matterhorn, xác lập sự có mặt của cô bằng các la cà quẩn quanh một giờ đồng hồ ở đấy. Nhưng bị nhức đầu cô lên giường sớm. Cô mua ít aspirin ở quầy lễ tân và nhắc gọi cô dậy lúc 8 giờ sáng. Rồi cô trở về phòng.

    Đã sắp 5 giờ chiều và các ngân hàng ở châu Âu đều đã đóng cửa. Nhưng các ngân hàng ở Bắc và Nam Mỹ vẫn mở. Cô mở PowerBook, nối nó với Net qua di động của cô. Cô bỏ một giờ ra làm cho các tài khoản có đánh số cô mở sáng nay ở Ngân hàng Dorffmann hóa thành rỗng không.

    Cô chia tiền ra thành những khoản nhỏ, dùng nó để thanh toán các hóa đơn cho một số các công ty phịa ra ở trên khắp thế giới. Khi việc này xong, khá kỳ lạ là tiền sẽ được chuyển trở lại về Ngân hàng Kroenenfeld ở quần đảo Cayman, nhưng lần này đến một tài khoản hoàn toàn khác với cái tài khoản mà nó đã được rút ra từ đấy sáng hôm nay.

    Irene Nesser cho rằng giai đoạn thứ nhất này là an toàn và gần như không thể dò ra manh mối. Cô làm một thanh toán tài khoản: món tiền gần một triệu curon được chuyển vào một tài khoản gần với một thẻ tín dụng mà cô có trong ví. Chủ tài khoản là công ty Ong Vò Vẽ ở Gibraltar.

    Mấy phút sau, một cô gái với mái tóc tiểu đồng màu vàng rời Matterhorn bằng một cửa vào quán bar của khách sạn. Monica Sholes đi bộ tới khách sạn Zimmertal, gật đầu lịch sự với nhân viên quầy lễ tân rồi bắt thang máy lên phòng cô.

    Ở đây cô bỏ thì giờ để mặc bộ đồ tác chiến của Monica Sholes vào, sửa sang lại trang điểm, bôi một lớp kem màu da lên hình xăm rồi xuống nhà hàng của khách sạn làm một bữa tối với cá ngon tuyệt nhưng đắt rồ dại. Cô gọi một chai vang nổi tiếng mà cô chưa từng nghe nói đến trước đây. Tuy nó giá những 1.200 curon cô uống có một cốc rồi bỏ đấy chỗ còn lại mà lừng khừng đi vào quán bar của khách sạn. Cô boa cao quá quắt, điều chắc chắn khiến cho đám nhân viên để ý đến cô.

    Cô bỏ ra một lúc lâu cho phép một chàng trai Ý say xỉn với một tên họ quý tộc mà cô chả bõ công nhớ làm gì kéo đi. Hai người chia nhau hai chai champagne mà cô chỉ làm có gần một cốc.

    Khoảng 11 giờ, anh chàng ngộ độc rượu theo đuổi cô ngã chúi về cô và chụp lấy vú cô bóp mạnh. Cô đưa tay anh ta xuống gầm bàn, cảm thấy vui. Hình như anh chàng không nhận ra mình đang bóp cao su mềm. Đôi lúc họ quá ồn làm cho các vị khách khác thấy khó chịu nhất định. Ngay trước nửa đêm, khi Monica Sholes để ý thấy nhân viên mở cửa ở gian sảnh đang lạnh lùng nhìn hai người thì cô đỡ anh bạn trai Ý lên phòng.

    Khi anh chàng vào buồng tắm, cô rót ra một cốc vang cuối cùng. Cô mở một mẩu giấy gấp, pha vào rượu một viên thuốc ngủ Rohypnol đã nghiền nhỏ. Anh chàng biến ra thành một đống thảm hại ở trên giường chỉ chừng một phút sau khi cô nâng cốc uống chúc mừng anh chàng. Cô nới cà vạt anh ra, cởi giầy rồi kéo một mảnh chăn lên anh ta. Cô lau sạch chai rượu, rửa những cái cốc ở trong buồng tắm rồi lau khô chúng trước khi quay về phòng cô.

    Monica Sholes ăn sáng ở trong phòng lúc 6 giờ và làm thủ tục rời khách sạn Zimmertal lúc 6 giờ 55. Trước khi đi, cô bỏ năm phút lau chùi các vân tay trên tay nắm cửa, tủ quần áo, toalet, điện thoại và các thứ đồ dùng khác ở trong phòng mà cô đã chạm tới.

    Irene Nesser làm thủ tục rời khách sạn Matterhorn quãng 8 rưỡi, ngay sau khi có gọi báo thức. Cô gọi taxi và để hành lý trong một hộc tủ an toàn tại ga tàu. Rồi cô bỏ chỗ thời gian còn lại đi thăm chín ngân hàng tư nhân, tại những chỗ này cô đem phân chia một số kỳ phiếu cá nhân từ quần đảo Cayman. 3 giờ chiều, cô đã chuyển hoàn được cỡ 10 phần trăm các kỳ phiếu ra thành tiền mặt mà cô đem đặt vào ba chục tài khoản có đánh số. Chỗ kỳ phiếu còn lại cô gói lại và để vào trong một két ký gửi an toàn.

    Irene Nesser sẽ còn cần đến Zurich vài chuyến nữa nhưng không phải là chuyện gấp cần làm ngay.

    4 rưỡi chiều, Irenen Nesser ngồi taxi ra sân bay, ở đây cô vào toalet nữ cắt vụn nát tấm hộ chiếu Monica Sholes ra rồi xối nước bồn cầu cho trôi hết. Thẻ tín dụng cô cũng cắt ra và bỏ các mẩu vụn vào năm thùng rác khác nhau. Cả cái kéo nữa. Sau ngày 11 tháng Chín trong hành lý có một vật sắc nhọn để gây sự chú ý là một cái ý chả hay ho gì.

    Irene Nesser đáp chuyến bay GD890 của Lufthasa đi Oslo rồi lên xe bus của hãng hàng không đi đến ga tàu Oslo, ở đây cô vào toalet nữ, chọn lấy lại các quần áo của cô. Cô để mọi khoản thuộc về nhân thân Monica Sholes – bộ tóc giả cậu tiểu đồng và quần áo loại hàng thiết kế vào trong ba túi chất dẻo rồi ném chúng vào ba xe thùng cùng sọt đổ rác khác nhau ở ga xe lửa. Cô để chiếc va li Samsonite rỗng vào trong một két không khóa. Sợi dây chuyền vàng và cặp hoa tai là đồ kim hoàn sang trọng có thể bị dò ra thì được cho biến mất vào trong cống ở một đường phố bên ngoài nhà ga.

    Sau một lúc do dự e ngại, Irene Nesser quyết định giữ bộ vú giả bằng cao su.

    Đến lúc này cô không có nhiều thời gian, cô nạp một ít năng lượng dưới hình thức ăn một hamburger McDonald trong khi chuyển các thứ trong chiếc cặp da sang trọng sang cái ba lô du lịch. Khi cô rời đi, chiếc cặp da vẫn ở bên dưới gầm bàn. Cô mua cà phê ở một ki ốt rồi chạy để bắt kịp chuyến tàu đêm đi Stockholm. Cô đến vừa lúc cửa tàu đang đóng lại. Cô đã đặt trước một giường ngủ riêng.

    Khi khóa cửa khoang tàu lại, lần đầu tiên trong hai ngày cô có thể cảm thấy mức adrenalin của mình đã trở lại bình thường. Cô mở cửa sổ khoang tàu và mặc kệ nội quy cấm hút thuốc lá. Cô đứng ở đây nhâm nhi cà phê trong khi con tàu lăn bánh ra khỏi Oslo.

    Cô rà lại các bản ghi các việc cần làm để cầm chắc đã không bỏ quên mất chi tiết nào. Một lúc sau, cô cau mặt, lục đảo trong các túi jacket và lấy ra cây bút của khách sạn Zimmertal biếu khách, ngắm nó vài phút rồi liệng nó qua cửa sổ.

    Mười lăm phút sau, cô leo lên giường ngủ vùi.
    --------------------------------
    1Đêm ngày 1 tháng Năm, người Thụy Điển thường đốt những đống lửa lớn thâu đêm 2Tiếng Đức – tất nhiên rồi

  9. #38
    Join Date
    Sep 2010
    Bài Viết
    51,775
    Thanks
    1
    Được Cám Ơn 26 Lần
    Trong 26 Bài Viết
    KHÓA SỔ

    Thứ Năm, 27 tháng Mười một
    Thứ Ba, 30 tháng Mười hai

    Tuần cuối cùng của tháng Mười một, bài tường thuật về Hans-Erik Wennerstrom chiếm hết bốn mươi sáu trang của Millennium nổ như một quả bom hẹn giờ. Bài báo chính xuất hiện dưới tên của Mikael Blomkvist và Erila Berger. Trong những giờ đầu tiên, giới truyền thông đại chúng không biết xoay xở ra sao với cái tin sốt dẻo giật gân này. Đúng một năm trước đây, một chuyện tương tự đã đưa Blomkvist đến chỗ bị khép án vu cáo và xem vẻ nó cũng đưa anh đến chỗ từ chức ở Millennium. Vì lẽ đó uy tín của anh coi như đã tụt xuống khá thấp. Nay lại tạp chí này trở lại với một bài báo cũng của nhà báo đó nhưng đưa ra nhiều điều vạch tội nghiêm trọng hơn so với bài báo nó từng khiến phải lâm vào cảnh quá ư rối ren. Một số chỗ trong bài báo còn quá phi lý đến độ như thách đố luôn cả lẽ phải thông thường. Giới thông tin đại chúng Thụy Điển ngồi chờ, bụng đầy ngờ vực.

    Nhưng tối ấy, She trên TV4 cho ra một tóm lược dài mười mộ phút những nét chính trong các lời buộc tội của Blomkvist. Berger đã ăn trưa với phát thanh viên truyền hình vài ngày trước đó và cho cô ta được đặc quyền lên tiếng sớm nhất.

    Miêu tả sơ sài nhưng mạnh bạo của TV4 đã vượt trước các kênh truyền hình của nhà nước, mãi tới buổi tin 9 giờ chúng mới leo lên cổ xe chiêng trống cổ động. Lúc đó hãng tin TT cũng phát đi bài báo đầu tiên của nó với đầu đề thận trọng: NHÀ BÁO BỊ ÁN TÙ ĐANG LÊN ÁN NHÀ TÀI CHÍNH VỀ NHIỀU TỘI ÁC NGHIÊM TRỌNG. Bài này là viết theo lại bài trên tivi nhưng sự thật thì đề tài này đã được TT nhắm gửi cho mọi hành động xổng xiềng sôi sục ở tờ báo buổi sáng của đảng Bảo thủ cũng như ở hàng chục báo địa phương lớn hơn khi họ xếp đặt các trang nhất trước lúc cho máy in chạy. Cho tới lúc đó, các báo vẫn ít nhiều quyết định lờ đi các lý lẽ lên án của Millennium.

    Tờ báo buổi sáng của đảng Tự do bình luận tờ báo giật gân của Millennium dưới dạng một bài xã luận, do Tổng biên tập viết vào đầu buổi chiều. Rồi Tổng biên tập đi ăn tiệc tối khi TV4 bắt đầu phát chương trình tin tức. Lời kêu gọi bộc trực của viên thư ký “có thể có một cái gì đó” trong những điều Blomkvist viết đã bị ông bỏ ngoài tai bằng những câu chuyện về sau nổi tiếng là: “Vô lý – nếu có thì các phóng viên tài chính của chúng ta phải phát hiện ra từ lâu rồi chứ”. Kết quả là bài xã luận của ông Tổng biên tập báo đảng Tự do trở thành tiếng nói truyền thông duy nhất mạt sát các tuyên bố của Millennium. Bài xã luận có những câu như rửa hận cá nhân, nghề báo lăng nhăng đến mức tội lỗi rồi yêu cầu áp dụng những biện pháp chống lại những ám chỉ phạm pháp liên quan đến những công nhân tử tế. Nhưng trong toàn bộ cuộc tranh luận thì đó là đóng góp duy nhất mà vị Tổng biên tập đưa ra.

    Đêm ấy tòa soạn Millennium đầy đủ nhân sự. Theo kế hoạch thì chỉ Berger và giám đốc trị sự mới, Malin Eriksson mới cần trực ở tòa báo để nhận các cuộc gọi. Nhưng vào lúc 10 giờ thì tất cả anh chị em đều có mặt, cả không dưới bốn nguyên ủy viên biên tập và năm sáu cây bút tự do thường xuyên hợp tác cũng đến với họ. Nửa đêm, Malm mở một chai champagne. Ngay lúc ấy, một chốn quen biết cũ gửi đến một bản sao in thử của một trong những tờ báo chiều, nó dành mười sáu trang cho vụ Wennertrom với đầu đề MAFIA TÀI CHÍNH. Hôm sau khi tờ báo ra mắt, liền nổ ra một trận đại náo trong giới truyền thông.Trước đây hiếm thấy chuyện tương tự thế này. Malin Eriksson kết luận là làm việc ở Millennium thì sẽ thú vị đây.

    Trong tuần tiếp theo, Thị trường Chứng khoán Thụy Điển lắc lư rung chuyển khi cảnh sát chống gian lận chứng khoán bắt đầu điều tra, các công tố viên được triệu tập và người ta hốt hoảng nhào đi bán chứng khoán. Hai hôm sau, Bộ Thương mại cho đăng lên tuyên bố về “vụ Wennerstrom”.

    Nhưng cơn hoảng loạn không có nghĩa là giới truyền thông nuốt không phê phán những tuyên bố của Millennium – những điều bị phanh phui ra đều quá nghiêm trọng để cho người ta có thể dễ dàng mà nhận lấy chúng. Nhưng không giống với vụ Wennerstrom đầu tiên, lần này Millennium có thể trình làng một loạt những bằng chứng: các email của chính Wernnerstrom, bản sao các nội dung trong máy tính của lão, chúng gồm các giấy tờ thanh toán về các tài sản ngân hàng bí mật ở quần đảo Cayman cùng ở hơn hai chục nước khác nữa, những thỏa ước bí mật, và những sai lầm ú ớ mà một tay làm tiền thận trọng hơn sẽ chẳng bao giờ trong đời lại đem để vào đĩa cứng. Nhanh chóng thấy được rằng nếu các tuyên bố của Millennium đứng vững ở tòa phúc thẩm – mà ai cũng đồng tình rằng sớm muộn vụ này cũng đi đến đó – thì đây sẽ là vụ bong bóng bục vỡ lớn nhất trong thế giới tài chính Thụy Điển kể từ vụ phá sản năm 1932 của Kreuger. So với vụ Wernerstrom, tất cả các vụ lôi thôi rắc rối của Gotabank và các trò gian lận của Trustor đều là nhợt nhạt xanh xao hết. Đây là chuyện gian lận ở một quy mô lớn mà không ai dám suy luận xem bao nhiêu pháp luận đã bị nó phá vỡ.

    Lần đầu tiên trong giới báo chí tài chính Thụy Điển người ta bắt đầu dùng đến các thuật ngữ “tội ác có tổ chức”, “mafia”, “đế chế găngxtơ”. Wernnerstrom và đám trai trẻ buôn bán chứng khoán của lão, đám đối tác của lão, đám luật sư ăn mặc rặt hàng hiệu Armani của hắn hiện ra là một bầy lưu manh đầu gấu.

    Trong những ngày truyền thông đại náo đầu tiên, người ta không thấy tăm dạng Blomkvist đâu. Anh không trả lời email, cũng không thể liên hệ được bằng điện thoại. Mọi bình luận của ban biên tập nhân danh Millennium đều do Berger đưa ra, cô rên cò cứ như một con mèo khi được hãng truyền thông quốc gia Thụy Điển và những tờ báo địa phương quan trọng phỏng vấn, cuối cùng thì gồm cả giới truyền thông nước ngoài mà số lượng thì cứ tăng dần lên. Mỗi khi được hỏi làm sao Millennium lại nắm được tất cả những tài liệu riêng tư và nội bộ kia, cô chỉ đơn giản đáp lại là cô không thể tiết lộ nguồn tin của tạp chí.

    Khi được hỏi tại sao năm trước bài báo viết về Wernnerstrom lại thảm bại đến thế, cô lại càng bí ẩn. Cô không nói dối bao giờ nhưng không phải lúc nào cũng nói hết ra sự thật. Khi không có một micro ở dưới mũi thì cô xin miễn ghi chép, cô có thể lầm rầm vài ba câu khó hiểu mà nếu đem chắp vá chúng lại thì sẽ dẫn tới những kết luận chẳng ra đâu vào đâu.

    Bởi thế đã đẻ ra một tin đồn sớm mang tầm vóc dã sử cho rằng Mikael Blomkvist không hề cãi tí nào ở phiên tòa xét xử anh và chịu thụ án tù cùng tiền phạt nặng nề bởi vì nếu không thì việc anh lấy tài liệu nhất định sẽ dẫn đến chỗ lộ ra nguồn tin của anh. Anh đã được ví với những mẫu nhân vật ở trong giới truyền thông Mỹ thà bị tù chứ không tiết lộ các nguồn tin của họ. Anh đã được miêu tả như một anh hùng với những từ ngữ tâng bốc đến lô bịch khiến anh cũng thấy khá là bối rối. Nhưng đây không phải là lúc phủ nhận sự hiểu lầm.

    Có một điều ai cũng tán thành: người cung cấp tài liệu phải là một người trong đám thân tín của Wernnerstrom. Điều này dẫn đến cuộc bàn bạc vậy ai là “cái lưỡi phản thùng” : các đồng sự bất mãn, các luật sư, thậm chí cô con gái nghiện cocain của chính Wennerstrom và các thành viên khác trong gia đình. Blomkvist và Erika không bình luận gì về đề tài này.

    Erika mỉm cười sung sướng, biết rằng họ đã thắng thì ngày thứ ba của cơn đại náo truyền thông, một tờ báo chiều chạy một tít lớn: Millennium phục hận. Bài báo phác họa một diện mạo về tạp chí cùng bộ sậu của nó, gồm những minh họa với một chân dung đặc biệt thuận lợi cho Berger. Cô đã được gọi là “nữ hoàng của nghề báo điều tra”. Những thứ này đã giành được điểm trong việc xếp thứ hạng của các tranh giải trí và đã có lời bàn tán đến Giải Báo Lớn.

    Năm ngày sau khi Millennium nã loạt pháo đầu tiên, quyển sách của Blomkvist Ông chủ Ngân hàng Mafia xuất hiện trong các hiệu sách. Quyển này viết ra trong những ngày sôi bỏng của tháng Chín, tháng Mười ở Sandhamn, rất khẩn cấp và trong sự bí mật tuyệt đối, nó đã được nhà xuất bản Hallvigs Reklam ở Morgongava in. Đây là quyển sách đầu tiên phát hành với logo chính ngay Millennium với dòng đề tặng kỳ lạ: Tặng Sally, người đã cho tôi thấy cái lợi của môn chơi golf.

    Đây là một quyển sách dễ thương, 608 trang, bìa giấy thường. Lần xuất bản đầu tiên là 2.000 cuốn cuối cùng đã bị cầm chắc sai về số lượng nhưng đã bán hết veo trong hai ngày và Berger đã đặt in 10.000 cuốn nữa.

    Các nhà điểm sách kết luận rằng phen này muốn gì thì Blomkvist cũng không có ý định giữ bí mật bởi lẽ đây là chuyện phát hành ra những tham phiếu rộng khắp về nguồn tin. Ở mặt này họ đúng. Hai phần ba quyển sách gồm các phụ lục là những bản sao đích thực về tài liệu lấy ở máy tính của Wennerstrom ra. Cùng lúc phát hành quyển sách, Millennium chuyển các văn bản trong máy tính Wernnerstrom thành file PDF và đưa lên trang mạng của tờ tạp chí để dùng làm tư liệu nguồn.

    Việc Blomvist vắng mặt khác thường là một phần của chiến lược truyền thông mà anh và Erika đã đặt ra. Tất cả báo chí trong nước đang tìm anh. Mãi đến khi tung quyển sách ra rồi anh mới cho She trên TV4 được phỏng vấn đặc biệt anh, lại một lần nữa có một tin giật gân trước các đài truyền hình nhà nước. Nhưng vấn đề chỉ là chuyện tâng bốc.

    Blomkvist đặc biệt thích một cuộc tranh luận khi anh xem một video về sự ra mắt của anh. Cuộc phỏng vấn được truyền đi trực tiếp vào đúng lúc Thị trường Chứng khoáng Thụy Điển đang tự thấy nó lao dốc không phanh và một dúm các cốt cán trẻ của ngành tài chính thì đang dọa quăng mình ra ngoài cửa sổ. Người ta hỏi anh việc nền kinh tế Thụy Điển đang hướng đến chỗ sụp đổ thì trách nhiệm của Millennium là gì.

    - Nghĩ nền kinh tế Thụy Điển đang đi đến sụp đổ là vớ vẩn. – anh nói.

    Nhà đài She trên Tv4 nom lúng túng. Theo dự kiến, cô không chờ đợi anh trả lời như thế nên cô buộc phải ứng tác. Thế là Blomkvist nhận được một câu hỏi mà anh mong muốn.

    - Chúng ta đang trải qua một cuộc rơi rớt đầu tiên và lớn nhất trong lịch sử của Thị trường Chứng khoán mà ông lại nói là vớ vẩn ư?

    - Cô nên phân biệt giữa hai cái – nền kinh tế Thụy Điển và Thị trường Chứng khoán Thụy Điển. Kinh tế Thụy Điển là tổng của mọi hàng hóa và dịch vụ mà đất nước này đang hàng ngày sản xuất ra. Có điện thoại của Ericsson, xe hơi của Volvo, gà quay của Scan,và tàu biển của Kiruna ở Skovde. Đó là nền kinh tế Thụy Điển, hôm này nó cũng mạnh hay yếu y như nó ở trong tuần trước mà thôi.

    Ngừng lại cho có hiệu quả, anh nhấm một ngụm nước.

    - Thị trường Chứng khoán là một cái rất khác. Không có kinh tế, không có sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Chỉ có những sự mê ảo mà ở trong đó từng giờ người ta quyết định công ty nào đáng giá ít nhiều bao nhiêu tỉ. Nó không dính dáng gì với hiện thực hay với nền kinh tế Thụy Điển sất.

    - Cho nên ông nói Thị trường Chứng khoán có rơi như cục đất thì cũng chả hề hấn gì?

    - Vâng, chả hề hấn gì.

    Blomkvist nói, giọng quá yếu ớt và nhẫn nhịn đến nỗi nghe nó giống như một kiểu sấm truyền. Người ta sẽ còn dẫn những lời này của anh trong nhiều năm sau. Rồi anh nói tiếp.

    - Nó chỉ có nghĩa là một bọng những kẻ đầu cơ kếch xù đang chuyển cổ phần của chúng từ các công ty Thụy Điển sang các công ty Đức. Cho nên một số phóng viên có bản lĩnh hãy nên nhận diện và phơi bày các ông trùm tài chính là những kẻ phản bội. Họ chính là những người làm thiệt hại có hệ thống và có thể là cố ý nền kinh tế Thụy Điển nhằm thỏa mãn những thích thú kiếm lợi của các thân chủ của họ.

    Lúc ấy She trên TV4 bèn phạm sai lầm bằng việc hỏi một câu đúng như Blomkvist chờ đợi.

    - Vậy nên ông nghĩ giới truyền thông là không có một trách nhiệm gì hết?

    - À không. Truyền thông có trách nhiệm lớn. Ít nhất trong hai chục năm, nhiều phóng viên đã nhịn không theo dõi kỹ Hans-Erik Wennerstrom. Ngược lại, họ đã thật sự giúp xây dựng uy tín của ông ấy bằng cách phát hành những chân dung giống như thần tượng, không trí não. Nếu họ làm đúng đắn công việc của họ thì chúng ra sẽ không bị rơi vào trong tình thế như thế này.

    Việc Blomkvist ra mắt đánh dấu một bước ngoặt. Nghĩ lại Erika đã chịu rằng chỉ khi Blomkvist lên tivi bình tĩnh bảo vệ những điều anh tuyên bố thì, tuy sự thất là Millennium chiếm mất hết các tít lớn suốt tuần, giới truyền thông Thụy Điển mới thừa nhận bài báo là đã trụ vững. Thái độ của anh đã đặt ra hướng tiến triển của bài báo.

    Sau cuộc phỏng vấn, vụ Wennerstrom trượt kín đáo từ khu vực tài chính sang bàn làm việc của các phóng viên chuyên viết về tội phạm hình sự. Trước kia, các phóng viên về tội ác thông thường ít hay không bao giờ viết về tội phạm hành chính trừ phi nó liên quan đến đám lưu manh Nga hay bọn người Nam Tư buôn lậu thuốc lá. Các phóng viên tội phạm không chờ đợi điều tra những vụ án rắc rối trên Thị trường Chứng khoán. Một tờ báo chiều còn theo lời Blomkvist cho đầy hai trang báo liền nhau chân dung của mấy tay chơi quan trọng nhất của các nhà cò đang mua chứng khoán Đức. Tít của hai trang báo này là HỌ ĐANG BÁN ĐỨNG ĐẤT NƯỚC. Tất cả các dân cò đều được phỏng vấn về ám chỉ này. Cò nào cũng thoái thác. Nhưng hôm ấy việc buôn bán cổ phiếu giảm đi đáng kể, một vài cò muốn ra vẻ yêu nước tiến bộ đã bắt đầu bơi ngược dòng, Blomkvist phá ra cười.

    Sức ép lớn đến độ một số người âm thầm ở trong những bộ quần áo tối màu đã trình ra một vẻ quan ngại và phá vỡ quy tắc quan trọng nhất của cái câu lạc bộ riêng biệt tạo nên các nhóm nhỏ ở trong gan ruột nền tài chính Thụy Điển là đi bình luận về một đồng nghiệp. Thình lình tất cả các nhà lãnh đạo công nghiệp đã về hưu, tất cả các chủ tịch ngân hàng đều xuất hiện trên tivi, trả lời với ý đồ kiểm soát sự tổn thất. Vấn đề bây giờ là giữ cho mình ở xa Tập đoàn Wennerstrom cành nhanh càng tốt và tống tháo đi bất cứ cổ phần nào họ có thể nắm. Dẫu sao, Wennerstrom – họ kết luận – cũng không phải là một nhà công nghiệp thứ thiệt, lão chưa hề được thật sự chấp nhận vào trong “câu lạc bộ” bao giờ. Vài người còn chỉ ra lão chính là một cậu nhỏ thuộc giai cấp lao động xuềnh xoàng ở Norland mà rồi có lẽ thành công đã làm cho đầu óc tớn bốc lên như thế. Vài người tả hành động của lão như một bi kịch cá nhân. Một số người khác phát hiện ra là mình đã nghĩ Wennerstrom đến cả hàng năm nay rồi – lão quá huênh hoang phét lác, lên mặt ta đây

    Trong các tuần tiếp theo, khi công việc thu thập tài liệu của Millennium đã được soi dõi, tách rời riêng rẽ rồi lại gá lắp lại thì ra đế chế Wennerstrom của các công ty tăm tối đã kết nối với mafia quốc tế, bao gồm mọi thứ, từ buôn lậu vũ khí và rửa tiền cho các cácten ma túy Nam Mỹ đến ngành đĩ điếm ở New York và thậm chí cả buôn bán tình dục trẻ em ở Mexico. Một công ty Wennerstrom đăng ký mua uranium đã làm giàu ở chợ đen tại Ukraine. Wennerstrom xem ra đã cung cấp không thể cạn cho các công ty mờ ám gắn nối với mọi doanh nghiệp bí ẩn và việc cung cấp này hình như đang nảy nở ra ở mọi nơi.

    Berger nghĩ quyển sách là những trang viết hay nhất mà Blomkvist từng có xưa này. Về văn phong nó không nhất quán, còn có những chỗ viết khá nghèo nàn – không có thì giờ nào để cho mà trau chuốt – nhưng môt lòng cuồng nộ đã làm cho quyển sách sống động và điều này thì độc giả nào cũng có thể để ý thấy.

    Tình cờ Blomkvist bắt gặp kẻ kình địch cũ, tay cựu phóng viên tài chính William Borg, ở trước Kvarnen khi Blomkvist, Erika và Malm nghỉ tối để ăn mừng lễ Santa Lucia cùng với anh chị em trong tạp chí bằng cách ra ngoài uống vô hồi bằng tiền của Millennium, bạn đi cùng của Borg là một cô gái say bí tỉ, trạc tuổi Salander.

    Sự căm ghét của Blomkvist với Borg lù lù hiện lên mặt. Erika nắm lấy cánh tay Blomkvist dẫn anh tới quầy bar đẻ chặn cái tư thế kiêu hùng lại.

    Blomkvist quyết định khi có cơ hội anh sẽ nhờ Salander điều tra Borg một trận. Chỉ vì nghi thức mà thôi

    Trong suốt trận bão truyền thông, nhân vật chính của tấn kịch, nhà tài chính Wennerstrom gần như không thấy xuất hiện. Hôm Millennium đăng bài báo kia, nhà tài chính buộc phải bình luận về nó ở một cuộc họp báo vốn được triệu tập cho mục đích khác. Ông tuyên bố các ám chỉ không có cơ sở, các tài liệu tham chiếu đều là ngụy tạo. Ông nhắc mọi người nhớ lại rằng chỉ một năm trước thôi, cũng phóng viên này từng bị tòa án kết tội vu cáo.

    Sau đó các luật sư của Wennerstrom trả lời giới truyền thông. Hai hôm sau quyển sách của Blomkvist ra mắt, một tin đồn dai dẳng bắt đầu lan truyền rằng Wennerstrom đã rời Thụy Điển. Tờ báo chiều dùng chữ “chạy trốn”. Trong tuần thứ hai, khi cảnh sát chống gian lận chứng khoán cố tiếp xúc Wennerstrom thì không tìm ra lão ở đâu nữa. Giữa tháng Mười hai, cảnh sát xác nhận Wennerstrom đã bị truy nã chính thức và vào ngày hôm trước Năm Mới, một bản thông báo truy nã đã được gửi qua các tổ chức cảnh sát quốc tế. Cũng ngày hôm đó, một trong những cố vấn của Wennerstrom bị bắt ở sân bay Arianda khi ông ta lên máy bay đi London.

    Mấy tuần sau nữa, một người du lịch Thụy Điển báo cáo đã trông thấy Wennerstrom vào một xe hơi ở Bridetown, thủ đô của Barbados. Coi là bằng chứng, ông nộp một bức ảnh, chụp từ khá xa, cho thấy một người đàn ông da trắng đeo kính râm, mặc sơ mi trắng hở ngực với cái quần loàng xoàng sáng màu. Không nhận diện chắc chắn được ra lão nhưng tờ báo chiều đã tiếp xúc với các nhà báo ngoài luồng để cố dò tung tích nhà tỉ phú bỏ trốn song không có kết quả.

    Sáu tháng sau, cuộc truy lung đình lại. Lúc ấy người ta tìm thấy Wennerstrom chết trong một căn nhà tại Marbella, Tây Ban Nha, lão sống ở đây dưới cái tên Victor Fleming. Lão bị bắn ba phát sát sạt vào đầu. Cảnh sát Tây Ban Nha cho ra một lập luận, rồi họ tuyên bố lão đã bất chợt gặp phải một tên trộm đột nhập vào nhà.

    Với Salander cái chết của Wennerstrom chả có gì đáng ngạc nhiên. Với lý do xác đáng, cô ngờ rằng cái chết này liên quan đến việc lão không còn tiếp cận được nữa với tiền của hắn ở một số ngân hàng tại quần đảo Cayman, tiền hắn cần có để thanh toán một số nợ ở Colombia.

    Nếu ai đó nhờ Salander dò lõng Wennerstrom, cô có thể từng ngày bảo họ chỗ hắn đang ở. Qua Internet cô đã theo dõi chuyến bay của lão qua cả hàng chục nước và nhận thấy thất vọng cứ lớn dần lên ở trong các email của lão. Ngay cả Blomkvist cũng không ngờ lão tỉ phú trốn chạy lại đủ ngu đến độ ẵm theo cả chiếc máy tính đã bị đột nhập tanh bành của lão.

    Sau sáu tháng theo dõi Wennerstrom, Salander mỏi mệt. Câu hỏi còn lại cần được trả lời là cô nên để cho mình dính líu xa tới đâu. Wennerstrom rõ ràng là một loại đê tiện cỡ Thế vận hội nhưng lão không phải kẻ thì của cá nhân cô và cô chả có lợi gì trong việc đem thân đi chống lại hắn. Cô có thể mách nước cho Blomkvist nhưng anh chẳng qua cũng chỉ đăng lên một bài báo thế thôi. Cô có thể mách nước cảnh sát nhưng hoàn toàn lại có cơ Wennerstrom sẽ được báo trước rồi lại biến. Ngoài ra theo nguyên tắc, cô không nói chuyện với cảnh sát.

    Nhưng có những món nợ khác cần phải trả. Cô nghĩ đến người hầu gái mang bầu bị dìm đầu xuống nước trong bồn tắm của chính nhà mình.

    Trước khi Wennerstrom chết bốn ngày, cô quyết định. Cô mở di động gọi một luật sư ở Miami, người có vẻ là một trong số những người mà Wennerstrom đang hết sức cố giấu tung tích của lão. Cô nói chuyên với một thư ký và yêu cầu cô chuyển cho một tin nhắn cụt lủn. Tên Wennerstrom và địa chỉ Marbella. Cần có thế thôi.

    Cô tắt buổi tin tivi đang phát dở một tường thuật li kì về cái chết của Wennerstrom. Cô pha ít cà phê và dọn bữa lót dạ cho mình – một miếng sandwich patê gan với dưa chuột.

    Erika và Malm trông coi việc sửa soạn lễ Giáng sinh hàng năm trong khi Blomkvist ngồi trên ghế của Erika, uống rượu glogg và coi hai người. Tất cả nhân viên tòa soạn và các cây bút tự do cộng tác thường xuyên đều có quà Noel – năm nay là một túi xách có in logo của nhà xuất bản Millenium mới. Sau khi gói ghém quà xong họ ngồi viết và dán tem 200 thiếp để gửi đi cho các công ty in ấn, nhiếp ảnh gia cùng các đồng nghiệp trong ngành truyền thông đại chúng.

    Một lúc quá lâu Blomkvist đã cố nén đi cái ý muốn này nhưng cuối cùng anh không thể cưỡng lại. Anh nhặt lấy tấm thiệp sót lại cuối cùng rồi viết: Chúc Giáng sinh vui vẻ và Năm mới tốt đẹp. Cảm ơn những cố gắng tuyệt vời của anh trong năm qua.

    Anh ký tên và gửi tấm thiệp cho Janne Dahlman, nhờ tòa soạn của tạp chí Monopoly Financial chuyển hộ.

    Tối ấy, khi Blomkvist về nhà, có một tin nhắn báo anh có một gói bưu phẩm. Sáng hôm sau anh đi nhận và mở nó ra trên đường đến tòa soạn. Trong bưu phẩm có một que hương đốt muỗi và một chai rượu aquavit Reimersholms. Tấm thiệp viết: Nếu anh không có kế hoạch khác, tôi sẽ cập cầu tàu Arholma vào lễ Giữa Mùa hè. Ký tên Robert Lindberg.

    Theo lệ, tòa báo Millennium nghỉ suốt từ trước lễ Giáng sinh một tuần cho đến hết lễ Năm Mới. Năm nay không thế. Cái tòa soạn nhỏ bé đã gồng hết sức lên mà các nhà báo từ khắp nơi trên thế giới vẫn cứ hàng ngày gọi đến. Trước đêm Noel, gần như tình cờ Blomkvist đọc được bài báo trên tờ Financial Times tóm tắt lại các phát hiện của hội đồng ngân hàng quốc tế vừa được vội vã lập ra để xem xét việc đế chế Wennerstrom sụp đổ. Bài báo nói hội đồng đã nghiên cứu trên giả định cho rằng đến phút cuối cùng chắc đã có người mách cho Wennerstrom biết bí mật sắp bị tiết lộ đến nơi.

    Tài khoản của lão ở Ngân hàng Kroenenfeld tại quần đảo Cayman gồm 260 triệu đô la Mỹ - xấp xỉ 2 tỉ rưỡi curon Thụy Điển – đã bị vét sách một ngày trước khi Millennium đăng bài báo.

    Số tiền này đã được rải ra ở một số tài khoản mà chỉ Wennerstrom mới rút ra được. Lão không cần phải có mặt ở ngân hàng; lão chỉ đưa ra một loạt mã khóa thanh toán ra lệnh chuyển tiền đó đến bất cứ ngân hàng nào trên thế giới. Tiền đã được chuyển đến Thụy Sĩ, ở đây một nữ trợ lý đã biến nó thành những khoản vốn gửi đến các ngân hàng tư nhân vô danh. Tất cả các mã khóa thanh toán đều hợp quy cách.

    Europol, cảnh sát châu Âu, đã phát động cuộc tìm kiếm một phụ nữ dùng hộ chiếu Anh đánh cắp mang tên Monica Sholes, người này nghe nói đã sống vương giả ở một trong những khách sạn sang trọng nhất Zurich. Một bức hình tương đối rõ do một camera theo dõi chụp, cho thấy một phụ nữ thấp lùn với mái tóc tiểu đồng màu vàng, môi loe, ngực đồ sộ mặc quần áo hàng hiệu đúng mốt đắt tiền và đồ nữ trang bằng vàng.

    Blomkvist nghiên cứu bức hình, thoạt đầu chỉ liếc thoáng qua nhưng rồi săm soi nó mỗi lúc một hồ nghi hơn. Sau vài giây anh lục lọi trong bàn làm việc ra một kính lúp phóng to rồi cố làm nổi rõ lên các chi tiết khuôn mặt trên bức ảnh lấy từ màn hình của tờ báo.

    Cuối cùng anh buông tờ báo, ngồi đấy, câm lặng trong vài phút. Rồi phá lên cười như hóa rồ dại đến nỗi Maml phải thò đầu vào qua cửa xem có chuyện gì.

    Sáng hôm 24, trước Noel, Blomkvist ra khỏi nhà đi tới Arsta để thăm và mang quà tới cho vợ cũ và cô con gái Pernilla. Pernilla được chiếc máy tính mà nó thích, quà này là Blomkvist và Monica cùng mua. Blomkvist được Monica tặng cho chiếc cà vạt và con gái tặng anh một cuốn tiểu thuyết trinh thám của Ake Edwardson. Không giống Giáng sinh trước, năm nay họ rất hào hứng và phấn chấn vì tấn kịch truyền thông đang diễn ra vì Millennium.

    Họ cùng ăn trưa với nhau. Blomkvist liếc trộm con gái một cái dài. Anh chưa gặp con gái từ ngày nó lên Hedestad thăm anh. Anh nhận thấy anh đã thua trong cuộc tranh luận về sự mê mẩn của nó và mẹ nó với giáo phái Skelleftea. Anh không thể bảo họ rằng chính là sự thông thạo Kinh thánh không thể chối của con gái đã giúp anh đi đúng hướng để tìn Harriet Vanger mất tích. Từ hồi đấy anh không nói chuyện với con gái.

    Anh không phải là một ông bố tốt.

    Sau bữa ăn trưa, anh hôn chào từ biệt con gái rồi gặp Salander ở Slussen. Họ đi đến Sanhamn. Họ không gặp nhau kể từ khi quả bom Millennium phát nổ. Họ đến muộn đêm Noel và nghỉ hết lễ ở đó.

    Như vốn dĩ, Blomkvist đồng hành vui vẻ nhưng Salander có một cảm giác khó chịu là khi cô trả nợ anh bằng tấm séc 120.000 curon thì anh nhìn cô với một cái vẻ đặc biệt lạ.

    Họ đi bộ đến Trovill rồi quay về (và Salander cho là phí toi thì giờ), ăn bữa tối Noel ở một nhà hàng rồi quay về căn nhà gỗ nhỏ, đốt củi lò sưởi lên, đặt một đĩa CD Elvils rồi làm tình theo lối truyền thống cổ lão. Khi thỉnh thoảng nhoi lên để thở, cô đã cố phân tích các cảm xúc của mình.

    Như môt người tình thì Blomkvist chả có vấn đề gì. Rõ ràng là có một sức hút sinh lý. Và anh không thử làm người đỡ đầu dạy bảo cô.

    Vấn đề của cô là cô không thể diễn giải cảm xúc của chính mình. Từ trước tuổi dậy thì, cô đã không hạ hàng rào bảo vệ để cho một ai khác được gần gũi như cô bây giờ đối với anh. Nói cho thật thà thì anh có cái bản lĩnh đáng ghét xuyên thủng được phòng tuyến của cô và khiến cho cô phải nói đến các chuyện cá nhân riêng tư cùng những cảm xúc riêng tư của cô. Tuy cô vẫn đủ khôn để lờ đi phần lớn các câu hỏi của anh nhưng cô đã nói về mình bằng một cái kiểu mà cô không bao giờ, ngay dù có bị dọa giết, lại tưởng tượng ra là cô có thể nói như thế với bất kỳ một ai khác. Điều này làm cho cô sợ, làm cho cô cảm thấy bị lột truồng và dễ vụn vỡ trước ý chí của anh.

    Đồng thời – khi nhìn anh ngủ và nghe anh ngáy – cô lại cảm thấy trước đây trong đời mình cô chưa từng tin một con người nào khác như tin anh. Cô tuyệt đố chắc chắn rằng anh sẽ không bao giờ lấy những điều anh biết về cô ra làm hại cô. Đó không phải bản chất của anh. Điều duy nhất họ không bàn là mối quan hệ của họ đối với nhau. Cô không dám còn anh thì không bao giờ đề cập chuyện này.

    Một lúc nào đó trong buổi sáng thứ hai, cô nhận ra một điều khiếp đảm. Cô không hiểu làm sao nó lại đã xảy ra và cô sẽ chống chọi lại nó như thế nào nếu giả định phải chống. Lần đầu tiên trong đời cô đã yêu.

    Việc anh già gấp đôi không làm cô lo phiền. Cà việc hiện lúc này anh đang là một trong những người đáng mặt lên đài ở Thụy Điển, và ảnh của anh còn lên cả trang bìa tờ Newsweek cũng không làm cho cô ngại – tất cả chỉ là chuyện láo nháo ầm ĩ nhất thời. Nhưng Blomkvist không phải một dân nghiền tính dục hay mơ mộng lăng nhăng. Chuyện rồi sẽ đến lúc chấm dứt. Muốn thế không dễ. Anh cần cô vì cái gì? Có thể cô chỉ là một cách tiêu thời gian trong khi anh chờ một ai đó, một người không sống cuộc đời chuột bọ như cô.

    Sáng đó anh dậy muộn, cô đã pha cà phê và ra ngoài mua bánh. Anh đến bàn ăn với cô và lập tức nhận ra một cái gì đó thay đổi trong thái độ của cô – cô giữ gìn ý tứ hơn một chút. Khi anh hỏi cô có sao không thì cô nhìn anh, cái nhìn không biểu lộ cảm xúc và khó đoán.

    Ngày đầu tiên giữa Giáng sinh và Năm mới, Blomkvist đi tàu lên Hedestad. Anh mặc quần áo ấm nhất và đôi giầy đích đáng cho mùa đông. Frode chờ anh ở ga, bình thản chúc mừng thành công truyền thông của anh. Từ tháng Tám, đây là lần đầu tiên anh thăm Hedestad, còn từ ngày đầu tiên anh đến đây thì gần như đã tròn một năm. Hai người chuyện trò lịch sự nhưng cũng có nhiều điều hai bên không nói ra và Blomkvist cảm thấy không thoải mái.

    Mọi việc đã được chuẩn bị, việc làm với Frode chỉ mất có vài ba phút. Frode chuyển tiền vào tài khoản ở một ngân hàng nước ngoài thích hợp nhưng Blomkvist khăng khăng phải trả nó cho tờ tạp chí của anh như một khoản tiền công bình thường hợp pháp.

    - Tôi không cho phép trả bằng một kiểu khác. – Anh nói cụt lủn khi Frode nài nỉ.

    Mục đích lần đi này không chỉ là tài chính. Blomkvist đã để lại quần áo, sách và một số đồ vật của anh ở căn nhà gỗ nhỏ khi anh và Salander rất vội vã rời Hedestad.

    Henrik Vanger vẫn còn hom hem sau trận ốm nhưng ông ở nhà. Một nữ y tá trông nom ông, không cho ông đi bộ dài, lên gác hay bàn luận cái gì đó có thể làm ông quỵ đổ. Kỳ nghỉ lễ vừa rồi, ông bị cảm lạnh nhẹ và được lệnh phải nằm liệt giường.

    - Ngoài cái đó ra, cô ta đắt. – Ông phàn nàn.

    Blomkvist biết ông già có thể cho phép tiêu pha như thế - xét đến việc ông đã xóa đi bao nhiêu thuế má trong cả đời ông. Vanger ủ rũ nhìn anh cho đến khi anh bật cười.

    - Con khỉ gì, anh đáng được nhận lấy từng curon mà. Tôi biết anh đáng được thế.

    - Nói thật thà chả bao giờ tôi lại nghĩ là giải quyết được chuyện kia.

    - Tôi không định cảm ơn anh đâu. – Henrik nói.

    - Tôi không chờ đợi ông cảm ơn. Tôi lên đây chỉ để nói với ông rằng tôi đã làm xong việc.

    Henrick dẩu môi ra.

    - Anh chưa xong việc.

    - Tôi biết.

    - Anh chưa viết biên niên gia đình Vanger, anh đã bằng lòng viết rồi mà.

    - Tôi biết thế. Tôi sẽ không viết cái đó. Thật tình tôi không viết được. Tôi không thể viết gia đình Vanger mà lại bỏ đi cái sự kiện trung tâm nhất của mấy chục năm qua. Tôi viết sao được một chương về thời kỳ Martin làm CEO tập đoàn mà lại bảo rằng không biết chuyện gì ở dưới tầng hầm của anh ta? Tôi cũng không thể viết mà lại không tàn phá một lần nữa cuộc đời của Harriet.

    - Tôi biết anh khó xử và tôi biết ơn anh đã quyết định như anh vừa nói.

    - Chúc mừng. Ông đã làm được cho tôi hư hỏng. Tôi sẽ hủy hết các ghi chép và băng ghi âm về các lần chuyện trò giữa hai chúng ta mà tôi có.

    - Tôi không nghĩ là anh hư hỏng. – Henrik nói.

    - Thì tôi thấy là thế mà. Và tôi nghĩ nó là hư hỏng đấy.

    - Anh phải chọn giữa vai trò là một nhà báo và vai trò là một con người. Tôi không bao giờ có thể mua nổi được sự im lặng của anh. Và tôi tin khá chắc chắn rằng anh sẽ vạch vòi chúng tôi nếu như sự thật quay ra là Hariet đã dính líu như thế nào đó vào tất cả hay nếu như anh coi tôi là một lão ngu đần.

    Blomkvist không đáp lại.

    - Chúng tôi đã kể hết với Cecilia. Chả còn lâu la gì Frode và tôi sẽ tịch thôi mà Harriet thì sẽ cần đến mọi người trong gia đình ủng hộ đỡ đần. Cecilia sẽ có vai trò tích cực trong ban giám đốc tập đoàn. Từ nay trở đi Cecilia sẽ phải gánh vác lấy công việc.

    - Chị ấy phản ứng như thế nào?

    - Rất xúc động. Cecilia ra nước ngoài một thời gian. Tôi sợ nó lại không trở về nữa cơ đấy.

    - Nhưng chị ấy đã trở về.

    - Trong một số ít thành viên gia đình hợp với Cecilia thì luôn có Martin. Biết sự thật về Martin là gay go với nó lắm. Cecilia nay cũng đã biết anh làm gì cho gia đình.

    Blomkvist nhún vai.

    - Vậy cảm ơn anh, Mikael. – Henrik Vanger nói.

    - Ngoài ra tôi không thể viết câu chuyện vì nhờ có nó tôi đã lên tới đây vì gia đình Vanger. Nhưng ông bảo tôi xem, ông thấy sao khi trở lại làm CEO?

    - Chỉ là tạm thời thôi, nhưng… giá mà tôi được trẻ hơn. Tôi chỉ làm việc ba giờ một ngày. Họp hành các thứ đều ở trong gian phòng này và Frode đã phải bước vào làm viện binh cho tôi nếu như có ai đó gây rắc rối.

    - Các ủy viên trẻ chắc phải run rẩy trong đôi bốt của họ. Phải một thời gian tôi mới nhận ra Frode không phải chỉ là cục cưng già của một cố vấn tài chính mà còn là người giải quyết các vấn đề cho ông.

    - Đúng. Nhưng mọi quyết định đều là làm với Harriet và nó là người làm cái chân đầu chày ở trong văn phòng.

    - Tình hình chị ấy ra sao?

    - Harriet thừa kế cả cổ phần của anh lẫn mẹ. Nó kiểm soát khoảng 33 phần trăm của tập đoàn.

    - Thế có đủ không?

    - Tôi không biết. Birger đang cố ngáng Harriet. Alexander nhìn thấy mình có cơ hội tạo ảnh hưởng đã liên mình với Birger. Anh tôi, ông Harald bị ung thư chả còn sống được chả mấy. Ông ấy là người còn lại duy nhất có cổ phần lớn nhất là 7 phần trăm, các con ông sẽ thừa kế chỗ này. Cecilia và Anita sẽ đứng về cánh Harriet.

    - Vậy cùng nhau, ông sẽ kiểm soát, xem nào, 45 phần trăm.

    - Trước đây trong gia đình không có kiểu cácten bỏ phiếu biểu quyết này. Nhiều cổ đông với một hai phần trăm sẽ bỏ phiếu chống chúng tôi. Đến thang Hai này Harriet sẽ làm CEO tiếp theo tôi.

    - Chuyện ấy sẽ không làm cho chị ấy vui.

    - Đúng, nhưng cần phải thế. Chúng tôi phải lấy vào một số đối tác mới và mẫu mới. Chúng tôi cũng có cơ hội cộng tác với công ty của Harriet ở Australia. Có những khả năng.

    - Harriet hôm nay ở đâu?

    - Anh không may rồi. Đang ở London. Nhưng Harriet rất thích gặp anh.

    - Tôi sẽ gặp chị ấy ở cuộc họp ban biên tập tháng Giêng nếu chị ấy thế chỗ của ông.

    - Tôi biết.

    - Tôi nghĩ chắc chị ấy hiểu là tôi sẽ không bàn chuyện xảy ra hồi những năm 60 với bất cứ ai trừ Erika Berger và tôi không thấy tại sao Erika lại cần biết cơ chứ.

    - Cần đấy. Anh là người có đạo đức, Mikael.

    - Nhưng cũng bảo chị ấy rằng mọi chuyện chị ấy làm từ này đều có thể lên trên mặt tạp chí. Tập đoàn Vanger sẽ không có quyền tha hồ bỏ qua sự theo dõi xem xét.

    - Tôi sẽ bảo nó thế.

    Blomkvist rời đi khi Vanger bắt đầu gật gà gật gù. Anh gói ghém đồi đạc vào hai va li. Khi đóng lần cuối cùng cửa căn nhà gỗ nhỏ, anh dừng lại một thoáng rồi đi đến nhà Cecilia gõ cửa. Chị không có ở nhà. Anh lấy quyển lịch bỏ túi ra, xé một trang, viết : Tôi chúc chị mọi sự tốt đẹp nhất, Hãy cố tha thứ cho tôi, Mikael. Anh bỏ tờ giấy vào trong hòm thư. Một cây nến Giáng sinh cháy bên cửa sổ bếp ngôi nhà hoang vắng của Martin Vanger.

    Anh đáp chuyến tàu cuối cùng về Stockholms.

    Trong kỳ nghỉ lễ, Salander phớt hết phần còn lại của thế giới. Cô không trả lời điện thoại và không mở máy tính. Cô bỏ ra hai ngày giặt giũ, kì cọ, vệ sinh căn hộ của mình. Các hộp đựng pizza cũ được bó lại và hai chục túi giấy nhét đầy báo cũ. Cô cảm thấy như thể cô đã quyết định bắt đầu một cuộc đời mới vậy. Cô nghĩ mua một căn nhà mới – khi cô tìm ra cái nào hợp ý – nhưng hiện tại thì chỗ cũ này của cô sẽ sạch láng sáng choang hơn hẳn lên như cô chưa từng thấy thế.

    Rồi cô ngồi như bị tê liệt, suy nghĩ. Trong đời cô chưa bao giờ có một ham muốn mãnh liệt như thế này. Cô muốn Mikael Blomkvist bấm chuông… rồi sao chứ ? Nhấc bổng cô lên, ôm lấy cô ư ? Say đắm đưa cô vào buồng ngủ rồi xé toang quần áo của cô ra nhỉ ? Không, cô thật tình muốn có anh ở bên. Cô muốn nghe anh nói rằng anh thích cô vì cô là cô, như thế này. Rằng cô là một người đặc biệt ở trong thế giới của anh, trong cuộc đời của anh. Cô muốn anh có vài cử chỉ yêu thương với cô, không phải của bạn tình hay của kẻ đồng hành. Mình đang vi vu mây gió đây, cô nghĩ…

    Cô không tin ở mình. Blomkvist sống trong một thế giới của những con người làm những việc đáng kính trọng, những con người với cuộc đời ngay ngắn và những suy nghĩ chín chắn. Các bạn của anh làm việc, lên tivi, đặt tít các bài báo. Anh cần tôi vì cái gì ? Nỗi sợ lớn nhất của Salander, nó quá đồ sộ, quá đen ngòm đến mức biến ra thành những chuyện khiếp đảm, là ngươi ta cười chế nhạo tình cảm của cô. Rồi thình lình tất cả lòng tự tin mà cô xây đắp công phu thận trọng đã vụt đổ sụp.

    Đó là lúc cô tĩnh trí lại để quyết định. Cô phải mất rất nhiều giờ để huy động lòng dũng cảm cần thiết, nhưng cô phải gặp anh, nói với anh cảm xúc của mình.

    Không thế thì không chịu được.

    Cô cần vài lý do để gõ cửa nhà anh. Cô không tặng anh quà Noel nhưng cô biết cô sẽ mua thứ gì. Trong một cửa hàng đồ cũ, cô thấy một số huy hiệu quảng cáo bằng kim loại với những chạm nổi từ những năm 50. Một trong những huy hiệu có hình ảnh Elvis Presley với cây ghita ở hông và một quả bóng các tông với chữ KHÁCH SẠN NÁT LÒNG 1. Cô không hiểu về thiết kết nội thất nhưng cô vẫn có thể nói cái huy hiệu này sẽ là hoàn hảo cho căn nhà gỗ nhỏ ở Sand-hamn. Nó giá 780 curon, theo nguyên tắc cô cù cưa mặc cả và nó tụt xuống còn 700. Cô bảo gói nó lại, kẹp nó vào nách rồi đi thẳng đến chỗ của anh ở Bellmansgatan.

    Ở Hornsgatan tình cờ cô liếc vào quán cà phê Kaffebar, thì thấy Blomkvist đi với Erika. Anh nói cái gì đó, cô ấy cười, quàng tay ôm eo rồi hôn vào má anh. Họ quay xuống cuối phố Brannkyrkagatan về hướng Bellmansgatan. Ngôn ngữ hình thể của họ không để cho ai còn có thể hiểu lầm được gì cả - thấy rõ là họ đang có cái gì đó ở trong đầu. Cái đau đó rất tức thì, rất hung hãn đến nỗi Salander phải dừng bước lưng chừng, không thể cử động. Một phần trong cô muốn nhào xô theo họ. Cô muốn lấy cái cạnh nhọn của chiếc huy hiệu kim loại bửa đôi đầu Erika ra. Cô không làm gì hết trong khi các ý nghĩ quẩn lên trong đầu cô. Phân tích hậu quả. Cuối cùng cô bình tâm lại.

    - Mày là một con ngu lâm li thống thiết quá thể đấy, Salander ạ. – Cô nói to lên.

    Cô quay gót trở về với căn nhà mới được sạch như lau như li của mình. Khi cô qua Zinkensdamm, tuyết bắt đầu rơi. Cô quẳng Elvis vào trong một thùng rác.
    --------------------------------
    1Nguyên văn : Heartbreak Hotel, tên một ca khúc của Elvis Presley

Trang 4 / 4 ĐầuĐầu ... 234

Chủ Đề Tương Tự

  1. Mười Phương Bụi Lấm
    By Minh Nguyệt in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 1
    Bài Viết Cuối: 05-01-2011, 01:06 AM
  2. Trả Lời: 0
    Bài Viết Cuối: 04-28-2011, 12:39 AM
  3. Bụi đời
    By Nhipcauduyen in forum Thơ Lãng Mạn
    Trả Lời: 2
    Bài Viết Cuối: 04-07-2011, 11:04 PM
  4. Hòa Tấu Guitar - Cát Bụi Tình Xa
    By Duy_Khang in forum Tặng Nhau Âm Điệu
    Trả Lời: 3
    Bài Viết Cuối: 12-04-2010, 08:50 PM
  5. Cát bụi giang hồ
    By giavui in forum Truyện Kiếm Hiệp
    Trả Lời: 204
    Bài Viết Cuối: 10-26-2010, 01:49 PM

Posting Permissions

  • You may not post new threads
  • You may not post replies
  • You may not post attachments
  • You may not edit your posts
  •